• Giới Thiệu Sách Mới,  Phương Hoa,  Tác giả và Tác Phẩm

    GIỚI THIỆU SÁCH MỚI: Khánh Hà (Hà Thúc Khánh) – All the Rivers Flow into the Sea and Other Stories – Phương Hoa.

    Giới Thiệu Sách Mới:

    All the Rivers Flow into the Sea and Other Stories

    (Sông Quy Về Biển và Những Truyện Ngắn Khác)

    Khánh Hà (Hà Thúc Khánh)

    Nhà văn Mỹ gốc Việt, Khánh Hà, đã từng có nhiều tác phẩm tạo được tiếng vang trong cộng đồng văn học Hoa Kỳ; từng nhận nhiều giải thưởng; từng có một quyển sách được trao đến hai giải thưởng văn học giá trị của Hoa Kỳ cách nhau chỉ một tháng—đó là giải truyện ngắn 2020 William Faulkner Literary Competition trong tháng 9, và đến tháng 10 anh lại đoạt tiếp giải The 2020 Orison Anthology Award in Fiction từ tác phẩm The Woman-Child.

    Những điều hiếm có này đã được người viết trình bày trước đây trong bài  Khánh Thúc Hà (Khanh Ha) Ngôi Sao Việt Tỏa Sáng Trên Vòm Trời Văn Học Hoa Kỳ, đăng trên Việt Báo ngày29/10/2020. Và sau đó thì tuyển tập truyện ngắn A Mother’s Tale and Other Stories của anh cũng được C&R Press 2020 Fiction Award trao giải thưởng và phát hành năm 2021. Sẽ có bài viết khác về quyển sách đặc biệt này.

    Đó là chuyện của năm 2020. Đến cuối năm 2021, thêm một lần nữa Khánh Hà lại làm cho giới văn học Hoa Kỳ chú ý và kinh ngạc vì tác phẩm All the Rivers Flow into the Sea and Other Stories cũng nhận được giải thưởng EastOver Prize for Fiction 2021, dành cho thể loại tiểu thuyết. Và năm nay 2022, All the Rivers Flow into the Sea and Other Stories đã được EastOver Press phát hành ra mắt độc giả.

    Xin điểm qua một số nhận xét từ các nhà văn và nhà phê bình văn học Hoa Kỳ về tuyển tập All the Rivers Flow into the Sea and Other Stories của tác giả Khánh Hà:

    Theo The US Review of Books, quyển sách này được độc giả khắp nơi bình chọn là một trong những sách yêu thích: “Đâymột tuyển tập hay về những câu chuyện tình yêu, niềm đam mê, và lòng tốt.”

    All the Rivers Flow into the Sea and Other Stories cũng được Midwest Book Review ca ngợi: “Những câu chuyện này tạo ra mối liên hệ chặt chẽ giữa các nền văn hóa khác nhau, môi trường đang thay đổi của Việt Nam, và những người Mỹ Việt tham gia vào một sân chơi khác với cuộc chiến đã đưa họ đến với nhau trong quá khứ.”

    Andrew X. Pham, một nhà văn Mỹ gốc Việt được nhiều giải thưởng văn học, trong số đó có giải 1999 Kiriyama Pacific Rim Book Prize từ tập hồi ký Catfish and Mandala, đã nhận xét về All the Rivers Flow into the Sea and Other Stories như sau: “Các câu chuyện được thể hiện đầy đủ và có sắc thái rõ ràng, với những nhân vật sống động được tạo hình bởi chiến tranh hoặc bị ám ảnh bởi thảm kịch. Đây là một trong những tuyển tập hiếm hoi mà tôi muốn giữ lại và đọc lại.” (Theo EastOver Press)

    John Balaban, người nhận Giải thưởng Lamont Prizea và William Carlos Williams của Học Viện Thi sĩ Hoa Kỳ, đã mô tả tuyển tập của Khánh Hà: “Thật đẹp với những chi tiết tự nhiên và sống động cùng những cuộc đối thoại sắc nét.” (Theo EastOver Press)

    Trong một bài điểm sách cho tạp chí The US Review of Books, Mark Heisey đã viết về All the Rivers Flow into the Sea and Other Stories của Khánh Hà: “Hà viết với một sự thân mật hiếm thấy. Những khoảnh khắc nhỏ trong cuộc đời của những nhân vật này trở nên tràn đầy ý nghĩa và hàm ý. Anh ấy chọn ngôn ngữ không quá hoa mỹ mà chính xác với chi tiết rõ ràng, gợi nhớ đến sự tích của Joyce hoặc khoảnh khắc satori trong văn học Nhật Bản.”

    Còn Book Viral, một cơ quan phê bình sách chuyên nghiệp, cũng đã rất khâm phục nhà văn Khánh Hà: “Kỹ thuật viết văn xuôi thật đặc biệt, Hà viết truyện ngắn mà một câu văn thường làm được việc của một trang giấy… Ở trình độ này, Hà cho chúng ta một bài học cao siêu trong việc tạo dựng sự căng thẳng nhưng hiện thực đến từng chi tiết. . .”

    Và còn rất nhiều nhà phê bình văn học khác nữa viết về tuyển tập truyện ngắn này.

    Sau đây kính mời quý vị hãy cùng P. Hoa, nghe tâm tình của nhà văn Khánh Hà (Nv KH) – tác giả của All the Rivers Flow into the Sea and Other Stories. (Sông Quy Về Biển và Những Truyện Ngắn Khác)

    P. Hoa: Thưa anh Khánh Hà, trước nhất, xin chúc mừng anh đã trình làng một tác phẩm đáng giá nữa, tiếp nối những quyển sách “nổi đình nổi đám” của anh trước đây.  Anh có thể vui lòng tóm tắt và chia sẻ chút ít về tuyển tập All the Rivers Flow into the Sea and Other Stories không? Nội dung tuyển tập chứa đựng những gì? Anh tâm đắc truyện nào nhất để độc giả thấy rằng họ “không thể bỏ qua” tuyển tập truyện ngắn này?

    Nv KH: Trước hết xin cám ơn chị P. Hoa đã có nhã ý phỏng vấn. Tôi rất hân hạnh được trở lại đây một lần nữa để đàm thoại cùng chị về tuyển tập truyện ngắn mới nhất tựa đề All the Rivers Flow into the Sea and Other Stories. Đây là một tuyển tập gồm mười một truyện ngắn, tất cả đã được đăng trên các tạp chí văn chương Mỹ. Trong đó có ba truyện đoạt giải thưởng là: The Woman-Child; Night, This River; A Mute Girl’s Yarn. Toàn bộ truyện có bối cảnh Việt Nam và Mỹ kể về tình yêu lẫn đam mê trong bi kịch và hiểm họa.

    Truyện ngắn mà cũng là tựa đề tuyển tập, dẫn đến một mối tình khác chủng tộc bi đát, giữa một người đàn ông Mỹ và một cô gái Việt tuổi đôi mươi; truyện The Yin-Yang Market (Chợ ÂmDương) kể một hiện thực huyền ảo của một cô bé ngây thơ sống giữa thực và mộng.

    A Mute Girl’s Yarn (Chuyện Cô Bé Câm) kể chuyện thời mới lớn đầy huyễn hoặc với những nét chấm phá của một quyển sách thần tiên nhi đồng. Tuyển tập này đem đến với độc giả những kẻ bị đọa đày, nguyền rủa cùng những kẻ lạc loài và những người đầy can đảm, nhưng họ cùng cố gắng vượt lên trên định mệnh đã an bài. Trong chuyến hành trình này độc giả sẽ cảm nhận những bi kịch được đền bù qua sự chuộc tội lỗi, để thấy rằng trong bạo lực vẫn có những nét đẹp của lòng nhân bản.

    P. Hoa:  Wow! Quá tuyệt vời! Tất cả truyện ngắn trong tuyển tập này đều đã được đăng trên các tạp chí văn chương Mỹ và càng đặc biệt hơn là có ba truyện đoạt giải thưởng! Như vậy đủ thấy tập sách này giá trị biết bao!  Xin cho hỏi tiếp: Đây là quyển sách anh viết theo dạng tiểu thuyết, vậy thì động lực nào, nguyên nhân  nào, đã gợi cho anh nguồn cảm hứng để sáng tác ra những câu chuyện ly kỳ hấp dẫn như lời những nhà phê bình khen ngợi; và đánh bại hàng bao nhiêu truyện của những nhà văn khác ở Hoa Kỳ, chiến thắng giải thưởng vinh dự EastOver Prize for Fiction 2021?

    Nv KH: Nguyên nhân, không phải cảm hứng, là động lực cho tôi sáng tác. Động lực đó có thể là một thị giác bất chợt hoặc là một cảm giác mạnh như một ngọn lửa cháy ngầm trong tâm khảm qua một thời gian rất lâu. Nhưng động lực chính vẫn là nỗi đam mê với chữ nghĩa. Nỗi đam mê đó bành trướng và mở rộng tâm hồn tôi khi tôi bắt đầu trưởng thành, và sự đam mê đó trở thành ngôn ngữ qua lối hành văn và diễn đạt tư tưởng.  

    P. Hoa:  Dạ cám ơn những chia sẻ thú vị của anh Khánh Hà.  Quả thật “một thị giác bất chợt hoặc là một cảm giác mạnh như một ngọn lửa cháy, và… nỗi đam mê với chữ nghĩa” đã giúp anh làm nên kỳ tích!  Những điều này thật phù hợp với suy nghĩ của một nhà thơ được yêu thích của Hoa Kỳ, Robert Frost.  Robert Frost đã từng có một câu nói nổi tiếng được liệt vào hàng “danh ngôn” cho giới cầm bút, “Nhà văn không đổ nước mắt, sẽ không lấy được nước mắt của độc giả. Không có ngạc nhiên ở người viết, không có ngạc nhiên ở người đọc.” (No tears in the writer, no tears in the reader. No surprise in the writer, no surprise in the reader – Robert Frost quotes). Chắc chắn là tuyển tập All the Rivers Flow into the Sea and Other Stories đã được hình thành từ những cảm giác mạnh, những ngọn lửa cháy, và nỗi đam mê cho nên anh Khánh Hà mới “hớp hồn” được ban giám khảo cuộc thi!

    Thưa anh, năm ngoái anh thắng giải The 2021 EastOver Prize for Fiction tức là giải thưởng về viết tiểu thuyết, và anh được trao giải trước khi tập sách All the Rivers Flow into the Sea and Other Stories này xuất bản Anh có thể cho biết thêm một ít chi tiết về giải thưởng EastOver Prize hay không?

    Nv KH:  Giải thưởng văn chương này chỉ dành cho tuyển tập truyện ngắn, có nghĩa là không dành cho tiểu thuyết dài. Ban biên tập của EastOver Press sẽ đọc hàng trăm bản thảo để tuyển chọn khoảng năm tuyển tập xuất sắt nhất cho một danh sách ngắn (shortlist) và từ danh sách đề cử này họ sẽ chọn một tuyển tập thắng giải.

    P. Hoa:   Đây là một vinh dự lớn lao!  Nói vui theo kiểu… đấu võ đài, thì anh Khánh Hà đã “hạ gục” hàng trăm tác giả khác, và rồi, cuối cùng anh còn phải chiến đấu 1 trên 5 để đến đích và đoạt lấy giải thưởng! P.Hoa có chút thắc mắc, anh đã gửi bản thảo dự thi cho The 2021 EastOver Prize for Fiction khi chưa hoàn tất việc in ấn. Điều gì khiến anh tự tin và gửi tác phẩm dự thi vào lúc đó?

    Nv KH:  Tôi luôn luôn tin ở mình trong việc viết văn. Điều quan trọng nhất là tôi tin độc giả sẽ tìm thấy ở những nhân vật trong tuyển tập này những phẩm chất đặc thù mà họ có thể chia sẻ. Từ ngữ “thông cảm” là điểm chính yếu vì tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta đều là một ở bản thể. Qua bao niên kỷ vô tận chúng ta đã hiện sinh và tái hiện sinh ở đây hay những nơi khác dưới bao nhiêu dạng thức, màu da, qua bao nhiêu chuyển biến của một tiến hóa bất tận. Câu hỏi ở đây là chúng ta là ai? Ta là ta qua bẩm sinh, nhưng chúng ta hiện hữu trong tất cả những ai xung quanh chúng ta; ngược lại họ cũng hiện hữu trong chúng ta. Từ đáy bản thể chúng ta giống nhau. Đó là tại sao tôi hy vọng tôi và độc giả có thể tương ứng, có nghĩa là họ tìm thấy một mối quan hệ mật thiết với những nhân vật trong tuyển tập này.  

    P. Hoa:  Quá hay! “Từ đáy bản thể chúng ta giống nhau.” Nhìn ra anh Khánh Hà còn là “một nhà tâm lý học” cừ khôi! (Smile). Có thể nói, anh hiểu rõ những suy nghĩ, tâm lý, tình cảm, đời sống nội tâm, và thế giới bên trong của mỗi con người, nên mới tự tin đến như vậy khi sáng tác.  Cho nên sự thành công của anh cũng không có gì phải ngạc nhiên.

    Thưa anh Khánh Hà, như anh đã cho biết trong bài phỏng vấn trước đây, anh rời quê hương Việt Nam trước 1975, ngày miền Nam lọt vào tay Bắc Việt. Nhưng những quyển sách và câu chuyện anh viết đều ít nhiều liên quan đến chiến tranh VN. Anh có thể cho biết nguyên do nào gợi nguồn cảm hứng cho anh viết tiểu thuyết liên quan đến chiến tranh và về quê hương Việt Nam sau chiến tranh. Sao anh không viết về những chuyện tình cảm lãng mạn đời thường xung quanh nước Mỹ là nơi anh đang sinh sống?

    Nv KH: Thưa chị lý do chính là tôi sinh trưởng ở Việt Nam. Nếu tôi là người Việt sinh trưởng ở Mỹ thì có lẽ tôi sẽ viết về những chuyện tình cảm mà bối cảnh là một small town, về li dị, về chuyện vợ chồng cắm sừng nhau, về chuyện con cái xâm mình, nhuộm tóc và nghiện ngập…

    P. Hoa:  Dạ cám ơn anh.  Hỏi thì hỏi vậy, chứ thực ra cũng dễ nhận biết là anh vẫn còn lưu luyến về quê cha đất tổ, về đất nước và con người Việt Nam, xuyên qua những tác phẩm của anh từ trước giờ. 

    Câu hỏi kế tiếp: Là một nhà văn đã thành danh, xin anh chia sẻ chút kinh nghiệm viết lách cho những nhà văn non trẻ. Anh đã bắt đầu viết và hoàn thành quyển sách này như thế nào và khi nào?  Nghĩa là, anh mất bao lâu từ khởi đầu đến khi hoàn tất? Anh luôn hoàn thành trong một thời gian nhất định theo đúng kế hoạch anh tự đặt ra cho mình, hay là anh viết tùy hứng đến khi nào xong thì thôi? Và điều quan trọng là, viết như thế nào để… hấp dẫn độc giả?

    Nv KH:  Thưa chị khi viết thì nhà văn ở trong một thế giới khác. Trong trạng thái xuất thần đó họ viết không phải vì muốn hấp dẫn độc giả mà họ viết để đem đến cho độc giả những hình ảnh, những cảm xúc theo lối hành văn đặc thù của họ. Tôi chỉ viết truyện ngắn sau khi viết xong một tiểu thuyết dài (novel). Trong lúc nghỉ ngơi tôi sáng tác truyện ngắn. Đôi khi tôi trở thành một nhà đạo diễn bằng cách dàn xếp lại một vài chương từ một truyện dài đã viết và tôi biến đổi một vài sự kiện trong đó để tạo thành một truyện ngắn. Cả ba truyện đoạt giải thưởng văn chương truyện ngắn trong tuyển tập này đều là con đẻ, đã biến chất, từ những truyện dài tôi đã viết. Nhưng, thưa chị, truyện ngắn phải có một khởi đầu, một trung đoạn, và một kết thúc. Tôi luôn tin rằng một truyện ngắn có giá trị là một đoản văn làm người đọc phải suy nghĩ khi kết thúc, cũng như khi ta nhấp một ngụm rượu và cảm được cái vị đặc thù trên đầu lưỡi một hồi sau đó.

    P. Hoa: Đúng là… nhà văn viết tiểu thuyết có khác! Những câu trả lời của anh rất thông minh, hấp dẫn, và đầy tính thuyết phục! Chọn một vài sự kiện tâm đắc trong truyện dài rồi “đạo diễn” cho chúng trở thành những “bảo bối” thì thật là vô cùng thú vị.  Chia sẻ trên của anh thật quý giá cho những người mới bước vào con đường viết lách. 

    Sau cùng, anh có thể cho biết tác phẩm mới, tiếp theo cuốn All the Rivers Flow into the Sea thuộc lãnh vực nào và bao lâu nữa sẽ ra mắt?

    Nv KH:  Tiểu thuyết dài tôi đã viết xong, có chủ đề Điện Biên Phủ, viết về một nghệ sĩ Việt Minh đã trung thành với phong trào chống Pháp, hiến dâng tuổi trẻ của mình cho đảng và thấy được bộ mặt thật của đảng, của bộ chính trị sau bốn mươi năm. Đó là một tác phẩm lồng trong một chuyện tình giữa người nghệ sĩ và một cô gái Hà Nội đã tham dự trong phong trào chống Pháp, đã mất tuổi trẻ trước khi vỡ mộng.

    Hiện tôi đang viết một tiểu thuyết dài về trại cải tạo. Nó không phải là một phê bình gay gắt một chủ nghĩa đã giam hãm hàng trăm ngàn người của Cộng Hòa Việt Nam trong hàng trăm trại cải tạo, mà để thấy một sự thật không tô vẽ, một kinh hoàng không thay đổi của một hệ thống giam cầm bất nhân Cộng sản Việt Nam, và đặt lên một câu hỏi: “Làm sao một người đang ấm cúng có thể cảm nhận được một người đang bị lạnh cóng?”

    P. Hoa:  Ồ! Phải nói sao đây, đúng là có một sự ngạc nhiên và đầy hào hứng, khi biết nội dung hai quyển truyện dài mà anh đã và đang chuẩn bị hoàn thành. Chắc chắn là chúng sẽ hấp dẫn, không chỉ đối với độc giả Việt Nam, mà còn với độc giả nói tiếng Anh trên toàn thế giới. Xin chúc may mắn cho cả hai đứa con tinh thần sắp tới của anh.

    Cám ơn anh Khánh Hà cho cuộc trò chuyện đầy thú vị này. Kính chúc anh cùng gia đình luôn được vạn an.   

    Nv KH:  Xinthành thật cảm ơn chị P. Hoa đã cho tôi một cơ hội quí báu đàm luận với chị. Trong cuộc trao đổi ý kiến này tôi hy vọng độc giả của chị sẽ biết về thêm một tác giả người Việt nhưng không sáng tác bằng tiếng Việt. Tuy nhiên những gì tác giả đã sáng tác đều quay về cái gốc của mình qua lăng kính mới từ hải ngoại.

    P. Hoa: Dạ cám ơn anh Khánh Hà. Anh sáng tác bằng Anh ngữ, P. Hoa nhận thấy đây lại là điều khiến cho cộng đồng Việt hãnh diện và vui mừng, vì anh là một trong số không nhiều nhà văn Mỹ gốc Việt được giới văn học Hoa Kỳ trân trọng, và anh đã ghi lại những câu chuyện có liên quan về đất nước và con người Việt để cho các thế hệ trẻ gốc Việt nói tiếng Anh hiểu hơn và nhớ về quê hương Việt Nam của họ.

    Xin trân trọng giới thiệu tuyển tập truyện ngắn All The Rivers Flow into The Sea And Other Stories cùng quý độc giả. Mời mọi người hãy ủng hộ nhà văn gốc Việt Khánh Hà vì anh đã đem lại niềm hãnh diện cho cộng đồng Việt Nam chúng ta.

    Phương Hoa

    Links mua sách:

    Amazon:  https://www.amazon.com/All-Rivers-Flow-Into-Sea/dp/1958094021/

    Banners & Noble: https://www.barnesandnoble.com/w/all-the-rivers-flow-into-the-sea-khanh-ha/1141585653

    Nguồn tham khảo:

    EastOver Press Announces the publication of All the Rivers Flow into the Sea & Other Stories:

    EastOver Press Announces Winners of 2021 Prize:

    Midwest Book Review:

    http://www.midwestbookreview.com/calbw/may_22.htm#literaryfiction

    The US Review of Books:

    https://www.theusreview.com/reviews-1/All-the-Rivers-Flow-into-the-Sea-and-Other-Stories-by-Khanh-Ha.html

    Book Viral Review:

    [Must-read short story collection]

    Website tác giả Khánh Hà:

    https://www.authorkhanhha.com/

  • Chinh Nguyên,  Tác giả và Tác Phẩm,  Thơ

    GIỚI THIỆU SÁCH MỚI – Thi Sĩ Chinh Nguyên – Thơ Phương Hoa

    Kính chào quý vị


    Sau một năm ngồi nhà nhìn Covid-Vũ Hán 19 đi qua cửa nhà.
    Chinh Nguyên ngồi gõ keyboard soạn được Tuyển Tập Thơ Chinh Nguyên – Bơ Vơ.
    Tác phẩm Bơ Vơ dầy: 351 trang. 
    Xin mời quý vị hổ trợ tác giả: Giá vốn 9:02 + bưu phí. 
    E-mail: cnchinhnguyen7@gmailcom.
    Tele: (669) 225-6043 
    Thành thật cám ơn.

    CHINH NGUYÊN

    CHÚC MỪNG THI SĨ CHINH NGUYÊN

    *

    CHÚC MỪNG THI PHẨM của CHINH NGUYÊN

    Năm Mới sắp sang được phỉ nguyền

    TUYỂN TẬP “BƠ VƠ” vừa xuất bản

    Quyển thơ “cô độc” được loan truyền

    Siêu Vi qua cửa nào lo đạp

    Vũ Hán lướt sân chẳng sợ nghiền

    Sáng tác ào ào như lũ cuộn

    Kính xin giới thiệu, nhớ mua liền

    *

    Mua liền ủng hộ tập thơ hay

    Tác phẩm cần nên được tới tay

    Đọc để cảm thông bao chuyện đắng

    Xem rồi chia sẻ lắm niềm cay

    Văn nhân gửi nỗi đau lìa tổ

    Thi sĩ chuyền câu khổ lạc bầy

    Dân Việt mong châu về hiệp phố

    Để cùng thi sĩ cụng ly say

    *

    Phương Hoa – DEC 28th 2021

  • Giới thiệu sách,  Hình Ảnh,  Phương Hoa,  Tác giả và Tác Phẩm,  Video

    Thành Viên Văn Thơ Lạc Việt GIỚI THIỆU SÁCH Tại Hội Sách (Book Fair) – Hội Sách VBVNHN tại trung tâm thương xá Eden Virginia 17/10/2021

    VIDEO PHỎNG VẤN Phương Hoa, Giới Thiệu 3 quyển Sách của chính tác giả, và chủ Tịch VBVNHN Cung Thị Lan đã giới thiệu tập thơ mới nhất của nữ thi sĩ Cao Mỵ Nhân:

    Thành Viên Văn Thơ Lạc Việt GIỚI THIỆU SÁCH Tại Hội Sách (Book Fair)

    Hội Sách Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại tại trung tâm thương xá Eden Thành – Viên Văn Thơ Lạc Việt GIỚI THIỆU SÁCH Tại Hội Sách (Book Fair) của Hội Sách VBVNHN tại trung tâm thương xá Eden Virginia 17/10/2021

    Ngày 16 tháng 10/2021, một nhóm gồm 3 thành viên Văn Thơ Lạc Việt đồng thời cũng là hội viên Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại (VBVNHN) & Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ (VBVNHN VĐBHK) từ California, gồm có: Phương Hoa, Minh Thúy, Phạm Phan Lang, và một người bạn thơ khác, Kim Phú bay sang tham dự đại hội kỳ thứ XII của VBVNHN. (Phương Hoa sẽ có bài tường thuật sau). Thể theo lời mời của Tân Chủ Tịch VBVNHN Cung Thị Lan và Chủ Tịch VBVNHN VĐBHK nhà văn Hồng Thủy, nhóm tác giả Cali có mang theo một số sách của mình để tham dự Hội Sách do Nhà Việt Nam tại Virginia và VBVNHN tổ chức.

    Một ngày sau đại hội VBVNHN, ngày 17 tháng 10/2021, tại Hội Sách Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại thật tưng bừng rộn rã ở Trung Tâm thương xá Eden, thành viên Văn Thơ Lạc Việt đã có dịp GIỚI THIỆU SÁCH của mình:

    Tại Hội Sách, các văn thi sĩ là thành viên Văn Thơ Lạc Việt đã giới thiệu sách của mình, trả lời phỏng vấn nhiều đài TV tại miền Đông, như đài VOA, đài Hoa Thịnhk Đốn, và vài đài truyền hình địa phương mà người viết đã quên tên.

    *Nhà Văn Hồng Thủy, chủ tịch VBVNHN VĐB HK, cũng là thành viên Văn Thơ Lạc Việt, đã giới thiệu hai quyển sách của chị: “Hoa Tương Tư” và “Những Cánh Hoa Dại Màu Vàng.”

    *Phương Hoa đã giới thiệu 3 quyển sách “Yêu Nhau Mấy Núi”, “Thằng Nước Mắm”, và “Chung Một Ước Mơ.”

    *Đồng thời cũng giới thiệu tập thơ mới nhất của nhà thơ Cao Mỵ Nhân, “Chim Bay Mỏi Cánh”

    *Nhà thơ Minh Thúy – Thành Nội giới thiệu tập thơ “Nếu Đời Không Có Thơ”.

    *Giới thiệu Tập Truyện của nhà văn Đỗ Dung, “Như Một Thoáng Mây Bay”.

    Tóm lại, có tổng cộng là 5 thành viên VTLV đã đem tổng cộng 8 quả “chuông sách” đi…gõ boong boong bên vùng Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn, cho nên có thể nói “phe ta từ xa đến mà cũng rộn ràng ghê lắm lắm” giờ nhìn lại hình ảnh thấy thật vui và hảnh diện vô cùng.

    *Xin đặc biệt cám ơn thành viên VTLV Hồng Thủy, là Chủ Tịch VBVNHN VĐB HK , và chủ tịch VBVNHN (Văn Bút trung ương) Cung Thị Lan đã có nhã ý mời để nhóm VTLV được vinh dự tham gia Hội Sách này.

    Phương Hoa

    Từ trái: Chủ Tịch VBVNHN Cung Thị Lan với tập thơ “Chim Bay Mỏi Cánh” của chị Cao Mỵ Nhân; Phương Hoa cùng Tập Truyện “Yêu Nhau Mấy Núi”, Hồng Thủy với “Hoa Tương Tư & Những Cánh Hoa Dại Mầu Vàng”, Minh Thúy cùng Nếu Đời Không Có Thơ.
    Từ phải: người thứ 2 là Hồng Thủy, 3 Phan Lang, 4 Phương Hoa
    Chào cờ khai mạc Hội Sách
  • Lê Tuấn,  Phương Hoa,  Tác giả và Tác Phẩm,  Thông tin,  Tin Văn Thơ Lạc Việt,  Video

    Tác Giả Tác Phẩm Với Nhà Văn Phương Hoa

    Ban Truyền Thông VTLV xin giới thiệu Video Clip Tác Giả Và Tác Phẩm Với Nhà Văn Phương Hoa – Phần 1. Đây là một loạt video clips do ban Truyền Thông VTLV thực hiện nhầm giới thiệu những tác giả thành viên VTLV, những quý vị muốn được giới thiệu tác phẩm của minh trên diễn đàn VTLV và trên đai truyền hình VNA-TV cũng như trên Youtube và Facebook. Editor Lê Tuấn thực hiện.

     

    .

  • Giải trí,  Giới thiệu sách,  Lê Tuấn,  Tác giả và Tác Phẩm,  Video

    Tác Giả Và Tác Phẩm

    Tác Giả Và Tác Phẩm là một chủ đề do Ban Truyền Thông Văn Thơ Lạc Việt, thực hiện thành những Video clips Hội Thoại cùng Tác Giả Và Tác Phẩm, dành riêng cho những thành viên VTLV, những Văn Thi Hữu đã có những tác phẩm đã xuất bản, cần giới thiệu. Xin liên lạc với Ban Truyền Thông VTLV, để lên lịch trình phỏng vấn, hội thoại trực tiếp với chính tác giả, tại phòng thâu hình (VTLV Studio) tại tư gia nhà thơ Chinh Nguyên. Mở đầu loạt Video này chúng tôi giới thiệu đến nhà thơ Le Tuấn (Trưởng Ban Media của VTLV) cũng là người Editor của chương trình hội thoại. Xin mời xem video clips đính kèm. Trân Trọng. Ban Truyền Thông VTLV.

     

  • Tác giả và Tác Phẩm

    Hữu Loan, Dzũng Chinh, Vũ Anh Khanh

    Ba người lạ cùng nhau nổi tiếng

    Hữu Loan, Dzũng Chinh, Vũ Anh Khanh, ba con người tuy hoàn cảnh và đường đời khác nhau nhưng đã tình cờ gặp nhau nơi con đường cái quan, trên đường tranh đấu, mưu cầu Xuân tự do cho quê hương, dân tộc.

    Từ trái, nhạc sĩ Dzũng Chinh, nhà thơ Vũ Anh Khanh, nhà thơ Hữu Loan. (Hình:wikimedia.org & Người Đưa Tin)

    “Nàng có ba người anh đi quân đội,” Hữu Loan mở đầu bài thơ khóc vợ mang tên “Màu Tím Hoa Sim” được ông làm từ năm 1949, sau được in trên tờ Trăm Hoa do Nguyễn Bính làm chủ nhiệm, đã đi vào lịch sử thi ca, như một chứng nhân của lịch sử. Còn ông, sau này trở thành chứng nhân của cuộc đời.

    Khi Hữu Loan vướng vào vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm, cũng như những bất mãn trước đó trong cải cách ruộng đất, ông bỏ đảng, bỏ quân đội trở về vùng quê heo hút, Nga Sơn, Thanh Hóa, để làm một người phu kéo xe thồ đá. Bỏ lại phía sau lưng con đường công danh (mà ông cho là bại hoại) phía trước.

    Hữu Loan làm thơ không nhiều. Thơ ông vượt tuyến, vào Nam, không biết có phải do được in trong tập “Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Đất Bắc?”

    Chỉ biết, bài “Màu Tím Hoa Sim” được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, và truyền bá sâu rộng ở miền Nam. Ít nhất có ba bài được giới trẻ và giới trí thức thời bấy giờ yêu chuộng là “Những Đồi Hoa Sim” của Dzũng Chinh, “Màu Tím Hoa Sim” của Duy Khánh và “Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà” của Phạm Duy.

    Riêng bài “Những Đồi Hoa Sim” của Dzũng Chinh và “Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà” của Phạm Duy, một bi ca, một hùng ca, cho đến nay vẫn là những tác phẩm nổi tiếng nhất dựa trên bài thơ gốc của Hữu Loan; trong đó, nhạc phẩm của Dzũng Chinh ra đời vào thập niên 1960, được cho là bản phổ nhạc sớm nhất.

    Sau năm 1975, Hữu Loan có vô thăm Sài Gòn. Ông ra chợ trời, mua được mấy băng cassette cũ, trong đó có thâu bài “Những Đồi Hoa Sim” của Dzũng Chinh. Nghe nói, Hữu Loan nghe đi nghe lại, tỏ ra thích thú với Dzũng Chinh, người mà theo Hữu Loan phổ nhạc thơ ông hay nhất.

    Nhạc sĩ Dzũng Chinh.

    Dzũng Chinh đưa Hữu Loan và Vũ Anh Khanh nổi tiếng hơn Dzũng Chinh, một sĩ quan bộ binh trẻ tuổi, tài hoa trong Quân Lực VNCH, không chỉ “nổi” lên khi sáng tác bản nhạc “Những Đồi Hoa Sim” với tiếng hát của nữ ca sĩ Phương Dung (được khán giả đương thời ưu ái gọi là “Con nhạn trắng Gò Công”) vào thời điểm năm 1961-1962, mà ông còn

    được nhiều người biết đến với nhạc phẩm “Đêm Dài Chưa Muốn Sáng” qua giọng ca của Hoàng Oanh.

    Nhạc phẩm này nói lên nỗi niềm bi thiết, trước lịch sử bi hùng của dân tộc, khát khao một mùa Xuân thanh bình, quê hương liền một huyết mạch lịch sử.

    Lời nhạc trầm hùng, trong “Đêm Dài Chưa Muốn Sáng” của Dzũng Chinh làm người ta nhớ tới những tác phẩm bất hủ như “Hòn Vọng Phu” của Lê Thương; “Con Đường Cái Quan”của Phạm Duy; chút u uất, đau đớn vì những khát vọng thuần nhân bản bị đè nén, bức hại như trong “Người Anh Vĩnh Bình” của Nguyễn Đức Quang.

    Nghe “Đêm Dài Chưa Muốn Sáng” của Dzũng Chinh, thấy thương tiếc cho ông. Một vùng trời âm nhạc bao la, ông vừa chạm đôi cánh vào. Nhưng chưa kịp vẫy vùng, tung cánh chim bằng lướt gió, thì lửa đạn chiến tranh đã đưa ông về tận đáy mồ sâu.

    Ông hy sinh dưới chân núi Chà Bang (Ninh Phước) vào đêm cuối Tháng Hai, 1969. Năm đó Dzũng Chinh mới 28 tuổi (sinh năm 1941). Dzũng Chinh để lại cho đời tiếng kêu bi thiết, của một thời mà mãi trời chưa sáng: “Từ nghìn năm trước đất mòn nào đưa/ Tiếng gọi Trường Sơn theo bóng tối tuổi gầy mòn… Gục ngã nơi sa trường, manh áo nhuộm bụi đường/ Cây lá bạc màu xanh, một lời nguyền hy sinh chưa hề nhòa…”

    Nơi Dzũng Chinh nằm xuống, cũng là một vùng có nhiều hoa sim tím, mọc dài theo triền đồi cát trắng, miền duyên hải.

    Từ những đồi hoa sim của Hữu Loan, hay mùa sim tím theo những triền cát trắng của duyên hải miền Trung – Nam bộ, quê hương của mình, Dzũng Chinh mơ thấy Xuân về trên đỉnh Trường Sơn với bao thao thức:

    “Mấy mùa mùa đợi mong, mai nở ven rừng/ Xuân đến bao giờ người nào hay…

    Cũng như Hữu Loan, Dzũng Chinh không sáng tác nhiều (hay đúng hơn là chưa kịp viết nhiều). Ngoài bài “Những Đồi Hoa Sim,” “Đêm Dài Chưa Muốn Sáng,” “Lời Tạ Từ,” “Hoa Trắng Tình Yêu,” “Hai Màu Hoa,” thì Dzũng Chinh còn được biết đến với một bài nổi tiếng khác, là bài “Tha La Xóm Đạo,” phổ thơ Vũ Anh Khanh.

    Nhà thơ Vũ Anh Khanh. 

    Vũ Anh Khanh nổi lên với “Tha La Xóm Đạo”

    Vũ Anh Khanh cũng là người ở vùng duyên hải miền Trung-Nam bộ. Ông quê ở Phan Thiết nhưng thuộc thế hệ trước. Ông viết văn, làm báo với Thẩm Thệ Hà, thập niên 1940-1950 ở Sài Gòn.

    Ông là một cây bút chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết. Tác phẩm của ông phần lớn được in trong năm 1949 tại Sài Gòn, với “số lượng phát hành chiếm kỷ lục trong số ấn phẩm thời đó,” gồm truyện dài “Cây Ná Trắc” (nhà xuất bản Tân Việt, Sài Gòn, 1947), “Nửa Bồ Xương Khô” (hai tập, nhà xuất bản Tân Việt Nam, Sài Gòn, 1949), “Bạc Xỉu Lìn” (nhà xuất bản Tiếng Chuông, Sài Gòn, 1949)…

    Trong một lần cùng Thẩm Thệ Hà về thăm quê bạn ở Trảng Bàng (Tây Ninh), Vũ Anh Khanh có ghé thăm họ đạo Tha La, cám cảnh sinh tình ông viết ra bài thơ Tha La. Sau bài thơ này được in trong tiểu thuyết “Nửa Bồ Xương Khô” của ông.

    Bài thơ “Tha La Xóm Đạo” cũng được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, nhưng bài do nhạc sĩ Dzũng Chinh phổ nhạc là đi vào lòng người nhất. Theo wikipedia.org, “Tha La Xóm Đạo” đã được nhạc sĩ Dzũng Chinh, cũng là người Phan Thiết, phổ nhạc vào năm 1964.

    Có lẽ, cũng như “Màu Tím Hoa Sim,” “Tha La Xóm Đạo” sẽ còn mãi với thời gian, như là chứng nhân của một thời – không thể nào quên.

    Nếu như Hữu Loan đi kháng chiến ở miền Bắc, thì Vũ Anh Khanh đi  kháng chiến ở miền Nam.

    Sau 1954, Vũ Anh Khanh tập kết ra Bắc. Đến năm 1956, sau khi đi dự hội nghị nhà văn Á-Phi tại Ấn Độ, Vũ Anh Khanh trở về, sửa giấy phép đi đường, tìm cách tới bờ sông Bến Hải, với ý định vượt tuyến trở lại miền Nam tự do.

    Nhưng khi Vũ Anh Khanh còn đang ở giữa dòng nước, chưa kịp chạm tới bờ Nam. Thì bị biên phòng Cộng Sản miền Bắc phát hiện, dùng tên tẩm thuốc độc, bắn chết ông.

    Cái chết của Vũ Anh Khanh trở thành một khúc ca bi tráng, cho một văn-thi nhân sớm biết quay đầu là bờ. Ông đã không vượt qua nổi dòng sông định mệnh. Nhưng trong bóng đêm của hơn nửa thế kỷ trước, ông đã can đảm vượt qua dòng sông ý thức hệ. Nơi mà cho tới tận hôm nay, hàng triệu triệu con người, vẫn còn bị “mắc kẹt” ở bờ bên kia.

    Năm Vũ Anh Khanh mất, ông mới 30 tuổi (ông sinh năm 1926).

    Nhà thơ Hữu Loan. 

    Hữu Loan, truân chuyên một đời

    Như vậy, trong ba người văn nghệ khoác áo chinh nhân vì vận nước, chỉ có mình Hữu Loan là Trời cho (hay Trời bắt) được (phải) sống lâu. Vì sống lâu không phải để mong làm lão làng, mà chỉ để làm chứng nhân cho câu nói của người xưa – đa thọ, đa nhục (?!).

    Hơn thế nữa, Hữu Loan phải sống như lời ông kể lại, trong thơ:

    “Một bên là chính quyền có đủ thứ nhân dân

    (quân đội, tòa án, nhà tù nhân dân)

    Và nhất là Cuồng tín nhân dân…”

    Ông đã trả lời trong một cuộc thẩm vấn:

    -Sao anh không làm nhà?

    -Vì tôi mắc làm người!

    Cả cuộc đời của Hữu Loan, vật lộn tranh đấu từng ngày, để chỉ được làm người – con người lương thiện, bình dị, không viết hoa (như Cộng Sản tuyên truyền).

    Hữu Loan có hai người vợ. Cả hai đều là con địa chủ. Dù ông chỉ là con của một tá điền.

    Nhờ siêng năng tự học, ông lấy được bằng tú tài Tây. Tham gia kháng chiến, ông là tuyên huấn của sư đoàn, kiêm chính trị viên tiểu đoàn.

    Người vợ đầu của ông mất trong thời chiến tranh, như trong bài “Màu Tím Hoa Sim” ông viết: “Nhưng không chết người trai khói lửa, mà chết người em gái nhỏ hậu phương.”

    Nhà thơ Hữu Loan và người vợ thứ hai. 

    Người vợ thứ hai, ông “nhặt được” sau cải cách ruộng đất.

    Bà nguyên là con của một gia đình địa chủ, mà người cha trong kháng chiến thường cho tá điền gánh gạo tới ủng hộ quân lương cho sư đoàn của ông. Chính Hữu Loan nhiều lần đề nghị sư đoàn cấp giấy khen cho người địa chủ yêu nước kia. Nhưng trong cải cách ruộng đất, gia đình người địa chủ kia bị chôn, chỉ chừa cái đầu lên mặt ruộng, để trâu kéo bừa “cày” cho tới chết. Riêng cô con gái năm đó mới 17 tuổi, được tha, nhưng bị đuổi ra khỏi nhà, với chỉ thị của cán bộ là dân làng không ai được tiếp xúc với cô.

    Cô đi lang thang, nhặt những mẩu khoai sót trên đồng để ăn, tối về ngủ trong miếu hoang.

    Trong nơm nớp lo sợ, trước sự cuồng tín của cán bộ và sự cuồng tín nhân dân…

    Hay tin, Hữu Loan từ đơn vị trở về, đón cô gái bị chế độ căm thù, ruồng bỏ kia về nhà. Từ đó, ông bắt đầu một hành trình làm người gian nan, còn khổ nhục hơn cả thời tham gia kháng chiến.

    Người ta phá, không muốn cho Hữu Loan thồ đá, vì không muốn ông làm người lương thiện (dám bỏ đảng, bỏ quân đội). Vợ ông buôn bán ngoài chợ, người ta bao vây, hất hết đồ xuống đất… Nhưng tất cả sự cuồng tín của một chế độ, cũng không chà đạp nổi nhân tính của một con người như Hữu Loan.

    Nhiều người không hiểu chuyện, đố kỵ cho rằng Hữu Loan chỉ làm có một bài thơ thôi, mà nổi tiếng tới tận bây giờ. Sự thật, cuộc đời của Hữu Loan trong mấy mươi năm, cắn răng từng ngày, để được làm một con người lương thiện dưới chế độ Cộng Sản, còn đẹp hơn tất cả những bài thơ.

    Ngoài bài “Màu Tím Hoa Sim,” Hữu Loan còn có những bài như: “Hoa Lúa,” “Đèo Cả”…

    Tha La xóm đạo ở xóm An Hội, xã An Hòa, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, nổi tiếng khắp nơi nhờ bài hát “Tha La Xóm Đạo” của nhạc sĩ Dzũng Chinh phổ từ bài thơ cùng tên của nhà thơ Vũ Anh Khanh. (Hình: Flickr Vinh_Saigon).

    Sau chiến tranh, trở về từ chiến khu, nhìn cảnh miền Bắc điêu tàn, nhất là sau cải cách ruộng đất. Hữu Loan làm bài thơ Tết, đăng trên Giai Phẩm – Xuân 1957, với câu như: “Tết và mùa Xuân/ Như mắt người ứa lệ.”

    Nơi Nga Sơn, miền heo hút gió, người phu thồ đá vật lộn từng ngày với áo cơm, cùng hiểm nguy muôn thứ hận thù rình rập, vẫn không quên thế cuộc. Ông ngước nhìn mây bay trên đầu, như thấy tận đỉnh Trường Sơn, mượn tiếng quạ kêu, ông làm một bài thơ nói lên nỗi niềm ai oán. Thương cho những người lính ngã xuống, trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn giữa hai miền Nam-Bắc.

     (Văn Lang)

  • Tác giả và Tác Phẩm,  Tin tức

    Nhà văn Nhật Tiến qua đời

    Nguyễn Vy Túy

    Tuy Nguyen

    Ông mất tại Hoa kỳ, thọ 84 tuổi.

    ÔNG THEO CHÂN HIỀN THÊ CHỈ SAU 18 NGÀY.

    Một nhà văn, nhà giáo đáng kính của thế hệ chúng tôi, đã qua đời  lúc 11 giờ 26 phút trưa ngày 14 Tháng Chín, 2020, (tức 27 Tháng Bảy, Canh Tý), tại thành phố Irvine, Nam California, hưởng thọ 84 tuổi, theo tin loan báo từ gia đình.

    Nhà văn Nhật Tiến qua đời chỉ ít ngày “sau sự ra đi của hiền thê là nữ văn sĩ, dịch giả Đỗ Phương Khanh vào ngày 26 Tháng Tám vừa qua”, gia đình cho hay.

    Trước 1975, ông là Giáo sư Cố vấn cho Thi Văn Đoàn Trầm Tích ở Sài Gòn (do tôi làm Thi Văn Đoàn trưởng), và từng ký tặng tất cả các tác phẩm của ông và tuần báo Thiếu Nhi do ông làm Chủ bút, cho thư viện của Trường Trung học Văn Đức, và tôi đã có vinh dự đến tòa soạn báo Thiếu Nhi để nhận và đưa về trường.

    Cũng chính từ cuộc gặp gỡ này, ông nhận lời làm Cố Vấn.

    Năm 1979, khi ông và gia đình gặp nạn Hải tặc trong vùng Vịnh Thái Lan (qua vụ án đảo Kokra), với tư cách chủ bút tuần báo Chuông Sài Gòn, chúng tôi đã vận động độc giả và chính quyền Úc cùng yểm trợ tài chánh để ông và các nhân chứng ra tòa chống lại bọn hải tặc.

    Các bức thư trao đổi giữa tòa soạn và ông, chúng tôi vẫn còn cất giữ. Bởi đó là những chứng tích lịch sử về một thời oan trái đầy đau khổ, của những thuyền nhân bất hạnh trên đường vượt biển tìm tự do.

    Bây giờ ông đã “đoàn tụ” với vợ trên thiên đường.

    Đoạn đường Núi Sọ đầy chông gai, ông và bà đã đi qua.

    Nguyện chúc Ông Bà an vui nơi miền cực lạc.

    *Nguyễn Vy Túy

    Dưới đây là tiểu sử nhà văn Nhật Tiến theo công bố của gia đình.

    “Nhà văn Nhật Tiến tên đầy đủ là Bùi Nhật Tiến, sinh ngày 24 Tháng Tám, năm 1936, tại Hà Nội – là tên tuổi lớn trên văn đàn Việt Nam. Ông là tác giả tiếp nối của dòng văn học Tự Lực Văn Đoàn; và, bằng chính đời sống và sáng tác của mình, ông mở rộng những chủ đề và cả phong cách sáng tác theo dòng lịch sử đất nước. Có thể nói, lịch sử đặt ông vào những biến cố lớn của đất nước, để từ đó, thông qua ngòi bút của mình, ông trở thành tiếng nói của thời đại mà chính ông và gia đình là những nhân chứng sống. Năm 1954 ông di cư vào Nam, sống tại Đà Lạt, rồi Sài Gòn. Vượt biển vào Tháng Mười, 1979, và tỵ nạn tại Songkhla (Thái Lan) chín tháng. Ông và gia đình định cư tại California (Hoa Kỳ) từ năm 1980”.

    “Về sự nghiệp văn chương, ông đoạt Giải Nhất Giải Văn Chương Toàn Quốc năm 1960-1961, với tác phẩm Thềm Hoang. Trước đó, năm 1952, truyện ngắn của ông lần đầu xuất hiện tại Hà Nội trên nhật báo Giang Sơn và những vở kịch trên tuần báo Cải Tạo năm 1953-1954. Tại Đà Lạt, năm 1954-1955, ông tiếp tục viết kịch truyền thanh cho đài radio tiếng nói của Ngự Lâm Quân. Từ năm 1958, tại Sài Gòn, 1958, ông tham gia Giai Phẩm Văn Hóa Ngày Nay do nhà văn Nhất Linh chủ biên”.

    Trước năm 1975, tại Việt Nam, ông từng viết cho: Giang Sơn, Cải Tạo, Thời Tập, Chánh Đạo, Bách Khoa, Văn, Tân Phong, Văn Học, Đông Phương. Tại hải ngoại, từ năm 1980 đến nay, ông được mời xuất hiện trên nhiều tờ báo và trang web. Riêng tại California, ông đã từ viết cho: Người Việt, Sài Gòn, Văn Nghệ, Hợp Lưu, Văn Học, Việt Tide, Vietstream, Khai Phóng, Chấn Hưng, Việt Nam Hải Ngoại. Ngoài ra, ông còn có tác phẩm trên Đất Mới (ở Seattle), Ngày Nay (ở Kansas City), Xác Định (ở Virginia). Xa hơn, bên ngoài Hoa Kỳ, ông có bài trên Chuông Saigon, Việt Luận, Chiêu Dương phát hành tại Úc châu, Lửa Việt tại Canada, Độc Lập tại Tây Đức), và Đường Mới, Quê Mẹ tại Pháp.

    Tác phẩm của ông bao gồm nhiều thể loại: Truyện dài, truyện ngắn, truyện thiếu nhi, kịch-tiểu thuyết kịch. Đặc biệt, những năm sau này ông làm công việc khảo cứu gần như là văn học sử qua các tác phẩm Ghi Chép và Tiểu Luận. Ngoài viết văn, ông còn là nhà giáo. Ông dạy học, và tham gia các hoạt động văn hóa, giáo dục và xã hội khác. Ông là người viết thỉnh nguyện thư và sau trở thành thành viên của Ủy Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển (Boat People S.O.S. Committee), từ năm1980 đến 1990.

    Các tác phẩm của nhà văn Nhật Tiến đã phát hành.

    Truyện dài:

    -Những Người Áo Trắng (1959)

    -Những Vì Sao Lạc (1960)

    -Thềm Hoang (1961)

    -Mây Hoàng Hôn (1962)

    -Chuyện Bé Phượng (1964)

    -Vách Đá Cheo Leo (1965)

    -Chim Hót Trong Lồng (1966)

    -Tay Ngọc (1968)

    -Giấc Ngủ Chập Chờn (1969)

    -Quê Nhà Yêu Dấu (1970)

    -Mồ Hôi Của Đá (1988)

    Truyện ngắn: Đã viết hơn 100 tác phẩm, một số được giới thiệu trong các tuyển tập…

    -Những Bước Tiên Của Tôi (1951, tuyển tập truyện và thơ chép tay đã thất truyền)

    -Ánh Sáng Công Viên (1963)

    -Giọt Lệ Đen (1968)

    -Tặng Phẩm Của Dòng Sông (1972)

    -Tiếng Kèn (1982)

    -Một Thời Đang Qua (1985)

    -Cánh Cửa (1990)

    -Quê Nhà – Quê Người (1994, in chung với nhà văn Nhật Tuấn)

    -Mưa Xuân (2013)

    Truyện thiếu nhi:

    -Lá Chúc Thư (truyện dài, 1969)

    -Theo Gió Ngàn Bay (truyện vừa, 1970)

    -Quà Giáng Sinh (truyện vừa, 1970)

    -Đóa Hồng Gai (truyện vừa, 1970)

    -Kể chuyện Tấm Cám (truyện ngắn, 1970)

    -Ngày Tháng Êm Đềm (truyện vừa, 1972)

    -Đường Lê Núi Thiên Mã (truyện dài, 1972)

    -Thuở Mơ Làm Văn Sĩ (hồi ký, 1973)

    Kịch & tiểu thuyết kịch:

    -Người Kéo Màn (tiểu thuyết kịch, 1962)

    -Hạ Sơn (kịch lửa trại, 1973)

    -Công Lý Xã Hội Chủ Nghĩa (kịch một màn, 1988)

    -Một Buổi Diễn Kịch (truyện ngắn kịch, 1990)

    -Một Khoảnh Đời Thường (kịch một màn, 2013)

    -Ông Giáo Hồi Hưu (kịch một màn, 2013)

    Ghi chép-Tiểu luận:

    -Hải Tặc Trong Vịnh Thái Lan (1981, viết chung với Dương Phục và Vũ Thanh Thủy)

    -Thuyền Nhân – Vài Trang Bi Sử (2008)

    -Hành Trình Chữ Nghĩa (2012)

    -Nhà Giáo Một Thời Nhếch Nhác (2012)

    -Sự Thật Không Thể Bị Chôn Vùi (2012)

    -Một Thời… Như Thế (2012)

    -Từ Hội Bút Việt Đến Trung Tâm Văn Bút Việt Nam (2016)

  • Âm Nhạc,  Tác giả và Tác Phẩm,  Thơ

    Hoàng Nguyên, người nhạc sỹ lãng mạn và tài hoa

      NGUYỄN TRỌNG TẠO

       

    Hoàng Nguyên, người nhạc sỹ lãng mạn và  tài hoa

    Hơn nửa thế kỷ nhầm nơi sinh quê quán.

    Thật lạ là hơn nửa thế kỷ người ta tin là nhạc sĩ Hoàng Nguyên sinh ở Quảng Trị. Tất cả tiểu sử giới thiệu tác giả, đều ghi quê quán Quàng Trị, đến nỗi từ điển Bách khoa toàn thư Wikipedia ghi rõ: “Hoàng Nguyên (19321973) là một nhạc sĩ tên tuổi, tác giả các ca khúc nổi danh như Ai lên xứ hoa đào, Cho người tình lỡ… Ông tên thật là Cao Cự Phúc, sinh 3 tháng 11932 tại Quảng Trị. Lúc nhỏ theo học trường Quốc học Huế. Đầu thập niên 1950, Hoàng Nguyên có tham gia kháng chiến nhưng rồi từ bỏ quay về thành phố”.

    Các tư liệu ấy có 2 cái nhầm: Nơi sinh và năm sinh của ông.

    Sự thực, ông sinh ra tại xã Diễn Bình, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Tên thật ông là Cao Cự Phúc, sinh ngày 3.1.1930 (sau này ông khai là sinh năm 1932), mất ngày 21.8.1973.

    Tôi quen với Giáo sư Cao Cự Bội sinh năm 1936 tại Diễn Bình là chú của Cao Cự Phúc, nhưng cháu hơn chú 6 tuổi, lớn lên lại biết dạy võ cho chú. Tất nhiên tuổi thiếu thời của Phúc sống và học tập ở quê cùng chú Bội gần chục năm mới rời quê hương. Anh Phúc rời quê là vì mẹ đã mất sớm, cha đi làm sở điện, đến lúc anh 15-16 tuổi theo ông nội vào Vinh học và tham gia quân đội chống Pháp khi còn trẻ. Tổ chức thấy anh thông minh, giao ông nhiệm vụ vào tìm bố làm việc bưu điện ở Quảng Trị để hoạt động bí mật. Anh Phúc vào học xong ở Huế rồi bị bắt vì làm nhạc trong phong trào Hòa bình. Được thả, 1955 lên Đà Lạt dạy Anh văn và âm nhạc, hướng nghiệp cho Nguyễn Ánh 9 sau này trở thành nhạc sĩ. Năm 1957 bị bắt đày ra Côn Đảo vì thành phần Việt minh cũ và cất trữ bản nhạc Tiến quân caTrương Chi của nhạc sĩ Văn Cao. Ra tù, 1961 học thêm đại học Sư phạm Sài Gòn, dạy học, sáng tác âm nhạc. Năm 1965, Hoàng Nguyên bị động viên vào Trường Bộ Binh Thủ Đức. Sau khi ra trường chuyển về Cục Quân Cụ, dưới quyền của Đại tá nhạc sĩ Anh Việt và được giao phụ trách ban nhạc Hương Thời Gian.1973 mất vì tai nạn xe hơi ở Vũng Tàu.

    Gần đây tôi có gặp ông Lương Tử Miên, người xã Diễn Bình kém anh mấy tuổi có biết anh Phúc. Ông kể: sau năm 1945, anh Cao Cự Phúc đang ở nhà ông bà nội anh ấy (ở cùng xóm với tôi cách nhà nhau chừng 100m). Hàng ngày tôi vẫn vào nhà học nhóm với chú ruột Cao cự Phúc là Cao Cự An và gặp anh Cao Cự Phúc. Có lần Cao Cự Phúc hướng dẫn cho chúng tôi về âm nhạc. Cao Cự Phúc cũng học Trường Nguyễn Xuân Ôn, trên chúng tôi 2 lớp. Quảng năm 1948 anh Cao Cự Phúc rời nhà ông bà nôi sang nhà bà Hàn Lương cháu nội cụ Nguyễn Xuân Ôn ở xã Diễn Thái vừa làm gia sư vừa đi học tiếp trung học. Từ đó cho đến khi tôi đi lính thì không gặp anh Cao Cự Phúc nữa. Khoảng năm 1949-1950 nghe tin anh Cao Cự Phúc tham gia đoàn tuyên truyền kháng chiên liên khu 4 cùng với nhà văn Bửu Tiến và anh Cao Xuân Hạo (sau này là giáo sư ngôn ngữ học) đi vào chiến khu Ba Lòng (Cam Lộ – Quảng Trị) hoạt động tuyên truyền kháng chiến. Thông tin về Cao Cự Phúc sau đó không có nhiều ở quê nên ít người biết. Còn nói về gốc gác quê hương bản quán và tuổi trẻ thì phải nói anh Phúc quê ở Xóm Chợ xã Diễn Bình huyện Diễn Châu – Nghệ An bây giờ

    Như vậy, Cao Cự Phúc xuất hiện ở Quảng Trị đi tìm bố, từ khoảng 19 tuổi, khi ấy anh đã học nhạc ở ban nhạc họ Cao Diễn Châu, học nhạc Nguyễn Văn Thương quen ông nội ở Vinh và sáng tác âm nhạc. Mẹ đẻ anh mất lúc 2 tuổi, mấy năm sau bố anh là ông Thông Bàng lấy vợ kế, sinh con ở Quảng Trị. Từ khi tìm bố ở Quảng Trị, Cao Cự Phúc vào học ở Huế khai tụt 2 tuổi và lấy bút danh Hoàng Nguyên. Sự kiện 1955 bị bắt và được thả đã thôi thúc ra đi, và thẳng Đà Lạt dạy Việt văn, Anh văn và âm nhạc, xuất hiện chùm ca khúc Đà Lạt nổi tiếng của Hoàng Nguyên: Ai lên xứ hoa đào, Bài thơ hoa đào, Đà Lạt mưa bay. Không ai ngờ rằng, Hoàng Nguyên là người nhạc sĩ tài hoa quê tận Diễn Châu, Nghệ An.

    Âm nhạc cuộc sống và lãng mạn.

    Nếu nói về sáng tác âm nhạc thì Cao Cự Phúc – Hoàng Nguyên là một nhạc sĩ rất nổi tiếng thập niên 50, 60 thế kỷ trước. Ông không chỉ sáng tác nhạc mà còn dạy nhạc, dàn dựng tác phẩm và phát hiện bồi dưỡng những nhạc sĩ trẻ. Nguyễn Ánh 9 là một nhân tố mà ông yêu quý, chăm sóc trở thành người nhạc sĩ tài hoa sau này. Người học trò thuở đấy đã nghĩ về Hoàng Nguyên là một con người có lý tưởng chống Pháp, và âm nhạc của anh đã hiện rõ lý tưởng đó: Có lẽ trong lòng những người yêu nhạc sẽ mãi mãi vang vọng những giai điệu đầy kỷ niệm của thời kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp… “Nếu hiểu rằng anh đi vì lũ giặc tham tàn, thì em ơi, em chớ sầu thương chi! Em thấy chăng khói súng của giặc thù còn mịt mùng và còn che khuất mờ…”. Nhạc sĩ Hoàng Nguyên đã viết ca khúc Anh Đi Mai Về này ở tuổi 20 tràn đầy nhiệt huyết trong bối cảnh cả dân tộc đang trường kỳ kháng chiến. Bài hát tức khắc được đón nhận nồng nhiệt và phổ biến rộng khắp. Hiếm có những nhạc sĩ trẻ xưa nay tìm được thành công dứt khoát ngay tác phẩm đầu tay của mình và nhanh chóng thành danh như anh.

    Có lúc Hoàng Nguyên đã sáng tác ca khúc khi làm tuyên truyền quân khu 4, cùng tinh thần sáng tác ca khúc với Cao Xuân Hạo đồng hương, nhưng rồi do nhiệm vụ khác nhau. Hoàng Nguyên học ở Huế, các hoạt động Việt Minh bị cách trở thấy xa xăm. Nhiều đêm anh nhớ cảnh hoạt động cùng đồng đội mà vẫn phải chịu đựng qua ngày tháng:

    Quên đi những chiều nhìn mây vương sau đèo

    Nắng vàng đùa thông reo bên bờ dòng suối lắng

    Cùng nhau vỗ súng ca cho đời biên khu

    Xa rồi ơi đàn

    Đâu đêm trăng vàng cùng chung vui bên rừng

    Tiếng trầm hùng vang vang, bóng từng đoàn chiến sĩ,

    nguyền dâng sức sống cho quê nhà

    Đêm nay xa rồi ơi đàn

    Đàn ơi xa rồi,

    Lòng vắng mơ chi ngày về, đàn ơi dứt đi đường tơ

    Đàn ơi xa rồi, tơ lòng đừng vương vấn

    Buồn chi khi non sông còn vương máu, và chiến chinh đang tràn lan

    (Đàn Ơi, Xa Rồi)

    Ngay cho đến khi đất nước chia đôi, tinh thần thống nhất đất nước vẫn luôn trỗi lên trong anh. Tất cả những mối liên lạc hoạt động như mất hết với anh, và niềm khắc khoải day dứt cùng lý tưởng chỉ lặng lẽ với anh. Anh nghĩ tới “cách chia”, “chia lìa” và vẫn “nhớ thương”, “mong chờ”. Chính vì vậy mà bài hát “Em chờ anh trở lại” đã ra đời sau hiệp thương 1954 như một khao khát nước nhà thống nhất:

    Ngày anh ra đi, đường nắng chưa phai màu

    Dòng sông chia ly, lờ lững chưa hoen sầu

    Ngờ đâu chân anh, lạc bước khi qua cầu

    Chiều nay bâng khuâng, chợt xót thương đời nhau.

    Ngày anh ra đi, rặng liễu chưa xanh màu

    Mà nay bên sông, liễu khuất bến giang đầu

    Mười mấy năm qua rồi còn gì đâu? Còn gì đâu

    Có chăng là đớn đau.

    Em chờ anh trở lại chốn đây

    Đường xưa còn đó sánh đôi vai gầy

    Em chờ anh tìm về lối cũ

    Có em còn đây bên sông này

    Đợi chờ ai đến trong vòng tay.

    Bài hát là bài tình khúc, khao khát và chia lìa, lãng mạn trên đau khổ. Những bài hát như vẫn phảng phất lý tưởng dân tộc trong đất nước chia đôi. Đó chính là lý tưởng của người nhạc sĩ Hoàng Nguyên trong một giai đoạn lịch sử hiện thực chi phối cả dân tộc.

    ***

    Từ thời Hoàng Nguyên phiêu bạt vào Đà Lạt, anh tung một chùm bài hát trữ tình, lãng mạn rất tươi đẹp, như cảm xúc của du khách rất yêu đời. Những người du khách, nghệ sĩ nghe nhạc, nhập vào những âm thanh bên hồ, tiếng suối, tiên cảnh nên thơ. Có người nghe nhạc Đà Lạt của Hoàng Nguyên rồi gọi ông là “người đội vương miện cho nhan sắc Đà Lạt”. Vâng, âm nhạc của anh xứng đáng vẻ đẹp và tươi sáng của xứ hoa như vẫy mọi con người. Và lời ca của Hoàng Nguyên rất giàu chất thơ, gây mê người thưởng thức:

    “Ai lên xứ hoa đào dừng chân bên hồ nghe chiều rơi

    Nghe hơi giá len vào hồn người chiều xuân mây êm trôi

    Thông reo bên suối vắng lời dìu dặt như tiếng tơ

    Xuân đi trong mắt biếc lòng dạt dào nên ý thơ

    Nghe tâm tư mơ ước mộng đào nguyên đẹp như chuyện ngày xưa

    Ai lên xứ hoa đào dừng chân bước lần theo đường hoa

    Hoa bay đến muôn người ngại ngần rồi hoa theo chân ai

    Đường trần nhìn hoa bướm rồi lòng trần mơ bướm hoa

    Lâng lâng trong sương khói rồi bàng hoàng theo khói sương

    Lạc dần vào quên lãng rồi đường hoa lặng bước trong lãng quên”

    Những câu nhạc như dài ra hơn bình thường. Những nốt nhạc lên xuống như núi đồi nối nhau. Những hoa bướm, bướn hoa; những quên lãng, lãng quên như quấn quýt lấy nhau trong một khúc thức mở ra không cùng lấp lánh. Qua bài hát, ta thấy tài năng cả nhạc và lời của Hoàng Nguyên như được trời cho:

    Ai lên xứ hoa đào đừng quên mang về một cành hoa 

    … Giờ này nhìn sương khói mà thầm mơ màu hoa trên má aị

    Có thể nói Hoàng Nguyên đã mê say Đà Lạt trinh nguyên thuở ban đầu. Chỉ trong thời gian ngắn, 2 ca khúc về Đà Lạt được anh sáng tác, và trở thanh 2 ca khúc bất hủ cho vùng đất này. Bài thứ 2 là “Bài thơ Hoa Đào” anh viết trong một căn phòng đơn sơ của một thầy giáo, “trong khuôn viên Trường Bồ Đề Đà Lạt, nơi anh đang dạy Anh văn cho các lớp trung học. Một chiếc giường đơn, một bàn viết bằng gỗ thông và một cây đàn guitar treo trên vách. Thời gian đó, Hoàng Nguyên còn phụ trách các buổi phát thanh của Hội Phật giáo trên làn sóng Đà Lạt”. Nguyễn Ánh 9 đã nhớ lại như vậy, và đã nghe anh hát cho nghe giai điệu đầu tiên đầy quyến rũ:

    Ngày nào dừng chân phiêu lãng 

    Khách tới đây khi hoa đào vương lối đi 

    Màu hoa in dáng trời 

    Tình hoa lưu luyến người 

    Bồi hồi lòng lữ khách thấy chơi vơi 

    …Ôi! Đà Lạt là mơ 

    Giấc mơ tiên nữ giáng xuống trần 

    Tóc mây buông lơi tha thướt bên hồ 

    Đợi tình quân đến trong giấc mơ…

    Và vẫn còn “đợi tình quân đến trong giấc mơ” của  anh lính Cao Cự Phúc ngày nào. Với âm nhạc say sưa da diết như vậy, người ta tin là anh đã gắn bó với đất này như thiên đường của tuổi trẻ. Nhưng anhthú nhận với người học trò yêu quý ngay sau khi anh viết xong bài hát này: “Không, anh chỉ ghé chân để tạm mưu sinh và tìm cảm hứng…”. Vâng, sự “ghé chân” đã dâng lên trog bài hát:

    Nhưng rồi mùa hoa tàn 

    Người hoa sao vắng mãi 

    Bao chiều lòng mong chờ 

    Đường hoa sao hững hờ 

    Để lòng lữ khách tê tái 

    Cất bước đi nhớ hoa đào trên má ai 

    Màu hoa in trên má 

    Làm khách lưu luyến mãi Đà Lạt ơi!

    Chính vì tâm sự ấy mà nỗi lòng bâng khuâng mãi với Đà Lạt, bâng khuâng mãi ­­với lữ khách muôn thời.

    Cũng với Đà Lạt, anh còn có những bài hát nữa như “Đường nào lên thiên thai”, “Đà Lạt mưa bay”… Bài hát nào cũng muốn cái đẹp của Đà Lạt như Thiên Đường, không bị phai tàn. Có thể đó là mơ mộng:

    Cầm tay em anh hỏi

    Đường nào lên Thiên Thai,

    Đường nào lên Thiên Thai,

    Đường nào lên Thiên Thai?

    Nơi hoa xuân không hề tàn,

    Nơi bướm xuân không hề nhạt,

    Nơi tình xuân không úa màu bao giờ

    Và Hoàng Nguyên cứ tin cuộc đời là vậy, với đôi mắt trong đẹp ngây thơ:

    Nhìn trong đôi mắt đẹp,

    lòng chợt vui như say;

    kìa đường lên Thiên Thai,

    Ấy đường qua ngõ mắt thơ ngây, tiếng nhạc êm lẫn tiếng thơ say,

    Đưa hồn anh lạc vào tận tim ai.

    Rồi một ngày anh chỉ “ghé chân” nơi Đà Lạt, phải rời xa nơi này bởi tù đày vì yêu đời yêu nhạc yêu ca. Âm nhạc của anh vẫn vang lên cũng cuộc sống:

    Chừ anh đi rồi mình tôi còn ở lại 

    Dalat buồn mưa mãi mãi không thôi…

    Rời Đà Lạt, Hoàng Nguyên tiếp tục một cuộc sống khác, nhưng chỉ mấy năm gắn bó bằng âm nhạc, bằng lời thơ, bằng trái tim yêu đời cùng thành phố hoa thơ mộng, anh đã trở thành “Người nhạc sĩ đội vương miện cho nhan sắc Đà Lạt”.

    ***

    Thời gian “sau Đà Lạt” thì cuộc đời rất phức tạp và éo le với Hoàng Nguyên. Năm 1956, anh bị chính quyền lùng bắt ở Đà Lạt do hoạt động tuyên tuyền Quân khu 4 kháng chiến chống Pháp từ lâu và lấy cớ trong nhà có bản Tiến Quân Ca của nhạc sĩ Văn Cao, người mà Hoàng Nguyên rất ái mộ, nên anh đã bị bắt và đày ra Côn Đảo năm 1957. Bị tù ở Côn Đảo, do tài giỏi, anh được Chủ đảo mời dạy nhạc cho con gái 19 tuổi, thầy trò đã yêu nhau bốc lửa và mang bầu, phải vận động cuộc tự do để thả Hoàng Nguyên ra tù về Sai Gòn theo ý Chủ đảo. Anh ra tù không lấy con Chủ đảo vì éo le, tiếp tục dạy học và theo học Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1961, anh quen ông Phạm Ngọc Thìn, thị trưởng thành phố Phan Thiết và bà Huỳnh Khanh là nữ diễn viên mến mộ tài năng nhận anh làm em nuôi, rồi trở thành con rể ông bà. Năm 1965, Hoàng Nguyên bị động viên vào Trường Bộ Binh Thủ Đức, sau đó chuyển về Cục Quân Cụ, lý ban nhạc Hương Thời Gian xuất hiện trên truyền thanh và truyền hình Sài Gòn đến khi bị tai nạn xe hơi kết thúc cuộc đời.

    Thời kỳ này âm nhạc miền nam không chỉ nhạc vàng tình yêu, nhạc xanh, nhạc sến mà còn nhạc trẻ, nhạc tây. Hoàng Nguyên từ dòng tiền chiến lãng mạn đến tình yêu sang trọng, rồi nhập vào dòng tân nhạc hay hiện đại. Nhưng câu chuyện tình yêu trong ca nhạc muốn vượt lên, nhưng vẫn phảng phất nỗi niềm tủi đau. Trong khi chuyện gia đình người vợ làm anh u uất không vui, và âm nhạc cũng gieo vào tâm sự:

    Những tưởng dài lâu 

    như trăng như sao cho đến bạc đầu. 

    Nào ngờ trời mưa 

    mưa rơi không thôi nát tan tình đầu 

    Nước mắt rơi mau 

    long lanh giọt sầu xót xa niềm đau. 

    (Đừng trách gì nhau)

    Ai dám đợi chờ ai 

    Và người nay đi xa 

    Từ giã bến sông dài 

    Để đến hôm nay tôi ngồi đây 

    Lặng ngắm hoa soan rơi rụng đầy 

    Người ơi! thơ ngây đã lỡ rồi 

    Tình xa rồi thì cho tôi chép lại vần thơ xưa.

    (Thuở  ấy yêu nhau)

    Và bài hát “Cho Người Tình Lỡ”,dù là một chuyện tình đã lỡ, nhưng cái con người nhân văn của nhạc sĩ luôn luôn trĩu nặng trong từng lời thơ nốt nhạc. Âm nhạc cũng mới mẻ lên, nhịp điệu cũng dào dạt hơn, để lại tâm tình càng sâu nặng sau bao yêu thương đau khổ. Bài hát “Cho Người Tình Lỡ”,có gía trị, và được chọn thu vào đĩa 45 vòng do Hãng đĩa Tình Ca Quê Hương sản xuất do Thanh Lan hát cùng bài “Không”của Nguyễn Ánh 9 được Khánh Ly hát. Và đây là đầy đủ lời ca của Hoàng Nguyên”:

    Khóc mà chi, yêu thương qua rồi 

    Than mà chi, có ngăn được xót xa 

    Tiếc mà chi, những phút bên người 

    Thương mà chi, nhắc chi chuyện đã qua 

    Anh giờ đây như là chim 

    Rã rời cánh biết bay phương trời nào 

    Em giờ đây như cành hoa 

    Trót tả tơi đón đưa ngọn gió nào. 

    Mình  nào ngờ, tình rơi như lá rơi. 

    Người tình đầy, vòng tay ôm quá lơi. 

    Để giờ này một người khóc đêm thâu, 

    Một người nén cơn đau nghe mưa mà cúi đầu. 

    Thế là hết, nước trôi qua cầu 

    Đã chìm sâu những thánh ngày đắm mê 

    Thôi đành quên, những tiếng yêu đầu 

    Những lời yêu ấy nay đã quá xa. 

    Nẻo đường cũ giăng đầy mưa 

    Khuất mù lối khiến nên tình đành lỡ 

    Ta giờ đây như rừng thu 

    Nắng liệm với chiếc lá vàng cuối mùa.

    Có thể nói, từ “Ai lên xứ hoa đào”đến“Cho Người Tình Lỡ”,là 2 đỉnh cao của ca khúc đầu đời và cuối đời của nhạc sĩ Hoàng Nguyên.

    Hoàng Nguyên – Nhạc sĩ của công chúng.

    Thường thì một đời, một sự nghiệp âm nhạc phụ thuộc vào tác phẩm được công chúng yêu thích. Có nhạc sĩ cả nghìn bài đươc 1 bài nổi tiếng, được công chúng ghi danh. Có nhạc sĩ trăm bài được vài bài, dăm bài nổi tiếng là để lại nhiều thế hệ yêu thích. Và có người qua đời, không để lại tác phẩm nào cả. Điều đó là công bằng, tác phẩm được sàng lọc qua thời gian.

    Nhạc sĩ Hoàng Nguyên/Cao Cự Phúc mất sớm do tai nạn khi 43 tuổi, không còn từ năm 1973 đến nay đã 45 năm, nhiều bài hát của anh vẫn còn được công chúng yêu thích, được khắc trên đá, được vang trong cuộc sống. Đó là niềm vinh dự của người nhạc sĩ trong cuộc đời này. Có thể nói, các thế hệ không quên những tác phẩm nổi tiếng của anh, và biết ơn anh.

    Và anh có quê, quê gốc nhiều đời, quê cha mẹ sinh ra xã Diễn Bình, Diễn Châu của anh; quê tuổi thanh niên Quảng Trị cùng cha đẻ, mẹ kế và các em của anh; và các miền quê phiêu bạt đã làm nên sự nghiệp của anh.

    Là một người bắt đầu hoạt động chống Pháp từ khi còn trẻ, dù môi trường công tác khác nhau có thể mất cả đường dây hoạt động, bị khủng bố, tù đày nhưng anh vẫn trở về cuộc sống nhân văn làm gốc với con người, xã hội. Và cho dù làm với bên này bên kia bằng ngòi bút sáng tác, bằng người dạy học mang kiến thức cho mọi người. Thật đáng kính.

    Vì vậy những người yêu anh đã khắc những bản nhạc của anh lên đá, những phù điêu hình ảnh của anh nơi công cộng, và cũng có những người đề nghị đặt tên đường cho anh trên đất Đà Lạt, con đường nhạc sĩ Hoàng Nguyên. Và theo tôi, nên đặt cả tên đường của anh trên đất Diễn Châu, Nghệ An và trên đất Quảng Trị.

    Vâng, sự nghiệp của anh bằng âm nhạc thật rõ ràng. Anh, Hoàng Nguyên/Cao Cự Phúc là người nhạc sĩ lãng mạn và tài hoa.

    Hà Nội, 15.7.2018

  • Tác giả và Tác Phẩm,  Tài liệu

    Dịch giả HÀ MAI ANH

    Người trong hình chính là ông Hà Mai Anh, dịch giả của Tâm hồn cao thượng, cuốn sách gối đầu giường của tôi từ bé thơ. Hà Mai Anh quê ở Thái Bình, ông đậu bằng Cao Ðẳng Tiểu học và trường Sư phạm, từng làm giáo học và hiệu trưởng ở các tỉnh ở Bắc Kỳ.

    Hà Mai Anh (1905 – 1975), bút hiệu Mai Tuyết và Như Sơn, là một nhà giáo, cùng là tác giả của nhiều sách giáo khoa về văn chương, toán học và dịch giả nhiều cuốn sách phổ biến như Tâm hồn cao thượng (Les grands cœurs), Vô gia đình (Sans famille), Trong gia đình (En famille)…

    Hà Mai Anh quê ở Thái Bình, từng làm hiệu trưởng ở các tỉnh ở Bắc Kỳ. Ông đóng góp nhiều bài vở cho các báo đương thời nhưng sự nghiệp văn học của ông chủ yếu là các tác phẩm mang tính cách giáo dục. Ngay từ năm 1938 cuốn Công dân giáo dục đã được xuất bản tại Nam Định và được chính phủ Bảo hộ chấp thuận dùng làm sách giáo khoa.

    Vào những năm đầu 1940, ông dịch cuốn “Tâm hồn cao thượng” (tiếng Ý: Cuore) đoạt Giải thưởng Văn chương của Hội Alexandre de Rhodes Hà Nội năm 1943, dịch từ tiếng Pháp  (Les grands cœurs).

    Cuốn này nguyên thủy viết bằng tiếng Ý của Edmondo De Amicis và tại Việt Nam được xem như một cuốn “luân lý giáo khoa thư” của thế kỷ 20 và trở thành “kim chỉ nam” của một thế hệ thiếu niên. Các tác phẩm khác do ông dịch lại từ tiếng Pháp, Anh: 

    • Vô Gia Ðình, Sans famille của Hector Malot (Giải I Dịch thuật 1970)
    • Trong Gia Ðình, En famille của Hector Malot
    • Về với Gia Ðình, Romain Kabris của Hector Malot
    • 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới, Le tour du monde en 80 jours của Jules Verne
    • Guy-Li-Ve Du Ký. Les voyages de Gulliver của Jonathan Swift
    • Hoàng Kim Ðảo, L’île au trésor của Robert Luis Stevenson
    • Con Voi Chúa, Poo Lorn l’éléphant của Reginald Campbell
    • Chuyện Trẻ Em, Contes de Perrault của Charles Perrault
    • Cầu Vồng Trong Ruộng Lúa, L’arc-en-Ciel dans les rizières của Rosy Chabbert
    • Thuyền Trưởng 15 Tuổi, Un Capitaine de 15 Ans của Jules Verne
    • Thuật Tàng Hình của Vi-Liêm, Le secret de Wilhelm Storitz của Jules Verne
    • Dòng Sông Tráng Lệ, Le superbe Orénoque của Jules Verne
    • Em Bé Bơ Vơ, Oliver Twist của Charles Dickens.

    Năm 1954 ông di cư vào Nam làm hiệu trưởng trường Trần Quý Cáp ở Sài Gòn rồi chuyển sang làm việc trong Ban Tu thư và Học liệu thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục của Việt Nam Cộng hòa.

    Khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, ông sang Mỹ tỵ nạn và mất ngày 20 tháng 8 năm 1975 tại San Bernadino, CA, Hoa Kỳ, thọ 70 tuổi.

    Bạn ông, nhà giáo Bảo Vân Bùi Văn Bảo có làm bài thơ “Khóc Bạn Hà-Mai-Anh” như sau:

    Thôi thế là xong nhé bác Hà

    Tâm hồn Cao thượng kiếm đâu ra?

    Tuổi Xanh đất Mỹ đành thua-thiệt

    Sống Mới trời Nam hẳn xót-xa

    Về với gia-đình sao vội-vã?

    Vòng quanh thế-giới há lâu-la!

    Đồng-hương, đồng-quận, thêm đồng-nghiệp

    Giọt lệ như sương khóc bạn già.

    —- Huy Phương —-

  • Tác giả và Tác Phẩm

    XUÂN DIỆU VÀ QUÊ MẸ

    (Nhân kỷ niệm 35 năm ngày mất của nhà thơ Xuân Diệu 1985-2020)

    Nhiều người Bình Định nhận xét “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, “ông hoàng thơ tình Việt Nam” có một khuôn mặt rất “nẫu”, tức rất Bình Định, với nét đẹp cao sang mà hồn hậu, tinh quái mà ngây thơ, mơ màng nhưng ngay thực. Chẳng biết Xuân Diệu nghĩ sao nếu nghe nhận xét này của đồng hương, nhưng sinh thời, trong nhiều bài viết và các buổi nói chuyện, ông thường tâm sự: thiên nhiên, con người, những câu ca dao ở Vạn Gò Bồi, Tùng Giản, Văn Quang, Luật Bình, Kim Trì, ở Bình Định, Quy Nhơn đã làm thành một mảnh rất sâu xa, tinh tế, bền vững trong tâm hồn ông.

    Xuân Diệu rất tự hào vì cái gốc “Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong/ông đồ nho lấy cô làm nước mắm” của mình và tình cảm đó làm nên một trong những bài thơ mộc nhất, thương nhất, xúc động nhất của ông:

    Làng xóm cười giọng ông đồ trọ trẹ

    Nhưng quý ông đồ văn vẻ giỏi giang

    Bà ngoại nói: tôi trọng người chữ nghĩa

    Nên dám gả con cách tỉnh xa đàng

    Tiếng đàn ngoài tiếng đàng trong quấn quít

    Vào giữa mái tranh, giuờng chõng cột nhà

    Rứa mô chừ? Cha hỏi điều muốn biết

    Ngạc nhiên gì mẹ thốt ối chu cha!…

    Mẹ thảnh thót: qua thương em nhớ bậu

    Cha hát bài phụ tử tình thâm

    Năm 18 tuổi, Xuân Diệu bắt đầu xa quê để đi học rồi đi làm ở Huế, Hà Nội, Mỹ Tho, và chỉ vài năm sau, giữa tuổi 20, trong tình cảnh “nỗi đời cơ cực giơ nanh vuốt/cơm áo không đùa với khách thơ”, ông trở thành một trong những chủ soái của phong trào thơ Mới, làm bàng hoàng làng thơ VN thời ấy bằng “một y phục tối tân…lẫn với chút hương xưa của đất nước” như phát hiện của nhà phê bình Hoài Thanh.  Cái “y phục tối tân” thì  có lẽ Xuân Diệu học từ các nhà thơ hiện đại Pháp, còn “chút hương xưa của đất nuớc” , tiếng cây me ríu rít, mùi hương hoa bưởi báo đêm khuya, cái ánh trăng sáng, xa, rộng vô chừng kia thì chắc chắn Xuân Diệu đã mang theo từ đất trời quê mẹ.

    Tham gia tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, lên Việt Bắc kháng chiến rồi về thủ đô khi đất nước bị chia cắt cho đến 1975, Xuân Diệu đã phải xa quê đằng đẵng hơn 30 năm. May mắn cho ông, “nhớ, tìm con, má đi tập kết/đem miền Nam ra ở với con”, người mẹ của vạn Gò Bồi, làng Tùng Giản đã lặn lội đi tập kết, đem con cá, con tôm, mắm muối, tiếng hò giã gạo, tiếng chày nện cối suốt đêm sao của quê hương ra sống cùng ông ở thủ đô. Tuy vậy, nhà thơ vẫn không nguôi thương nhớ quê hương “Quê má, quê má yêu/ta mang theo sớm chiều/mang theo trong giọng nói/pha Bắc vẫn Nam nhiều” và tha thiết mơ một ngày trở lại “Ôi bao giờ, bao giờ. Ta tắm vào da thịt. Con sông nhỏ Gò Bồi. Quy Nhơn về ngụp biển. Muối đọng ở vành tai”.

    Niềm thương nhớ quê hương trong những năm xa cách đó, ngoài thổ lộ trong thơ, đã được Xuân Diệu dồn vào bài phê bình nghiên cứu tuyệt hay “Sống với ca dao dân ca miền Nam Trung bộ”, năm 1963. Cho đến nay, đây vẫn là bài viết công phu nhất, toàn diện nhất, sâu sắc và giàu cảm xúc nhất về ca dao dân ca miền Nam Trung bộ và Bình Định. Với Xuân Diệu, đây là “một thứ máu của tổ quốc”.

    Ở bài viết dài gần trăm trang in này, nhà thơ bồi hồi kể chuyện “tôi với em tôi chen chúc nghe hô bài chòi ngày tết ở chợ làng Văn Quang. Làng nhỏ, chợ nhỏ, đồng bào rất hiền lành, anh hô bài chòi cũng hiền, chuyện đêm nằm đò dọc từ Vạn Gò Bồi xuống Giã (Quy Nhơn), nghe “gió nhẹ hiu hiu phần phật trên buồm” và “sóng nhỏ nghìn gợn đập canh cách dưới thân thuyền”, chuyện tục hát giã gạo ở Vạn Gò Bồi, với những đợt hát kéo dài suốt mấy tháng liền.

    Trong ký ức Xuân Diệu, dường như mỗi người Bình Định, nhất là phụ nữ, ai cũng có một “pho” ca dao dân ca riêng. Hồi nhỏ là các dì các mợ, bà vú già giữ em ruột ông, bà ngoại ông. Chính nhờ bà ngoại mà ông biết được bài ca dao rất nghịch mà cũng rất buồn này:

    Sớm mai em xách cái thõng ra đồng

    Em bắt con cua, em bỏ vô trong cái thõng

    Nó kêu cái rỏng

    Nó kêu cái rảnh

    Nó kêu chàng ơi!

    Chàng giờ an phận tốt đôi

    Em đây lỡ lứa mồ côi một mình

    Và cái ông “Tốc xi măng”  ở Quy Nhơn mà Chế Lan Viên cũng biết . Cái con ngươi dở khờ, đở dại, đôi mắt lạc trí ấy đã tay đập nhịp lên đùi, miệng hát cho Xuân Diệu nghe cả một bản trường ca ca dao huê tình rất dài và thật hay. Rồi đến má nhà thơ. Xuân Diệu đi học, ghi chép ca dao dân ca khắp nơi, mà mấy chục năm trời chẳng ngờ má mình cũng là một cái “mỏ” lớn. Mãi đến khi má tập kết ra với ông được 5 năm, tình cờ nói chuyện, ông mới biết má thuộc vô khối ca dao dân ca hay quê mình. Không những thế, bà còn là tác giả của nhiều câu rất đáo để. Ví như câu “Trồng trầu thì phải xẻ mương/làm trai hai vợ phải thương cho đồng”, bà làm là để nhắc khéo chồng phận “lẽ mọn” của mình (Cha Xuân Diệu đã có vợ ở ngoài Bắc, vô Bình Định lại lấy má ông, nên bà phải là vợ “bé”). Hay như câu này:

    Anh ngồi trong bếp lửa

                                        đau cái bụng

    Em ngồi ngoài cửa

                                       nát nửa lá gan

    Biết thuốc chi mà chữa bệnh chàng

    Lấy trầm hương cho uống sao chàng vội quên

    là bà “đặt” để nhớ chuyện chữa khỏi bệnh hay đau bụng của cha ông bằng cách lấy gừng vùi vô bếp rồi cho ông uống. Khi “đặt”, bà thấy nói “gừng” thì không hay nên nói thành “trầm hương” cho hay…

    Xuân Diệu viết “ca dao dân ca Nam Trung bộ, Bình Định đã ru tôi ngủ và đánh thức tôi dậy với những thương mến bao la của quê hương thứ nhất, nơi má đẻ ra mình”. Bởi vậy, bài viết này là một cách đấu tranh thống nhất đất nước của ông năm ấy.

    Nhớ quê, yêu quê, nặng tình quê như thế, nên năm 1976, khi được về thăm quê, niềm vui, hạnh phúc rộn lên trong thơ Xuân Diệu “Ba chục năm dư được trở về/quê mừng mình lại đón mừng quê…/Nước không mất nưã, trời xanh thế/Đất hết chia rồi lộng bốn phương”. Đặc biệt cảm động là chuyến trở về với Tuy Phước, với Gò Bồi được Xuân Diệu ghi lại trong bài thơ “Đêm ngủ ở Tuy Phước”:

    Đêm ngủ ở Tuy Phước để mà không ngủ

    Những con dế cùng tôi thức suốt năm canh

    Thức những ngôi sao, thức những bóng cành

    Đêm quê hương thương cái hương của đất

    Ngủ không được bởi gió nồm từ biển lên cứ nhắc:

    – Trọn mình anh đã nằm giữa lòng tôi

    Khi má anh sinh ra

    Anh đã thở hơi nước mắm ngon của vạn Gò Bồi

    Nên tới già thơ anh còn đậm đà thấm thía –

    Nhà thơ Huy Cận, bạn thân nhất của Xuân Diệu, có nhận xét: càng về cuối đời, tình yêu quê mẹ của Xuân Diệu càng thiết tha, da diết, ông luôn muốn làm nhiều việc để đền đáp nơi sinh thành.

    Có lẽ vì thế mà công trình nghiên cứu văn học lớn cuối cùng của Xuân Diệu là về danh nhân Đào Tấn, đồng hương Tuy Phước của ông.

    Còn nhớ đó là khi giới nghiên cứu về Đào Tấn tuy đều đánh giá cao các sáng tạo tuồng bất hủ của cụ nhưng về con người, cuộc đời cụ, thì còn không ít nghi ngại, một số người còn mạt sát cụ thậm tệ về việc làm quan to của triều Nguyễn như một bằng chứng phản bội đất nước.  Xuân Diệu nghe được, rất bất bình và quyết định xung trận. Trong hội thảo lần thứ hai về Đào Tấn tại Quy Nhơn năm 1979, Xuân Diệu đã đăng đàn tới hơn một giờ đồng hồ với tham luận “Đọc thơ và từ của Đào Tấn”. Kiến thức uyên bác, tư liệu phong phú, phân tích tinh tế, lý lẽ sắc sảo, Xuân Diệu đã khắc họa chân dung Đào Tấn không chỉ như một “nhân tài nghệ thuật đặc biệt” mà còn là một nhân cách lớn, một con người hết mực yêu nước thương dân. Bằng một linh cảm thiên tài, chỉ qua lời của Tiết Cương, nhân vật tâm đắc của Đào Tấn, “Thế sự đoản ư xuân mộng/nhân tình bạc tợ thu vân/nghiến rằng cười cười cũng khó khăn/ôm lòng chịu chịu càng sung sướng”, Xuân Diệu đã nhận ra việc làm quan của Đào Tấn thực ra là một “chủ động lớn lao của người chấp nhận sự hy sinh và cảm thấy trong việc nằm gai nếm mật của mình niềm vui sướng của sự tự giác tự nguyện”. Những phát hiện của các nhà nghiên cứu lịch sử sau này đã chứng minh linh cảm của Xuân Diệu là hoàn toàn đúng. Đào Tấn không chỉ là một thiên tài nghệ thuật mà còn là một chính khách lớn. mẫu mực.

    Tham luận đầy thuyết phục của Xuân Diệu đã là một “chiêu tuyết’ tuyệt vời cho những oan ức mà cụ Đào phải gánh chịu, là đòn quyết định làm câm bặt mọi ý đồ bôi nhọ cụ. Sau này, Xuân Diệu đã dày công phát triển tham luận trên thành một công trình nghiên cứu lớn và những dòng cuối cùng của công trình này được Xuân Diệu viết vào ngày 7/11/1985, chỉ trước khi ông trút hơi thở cuối cùng 11 ngày (18/12/1985)…

    Nhà lưu niệm Xuân Diệu ở Gò Bồi Tuy Phước, Bình Định

    Hội đua thuyền trên sông Gò Bồi

    Theo FB

  • Tác giả và Tác Phẩm

    Nhà văn Túy Hồng, chứng nhân tình yêu và cuộc đời

    Nhà văn Túy Hồng, chứng nhân tình yêu và cuộc đời

    nhacsituankhanh

    Ảnh kỷ niệm lễ thành hôn của đôi nhà văn Thanh Nam và Túy Hồng (dấu x)

    Nhà văn Túy Hồng, qua đời vào 19-7-2020 tại Mỹ, ở tuổi 82. Nghe tin mà nhớ lần được gặp bà, trong một chuyến đến Seatle nhiều năm trước.

    Năm 1975, cùng dòng người ra đi khỏi Việt Nam bởi kết cục của một cuộc chiến, nhà văn Túy Hồng đến bên kia biển và ở lại, như nhiều danh tài khác của miền Nam Việt Nam.

    Túy Hồng là một trong nhóm các nhà văn nữ nổi tiếng trước năm 1975 bao gồm Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương (Nguyễn Thị Thái), Nguyễn Thị Thụy Vũ, Lệ Hằng… Thời của một nền văn chương tự do và lộng lẫy đã tạo điều kiện cho rất nhiều nhà văn nữ xuất hiện, nhưng nhóm các nữ sĩ kể trên được coi như là tiền phong với những phong cách, cũng như đề tài của họ đầy cá tính và khác biệt.

    Nhà văn Nguyễn Thị Tuý Hồng, tên cũng là bút danh. Bà sinh ngày 12-10-1938 tại Chí Long, Phong Điền, Thừa Thiên – Huế, viết văn từ năm 1962.

    Trong một thời gian khoảng hơn 10 năm ở Saigon, nhà văn Túy Hồng đã tung ra hàng loạt tác phẩm, khiến người đọc cũng như giới phê bình kinh ngạc về sức sáng tác của bà, với các tác phẩm như Thở dài (NXB Đời Mới 1965, Kim Anh tái bản 1966), Vết thương dậy thì (NXB Kim Anh 1966) Trong móc mưa hạt huyền(NXB Đồng Nai 1969), Tôi nhìn tôi trên vách (NXB Đồng Nai 1970), Mùa hạ huyền (Văn Khoa 1971), Những sợi sắc không (Giải nhất Văn chương toàn quốc 1970 – NXB Khai Trí 1971),Biển điên (NXB Văn Khoa 1971),Bướm khuya, (NXB Đồng Nai 1971)…

    Bà còn là một cây bút cộng tác thường xuyên với: Văn Hữu, Bách Khoa, Lập Trường, Văn, Văn Học, Tin Sách, Nghệ Thuật, Kịch Ảnh, Con Ong, Diều Hâu, Tia Sáng, Độc Lập, Tin Sáng, Thần Phong, Thời Nay, Đời Nay, Khởi Hành, Tiền Tuyến, Vấn Đề… với thể loại nào, nhà văn Túy Hồng cũng đều bộc lộ sự sắc sảo trong nghiệp chữ nghĩa của mình.

    Chữ nghĩa của Túy Hồng đầy yêu đương và trần tục, khao khát và ẩn ức, đàn ông và đàn bà đều tuyệt vời ở giống cái và giống đực.

    Nhà văn Túy Hồng có đoạn mang chút tình lãng mạn, ngắn như đủ đậm với nhà văn Võ Phiến lúc ở Dalat, mà bà viết kể lại trong Những Sợi Sắc Không (1970).

    Được biết nhà văn Võ Phiến thố lộ với bà rằng “Anh không ham muốn em từ phút ban đầu, cũng không ham muốn em sau cái phút anh nhìn em qua cửa kính cư xá Bùi Thị Xuân, mà anh chỉ yêu em bởi vì những câu văn đầu tay em viết trong truyện ngắn gửi đăng báo… Yêu đời sống, chúng ta hãy đầu cơ khả năng, thì giờ và lòng thành vào văn chương. Anh cho nghệ thuật tất cả tài sản tinh thần của anh. Con đường anh đi là con đường văn nghệ, chấp nhận sống và chết, trừu tượng và cụ thể. Anh không phải là họa sĩ, nhưng anh có màu sắc nét vẽ; anh không phải là nhạc sĩ nhưng anh có âm thanh tiếng động.”

    Nhưng mọi thứ tan vỡ khi Võ Phiến thú nhận ông đã có gia đình. Và khi viết lại mọi thứ, ở bất kỳ chuyện gì, bà Túy Hồng vẫn viết rõ tên và các câu chuyện của mình, đến mức nhà văn Võ Phiến phải than thở “Em không bằng Nguyễn Thị Hoàng, em thua kém Nguyễn Thị Thụy Vũ. Họ kính nể người yêu, họ không oán trách người tình, không căm giận những người đàn ông mà họ đã thương. Còn em, em không tốt, em nói xấu anh dữ dội trong truyện ngắn em viết”.

    Câu chuyện yêu đương đó, nhà văn Túy Hồng viết trong Những Sợi Sắc Không và gửi dự thi Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc năm 1970 cùng với Nhã Ca, Nguyễn Thị Thụy Vũ. Mà trêu gan nhất là hội đồng giám khảo gồm Nguyễn Mạnh Côn, Mai Thảo và Võ Phiến.

    Nhưng trong một bút ký của bà, người ta nhìn thấy bà viết về Võ Phiến như sau “Tôi chưa thấy một người đàn ông nào thương vợ nhiều như thế, yêu vợ kỹ như thế. Vợ anh, vợ anh.. cái miệng cứ tía lia vợ anh vợ anh, làm như người ta sắp lấy mất. Bà Võ Phiến tên cúng cơm là Viễn Phố”. Yêu, cay đắng và công bằng như vậy, chỉ có Túy Hồng.

    Sau năm 1975, nhà văn Túy Hồng bị xếp vào thành phần nguy hiểm do các bài nhận định, bình luận chính trị… Trên các tạp chí, báo của người Việt hải ngoại. Trả lời trên Gió-O (2005) về việc phải ra đi và một nhà văn thì còn giá trị hay sứ mạng gì, bà nói lúc này “nhà văn chỉ có thể là nhân chứng”. Một trong những tác phẩm cuối cùng của bà ở hải ngoại, là nói về cuộc đời trí thức lưu vong có tên là “Trong Cuối Cùng”.

    Truyện của nhà văn Túy Hồng không khó tìm trên internet, với các ấn bản điện tử, với những ai muốn đọc lại.

    Nhân dịp thêm một ngôi sao được gắn lên khoảng trời vô cùng của văn học tự do miền Nam. Xin kể lại, để biết và để nhớ.

     nhacsituankhanh

  • Tác giả và Tác Phẩm

    Nhà văn TÚY HỒNG đã ra đi vĩnh viễn

    Nhà văn TÚY HỒNG đã ra đi vĩnh viễn ngày 19-7-2020 tại Hoa Kỳ. Hưởng thọ 82 tuổi.


    Bà tên thật Nguyễn Thị Tuý Hồng, sinh ngày 12-10-1938 tại Chí Long, Phong Điền, Thừa Thiên – Huế. Viết văn từ năm 1962.
    Túy Hồng cùng: Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, và Trùng Dương là 5 nhà văn nữ nổi tiếng lẫy lừng của miền Nam VN trước 1975.
    Tác phẩm: “Những Sợi Sắc Không” của bà đoạt giải nhất văn chương toàn quốc VNCH 1970.


    Thành kính phân ưu.

    Image may contain: 1 person, text that says 'Phan Nguyen'


    Image may contain: 3 people, text
  • Tác giả và Tác Phẩm

    HỒ DZẾNH

    H DZNH

    VŨ THƯ HIÊN

    Nhà văn Thanh Châu có một giang sơn riêng – một gác xép bằng gỗ ghép.

    Thời ấy, tức là cái thời trong câu chuyện này, gác xép có ở hầu hết các nhà đông người mà chật hẹp. Gác xép tăng diện tích ở không được bao nhiêu, nó chỉ bằng một phần ba diện tích căn phòng dưới nó, nhưng là một mảng riêng tư của Thanh Châu, nơi ông dành để tiếp bạn, người nhà không hề lai vãng.

    Để lên cái gác xép ấy tôi phải leo một cái thang dựng ngược, bám cứng vào hai thành lung lay của nó mà nhích từng bước để rồi chui qua một lỗ vuông hẹp.

    Từ khi nhà nước về tiếp quản Hà Nội, Thanh Châu biến mất khỏi văn đàn. Đề tài, bút pháp thuộc dòng lãng mạn bị coi là nọc độc. Tác giả Tà Áo Lụa, Bóng Người Ngày Xưa… giờ đây ngồi lặng lẽ nơi mảnh đất tự tạo bên cái bàn trà nhỏ đã lên màu cánh gián và bộ trà màu đất nung tí tẹo.

    Người thường xuyên có mặt trên gác xép của Thanh Châu là Kim Lân, cây bút số một về chuyện nhà quê. Người thứ hai là “ông Giê Su ở phố Hàng Thuốc Bắc” Bùi Xuân Phái. Người mảnh khảnh, nói cho đúng là gày xác ve, gương mặt xanh trắng khắc khổ rất giống mặt Đấng Cứu Thế trên các tượng Chịu Nạn đã làm nên biệt hiệu ấy.

    Tôi thường gặp Bùi Xuân Phái ở gác xép của Thanh Châu, nhưng để trò chuyện tâm tình với anh thì chỉ có thể ở gác xép nhà anh. Người tự xưng “nhát gan bậc nhất Hà Thành”, hễ thấy gác xép của Thanh Châu có quá ba khách là anh lịch sự bắt tay mỗi người một cái rồi ù té.

    Từ cái lỗ vuông ấy, vào một ngày không còn nhớ, nhô lên một mái đầu chải ngược, đường ngôi rõ ràng, khuôn mặt xạm đen với nụ cười phô những cái răng dài.

    Nhà thơ mới Hồ Dzếnh
    HỒ DZẾNH

    – Hồ Dzếnh đấy! – Thanh Châu ghé vào tai tôi.

    Tôi không quên được hình ảnh ấy – nó gắn chết vào trí nhớ.

    Con người lộc ngộc, xương to, thịt ít, ngồi xuống bên tôi:

    – Vũ Thư Hiên?

    Thanh Châu gật.

    Chắc hẳn Thanh Châu, hoặc Kim Lân đã nhắc đến tôi nhân câu chuyện đụng tới thế sự văn chương. Và còn một lẽ nữa – trong các khách của Thanh Châu tôi ít tuổi nhất.

    Chả là hồi ấy dư luận đang ồn lên với bài “Giương cao ngọn cờ tính Đảng, chống chủ nghĩa xét lại hiện đại trong văn nghệ” của Tố Hữu. Nó hứa hẹn một trận đánh, rất có thể sẽ là một vụ “Nhân Văn – Giai Phẩm” thứ hai, Tôi được nêu tên vì truyện ngắn Đêm Mất Ngủ. Cùng với tôi còn có Nguyên Ngọc với Mạch Nước Ngầm và Ngô Ngọc Bội với Chị Cả Phây. Có thêm hai người chịu trận là may cho tôi, chứ một mình thì nguy to.

    Lời phê phán của nhà thơ lãnh tụ lần này không gây ra đám cháy lớn. Tuy nhiên, sau bài báo đó các ông tổng biên tập, các thư ký toà soạn liền cầm kính lúp soi từng chữ trong mỗi vần thơ, mỗi câu văn. Mấy truyện ngắn hiền như đất của tôi gửi đến đều bị trả lại. Hỏi vì sao thì các vị cầm trịch nhe răng cười.

    Trong hoạ có phúc. Tôi không được in thì lại được được tiếp chuyện các bậc đàn anh nhiều hơn.

    Kim Lân phát mạnh vào vai tôi: “Mặc mẹ nó! Được Tố Hữu đập, coi như “lúy” công nhận ông có chiếu trong làng văn. Hay chứ không dở”.

    Nói thế, Kim Lân phải tin tôi lắm. Câu ấy mà đến tai Tố Hữu thì lôi thôi to. Được Kim Lân tin, tôi sướng âm ỉ. Hiền lành một cục, thận trọng cũng một cục, thế mà rồi có lúc anh cũng bị nện cho một trận với truyện ngắn “Con chó xấu xí”. Người ta nói tác giả ví văn nghệ sĩ trung thành với đảng như con chó ghẻ xấu xí nọ, nó gắng sức giữ nhà cho chủ, thế mà vừa trơn lông đỏ da là chủ vật ra làm thịt. Một truyện ngắn hay, giọng văn mộc mạc, khó có thể tìm được một câu được hiểu là móc máy. Kim Lân cười buồn: “Cái bọn phê bình có cần chó gì nghệ thuật. Nghề của bọn ấy là bới. Cứ thằng nào viết văn không nổi là y như rằng nó quay ra làm phê bình”. Nguyễn Tuân trăn trối trước: “Này, đừng có chôn tôi bên cạnh một thằng phê bình đấy nhá!”.

    Nói cho công bằng, những nhà phê bình đôi khi cũng có ích ra phết. Không có họ độc giả không hiểu hết ý của tác giả, họ vạch ra mới thấy. Không kể những trường hợp các phê bình gia bịa ra những cái tác giả không chủ tâm. Như Văn Ngan Tướng Công của Vũ Tú Nam chẳng hạn. Người đảng viên trung thành của đảng viết chuyện chơi chơi cho trẻ con, nhưng các nhà phê bình lại thấy trong đó sự xỏ xiên: đảng là con ngan hãnh tiến, bay không biết bay, bơi không biết bơi, chỉ nỏ mồm cạc cạc.

    Không nổi tiếng như Nguyễn Tuân, nhưng Thanh Châu vẫn cứ là một bô lão trong nghề, được nhiều cây bút trẻ trọng vọng. Họ đến với anh, thành kính như vụng trộm hành hương về một quá khứ đã bị chôn.

    Thanh Châu bỏ bút đã đành, nhưng Kim Lân, trẻ hơn Thanh Châu cả chục tuổi, hoạ hoằn mới cho ra một truyện ngắn. Vì “ngứa nghề” (chữ của Kim Lân), chứ không phải vì nhuận bút. Nhuận bút bấy giờ còm cõi lắm. Đã thế lại chỉ có vài tờ báo nhận đăng thơ, hoặc truyện ngắn. Người muốn trở thành nhà thơ, nhà văn lại quá nhiều. Thiên hạ muốn cái tiếng cái danh, chứ nhuận bút họ không màng. Ấy là chưa kể họ còn phải nghiến răng móc túi cho những bữa chiêu đãi các vị chức sắc ở các thứ toà soạn.

    Trong lần đầu gặp gỡ, Hồ Dzếnh nắm chặt tay tôi, bóp bóp vài cái. Ấy là anh khen đấy, Thanh Châu giải thích. Anh ý nhị nhìn tôi, cười tủm tỉm.

    Sau mới biết Hồ Dzếnh ít khi tỏ thái độ khen chê. Anh là người kín kẽ, kiệm lời.

    Thanh Châu nhận xét vắn tắt về Hồ Dzếnh:

    – Của hiếm trong văn học. Bút pháp của ông ấy có muốn học cũng không được – là văn đấy, mà cũng là thơ đấy.

    Trong số khách của Thanh Châu, Hồ Dzếnh là một nhân vật đặc biệt. Đặc biệt ở chỗ anh lặng lẽ đến, lặng lẽ leo lên, rồi trầm ngâm nhấm nháp trà quạu, không nói không rằng.

    Lối viết của anh, chẳng khác gì của Thanh Châu, đã không còn đắc dụng. Viết văn giờ là công tác phục vụ cách mạng, phục vụ công nông binh, là trách nhiệm và sự nghiệp của nhà văn. Viết cái gì, viết thế nào, đã có đảng cầm tay chỉ việc. Mặc dầu không dính dáng gì với đám phản động “Nhân Văn – Giai Phẩm”, nhưng anh vẫn bị người ta nhìn bằng cặp mắt nghi ngờ – bọn văn nghệ sĩ cũ không thể tin – lũ ấy kém mười lăm phút đầy phản động. Để yên thân, thỉnh thoảng anh cũng có một bài thơ nhạt nhẽo trên tờ Lao Động. Anh không bao giờ nhắc đến chúng.

    Hồ Dzếnh - AV Travel
    HỒ DZẾNH và gia đình

    Tôi đọc Hồ Dzếnh rất sớm, lúc mới lên mười. Cha tôi thường mang về cho tôi những cuốn Sách Hồng cho trẻ con, mỗi cuốn là một chuyện cổ tích. Chúng được kể với giọng dí dỏm, dễ hiểu, lôi cuốn. Lại có cả một cuốn sách thơ cho trẻ con, không nhớ là của ai, trong đó có hai câu còn đọng lại lâu trong trí nhớ:

    Hôm qua trời đổ mưa rào,

    Mặt trời sợ ướt lẩn vào đám mây.

    Cuốn sách đầu tiên, đích thực sách, mà tôi được đọc, là Chân Trời Cũ.

    Một ngày, mẹ tôi mua Chân Trời Cũ về. Bà đọc chăm chú, có lúc thừ người ra, lấy tay dụi mắt – bà khóc thầm.

    Chờ cho mẹ đọc xong, quên nó rồi, đi vắng rồi, tôi mới dám lấy nó ra từ trong giỏ kim chỉ của bà. Lệ trong nhà là thế, trẻ con không được đọc sách người lớn.

    Tôi không biết nói về cảm giác của tôi là thế nào khi đọc Chân Trời Cũ. Một nỗi xúc động bất ngờ trong tâm hồn trẻ thơ chăng? Có thể không phải thế, hoặc không rõ ràng là thế. Những câu chuyện bình dị về những kiếp người, được viết bằng thứ tiếng Việt chân chất, không uốn éo, không màu mè, gợi nhớ những gì tôi đã biết, đã thấy trong cuộc sống bé bỏng của mình. Chúng để lại trong tôi ấn tượng mạnh chưa từng có.

    – Anh là người thày đầu tiên dạy tôi yêu văn – tôi nói với Hồ Dzếnh – Còn hơn thế, anh làm cho tôi hiểu tiếng Việt của ta đẹp đến là nhường nào.

    Nghe tôi, Hồ Dzếnh cười bẽn lẽn. Tôi dùng đúng chữ phải dùng – anh bẽn lẽn thật sự. Mặt anh đỏ lên, mắt anh chớp chớp, anh lúng túng trước lời khen. Những con người lớn thật sự bao giờ cũng mang trong mình một đứa trẻ.

    – Anh hiểu tôi rồi đấy – anh khẽ nói với tôi, như nói một mình – Tình yêu đối với văn chương không bắt đầu bằng cái gì khác ngoài tình yêu ngôn ngữ. Chuyện để kể thì ai mà chẳng có. Nhưng để viết nó ra, cho nó có hình hài, cho nó sống dậy, cho nó đi lại, trò chuyện được với mọi người thì ngôn ngữ là cái quan trọng hàng đầu. Và duy nhất. Nó quyến rũ mình, nó hút hồn mình, nó rủ rê mình, và sau hết, xúi giục mình cầm lấy cây bút.

    Tôi được nghe lời tâm sự này vào một đêm khuya ở ngôi nhà nhỏ của anh, số 80 Hòa Mã, khi Hà Nội đã ngủ yên.

    – Tiếng Việt là âm nhạc, anh ạ. Thoạt kỳ thuỷ, những câu văn xuất hiện như một dòng nhạc. Nó ngân nga mãi trong đầu trước khi mình đặt bút lên trang giấy trắng những chữ đầu tiên. Nó là một cái gì đó rất mơ hồ, ta chưa thể hình dung. Nó như mây như gió, không sao nắm bắt được, không làm chủ được, không sai khiến được nó. Cái ấy cứ cục cựa trong đầu, đòi được thoát ra. Ta như bị bức bách phải cho nó đi xuống trang giấy, thành một vần thơ,một câu văn. Sau đó thì vần thơ ấy, câu văn ấy, sẽ tự kéo theo nó những chữ khác, những câu khác. Rồi cứ thế, một bài thơ, một truyện ngắn ra đời.

    Tôi trích ở đây một đoạn trong Chân Trời Cũ tả người khách tha hương ngồi bên bến đò vắng tanh vắng ngắt trong chiều tà. Người ấy giở nắm cơm ra nhai trệu trạo, đoạn đứng lên bắc loa miệng gọi đò: “Tồ ui!”

    Trời đã ngả màu tím. Khách không tin còn đò. Nhưng rồi con đò ở bờ bên kia cũng rời bến sang với khách. Đêm ấy khách được ngủ đỗ trong nhà cô lái đò tốt bụng.

    “Mấy tiếng tù và khuya rúc lên, bay vào gian nhà vắng. Lắng biết mọi người đã ngủ yên cả, vị thần tử của giang sơn Trung Hoa vắt chân chữ ngũ, khe khẽ ngâm một bài thơ cổ, qua nỗi xúc động đột nhiên tụ lại trong người:

    Uỵt loọc, vú thày sướng mủn thín,

    Coóng phống, dì phố, tui sàu mìn,

    Cú chấu sèng ngồi Hồn Sán sì.

    Dề pun, chống séng tâu hác sin.

    (Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên

    Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên,

    Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,

    Dạ bán, chung thanh đáo khách thuyền)[1]

    Ngay lúc ấy, từ gian buồng bên, nổi lên mấy tiếng gì như chuột rúc. Lữ khách, thấy đứt mạch cảm hứng, càu nhàu trong bóng tối:

    – Ấy dà! Cẩm tố xỉ a! (Chà! Lắm chuột thế!)

    Nhưng đó không phải tiếng chuột rúc. Đó là tiếng người con gái chở đò ban tối cười qua hai làn môi khép kín.

    Cuốn Chân Trời Cũ gồm nhiều truyện ngắn, theo ghi chú của tác giả thì nó được viết vào tháng Giêng năm 1940, xuất bản lần đầu năm 1942. Về sau, nó được tái bản nhiều lần. Tôi rất nhớ hai câu kết của truyện ngắn Ngày Gặp Gỡ:

    “Người khách sang sông chiều muộn ấy về sau này là cha tôi. Và cô lái đò, là mẹ tôi“.

    Không hiểu sao mà câu sau cùng này lại biến mất trong lần tái bản sau cùng. Mà tôi cho rằng đó là câu khép chuyện hay nhất. Nó mới giản dị làm sao! Mới đẹp làm sao!

    Tôi có lần viết ở đâu đó: “Tôi có hai người thầy: Hồ Dzếnh chỉ cho tôi thấy cái đẹp trong ngôn ngữ giản dị; Nguyễn Tuân, ngược lại, dạy tôi cách sử dụng những từ cầu kỳ đúng chỗ để tăng sức mạnh của câu văn. Cả hai cho tôi hiểu tiếng Việt là âm nhạc, đích thực là âm nhạc, với những tiết tấu riêng, với sự xen kẽ của những toàn hài và cung chướng để đưa người đọc đi xa hơn, cùng với liên tưởng bất giác để bay xa, vượt lên trên những con chữ”.

    Hồi ấy, còn nhỏ, tôi chưa gặp thơ Hồ Dzếnh. Lớn lên, đọc anh tôi mới hiểu ra tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ theo nghĩa đen, đã ảnh hưởng tới anh mạnh đến thế nào.

    Trời đẹp như trời mới tráng gương
    Chim ca ánh sáng rộn ven tường
    Có ai bên cửa ngồi hong tóc
    Cho chảy lan thành một suối hương.

    Một khúc khác:

    Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!

    Ðể lòng buồn tôi dạo khắp trong sân,
    Ngó trên tay thuốc lá cháy lụi dần…
    Tôi nói khẽ, gớm, làm sao nhớ thế!

    Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
    Tôi sẽ trách – cố nhiên! – nhưng rất nhẹ;
    Nếu trót đi, em hãy gắng quay về,
    Tình mất vui khi đã vẹn câu thề,
    Ðời chỉ đẹp những khi còn dang dỏ.
    Thư viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,
    Cho nghìn sau … lơ lửng … với nghìn xưa….

    Trời không nắng cũng không mưa,

    Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung.

    Chiều buồn như mối sầu chung
    Lòng im nghe thoảng tơ trùng chốn xa

    Ðâu hình tầu chậm quên ga
    Bâng khuâng gió nhớ về qua lá dày

    Hay bài thơ Chiều đã được Dương Thiệu Tước phổ nhạc mà nhiều người thuộc nhưng không biết là những vần thơ của Hồ Dzếnh:

    Trên đường về nhớ đầy
    Chiều chậm đưa chân ngày
    Tiếng buồn vang trong mây
    Chim rừng quên cất cánh
    Gió say tình ngây ngây
    Có phải sầu vạn cổ
    Chất trong hồn chiều nay?
    Tôi là người lữ khách
    Màu chiều khó làm khuây
    Ngỡ lòng mình là rừng
    Ngỡ hồn mình là mây
    Nhớ nhà châm điếu thuốc
    Khói huyền bay lên cây …

    Tôi không rành lý luận văn học. Tôi cũng không có ý định nghiên cứu về văn Hồ Dzếnh. Cái đó không phải việc của tôi – tôi không có cả tài năng lẫn hứng thú. Tôi có đọc một số bài nghiên cứu về Hồ Dzếnh. Trong những bài này có khá đủ dữ kiện để người đọc biết về Hồ Dzếnh với tư cách một văn tài. Nhưng tôi còn muốn nhiều hơn – một chân dung Hồ Dzếnh, con người và cuộc đời. Sau khi quen Hồ Dzếnh, tôi tìm đọc lại các tác phẩm của anh. Ngôn ngữ trong những tác phẩm ấy tất nhiên khác với ngôn ngữ hiện đại. Nhưng nó không lỗi thời. Cái đẹp vẫn còn đó nhờ sức mạnh của ngôn từ giản dị.

    Năm 1986 Hồ Dzếnh vào Sài Gòn. Lần gặp gỡ này tôi được gần anh nhiều hơn những buổi tối ngắn ngủi ở ngôi nhà phố Hòa Mã. Ngắn ngủi là vì muốn nghe chuyện anh lắm tôi cũng không thể ngồi quá khuya, khi chị bắt đầu đi ra đi vào, có ý nhắc đã đến giờ anh đi ngủ.

    Ở Sài Gòn, hôm nào Hồ Dzếnh cũng đến rủ tôi đi ăn sáng. Bắt đầu bằng món phở ở một quán theo anh là rất tuyệt ở chân cầu chữ Y, đoạn đi tiếp, nhâm nhi ly cà phê ở một quán khác, gần nhà hàng Bát Đạt trên đường Trần Hưng Đạo, nó cũng tuyệt không kém. Một người bạn sành ăn sành uống đã cho anh lời khuyên, nó được anh nắn nót ghi vào mảnh giấy nhét trong túi ngực.

    Tôi chở anh đi bằng xe Honda 67. Chúng tôi phóng vèo vèo trên chằng chịt phố xá. Ngồi sau, anh ôm cứng tôi, luôn cục cựa, hết quay phải lại quay trái.

    Không biết trong những chuyến cưỡi ngựa xem hoa ngày ấy có làm anh nhớ đến Cô Gái Bình Xuyên năm 1945 hay không. Nó là tác phẩm lần đầu và cũng là lần duy nhất Hồ Dzếnh rời miền ký ức thân quen để bay lên những tầng trời tưởng tượng. Một thư sinh Bắc Kỳ lạc bước vào Hòn Ngọc Viễn Đông gặp một nữ tướng cướp. Chàng yêu nàng. Nàng yêu chàng. Một hôm nàng đi cướp, bị bắn. Xót nàng, băng bó cho nàng xong, chàng ôm nàng trong lòng, thủ thỉ bảo nàng hãy ở nhà, chàng sẽ đi làm công việc nguy hiểm ấy thay nàng. Nữ tướng cướp nghe chàng, cười rũ. Nàng ép đầu chàng vào ngực mà bảo: công việc ấy không phải của anh mà, anh hãy cầm số tiền này rồi về Bắc đi. Nơi này, việc này không phải dành cho anh.

    – Tôi không giàu tưởng tượng – nhắc đến Cô Gái Bình Xuyên, anh cười anh – Cái gì dính với tôi, với những kỷ niệm trong đầu thì tôi viết được, hễ bịa là y như rằng hỏng, anh ạ.

    – Ờ, Cô Gái Bình Xuyên không tồi, nhưng với anh, tôi nghĩ nó là một thất bại.

    Tôi nói toạc, không sợ anh giận. Chúng tôi quen nói với nhau thật thà, không kiêng nể.

    – Nghề của ta thế đấy. Cái mình viết đã thả ra là không cách nào đuổi theo để bắt nó về. Vì vậy mà viết xong tôi thường để đấy rất lâu rồi mới cho in.

    – Nghĩa là anh còn nhiều bản thảo đắp chiếu?

    Hồ Dzếnh tránh câu trả lời.

    Hồ Dzếnh viết thận trọng. Nhưng chỉ chừng ấy tác phẩm đã được anh thả ra cũng đủ làm phong phú thêm nền văn học mà ta quen gọi là tiền chiến. Những gì anh viết còn cho ta thấy được một hiện tượng khác – ấy là một người nước ngoài hoàn toàn có thể sáng tác bằng tiếng Việt không khác gì người Việt.

    Nghe nói người Hoa khuyến khích con trai Hoa lấy vợ Việt nhưng ngăn cấm con gái Hoa lấy chồng Việt. Chuyện này có thật – người ta làm thế là để bảo vệ nòi giống, và cả mở rộng nòi giống nữa. Chẳng thế mà những người Tàu tha hương giữ gìn tiếng Hoa lắm lắm, cho dù có lưu lạc đến tận đẩu tận đâu trên địa cầu. Hơn bất cứ cộng đồng di dân nào, người Hoa coi mất ngôn ngữ là mất gốc. Tiếng bản địa đối với họ vĩnh viễn là ngôn ngữ thứ hai, chỉ đủ dùng trong giao tiếp là được, không cần hơn. Thời tôi, nhiều người Hoa thuộc thế hệ thứ ba thứ tư vẫn không nói sõi tiếng nơi mình sinh sống.

    Trường hợp Hồ Dzếnh là hãn hữu. Mặc dầu theo phong tục của người Hoa, anh ắt phải học và rành tiếng Hoa hơn tiếng Việt. Anh sáng tác được bằng tiếng Việt do anh có mẹ người Việt, và tiếng mẹ đẻ của anh đã chiếm lĩnh toàn bộ tâm hồn anh.

    Cuộc gặp gỡ nhiều ngày với Hồ Dzếnh ở Sài Gòn cho tôi hiểu anh thêm. Chúng tôi có đủ thời gian cho những chuyện tâm tình.

    Cũng trong cuộc gặp gỡ này tôi mới biết trong sâu thẳm tâm hồn, Hồ Dzếnh có một vết thương khó lành và không đáng có. Dù anh đã có một chỗ đứng trong văn đàn Việt Nam, anh vẫn luôn cảm thấy có sự phân biệt: anh là nhà văn, nhưng là nhà văn người Tàu, hoặc tử tế hơn, nhà văn gốc Hoa.

    Mặc dầu người Hoa đến Việt Nam đã ăn đời ở kiếp trên đất này, đã chôn nhiều thế hệ cha ông ở đây, đã được người bản địa hiền hoà mở rộng vòng tay đón nhận, coi như người trong gia đình lớn các tộc người cùng sống chung với nhau trên một mảnh đất, nhưng đã xảy ra không ít cảnh đau lòng.

    Sử sách còn ghi trận quân Tây Sơn tàn sát một vạn sinh linh người Hoa ở cù lao Phố vào thế kỷ 18. Trong cơn thịnh nộ: “Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để đen răng/ Đánh cho nó ngựa xe tan tác/ Đánh cho nó mảnh giáp không còn/ Đánh cho nó biết nước Nam anh hùng có chủ”, đến đàn bà trẻ con người Hoa cũng không thoát khỏi ngọn giáo lưỡi gươm thù hận.

    Theo thống kê không được coi là chính xác, năm 1978 và đầu năm 1979 đã có hai vạn rưởi người Hoa vượt biên giới phía bắc để trở về Trung Quốc. Nhà nước Trung Hoa đỏ đặt tên cho nó là “nạn kiều”.

    Tất cả bắt đầu bằng một tờ truyền đơn giả mạo tựa hồ của chính quyền Trung Quốc kêu gọi người Hoa mau mau trở về tổ quốc để tránh một cuộc “tắm máu” sắp xảy tới. Tờ truyền đơn do một tên vô danh tiểu tốt ở Quảng Ninh học tiếng Trung ở Nam Ninh (Trung Quốc) thảo ra, dưới sự khuyến khích của tên quan thầy nắm công tác tổ chức ở trung ương. Tác giả tờ truyền đơn về sau leo lên một trong những chức vị cao nhất trong hệ thống nhà nước. Công lao được ghi nhận của y là đã xua đuổi được hàng vạn người Hoa ra khỏi Việt Nam mà không tốn một viên đạn. Tôi không viết tên chúng ra đây – chúng không đáng được nhắc đến.

    Thế là những con người, chứ không phải những con vật, đã ăn đời ở kiếp trên đất nước ta bồng bế nhau, dắt díu nhau, bỏ ruộng, bỏ vườn, bỏ nhà cửa, bỏ mồ mả cha ông, chạy về đất nước mà tổ tiên họ đã bỏ đi để tới đất này. Ở mảnh đất mà bỏ lại đàng sau, những địa danh chỉ được mơ hồ biết đến, được nhớ tới, trong những truyền thuyết và những chuyện kể về đêm của những ông già bà cả. Thế mà giờ đây bất thình lình họ phải bỏ hết để chạy về cố quốc: một chân trời xám xịt đầy một màu máu của đủ thứ cách mạng long trời lở đất, hết cái này đến cái khác, mà họ được nghe từ những đồng bào sống sót trốn qua biên giới.

    Tổng số người Hoa rời khỏi Việt Nam từ Bắc chí Nam trong thời kỳ này lên tới gần một triệu trong số gần hai triệu người Hoa sinh sống ở Việt Nam, theo một con số thống kê.

    Kim Lân, theo tôi quan sát, là bạn thân nhất của Hồ Dzếnh, Nhưng hình như có những tâm sự chua xót Hồ Dzếnh chưa hề nói với bạn. Không phải anh có điều gì phải giấu giếm. Chỉ là anh không muốn nói, không muốn kể, những chuyện đau lòng.

    Tôi may mắn hơn. Tôi được nghe anh kể những gì đã xảy ra với anh trong năm 1978:

    -Tờ truyền đơn khốn nạn ấy có tác động kinh khủng. Người ta tin nó là thật. Họ chép lại, trao tay nhau, rồi lời đồn loang xa. Thế rồi người Hoa theo nhau ùn ùn kéo đi. Của nả trong nhà còn gì mang ra bán cho bằng hết, bán rẻ như cho, lùng sục mua vàng. Nhẫn một chỉ, nửa chỉ, vài đồng cân, mua hết, không cân kẹo, không phân biệt thật giả, dắt tất tật vào lưng quần. Lưng đeo ba lô, vai khoác tay nải, họ dắt díu nhau lên đường. Nước mắt lưng tròng, họ hối hả đi, thất thểu đi. Thảm lắm, Tội nghiệp nhất là những gia đình Hoa Việt – chồng đi, vợ ở lại, vợ đi, chồng ở lại. Những đứa con mếu máo chia tay nhau, đứa đi đứa ở, xảy đàn tan nghé. Tôi có anh bạn bác sĩ đông y người Hoa, vợ Việt, hai đứa con, một trai một gái. Anh chồng mang theo con trai, vợ ở lại với con gái. Bao nhiêu là nước mắt. Chia tay họ, tôi khóc ròng”.

    – Còn anh thì sao? – tôi hỏi.

    – Tôi không đi.

    – Tất nhiên, anh còn đang ngồi đây với tôi mà.

    Hồ Dzếnh thở dài:

    – Tôi không thể đi. Nơi này là quê hương tôi, là đất nước tôi, là tình yêu của tôi. Tôi không thể bỏ.

    – Những người ra đi không lôi kéo anh?

    – Có chứ. Người ta đến nhà rủ tôi đi cùng. Hằng ngày. Người ta thương tôi, lo sợ cho tôi.

    – Còn chính quyền?

    – Chính quyền?

    – Người ta có làm khó anh nhiều không?

    – Có đấy. Họ đến nhà, giục gia đình tôi đi. Không phải một lần. Tôi lánh mặt. Họ hỏi vợ tôi: “Bao giờ ông bà mới chịu đi?”

    – Chị trả lời thế nào?

    – Nhà tôi bảo: “Tôi không biết. Thuyền theo lái, gái theo chồng. Trong nhà tôi, ông ấy là người quyết định, không phải tôi. Các ông đi mà hỏi ông ấy!”

    – Ông ấy không chịu giáp mặt chúng tôi. Chúng tôi biết – ông ấy đang ở trong nhà – họ nói.

    – Ông ấy đi từ sớm, thức dậy tôi đã không thấy ông ấy đâu. Chắc ông ấy không ngủ được, dậy xong là đi. Các ông thử tìm ở mấy quán cà phê xem có ông ấy có đấy không?

    – Rồi họ cũng tóm được tôi, bảo tôi đi theo – anh tiếp – Đi thì đi. họ là nhà nước, mình là dân, lại là người Hoa, thứ người hạ đẳng. Ngồi lên command-car, hai người ngồi hai bên. Như sợ tôi trốn mất. Họ định đưa mình đi đâu đây, tôi nghĩ? Xe rẽ vào Hỏa Lò, anh ạ. Cái Maison Centrale này người Hà Nội có ai không biết. Tôi tự hỏi: “Mình làm gì mà họ bắt cơ chứ”? Rồi cái xe đỗ lại trong một cái sân rộng.

    Tôi hình dung cái sân Hỏa Lò sạch bong với mấy dàn nho queo quắt. Tôi đã đứng đây khi đi thăm cha tôi vào thời thuộc Pháp. Tôi cũng đã đứng đây chờ được đưa vào xà lim, thời cách mạng.

    – Theo chân họ, tôi bước vào một căn phòng trống huếch trống hoác, ở tường hậu có một cái bàn giấy. Lấy thêm ghế, phân ngôi chủ khách. Chủ ngồi trong. Tôi ngồi ngoài. Mời uống trà. Thuốc lá sang, Thăng Long bao bạc hẳn hoi. Chuyện trên trời dưới đất.

    Sau hết, mấy tay công an mới vào đề:

    – Anh nhất định không chịu đi?

    – Tại sao tôi lại phải đi?

    – Người Hoa đi cả, anh ở lại làm gì?

    – Nhà tôi ở đây, vợ con tôi ở đây, đi đâu? Việc gì tôi phải đi?

    Họ nhìn nhau, cười. Cứ như họ nghe một câu trả lời của người điên. Tôi bặm môi, không nói thêm câu nào nữa. Nói làm gì? Có nói họ cũng chẳng hiểu. Với họ, tâm hồn con người là thứ vớ vẩn, họ không thể hiểu, không thèm hiểu. Rồi họ đứng lên, ra hiệu cho tôi đi theo.

    Anh im lặng, nhớ lại.

    – Họ đưa anh đi đâu?

    – Qua một cửa lớn nhiều song sắt. Rồi một cửa nhỏ, cũng nhiều song sắt. Con đường dẫn tới một hành lang tối, hai bên là những cánh cửa sơn xám có then cài với những cái khóa bằng đồng”.

    Tôi thảng thốt:

    – Đó là khu xà lim 1, gọi là Xà lim Án chém. Tôi từng ở đấy. Họ giam anh?

    Hồ Dzếnh trầm ngâm. Rồi cười buồn:

    – Lúc ấy tôi cũng nghĩ thế – chắc mình sẽ bị giam ở đây.

    Anh có vẻ là cấp trên trong hai người mở nắp cái ô nhỏ bên trên cánh cửa, kiễng chân nhòm vào, rồi ra hiệu cho tôi nhòm theo. Cái lỗ quan sát ấy tôi biết qua sách. Người Pháp gọi nó là le judas. Tôi không phải kiễng chân, tôi cao hơn anh ta, Nhòm vào, tôi giật bắn mình – bên trong là một cái xác trần truồng, gày đét. Nghe động, cái xác hé mắt. Hoá ra là một người sống. Tất nhiên, anh ta không nhìn thấy tôi, cái lỗ ấy chỉ cho anh ta thấy hai con mắt. May, không phải một người quen. Tiếp theo, họ mở thêm vài cái ô như thế nữa, vẫy tôi lại, nhưng tôi lắc.

    – Rồi sao?

    – Rồi họ đưa tôi về nhà, cũng trên chiếc command-car ấy. Trên xe, chúng tôi không ai nói với ai câu nào. Chỉ khi mở cửa xe cho tôi xuống, người công an cấp trên mới đặt tay lên vai tôi: “Anh thấy rồi đấy – anh muốn về Tàu hay muốn ở lại trong cái chỗ anh vừa thấy?”

    Câu chuyện Hồ Dzếnh kể làm tôi bàng hoàng.

    Lại thêm một cái không thể ngờ có thể xảy ra trong cuộc cách mạng mà tôi đi theo từ thuở thiếu thời. Những người mà tôi từng gọi là đồng chí đã hành xử tàn nhẫn đến thế đấy, với một nhà văn hiền lành không hề chống lại họ thậm chí trong ý nghĩ.

    Đoạn hồi ức này tôi ghi lại để thêm vào những gì nhiều người đã viết về Hồ Dzếnh.

    Lần gặp anh ở Sài Gòn là lần cuối. Sau đó chúng tôi cũng không có thư từ, điện thoại cho nhau. Tin nhắn cuối cùng anh gửi cho tôi là bài viết thay cáo phó trên tờ Văn Nghệ,

    * * *

    Tháng 8 năm 1991, tôi ở Warszawa.

    Một buổi chiều, sau khi uống cà phê ở quán U Szwejka[2]trên quảng trường Konstytucji, tôi thả bộ tới đường Marszałkowska thì một chiếc taxi trờ tới. Ắt hẳn anh lái nghĩ tôi là một du khách đang lớ ngớ tìm đường.

    Ngạc nhiên làm sao, vừa ngồi vào xe, lên tôi thấy bên mình một tờ báo tiếng Việt.

    Một hàng tít lớn đập vào mắt :”Nhà văn Hồ Dzếnh không còn nữa”.

    Xem ngày tháng thì thấy tờ báo mới ra hôm qua. Chắc hẳn nó là của một người Việt vừa đi từ phi trường Okiecie vào thành phố đã bỏ lại.

    Tôi bàng hoàng.

    Tôi ít khi nghĩ tới cái chết, cho chính mình, cũng như cho những người tôi biết. Sự sống vốn chẳng là vô hạn với bất cứ ai – biết là thế, nhưng bất ngờ vẫn cứ là bất ngờ. Thậm chí trong hành trang của tôi vẫn còn đấy cái đồng hồ quả quít cổ mặt sứ tôi mua ở chợ đen Donbass để gửi cho Hồ Dzếnh. Có lần nào đó anh nói với tôi anh thích đồng hồ quả quít hơn đồng hồ đeo tay. Nó gợi nhớ cái đồng hồ của cha anh – vật còn lại lâu hơn mọi thứ khác sau khi cha anh qua đời và mẹ anh phải bán đi tất cả.

    Tôi nhoài lên ghế trên, hấp tấp nói lại địa chỉ. Thay vì về nhà, tôi bảo anh tài xế đưa tôi đến chỗ khác. Ở thương vụ Việt Nam tôi có thể nhờ gửi tin nhắn bằng telex nhanh nhất về cho con rể.

    Các con tôi đã có mặt trong tang lễ, thay tôi tiễn đưa nhà văn mà tôi yêu mến đến nơi an nghỉ cuối cùng.

    Thêm một lần, tôi tin ở tâm linh.

    Nó có thật hay không có thật tôi không biết. Bằng sự tình cờ hi hữu, Hồ Dzếnh gửi cho tôi lời nhắn cuối cùng:

    “Tôi đi đây. Chào nhé!”.

    2016

    Những tác phẩm đã xuất bản của Hồ Dzếnh:
    – Quê Ngoại (thơ, gồm những bài góp nhặt từ năm 1935 đến 1942, xuất bản năm 1943);
    – Hoa Xuân Đất Việt (thơ);
    – Chân Trời Cũ (tập truyện ngắn, xuất bản năm 1942 (nhà xuất bản Hoa Tiên);
    – Một Truyện Tình 15 Năm Về Trước (tiểu thuyết, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh (nhà xuất bản Hoa Tiên)
    – Hai Mối Tình hay Tiếng Kêu Trong Máu (truyện dài, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh (nhà xuất bản Hợp Lực, 1968);
    – Dĩ Vãng (tiểu thuyết)
    – Những Vành Khăn Trắng (tiểu thuyết, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh);
    – Đường Kẽ Mãnh (truyện ngắn, Trung Bắc chủ nhật ,số 187, 12-12-1943);
    – Nhà Nhiều Con (truyện ngắn, Trung Bắc chủ nhật, số 206, 11-6-1944).
    – và nhiều truyện ngắn khác đăng rải rác trong các giai phẩm xuất bản thời tiền-chiến.

    ________________________________________________________

    [1] Bài thơ Phong kiều dạ bạc của Trương Kế, đời Đường.

    [2] Tên quán được đặt theo tên nhân vật cuốn tiểu thuyết lừng danh “Chuyện phiêu lưu của anh lính Sweik dũng cảm” của nhà văn Séc Jaroslav Hašek (1883 – 1923)

    Theo Internet

  • Tác giả và Tác Phẩm

    Bùi Giáng trong cái nhìn của phê bình văn học ở miền Nam trước năm 1975

    Bùi Giáng trong cái nhìn của phê bình văn học ở miền Nam trước năm 1975

    TRẦN HOÀI ANH

    24 Tháng 6 2020

    Thi sĩ Bùi Giáng                                    

    1. Nói đến Bùi Giáng, người ta thường nghĩ đến một nhà thơ vừa quen lại vừa lạ. Quen vì thơ ông vốn mang âm hưởng lục bát của ca dao, của truyện Kiều, dễ thuộc, dễ nhớ, được nhiều người yêu mến, tìm đọc. Nhưng lạ, vì để hiểu đời và thơ Bùi Giáng là điều không đơn giản. Vì vậy, Bùi Giáng luôn là một hiện tượng thu hút rất nhiều sự quan tâm của độc giả cũng như các nhà nghiên cứu, phê bình văn học trong và ngoài nước từ khi ông còn hiện hữu trên cõi đời cho đến lúc ông đi ra ngoài cõi sống.

    Trong văn học miền Nam 1954-1975, đời và thơ Bùi Giáng luôn được các nhà phê bình văn học chủ tâm nghiên cứu. Bùi Giáng đã hiện diện trong các công trình phê bình, nghiên cứu văn học ở miền Nam như: Những nhà thơ hôm nay (Nhà văn Việt Nam xb, Sài Gòn, 1957) của Nguyễn Đình Tuyến; Văn học hiện đại, thi ca và thi nhân (Quần Chúng xuất bản, Sài Gòn, 1969) của Cao Thế Dung; Những Khuynh hướng trong thi ca Việt Nam (Khai Trí xb, Sài Gòn, 1962) của Minh Huy; Thơ Việt Nam hiện đại 1900 – 1960 (Hồng Lĩnh xb, Sài Gòn, 1969) của Uyên Thao; Tác giả tác phẩm (Tác giả Xb. Sài Gòn, 1973) của Trần Tuấn Kiệt… Đặc biệt cùng với Trịnh Công Sơn, Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đình Toàn, Nhật Tiến, Thế Uyên, Thế Phong, Võ Hồng, Bùi Giáng là một trong mười khuôn mặt văn nghệ được Tạ Tỵ nói đến trong tác phẩm chân dung văn nghệ có tên Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay nổi tiếng của mình do Lá Bối xuất bản, Sài Gòn, 1972.

    Và càng đặc biệt hơn khi Tạp chí Văn, một trong những tạp chí nghiên cứu, phê bình văn học có uy tín trong đời sống văn học miền Nam trước 1975 đã dành hẳn số 11 ra ngày 18/5/1973 để giới thiệu về Bùi Giáng với các bài: “Bùi Giáng, hồn thơ bị vây khổn” của Thanh Tâm Tuyền; “Thi ca và tư tưởng” của Tuệ Sỹ; “Bùi Giáng, về cố quận” của Nam Chữ; “Bùi Giáng, cải lương ca” của Cao Huy Khanh; “Bùi Giáng trên đường về cố hương” của Trần Hữu Cư; “Ẩn ngữ, cung bậc thi ca” của Thục Khưu; “Chung quanh vấn đề Bùi Giáng” của Trần Tuấn Kiệt; “Thư từ” trao đổi giữa Nguyễn Xuân Hoàng và Bùi Giáng và một số sáng tác thơ, văn của ông …

    Ngoài ra Bùi Giáng còn xuất hiện trên nhiều báo, tạp chí, công trình nghiên cứu khác ở miền Nam trước 1975 mà do điều kiện khó khăn về việc tìm kiếm tư liệu, người viết bài này chưa có thể sưu tập được. Tuy nhiên qua những gì hiện có, chúng ta cũng có thể khẳng định rằng Bùi Giáng là một trong những hiện tượng văn học khá nổi bật thu hút ngòi bút của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học ở miền Nam trước 1975. Và nói như Tạ Tỵ: “Bùi Giáng là một hiện tượng, người yêu thơ phải nhìn Bùi Giáng qua phong cách độc đáo, ở đấy, mỗi dòng, mỗi chữ, mỗi ý, được viết ra là máu thịt của thi nhân dâng hiến cho đời. Thơ Bùi Giáng không thuộc trường phái nào hết. Nó không cũ, chẳng mới. Nó có thể là thơ, là tư tưởng, đôi khi thơ và tư tưởng lẫn lộn giao hòa tạo thành một vùng “mờ mịt thức mây”. Thơ Bùi Giáng như cơn đau chưa dứt, như nỗi bàng hoàng chiêm bao chợt tỉnh, để rồi lại chìm vào chiêm bao khác. Nó bâng khuâng ở mỗi vần, mỗi chữ. Có lúc, nó buồn bã như niềm tuyệt vọng! Người yêu thơ cứ phải men lần theo, như đi trên một hành lang trú ngụ. Nhiều điều bí mật. Mỗi khúc quanh lại mở ra những kỳ dị phi thường” (1)

    Nhận định trên đây của Tạ Tỵ về Bùi Giáng có lẽ cũng là cảm thức chung của các nhà phê bình văn học ở miền Nam trước 1975  khi nghiên cứu về đời và thơ Bùi Giáng.

    2. Buffon nói “Văn là người”. Điều đó rất đúng với Bùi Giáng. Đi vào cõi thơ Bùi Giáng tức là đi vào cõi người của Bùi Giáng. Mà cuộc đời Bùi Giáng thì phiêu bồng như thơ ông. Vì vậy, để hiểu đời và thơ Bùi Giáng có lẽ người đọc cũng phải để hồn mình bồng bềnh phiêu lãng trong cõi thơ của ông. Bởi Bùi Giáng đã từng quan niệm “Cõi thơ là cõi bồng phiêu ”. Đi vào cõi thơ Bùi Giáng tức là đi vào cõi bồng phiêu của đời Ông. Vì vậy khi tìm hiểu các bài nghiên cứu, phê bình văn học ở miền Nam trước 1975 viết về Bùi Giáng, chúng tôi đều thấy chất phiêu bồng này đan xen trong tâm thức và cảm quan của người viết. Thế nên, để hiểu Bùi Giáng, các nhà phê bình, nghiên cứu phải xuất phát từ nhiều điểm nhìn, nhiều hệ quy chiếu khác nhau thì may ra mới chạm đến cõi thơ và cõi đời Bùi Giáng. Bởi theo Tạ Tỵ, Bùi Giáng là người “đã đi vào chiêm bao giữa cuộc sống vì cuộc sống vừa khủng khiếp vừa nên thơ, con người không thể dùng lý luận để biện minh phải trái. Nhưng dù nói gì mặc lòng, đích thực thơ Bùi Giáng bị cái hàng rào triết học bủa vây thật chặt chẽ” (2). Và theo chúng tôi, đây chính là một yếu tính trong đời và thơ Bùi Giáng.

    Nói đến thơ và đời Bùi Giáng là nói đến sự hợp hôn diệu kỳ giữa thi ca và triết học. Chính vì vậy đi vào cõi thơ Bùi Giáng, người đọc cần có một tầm đón đợi phù hợp, phải xuất phát từ nhiều điểm nhìn khác nhau cùng với một vốn sống, vốn văn hóa phong phú may ra mới thấu cảm được với hồn thơ của thi sĩ. Đây cũng là điều mà các nhà phê bình văn học ở miền Nam trước 1975 tập trung lý giải. Bởi theo Nguyễn Đình Tuyến “Thơ Bùi Giáng được rất nhiều ca tụng nhưng đồng thời cũng gặp nhiều ngộ nhận. Đó là hiện tượng không thể tránh được đối với các thi tài lớn. Từ lâu, nhà thơ đã linh cảm những bất trắc trên đường sự nghiệp, nhưng với một khát vọng thiết tha và mãnh liệt khởi sự từ mưa nguồn chớp bể, nhà thơ vẫn đi theo tiếng gọi của nàng thơ và không thể chiều ý tất cả chúng ta” (3)

    Tuy nhiên với sự đồng cảm và tri âm sâu sắc của những tâm hồn đồng điệu, các nhà phê bình văn học ở miền Nam đã đến với đời và thơ Bùi Giáng bằng một sự trân quí, sẻ chia. Chính vì vậy, trước bao nhiêu câu hỏi của người đời về hiện tượng điên hay không điên của Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền trong bài viết “Bùi Giáng, hồn thơ bị vây khổn” với tất cả sự cảm nhận, tinh tế của một thi sĩ và trách nhiệm của một nhà phê bình đã xác tín “Không. Bùi Giáng không điên, ông là một nhà thơ sáng suốt cực kỳ. Ông là một nhà thơ “ngộ”. Đừng hiểu chữ “ngộ” trong cái nghĩa đơn giản của Đạo giáo…” (4). Và chúng tôi hoàn toàn chia sẻ với nhận định này của Thanh Tâm Tuyền.

    Quả thật, Bùi Giáng không phải là một nhà thơ điên như có người nhầm lẫn. Trạng thái điên “nếu có” ở Bùi Giáng chính là sự phóng chiếu của những ẩn ức, đam mê trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Và nếu nhìn từ lý thuyết phân tâm học của Freud chúng ta sẽ thấy rõ vấn đề này. Chính vì vậy, trong cái nhìn của các nhà phê bình văn học miền Nam trước 1975, Bùi Giáng là một thi nhân luôn gắn với cuộc sống con người và hồn thơ của ông luôn neo đậu trong cõi người. Nếu có phiêu bồng thì đó chỉ là sự phiêu bồng của những phút thăng hoa trong sáng tạo. Nói như Cao Thế Dung: “Đọc thơ Bùi Giáng ai cũng nhận thấy có cái độc đáo từ chiều sâu thẳm trong cõi tiềm thức. Chiều sâu ấy như chiều sâu của vô cùng với khắc khoải của khát vọng từ xa vắng người mà rất người” (5). Và cũng theo Cao Thế Dung, tìm vào cõi thơ Bùi Giáng: “người ta chợt nhớ ra cái bóng dáng xa xăm của Verlaine khi bắt đầu dấn thân vào cuộc đời. Nỗi buồn của thơ Bùi Giáng tựa như âm thừa của trận mưa nguồn, của cỏ nội. Nỗi buồn dâng thiệt cao trong cơn say rồi thoát giữa hư vô để tìm lại bóng con người. Nỗi buồn ấy thấm sâu rồi lan nhẹ theo từng mảnh tâm tư trước cơn dao động của ý thức” (6)

    Song cõi thơ Bùi Giáng không chỉ đậm đặc nỗi buồn mà còn chất đầy nỗi cô đơn của thân phận trước những dâu bể cuộc đời. Nỗi cô đơn ấy nhiều khi ám ảnh cả đời người  mà nếu không “vịn” vào một cái gì đó để “đứng dậy” thì con người cũng dễ bị gục ngã trước cuộc sống. Trong cõi thơ Bùi Giáng nỗi cô đơn là một căn tính mà các nhà phê bình văn học ở miền Nam trước 1975 đều nhận thấy. Vì vậy, khi nhận định về vũ trụ thơ Bùi Giáng, Tạ Tỵ đã thốt lên một cách xa xót: “Bùi Giáng thường gặp mình giữa hồn mình. Cô đơn và cô đơn trước bạt ngàn vướng mắc” (7). Còn Trần Hữu Cư thì cho rằng: “Bùi Giáng vẫn còn đó, có lẽ Bùi Giáng chỉ nhận những lời ngợi khen hay thống trách, nhưng có lẽ quá hiếm người hiểu ông muốn làm gì trên cõi đời này… Cho nên Bùi Giáng vẫn sống cô độc” (8)

    Quả thật những suy nghĩ của Tạ Tỵ và Trần Hữu Cư về nỗi cô đơn trong đời và thơ Bùi Giáng thật đúng với cõi đời và cõi thơ của ông. Cô đơn vốn là một căn tính trong bản thể. Tùy theo thân phận / nhân vị của mỗi người mà nỗi cô đơn đó hiện hữu như thế nào!? Ở Bùi Giáng, theo chúng tôi, nỗi cô đơn của ông là nổi cô đơn của định mệnh, của duyên nghiệp. Ông không chỉ cô đơn trong đời mà còn cô đơn trong thơ, cô đơn trong tư tưởng của mình. Sự cô đơn ở Bùi Giáng như một hệ lụy tất yếu của số phận, không thể lý giải. Vì thế, đã lâu rồi, người ta vẫn cứ đặt nhiều câu hỏi về đời và thơ của ông. Và từ những góc nhìn, những suy tưởng riêng của mình mà mỗi người có cách lý giải khác nhau. Nhưng nếu bảo rằng chúng ta đã hiểu và chia sẻ hết những gì hiện hữu trong đời và thơ Bùi Giáng, thì đó là điều không thể !? Nói như Trần Hữu Cư: “Bùi Giáng vẫn sống trong cô độc”. Bởi theo Tạ Tỵ: “Thơ với Bùi Giáng đích thị không phải là cứu cánh, chỉ được thực hiện nhằm giải tỏa ám ảnh về thân phận trong vòng đai cuộc sống nhiều băn khoăn với ý thức siêu hình”. (9) 

    Vì vậy, trong cái nhìn của các nhà phê bình văn học ở miền Nam, thơ Bùi Giáng là “cuộc hội thoại giữa thi ca và tưởng…”. Nó “luôn luôn là những tương ứng của chung và riêng” (10). Và cuộc hội thoại nầy chính là một đặc điểm trong thi pháp thơ Bùi Giáng mà theo Cao Huy Khanh trong bài tiểu luận “Bùi Giáng, cải lương ca” thì “Văn chương Bùi Giáng là một nỗ lực giải quyết và thực hiện tư tưởng triết lý tồn sinh một cách sống động và thơ mộng” (11). Tính chất triết lý này chi phối rất sâu sắc cõi sống và cõi thơ của Bùi Giáng. Vì vậy, Tạ Tỵ cho rằng: “Bùi Giáng đi vào cõi thơ luôn đeo bên mình niềm ám ảnh của triết học” (12). Và chính vì thế “Bùi Giáng làm thơ nhưng chẳng bao giờ thừa nhận thi ca là lẽ sống duy nhất của đời mình. Người thơ coi kiếp sống như một hiện hữu bất đắc dĩ, nên làm thơ cho khuây khỏa ám ảnh, cái ám ảnh thực sâu đậm bi thương giữa cõi đời hỗn mang và suy tưởng thuần khiết” (13). Và cũng theo Tạ Tỵ: “Bùi Giáng thoát hồn vào ảo giác để nhận ra sự thật” (14). Nhận xét nầy có thể xem là một gợi mở, là chìa khóa để giải mã hành trình sáng tạo thơ của Bùi Giáng cũng như sự hiện hữu khá dị thường của ông trong cuộc đời mà hiện nay vẫn còn nhiều câu hỏi chưa có lời đáp!?

    Một điều lý thú mà hầu hết các nhà phê bình ở miền Nam trước 1975 đều tập trung nghiên cứu với những nhận định khá sâu sắc và xác đáng đó là lĩnh vực ngôn ngữ trong thơ Bùi Giáng. Văn chương là nghệ thuật của ngôn từ. Ngôn từ trong thơ bao giờ cũng là một trong những giá trị đặc biệt làm nên phong cách nhà thơ. Ngôn ngữ trong thơ Bùi Giáng là một vũ trụ ngôn ngữ mà ở đó cuộc hôn phối diệu kỳ giữa thi ca và tư tưởng được thể hiện một cách sâu sắc. Vũ trụ ngôn ngữ trong thơ Bùi Giáng là vũ trụ của những tiếng nói vang vọng từ trong chiều sâu tâm thức và tâm cảm cho nên nó là một thứ ngôn ngữ phi / siêu logic, ngôn ngữ nghệ thuật phi / siêu nghệ thuật. Vì vậy trong cái nhìn của Cao Thế Dung “Thơ Bùi Giáng vốn là sự khó hiểu vì ông đã phá cái trật tự của ngôn ngữ, ông đã đảo lộn cái cơ cấu tạo hình ngôn ngữ. Ngôn ngữ qua thơ ông chỉ còn là một thứ trò chơi. Ông dỡn với từng chữ, đùa cợt với âm thanh thơ” (15) . Còn Tạ Tỵ lại cho rằng: “Thơ Bùi Giáng mang nhiều ẩn dụ ở chiều sâu ngôn ngữ” (16). Và theo Nam Chữ: “Mặc dầu có khi trái ngược nhau đến cực độ, ngôn ngữ thi ca của ông (Bùi Giáng – THA) ngụ ý một cách sâu xa. Người ta biết rõ ràng những dung từ khó khăn nhất, những âm vận ngắn củn nhất, đôi lúc đến quá liều lĩnh, khi đi vào trong cung cách lập ngôn của ông đều trở nên linh hoạt dị thường, đều trở nên nhẹ nhàng và âm điệu réo rắc như nhịp tấu của một tay gảy đàn tài tử, không còn câu nệ ở hình thức cây đàn nữa”. (17)

    Mặt khác, từ góc nhìn truyền thống Cao Huy Khanh cho rằng: “Thơ Bùi Giáng cốt yếu là một hiện tượng ngôn ngữ độc đáo tựu thành từ mối đam mê nguồn thơ lục bát (đặc biệt truyện Kiều) phối hợp với âm điệu ca dao thuần túy dân tộc” (18). Song phải chăng, ngôn ngữ trong thơ Bùi Giáng là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa thi ca và tư tưởng, giữa nghệ thuật và triết học. Và điều nầy đã tạo nên một phẩm chất riêng có trong thơ ông, nên khi nhận định về ngôn ngữ thơ Bùi Giáng, Nguyễn Đình Tuyến cho rằng: “lời thơ rộng rãi luôn luôn thay đổi bình diện, thâm trầm trang nhã mà không xa lời ca nơi đồng ruộng, thôn trang, bình dị mà tân kỳ, đó là tính chất của thơ Bùi Giáng” (19)

    Tuy nhiên khi nói đến ngôn ngữ thơ Bùi Giáng, các nhà phê bình văn học không chỉ nói đến mặt sáng tạo, mặt thành tựu mà còn chỉ ra những mặt hạn chế. Đó là sự dễ dãi, đùa cợt, sáo rỗng trong ngôn ngữ ở một số bài thơ của Bùi Giáng mà theo Cao Thế Dung là kỹ thuật thơ của Bùi Giáng “chưa phải là điêu luyện vì cách sử dụng ngôn ngữ của ông còn nhiều điểm đáng chê vì nó không thể hiện được phần yếu tính của thơ”. (20) Không những thế, Cao Thế Dung còn cho rằng có lúc Bùi Giáng sử dụng những “ngôn từ quá cũ, sáo rỗng, chẳng hạn như “Nữ Chúa Nương” và nhiều khi còn dùng những ngôn ngữ mà với thi ca nó sẽ tầm thường như con chuồn chuồn, con kiến” (21) 

    Theo chúng tôi, ý kiến nầy tuy có phần xác đáng nhưng cực đoan. Vì không nhất thiết cứ là thơ thì ngôn ngữ phải là những “lời có cánh” bay bỗng, sang trọng, xa cách cuộc sống đời thường. Và nếu cho rằng dùng những ngôn từ trong cuộc sống làng quê như chuồn chuồn, con kiến sẽ làm tầm thường hóa thơ ca thì đây là ý nghĩ có phần hàm hồ . Bởi vì, ngôn ngữ thơ, suy cho cùng cũng là ngôn ngữ từ đời sống được nhà thơ chưng cất lên mà thôi. Vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây, là nghệ thuật và kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ như thế nào trong quá trình sáng tạo thơ ca, chứ không phải là việc dùng từ “bình dân” hay “bác học”. Bởi lẽ, nói như Rimbaud: “Tiếng nói kia của nhà thơ sẽ là hồn của tâm hồn, thu gom hết sự vật, hương, thanh sắc, nó sẽ là ý tưởng móc vào ý tưởng mà lôi kéo đi”. (22)

    Một bình diện khác trong thế giới nghệ thuật thơ Bùi Giáng mà các nhà phê bình văn học ở miền Nam cũng đề cập đến đó là giọng điệu mà theo Uyên Thao: “Bùi Giáng cũng tạo được một cái lạ” đó là “cái ngang” và chính “cái ngang” này đã làm cho “Bùi Giáng có cái giọng bạt đó và cái giọng bạt đã ảnh hưởng vào âm vận của thơ Giáng” (23). Và trong cái nhìn của Uyên Thao thì Bùi Giáng là một trong không nhiều gương mặt thơ tiêu biểu của thơ ca hiện đại Việt Nam.

    Thục Khưu trong bài Ấn ngữ, cung bậc thi ca Bùi Giáng, đã cảm nhận vẻ đẹp trong giọng điệu thơ Bùi Giáng bằng những cảm xúc rất tinh tế và sâu sắc. Theo Thục Khưu cái ngân nga trong thơ điệu Bùi Giáng “là một bức thông điệp mỹ miều đồ sộ của tâm hồn” (24). Thơ là tiếng nói của tâm hồn. Giọng điệu trong thơ bao giờ cũng là giọng điệu của tâm hồn thi nhân. Đây là một trong những yếu tố thi pháp làm nên nét riêng trong phong cách của mỗi thi nhân. Giọng điệu ấy bao giờ cũng là phương thức hữu hiệu nhất chuyển tải tâm thức và tâm cảm của thi nhân đến người tiếp nhận. Vì thế, Tạ Tỵ cho rằng: “Thơ Bùi Giáng súc tích chứa đựng nhiều u uẩn. Cái khung trời sáng láng hồn hậu chan hòa mơ ước, phiêu bồng của buổi nào xa xôi, vẫn thấp thoáng hiện về trong thi nhân qua những vần điệu” (25).

    Không chỉ lạ lẫm trong giọng điệu, thơ Bùi Giáng cũng khám phá nhiều lĩnh vực của hiện thực và đó là một hiện thực luôn vận động: từ truyền thống đến hiện đại, từ thế giới hữu hình đến vô hình, từ hiện thực cuộc đời đến hiện thực tâm linh… Sự vận động này vô cùng linh hoạt và biến sinh theo sự biến đổi của đời sống. Nó phiêu bồng và chuyển dịch như cuộc đời của thi nhân. Chính vì lẽ đó, Nam Chữ cho rằng: “Phần lớn, đề tài trong thi ca Bùi Giáng còn phức tạp hơn cả người ta tưởng tượng được. Nó còn đảo lộn hơn cả cái người ta hiểu. Nghĩa là đã có một sức cảm quan như vượt qua sự rung động thuận lợi của một cá nhân hơn là một con người” (26). Vì vậy, cũng theo Nam Chữ hành trình tiếp nhận thơ Bùi Giáng cũng là một hành trình đi từ chối bỏ đến tham dự, từ ngoại vi đến trung tâm… Và đây là một hành trình lâu dài.

    Ta hãy nghe Nam Chữ giãi bày hết sức thành thực về hành trình tiếp nhận thơ Bùi Giáng trong đời sống văn học lúc bấy giờ: “Một trường hợp rất bi đát nhưng có thực trong đất nước Việt Nam này, chúng ta có ngờ nỗi đâu một người suốt đời tận tụy với nghệ thuật, đã có hơn mấy chục tác phẩm được in ra (tiểu luận, phê bình, dịch, thi ca…) giờ đây lại thêm một mớ tóc trắng phất phơ về chiều, trừ một số rất ít chịu thần phục, thơ ông, lại gần như không có độc giả… Một vài tác phẩm, nhất là về thi ca cái giá trị đúng mức của nó, lần đầu tiên xuất hiện đã không được đón nhận rộn rịp như một số thi sĩ trước ông và sau ông vài năm. Thực ra phải đợi đến nhiều năm, gần 10 năm sau tác phẩm thơ ca của ông ra đời người ta mới hốt hoảng và tìm đọc lại những tác phẩm trước kia của ông” (27). Phải chăng, đây cũng là qui luật hằng thường trong tiếp nhận các hiện tượng văn học của người đời. Đến nỗi, một thiên tài như Nguyễn Du mà còn phải thở than: Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như… nghe sao mà chua chát thế!

    Và cũng theo Nam Chữ cách lập ngôn của Bùi Giáng “là cách ông muốn im lặng đến cùng. Ông muốn nói một thứ tiếng nói im lặng, chẳng ai hiểu ông cả. Trừ phi một người nào đó trong chúng ta cùng đứng trên vực thẳm lặng lờ như ông, cùng nhìn xuống đáy sâu không đáy kia.” (28). Theo chúng tôi cái im lặng của Bùi Giáng là im lặng của một người đã đốn ngộ. Và ông dùng thơ ca để chuyển tải sự im lặng của mình như một ứng phó trước những nhiễu nhương của cuộc đời mà ông chỉ dự phần như một kẻ bên lề.

    Song, cuộc đời đã không để Bùi Giáng sống trong lặng im. Bởi càng ngày, người yêu thơ Bùi Giáng, người quí mến, kính trọng văn tài của Bùi Giáng càng nhiều và luôn có sự tiếp nối giữa các thế hệ mà Hội thảo khoa học kỷ niệm 15 năm ngày mất của ông hôm nay là một minh chứng. Đây có phải là niềm hạnh phúc với ông chăng?! Bởi như Trần Tuấn Kiệt trong bài viết chung quanh vấn đề Bùi Giáng đã xác quyết: “Ta có thể so sánh con người Bùi Giáng ngày nay với Đức Phật thời Ngài mới bắt đầu thuyết pháp ở vườn Lộc Uyển. Trong khi đó ma vương quỉ sứ và môn đệ Bà La Môn giáo đến châm chích đủ điều. Nhưng Đức Phật vẫn là Đức Phật và ma quỉ gì đó vẫn là ma quỉ” (29)

    3.Có thể nói, Bùi Giáng hiện hữu giữa đời như một ngôi sao lạ, mà theo thời gian, hào quang của nó chắc chắn sẽ còn mãi tỏa sáng. Cuộc đời và văn nghiệp của ông có thể còn những uẩn khúc, những bí mật cần được giải mã. Song một điều, ai cũng phải thừa nhận đó là tài năng của ông.  Những tháng năm còn “làm kiếp con người” (từ dùng của TCS), Bùi Giáng chẳng có gì cả: học vị, học hàm, địa vị xã hội, tài sản… nghĩa là ông không có một chút lợi danh gì cả ngoài những ngày tháng phiêu bồng. Ông là một người “vô sản” đúng nghĩa chứ không phải là những người “vô sản” chỉ được phủ một lớp vỏ danh từ. Nhưng tài sản mà ông để lại cho đời thật vô giá nhất là sự nghiệp thơ ca của ông mà nói như Tạ Tỵ: “Bùi Giáng không nói gì cả, nhưng toàn bộ thi phẩm của Bùi Giáng đã khơi động một trời thơ rộng rinh, bát ngát. Thi nhân không dấn thân vào đâu hết, coi cuộc đời như cõi dong chơi tạm bợ. Làm thơ cũng là đi vào thơ như đi vào cõi vô định. Không có chọn lựa hay thử thách chỉ có xúc cảm và ngôn ngữ giao thoa, diễn đạt những gì ám ảnh trong hồn” (30)

    Văn nghiệp của ông dù trải qua những biến thiên của cuộc sống nhưng nó vẫn vượt qua mọi giới hạn, mọi rào cản của đời sống chính trị xã hội để tồn sinh với cuộc đời. Bởi lẽ, cái làm nên giá trị văn chương của Bùi Giáng không chỉ có ở tài năng của ông mà còn ở tấm lòng của ông đối với quê hương đất nước. Và theo Trần Hữu Cư cảm hứng “tư cố hương” là một niềm khắc khoải không nguôi trong thơ Bùi Giáng. Vì vậy “Tất cả những gì ông làm trong thơ, viết lách, dịch thuật…v…v… tất cả đều làm một cuộc lên đường tìm lại một “màu hoa trên ngàn”, một “tình yêu quê hương” cho thời hiện tại, thời mà chúng ta đang sống trong nỗi mất quê hương” (31) Phải chăng đây là cái gốc tạo nên hệ giá trị nhân bản của mọi sáng tạo nghệ thuật của Bùi Giáng trong đó có thơ ca mà theo Cao Thế Dung đó là “biết yêu sự thực, biết quí trọng những gì cao đẹp trong con người, tình yêu, nghệ thuật” (32)

    Chính giá trị nhân bản này là bệ phóng chắp cánh cho hành trình sáng tạo của ông và nó cũng là nhân tố kết nối ông với cuộc đời, với con người, làm cho văn nghiệp của ông nói chung và thơ ca nói riêng sẽ vượt lên mọi giới hạn để mãi mãi tỏa hương trong  cuộc đời. Và có thể nói, Bùi Giáng là người đã vượt qua giới hạn của vận mệnh con người và định mệnh nghệ thuật để vươn đến sự bất tử thường hằng như những câu thơ giản dị mà đầy tính triết luận của ông:

                                    Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu

                               Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa.

                                   Gọi tên rằng một, hai, ba

                             Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.

    ____________________________________________________

    Chú thích:

    *: TS, Đại học Văn hóa

    (1) (2) (7) (9) (12) (13) (14) (16) (25) (30) Tạ Tỵ, Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay, Lá Bối xuất bản, Sài Gòn 1973, tr.583 – 584, tr. 563, tr.557, tr.568, tr.571, tr.575, tr.575, tr.579, tr.563, tr. 587.    

    (3) (19) Nguyễn Đình Tuyến, Những nhà thơ hôm nay, Nhà văn Việt Nam xuất bản, Sài Gòn 1967, tr.18, tr.17.

    (4) Thanh Tâm Tuyền,  “Bùi Giáng, hồn thơ bị vây khổn”, Văn số 11, ra ngày 18 /5/ 1973,  tr.8

    (5) (6) (15) (20) (21) (32) Cao Thế Dung, Văn học hiện đại thi ca và thi nhân, Quần chúng xuất bản, Sài Gòn 1969, tr. 42; 42, tr.44,  tr.48, tr.48, tr.48

    (8) (31) Trần Hữu Cư, “Bùi Giáng trên đường về cố hương”, Văn 11, ra ngày 18 /5/ 1973, tr.69, tr.56

    (10) Tuệ Sỹ,  “Thi ca và tư tưởng”, Văn số 11 ra ngày 18/5/1973, tr.27

    (11) (18) Cao Huy Khanh “Bùi Giáng, cải lương ca” Văn 11, ra ngày 18 /5/ 1973 tr.60, tr.65

    (17) (26) (27) (28) Nam Chữ, “Bùi Giáng, về cố quận”, Văn 11, ra ngày 18 /5/ 1973  tr.45, tr.43, tr.43, tr.48

    (22) Trần Hoài Anh , Thơ – Quan niệm và cảm nhận, Nxb. Thanh niên, H, 2010, tr. 280

    (23) Uyên Thao, Thơ Việt Nam hiện đại 1900 – 1960, Hồng Lĩnh xb, Sài Gòn 1969, tr.455

    (24) Thục Khưu, “Ẫn ngữ, cung bậc thi ca”, Văn 11, ra ngày 18 /5/ 1973, tr.74

    (29) Trần Tuấn Kiệt, “Chung quanh vấn đề Bùi Giáng”,Văn 11, ra ngày 18/5/1973, tr. 79

    *****

    Theo Internet

  • Tác giả và Tác Phẩm

    Chị Thanh


    S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

    L.T.Đ: Nếu chỉ được phép ghi danh một người viết văn và một người làm thơ ở đất cảng Hải Phòng (thôi) tôi sẽ chọn Bùi Ngọc Tấn và Nguyễn Thị Hoài Thanh. Cả hai đều qua đời ở tuổi bát tuần, và đều đã trải qua một kiếp nhân sinh với rất nhiều gian truân và cay đắng. Nhà văn BNT từ trần năm 2014. Hôm nay, chúng tôi vừa nhận được tin (muộn) thi sĩ N.T.H.T cũng đã từ giã cõi đời vào ngày 20 tháng 2 – 2020. Với chế độ hiện hành, có lẽ, bà là một nghệ sĩ có cuộc sống trầm lặng (và trầm luân) nhất. Bài viết ngắn sau xin được coi như một nén hương lòng gửi người đã khuất.

    Trong những phụ nữ thuộc thế hệ chị và mẹ của mình, tôi thương nhất chị Thanh và dì Bẩy. Khi còn đôi tám, người ta thường gọi dì là con Bẩy.
    “Giọng hát của con Bẩy đưa đò khi cất lên cao thì cao hơn tầm bay bổng của con cò, con vạc, cao vút tận mấy vì sao đêm lấp lánh; giọng ấy lúc buông trầm xuống thì như hơi gió xao động cả dòng sông, chuyển rung mặt nuớc.” (Sơn Nam. “Con Bẩy Đưa Đò”. Hương Rừng Cà Mau. 51-52*).

    Tài sắc, cũng như đức hạnh, không mấy khi mang lại hạnh phúc và may mắn cho những kẻ sinh ra trong thời ly loạn. Cuộc đời cô Bẩy (rất) không may và (hoàn toàn) không hạnh phúc.
    Lúc còn thanh xuân, cô gặp (và yêu) một chàng trai trên dòng Cái Lớn. Chàng từ Bình Thủy xuống, đẹp trai, lịch thiệp, và hò hát cũng rất hay. Chỉ có điều đáng tiếc là người ta không phải loại “thường dân” nên không chịu cùng cô Bẩy kết duyên đôi lứa và sống an phận thủ thường (như những đám lục bình trôi) nơi ao hồ sông rạch.
    “Nghe qua con Bẩy bùi nghùi tấc dạ; từ chỗ kính mến đến chỗ yêu thương chàng trai đó cũng không xa mấy. Con Bẩy nhìn vầng trăng khuyết vừa hé lên khỏi ngọn bần.

    • Bao giờ chàng trở lại em xin chờ.
      Chàng cười mà đáp:
    • Cảm ơn.
    • Lời em hứa là chắc. Hay là chàng không tin nơi lời nguyền của gái đưa đò.
    • Đâu phải vậy. Chỉ sợ tôi không giữ đúng lời hứa … Chí trai bốn biển là nhà…
      Dứt lời chàng đứng dậy cất mái chèo. Con Bẩy xúc động rưng rưng nước mắt. Duyên may một đời chưa chắc gặp hai lần.
    • Vậy thì xin chàng dậy cho em một hai câu hò để em nhớ đời.
    • Cô hò đã hay mà lại có duyên. Tôi còn biết gì mà dậy thêm. Họa chăng chỉ có một tấm lòng này…Một tấm lòng! Con Bẩy mãi suy nghĩ về ba tiếng đó, chừng giựt mình nhìn lại thì chàng đã khuất dạng trong lớp sương khuya.” (Sơn N. sđd, trang 57).

    Con Bẩy chờ hoài, chờ hủy nhưng người xưa không quay về bến cũ. Thời gian thì đâu có chịu đợi ai. Tuổi đời khiến con Bẩy Đưa Đò trở thành một phụ nữ bán thịt tại chợ Vàm, ở ven sông. Thịt luộc của dì Bẩy nổi tiếng là “ngon hết biết” luôn.

    Một hôm, có người năn nỉ xin chỉ cho cách luộc thịt. Dì Bẩy thoáng ngậm ngùi:
    “- Cái việc hò hát cũng như cái việc luộc thịt heo vậy. Ai làm cũng được. Cách thức dễ ợt. Nhưng mà công phu lắm.

    • Công phu là thế nào dì Bẩy?
    • Ở đây, hồi đó có người nói là cần một tấm lòng.” (Sơn Nam. sđd tr.59).
      Chao ơi, một tấm lòng! Sống không có (ngó) cũng kỳ mà có thì phiền lắm và (đôi khi) phiền lớn. Cũng như dì Bẩy, chị Thanh lao đao lận đận – suốt cả cuộc đời – cũng chỉ vì một tấm lòng thủy chung, và đôn hậu của mình.

    Tương tự như thủ đô Lisbon của Bồ Đào Nha (vào đầu thập niên 1940) nơi mà nhiều người dân Âu Châu đã tìm đến, với hy vọng có cơ may chạy thoát khỏi sự săn đuổi chủ nghĩa phát xít. Hải Phòng, hồi đầu thập niên 50, cũng thế. Cũng là ngưỡng cửa của sự tử sinh.
    Hàng triệu người Việt muốn lánh nạn cộng sản cũng đã tìm đến bến cảng này, với hy vọng tìm được một con tầu để đưa họ vào Nam. Chỉ riêng Nguyễn Thị Hoài Thanh quyết định ở lại thôi. Bà Nguyễn Thị Thêu kể lại: “Sau hiệp định Geneve chia đôi đất nước, gia đình tôi ra Hải Phòng để chờ ngày di cư vào Nam. Hoài Thanh vốn là người Hải Phòng nên ba tháng hè chúng tôi thường xuyên gặp nhau. Tôi rủ Hoài Thanh di cư vào Sài Gòn nhiều lần, nhưng Hoài Thanh bảo: “Tao chờ anh Trúc ở ngoài kháng chiến về.” (Nguyễn Thị Hoài Thanh. “Luyến Tiếc”. Hoa Phượng. Tiếng Quê Hương: Virginia, 2007).

    Không ai trở lại, như chị Thanh (và dì Bẩy) đã mong ngóng cả. Người đời rồi cũng dần lãng quên cái giọng hát “khi cất lên cao thì cao hơn tầm bay bổng của con cò, con vạc, cao vút tận mấy vì sao đêm lấp lánh” của cô gái đưa đò (xuân sắc) năm xưa. Thời gian cứ để mặc cho dì Bẩy sống mãi trong lặng lẽ và cô đơn, cạnh một bến sông êm đềm, ở miền Nam.

    Chị Thanh, buồn thay, đã không có được sự “may mắn” tương tự như dì Bẩy hồi mấy muơi năm trước. Cái giá mà chị phải trả cho tấm lòng trung hậu của mình mắc mỏ hơn nhiều. Ở miền Bắc, nơi mà (miếng thịt lợn chao ơi là vĩ đại, miếng thịt bò vĩ đại gấp hai) thịt thà được phân phối độc quyền bởi nhà cầm quyền nên chị Thanh đành phải bán than:
    Em lội giữa đống than như con cá mắc cạn
    Cố vẫy vùng cho vượt khỏi gian truân…
    (Chu Tất Tiến. “Viết Về Một Người Mang Tên Nguyễn Thị Hoài Thanh.” Hoa Phượng. Tiếng Quê Hương: Virginia, 2007).

    Sống “trong lòng cách mạng” mà muốn “vượt khỏi gian truân” thì e là điều bất khả. Lý lịch trích ngang của Nguyễn Thị Hoài Thanh được Bùi Ngọc Tấn tóm tắt, như sau: “Có việc gì mà không trải qua. Hãy kể những việc chính:
    “Công nhân xi măng, thợ điện Hải Phòng điện khí, thợ điện công ty xây lắp, công nhân bóc lạc công ty xuất nhập khẩu, đứng máy bào cuốn xí nghiệp gỗ Trương Công Định, công nhân công ty xếp dỡ, cấp dưỡng công ty vật liệu kiến thiết, súc sạc ắc qui Công Ty Quốc Doanh Đánh Cá Hạ long… Đó là chưa kể còn đi giao bánh rán, bánh mì, kẹo lạc, làm và bán nước mắm … Đồng luơng không đủ nuôi mình mà còn phải nuôi con.” (Bùi Ngọc Tấn. “Một Mơ Ước Về Kiếp Sau.” Viết Về Bè Bạn. Tiếng Quê Hương: Virginia, 2005).

    Chưa hết, còn có “huyền thoại” là chị Thanh có hai ông anh đã di cư: Nguyễn Xuân Vinh và Nguyễn Cao Kỳ. Cả hai đều (từng) là tư lệnh không quân của miền Nam. Huyền thoại này chỉ đúng năm chục phần trăm. Quả thực, chị là em của ông Nguyễn Xuân Vinh. Ở miền Bắc, có một ông anh cỡ đó cũng đủ chết (bà) rồi. Đâu cần đến cả hai.

    “Dường như biết rằng có những dư luận bất lợi cho mình và mọi người nhìn mình bằng con mắt nghi kỵ xa lánh nên chị không chủ động thân thiết gần gũi với một ai.” (Bùi N.T. sđd, trang 99).
    Chị sống thui thủi một mình là phải:

    Sau hổi kẻng tan ca
    Tôi ngã vào vòng tay lạnh lẽo của mùa đông.

    Đời sống cái gia đình nhỏ bé của riêng chị Thanh lại là một thảm kịch khác. “Thời con gái chị vốn xinh đẹp. Nhất dáng nhì da. Chị được cả hai. Nhưng hồng nhan đa truân. Hai lần kết hôn, hai lần ly dị. Vẻ đẹp của tuổi ba muơi đang chín. Cái sắc đẹp không chủ đã gây cho chị biết bao nhiêu khó khăn, nhiều khi cả nguy hiểm nữa… Hình như Nguyễn Thị Hoài Thanh sinh ra là để gặp rắc rối và vuợt qua những rắc rối khó khăn. Chịu đựng và vượt qua một cách thản nhiên bình tĩnh, không kêu ca như cuộc đời vốn như vậy.” (Bùi N.T. sđd, trang 101 -104).

    Thì quả đúng “như vậy” thật nhưng sao, đôi lúc, tôi vẫn nghe dườg như có tiếng chị thở dài – dù (rất) khẽ:
    Sông Cấm ơi! Sông như người bạn mới quen
    Thân thiết thế mà sao không hiểu được
    Chiều tan ca tôi đi bên dòng nước
    Sông với tôi, với bóng là ba
    Bóng tôi nghiêng với bao la
    Sông mang về biển
    Bóng tôi còn nguyên vẹn không sông?

    Sông Cấm, đã có lúc, mang “nguyên vẹn” hình bóng của người thơ ra biển nhưng chị Thanh đã không giữ được nguyên vẹn hình hài của chính mình: “Tai nạn xẩy ra ngay ngã Sáu, gần nhà tôi. Chị nằm ngất trên đường mưa dầm ngày tết, mặt đường sền sệt một thứ nước bùn hoa. Cánh tay dập nát, xương gẫy… Chị bảo người nhà xin cho người tài xế đã gây ra tai nạn vì người ta không cố ý, người ta cũng khổ như mình.” (Bùi N.T. sđd, trang 111-112).

    Sau đó, sau khi bị thương tật – ở tuổi sáu muơi – chị Thanh sẽ không bao giờ còn được “khổ như” nhiều người dân Việt (trung bình) khác nữa. Có lẽ, chỉ còn có cách ăn xin để sống còn – như chị đã từng nghĩ thế. Nhưng lòng tự trọng quá lớn đã không cho phép chị Thanh làm như vậy. Loay hoay một thời gian rồi chị cũng nghĩ ra một cách sinh nhai khác, lịch sự hơn: chị vào Nam đi … mót!

    Với dân Việt thì gặt lúa, bẻ bắp, rỡ khoai, rỡ lạc là những sinh hoạt quen thuộc hàng ngày. Mót lúa, mót bắp, mót khoai, mót lạc …cũng là những sinh hoạt quen thuộc khác – với những nông dân khốn khó hơn, như trường hợp của chị Thanh. Có chiều, ở Đồng Xoài, trong khi chờ người ta thu hoạch xong (để mót lạc) chị đang ngồi chơi vẩn vơ đùa nghịch với những cây hoa mắc cở thì ý thơ chợt đến:

    Chiều lặng ngồi bên cây xấu hổ
    Lá thẹn thò sau đám cỏ rối bời
    Hãy ngoảnh mặt lại đây
    Có gì đâu mà mắc cở
    Chỉ mình ta bầu bạn với ta thôi.

    Có gì đâu mà mắc cở? Vậy mà tôi cứ xấu hổ mãi, sau khi đọc xong tập thơ Hoa Phượng – nhất là những bài chị Thanh viết về Di Linh, Đức Trọng, Tùng Nghĩa … Đó là những địa danh mà tôi cũng đã từng sống qua, một cách rất vô tình, và đã đành đoạn bỏ đi – cũng vô tình không kém!

    Chị Thanh thì khác. Từ Bắc vào Nam, không một người thân quyến, chị không đi để “nhận họ nhận hàng” với bất cứ ai. Chị bước qua tất cả những vùng đất xa lạ của quê hương, với tất cả sự hồn nhiên và bằng một tấm lòng phơi phới:

    Khi ta đến Di Linh chiều rất trẻ
    Tiếng nắng về dát bạc dưới lòng thung…

    Chị Thanh đến mọi nơi với tất cả sự thiết tha, và khi chia tay cũng vô cùng tha thiết:

    Tạm biệt nhé Di Linh thôi chào nhé
    Ở chưa quen đã vội vã ra về …

    Trong chị Thanh chỉ có một tấm lòng, chứ tuyệt nhiên không có “những bức tường lòng” phân cách Bắc/ Trung? Nam – như rất nhiều người Việt khác. Tình cảm của chị tinh khiết, trong veo, và tươi mát tựa như dòng nước của một con suối nhỏ – róc rách, len lách – khắp mọi miền của tổ quốc thân yêu. Bởi thế, dù không biết chính xác chị được chôn cất nơi nao tôi vẫn tin rằng ở bất cứ đâu thì đất nước này cũng đều hân hoan ấp ủ hình hài của người thơ đa cảm, tài hoa, và chuân truyên nhất của dân tộc. Vĩnh biệt Nguyễn Thị Hoài Thanh. Em mong chị mãi mãi được an nghỉ trong an lành và thanh thản!

    Tưởng Năng Tiến


    (*) Sách được in lại (và in lậu) tại hải ngoại, tuyệt nhiên không có ghi một chi tiết nào về nhà xuất bản hay năm xuất bản.

    https://www.rfavietnam.com/node/6266

  • Tác giả và Tác Phẩm,  Tài liệu

    Sinh hoạt văn học miền Nam trước 1975

    Sinh hoạt văn học miền Nam trước 1975

    Nhân thời điểm 30 tháng Tư, nhà báo Đinh Quang Anh Thái ghi lại các buổi trò chuyện ông đã thực hiện với một số nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ hiện đang sống tại Việt Nam hay đã ra hải ngoại, để biết ký ức và cảm nhận của họ về cái ngày “làm cho triệu người vui và triệu người buồn” này.

    VOA

    VÕ ĐẮC DANH là người cầm bút đã thành danh ở Việt Nam sau 1975. Anh viết nhiều, các tác phẩm tiêu biểu cho ngòi bút sắc bén của Danh là Nỗi Niềm U Minh Hạ, Đồng Cỏ Chát, Thế Giới Người Điên, Canh Bạc, Đồi Chợ Chợ Đời…

    Võ Đắc Danh tại căn nhà ở Nam California Tháng Giêng 2020. (Hình: Đinh Quang Anh Thái)
    Võ Đắc Danh tại căn nhà ở Nam California Tháng Giêng 2020. (Hình: Đinh Quang Anh Thái)

    Danh sinh ra trong một gia đình “rặt cộng sản.” Nói theo cách của nhà văn Lê Phú Khải trong cuốn Lời Ai Điếu “những lần họp mặt gia đình ngày giỗ tết, trừ cái cột nhà, ai cũng là đảng viên cộng sản.”

    Vậy mà tối 30 Tháng Tư 2019, ngồi với nhau tại nhà tôi, Danh nâng chén rượu, giọng dưng dưng nói “anh em mình cùng mất nước; anh Thái mất miền Nam, còn tui, Việt Nam bây giờ không còn là Việt Nam của tui nữa.”

    Tôi bảo Danh, thực ra đất nước mình nào có mất, mà chỉ bị một tập đoàn cưỡng chiếm, cướp đoạt khát vọng của người dân muốn được sống đúng nhân phẩm.

    Lần đầu gặp Danh năm 2011, Danh dẫn theo con gái đang học bên Mỹ, anh bảo con “tía muốn con nghe câu chuyện của những người như bác Thái để hiểu tại sao đất nước mình thống nhất mà nhiều người phải bỏ nước ra đi như vậy.”

    Danh chào đời vào thời điểm chiến tranh ác liệt nhất; và lớn lên ở Cà Mau, trong vùng “giải phóng”, những phần đất mà Việt Nam Cộng Hòa gọi là vùng mất an ninh hoặc vùng Việt Cộng. Danh nói, phía Việt Cộng gọi vùng Quốc Gia là vùng Ngụy quân Ngụy quyền hoặc là vùng “tạm chiếm.”

    Tháng Giêng 2020, từ Xẻo Lá gần Sài Gòn, vợ chồng Danh chạy ngược chạy xuôi lo mua vé máy bay để sang Mỹ ‘trốn dịch Covid 19” đang có nguy cơ bùng phát ở Việt Nam và để đoàn tụ với 2 con gái đã định cư tại Nam California từ nhiều năm qua.

    Đến thăm Danh, vợ Danh nấu cho ăn mấy món thuần quê Nam Bộ: Cá kèo kho tiêu, canh bầu, thịt luộc chấm mắm ớt. Câu chuyện miên man dẫn đến đề tài sinh hoạt văn hóa của miền Nam trước 1975, Danh nói, ba Danh và cả dòng họ đều đi theo kháng chiến. Ba của Danh hồi ấy là xã ủy viên, trưởng ban binh vận xã nên nhà Danh thường là điểm hội họp của cơ quan ba Danh và có khi cũng là điểm họp của xã ủy. “Vì thế mà những câu nói mang tính ‘thời sự’ của mấy chú, mấy bác sớm gieo vào trí nhớ tôi đến mức thuộc lòng. Những buổi tối, tôi hay bày ra một trò chơi, lấy gối chất thành một vòng tròn trên giường giả làm các ‘nhân sự’ trong cuộc họp, và tôi đóng vai người lãnh đạo, phát biểu với các ‘đồng chí’ trong chi bộ.”

    Giọng “rặt” Nam Bộ, Danh hồi tưởng nguyên văn lời đã từng phát biểu trong trò chơi thời thơ ấu: “Thưa các đồng chí, vùng nông thôn giải phóng của chúng ta tuy còn nhiều khó khăn, tuy còn phải chịu mất mát đau thương bởi bom đạn của quân thù, nhưng chúng ta không khổ bằng hàng triệu đồng bào ta ở các đô thị miền nam đang chịu đựng sự kềm kẹp của đế quốc Mỹ, từng ngày, từng giờ họ đang chờ chúng ta về giải phóng . . .”

    Tuổi thơ của Danh gắn liền với hình ảnh các “chú Việt Cộng” đêm đêm đem súng về làng. Sau đó, vì chiến tranh ngày càng leo thang, mẹ Danh gởi Danh về quê ngoại để đi học trường tiểu học cộng đồng ở một vùng “tạm chiếm”. Danh nói, gọi là vùng tạm chiếm nhưng chỉ cách tỉnh lỵ An Xuyên chưa đến mười cây số. Một vùng ven trù phú và rất bình yên. Thỉnh thoảng có mấy anh mặc đồ đen từ ngoài chợ chạy xe đạp vô dạy đám trẻ cùng tuổi với Danh múa hát, và gọi là đoàn thiếu nhi nông thôn. Sau mỗi buổi sinh hoạt, ông xã trưởng mặc quân phục tới phát cho đám mỗi đứa một ổ bánh mì, ông luôn dặn dò các em phải cố gắng học giỏi, phải biết vâng lời ông bà cha mẹ, phải biết lễ phép với người lớn tuổi, phải biết ôn hòa với bè bạn và em út trong gia đình. Có khi ông đến sớm và cùng vỗ tay và hát với đám Danh:

    Em là đoàn thiếu nhi nông thôn
    Cùng vui sống bên bờ tre ruộng đồng
    Em là đoàn thiếu nhi nông thôn
    Biết mến yêu quê mình
    Em áo rách nhưng lòng không rách
    Em biết yêu cha mẹ khó nhọc
    Đổ mồ hôi cho nhà em no ấm
    Đổ mồ hôi cho đồng thêm lúa xanh

    Danh nói, hàng năm, khi bãi trường thì Danh lại khăn gói về quê, tạm biệt ngôi trường, tạm biệt “vùng tạm chiếm” để về với gia đình ở “vùng giải phóng”.

    Danh kể “Những chiều êm tiếng súng giao tranh, các anh bộ đội thường ra xóm vui chơi với bà con, tối tối, các anh thường gọi mấy đưa trẻ chúng tôi lại quây quần dạy múa hát:

    Qua miền Tân Đức cây là dừa xanh mát
    Bóng tre vườn cau đã chứa bao hờn căm
    Bộ đội ta về đây giải phóng quê nhà
    Quân với dân một lòng
    Cùng đồng tâm tiêu diệt hết quân thù

    Sau ba tháng hè, ngày tựu trường lại đến, tôi lại trở về ‘vùng tạm chiếm’, lại hát:

    Em là đoàn thiếu nhi nông thôn
    Em biết yêu cha mẹ khó nhọc . . .

    Và cứ thế, tuổi thơ tôi cứ trôi theo dòng chảy của cuộc đời như đám lục bình trôi theo dòng nước, không thể lựa chọn bến bờ.

    Thế rồi cái dòng chảy ấy dừng lại thành cái mốc lịch sử 30 Tháng Tư như cái định mệnh cho ” triệu người vui và triệu người buồn.”

    Danh uống nhiều, và trong vài ba lần gặp nhau, lúc ngà ngà hơi men, có khi Danh còn hát vọng cổ cho tôi nghe. Chất giọng mạnh, sang sảng, Danh hát bài “Ghe Chiếu Cà Mau” hay tuyệt.

    Hỏi Danh về kỷ niệm nào đáng nhớ nhất trong ngày 30 tháng Tư năm 75, Danh nói, lúc hơn 10 giờ trưa, “tôi ôm chiếc radio, mở hết volume chạy trong mưa, chạy dài theo xóm, vừa chạy vừa la: Dương Văn Minh đầu hàng rồi bà con ơi ! Giải phóng rồi bà con ơi! Nhưng rồi sau đó không lâu, bỗng một ngày, mấy đứa bạn học cùng trường cùng lớp với tôi mặt mày biến sắc, có đứa khóc ròng vì một sự cố xảy ra: Đánh tư sản! Đang giàu có bỗng trở thành kẻ trắng tay, đang nhà cao cửa rộng bỗng trở thành kẻ vô gia cư. Đứa thì theo cha mẹ vô sân chùa căng lều che mưa che nắng, đứa về quê tá túc với họ hàng, đứa vượt biên, đứa bỏ thây ngoài biển.

    Tôi rùng mình nhớ lại trò chơi tuổi thơ, giả làm lãnh đạo phát biểu hùng hồn với mấy chiếc gối quanh giường: . . . Thưa các đồng chí, vùng nông thôn giải phóng của chúng ta tuy còn nhiều khó khăn, tuy còn phải chịu mất mát đau thương bởi bom đạn của quân thù, nhưng chúng ta không khổ bằng hàng triệu đồng bào ta ở các đô thị miền nam đang chịu đựng sự kềm kẹp của đế quốc Mỹ, từng ngày, từng giờ họ đang chờ chúng ta về giải phóng . . .”

    ***

    TUẤN KHANH từng tốt nghiệp Nhạc Viện ở Sài Gòn bộ môn flute và sáng tác nhạc từ năm 17 tuổi. Nhiều năm gần đây, anh là Facebooker nổi tiếng với rất nhiều bài viết nêu lên những thảm trạng của đất nước và con người Việt Nam, và vạch trần những dối trá của chế độ. Có lần, nhà báo Huy Đức, tác giả cuốn Bên Thắng Cuộc, nói với tôi, Khanh viết hay đến độ, nhiều người trong giới cầm bút ở Sài Gòn nói với nhau, sáng sáng thức dậy mong đọc bài của Khanh.

    Tuấn Khanh (hình Uyên Nguyên)
    Tuấn Khanh (hình Uyên Nguyên)

    Mỗi lần Khanh từ Việt Nam sang Mỹ thăm gia đình, chúng tôi thường tìm đến nhau để hỏi han tin tức “quê nhà quê người.” Những đêm trò chuyện, nghe Khanh nói, tôi có cảm tưởng lửa đang hừng hực cháy trong lòng Khanh khi Khanh bày tỏ nỗi phẫn uất về những chuyện xảy ra cho người dân trong nước.

    Năm nay, dịch Covid 19 đang tàn phá nhiều quốc gia, không thấy Khanh sang chơi. Tôi email về Sài Gòn hỏi Khanh, rằng trong mắt Khanh, sinh hoạt văn học miền Nam ra sao, Khanh email trả lời:

    Mùa hè năm 2000, trong một lần trò chuyện với một biên tập viên văn học có tên tuổi từ miền Bắc vào, tôi có nhắc đến việc sắp kỷ niệm 3 năm mất của Bùi Giáng, một thi sĩ lừng danh của miền Nam.

    Đó là lần trò chuyện tổn thương đến mức, tôi không sao quên được. Người biên tập viên đầy ắp các tác phẩm văn học cổ điển của Pháp, Đức và Nga đã cười nhẹ, như chừng thương hại tôi ‘Nói thật, Bùi Giáng có gì đâu mà xuất sắc. Chỉ là người miền Nam mấy anh cứ nống lên.’ Tôi sững người, vì chưa bao giờ trong đời đối mặt với một sự phủ nhận tàn khốc đến vậy. Sự phủ nhận cứ như xô tôi – một người miền Nam hoàn toàn trung dung – vào bờ biển như một người bị đắm tàu, trôi dạt và kiệt sức. Để thuyết phục tôi về sự vĩ đại của nền văn học miền Bắc, người biên tập viên ấy kể không ngớt về Nguyễn Khải, Nguyễn Tuân, Xuân Quỳnh, Viễn Phương… tôi im lặng nghe, nhưng trong đầu cứ quay cuồng với suy nghĩ về cái hố sâu thẳm chia rẽ nhận thức của người Việt với người Việt đến vậy. Nhưng tôi quyết định không thuyết phục người đối diện. Bởi, văn hóa hay tri thức, là điều phải tự đến, không phải bằng thắng ở một cuộc tranh cãi.

    Gần 10 năm sau, tôi gặp lại người biên tập viên ấy, ở đường sách Sài Gòn đối diện Vương Cung Thánh Đường, nơi các nhà sách đương thời xếp hàng nhau trưng bày các ấn phẩm mới. Nhưng nơi đó, đặc biệt có những quầy sách cũ của miền Nam Việt Nam trước 1975, lúc nào cũng có người cắm cúi tìm, lật, đọc. Người biên tập viên ấy cười, chào và nói anh đang tìm mua một số sách cũ. ‘Ở đây thì đắt nhưng còn chịu được, chứ bọn con buôn vác ra Hà Nội thì đắt gấp mấy lần.’ Trong những chồng sách cũ ấy, có đủ các tác giả được nhà nước cho phép lẫn không vui khi thấy tên. Tôi kéo ra cuốn Hoàng Tử Bé của nhà văn Pháp Antoine De Saint-Exupéry do Bùi Giáng dịch, và nói rằng bao nhiêu năm đọc lại vẫn thú vị. ‘Vâng, Bùi Giáng thì siêu rồi,’ người biên tập viên ấy nói, hào hứng.

    Tôi không nhắc lại câu chuyện mà tôi như bị rạch trong tim từ 10 năm trước. Như vậy chắc là đủ. Nhận thức là thời gian, và sự khác biệt của văn học miền Nam là thấm sâu và chiếm trọn trái tim, không cần một sự thuyết phục nào. Văn hóa miền Nam bị giằng xé rách rưới, đứng giữ đống bùn lầy, vẫn mỉm cười kiêu hãnh, bất chấp đạo quân chiến thắng năm 1975 đã trút mọi căm thù lên bằng cách đốt, cấm, bắt cả những người viết sách đi tù.

    Tôi được nghe rằng sau năm 1990, có một chỉ đạo từ Hà Nội, rằng những gì mà miền Nam đã có, nguồn lực của chế độ mới có thể thay thế, thì phải ra sức thay, để nhấn chìm văn hóa miền Nam vào quên lãng. Chẳng hạn như sách dịch: cuốn Hoàng Tử Bé, bản gốc Le Petit Prince của nhà văn Pháp Antoine De Saint-Exupéry do Bùi Giáng dịch được thay bằng bản mới là Hoàng Tử Nhỏ. Bố Già, nguyên tác The Godfather của Mario Puzo, bản dịch của Ngọc Thứ Lang, thì được thay bằng bản mới là Ông Trùm. Đỉnh Gió Hú, nguyên bản của Emily Bronté do Nhất Linh chuyển sang Việt ngữ thì thay bằng Đồi Gió Hú…

    Rõ ràng, có một chủ trương muốn thay thế và cào bằng đối với văn học miền Nam, nhưng có vẻ như sức sống của một giai đoạn văn chương và tri thức của hai nền Cộng Hòa vẫn đứng vững. Những ấn bản được nhặt lên từ bùn lầy, bị xô giật rách rưới, vẫn tỏa sáng kỳ lạ đến tận hôm nay.

    Chuyện kể, để thay sự diễn giải khô cằn. Và thú vị thay, tôi còn nhìn thấy những người bạn trẻ quanh mình, từ phía Bắc, lớn lên và được tắm mát từ những gì đã bị phế bỏ ấy.

    ***

    THÚY HÀ, từng có thời làm thư ký tòa soạn báo Phụ Nữ của đảng. Sau đó Thúy Hà lấy chồng là con một ông sĩ quan “ngụy” cao cấp, cùng chồng sang Mỹ định cư. Hà viết nhiều, và đã viết một số bài về văn học Miền Nam, đặc biệt là về thơ Cao Tần (Lê Tất Điều). Có lần nói chuyện với Hà về thơ Cao Tần, cả hai chúng tôi đều rất tâm đắc bốn câu trong bài “Mai Mốt Anh Trở Về”:

    Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa
    Ông anh hùng ông cứu được quê hương
    Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
    Lùa cả nước vào học tập yêu thương

    Thúy Hà (hình tư liệu Đinh Quang Anh Thái)
    Thúy Hà (hình tư liệu Đinh Quang Anh Thái)

    Tháng Tư 2020, cả thế giới chao đảo vì con virus Covid-19, không ai ra khỏi nhà, nên chỉ nói chuyện với nhau bằng phone, bằng email. Gọi cho Hà hỏi thăm sinh hoạt gia đình cô ra sao, rồi câu chuyện đẩy đưa đến đề tài văn học Miền Nam trước 1975 đối với lớp trẻ sinh ra và lớn lên sau thời điểm đó.

    Hai ngày sau, Thúy Hà gửi cho tôi những giòng sau đây:

    Covid chợt bùng lên, Chiều Trên Phá Tam Giang còn dai dẳng…

    Trong những tuần qua trên Facebook, tôi thấy một số bạn bè mình ở Sài Gòn, ở Hà Nội… đăng tải những tấm ảnh thành phố vắng người kèm theo lời hát “Chiều Trên Phá Tam Giang” như một sự liên tưởng thú vị và thi vị. “Giờ này thương xá sắp đóng cửa… Giờ này thành phố chợt bùng lên…”

    Thật lạ, khi một bài tình ca thời chiến lại in dấu trong tiềm thức những người Việt ở lứa tuổi thậm chí còn chưa hề trải qua chiến tranh, ở cả những người sinh ra và lớn lên bên kia chiến tuyến nơi bài hát xuất xứ- một bài hát từng bị cấm đoán tại Việt Nam sau 1975.

    “Thật lạ”- đó là cảm giác của tôi năm 18 tuổi lần đầu nghe bài hát này ở một quán cà phê Thủ Đức khi đang là sinh viên Văn khoa năm thứ hai (cuối thập niên 90). Lời tự sự yêu đương, khắc khoải, xao xuyến ấy tự nhiên đi vào lòng người nghe- một cô gái trẻ, là tôi. Lúc đó tôi không hề biết bài hát phổ thơ Tô Thuỳ Yên- trong giáo trình đại học khoa Ngữ văn không hề có tên ông và bóng dáng nền văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975. Khoảng trắng về học thuật đó cũng không hề gợi nên thắc mắc nào trong thế hệ sinh viên-cừu non chúng tôi thời bấy giờ.

    “Thật lạ” ở cấp độ cao hơn- “sửng sốt”- là cảm giác hơn 20 năm sau đó, khi tôi lần đầu đọc được nguyên bản bài thơ Chiều Trên Phá Tam Giang trên một trang mạng. Bài thơ nằm ngoài sự tưởng tượng của tôi về Chiều Trên Phá Tam Giang mà tôi chỉ biết lâu nay qua ca khúc.

    Bài thơ dài 155 câu, đầy đặn, truyền cảm và sống động như một cuộn phim màn ảnh rộng. Thơ của một người từng là trưởng phòng tâm lý chiến quân đội Việt Nam Cộng Hòa mà lại tự vấn hoang mang thế này ư? Giữa thời điểm 1972 khốc liệt mà người lính ấy lại độc thoại, trăn trở, suy tư về thân phận, về chiến tranh, về sống chết, về tuổi trẻ, về tình yêu và về sự thương xót đến như vậy ư? Nhất là cái tình con người thương xót con người- với kẻ thù bên kia chiến tuyến, khi cả hai đều không thoát khỏi bánh xe lịch sử và cùng phải đối mặt với tử thần.

    Điều gây ấn tượng mạnh với tôi về bài thơ ngoài nghệ thuật ngôn từ chính là cái chất Người lộng lẫy ấy. Con Người được bày tỏ tận cùng tâm trạng của mình trước thời cuộc mà không bị trói buộc bởi ý thức hệ, mưu toan chính trị hay chế độ kiểm duyệt nào. Tôi tìm đọc thơ Tô Thùy Yên cũng từ đó, và yêu thích thơ ông cũng từ đó, tuy trễ tràng nhưng vẫn kịp. Sau này tôi biết thêm: Chiều Trên Phá Tam Giang được coi là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của nền thi ca miền Nam giữa cuộc chiến.

    Những tuần qua, việc lock down, cách ly xã hội diễn ra gần như trên toàn cầu và nhu cầu bày tỏ tâm trạng của con người trước biến loạn thời cuộc bằng văn chương nghệ thuật lại trỗi dậy. Và không phải ngẫu nhiên những người bạn của tôi những ngày này bỗng nhắc lại bài thơ Chiều Trên Phá Tam Giang của Tô Thùy Yên, và Trần Thiện Thanh phổ thành ca khúc, xem lại những bức tranh về sự khủng hoảng cô đơn của Edward Hopper…

    Nghệ thuật đích thực về con người sẽ trường tồn dai dẳng, mà Covid-19 chỉ là cơn dịch có nhiệm vụ nhắc nhớ chúng ta…

    ***

    TỐNG VĂN CÔNG từng có 56 năm là đảng viên Cộng Sản và từng là tổng biên tập báo Lao Động, một trong những cơ quan tuyên truyền “mũi nhọn” của chế độ. Ông bỏ đảng năm 2014 và xuất bản tại Mỹ cuốn hồi ký ‘Đến già mới chợt tỉnh – Từ theo cộng đến chống cộng’.

    Tống Văn Công (hình Uyên Nguyên)
    Tống Văn Công (hình Uyên Nguyên)

    Đến thăm ông vào một chiều cuối Tháng Năm 2016 khi vợ chồng ông vừa từ Việt Nam sang định cư tại căn nhà người con gái ông ở thành phố Stanton-California. Tuổi đã ngoài 80, ông nhìn vẫn khỏe, đôi mắt tinh anh, nước da “như còn bám chút phèn” của vùng quê Bến Tre của ông.

    Gặp lần đầu tiên nhưng bản tính xởi lởi Nam Bộ của ông làm tôi không còn rụt rè. “Chú ở lại ăn cơm với anh chị nhé,” ông Công nói “thẳng như ruột ngựa” và coi như đương nhiên tôi nhận lời. Bữa cơm có Thúy Hà, từng một thời là thư ký tòa soạn báo Phụ Nữ của đảng. Chính nhờ Hà và một nhà báo còn ở trong nước nên tôi mới có dịp gặp ông Công.

    Ba năm liền, tôi đến thăm ông Công nhiều lần và thường là ở lại ăn cơm với hai ông bà để có nhiều giờ nghe ông nói chuyện. Có lần, cả buổi ăn, ông nói về nhận xét của ông đối với sinh hoạt văn học của miền Nam thời 1954-1975.

    Nhấp chút rượu vang đỏ, ông Công từ tốn nói, “trước khi cầm bút, tôi được dạy rằng ‘báo chí là tiếng nói của Đảng’. Do làm đúng như thế, tôi trở thành Tổng biên tập ba tờ báo của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

    Tháng Chín năm 1969, khi ông Hồ qua đời, báo chí miền Bắc đăng lại bài viết của giáo sư Lý Chánh Trung đã đăng trên báo ở Sài Gòn, ca ngợi ông Hồ là một nhà ái quốc. Tôi hết sức kinh ngạc: ‘Ồ lạ nhỉ, báo chí của họ là tiếng nói của ai ? Tại sao họ có thể đăng bài ca ngợi kẻ thù của chế độ?’

    Sau này tôi mới được biết ông Hoàng Đức Nhã, Tổng trưởng Dân vận và Chiêu hồi của Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố : “Ở Việt Nam Cộng Hòa không có báo chí viết tốt cho chính quyền. Báo chí chỉ viết tốt cho các cương lĩnh của cá nhân, của các nhóm chính trị, của các tôn giáo và thuần túy vì mục đích thương mại. Tức là báo chí được tự do nói lên quan điểm của mình đối với mọi sự kiện mà không bị chính quyền ràng buộc.

    Hỏi ông, thế lúc bấy giờ, ngoài Bắc thì sao, ông cho biết, ông và những người cầm bút khác được dạy là văn học phải sáng tác theo chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa , tác phẩm có giá trị trước hết phải “có tính Đảng sâu sắc”. Nhưng theo ông thì các tác phẩm “được đảng đánh giá là xuất sắc sao mà quá tẻ nhạt!”

    Ông nghĩ sao về giai đoạn sau Tháng Tư năm 1975, các loại sách của miền Nam bị tiêu hủy khiến nhiều người buộc phải đem sách ra bán trên vỉa hè như bán giấy lộn với giá rẻ như choông nói, “Tôi cũng như nhiều người yêu sách được dịp mua nhiều quyển sách quý : Âm Thanh Và Cuồng Nộ của William Faulkner, Dr. Zhivago của Pasternak, Mùa Hè Sa Mạc của Albert Camus… Đặc biệt là sách của các nhà văn Miền Nam như Thềm Hoang, Người Kéo Màn, Chuyện Bé Phượng của Nhật Tiến, Tiếng Chim Vườn Cũ của Nguyễn Mộng Giác, Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng … Thơ của Tô Thùy Yên, Nguyên Sa, Du Tử Lê…

    Sau này tôi được biết, trong lễ phát giải văn chương toàn quốc năm 1961-1962 , ông Trương Công Cừu, Bộ trưởng Đặc nhiệm Văn hóa và Xã hội của Việt Nam Cộng Hòa đã chúc các nhà văn miền Nam xây đắp xã hội mới ‘một thế giới gấm vóc mỹ lệ, dệt bằng tình bác ái không vụ lợi, bằng đức liêm khiết không xảo trá, và bằng tài trí không tự tôn tự đại.’ Trong một bài viết của Tiến sĩ Lubomir Svoboda, nhà phê bình văn học của Tiệp Khắc thời cộng sản nhận xét tác phẩm Người Kéo Màn của nhà văn Nhật Tiến: ‘Với bút pháp đầy trí lực, và cao hơn, tính nhân văn hay nói một cách chính xác là ông đã viết tác phẩm này bằng một trái tim nhân hậu, biết yêu thương và biết cả căm giận…’

    Tôi nghĩ, có thể dùng hai nhận định nói trên để đánh giá chung cho nền văn học của Việt Nam Cộng Hòa.”

    ***

    NGUYỄN THANH BÌNH chào đời tại tỉnh Thái Nguyên, Việt Bắc, nơi là căn cứ địa của Việt Minh. Gốc gác gia đình Bình là dân Nam Bộ và “tập kết” ra Bắc năm 48. Lúc Hội Nghị Genève đang diễn ra ở Thụy Sĩ, thân sinh của Bình, ông Nguyễn Thanh Hà (tên thật là Nguyễn Thành A), đang ở Genève với cương vị tổng thư ký đoàn đại diện Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Thân mẫu Bình, bà Huỳnh Thị Phi, người Vĩnh Long, sau đó mới ra Bắc, và sau năm 1954, làm nhân viên hành chánh của bộ Ngoại giao.

    Hai đứa tôi sinh cùng năm. Chỉ hơn kém nhau 8 tháng.

    Hai đứa tôi quen rồi thân nhau đúng là do “duyên nghiệp”, như cách Bình thường nói.

    Nhà báo Huy Đức là người giới thiệu hai đứa tôi với nhau.

    Nguyễn Thanh Bình tại Buôn Mê Thuột năm 1973. (Hình tư liệu Đinh Quang Anh Thái)
    Nguyễn Thanh Bình tại Buôn Mê Thuột năm 1973. (Hình tư liệu Đinh Quang Anh Thái)

    Năm 2015, tác giả “Bên Thắng Cuộc” đến thăm tôi. Thấy trên bàn tôi có cái tẩu hút thuốc màu trắng, Huy Đức nói, anh cho em đem về biếu một người bạn ở Việt Nam.

    Khoảng một tháng sau đó, trên trang Facebook của Họa Sĩ Nguyễn Thanh Bình ở Sài Gòn có đăng hình cái tẩu với giòng chữ: Cám ơn Thái Đinh.

    Vỏn vẹn 4 chữ, thế thôi. Sau đó, thản hoặc chúng tôi có liên lạc với nhau thì cũng chỉ là những câu ngắn gọn, nhưng tôi đọc nhiều bài viết của Bình và nghe bằng hữu ở quê nhà nói về chàng họa sĩ nổi danh này, tôi hình dung được Bình, một người đôn hậu, cởi mở, có lòng nhân.

    Một buổi tối đầu Tháng Tám 2019, lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau khi tôi đón Bình từ Việt Nam sang Mỹ chơi.

    Ba tuần ở với nhau, chúng tôi nói đủ thứ chuyện, chuyện đời, chuyện đất nước, chuyện người, chuyện mình… và nói về sinh hoạt văn học miền Nam. Bình nhận xét: “1954, người ta lấy một dòng sông chia đôi đất nước, một nửa phía Bắc, đứt lìa khỏi dòng chảy của Nam Phong, Tự Lực Văn Đoàn, nửa phía Nam vẫn tiếp nối và song hành cùng văn học thế giới. Những ai quan tâm đến văn học Việt Nam nói chung và miền Nam nói riêng (giai đoạn 1954 – 1975) không thể không biết những tên tuổi như Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến, Trần Hữu Tá, Võ Hồng, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Du Tử Lê, Tô Thùy Yên … duy trì một nền văn chương chuyên nghiệp. Đó là một nền văn học đúng nghĩa, đúng chức năng đối với xã hội, chỉ nhằm vào đối tượng duy nhất là con người.

    Diện mạo văn học miền Nam (1954 – 1975) có nhiều gương mặt nổi bật, tuy nhiên, cũng giống như hội hội họa hay âm nhạc ở miền nam trước 75, nó không tạo ra được sức mạnh có tầm ảnh hưởng sâu đậm như Tự Lực Văn Đoàn và văn nghệ tiền chiến. Những cây bút xuất sắc nhất, tự mình tỏa sáng, tài năng của mỗi người được bảo toàn, hợp thành mảng văn học Việt Nam phong phú, đầy màu sắc, nhưng chưa đủ để soi rọi những ngóc ngách sâu xa của dân tộc đau khổ, oằn mình vì thời cuộc, bởi cuộc nội chiến tương tàn, thảm khốc ấy, có vai trò rất quan trọng trong tiến trình lịch sử của đất nước. Tự Lực Văn Đoàn là sự xuất hiện một văn đàn mang hồn cốt của dân tộc, trong bối cảnh nô lệ, điều ấy, nói ngắn gọn là ‘hồn dân tộc’ không bao giờ mất, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, mà điều kiện của nó là sự tự do ngôn luận. Miền Nam trước 1975, quyền tự do ngôn luận được thể chế dân chủ bảo đảm, các nhà văn đã làm hết trách nhiệm của mình, đã đặt những dấu ấn không phai mờ, nhưng uy lực đã không còn rực rỡ như các bậc tiền bối.

    Tuy nhiên, lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, sẽ tạc tên những người như Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Du Tử Lê, Nhã Ca, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu và cả Bùi Giáng … lên tượng đài của mình, như là một phần tất yếu của hồn dân tộc những năm tháng khói lửa, đau thương …

    Và Bình đọc bốn câu thơ của Bùi Giáng để kết cho buổi nói chuyện kéo dài quá nửa đêm giữa hai đứa:

    “Em từ vô tận dư vang
    Kết chùm cỏ mọc đá vàng thiên thâu
    Em đi từ tình mộng đầu
    Trùng lai chất vấn biết đâu điệu chào … “

    (Bùi Giáng)

    ***

    TRẦN ĐĨNH là tác giả cuốn “Đèn Cù, số phận Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản, tự truyện của người từng viết tiểu sử Hồ Chí Minh” xuất bản tại Mỹ năm 2014.

    Tết Trung Thu 2014, nhà văn Nhật Tuấn, tác giả cuốn Đi Về Nơi Hoang Dã lúc bấy giờ sống ở Bình Dương viết cho tôi một email ngắn: “Trung Thu năm nay tại Việt Nam trẻ con rước đèn lồng, còn người lớn bận rước Đèn Cù của Trần Đĩnh”.

    Nhà văn Trần Đĩnh tại Mỹ năm 2015. (Hình tư liệu Đinh Quang Anh Thái)
    Nhà văn Trần Đĩnh tại Mỹ năm 2015. (Hình tư liệu Đinh Quang Anh Thái)

    Cuốn sách gây tiếng vang lớn cả trong lẫn ngoài nước vì tác giả tham gia Việt Minh vào lúc mới 16 tuổi và thuộc lớp đảng viên tiên phong gia nhập đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1948. Và cũng vì ông còn là nhà báo kỳ cựu của tờ Sự Thật từ những ngày đầu tiên khi báo này thành lập do Trường Chinh làm Tổng biên tập.

    Do làm việc trong một cơ quan báo chí cao nhất của Đảng, ông có cơ hội gặp gỡ hầu hết các khuôn mặt của chế độ từ Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, tới Lê Đức Thọ, Hoàng Tùng, Đỗ Mười… và những quan hệ này đã giúp ông sớm nhận ra khuôn mặt thật phía sau chiếc mặt nạ của các chóp bu cộng sản.

    Trong vụ án mà chế độ quy chụp là “Xét lại chống đảng”, ông cũng là một nạn nhân, tuy lao tù nhẹ hơn những người khác như Vũ Đình Huỳnh, Hoàng Minh Chính, Lê Trọng Nghĩa, Vũ Thư Hiên…nhưng đủ để ông thấy được sự đấu tranh gay gắt, sống còn giữa hai chủ trương trong nội bộ đảng là theo Tầu hay theo Liên Xô cùng với Nghị quyết 9 dẫn tới cuộc chiến xâm lăng miền Nam bằng võ lực và đẩy Đảng Cộng sản Việt Nam lún sâu vào vòng kềm tỏa của Trung Cộng.

    Là người chấp bút tiểu sử Hồ Chí Minh, Trần Đĩnh có nhiều cơ hội gần gũi và tiếp xúc với nhân vật này, đủ để cho ông nêu một nhận định ngắn gọn nhưng rõ nét về ông Hồ: “Lòng trung của Hồ Chí Minh đối với Lê Nin, Stalin, Mao Trạch Đông là vô bờ. Cho nên lòng trung với nước Việt, dân Việt vơi đi.”

    Suốt thời gian Đèn Cù còn trong dạng bản thảo, tác giả thường xuyên trao đổi với tôi về những đoạn cần thêm vào, hoặc cần cắt ngắn, nhờ vậy, tôi thấy được điểm đáng quý nhất của ông là tuyệt đối không bảo thủ ý kiến của mình mà rất tôn trọng ý người khác. Trong một email viết cho tôi, ông nói, bản thân ông đã sống hầu hết cuộc đời trong một xã hội mà Đảng và lãnh tụ chiếm “đặc quyền viết, đặc quyền nói,” chỉ dùng các nhà văn làm đầy tớ, mà “ôi đã làm đầy tớ thì có đời thuở nào còn dám sáng tạo?” Vì vậy, ông chủ trương, tác giả có công đẻ ra tác phẩm, nhưng chăm bón cho nó thành hoàn hảo để ra mắt độc giả là có bàn tay nhà xuất bản, nên nhà xuất bản có quyền tỉa bớt “những cành lá làm mất đẹp cái cây.”

    Đầu năm 2015, tác giả Đèn Cù từ Việt Nam sang thăm Mỹ. Gần một tháng ông ngao du thăm bà con, bạn bè và văn hữu chỉ mới nghe tiếng nhau mà chưa bao giờ gặp mặt. Những ngày được hầu chuyện với ông, ông cho tôi nghe những nhận xét hết sức sâu sắc về người và việc.

    Đối với sinh hoạt văn học miền Nam thời trước 1975, ông nói “Tôi là người được hoàn cảnh ưu ái có lẽ đặc biệt. Từ bé tôi đã sống trong môi trường sách hàng nghìn quyển của gia đình-cũng như có thể mỗi tuần xem điện ảnh đều đặn vài ba buổi không mất tiền. Được đọc, được xem với tôi gần như đã thành sự thường tình. Ở căn cứ địa Tân Trào, dưới trướng tổng bí thư Trường Chinh, tôi xem các báo Pháp, Mỹ cùng hàng giá tiểu thuyết Pháp, Mỹ trong tay Đức Sáu Ngón, bạn tôi, cai quản thư viện của Trung ương. Nói thế để nhấn rằng với việc đọc, tôi như đã quen không chấp nhận rào cản cho cái đọc. Do đó ở Bắc Kinh học xong về nước, trong hai năm 1961, 62, tôi đã nhót lấy hầu hết các báo chí, tập san văn nghệ, văn học của Sài Gòn để đọc. Và xin nói thật, thấy ngụp ngay vào cái dòng chảy văn học dân tộc đậm đà chất hiện sinh chủ nghĩa Sartre và Camus nầy hơn cái dòng chảy cuồn cuộn nhưng giả tạo của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tôi đã thích những Võ Phiến, Doãn Quốc Sĩ, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Thế Uyên, Nguyễn Thị Hoàng, Bình Nguyên Lộc, Uyên Thao, Tô Thùy Yên, Du Tử Lê, Cung Trầm Tưởng, Túy Hồng, Phan Nhật Nam, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Thụy Ý, … Các anh chị em trong Nam lôi cuốn tôi vì họ thổ lộ chân thực đầy đủ lòng dạ. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài là ở đây. Còn anh chị em nhà văn ngoài bắc thì khác, cứ phải dựa vào cái lý tưởng chưa có, để thêu dệt ra những điều viển vông để ca ngợi…Và cuối cùng rồi sao? Xôi hỏng, bỏng không.

    Đêm đưa ông Trần Đĩnh ra phi trường bay về Sài Gòn, có một thoáng tôi buột miệng hát mấy câu trong một ca khúc mà chính tôi không nhớ tên: “Dù rằng sau mưa bão gió hiền hòa lại về vẫn thấy lòng hoang vu, cuộc đời là hư vô bôn ba chi xứ người khi mình còn đôi tay.”

    Nghe tôi ư ử trong cổ họng, ông nói, này, nghe cháu hát Xin Thời Gian Qua Mau của Lam Phương, bác có cảm tưởng cháu đang lao theo một nỗi buồn đau nào đó đang chạy phía trước.

    ***

    KIM CHI là khuôn mặt lớn của sinh hoạt điện ảnh miền Bắc trong cuộc chiến. Tên thật và đầy đủ là Nguyễn Thị Kim Chi. Nghệ danh của cô văn công Kim Chi trong 10 năm ở chiến trường miền Nam từ 1964 đến 1974 là Hồng Anh. Sau đó bà trở lại miền Bắc. Những năm tháng bom đạn đó, Kim Chi vừa là MC giới thiệu chương trình, vừa là diễn viên kịch, khi thiếu người, bà cũng múa hát. Bà được bộ đội đặt cho cái biệt danh là “người đẹp rừng xanh.”

    Kim Chi nổi tiếng với những bộ phim như Nước Về Bắc Hưng Hải, Mùa Gió Chướng, Cánh Đồng Hoang. Tháng Giêng năm 2013, bà Kim Chi đã từ chối làm hồ sơ khen thưởng nghệ sỹ của Thủ tướng CS Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng vì cho rằng ông Dũng đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân.

    Nguyên văn lời tuyên bố của bà là: “Tôi không muốn trong nhà tôi có chữ ký của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân. Với tôi, đó là một điều rất tổn thương vì cảm giác của mình bị xúc phạm.”

    Ngày 4 Tháng11 năm 2018, nghệ sĩ Kim Chi chính thức tuyên bố ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong lá thư gửi đảng, bà viết, “Lẽ ra tôi đã làm việc này cách đây gần 3 năm trước, khi ông Nguyễn Phú Trọng tái đắc cử Tổng Bí thư Đảng CSVN. Bởi tôi biết ông Trọng một mực theo đuổi CNXH – con đường tăm tối không có tương lai cho đất nước, đi ngược xu thế tiến bộ của nhân loại.

    Nhưng ngày đó, lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh – cựu Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, Giáo sư Chu Hảo, và chồng tôi (ô. Vũ Linh), cùng nhiều bằng hữu tâm huyết khuyên tôi kiên nhẫn ở lại để giúp những người tốt trong Đảng CSVN nhận biết lẽ phải.

    Tôi đã kiên nhẫn tỏ bày chính kiến ôn hoà trong mọi việc:
    – Xuống đường biểu tình vì nhân quyền, chủ quyền đất nước, môi trường sống…
    – Viết Facebook lên án những sai trái của an ninh, giới chức nhà nước.
    – An ủi, sẻ chia cùng tù nhân lương tâm, bà con dân oan…

    Tham gia các hoạt động xã hội dân sự, với thiện ý xây dựng, tôi thành tâm mong góp tiếng nói phản biện, nhằm thức tỉnh lương tri những người đang chèo lái vận mệnh đất nước. Tôi chưa bao giờ có ý tưởng lật đổ, cổ xúy bạo lực, mà luôn thật lòng mong mỏi những người giữ trọng trách trong guồng máy nhà nước thay đổi tốt đẹp, biết yêu nước, thương dân.

    Nhưng đáp lại thiện chí của chúng tôi là sự đàn áp ngày càng khốc liệt người bất đồng chính kiến; là ý đồ muốn biến nhân dân thành bầy cừu; thù ghét, khủng bố những người dấn thân tranh đấu vì những quyền cơ bản, chính đáng của con người, những giá trị phổ quát của nhân loại; hãm hại những trí thức ưu tú muốn khai trí nhân dân.

    Trải qua tuổi trẻ ở chiến trường, tôi khát khao giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Nhưng than ôi! Khi nhận ra mình đã góp tuổi xanh vào một cuộc chiến huynh đệ tương tàn do mâu thuẫn ý thức hệ quốc tế, tôi vô cùng đau đớn. Nhiều đêm trắng tôi thao thức, khi những người ưu tú lần lượt vào tù. Hàng triệu dân oan không nhà làm nhói tim tôi. Im lặng là đồng loã cái ác, là có tội…”

    Một đoạn khác trong lá thư, bà viết: “Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, mà Đảng CSVN lấy làm nền tảng tư tưởng, chỉ là một học thuyết phản khoa học, phi thực tế, cổ xúy bạo lực ‘đấu tranh giai cấp’, hiếu chiến, tạo bất công, gieo rắc đói nghèo lạc hậu, độc đoán thủ tiêu mọi quyền tự do chính đáng của nhân dân…

    …Phần lớn lãnh đạo Đảng CSVN tự hoang tưởng, tha hóa biến chất ngày một tồi tệ, làm đất nước ngày càng tụt hậu, nhân dân lầm than. Đã đến lúc tôi phải rời khỏi cái đội ngũ mà thế lực hắc ám ngự trị trong Đảng CSVN đang lạm dụng làm bình phong che chắn cho động cơ vị kỷ, tệ hại của họ.

    Tôi thành tâm mong mỏi ngày càng có nhiều đảng viên có lương tri, còn tâm huyết với dân, với nước, nhất là thế hệ trẻ, tiếp tục rời bỏ Đảng CSVN, rời bỏ Đoàn TN CSVN.

    Vận nước, tương lai dân tộc tùy thuộc mỗi người Việt Nam chúng ta.”

    Kim Chi thăm vấn an Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ.
    Kim Chi thăm vấn an Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ.

    Bà Kim Chi sang Mỹ nhiều lần, thăm con, thăm các học trò cũ và gặp gỡ những người có thời từng bà từng khác chiến tuyến. Gặp bà, nghe những câu chuyện của bà, quan sát bà, tôi thấy bà là một nhân cách đôn hậu, chân thật, tiêu biểu cho những mẫu người trong thơ Phùng Quán “yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét, dù ai cầm dao dọa giết, cũng không nói ghét thành yêu, dù ai ngon ngọt nuông chiều, cũng không nói yêu thành ghét.”

    Một lần, bà tâm sự: “Trước 75, tôi ở rừng miền Đông Nam bộ. Thỉnh thoảng mới đọc lén được một tờ báo của miền Nam, do một ai đó vừa đi thăm gia đình móc về. Ấn tượng của tôi là những tờ báo ấy được trình bày đẹp mắt và phong phú hơn rất nhiều báo chí ở miền Bắc lúc bấy giờ. Nhưng tôi không có nhiều cơ hội để tiếp xúc với báo chí miền Nam trong giai đoạn đó.

    Cho mãi tới năm 1978, sau khi học xong khóa đạo diễn Sân Khấu ở Bungaria trở về, tôi có dịp sống và làm việc ở Sài Gòn. Khi ấy tôi dạy ở trường nghệ thuật sân khấu 2 ở 125 Cống Quỳnh. Đây là cơ hội vàng để tôi tìm hiểu về đời sống văn hóa của người miền Nam trước 75. Thỉnh thoảng tôi lang thang tới những cửa hiệu bán sách cũ. Tôi ngớ ra vì thấy mình có quá nhiều điều không biết. Thì ra báo chí miền Nam khi đó khá tự do. Nó được viết ra theo suy nghĩ của những người cầm bút. Nó được tỏ bày theo chính kiến của nhà báo. Báo chí của nhà nước cộng sản thì phải viết theo định hướng của đường lối cách mạng và sự chỉ dẫn của lãnh đạo. Các nhà báo ăn lương của nhà nước và thường viết theo lệnh của các tổng biên tập. Mà các tổng biên tập thì lại nhận lệnh từ cấp trên (Ban văn hoá tư tưởng) về những chủ đề trên trang báo ấy phải phản ánh. Họ chỉ được phép viết ca ngợi chế độ. Thỉnh thoảng đưa ra vài câu chuyện tiêu cực, nhưng phải tránh những nhân vật có tên tuổi. Luận điệu của họ là ‘phải bảo vệ uy tín cán bộ để cho họ lãnh đạo.’ Miền Bắc ngày ấy có nhiều tòa soạn: Thanh Niên, Phụ Nữ, Thiếu Nhi, Tiền Phong… nhưng toà soạn báo Nhân Dân là quyền uy nhất. Nhiệm vụ của tờ báo này là đưa ra chủ trương chính sách của đảng. Đội ngũ phóng viên của tờ báo này 100% là ăn lương nhà nước. Có nhiều nội dung quan trọng như phổ biến chính sách thì bài viết là của phóng viên, nhưng nó lại được ký tên bởi một ông to nào đó. Báo chí miền Bắc khi đó nhiều khi phải làm nhiệm vụ lái dư luận xã hội qua những chuyện ‘cướp, hiếp’ để tránh một vụ bê bối của một quan chức nào đó. Với luận điệu của họ rằng ‘để xử lý nội bộ’…

    Không phải báo chí miền Nam trước 75 là tuyệt đối tự do. Nhưng nếu so sánh với báo chí miền Bắc ngày ấy và ngay cả bây giờ thì báo chí miền Nam thời Việt Nam Cộng Hòa hơn hẳn báo chí cộng sản Việt Nam.

    Đó là sự khác biệt cơ bản của hai nền báo chí: VNCH và CHXHCNVN.

    Năm tháng qua đi, tôi càng thấm thía rằng những người cầm bút mà không được viết theo mệnh lệnh của trái tim mình, lại phải viết theo sự sai khiến của ai đó thì chẳng có gì đáng buồn hơn. Tự do tư tưởng là niềm khát vọng cho những người sống có lý tưởng. Người cầm bút phải có TỰ DO TƯ TƯỞNG. Không để cho người ta biến mình thành những con Robo.

    Hỏi bà, bà có lo sợ cho an ninh bản thân khi lớn tiếng kết án chế độ bằng những lời lẽ như thế, nữ nghệ sĩ có khuôn mặt khả ái này nói, bà “từng đi chiến trường 10 năm, không sợ chết vì bom đạn thì bây giờ coi mọi việc nhẹ như lông hồng.”

    ***

    NGUYỄN THỊ HẬU là tiến sĩ khảo cổ học, được nhiều người biết tới với tên “Hậu khảo cổ”. Bà có nhiều công trình nghiên cứu về các nền Văn hóa Óc Eo, Đồng Nai, Sa Huỳnh, khảo cổ học đô thị… Bà cũng xuất bản nhiều cuốn sách ở các thể loại như ký, truyện ngắn, tản văn…Một số tác phẩm tiêu biểu của bà: Thế Giới Mạng Và Tôi, Ngắn & Rất Ngắn, Sài Gòn Bao Giờ Cũng Thế…

    Từ trái : Nguyễn Thanh Bình, Trần Đĩnh, Nguyễn Thị Hậu và Hồng Ánh.
    Từ trái : Nguyễn Thanh Bình, Trần Đĩnh, Nguyễn Thị Hậu và Hồng Ánh.

    Nguyễn Thị Hậu sang Mỹ lần gần đây nhất trước khi thế giới bị cuốn vào trận đại dịch Covid-19 là năm 2019.

    Gia đình tập kết từ Nam ra Bắc năm 1954, bốn năm sau, Hậu “khảo cổ” chào đời tại Hà Nội. Lớn lên ngoài Bắc và chỉ nhìn thấy miền Nam sau 1975, nên Nguyễn Thị Hậu có giọng nói “thuần Bắc.”

    Nhiều lần gặp, ăn uống, trò chuyện, thậm chí còn đi với nhau cả một đoạn đường xa từ Nam lên Bắc Cali, có cả nữ nghệ sĩ trung hồ cầm Hồng Ánh, họa sĩ Nguyễn Thanh Bình và nhà báo Mặc Lâm, nhiều câu chuyện Hậu “khảo cổ” kể đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng về sinh hoạt xã hội miền Bắc. Nhất là những cảm nghĩ của Hậu về văn học miền Nam trước 1975.

    “Sau năm 1975, nhiều người lần đầu vào Sài Gòn choáng váng khi nhìn thấy cuộc sống của thành phố này: nhà cửa, xe cộ, quần áo và hàng ngàn loại vật dụng sinh hoạt… mà hầu như gia đình nào ở Sài Gòn cũng có, trong khi đó ở miền Bắc chỉ có thể nhìn thấy vài thứ trên phim ảnh “Liên xô”, thậm chí có thứ chưa từng biết đến như TV, tủ lạnh, đồ dùng trong toilet… Có thể đọc những cảm nhận này qua hồi ký của một số người nổi tiếng mới xuất bản gần đây.

    Giữa năm 1975 gia đình tôi – một gia đình miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954 – đoàn tụ ở Sài Gòn. Những tháng đầu cả nhà ở tạm trong một căn phòng tại cơ quan của ba tôi (là một biệt thự trên đường Trần Quý Cáp). Trong căn phòng chừng hơn 30m vuông có một tủ sách lớn dựng suốt một bức tường. So với tủ sách đơn sơ của nhà tôi ở Hà Nội được đóng bằng những mảnh gỗ tạp, cũng chứa đầy sách, thì cái tủ sách “vĩ đại” này đã thỏa mãn ước mơ lớn nhất của tôi khi ấy! Tôi bỡ ngỡ và sung sướng làm sao khi trên đó đầy ắp các loại sách truyện, tạp chí… còn phía dưới giá sách là một dàn máy AKAI với một cuốn băng đang nghe dở “Sơn ca 7”. Đây là cơ duyên đầu tiên của tôi với văn học miền Nam và với nhạc Trịnh Công Sơn.

    Từ cái tủ sách đó giờ rảnh rỗi tôi chỉ ôm sách đọc ngấu nghiến, đầu tiên là sách văn học. Lâu rồi tôi không nhớ hết tác giả và tác phẩm, nhưng tôi còn nhớ các tác giả Duyên Anh, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thụy Long, Hồ Trường An, Bình Nguyên Lộc, Chu Tử, Hoàng Hải Thủy, Bà Tùng Long, Nguyễn Thị Thụy Vũ… Vài tác giả chuyên sáng tác chuyện miền Tây như Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, An Khê, Lê Xuyên… Những tác giả của Tự Lực Văn Đoàn mà ngoài Bắc chỉ giới thiệu rất ít… Ngoài ra còn nhiều truyện dịch mà ba tôi rất thích; chị tôi mê mải với Quỳnh Dao còn anh tôi thì nghiền Kim Dung…

    Từ năm 1976 vào học đại học Văn Khoa tôi còn được bạn bè giới thiệu và cho mượn sách của các tác giả Mai Thảo, Nguyên Sa, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Võ Phiến, Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sỹ… lúc này đã bị cấm lưu hành. Rồi khi nhiều thư viện “thanh lý” sách xuất bản tại Sài Gòn trước 1975 ba tôi đã xin được mấy thùng sách về lịch sử của Kim Định, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục, các bộ sử thời Nguyễn… Thế giới văn học của tôi trở nên rộng mở và cũng mang đến cho tôi bao điều mới mẻ, cả những nỗi hoài nghi mà tôi phải mất nhiều năm mới giải đáp được.

    Lúc đầu tôi không thích lắm vì phần lớn các đầu sách là loại “tiểu thuyết gia đình” với tựa sách gợi cảm và hình bìa nhiều màu sắc, cốt truyện thường đơn giản, xoay quanh những cuộc tình éo le không lối thoát do thân phận, do cuộc chiến, nhiều tình tiết “lâm ly bi đát” giống tuồng tích cải lương khi ấy. Đọc xong không để lại ấn tượng gì ngoài một kết thúc buồn, hiếm khi nào “có hậu”. Phải chăng sự thật về chiến tranh luôn hiện diện trên báo chí truyền thông làm cho xã hội bất an, cuộc chiến ngấp nghé bên ngoài đô thành đã làm cho con người mất niềm tin vào tương lai?

    Nhưng rồi, dần dần một thế giới mới đến với tôi, rất khác với các tác phẩm văn học tôi từng đọc ở miền Bắc. Từ cao sang đến nghèo hèn, từ quan chức tướng lĩnh đến công chức, buôn gánh bán bưng, thế giới của các tay anh chị, tướng cướp hay gái điếm… tất cả đều hiện diện trong văn chương, không loại trừ “kiêng cữ” một ai. Trong nhiều tác phẩm không có ai thật tốt hoặc thật xấu, nhưng ở vào thời điểm khó khăn thì họ đều bộc lộ phần nhân văn ẩn sâu bên trong… Vì vậy, dù kết thúc buồn nhưng vẫn mang lại cho người đọc cảm xúc đẹp về tình người.

    Các tác phẩm về cuộc chiến thực sự khốc liệt, trần trụi, ác liệt… hầu như không có bóng dáng của những lời tuyên truyền “lý tưởng cao đẹp” như ngoài Bắc mà chỉ thấy trong mỗi người lính đầy ắp nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương, tình đồng đội… Cũng không thiếu vắng cái chết đau đớn của những người lính, nỗi đau giằng xé của vợ góa con côi, nhưng ước mơ một ngày giản dị bên gia đình, bên “người yêu bé nhỏ” khi đã “tàn cơn binh đao”… là hy vọng sống sót cho những người lính trận. Bởi vì, khi cuộc chiến kết thúc thì người lính lại trở về làm dân, nếu may mắn không “xanh cỏ” thì cũng có mấy ai được “đỏ ngực”.

    Để lại nhiều ấn tượng với tôi là các tác phẩm của Duyên Anh như : Dzũng Đakao, Vết thù trên lưng ngựa hoang, Điệu ru nước mắt; của Nhã Ca: Truyện cho những cặp tình nhân, Thành phố buồn, Đêm nghe tiếng đại bác, Giải khăn sô cho Huế. Truyện của Nguyễn Thị Hoàng rất lạ với tôi như: Vòng tay học trò, Tuổi Sài Gòn. Còn Nguyễn Thụy Long hay nhất là Loan mắt nhung. Đặc biệt là Mùa hè đỏ lửa của tác giả Phan Nhật Nam hay bộ ba tập “Đường đi không đến” của nhà văn “chiêu hồi” Xuân Vũ… Tôi đặc biệt thích Bình Nguyên Lộc với các công trình biên khảo công phu của ông và những trang tản văn, tùy bút đẹp đến nao lòng…

    Tuy nhiên, cái hấp dẫn tôi nhất chính là mỗi tác giả có phong cách riêng, dễ nhận biết qua chủ đề, cốt truyện và ngôn ngữ. Nhà văn Nam bộ hóm hỉnh, giản dị câu chữ, nhà văn miền Bắc sắc sảo, bóng bẩy, nhà văn và cũng là nhà báo thì sinh động, trực diện… Ngôn ngữ vùng miền, phương ngữ được sử dụng phổ biến. Cả một xã hội phân hóa sâu sắc, phong phú, đa dạng và cũng khắc nghiệt, tàn nhẫn như cuộc sống hiện ra, thôi thúc tôi tò mò tìm đọc và luôn ngạc nhiên mỗi khi bước vào “khu rừng” văn học miền Nam khi ấy.

    Đặc biệt sách văn học cho tuổi thanh thiếu niên rất nhiều, có lẽ nổi bật nhất là Tủ sách Tuổi Hoa. Sách Tuổi Hoa chia làm ba loại: Hoa Đỏ, Hoa Xanh và Hoa Tím. Tôi còn nhớ sách Hoa Đỏ là loại trinh thám, phiêu lưu, mạo hiểm. Hoa Xanh thuộc loại tình cảm nhẹ nhàng. Hoa Tím đã xuất hiện tình yêu giữa nam nữ một cách trong sáng. Dấu hiệu thân thuộc của tủ sách là bông hoa tám cánh giản dị và xinh xắn.

    Cũng phải nói đến những tiệm cho thuê sách và cửa hàng sách cũ luôn là nơi hấp dẫn với tôi chứ không phải là cửa hàng thời trang hay mỹ phẩm. Tôi còn nhớ hoài có bạn học người Sài Gòn khá kỳ thị tôi bởi cái giọng Hà Nội 75 và trang phục giản dị có phần “hổng giống ai”. Một lần không biết có việc gì bạn đến nhà tôi, nhìn thấy tủ sách bạn rất ngạc nhiên vì bên cạnh những cuốn sách tôi mang vào từ Hà Nội là rất nhiều sách xuất bản tại Sài Gòn. “Nhà Việt Cộng mà cũng có sách như nhà ‘Ngụy’ à?!” nhưng từ đó thái độ của bạn với tôi khác hẳn. Đặc biệt bạn bắt đầu đọc và rồi cũng thích nhiều tác phẩm văn học của miền Bắc.

    Văn học miền Nam trước 1975 đa dạng và phong phú về tác giả, thể loại, khuynh hướng, trường phái… Đó là nhờ sự khai phóng của môi trường xã hội nói chung và môi trường sáng tác nói riêng, sự cởi mở của giới cầm bút chấp nhận những thử nghiệm, sáng tạo, tinh thần tự do dân chủ của giáo dục – nhất là giáo dục đại học. Những tác phẩm văn học tôi đọc tuy còn ít ỏi nhưng đủ để nhận biết giá trị nhân văn của một nền văn học, qua đó hiểu biết về xã hội và con người miền Nam trong cuộc chiến vừa qua. Điều đó góp phần giúp tôi thoát khỏi định kiến mặc cảm về “bên này – bên kia, thắng – thua, ta – địch” mà nhiều người cùng thời với tôi còn đang mang nặng trong lòng.”

    ***

    DƯƠNG THU HƯƠNG tự nhận mình là “người rừng”, “mụ nhà quê răng đen, mắt toét”.

    Báo chí Pháp thì gọi Dương Thư Hương là “Con Sói Đơn Độc”.

    Còn lãnh đạo cộng sản Việt Nam thì chửi bà là “con đĩ chống đảng”.

    Dương Thu Hương và Đinh Quang Anh Thái tại một quán ăn ở Paris năm 2005. (Hình: Đinh Quang Anh Thái)
    Dương Thu Hương và Đinh Quang Anh Thái tại một quán ăn ở Paris năm 2005. (Hình: Đinh Quang Anh Thái)

    Gọi bằng gì thì gọi, Dương Thu Hương vẫn là chính mình: bản chất chân quê không hội nhập vào thế giới mạng Internet, bỗ bã, đốp chát, đơn độc, và trên hết, ngay thẳng, hết mực với mục tiêu nhắm tới là tranh đấu cho một nước Việt Nam dân chủ, tự do, thoát khỏi cái chế độ hiện nay mà bà gọi là “chỉ sống bằng xác chết, không có bất cứ giá trị gì cả.”

    Sinh năm 1948, lớn lên tại miền Bắc vào đúng giai đoạn Cộng sản Hà Nội tung toàn lực lượng nhất quyết bằng mọi giá phải đạt được tham vọng “giải phóng miền Nam thoát khỏi sự kềm kẹp của Mỹ-Ngụy.” (sic)

    Như lời bà kể, cùng với hơn 100 bạn ngang lứa tuổi, bà đã cắt máu xin vào Nam “đánh Mỹ cứu nước”.

    Những trải nghiệm trong chiến tranh, cùng những chua chát của Tháng Tư 1975 đã là chất liệu cho các tác phẩm sau này của bà, như “Những Thiên Đường Mù”, “Bên Kia Bờ Ảo Vọng”, “Khải Hoàn Môn”, “Đỉnh Cao Chói Lọi”, “No Mans Land” (ấn bản Anh ngữ) được dịch sang Pháp ngữ là “Terre Des Oublis”…

    Dương Thu Hương là một trong những người cầm bút đã can đảm “bước qua lời nguyền”, giành lại quyền suy nghĩ bằng cái đầu của chính mình với những bài phát biểu, bài viết; và nhất là với tác phẩm “Những Thiên Đường Mù.”

    Tôi chỉ biết Dương Thu Hương qua tác phẩm, mãi tới khoảng giữa tháng Tư 1997, lần đầu tiên tôi mới có dịp – qua điện thoại – nói chuyện với “Con Sói Đơn Độc.”

    Sau rất nhiều lần trò chuyện thăm hỏi, Dương Thu Hương mới trải lòng nói về dấu mốc quan trọng làm thay đổi hẳn cuộc đời bà là thời điểm đoàn quân của “bên thắng cuộc” vào Sài Gòn trưa ngày 30 Tháng Tư 1975.

    Trả lời cuộc phỏng vấn bằng điện thoại, Dương Thu Hương kể: “Ngày 30 tháng Tư năm 1975 đã là một ngả rẽ trong đời tôi. Khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn, trong khi tất cả mọi người trong toán quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi ngồi bên lề đường khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy rẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ. Ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người dân có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ… nếu người ta muốn.

    Ðó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ.”

    Nhiều năm sau cuộc phỏng vấn lần đầu tiên đó, tôi thường xuyên điện thoại về Hà Nội nói chuyện với bà Dương Thu Hương; và thậm chí còn sang tận Paris thăm bà vào trung tuần Tháng Hai năm 2005, khi bà nhận lời mời của nhà xuất bản Sabine Wespieser Editeur để ra mắt tác phẩm đã được in bằng Anh ngữ, cuốn “No man’s land”, được dịch sang Pháp ngữ là “Terre Des Oublis”.

    Trong suốt 8 năm được trò chuyện qua điện thoại và những lần gặp mặt trực tiếp, tác giả Thiên Đường Mù đã dành cho tôi nhiều cuộc phỏng vấn dài.

    Tháng Tư 2020, nước Pháp và riêng thủ đô Paris đang bị dịch Covid-19 hoành hành khiến người dân ai cũng ru rú trong nhà để tránh dịch, tôi gọi điện thăm Dương Thu Hương, bà nói “Con sói đơn độc” vốn đã đơn độc nay càng đơn độc hơn và đang dành trọn thì giờ góp phần cho cuộc đấu tranh dân chủ của đồng bào tại quê nhà. Tôi nhắc lại câu bà nói với tôi Tháng Tư năm 2007:

    “Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do, người dân có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ…nếu người ta muốn.

    Ðó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ.”

    Chú thích :

    * “Bên Thắng Cuộc” là tựa cuốn sách của Nhà báo Huy Đức.

  • Tác giả và Tác Phẩm,  Thơ

    HỒN QUÊ TRONG THƠ LỤC BÁT LÊ NAM SƠN

    HỒN QUÊ TRONG THƠ LỤC BÁT LÊ NAM SƠN

    Nguyễn Phúc

    Sông Lô Lê Nam Sơn tên thật là Lê Nam Sơn, sinh năm 1949 tại Bồng Sơn, Hoài Nhơn, Bình Định, quê quán Quảng Nam, sang Đức năm 1980. Có thơ in trong tập Thơ Việt ở Đức, tập 2.

    Không hiểu sao, cứ mỗi lần chạm vào thơ lục bát là mỗi lần tôi chạm vào nỗi nhớ quê. Có lẽ, bởi thơ lục bát từ cái hồn quê mà sinh ra, mà hồn tôi lại được nuôi lớn từ lời ru của mẹ :
    Con cò bay lả bay la
    Bay từ cửa sổ bay ra cánh đồng..
    ( Ca dao )


    Ca dao lục bát – sáng tác dân gian hay thơ lục bát của các nhà thơ đã có từ rất lâu đời, và được ví như Quốc hồn dân tộc Việt. Thơ lục bát của người ở miền Trung, miền Nam, miền Bắc hay bất kỳ ở đâu, ta đều nhận ra trong nó cái hồn quê Việt. Khi tôi đọc thơ lục bát của Lê Nam Sơn với những câu:


    Thèm nghe tí tách bếp hồng
    Mái quê nhả khói mục đồng về thôn
    Thèm nghe tiếng ốc thổi dồn
    Ngư dân háo hức cánh bụồm xa khơi
    ( Trích – Chiều Hôm )


    Thì lòng tôi bỗng trùng xuống một nỗi nhớ quê. Cái thèm của Lê Nam Sơn dội vào cái nhớ trong lòng tôi. Câu thơ chẳng có cánh cò, nhưng cánh cò lại vỗ cánh trong hồn tôi trên sóng lúa rập rờn, trong bóng hình mẹ tôi bên sông, con thuyền ai hun hút đi trong cơn mưa mùa hạ tối đất, tối trời…
    Lê Nam Sơn quê ở Điện Bàn, Quảng Nam. Anh sang Đức năm 1980. Thành thực mà nói, tôi biết rất ít về thơ văn miền Nam trước năm 1975. Vì thế khi biết tin có các anh Đặng Lâm, Lê Nam Sơn, Lữ Du từ bên Tây sang tham dự buổi Hội tụ thơ Việt ở Đức, tổ chức ở Thành phố Chemnitz, tôi đã rất háo hức muốn được nghe thơ của các anh. Cần nói rõ hơn điều này, người Việt sống ở phía Tây nước Đức phần lớn là người miền Nam đến từ sau năm 1975, dưới dạng thuyền nhân. Có thể nói, đấy là những cuộc rời bỏ quê hương, ra đi trong thầm lặng, nhưng vô cùng khốc liệt với cả máu và nước mắt. Nó khác cái không khí náo nức, vui tươi của người dân miền Bắc sang lao động, theo ký kết giữa hai chính phủ Việt Nam và Cộng Hòa Dân Chủ Đức từ năm 1980. Do yếu tố lịch sử, nguồn gốc sự ra đi khác nhau, nên sự hòa hợp của người Việt giữa hai miền trong nhiều trường hợp vẫn là rất khó. Tôi vẫn nhớ lời chia sẻ của các anh sau đêm thơ: Thơ không làm chiếc cầu hoà giải, vì thơ vốn dĩ chưa bao giờ có biên giới. Chỉ có tấm lòng thành thực kéo chúng ta lại gần nhau.


    Vâng, tôi hoàn toàn đồng ý với các anh. Thơ là tiếng của cõi lòng, hay nói cách khác là sự rung động của tâm hồn, mà hồn ta lại có trong hồn của dân tộc, của giống nòi. Có thế, ta mới cùng yêu được một làn điệu dân ca, yêu khúc hát ca dao và những câu thơ lục bát đã có tự bao đời…Và ngay đêm thơ ấy, qua giọng thơ ấm áp của anh Đặng Lâm, tôi được biết, được yêu thêm một Nguyên Sa, thi sỹ đầy chất trữ tình lãng mạn của miền Nam với bài Áo lụa Hà Đông. Có phải hồn quê đã thấm vào từng đường tơ áo lụa để Nguyên Sa viết Áo lụa Hà Đông giữa Sài Gòn lộng nắng. Và tôi cũng đã lặng đi bởi cái buồn đẹp đến nao lòng, phảng phất hồn thơ Bích khê trong cái sắc mầu huyền diệu của mấy câu thơ Lữ Du:


    Rồi những buổi chiều mây vương mầu tím
    Cho mắt anh buồn, trời đã vào thu
    Sương thu mênh mang, lá vàng rơi rụng
    Gió heo may, mưa sắc trắng, sa mù
    (Trích, Điệp khúc bốn mùa)


    Trở lại thơ lục bát của Lê Nam Sơn. Thơ lục bát thuộc thể thơ không khó làm nhưng khó hay. Điểm đặc biệt trong thơ lục bát của Lê Nam Sơn là bài nào anh cũng gửi được vào đó một chút tình, làm ta cảm động. Đọc thơ anh, ta không có cảm giác nhạt, loãng ấy là bởi anh biết chọn từ ngữ, hình ảnh bám rất sát tứ thơ trong bài, làm cho cấu trúc bài thơ gọn và chặt, nổi lên được cái điều anh định giãi bày. Cũng vì thế, đọc thơ Lê Nam Sơn bao giờ ta cũng lĩnh hội được một điều gì đó: Từ sự cám cảnh trước thân phận những cô gái làng, vùng đồng bằng sông nước Cửu Long, một ngày bỏ mối tình quê, lặng lẽ theo tình khách thương hồ, sống một cuộc đời sông nước lênh đênh, vô định:


    Thương ai như đám lục bình
    Sông hồ một kiếp lênh đênh theo dòng
    Nông sâu, bồi lở, đục trong
    Bến quê như thể mãi mong đợi người
    Về đâu bèo dạt mây trôi
    Về đâu sông nước ai người biết chăng
    ( Đò Dọc )


    Đến chuyện cô gái trú mưa chợt đến, chợt đi như cơn mưa đầu hạ Sài Gòn, để lại trong lòng ta những bâng khuâng tiếc nuối. Đây là một bài thơ hay. Mỗi chúng ta trong cuộc đời, ít nhiều đều có những khoảng khắc rung động, bâng khuâng giống như tác giả. Thơ hay ở chỗ gợi chứ không tả. Câu thơ” Ờ sao em nép thế này”, hai chữ” Ờ sao” đã biến câu thơ thành lời tự vấn, chuyển lời thơ từ tả sang gợi, từ nhìn sang cảm. Từ đây, tác giả không nói sự việc bằng đôi mắt thường, mà từ những rung động của tâm hồn, khiến lòng ta cũng chuyển động cùng với chuyển động trong lòng của thi nhân:


    Ờ sao em nép thế này
    Để tôi mong mãi chiều nay mưa hoài
    Hạt mưa ngắn…hạt mưa dài…
    Hạt trong văn vắt… hạt cài tóc em…
    Tiếng mưa rả rích reo thềm
    Nghe sao như tiếng ru êm bên mình
    (Hạt mưa đầu Hạ )


    Chính là tác giả biết lắng nghe chuyển động của lòng mình, để cảm xúc tràn lên những ngôn từ, nên thơ Lê Nam Sơn cảm động và có điều tinh tế. Thi sỹ nghe trong gió mầu lá bớt xamh, nắng nhạt bên thềm, nghe tiếng vọng của hồn thu đang về gõ cửa:


    Hình như mầu lá bớt xanh
    Thoảng trong hơi gió hương đồng dần phai
    Nắng như nhạt sắc hiên ngoài
    Đã nghe chớm chút u hoài xa xăm
    ( Hình Như )


    Thơ lục bát của Lê Nam Sơn thường mang tâm trạng buồn. Tôi không nghĩ tâm trạng ấy là hoàn toàn bởi cuộc sống tha hương, mà có từ một tâm hồn đa cảm. Ngay ở bài Hạt mưa đầu Hạ, chuyện ở Sài Gòn, hơi thơ đã phảng phất buồn, hoặc trong Đò Dọc, có gì ảm đạm hơn cảnh một con thuyền âm thầm rời bến, lặng lẽ trôi dưới màn trời lất phất mưa bay:


    Mưa bay lất phất ngoài sông
    Một con đò dọc âm thầm nhổ neo
    ( Đò Dọc )
    Đến Hình Như và Chiều Hôm, không chỉ còn là nỗi buồn nhân thế, thi sỹ thấy mình bơ vơ, lạc lõng bất lực với cuộc đời:
    Tà dương vỗ cánh chim trời
    Hoàng hôn cúi xuống góc đời tha phương
    Nhớ gì bằng nhớ cố hương
    Cô giang một mái chèo buông theo dòng
    Buồn tay níu lấy thinh không…
    ( Trích -Chiều Hôm )


    Con người ta khi phảỉ níu vào cái không thể níu: níu lấy thinh không, níu vào hư vô là chỉ khi lòng ta tuyệt vọng, tay đưa lên phía trời xanh cầu cứu thánh thần.


    Tâm trạng buồn của thi sỹ đâu còn là của riêng anh nữa, nó là nỗi buồn của muôn vạn sinh linh trên trái đất này, khi phải rời bỏ quê hương, rời bỏ cái cái hồn quê, nơi chôn rau cắt rốn của mình…
    Đã ba mùa thơ đi qua, ba lần được gặp, được nghe thơ của các anh, tôi lại phải mượn lời của ông Pascal: Tưởng kẻ viết là một nhà văn, không ngờ lại được gặp một người!


    Chemnitz 23-4-2019
    *****
    Giới thiệu những bài thơ của Sông Lô Lê Nam Sơn…

      
    Miền Trung với những cơn mưa dầm kéo dài ngày nhiều khi đến cả tuần mà chưa chịu dứt, mưa thì buồn lắm nhất là với kẻ sống xa nhà, nhà thơ Nguyễn Bính tha hương đến Huế đã không từng than thở là gì!


    Giời mưa ở Huế sao buồn thế! 
    Cứ kéo dài ra đến mấy ngày 


    Nhất là những khi mưa gió bão bùng, nhìn những người đội mưa vì sinh kế, kiếm cái ăn cho gia đình hay hình ảnh một người đơn độc, lặng lẽ đứng trú mưa dưới hiên nhà ai đó luôn là hình ảnh dễ làm tôi chạnh lòng với  ít nhiều thương cảm.
    Trong nhạc phẩm “Mưa Rừng” của nhạc sĩ Huỳnh Anh tôi vẫn thích những câu:


    Nhất là những khi mưa gió bão bùng, nhìn những người đội mưa vì sinh kế, kiếm cái ăn cho gia đình hay hình ảnh một người đơn độc, lặng lẽ đứng trú mưa dưới hiên nhà ai đó luôn là hình ảnh dễ làm tôi chạnh lòng với  ít nhiều thương cảm.
    Trong nhạc phẩm “Mưa Rừng” của nhạc sĩ Huỳnh Anh tôi vẫn thích những câu:

    Mưa từ đâu mưa về, làm muôn lá hoa rơi tả tơi…
    Hoặc…

    Mưa rừng ơi mưa rừng, tìm đâu hỡi ơi bóng người xưa…


    Lớn lên vào Sài Gòn học, phải sống xa nhà, tháng 5, Sài Gòn sắp bước vào hè, thường thì không có mưa nhưng nếu có đi nữa thì mưa cũng không dài như mưa miền Trung, mưa ào một cái như trút nước chừng 15 hay 20 phút rồi dừng, khách qua đường gặp những cơn mưa bất chợt như thế thường thì chỉ vội tấp vào bất cứ hiên nhà nào bên đường để trú mưa. Những cảnh trú mưa này ít nhiều đã để lại những kỷ niệm đáng yêu đối với tôi. 

    Bài thơ “Hạt Mưa Đầu Hạ” được tôi sáng tác với những tình tiết lãng mạng dưới đây cũng nằm trong cảnh trú mưa đáng yêu đó.


    HẠT MƯA ĐẦU HẠ
    Hạt mưa đầu hạ trên trời
    Theo em mưa xuống hiên ngoài nhà ai
    Chạy mưa bước ngắn bước dài
    Hiên nhà bỗng chốc mấy ai mà đầy

    Ờ sao em nép thế này
    Để tôi mong mãi chiều nay mưa hoài
    Hạt mưa ngắn…hạt mưa dài…
    Hạt trong văn vắt…hạt cài tóc em…

    Tiếng mưa rả rích gieo thềm
    Nghe sao như tiếng ru êm bên mình
    Nép gần thêm nữa đi em
    Mùi hương con gái dịu mềm là sao

    Mưa đầu mùa mấy dài lâu
    Mà sao tôi muốn dài lâu riêng mình
    Trú mưa bao kẻ vô tình
    Như cơn mưa bất thình lình đó thôi

    Thế là đang lúc mưa rơi
    Bỗng dưng chậm hạt chưa lơi đã dừng
    Thế là mưa chẳng buồn vương
    Hạt mưa đầu hạ dễ thường riêng ai

    Bước em thấp thỏm vội rời
    Ngoài kia trăm ngả bước đời về đâu
    Tiếc chi những hạt mưa mau
    Tiếc mà chi bước cơ cầu thế nhân

    Chiều nay lất phất ngoài sân
    Hạt mưa đầu hạ gieo vần thơ tôi


    Trước khi hòa bình lập lại năm 1954, gia đình ba má tôi còn ở quê, thời gian này tôi đã được sinh ra và lớn lên dưới lũy tre làng, đã từng nghe tiếng ầu ơ hát ru của mẹ bên dòng sông nhỏ. Với tôi, lũy tre xanh là hình ảnh của một cái gì quen thuộc và thân thương mà tuổi thơ tôi đã trải qua.


    Cho đến bây giờ dẫu nơi chốn tha hương tôi cũng không thể nào quên được những lũy tre xanh ngắt của quê nhà, những vòm tre mọc ở bên đường, ngọn tre đan vào nhau và vươn lên từng khóm như muốn ôm ấp mái nhà tranh nhả khói lúc chiều tà. 


    Lũy tre xanh, vòm tre xanh là những từ nghe thật gần gủi, êm tai mang hơi hướm cỏ nội hương đồng trong âm vang lùa qua của gió. 


    Có sinh ra và lớn lên ở làng quê mới thẩm thấu được trọn vẹn những hình ảnh của lũy tre làng. Bài thơ “Lũy Tre” tôi sáng tác dưới đây là hình ảnh chẳng những của quê hương tuổi thơ tôi mà còn là hình ảnh của quê hương một thời chinh chiến mà tôi đã trải qua.
    Em lớn lên từ dưới lũy tre xanh
    Dưới tiếng hát mẹ ru bên dòng sông nhỏ…

    LŨY TRE
    Lũy tre có tự khi nào?
    Mà xanh xanh ngắt một màu tre xanh
    Thân gầy cành lá xanh đan 
    Cho thôn cho xóm nên làng tre ơi
    Từ xa thấy lũy tre rồi
    Càng thêm háo hức chân người về quê
    Chang chang nắng đổ trưa hè
    Mái tranh mát với bóng tre quanh làng
    Bão bùng tre vẫn hiên ngang
    Dẻo dai thân uốn chẳng màng lưng cong
    Thẳng người nào chịu đứng khom
    Dẫu cành lá vẫn ôm choàng lấy thân
    Đời tre cúi xuống đời măng
    Là truyền sức sống nuôi mầm tương lai
    Những trưa nắng đổ đường dài
    Thương người tre đứng miệt mài bóng che
    Quê nghèo tre chẳng hề chê 
    Đất cằn tre vẫn chẳng nề sinh sôi
    Một đời bao bọc quen rồi
    Một đời thân thiết với người với quê
    Có gì phía sau lũy tre
    Tình chòm xóm đã chuyền qua bao đời
    Tre xanh thắm cả tình người
    Thấm hồn dân tộc thấm lời quê hương


    Ngày xưa, thời còn chinh chiến, tôi đã từng qua những, vùng sông nước miền Tây. Nói đến miền Tây, chắc ai cũng biết, nó là miền của sông nước mênh mông, với ruộng đồng sông lạch, vùng của Cửu Long Giang. Ở đây các hoạt động vận chuyển đều phụ thuộc vào thuyền bè trên sông nước. Có lần ngồi uống rượu chung với khách thương hồ trên những chuyến đò dọc tại một bến của dòng sông lớn, được nghe họ kể về những mối tình của họ dọc theo những bến sông mà thấy thương cảm cho những đời gái quê lỡ trao thân theo người tứ chiếng. Tôi sáng tác bài thơ này cũng vì cảm nhận đó.

    ĐÒ DỌC
    Em tôi bỏ chuyến đò ngang
    Em theo đò dọc vô vàn xa xăm
    Một lần em có về thăm
    Rồi đi đi mãi biệt tăm không về
    Nắng chiều thoi thóp bờ tre
    Sao em quên vội lời thề với anh
    Chắc làng ở cạnh dòng sông
    Nên bao cô gái lấy chồng đều xa

    Trai làng thì cứ thật thà
    Ngêu ngao hát mãi bài ca chung tình
    Thương ai như đám lục bình
    Sông hồ một kiếp lênh đênh theo dòng

    Nông sâu, bồi lở, đục trong
    Bến quê như thể mãi mong đợi người
    Về đâu bèo dạt mây trôi
    Về đâu sông nước ai người biết chăng

    Mưa bay lất phất ngoài sông
    Một con đò dọc âm thầm nhổ neo


    HÌNH NHƯ
    Hình như trời chớm vào thu
    Tinh mơ đã có sương mù mong manh
    Hình như màu lá bớt xanh
    Thoảng trong hơi gió hương đồng dần phai

    Nắng như nhạt sắc hương ngoài
    Đã nghe chớm chút u hoài xa xăm
    Lâu nay ngỡ đã yên nằm
    Ở trong cùng tận đáy lòng thu ơi

    Vào thu chỉ để bao người
    Buồn thu hiu hắt đầy vơi ít nhiều
    Giao mùa chỉ để cô liêu
    Giữa lòng nhân thế bao điều hư hao

    Hình như có gió lùa vào
    Cửa phòng tôi mở lúc nào chẳng hay


    CHIỀU HÔM
    Tà dương vỗ cánh chim trời
    Hoàng hôn cúi xuống góc đời tha phương
    Nhớ gì bằng nhớ cố hương
    Cô giang một mái chèo buông theo dòng

    Buồn tay níu lấy thinh không
    Lao xao con nước thì thầm đuổi nhau
    Xa xanh xanh ngắt một màu
    Đục trong mấy bến nông sâu mấy dòng

    Thèm nghe tí tách bếp hồng
    Mái quê thở khói mục đồng về thôn
    Thèm nghe tiếng ốc thổi dồn
    Ngư dân háo hức cánh bụồm xa khơi

    Thèm trong nỗi nhớ chơi vơi
    Trong từng hơi hướm ngọt bùi quê hương
    Giật mình tóc đã điểm sương
    Tàn cơn rong ruổi còn vương bụi hồng

    Chiều hôm phủ xuống mênh mông
    Quyện vào nỗi nhớ ngập lòng bên song.


    GẶP LẠI 
    Bao nhiêu vật đổi sao dời
    Tan đàn xẻ nghé dập vùi bao phen
    Tình cờ ta gặp lại em
    Xứ người lưu lạc ngỡ quên nhau rồi
    Cũng may còn chút gì rơi
    Rớt trong ánh mắt nụ cười ngày xưa
    Tóc em sợi nắng sợi mưa
    Nét mai ra vẻ xế trưa cũng nhiều
    Giữa dòng lưu lạc gieo neo
    Thương em tay chống tay chèo lẻ loi
    Thơ Kiều lục bát nổi trôi
    Có vần nào vận vào đời em chăng
    Nợ dâu tội nghiệp thân tằm
    Em tôi dang díu nợ nần hồng nhan
    Cũng trèo leo với đa đoan
    Để rồi trật vuột dở dang nửa chừng
    Để rồi nhắm mắt đưa chân
    Để rồi lặn hụp giữa dòng mông mênh
    Nhìn em rồi ngắm lại mình
    Cũng trôi nổi cũng lênh đênh theo dòng
    Quê nhà một ngóng hai mong
    Hỏi thu thu đợi hỏi đông đông chờ
    Hỏi xuân xuân quá hững hờ
    Hỏi tình lưu lạc ngu ngơ đáp lời
    Nhìn nhau hai đứa cùng cười
    Mà nghe thấm thía chiều ơi..! Xứ người


    MẸ QUÊ
    Thương hoài bà mẹ Việt Nam
    Mong con mắt lệ mỏi mòn bao năm
    Chiều nay ngoài chốn xa xăm 
    Có đời lưu lạc nhớ thầm mẹ quê
    Thân cò dầu dãi nắng mưa
    Dâu tằm trút mãi sớm khuya tảo tần
    Đời con lưu xứ bao năm
    Đâu bằng đời mẹ nhọc nhằn mấy mươi
    Nuôi con từ thủa nằm nôi
    Từ lời ru mẹ à…ơi… ngọt bùi
    Mẹ vui khi thấy con cười
    Con buồn mẹ lại đứng ngồi không yên
    Dạt dào tình mẹ triền miên
    Mẹ là tất cả của niềm thương yêu
    Mẹ tôi nay đã về chiều
    Mà sao mắt mẹ vẫn nhiều lệ rơi
    Mưa nhiều ướt lá mồng tơi
    Ướt con đường dốc một đời mẹ qua
    Mưa nhiều ướt áo bà ba
    Ướt màu tóc mẹ phôi pha sắc trời
    Con đi mưu chuyện lỗ lời
    Héo hon mẹ đợi cuối đời chưa thôi
     

    RA ĐI

    “Ra đi là sự đánh liều
    Nắng sớm ai biết mưa chiều ai hay” (1)
    Ra đi cho đó xa đây 
    Cho nghe biết mấy lòng đầy gió sương
    Ra đi là sự cùng đường
    Tìm trong tắc biến dễ thường mấy ai
    Ra đi nào biết ngày mai
    Thương quê cũng mặc, thương ai cũng đành
    Ra đi tóc vẫn còn xanh
    Giờ thì tóc đã đổi thành muối tiêu 
    Dõi về quê cũ thân yêu
    Sông xa mấy khúc, chim kêu mấy ngàn
    Tháng năm thương nhớ vô vàn 
    Ngẫm đời lưu lạc mà càng thương thân
    Sông xưa chắc đã thay dòng?
    Người xưa giờ biết đục trong bến nào?
    Tìm về trong giấc chiêm bao
    Chập chờn hình bóng thủa nào phôi phai
    Bạn bè còn mất những ai
    Hỏi ra mới biết còn vài đứa thôi
    Ai đi về phía quê tôi
    Làm ơn cho nhắn vài lời nhớ thương
    Ngóng về cố lý mờ sương
    Nghe bao sầu nhớ còn vương cuối chiều

    (1) ca dao

    VỘI                

    Cho bà xã Thu Nga 

    Em ơi, đừng vội vã già (1)
    Trăm năm dẫu ngắn cũng là trăm năm 
    Khuyết tròn trăng vẫn là trăng 
    Đời cho được mấy nhiêu rằm làm riêng


    Em ơi, đừng vội vã phiền
    Tình ta mấy lúc mà nên đá vàng
    Trách chi chút nghĩa cũ càng
    Mấy ai giữ mãi bóng vang một thời


    Em ơi, đừng vội ngậm ngùi
    Cứ tìm hưng phế cuộc đời mà yêu
    Mai kia mốt nọ xế chiều
    Thôi em tưởng tiếc ít nhiều mà chi


    Nghe em đừng vội làm gì
    Cứ thong thả bước mà đi với đời
    Dẫu qua bao cuộc đổi dời
    Mãi luôn đằm thắm nụ cười nghe em

    (1): trích câu thơ Nguyễn Duy

    EM GÁI

    Hôm qua hạnh phúc đến tìm

    Ân cần gõ cửa sao em vắng nhà

    Đường lầy em muốn đi xa

    Lối trơn em thích vượt qua một mình

    Đùa dai dẳng với ái tình

    Rồi đem chuyện bất thình lình cợt chơi

    Thế là sau mỗi trận cười

    Em tôi lệ đẫm đầy vơi má đào

    Nhưng rồi em quẹt lệ mau

    Thay hương thay phấn đổi màu son môi

    Bao nhiêu lần thách thức đời

    Bấy nhiêu lần tóc dần phôi phai dần

    Thản nhiên xem cứ như không

    Em đong em đếm tình gần tình xa

    Tình này chẳng mấy thiết tha

    Tình kia ừ chỉ mặn mà thế thôi

    Quỷ tha ma bắt em tôi

    Cứ như giỡn hớt đùa chơi cuộc đời

    Chiều nay mưa gió tơi bời

    Em tôi bèo giạt hoa trôi nữa rồi

    ƯỚC GÌ
    Ước gì ôm được quê hương
    Vào lòng cho thoả nhớ thương cõi lòng
    Ngỡ rằng cách núi ngăn sông
    Ngỡ rằng xa mặt cách lòng quê ơi
    Càng xa càng nhớ khuôn nguôi
    Thiết tha như nỗi nhớ người tình chung

    Đôi khi hạnh phúc vô cùng
    Trong dòng suy tưởng mông lung tìm về
    Chỉ là lắt lẻo cầu tre
    Hiu hiu ngọn gió trưa hè con sông
    Chỉ là những mái nhà tranh
    Chiều về nhả khói quây quần bên nhau
    Chỉ là nhịp võng đêm thâu
    Mẹ ru con giấc ngủ sâu êm đềm

    Bao nhiêu nỗi nhớ không tên
    Bấy lâu nay tưởng ngủ quên trong lòng
    Thời gian cùng những hoài mong
    Là niềm trắc  ẩn mảnh lòng tha phương
    Ước gì hôn được quê hương
    Như là từng được hôn em thủa nào
    Để tôi hôn ngọt hôn ngào
    Sông dài biển rộng biết bao nhiêu tình

    Ước gì quê ở bên mình
    Để trang trải mối u tình với quê
    Để cười để nói mải mê
    Để lòng tôi thấy hả hê với đời
    Để tôi rủ nắng trên trời
    Xuống đây sưởi ấm tình người phương xa
    Để nhìn chiếc áo bà ba
    Bên dòng sông Cửu chan hoà nắng quê
    Để nghe rộn bước chân về
    Ba mươi sáu phố phường xưa xa nào
    Để tôi chẳng hiểu vì sao
    Câu thơ lục bát đi vào nón em
    Chiều về nắng đổ nghiêng nghiêng
    Vàng phai tà áo dài em trên đường

    Ước gì làm được khói sương
    Để tôi quyện với Trường Sơn, Thái Bình
    Im nghe con nước thề nguyền
    Núi mòn biển cạn vẫn tròn thuỷ chung
    Ước gì làm được dòng sông
    Chảy về hợp với Cửu Long, Hồng Hà
    Căng bầu sữa mẹ phù sa
    Nuôi hai bồ lúa quê nhà bội thu
    Xoá tan đi lớp sương mù
    Đói nghèo quanh quẩn cầm tù quê hương

    Ước gì thấy được quê hương
    Như là từng thấy tuyết sương xứ người
    Sài Gòn, Hà Nội, Huế ơi !
    Ở đây chỉ có một trời nhớ thương
    Chân đi khắp lối cùng đường
    Vẫn chưa đi nổi một phương quê nhà

    Bôn ba khắp nẻo đường xa
    Hôm nay cảm thấy nhớ nhà làm sao

  • Tác giả và Tác Phẩm,  Thơ,  Văn Thơ

    NHỚ HOÀI CẢNH CHỊ XOÁY THEO DÒNG NƯỚC

    Người em trai “nàng thơ” bảo rằng suốt mấy chục năm trời, cả gia đình không ai dám đọc, dám nghe bài thơ Mầu tím hoa sim vì nó quá thật, gợi sự “rờn rợn” và nỗi đau đớn tiếc thương.

    Từ thành phố Thanh Hóa, chúng tôi tìm về ấp Thị Long, huyện Nông Cống – nơi được ghi “người vợ chờ bé bỏng chiều quê” nằm lại.

    Bất ngờ qua điện thoại, ông Nguyễn Hữu Đán bảo: “Mẹ già tôi không nằm ở Nông Cống. Mẹ đang nằm ở nghĩa trang làng Định Hòa ở thành phố Thanh Hóa, cũng là quê của bà”.

    Kỳ 2:  Nhớ hoài cảnh chị xoáy theo dòng nước - Ảnh 1.

    Làng Định Hòa thuộc phường Đông Cương, nằm cách cầu Hàm Rồng vắt qua sông Mã non ba cây số đường chim bay.

    Tìm đến nhà thờ họ Lê Đỗ, ông thủ từ Lê Đỗ Dạng say sưa giới thiệu về ngôi nhà thờ cổ ba gian chạm trổ công phu được làm từ thời Khải Định, là nhà thờ cổ hiếm hoi, gần như duy nhất còn lại trong vùng.

    Bên bảng phả hệ treo trên bức tường, ông diễn giải ngài tổ Lê Thành đến đất Định Hòa lập ấp từ mấy trăm năm trước, vốn là công thần nhà Lê Trung hưng được ban quốc tính nên con cháu về sau lấy họ Lê Đỗ.

    Bảng phả hệ thể hiện người cha Lê Đỗ Kỳ đời thứ 17, bà Ninh đời 18.

    Nằm cách khu dân cư Định Hòa một cánh đồng rộng trồng nhiều hoa hồng và rau màu tươi tốt, nghĩa trang họ Lê Đỗ được xây dựng qui mô với hàng trăm ngôi mộ xếp theo thế thứ.

    Phần mộ “nàng thơ” nằm ở dãy thứ sáu, tấm bia ghi rõ: “Mộ chí bà Lê Thị Ninh, đời thứ 18, sinh năm 1932, tạ thế 29-4-1949”.

    Kỳ 2:  Nhớ hoài cảnh chị xoáy theo dòng nước - Ảnh 2.

    Sau khi thắp hương, ông Dạng dẫn chúng tôi vào làng tìm gặp ông Lê Đỗ Tùng, trưởng ban điều hành dòng họ.

    Ông Tùng là cán bộ về hưu, không biết có người trong họ vốn là “nàng thơ” dù ông rất thích bài thơ Mầu tím hoa sim. Ông “hi vọng” nhiều thông tin sẽ nằm trong gia phả mà mình lưu giữ.

    Chúng tôi lần giở bản gia phả trong sự hồi hộp, bỗng “bắt phải vàng” khi ở đời thứ 18, mục 238, ghi rõ rành: “Lê Thị Ninh, tức Lê Đỗ Thị Ninh (1932-1948, giỗ ngày 29-5), cha: Lê Đỗ Kỳ, mẹ: Đái Thị Ngọc Chất, chồng: Nguyễn Hữu Loan (nhà thơ, 1916-2010), mộ ở làng Định Hòa”.

    Thông tin trong gia phả dù vài độ lệch về ngày tháng nhưng khẳng định rõ phần mộ kia chính xác là “người vợ chờ bé bỏng chiều quê” của thi sĩ tài hoa Hữu Loan.

    Kỳ 2:  Nhớ hoài cảnh chị xoáy theo dòng nước - Ảnh 4.

    Nhờ ông Tùng, chúng tôi liên lạc với ông Lê Đỗ Bình – em trai “nàng thơ” – và chốt cuộc hẹn tại Hà Nội.

    Ngồi trên phiến đá xanh trước đền Ngọc Sơn bên hồ Gươm, ông Bình kể nhiều về một thời loạn lạc tứ tán. Từ đầu năm 1947, tiêu thổ kháng chiến, ngôi nhà lớn ở Thanh Hóa bị giật sập, cả gia đình sơ tán lên ấp Thị Long sinh sống, nơi người bố có trang trại rộng chừng 5 – 7 mẫu.

    Đến đoạn, giọng ông chùng nghẹn xuống, nhắc hình ảnh người chị xoáy trôi theo dòng nước suốt mấy chục năm vẫn mãi trong tâm trí.

    “Sông Chuồng hôm ấy đang mùa nước dữ, nước chảy xiết, dâng cao. Mẹ tôi cùng chị Ninh đưa quần áo ra bến giặt, tôi và hai đứa em nữa theo sau. Chị Ninh không may bị trượt chân, tôi nhìn rõ cảnh chị bị dòng nước xoáy cuốn vào và đưa đi.

    Mẹ tôi la hét gọi người đến cứu nhưng vì dân ở cách xa, không ai nghe thấy. Mãi lúc sau, một thanh niên xuống vớt chị lên, cách chỗ trượt chân khoảng chừng trăm mét. Mẹ tôi bất thần không biết gì nữa” – ông Bình kể.

    Tang trùng tang, bà Đái Thị Ngọc Chất đau đớn tột cùng bởi người mẹ ruột sống cùng mình cũng qua đời trước đó không lâu. Bà cho an táng con gái cạnh người mẹ.

    Mãi đến năm 1967, bà sai ông Bình về Thị Long tìm mộ mẹ và con gái đưa về cải táng đầu làng Định Hòa. Sau này khi Trường cao đẳng nghề Công nghiệp Thanh Hóa xây dựng, phần mộ bà Ninh tiếp tục được dời đến nghĩa trang gia đình.

    Trong câu chuyện dài, ông nhớ mãi hình ảnh người chị gái có “khuôn mặt khá bầu, người hơi đậm, thấp và nhỏ nhắn” và ngậm ngùi vì di ảnh duy nhất bị thất lạc trong chiến tranh.

    Kỳ 2:  Nhớ hoài cảnh chị xoáy theo dòng nước - Ảnh 5.

    Sau đợt cải cách ruộng đất 1954, ông Bình tìm về Vân Hoàn ở cùng anh rể hơn 1 tháng mới ra Hà Nội.

    Ông nhớ mãi Hữu Loan hồi đó “suốt ngày đọc sách rồi đi ra đi vào, viết lách làm thơ. Thỉnh thoảng anh đưa tôi đi về mấy xóm chài xem họ xiếc tép, làm cá. Cái thời cơm gạo khó khăn, hai anh em ăn toàn khoai lang”.

    Sau đó không lâu, khi Hữu Loan đang làm báo Văn Nghệ, ông Bình cũng tìm đến nhà anh rể gần Văn Miếu – Quốc Tử Giám ở lại 2 tuần để chờ một người anh từ chiến khu trở về.

    Năm 1985, ông Bình lại về thăm anh rể ở Vân Hoàn, giai đoạn bài thơ Mầu tím hoa sim “đã công khai, nổi tiếng như cồn”. Ông kể: “Anh Loan bảo tôi: “Người ta sẽ đến đây tìm mộ nàng thơ Mầu tím hoa sim. Tôi muốn đưa mộ bà Ninh về Vân Hoàn này”.

    Tôi trả lời anh rằng chị gái đã bị di dời nhiều lần, nay đã mồ yên mả đẹp. Vả lại anh bây giờ đã yên bề gia thất, mười đứa con sum vầy, có người chăm sóc. Đưa chị về đây cũng cô quạnh lắm, chẳng nên chút nào”.

    Kỳ 2:  Nhớ hoài cảnh chị xoáy theo dòng nước - Ảnh 6.
    Kỳ 2:  Nhớ hoài cảnh chị xoáy theo dòng nước - Ảnh 7.

    Ông Bình kể khi còn sống, mẹ không bao giờ cho nghe bài thơ Mầu tím hoa sim. Hễ ai đọc lên là bà khóc. Mãi sau khi mẹ qua đời (1987), anh em trong gia đình mới đọc và nghe các bài hát phổ thơ, vậy mà không lần nào không rơi nước mắt.

    “Bây giờ chúng tôi già rồi, “trơ” ra rồi, vậy mà đọc còn thấy đau xót lắm, bởi anh Hữu Loan viết tình cảnh rất thật. Ba người anh đi bộ đội, người em chưa biết nói đều có.

    Còn đồi sim, trong trí nhớ tôi hồi ấy nơi trang trại ở vùng bán sơn địa Thị Long, màu tim tím cứ trải dài đến tận núi. Rồi những hình ảnh mẹ tôi “ngồi bên mộ con đầy bóng tối”, “bình hoa ngày cưới thành bình hương”… tất cả đều thật hết” – dừng kể, ông khẽ đọc những câu thơ trong nỗi buồn miên man.

    Câu chuyện gia đình Hữu Loan lẫn gia đình “nàng thơ” Mầu tím hoa sim cho biết Hữu Loan luôn thương, kính và biết ơn người mẹ vợ Đái Thị Ngọc Chất.

    Tuy nhiên, theo ông Bình, có lẽ vì hai bên “có khác nhau” nên ít liên lạc. Đến khi người mẹ mất ở Hà Nội, gia đình ông cũng không báo.

    Khi biết tin, Hữu Loan đã làm đôi câu đối vừa thể hiện dâng mẹ, vừa ẩn ý trách cứ:

    Kỳ 2:  Nhớ hoài cảnh chị xoáy theo dòng nước - Ảnh 8.
    Kỳ 2:  Nhớ hoài cảnh chị xoáy theo dòng nước - Ảnh 9.
  • Tác giả và Tác Phẩm,  Thơ,  Văn Thơ

    TỪ ĐỨA BÉ ĐẺ RƠI ĐẾN BÀI THƠ TÌNH THẾ KỶ

    Chùa Vân Lỗi nằm cách đường vào thôn Vân Hoàn chừng vài chục bước chân. Câu chuyện ra đời của Hữu Loan được người sãi giữ chùa kể đã lan truyền rất lâu ở làng.

    Chiều cuối xuân nhạt nắng, từ thành phố Thanh Hóa, chúng tôi đi khoảng 30km về trung tâm huyện Nga Sơn. Từ xa đã dễ dàng nhận thấy ngọn núi Vân Hoàn sừng sững vươn lên giữa đồng bằng.

    Nép bên sườn núi, nhìn ra sông Mã, chùa Vân Lỗi nằm cách đường vào thôn Vân Hoàn chừng vài chục bước chân.

    Kỳ 1: Từ đứa bé đẻ rơi đến bài thơ tình thế kỷ - Ảnh 1.

    Được xây dựng từ thế kỷ XIV thời nhà Trần, vách núi của ngôi chùa từng mang tên Sùng Nghiêm Tự này vẫn còn in dấu nhiều bài thơ do tiền nhân để lại.

    Nhưng không chỉ thế, 104 năm trước, nơi đây còn gắn liền với sự ra đời của một nhà thơ tên tuổi khá đặc biệt trong văn học Việt Nam: Hữu Loan.

    Đứng trên những bậc đá cheo leo lên chùa, ông Nguyễn Hữu Dũng, người sãi giữ chùa, nở nụ cười thân thiện mời chào.

    Nghe chúng tôi hỏi thăm về thi nhân Hữu Loan, ông “khoe” ngay: “Tôi gọi nhà thơ là chú, bố tôi với nhà thơ là anh em chú bác ruột. Hồi xưa, ông ấy được đẻ loi (đẻ rơi) ngay cánh đồng trước chùa đây chứ đâu”.

    Vừa nói, ông Dũng vừa hướng ra đồng cói xanh xanh trước chùa, phía xa là con sông Mã hiền hòa uốn lượn.

    Kỳ 1: Từ đứa bé đẻ rơi đến bài thơ tình thế kỷ - Ảnh 2.

    Câu chuyện ra đời của Hữu Loan được người sãi giữ chùa 76 tuổi kể đã lan truyền rất lâu ở làng.

    Ban đêm, sư trụ trì Sùng Nghiêm Tự bỗng thấy một vầng sáng vàng lóe lên phía trên núi Vân Hoàn. Rạng sáng hôm sau, một người phụ nữ đang làm đồng phía trước chùa lên cơn đau đẻ bất ngờ. Lê vào tới thềm chùa thì bà sinh rớt con ngay ở đó.

    Sư trụ trì ngày ấy nói với người phụ nữ rằng đứa bé con bà rất đặc biệt, hẳn sau này sẽ hơn người. Đứa bé đó chính là nhà thơ Hữu Loan.

    Cậu bé Hữu Loan lớn lên với trí thông minh, học đâu nhớ đó càng khiến nhiều người làng tin vào “điềm trời”.

    Dù nhà nghèo Hữu Loan vẫn được cha mẹ cho theo con đường ăn học. Để rồi năm 1938, 22 tuổi, con đường học vấn của Hữu Loan tỏa sáng khi đỗ “tú tài Tây” tại Hà Nội, bằng cấp thời ấy rất hiếm người đạt tới.

    Chỉ cần có bằng tú tài là đủ để tìm việc trong một cơ quan hành chính đương thời, nhưng cơ hội ấy chưa bao giờ nằm trong ý định của Hữu Loan. Sau khi có bằng tú tài Tây, ông hành nghề dạy học ngay trên quê hương mình.

    Kỳ 1: Từ đứa bé đẻ rơi đến bài thơ tình thế kỷ - Ảnh 3.
    Kỳ 1: Từ đứa bé đẻ rơi đến bài thơ tình thế kỷ - Ảnh 4.
    Kỳ 1: Từ đứa bé đẻ rơi đến bài thơ tình thế kỷ - Ảnh 5.

    Trong suốt hành trình chúng tôi tìm hiểu về Hữu Loan, câu chuyện về xuất phát điểm của bài thơ được rất nhiều người kể lại gần như nhau.

    Hồi đó ở số 48 Phố Lớn (Trần Phú, Thanh Hóa ngày nay), bà Tham Kỳ (tức Đái Thị Ngọc Chất, vợ ông Lê Đỗ Kỳ, chánh thanh tra Đông Dương về canh nông) mở cửa hiệu tạp hóa bán nhiều loại giấy bút, sách vở.

    Kỳ 1: Từ đứa bé đẻ rơi đến bài thơ tình thế kỷ - Ảnh 6.

    Là con ông Đái Xuân Quảng (một cử nhân Hán học, từng làm tri huyện), nên bà Tham Kỳ giỏi Hán ngữ lẫn Pháp ngữ, đam mê thơ phú, thuộc nhiều tác phẩm văn học cổ như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm khúc…

    Thời gian ở Thanh Hóa học tú tài, Hữu Loan vẫn thường xuyên lui tới cửa hiệu của bà Chất để thỏa mãn niềm đam mê sách vở. Rất quý mến chàng trai con nhà nghèo hiếu học, bà Chất đã mời Hữu Loan về dạy kèm cho ba con trai của mình.

    Lần đầu tiên Hữu Loan về nhà bà Chất, con gái thứ tư của bà vẫn còn là cô bé con.

    Bẵng đi một thời gian, khi đã là thầy giáo đang dạy Trường Alexandre de Rhodes do nhà thờ Công giáo ở Thanh Hóa lập, Hữu Loan lại được bà Chất mời về nhà dạy cho chính cô con gái này, lúc đó đã là cô bé Lê Đỗ Thị Ninh 8 tuổi.

    Một thời gian sau, Hữu Loan tham gia kháng chiến.

    Ông Nguyễn Hữu Đán, con trai út Hữu Loan, tâm sự: “Bố tôi kể sau ngày độc lập 2-9-1945, khi đang làm tuyên huấn, cụ đã diễn thuyết vận động nhân dân ủng hộ cách mạng trong Tuần lễ vàng ở Thanh Hóa.

    Vô tình thấy cụ đang diễn thuyết, lúc đó là con nhà giàu đeo nhiều nữ trang, mẹ Ninh đã tháo ra hết ủng hộ cách mạng.

    Về nhà, mẹ giải thích chuyện không còn vàng bạc với người mẹ là bà Tham Kỳ, rằng: “Mẹ ơi, hôm nay con gặp anh Loan. Anh đọc diễn văn Tuần lễ vàng trước bao nhiêu người, anh thông minh, giỏi lắm mẹ ạ”.

    Là phụ nữ, biết “bệnh” tương tư, người mẹ hiểu rõ tâm tình của cô con gái hay nhắc đến “anh Loan”.

    Sẵn mối cảm mến đặc biệt với thầy giáo và biết được tình ý của con gái, bà Tham Kỳ đã viết bức thư rồi sai người cậu tên Ngân chuyển vào nơi Hữu Loan đóng quân.

    Nội dung nôm na: Cái Ninh nhà tôi nó khen anh lắm, hôm nọ vì anh mà nó tháo hết vàng bạc để ủng hộ cách mạng. Nó nhắc anh suốt. Nếu anh có ưng thì gia đình sẽ gả Ninh cho anh, đồng ý thì anh về sớm…

    Cũng chính bà Chất đã kết duyên cho mối tình đầu đời của Hữu Loan. Sau tiêu thổ kháng chiến, khi bà Chất các con về sơ tán ở ấp Thị Long, Nông Cống (cách thành phố Thanh Hóa chừng 30km), Hữu Loan đã xin về phép và có một đám cưới giản đơn nhưng đầy hạnh phúc.

    Một đám cưới chân thật như lời thơ của ông:

    “Ngày hợp hôn

    Nàng không đòi may áo cưới

    Tôi mặc đồ quân nhân

    Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân

    Nàng cười xinh xinh

    Bên anh chồng độc đáo.

    Tôi ở đơn vị về

    Cưới nhau xong là đi!”.

    Để rồi ba tháng sau đó, người vợ qua đời trong đau đớn.

    Một trong những người ở cùng Hữu Loan trong kháng chiến lúc bấy giờ là nhà thơ Vũ Cao từng viết lại thời khắc đau thương nhất của Hữu Loan: “Trong một quán nhỏ ở Thanh Hóa, anh báo tôi biết cái tin đột ngột: Lê Đỗ Thị Ninh vừa mất. Bàn tay anh cầm cốc nước run lên bần bật, nước bắn tung tóe xuống bàn, mặt anh tái xanh”.

    Và những đau đớn ấy theo suốt đường hành quân xa, những vần thơ bất hủ cứ thế theo dòng cảm xúc của nhà thơ tài ba ra đời.

    Kỳ 1: Từ đứa bé đẻ rơi đến bài thơ tình thế kỷ - Ảnh 7.

    Sau thời gian “truyền tụng ngầm”, bài thơ Mầu tím hoa sim lần đầu tiên được Nguyễn Bính cho đăng trên báo Trăm Hoa. Không ít ý kiến “quy kết” bài thơ là “thứ văn chương ủy mị, mang tư tưởng tiểu tư sản”, được xem là nguyên cớ để Hữu Loan rời báo Văn Nghệ về quê lao động, thồ đá nuôi con.

    Ở miền Nam, tác phẩm Mầu tím hoa sim được các nhạc sĩ tài hoa như Phạm Duy, Anh Bằng, Dzũng Chinh phổ nhạc, làm thổn thức biết bao trái tim.

    Đến năm 2004, Mầu tím hoa sim được một công ty ở TP.HCM mua tác quyền với giá 100 triệu đồng…

    Kỳ 1: Từ đứa bé đẻ rơi đến bài thơ tình thế kỷ - Ảnh 8.
  • Tác giả và Tác Phẩm

    Nhà văn Hồ Trường An – Sống Theo Cái Đức

    Nhà văn Hồ Trường An – Sống Theo Cái Đức

    Hồ Trường An

    LTS: Nhà văn Hồ Trường An đã qua đời hôm Thứ Hai, ngày 27 tháng 1, năm 2020, tức Mồng Ba Tết Canh Tý, tại Troyes, Pháp, hưởng thọ 82 tuổi.

    Ngoài những sáng tác  của HTA được nhiều người biết đến, là tác giả 60 tác phẩm gồm truyện ngắn, tiểu thuyết, tiểu luận và bút ký,  Ông còn được dư luận quan tâm khi trao đổi vấnđề xã hội – giới tính – đồng tính luyến ái –… Lúc còn sinh tiền Ông không ngại ngùng và phá biểu thẳng thắn, bộc trực về vấn đề “giới tính”. Việc “đồng tính luyến ái” nay trong những xã hội dân chủ đã trở thành bình thường, bớt thành kiến, thôi không còn “khắt khe” như trước.

    Lưu Diệu Vân thực hiện – 15.05.2008

    Nhà văn Hồ Trường An tên thật là Nguyễn Viết Quang. Sinh ngày 11 tháng 11, 1938 tại Vĩnh Long. Ông định cư tại Pháp vào năm 1977 và hiện đang sống ở thành phố Troyes. Ông đã cộng tác với nhiều tạp chí văn chương trong và ngoài nước và là tác giả 60 tác phẩm gồm truyện ngắn, tiểu thuyết, tiểu luận và bút ký. Ông vẫn tiếp tục sáng tác hăng say và hiện là một trong số ít tác giả lưu vong có số sách xuất bản kỷ lục tại hải ngoại. Ông tạo được một chỗ đứng riêng biệt trong dòng văn chương việt qua lối viết gần gũi và đề tài chân quê chất phác.

    Hôm nay, ngoài cương vị người viết, nhà văn còn sẽ đến với chúng ta qua một vai trò mới khá thú vị – nhà xã hội học bất đắc dĩ – cũng bằng giọng văn thân thiết, gần gũi và sự chân thật đặc trưng của Hồ Trường An.

    LDV: Giới tính là một đề tài khá nhạy cảm và đòi hỏi sự bộc bạch hết sức can đảm từ phía người chia sẻ. Không thiếu những nhà văn Việt viết nhiều về đề tài giới tính, nhưng hầu như ít ai thích nói về nó một cách cởi mở trong những trang viết có tính cách cá nhân, trừ Hồ Trường An. Dũng khí quan trọng như thế nào đối với một người viết?

    ho_truong_an_1991

    HTA: Cô Vân, tôi chấp nhận cuộc phỏng vấn này là môt lời tự thú trong buổi tàn thu cuộc đời. Tôi đã vào tuổi thất tuần rồi, cô ơi! Mỗi đêm, trước khi đi ngủ tôi luôn tự hỏi: sáng mai, mình có thức dậy được không đây? Hay là mình phải làm một chuyến đi tàu suốt vào giấc ngủ miên viễn? Vậy tại sao mình lại giấu diếm cái bí mật trong cuộc sống tình cảm lẫn tình dục của mình? Chấp nhận cuộc phỏng vấn của cô, tôi muốn cho lớp thế hệ bọn gay sau tôi một vài kiến thức hay một vài kinh nghiệm nhỏ nhoi nào chăng?

    Vào những năm đầu của thập niên 80, tiết lộ giới tính và khuynh hướng tình dục của mình mới là hành động can đảm. Hồi đầu thập niên 60, tôi chỉ tiết lộ thân phận mình cho chị Thụy Vũ của tôi cùng một số bạn thân. Bắt đầu năm 1980 tôi có người yêu là dân Pháp chánh gốc, tôi ngang nhiên sống chung với đương sự, tới nay kể ra cũng gần 30 năm. Một phần là tôi tức giận tên Thi Vũ Võ Văn Ái (nhà báo/nhà thơ), nó nỡ đem tâm sự của tôi đi bán rao tùm lum tà la. Cho nên từ đó, khi đi dự các cuộc tiếp tân nào trong giới văn nghệ sĩ kiều bào ở Paris, tôi cũng dắt người bạn lòng của tôi theo. Đương sự nhỏ hơn tôi 9 tuổi, nhưng cái tác của hắn lớn hơn tôi khá nhiều.

    Năm 1983, tôi tung ra quyển Hợp Lưu trong đó có nhân vật gay tên Quế, phản ảnh đôi chút tâm trạng của tôi. Trước tôi, vào năm 1967, bạn tôi tên Đỗ Quế Lâm có viết tiểu thuyết tự truyện tựa là ‘‘Vết Hằn Rướm Máu’’ do chính chị Thụy Vũ tôi viết lời tựa. Sau đó, ở hải ngoại, vào năm 1979, thằng bạn khác của tôi tên Lucien Trọng, một kỷ sư thủy lâm có viết quyển L’Enfer Rouge, Mon Amour do Seuil xuất bản. Sau đó nó dịch ra tiếng việt Hỏa Ngục Đỏ, Mối Tình Tôi kể lại mối tình của nó với một chàng trai bụi đời tên Hải trong thời gian hai đứa bị Cộng Sản giam cầm. Đúng như cô Vân nghĩ, hình như những cây bút gay như Đổ Quế Lâm lẫn Lucien Trọng không dám diễn tả huỵch tẹt như HTA, không mô tả cuộc làm tình tỉ mỉ và tới nơi tới chốn như HTA. Tôi diễn tả chuyện giao hợp giữa cậu trai việt và anh chàng gay quí tộc Pháp khá táo bạo và khá đậm đà. Chính nữ ca sĩ Quỳnh Giao thuở thập niên 80 bảo rằng đây là quyển sách mà Quỳnh Giao thích. Song song, cũng có rất nhiều độc giả chửi tôi khá nặng. Họ gọi điện thoại xài xể luôn anh Mai Thảo vốn là người chủ trương tờ tạp san văn chương Văn, tại sao có thể đăng từng kỳ những chương “dơ dáy nhớp nhúa” của quyển Hợp Lưu?

    Còn chị hỏi tôi cái dũng khí của người viết văn thì tôi khó trả lời. Thiệt ra, tôi chẳng có một chút dũng khí nào. Sở dĩ tôi dám phô bày chơn tướng mình ra vì tôi tức giận kẻ lẻo mép thối mồm. Đã là một tên gay xấu xí mà dám viết truyện qua cái tôi của mình, một nhân vật đẹp trai như Phan An, Tống Ngọc, chẳng những được bọn gay tôn thờ mà còn được phụ nữ mê sa trầm lụy. Cũng đừng vì mình không kiếm được bồ đực để thương yêu giao hợp rồi lên giọng kích bác kẻ đồng tính luyến ái may mắn hơn mình, khuyên họ phải dẹp bỏ thói ‘‘xấu ấy’’ để trở thành kẻ bình thường. Đã là gay rồi thì trở thành kẻ biết yêu người khác phái tính sao được? Văn chương cần sự thành thật của nhà văn dị tính luyến ái đã đành mà còn của một nhà văn gay.

    LDV: Đó là thế giới văn chương, còn trong cuộc sống hiện thực, ông đã từng chứng kiến những người đồng tính luyến ái bị ngược đãi quá mức. Họ có nên thỏa hiệp để tránh việc bị đánh giá thấp?

    HTA: Còn ở ngoài đời, hai chàng gay không nên âu yếm ở chốn công cộng vì đa số người chứng kiến vốn không quen cảnh hôn hít trái cựa như vậy, họ sẽ bị dị ứng và chướng mắt ngay. Cũng đừng phùng xòe bộ đi tướng đứng oai phong lẫm liệt một cách phường tuồng mà bị thiên hạ quở rằng các chàng gay đang đóng vai dũng tướng Địch Luông, Địch Hổ trong tuồng Hồ Quảng hay tuồng hát bội. Cũng đừng ẻo lả thục nữ quá thì chẳng có tên gay nào khác tìm đến xáp cục với mình. Gay nào mà chẳng mê mẫu người có phong độ đàn ông tính? Cũng đừng gạ gẫm ve vãn nhưng kẻ dị tính luyến ái mà chuốc lấy sự bêu rếu, sự lăng nhục của hạng người này.

    Tôi thường nghĩ đồng tính luyến ái là do trời sanh ra, do cái ác nghiệp từ tiền kiếp hiện hành ở kiếp này. Bản tính mình như thế nào thì mình sống theo bản tính ấy, can gì phải giấu diếm? Đau khổ nhứt cho những kẻ vì bảo vệ nghề nghiệp trong các công sở, vì đã lỡ tạo lập gia đình, nên có cuộc sống song đôi. Họ lén lút ăn nằm với bọn gay bán tình và luôn nơm nớp lo sợ chuyện bí mật của mình bị tiết lộ. Đồng tính luyến ái là cái bản tính tự nhiên của một số người. Bắt những chàng gay sống như người bình thường, cưới vợ để sanh con đẻ cái là bắt họ chống lại thiên nhiên.

    Cái tức giận của tôi đối với một tên bạn Võ Văn Ái thèo lẻo ác ôn làm tôi bạo dạn, trở nên thách thức với những kẻ có đầu óc hẹp hòi. Cho nên tôi từ bỏ cuộc sống song đôi, chỉ sống theo cuộc sống bọn gay… cho gọn. Tôi không muốn giả dối, không giấu diếm cái sở thích yêu người đồng phái tính của mình làm chi cho phiền phức. Phải đơn giản hóa cuộc sống, phải sống tràn đầy và nguyên vẹn cuộc đời riêng biệt của mình với tấm lòng thành khẩn thì may ra mới tìm được hạnh phúc.

    LDV: Nhà văn Hồ Trường An định nghĩa giới tính của mình bằng đường lối nào?

    HTA: Cô Vân ơi, câu hỏi nầy trặc trẹo lắm. Tôi không sao có thể định nghĩa giới tính chính mình. Tôi chỉ biết giới tính chia ra làm ba hạng người: hạng thứ nhất là hạng người yêu đương và thích làm tình cùng người khác phái của mình. Đó là những người dị tính luyến ái (les hétérosexuels). Hạng thứ hai là những người yêu đương và thích làm tình với người đồng phái. Đó là những người đồng tính dục (les homosexuels), nhưng nói cho nhẹ nhàng bóng bẩy một chút thì gọi là đồng tính luyến ái (les homophiles); bên nam giới gọi là gay, bên nữ giới thì được gọi là lesbiennes. Lại có người thích làm tình với người khác phái tính lẫn người đồng phái tính. Đó là những người lưỡng tính luyến ái (les bisexuels). Vua Hán Cao Tổ có nhiều quý phi, cung tần, mỹ nữ. Nhưng ông ta thỉnh thoảng tìm các cậu trai mới lớn nuôi sẵn trong biệt viện để ông ta thay đổi thực đơn hành lạc. Những cậu trai như vậy tiếng Pháp gọi là bé cưng (les mignons). Đó là tôi nói theo nhà Trung Hoa học thuật gia Robert Van Gulik qua cuốn biên khảo ‘‘La Vie Sexuelle dans la Chine Ancienne.’’

    Trong giới nghệ sĩ Hoa Kỳ thì Marlon Brando cũng thuộc loại lưỡng tính luyến ái. Anh ta mê phụ nữ da màu và đã trải qua hai đời vợ là Anna Kashfi – lai Ấn, Movita – gốc Mễ-tây-cơ. Nhân tình cũa anh ta gồm có các nữ tài tử France Nuyen – lai Việt, Tarita – người thuộc đảo Tahiti, Rita Moreno – dân Mỹ La-tinh. Nhưng bà vợ Anna Kashfi trong cuốn Brando au Petit Déjeuner xác nhận rằng Marlon Brando lẫn James Dean đều là dân lưỡng tính luyến ái. Trước khi nổi danh, trong thời gian sống ở Paris, Marlon chơi thân với điện ảnh gia Roger Vadim và nam tài tử Christian Marquand. Chính anh chàng Marquand này là người yêu của Marlon Brando. Anh ta người Tây-ban-nha lai Á-rập nhưng sinh sống từ nhỏ ở Pháp, đóng phim Pháp, nổi tiếng đẹp trai và sexy. Christian Marquand cũng là dân bisexuel, sau đó kết hôn với nữ tài tử Tina Aumont. Hư thực ra sao đố ai biết rõ. Chúng ta chỉ biết một khi người vợ bị tổn thương thì việc gì mà không dám nói. Anna Kashfi còn dám viết rằng Marlon Brando có tới ba hòn nang. Khi sống trên tại kinh thành Paris, chàng ta đã cùng Roger Vadim và Christian Marquand đi Monmartre để hành lạc theo kiểu ‘‘nga môn khoái lạc’’ do dân phong lưu Trung Hoa phát minh. Đó là đút dương vật vào hậu môn con vịt, rồi thình lình chặt cổ con vịt để cho hậu môn con vịt siết chặt và buông lỏng liên miên dương vật. Marlon Brando trong quyển hồi ký của mình bảo thẳng thừng rằng : ‘‘Tôi cũng có vài kinh nghiệm về đồng tính dục.’’ Riêng James Dean được báo chí thêu dệt mối tình giữa chàng ta và nữ tài tử gốc Ý Pier Angeli, giữa chàng ta và nữ thần nhục cảm Ursuela Andress gốc Thụy- sĩ. Nhưng lại có tin hành lang cho biết người tình đực rựa của chàng là tài tử bô trai cực kỳ thanh tú và hùng tráng là Tab Hunter.

    Về phía lưỡng tính luyến ái phái nữ thì vào thời Đệ tam Cộng Hòa có hai nàng nữ danh kỹ là Liane de Pougy và Emilienne d’Aleçon sắc nước hương trời. Cả hai đã từ dan díu với các chàng trai quý tộc và các kỹ nghệ gia Hoa Kỳ thuộc hạng tỷ phú. Liane de Pougy đã từng ăn nằm với Hoàng tử vùng Galles nước Anh về sau trở thành vua Edouard VII, còn Emilienne d’Aleçon đã từng dan díu với vua Léopold II nước Bỉ. Cả hai cô danh kỹ kia còn là nữ sĩ văn chương. Liane viết 7 cuốn tiểu thuyết, nổi tiếng nhứt là cuốn Idylle Saphique (Tình Yêu Các Cô Đồng Tính Luyến Ái) và cuốn nhật ký Mes Cahiers Bleus ( Những Tập Giấy Xanh Của Tôi). Người tình nuơng mặn mòi thắm thiết nhứt của Liane de Pougy là nữ sĩ kiều diễm người Mỹ Natalie Cliffod Barney. Còn Emilenne d’Aleçon về sau kết hôn với anh nài ngựa người Anh chẳng những trí thức, giàu sụ mà còn đẹp trai. Vì là nài ngựa nên chàng hơi nhỏ con một chút, nhưng rất xinh xắn dễ yêu. Cả hai si mê nhau điên cuồng, yêu đương bỏng cháy. Vì yêu nàng, chàng bỏ quốc tịch Anh và xin vào quốc tịch Pháp. Vì chàng, nàng thôi làm cái nghề đưa ông hoàng ra cửa trước, rước ông tỷ phú vào cửa sau. Chàng nài ngựa bô trai giỏi văn chương Pháp nên dạy Emilienne d’Aleçon làm thơ. Do đó nàng cho trình làng hai thi tập Temple d’Amour (Ngôi Đền Tình Ái) và Les Masques (Những Cái Mặt Nạ). Chàng nài ngựa yểu mệnh, Emilienne d’Aleçon đau khổ không nguôi. Từ đó nàng đoạn tuyệt với đàn ông và chỉ ăn nằm với đàn bà trong đó có nữ nam tước người Ý là Baronne Mimy Franchetti. Cô nữ nam tước nầy cũng đã từng ăn nằm với Liane de Pougy.

    LDV: Sự chấp nhận một cách hân hoan về khuynh hướng tính dục đặc biệt của mình đã đem lại cho nhà văn những gì ngoài cõi lòng yên tĩnh cần thiết để cho ra đời những trang viết đầy tình người và sức sống?

    HTA: Sống thành thật với chính mình thì dĩ nhiên được thoải mái về mặt tinh thần lắm, có phải không cô Vân? Hồi chưa tiếp xúc với giới đồng tính luyến ái tôi ấm ức trong lòng, khao khát được giao hợp với người mình yêu. Nhưng ở tại một tỉnh lỵ đất Tiền Giang, tôi tìm đâu ra một đối tượng tình yêu thuộc loại người như mình? Cho nên tôi đau khổ, tuyệt vọng, lại còn sợ mọi người chế nhạo mình yêu trai, cho nên tôi không biết ngỏ tâm sự cùng ai. Năm tôi 25 tuổi, tôi lên Sài Gòn học lớp tập sự ngành Dược Khoa, tôi được thằng bạn thân học chung với tôi suốt 6 năm bậc trung học. Nó cũng là dân gay như tôi, nhưng cả hai chỉ là bạn suông trơn mà thôi. Nó giới thiệu cho tôi một ký giả người Pháp, gốc Ba-lan tên là Ilya Mustkatblatz. Sau đó, nó chỉ cho tôi những chỗ hội họp của bọn gay Việt lẫn gay từ các xứ như Mỹ, Pháp, Thụy Sĩ, Phi-luật-tân, Đại Hàn, Tàu Chợ Lớn qua làm việc hoặc định cư ở Sài Gòn. Họ thường lui tới rạp chớp bóng Vĩnh Lợi (mà bọn tôi gọi là Vĩnh Lạc Cung) ở đường Lê Lợi và gần Bệnh Viện Đô Thành, rạp chớp bóng Moderne (mà chúng tôi gọi là Mẫu Đơn Đình) ở gần chợ Tân Định. Ngoài ra còn ở nhà hàng Continental, nhà hàng Givral, Bùng Binh trước chợ Bến Thành là những nơi để bọn gay kiếm bồ bịch. Ngoài ra ngôi chùa thuộc Nghĩa Trang Bắc Việt, đền thánh ở Thủ Thiêm cũng là nơi hò hẹn bọn gay.

    Không hiểu sao, từ khi tiếp xúc vào xã hội gay, dù lúc tiên khởi tôi nghĩ mình bắt đầu có một cuộc sống lệch lạc về lề thói, về nguyên tắc trật tự trong xã hội. Nhưng chính các lệch lạc, cái trái cựa đó khơi dậy cho tôi biết bao niềm lạc hoan mênh mông và nguồn cảm hứng cực kỳ phồn thịnh. Tôi phải trải rộng cảm hứng đó lên giấy càng nhiều càng tốt. Tôi yêu đời, yêu mọi người. Tôi chỉ mong có nhiều người đọc những gì tôi viết. Nhưng tôi chưa dám viết trực tiếp cái xã hội gay. Nhưng ai cấm tôi sáng tạo những người đàn bà đa tình phản ảnh nguyên vẹn cái tôi đã bao lần xao xuyến tâm hồn và xác thân trước hình bóng những nam minh tinh điện ảnh mà tôi ái mộ? Từ khi lao vào giới gay, tôi vui sống, sáng tác thơ rất nhiều. Tiếc rằng khi bỏ xứ ra đi, tôi không mang theo được gì, chỉ nhớ lõm bõm vài bài thơ nhục cảm để khi ra hải ngoại tôi thực hiện thành thi tập Thiên Đường Tìm Lại.

    Vào năm 1966, trước hết, tôi viết truyện ngắn, thơ, kế đó mới tập tành điểm sách, viết tạp ghi. Và sau hết, tôi viết các bài nhận định về kịch ảnh & tân nhạc. Tôi đã từng cộng tác với các tập san Bách Khoa, Tin Văn, Tiểu Thuyết Tuần San, Minh Tinh, Sinh Hoạt Nghệ Thuật, công tác với các nhật báo Tranh Thủ, Tiền Tuyến… Hứng thú đưa đẩy ngòi bút tôi chạy tốc hành trên xấp trang bản thảo khi tôi ngồi vào bàn viết. Nhưng tôi không dám viết cái tôi của mình là gay. Tôi dệt ra những cảnh giao hợp bỏng cháy, tôi nhập vai vào các nữ nhân vật, còn nam nhân vật tuy có tên Việt như Cảnh, Hạo Minh, Tường Ngọc, Huy Châu v.v…, nhưng tôi mường tượng qua các chàng kép có thân vóc cường tráng mỹ lệ.

    Bao giờ cũng vậy, khi viết tiểu thuyết không bao giờ tôi dám giết những nhân vật đẹp trai dù các đương sự cùng hung cực ác đi nữa. Tôi chỉ dám giết những nhân vật già nua từ 80 tuổi trở lên (cho họ chết vì già yếu chớ không dám cho họ chết vì bịnh hoạn). Lại nữa, các nhân vật đẹp trai được tôi xe duyên chỉ thắm với những nữ nhân vật nếu không kiều diễm thì cũng duyên dáng mặn mòi. Nếu các cô lỡ có chửa với người chồng bô trai ngó hoài…vẫn thích ngó của họ, thì ở chương áp chót của quyển tiểu thuyết, tôi cho họ xổ bầu đập chum để họ có cái eo thon đẹp, để họ diện áo đẹp đi rước đèn, đi bát phố cùng chồng. Còn nam nhân vật đẹp trai nếu rủi bị bịnh ung thư hay bị bịnh AIDS thì nếu không nhờ thuốc men hiệu nghiệm thì cũng được Đức Thánh Đồng Trinh Maria của thành phố Lourdes hay Đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ dùng phép lạ mà giúp họ lành mạnh. Như vậy nữ độc giả sẽ an tâm khi xếp quyển sách cũa tôi lại.

    Cô xem đó, khi con người được hạnh phúc, họ dễ có tấm lòng vị tha, không đem giáo điều khe khắc ra buộc tội bất cứ ai. Trong các tác phẩm của tôi hầu như không có kẻ ác. Thường là những kẻ có cái miệng dữ dằn, ngáp ra khói, ói ra tro, ho ra sấm sét, nhưng lòng dạ các đương sự hiền lành như bột sắn, bột khoai. Thường là các mụ đàn bà thuộc loại chằn ăn trăn quấn, ưa ganh tị từ cái ngáp tiếng ho với bạn bè, ưa thèo lẻo trong các cuộc ngồi lê đôi mách, nhưng khi đối thủ của mình gặp hoạn nạn thường ra tay cứu giúp, an ủi, đãi cho kẻ cựu thù những món ăn ngon… chết giấc luôn! Tôi ưa viết những chuyện vạch tật xấu đàn bà, nhưng độc giả của tôi hầu như 75% là đàn bà. Vậy có nghĩa là văn chương tôi không độc địa như siêu vi trùng gây bịnh AIDS, không giúp các nhân vật lao vào những hành động ác ôn côn đồ thổ phỉ, không xô nạn nhân vào cảnh đoạn trường.

    LDV: Xã hội phong kiến của Việt Nam có ảnh hưởng một cách tiêu cực đến cái nhìn về giới tính của nhà văn không, trong cuộc sống cũng như trong quá trình viết lách?

    HTA: Ở Việt Nam, chuyện đồng tính luyến ái vào thập niên 50, 60 không được xem là trầm trọng. Dân mình cho rằng hễ ai mắc phải ‘‘cái tật’’ yêu người cùng phái tính, một khi được lấy vợ gả chồng thì ‘‘lành bệnh’’ ngay. Nhưng bên Âu Châu vào thời Trung Cổ, những ai có hành động quá thân mật với người cùng phái tính thì bị lôi ra tòa án và Giáo hội Gia-tô xen vào kết án thiêu sống các đương sự. Tôi không nhớ rõ năm nào trong thập niên 90 của thế kỷ 20, Đức Giáo Hoàng Jean Paul II đã từng xin lỗi mọi người trên thế giới về chuyện các Giáo Hội Gia-tô đã lên án xử tử nhà bác học Galilée khi ông ta dám tuyên bố quả đất tròn. Ngài cũng xin lỗi về vụ các tín đồ Gia-tô a tòng với bọn buôn người bắt dân Phi Châu bán cho người da trắng làm nô lệ. Nhưng ngài vẫn không thèm xin lỗi về vụ bọn tăng lữ Gia-tô ở Pháp và ở vài nước Âu Châu đã đem dân gay thiêu sống vì họ cho rằng những người gay cũng như nhừng người phù thủy là ác quỷ Sa-tăng cần phải bị tiêu diệt.

    Trong quá trình viết lách, trước kia dám khai huỵch tẹt cái sở thích yêu người cùng phái với mình chỉ có văn hào André Gide ở những quyển nhật ký. Nhưng ở cuốn L’Immoraliste (Kẻ Vô Luân), ông ta chỉ nói mí mí thôi. Văn hào Thomas Mann với quyển Mort à Venise (Chết Tại Kinh Thành Venise). E.M Forster với cuốn Maurice thì viết hẳn hoi về cuộc tình thầm kín hay công khai của các nhân vật gay. Tuy nhiên E.M Forster viết cuốn Maurice khi còn sống, nhưng không dám đăng báo hay xuất bản. Trên giường bịnh chờ chết, ông dặn người nhà khi ôg ta qua đời thì mới cho xuất bản cuốn di cảo ấy. Còn nữ sĩ Natalie Clifford Barney thì viết lách công khai chuyện đàn bà đánh chập chõa với đàn bà. Cả nàng danh kỹ Liane de Pougy dám viết cuộc tình của mình với Natalie Clifford Barney trong cuốn Idylle Saphique của mình. Vậy mà các ông hoàng ở Âu Châu, các triệu phú, tỷ phú Hoa Kỳ vẫn tình nguyện chết chung vào lỗ của nàng. Rồi khi nàng leo lên 40 tuổi có ông hoàng Lỗ-ma-ní nhỏ hơn nàng 15 tuổi cưới nàng làm vợ, cuộc hôn nhân kéo dài tới khi ông ta lìa đời. Lúc đó Liane xấp xỉ 70 tuổi rồi, đành sống cô đơn tới lúc nhắm mắt theo chồng.

    Về các nhà văn nhà thơ Việt Nam thì vào năm 1966, đã có Đỗ Quế Lâm viết cuốn ‘‘Vết Hằn Rướm Máu’’. Hai nghệ sĩ diễn ngâm thơ là Đoàn Yên Linh và Hồ Bảo Thanh sáng tác những vần thơ đẹp như gấm và dịu như nhung. Họ xưng mình là em, là nàng cô phụ gửi người tình không chân dung nào đó hoặc người tình có thật trong cuộc sống mà họ đã từng si mê. Tiếc thay cả hai không cho xuất bản các bài thơ đẹp kia thành thi tập, chỉ đăng báo lai rai. Đoàn Yên Linh, Hồ Bảo Thanh và tôi đều là bạn của cây sáo thần Thanh Hà. Nhưng Thanh Hà không phải là gay mà là kẻ thông cảm với bọn gay chúng tôi mà thôi. Tình bạn giữa Thanh Hà và tôi từ trong nước, trước 1975 vẫn kéo dài cho tới bây giờ.

    Ra hải ngoại, người xung phong viết chuyện đồng quê Nam Kỳ và chuyện đồng tính luyến ái vẫn là H.T.A. Người thứ hai là Ngô Nguyên Dũng trong quyển trường thiên tiểu thuyết Đêm. Lại có thêm Tạ Thái, Nguyễn Thạch Đàn qua những tự truyện dưới hình thức truyện ngắn đăng trên báo Văn. Lại có thêm Lê Nghĩa Quang Tuấn, em trai của hai nhà văn nữ là Lê Thị Huệ và Lê thị Thấm Vân đã từng đi diễn thuyết đòi quyền sống và đòi chỗ đứng trong xã hội cho dân đồng tính luyến ái trong xã hội. Tuấn lại còn chủ trương tạp san dành cho gay và lesbian. Đó là tờ Đối Diện (Face To Face). Thi tập Ầu Ơ… của đương sự rất tuyệt vời về tư tưởng triết học và xen vào đó có những bài thơ nhục cảm chan hòa mộng đẹp, sinh lực, tinh khí, những tư duy rất nhân bản. Theo tôi, những cây viết ở vào cuối thế hệ thứ nhì và đầu thế hệ thứ ba ở hải ngoại, trong hàng ngũ gay thì có Ngô Nguyên Dũng bên Văn, còn Lê Nghĩa Quang Tuấn bên Thi Ca. Cả hai tài hoa rất mực. Còn bên ca nhạc ở hải ngoại thì cũng ít nhất 5 người. Nhưng mà thôi, tôi không tiện hài danh hà tánh các đương sự, cứ để họ tiếp tục hành nghề và giữ mãi mãi là thần tượng của các cô choai choai có hơn không!

    LDV: Khung cảnh tự do của quê hương thứ hai đã đem lại cho ông những thay đổi tích cực gì về khuynh hướng tính dục của mình và của những người đồng tâm trạng chung quanh ông?

    HTA: Tôi qua nước Pháp gặp lúc phong hóa đang biến chuyển tiến bộ. Phim sex dành cho bọn gay có chiếu vài rạp ở Paris. Tạp chí dành cho gay là Gaipied bán tràn ngập khắp thị trường sách ốc. Nhà trí thức André Baudry lập câu lạc bộ Arcadie để làm diễn đàn cho dân gay. Chính tại đây, Lucien Trọng đã đăng đàn diễn thuyết và mở cuộc triễn lãm tranh sơn dầu của đuơng sự. Ngoài ra, vũ trường Scaramouche dành cho gay. Hơn một chục phòng tắm hơi dành cho dân gay ở Paris. Các anh chàng gay vào đó tha hồ khỏa thân hoặc quấn chiếc khăn bông ở hạ bộ. Tìm được kẻ vừa ý là cả hai dắt nhau vào căn buồng nhỏ để làm tình. Nếu phòng bị chiếm hết thì tìm chỗ nào hơi tối một chút để giao hoan, chẳng bị ai phá rối.

    Nhưng rồi từ năm 1985, bịnh AIDS lan tràn, tôi không dám bén mảng tới bất kỳ chỗ hẹn hò nào, đừng nói chi là phòng tắm hơi. Vả lại, từ năm 1985, tôi bắt đầu phái phì: bụng to như có cái chảo gang hay cái thau nhôm úp lên, lại có cằm đôi như cái nọng heo và còn dến thêm miệng cá má lợn. Đi đâu, tôi cũng vác các bụng bự chang bang như cái bụng chửa sắp tới ngày xổ bầu thì chán quá! Làm diet, chạy jogging, cuốc bộ hàng chục cây số vẫn chỉ sụt bớt 5 kí lô là cùng. Rồi tôi bỏ cuộc vì tôi bị ba chứng bịnh nan y như tiểu đường, cholesterol, cao máu. Từ nằm 1985, người bạn lòng tôi và tôi dù ở chung dưới một mái nhà, ngủ chung một giường, nhưng chỉ là bạn thuần khiết mà thôi. Vào năm 2006, tôi nghe lời bác sĩ thân tín tập thể dục dành cho người già cả, tập thở một cách chăm chỉ theo phương pháp mà Thiền Sư Nhất Hạnh chỉ dạy, tôi gần như hết bịnh tiểu đường, dứt tuyệt chứng cholesterol, giảm bớt cao máu. Nhưng tôi vẫn phải uống thuốc đều đặn. Do đó mà tôi sụt cân. Thể dục làm cho bụng tôi thon, cằm đôi biến mất. Thở theo phương pháp Tọa Thiền làm cho da mặt tôi sáng hồng. Bụng tuy thon nhưng lại hơi nhão, mông không xệ nhưng không tròn. Cằm đôi tuy mất, nhưng cổ tôi nhăn nhúm như cái nhau con heo nái phơi khô. Ngực tôi tuy đầy đặn nhưng không căng phồng như cánh buồm lộng gió. Bọn trai tráng có cặp mông tròn trặn như trái dưa hấu bổ đôi, bụng chẻ ra làm sau miếng như sáu thẻ chocolate. Vì than ôi, tôi đã 70 tuổi rồi, làm sao có thân vóc rắn chắc và mỹ lệ như bọn đờn ông con trai từ 18 đến 45 tuổi? Lại nữa, tôi đâu còn khả năng tình dục nữa, cho nên tôi đành làm bạn với con Chung Vô Diệm (chim vô dụng) mà thôi.

    Thật ra, tôi cũng chẳng buồn tiếc cái thời sống lăng loàn hạnh phúc cũ. Nếu vào thuở trung niên tôi vẫn còn có sắc vóc ngoạn mục, biết đâu tôi chơi bời thả cửa, giao hoan thả giàn với bọn gay, để rồi vướng bịnh AIDS. Như vậy trong cái rủi vẫn có cái may, phải không nào? Rất nhiều bạn bè tôi xin tôi chỉ họ phương pháp làm gầy, phương pháp làm cho da mặt mịn màng sáng sủa. Tôi cứ tình thật mà ‘‘khai báo’’. nhưng họ làm không có kết quả. Thiệt tình tôi không hiểu tại sao? Nhưng đẹp lão để làm gì? Khi tôi mặc áo thun, quần jean thì thân vóc tôi vẫn là người đàn ông tuổi ngũ tuần. Nhưng khi vào bãi khỏa thân ở tỉnh nhà thì đây là thân vóc của một ông già, dù có ngực đầy, bụng thon và mông không xệ đi nữa. Ở ngoài đời, da mặt tôi thật lý tưởng mà phụ nữ rất hâm mộ. Nhưng khi tôi được chụp ảnh, khuôn mặt tôi vẫn là khuôn mặt ông già, dù da mặt chỉ có vài nét nhăn mờ mờ ở chuôi mắt đi nữa. Cho nên tôi không thèm nhuộm tóc làm gì. Tuổi của tôi hiện giờ có thể làm ông cố được rồi.

    ho_truong_an_2008

    Khi qua Pháp, tôi đã 40 tuổi, hưởng thụ không bao lâu, nhưng tôi không thối tiếc một chút cỏn con nào. Mừng là thấy phong hóa tiến bộ một cách tích cực. Có nhiều nước cho phép cặp gay làm đám cưới với nhau. Tôi thấy cái dó không cần cái đó. Nhưng thôi, ai cũng có hoàn cảnh riêng, sở thích riêng, tâm trạng riêng; đừng bắt buộc người khác phải giống mình. Bây giờ ở Gia-nã-đại và ở vài nước Âu Châu có lịnh phạt những kẻ nào dám sỉ nhục những chàng gay trước đám đông. Kẻ sĩ nhục sẽ bị phạt nặng nếu kẻ bị hạ nhục có tìm được nhân chứng. Đối với những nước văn minh tân tiến, tội đó cũng ngang ngữa với tội kỳ thị chủng tộc. Tôi chỉ thương xót các em các cháu gay gặp vấn nạn bịnh AIDS nên không được thoải mái lúc bắt bồ với nhau. Họ không được tâm trạng thảnh thơi như tôi hồi 40 năm về trước khi làm tình với đối tượng của mình.Tôi tin rằng đa số những kẻ gay cũng như tôi được hạnh phúc khi sống trong xã hội được nới lỏng nguyên tắc và giáo điều, sống tràn ngập tin tưởng hơn. Có vậy Ngô Nguyên Dũng sáng tác không hề nhàm mỏi. Có vậy Lê Nghĩa Quang Tuấn mãi mãi là tấm gương can trường dám đứng đầu sóng ngọn gió. Tôi không hiểu tại vì sao càng lớn tuổi, Dũng ưa bỏ chín làm mười bất cứ chuyện gì. Dũng nhìn đời bằng cặp mắt bao dung. Có phải chăng hắn sống trong hạnh phúc và sống với tâm trạng cởi mở nên mới được đức tánh ấy? Dũng yêu thích văn nghệ sĩ giới sáng tác lẫn văn nghệ sĩ giới trình diễn nên không cần lui tới thường xuyên các cuộc hẹn hò trong khi đương sự vẫn còn là kẻ trung niên tuấn tú, có thể bắt bồ vơi bọn gay Đức dễ ợt. Càng lớn tuổi đương sự chuộng tâm linh nghiên cứu Phật Giáo. Còn riêng tôi, trong mùa thu cuộc đời, tôi vẫn nghiên cứu thêm Kinh Đại Thừa như hồi còn ở quê nhà, sưu tầm sách vở, các hình ảnh các minh tinh điện ảnh và ca sĩ ngoại quốc. Bắt đầu chớm xuân, tôi trồng hoa ở bao lơn. Trong nhà tôi bày những chậu cây cảnh những món ngoạn hảo (bibelots) và tranh ảnh. Tôi không có thời giờ để phiền muộn. Hễ khi cái đầu nóng rực vì viết lách hơi nhiều, tôi dừng bút lại, lo săn sóc lau chùi nhà cửa, nấu nướng một món ăn hợp khẩu vị. Đôi khi tôi điện đàm với các bà bạn vốn là độc giả của tôi để học hỏi cách thức làm những món ăn phổ thông hay những món ăn đặc biệt sao cho hợp khẩu vị.

    Lũ bạn gay của tôi sinh sống ở Paris thường hỏi tôi suốt gần 30 năm nhà bác tuyệt tích giang hồ. Vậy mà nhà bác chịu đựng được? Có phải chăng ở Troyes có phòng tắm hơi dành cho bọn gay? Hay có những chỗ hẹn hò nào khác? Làm sao tôi nói cho lũ bạn tin rằng tôi đã sống đã tạm đầy đủ rồi. Bây giờ ôn lại ‘‘thời tung hoành’’ cũng chỉ vun quén phong vị cho văn chương và cho tuổi hoàng hôn, đừng quay lại thời dĩ vãng xa lắc xa lơ nữa. Tôi còn nhớ một câu nói của đại kịch sĩ Pháp là Jean Louis Barrault : ‘‘Ở chỗ huy hoàng ánh sáng, hay trong xó kẹt tối tăm, đâu đâu cũng có hồng ân của Thượng Đế’.’

    LDV: Văn của Hồ Trường An đầy chi tiết, sống động và tràn ngập nhiều nhân vật nữ với tạo hình thật rõ nét. Định hình giới tính của một nhà văn giữ tầm ảnh hưởng như thế nào đến giọng văn, chủ đề, và thông điệp gởi gấm?

    HTA: Văn chương tôi có nhiều chi tiết sống động? Có thể lắm chớ? Tôi viết theo cảm hứng, có nhiều khi rất máy móc, không cần suy nghĩ cho nhuần nhuyện trước khi viết. Thường thường bọn gay chúng tôi thích trào lộng và có óc quan sát mãnh liệt. Do đó tôi tìm những nhân vật độc đáo, xem cách sống, cách suy nghĩ và cách ăn nói của họ. Ai chê hạng người ngồi lê đôi mách là hạng người mất nhân phẩm. Sức mấy mà tôi suy nghĩ như vậy. Các cuộc ngồi lê đôi mách giúp tôi khám phá và tìm hiểu các nhân vật độc đáo, những nhân vật có cá tính mạnh.

    Tôi nhớ, hồi xa xưa, tôi ở chung với chị Thụy Vũ. Hôm đó, Tô Thùy Yên và chị nằm trên gác. Cô tớ gái của chị đang lục đục dưới bếp. Tôi và lũ bạn kéo về, quây quần bêm mâm gải khát, bắt đầu kể chuyện ngồi lê đôi mách pha trộn chuyện tiếu lâm. Bọn tôi không hay trên gác có người nên chúng tôi tha hồ mà xả máy đía dóc. Khi câu chuyện bắt đầu rời rạc dần thì chị tôi bước xuống, cười ngất: Nãy giờ tao với ông Tiên (chỉ TTY) nằm ngủ trên gác. Nghe bọn bây đấu hót bừa bãi mà cả hai cười muốn bể bụng, muốn tróc mỡ sa ra. Tao lại mắc tiểu. Nhưng ông Tiên cản tao lại để có thể tiếp nghe câu chuyện tụi bây. Trời ơi, tao nín đái, bọng đái căng phồng muốn bể như cái pháo chuột đây nè. Mấy tên này nên tìm gánh hát gia nhập làm hề là phải hơn.

    LDV: Thế kỷ gần đây rất nhiều văn nghệ sỹ nổi tiếng trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã có những hành động công khai và cởi mở hơn về khuynh hướng tính dục của họ và điều này đã khuyến khích sự đồng thuận và cái nhìn thấu hiểu ngày một khoan dung của xã hội về khuynh hướng đồng tính. Theo ông, những người nắm giữ sự ái mộ đặc biệt của công chúng có trách nhiệm hướng dẫn dư luận vào lối suy nghĩ bình đẳng hơn trong những nan đề xã hội không?

    HTA: Tôi ra hải ngoại vào năm 1977. Tôi có đọc được vài quyển hồi ký cũa các cây bút gay như hồi ký của kịch tác gia Tennessee Williams, hồi ký của Gore Vidal, hồi ký đại minh tinh điện ảnh Pháp là Jean Marais mà tôi còn nhớ cái tựa là Histoire de Ma Vie (Lịch Sử Đời Tôi). Ngoài ra, nhà văn Renaud Camus và nhà văn Tony Duvert có cho xuất bản quyển nhật ký của mình công khai bày tỏ những mối tình và những cuộc liên hệ xác thịt của mình với kẻ đồng phái tính. Còn nhà văn Pháp Dominique Fernandez qua cuốn L’Étoile Rose (Ngôi Sao Hường) cũng không giấu giếm khuynh hướng đồng tính dục của mình. Quyển L’Étoile Rose đã làm cho hàng triệu độc giả Pháp và độc giả các nước nói tiếng Pháp cảm thương cho dân gay bị bọn Đức Quốc Xã giam trong những trại trừng giới, bị xâm ngôi sao hường trên trán, bị đọa đày dã man. Lại nữa, tôi có đọc cuốn hồi ký của nhà văn nữ lừng danh xứ Pháp là Françoise Sagan. Tôi rất cảm phục bà ta ở chỗ dám chia sẻ cảm thông với tâm sự các nghệ sĩ gay. Bà ta viết về kịch tác gia kiêm văn gia Tennessee Williams kết bạn với nữ sĩ Carson Mc Cullers. Ông chồng bà Carson Mc Cullers tự tử vì khám phá ra mình là gay. Bà ta xuống tinh thần, bị suy nhược thần kinh. Ông Tennessee Williams và anh chàng tình nhân ông ta săn sóc bà. Rồi ông ta đưa bà ta sang Ý viếng thăm nữ tài tử Anna Magnani. Tại đây ngôi sao điện ảnh hàng đầu nước Ý này cùng anh tình nhân trẻ tuổi của mình săn sóc người nữ văn gia bất hạnh kia. Tình bạn giữa Tennessee Williams và Anna Magnani cũng rất gắn bó keo sơn. Nhờ cuốn phim Le Rose Tatouée phỏng theo vở kịch cùng tựa của Tennessee William mà Anna Magnani đoạt giải Oscar một cánh vinh quang. Từ đó, cả hai thân thiết nhau. Lại nữa, cô Vân chắc cũng biết qua nữ minh tinh Hoa Kỳ Elizabeth Taylor có 3 người bạn gay thân thiết đã từng đóng phim chung với cô ta là Montgomerry Clft, Rock Hudson, Roddy Mac Dowall. Cô ta giúp do họ vật chất lẫn tinh thần. Khi Rock Hudson chết vì bịnh AIDS, Liz Talor lập ra hội giúp đỡ dân bị séro-positif lẫn dân bắt đầu vào thời kỳ bịnh AIDS bắt đầu phát tác trên hoàn vũ.

    Theo tôi, những nhà nghệ sĩ thuộc giới sáng tác bất kỳ trên xứ sở nào cũng không cần phải e ngại kẻ thưởng ngoạn giảm sút sự ái mộ của mình khi những kẻ dó biết họ là gay. Các nhà văn lừng danh trên thế giới như André Gide, François Mauriac, Jean Cocteau, Gore Vidal… vẫn được độc giả ủng hộ và ái mộ như thường. Bên sáng tác nhạc có Tchaikowski, bên hội họa có Michel Ange, Léonard de Vinci tới nay văn phẩm, nhạc phẩm lẫn họa phẩm của họ vẫn được hậu thế truyền tụng.

    Những kẻ được quần chúng ái mộ nên đóng góp vào công việc đập tan thành kiến tiêu cực về vụ đồng tính luyến ái, giúp họ sống tự nhiên theo căn tính, theo khuynh hướng luyến ái và sở thích tình dục của họ. Rúng ép, cưỡng bách họ theo bản tính và sự ưa thích của mình tức là làm trái với cái ĐỨC theo quan niệm của Lão Tử, tức là sống theo bãn tính tự nhiên của mình. O ép họ hoặc khiên cưỡng họ sống theo người yêu kẻ khác phái tính là một điều trái tự nhiên, phản khoa học, lại còn độc ác bất nhân. Françoise Sagan, Mae West, Liz Taylor là những người biết sống vì biết thông cảm những kẻ muốn sống tự nhiên theo bản tính nhưng lại bị xã hội đầy những kẻ đầu óc hẹp hòi nguyền rủa, lên án và ngăn cấm.

    LDV: Chúng ta đã làm được gì và cần làm thêm những gì để đẩy lùi những sự phân chia kỳ thị giới tính?

    HTA: Chỉ cầu mong cho mọi người hiểu rằng đồng tính luyến ái là cái sở thích bẩm sinh, chứ không phải là cái căn bịnh do xã hội tạo ra. Có kẻ bảo rằng người đồng tính luyến ái là do trong người đương sự có những cái gènes (mầm mống) tạo cho đương sự cái khuynh hướng yêu người đồng phái. Dù tôi không nắm vững vấn đề nầy, nhưng tôi không bao giờ để cho Ông Trời hay nhà khoa học hay nhà tâm ly học hoặc nhà phân tâm học nào chữa trị tôi trở thành người đàn ông bình thường. Tôi rất hạnh phúc được làm chàng gay.

    Để đẩy lùi sự phân chia giới tính, người đồng tính luyến ái phải tỏ ra có tư cách. Trước hết đừng ve vãn cọ quẹt với những người không phải là gay như mình. Đừng tỏ ra âu yếm quá lố với người tình của mình trước công chúng hoặc làm trò õng ẹo nữ tính. Có vậy các nhà soạn kịch, các nhà viết kịch bản không viết tuồng hát hay viết truyện phim phơi bày cái lố lăng của bọn gay ra. Như thế, bọn gay chúng tôi mới tránh khỏi bị họ vẽ vời qua những đường nét biếm họa lố lăng. Phải sống như người bình thường. Đừng mặc cảm, có vậy mới hóa giải đươc một phần lớn sự phân chia gới tính của kẻ dị tính luyến ái. Còn những người dị tính luyến ái nào vốn thiếu tấm lòng thông cảm bao dung phải tìm hiểu vì sao thời buổi này vấn đề đồng tính luyến ái được một vài nước nới lỏng, không bị ngăn cấm gắt gao. Đó có phải là cái kết quả tích cực của biết bao công việc nghiên cứu của các nhà tâm lý học, nhà phân tâm học, nhà xã hội học, nhà nhân chủng học, nhà sinh lý học, nhà tình dục học v.v… Dần dần họ mới khám phá cái bí nhiệm của kẻ đồng tính luyến ái và đi đến kết luận tích cực như sau: đồng tính luyến ái không phải là cái bệnh, cũng không phải là tật xấu mà là một trạng thái tâm lý học lẫn sinh lý học như bao nhiêu trạng thái muôn màu muôn vẻ của con người sống trên trái đất này.

    LDV: Ông có tin vào tầm ảnh hưởng lớn của văn chương không? Ông có tin nó có thể giúp chúng ta xóa bỏ những ranh giới khác biệt giữa người và người không?

    HTA: Có chứ cô Vân. Hồi 2 thập niên 30 và 40, văn hào André Gide dám phô bày cái đồng tính luyến ái của mình qua nhiều văn phẩm có giá trị nghệ thuật nên một thiểu số dân Pháp chẳng những không buộc tội bọn gay mà còn đặt lại vấn đề để tìm hiển dân gay sâu xa hơn. Tôi còn nhớ khi nhà đạo diễn James Ivory thực hiện cuốn phim Maurice phóng tác theo tác phẩm cùng tựa của E.M. Forster, khán giả Pháp đến xem chật rạp. Đa số dều chia sẻ tâm sự chàng Maurice do James Wilby đóng. Vào năm 2005, khi cuốn phim Le Secret de Brokeback Mountain của Ang Lee tung ra cũng được giới thưởng ngoạn ủng hộ nồng nhiệt. Đọc những quyển sách của ông André Gide, của ông Robert Peyrefitte (chẳng hạn như quyển Les Amitiés Particulièrs/Tình Bạn Kỳ Đặc) hoặc xem những cuốn phim mà tôi vừa kể thì kẻ thưởng ngoạn phải suy nghĩ và đặt lại vấn đề kỳ thị dân gay chứ! Nên tôi mãi tin, văn chương có tầm ảnh hưởng đáng kể.

    LDV: Với tư cách là một nhà văn và một người trong cuộc, ông có những lời khuyên nào cho những ai vẫn còn chưa tìm được sự bình an trong tâm hồn về định hình giới tính của riêng họ?

    HTA: Mình hạnh phúc hay không là do chính mình. Mình phải thành thật với chính mình, phải xem xét hoài bão và nguyện vọng của mình để tìm một lối sống riêng biệt cho mình với điều kiện mình không làm mất lòng ai, không dẫm chân và phóng uế vào đời tư kẻ khác. Mình phải chủ trương đời mình miễn sao đừng làm hại kẻ khác. Tôi xin nhấn mạnh những gì tôi đã phô bày, cạn tỏ mình nên sống bằng cuộc đời của mình, đừng sống bằng đời của kẻ khác. Đó là sống theo cái ĐỨC. Sống bằng đời kẻ khác, hoặc sống tuân theo luật lệ xã hội một cách khít khao mà không để một khe hở nhỏ nhoi cho ánh nắng tượng trưng cho sự tự do, cho sự quyền biến, cho sự cảm thông lọt vào thì cuộc sống của mình trở nên lệch lạc nếu không bảo là què quặt tật nguyền.

    LDV: Xin trân trọng cảm tạ nhà văn Hồ Trường An đã dành cho độc giả những tâm sự hết sức cá nhân và lòng chân thật đáng quý trong cuộc nói chuyện này.

    *Ảnh trên: nhà văn HTA vào năm 1991. Ảnh dưới – nhà văn HTA vào năm 2008.

  • Tác giả và Tác Phẩm

    Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Hàn Mặc Tử

    Số phận của một thi nhân tài hoa bạc mệnh

    https://nhacxua.vn/cuoc-doi-va-su-nghiep-cua-nha-tho-han-mac-tu-so-phan-cua-mot-thi-nhan-tai-hoa-bac-menh/

    Nhà thơ Hàn Mặc Tử là một trong những tên tuổi nổi bật trong thi đàn Việt Nam thế kỷ 20, là người khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam.

    Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, được sinh ra trong một gia đình có 8 người con được đặt tên rất ý nghĩa là: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Hiếu, Hiền, Thảo. Tổ tiên của ông là họ Phạm, nhưng do liên quan đến quốc sự bị truy nã nên đổi thành họ Nguyễn.

    Hàn Mặc Tử mang vóc mình ốm yếu, tính tình hiền từ, giản dị, hiếu học và thích giao du bè bạn trong lĩnh vực văn thơ. Do cha ông là Nguyễn Văn Toản làm thông ngôn, ký lục nên thường di chuyển nhiều nơi, nhiều nhiệm sở, nên dù được sinh ra ở Quảng Bình nhưng Hàn Mặc Tử đã theo học ở nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ (1920), Quy Nhơn, Bồng Sơn (1921–1923), Pellerin Huế (1926).

    Hàn Mặc Tử có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi, từng có duyên gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sĩ này. Sau này, ông nhận một suất học bổng đi Pháp nhưng vì quá thân với Phan Bội Châu nên đành đình lại. Hàn Mặc Tử quyết định vào Sài Gòn lập nghiệp, năm ông 21 tuổi; lúc đầu làm ở Sở Đạc Điền.

    Đến Sài Gòn, ông làm phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo Công luận. Khi ấy, Mộng Cầm ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ với nhau, và ông quyết định ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm. Một tình yêu lãng mạn, nên thơ nảy nở giữa hai người.

    Theo gia đình Hàn Mặc Tử thì vào khoảng đầu năm 1935, họ đã phát hiện những dấu hiệu của bệnh phong trên cơ thể ông. Tuy nhiên, ông cũng không quan tâm vì cho rằng nó là một chứng phong ngứa gì đó không đáng kể. Cho đến năm 1936, khi ông được xuất bản tập “Gái Quê”, rồi đi Huế, Sài Gòn, Quảng Ngãi, vào Sài Gòn lần thứ hai, được bà Bút Trà cho biết đã lo xong giấy phép cho tờ Phụ nữ tân văn, quyết định mời Hàn Mặc Tử làm chủ bút, bấy giờ ông mới nghĩ đến bệnh tật của mình. Nhưng ý ông là muốn chữa cho dứt hẳn một loại bệnh thuộc loại “phong ngứa” gì đấy, để yên tâm vào Sài Gòn làm báo chứ không ngờ đến một căn bệnh nan y. Năm 1938 – 1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ dội. Tuy nhiên, ở bên ngoài thì không ai nghe ông rên rỉ than khóc. Ông chỉ gào thét ở trong thơ mà thôi. Trước ngày Hàn Mặc Tử vào trại phong Quy Hòa, Nguyễn Bá Tín, em ruột của nhà thơ cho biết tình trạng bệnh tật của anh mình như sau: Da anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức khỏe để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc “găng” tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng.

    Ông Nguyễn Bá Tín, trong một chuyến thăm Bệnh viện Quy Hòa, có đến thăm bác sĩ Gour Vile – Giám đốc Bệnh viện Quy Nhơn. Bác sĩ nói rằng: Bệnh cùi rất khó phân biệt. Giới y học (thời đó) chưa biết rõ lắm. Tuy triệu chứng giống nhau, nhưng lại có nhiều thứ. Ông bác sĩ quả quyết bệnh cùi không thể lây dễ dàng được. Nhiều thông tin cho rằng, một hôm Hàn Mặc Tử đi dạo với bà Mộng Cầm ở lầu Ông Hoàng (Phan Thiết), qua một cái nghĩa địa có một ngôi mộ mới an táng thì gặp mưa. Bỗng ông phát hiện ra từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ. Sau đó ông về nhà nghỉ, để rồi sớm mai ông phát hiện ra mình như vậy. Đó là căn bệnh do trực khuẩn Hansen gây nên.

    Thời đó, vì thành kiến sai lầm rằng đây là căn bệnh truyền nhiễm nên bệnh nhân thường bị hắt hủi, cách ly, xa lánh, thậm chí bị ngược đãi. Hàn Mặc Tử cũng không là ngoại lệ. Lúc này, gia đình ông phải đối phó với chính quyền địa phương vì họ đã hay tin ông mắc căn bệnh truyền nhiễm, đòi đưa ông cách ly với mọi người. Sau đó gia đình phải đưa ông trốn tránh nhiều nơi, xét về mặt hiệu quả chữa trị là phản khoa học vì lẽ ra phải sớm đưa ông vào nơi có đầy đủ điều kiện chữa trị nhất lúc bấy giờ là Bệnh viện phong Quy Hòa. Trong câu chuyện với người em của thi sĩ Hàn Mặc Tử, bác sĩ Gour Vile cũng nói rằng kinh nghiệm từ các trại cùi, không có bệnh nhân nào chỉ đau có từng ấy năm mà chết được. Ông trách gia đình Hàn Mặc Tử không đưa nhà thơ đi trại phong sớm. Bác sĩ cho rằng, Hàn Mặc Tử qua đời do nội tạng hư hỏng quá nhanh vì uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang băm trước khi nhập viện phong Quy Hòa.

    Ông bỏ tất cả quay về Quy Nhơn vào nhà thương Quy Hòa (20 tháng 9 năm 1940) mang số bệnh nhân 1.134 và từ trần vào lúc 5 giờ 45 phút rạng sáng 11 tháng 11 năm 1940 tại đây vì chứng bệnh kiết lỵ, khi mới bước sang tuổi 28.

    Cuộc đời Hàn Mặc Tử có duyên với 4 chữ Bình: sinh tại Quảng Bình, làm báo Tân Bình, có người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Ông được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông – có những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉ biết tên như Hoàng Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện.

    https://youtu.be/21tXsK0qnpg

    Trong âm nhạc, ca khúc nổi tiếng nhất viết về cuộc đời của thi sĩ Hàn Mặc Tử chính là ca khúc mang tên Hàn Mặc Tử của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, nổi tiếng qua tiếng hát Trúc Mai cả trước và sau năm 1975. Trước khi mất vài năm, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã về nước và xây lại một ngôi mộ tươm tất cho người thi sĩ tài hoa bạc mệnh đó.

    Hàm Mặc Tử làm thơ từ năm 16 tuổi lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thanh. Đến năm 1936, khi chủ trương ra phụ trương báo Saigon mới đổi hiệu là Hàn Mạc Tử, sau ông lại đổi thành Hàn Mặc Tử. “Hàn Mạc Tử” nghĩa là chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Sau đó bạn bè gợi ý ông nên vẽ thêm Mặt Trăng khuyết vào bức rèm lạnh lẽo để lột tả cái cô đơn của con người trước thiên nhiên, vạn vật. “Mặt Trăng khuyết” đã được “đặt vào” chữ “Mạc” thành ra chữ “Mặc”. Hàn Mặc Tử có nghĩa là “chàng trai bút nghiên”.

  • Tác giả và Tác Phẩm,  Thơ

    NHỚ AI BUỒN NGẤT TRÊN VAI ÁO

    NHỚ AI BUỒN NGẤT TRÊN VAI ÁO
    MƯA Ở ĐÂU VỀ NHƯ VẾT THƯƠNG

    Phương Tấn

    Nhà thơ NGUYỄN ĐỨC BẠT NGÀN mất ở Canada ngày 27.9. 2019. Nhà thơ DU TỬ LÊ mất ở Mỹ ngày 7.10.2019. Nhà thơ TRẦN TUẤN KIỆT mất ở Việt Nam ngày 8.10.2019. Các anh nối nhau rời bỏ chúng ta. Sự ra đi đột ngột của các anh làm tôi sửng sốt, tiếc thương, buồn rũ rượi và đỗ bệnh suốt tháng nay.

    1.
    * Anh NGUYỄN ĐỨC BẠT NGÀN từ Canada qua Cali thăm tôi vào đầu tháng 8 năm 2018. Buổi gặp gỡ thân mật hôm đó còn có các nhà thơ, nhà văn, nhà báo Hà Nguyên Du, Nguyễn Lương Vỵ, Trịnh Y Thư, Phan Tấn Hải, Lê Giang Trần. Không những tôi thích thơ Nguyễn Đức Bạt Ngàn vì thơ anh gần như là hơi thở, là sự sống khổ lụy của tôi mà tôi còn thích nhân cách của anh. Anh bộc bạch: “Thơ đến với tôi như ám chướng, viết vì không thể không viết”. Anh làm thơ trước 1975, đăng thơ khá nhiều, các tác phẩm của anh được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Canada. Anh định danh qua tài năng thi ca của anh chứ không định danh qua hội nhóm hay hình bóng người khác. “An Vi” là một trong vài bài thơ cuối cùng anh viết trước khi mất: “Em phơi phới trên bốn mùa thanh vắng / nhen lửa tình hong ấm cõi âm ti / anh là gió nên trọn đời thức trắng / giữa ta bà tâm hớn hở an vi.”

    2.
    * Anh DU TỬ LÊ và tôi thân nhau từ năm 1962 lúc anh còn ở ngã Bảy, Chợ Lớn. Tôi, anh Du Tử Lê, họa sĩ Phan Ngọc Diên, họa sĩ Động Đình Hồ thường gặp nhau và chúng tôi cũng thường kéo nhau ăn cơm trưa bình dân ở góc đường Lý Thái Tổ – Phan Thanh Giản. Anh Du Tử Lê có nụ cười hiền lành, dễ thương và sống rất thật với anh em. Anh cộng tác trong các tạp chí văn nghệ mà tôi phụ trách.

    Tôi nhớ nhất một kỷ niệm vào khoảng năm 1971, một hôm anh Du Tử Lê bảo tôi cho nhà văn Thế Nguyên, chủ nhiệm bán nguyệt san Trình bầy một bài thơ để đăng trong tuyển tập do Trình bầy chủ trương. Tôi trao bài thơ 5 chữ cho anh Du Tử Lê. Vài hôm sau, anh Du Tử Lê gặp tôi nói anh Thế Nguyên đề nghị tôi sửa 2 câu. Tôi viết: “Bộ đội ôm mìn cốt / Trên thân xác buồn xo”, sửa thành: “Quân đôi ôm mìn cốt / Trên thân xác buồn xo”. Tôi không đồng ý sửa và xin không đăng bài thơ này. Không lâu sau, tôi biết Trình bầy là một tạp chí khuynh tả và nhà văn Thế Nguyên là ai? Gần đây, trong bữa cơm trưa cùng anh Du Tử Lê và họa sĩ Phan Ngọc Diên trên đất Mỹ, tôi kể kỷ niệm xưa cho anh nghe. Anh cười vẫn nụ cười thật hiền: “Mình nhớ. Bài thơ thật hay!” Thỉnh thoảng tôi có gửi thơ đăng trên trang dutule.com của anh và mới đây, ngày 2 tháng 10 anh có đăng bài viết của nhà thơ Nguyễn Nhã Tiên viết về “Lục bát Phương Tấn”, tôi chưa kịp cám ơn anh thì anh đã mất.

    Sáng Chủ Nhật ngày 27 tháng 10 năm 2019, tôi đến chia tay anh Du Tử Lê trước giờ anh đi xa, thật xa. Tôi ngồi nghe những phát biểu thâm tình cùng những tiếng hát được phổ nhạc từ thơ Du Tử Lê của các anh chị văn nghệ sĩ quá quen tên: Doãn Quốc Sĩ, Nhã Ca, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Kiều Chinh, Trịnh Cung, Lệ Thu, Đỗ Quý Toàn, Trúc Hồ… 4 giờ chiều. Tôi tiễn anh Du Tử Lê đến tận mộ và gửi xuống lòng đất cùng anh một bông hoa hồng trắng. Trời trở lạnh và gió nhiều như sắp mưa. Tôi chợt nhớ hai câu thơ của anh: “Nhớ ai buồn ngất trên vai áo. Mưa ở đâu về như vết thương”.

    3.
    * Anh TRẦN TUẤN KIỆT với tôi rất thâm tình. Trên “Tạp chí Phổ Thông Xuân 1962” của nhà báo Nguyễn Vỹ kèm theo mỗi bài viết hay sáng tác là một ảnh chân dung của cộng tác viên của tạp chí. Năm ấy, tôi vừa 16 tuổi, nhỏ tuổi nhất và học thấp nhất bên cạnh các nhà văn, nhà thơ, nhà báo… tên tuổi lừng lẫy cả trong nước và ngoài nước. Cũng từ sự mến mộ, sau này khi du học 2 năm tại Hoa Kỳ, nhà báo Nguyễn Vỹ đã mời tôi phụ trách chuyên mục “Lá Thư Hải Ngoại”.

    Thời gian này, anh Trần Tuần Kiệt gần như là “người nhà” của tạp chí Phổ Thông, tuần báo Thằng Bờm và nhật báo Dân Ta của nhà báo Nguyễn Vỹ nên tôi rất thân với anh. Tôi hay đến nhà anh ở khu vườn Chuối, quận 3 ăn cơm trưa. Anh là dân Nam Bộ, hết sức dễ thương, sống nghèo nhưng thật giàu tình nghĩa với mọi người. Sau năm 1975, anh dời nhà về Hàng Xanh, đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, tôi vẫn thường ghé trò chuyện văn thơ và lấy bài viết về võ thuật của anh cho tạp chí võ thuật mà tôi phụ trách.

    Trong một lần từ Mỹ về, tôi không còn nhớ địa chỉ nhà anh nên mãi miết tìm kiếm trong các hẽm khu Hàng Xanh, đường Xô Viết Nghệ Tĩnh nhưng không được. Khi trở về Mỹ, tôi vui mừng nhận được địa chỉ của anh nhưng chưa kịp gặp lại anh thì anh đã mất. Vâng, bây giờ: “Thánh thần Tiên Phật xa rồi / Lấy ai bằng hữu giữa trời vân du” như thơ của anh đã viết. Anh Trần Tuấn Kiệt ơi, thương quá!

    PHƯƠNG TẤN
    (30-10-2019)

    Image may contain: 6 people, people sitting and outdoor

    @ PHƯƠNG TẤN – nhà thơ HÀ NGUYÊN DU – nhà thơ NGUYỄN ĐỨC BẠT NGÀN – nhà văn TRỊNH Y THƯ – nhà thơ NGUYỄN LƯƠNG VỴ – nhà báo PHAN TẤN HẢI – nhà văn LÊ GIANG TRẦN.
    Image may contain: one or more people and text
    Nhà thơ DU TỬ LÊ ký tặng PHƯƠNG TẤN tuyển tập thơ DU TỬ LÊ (1957 – 2013).
    Image may contain: 8 people, people smiling, people standing
    PHƯƠNG TẤN cùng nhà thơ DU TỬ LÊ và các nhà văn, nhà thơ, nhà báo ĐẶNG PHÚ PHONG – HẠ QUỐC HUY – PHẠM QUỐC BẢO – NGUYỄN LƯƠNG VỴ… tại nhật báo NGƯỜI VIỆT.
    Image may contain: 2 people, people smiling, indoor
    PHƯƠNG TẤN TRONG TANG LỄ NHÀ THƠ DU TỬ LÊ SÁNG NGÀY 27-10-2019 TẠI WESTMINSTER, CALIFORNIA, USA.

    Theo FB