(Hồi ký) NỮ-SĨ VI KHUÊ – ĐẠI-TÁ NGUYỄN HỮU DUỆ – LÊ XUÂN NHUẬN
NỮ-SĨ VI KHUÊ
TRỤ-SỞ Ðài Phát-Thanh Huế tọa-lạc ngay trên bờ Hữu-Ngạn của Sông Hương, cạnh mé Tây của đầu Cầu Trường-Tiền, đối-diện Đại-Khách-Sạn Morin bên kia Đường Lê-Lợi sát góc Đường Duy-Tân.
Thuở ấy, chưa có các Ðài cấp Tỉnh, Ðài Huế là Tiếng Nói chung của cả Miền Trung, nên máy phát rất mạnh, không thua Ðài Quốc-Gia và Ðài Pháp-Á (Radio France-Asie) của Pháp ở Sài-Gòn, nghe được cả ở Miền Bắc lẫn Miền Nam Việt-Nam.
Cả nước chưa có hệ-thống truyền-hình; cả Miền Trung chỉ có vài ba tờ nhật-báo ở Huế mà thời-sự thì dựa theo tin-tức đọc chậm của Ðài Sài-Gòn. Trong tình-hình đó, Ðài Huế là món ăn tinh-thần hằng ngày của đồng-bào Miền Trung, và của cả những người ở phiá ngoài Tỉnh Thanh-Hoá và ở phiá trong Tỉnh Bình-Thuận mà có gốc-gác hoặc liên-hệ đời sống ở Miền Trung.
Ngoài những tiếng hát của các nam+nữ ca-sĩ mà một số về sau vào Sài-Gòn thì trở thành danh-ca của toàn-dân, giọng bình và ngâm thơ của các thi+kịch-sĩ tên-tuổi một thời, tiếng hát của các danh-ca quốc-tế trong các chương-trình nhạc ngoại-quốc do thính-giả yêu-cầu, và giọng đọc xì-xồ của mấy người Pháp trong chương-trình vô-tuyến của Service d’Information, những ai đã từng nghe Ðài Huế cũng đều xác-nhận rằng người nữ-xướng-ngôn chính của Ðài này có một giọng đọc truyền-cảm vô-cùng. Giọng đọc của người con gái Huế ấy chẳng những dịu-dàng, ngọt-ngào, ấm-cúng, hấp-dẫn, mà còn trí-thức, vì không bao giờ vấp phạm lỗi-lầm khiến thính-giả khó chịu hoặc làm sai lạc ý-nghiã của câu văn.
Những người hiếu-kỳ đi ngang qua Ðài Huế thường để ý thấy có một thiếu-nữ be-bé xinh-xinh, cư-ngụ trong một căn phòng khiêm-tốn ở tầng trên của một buồng-kho bên hông trụ-sở Ðài. Một cầu thang nhiều bậc xi-măng từ mặt đất bắc lên cửa phòng làm cho căn phòng có vẻ cao hơn, khiến các thanh-niên ái-mộ đặt cho người-đẹp và căn phòng ấy cái mỹ-danh “nàng bồ-câu trên chuồng bồ-câu”.
Ðó chính là cô xướng-ngôn nói trên.
Sau ngày hồi-cư vào đầu năm 1947, tôi thường đến Ðài Huế để góp phần vào các chương-trình kịch vô-tuyến hằng tuần, kể cả việc trình-bày một số kịch thơ dã-sử và xã-hội của tôi, trong đó nhạc-sĩ Trịnh Văn Ngân là một trong những cây ngâm tuyệt-vời.
Do đó, tôi quen biết “nàng bồ-câu trên chuồng bồ-câu”. Tên nàng là Trần Trinh Thuận, tức nữ-sĩ Vi Khuê, một biên-tập-viên chính-ngạch có giọng nói trời cho nên kiêm luôn phần-vụ xướng-ngôn.
Tuy Vi-Khuê làm việc ở một cơ-quan thông-tin tuyên-truyền đậm màu chính-trị, nhưng những bài thơ của nàng hồi đó chỉ là tâm-tình của bạn gái ở lứa tuổi hai mươi, dễ thương như “con nai vàng ngơ-ngác, đạp trên lá vàng khô”.
*
Tôi thì lăn xả vào giữa tình-hình rối-ren cuả Quê Hương.
Dù đã từng bị giặc Pháp tù đày, tôi vẫn giao-du tuy không đồng-ý với Hồng Quang, chủ-nhiệm báo “Ý Dân”, là người chỉ chọn vũ-lực để chống chủ-nghiã thực-dân; và vẫn cộng-tác tuy không thuận-tình với Phạm Bá Nguyên, chủ-nhiệm báo “Công Lý,” là kẻ nhận Ðệ-Tứ thay cho Ðệ-Tam. Tôi lui+tới với Duy Sinh nhưng chưa yên tâm vì huyền-thoại văn-hoá điệp-báo của Nguyễn Bách Khoa. Tôi rất đau lòng vì đồng-bào đói khổ, nhưng chỉ hiệu-chính giùm thi-pháp chứ không tán-thành nội-dung khích-động giai-cấp đấu-tranh trong thi-tập “Tiếng Nói của Dân Nghèo” cuả Vân Sơn PMT (Phan Mỹ Trúc). Tôi thân+thương Trụ Vũ và Quách Thoại nhưng không hợp tính với họ vì lối sống phóng-túng của hai nghệ-sĩ thân-nhân ấy của Vi Khuê. Tôi tiếp-xúc với tác-giả nhưng không khép mình trong triết-thuyết bi-quan trong “Con Thuyền Không Bến” cuả Nguyễn Vũ Ban. Tôi thả hồn lên cõi siêu-nhiên nhưng không bước vào nương nhờ Cửa Thiền trong “Không Bến Hạn” cuả Huyền Không.
Tôi ủng-hộ cả hai đường-lối phục-hồi độc-lập quốc-gia: công-nghiệp kháng-chiến vũ-trang chân-chính của người dân, và nỗ-lực ngoại-vận ôn-hoà của các chính-trị-gia không-cộng-sản trong lòng Thế-Giới Tự-Do.
Riêng ở phiá bên này lằn ranh, tôi nhận thấy Cựu-Hoàng Bảo Ðại thì quá yếu mềm mà Đế-Quốc Pháp thì còn luyến tiếc giấc mơ đô-hộ Việt Nam, nên viết cuốn truyện dã-sử “Trai Thời Loạn” để gửi gắm ý mình, và kết-quả là tôi bị cơ-quan An-Ninh Quốc-Gia bắt giam; sau nhờ có chính-khách Cao Văn Chiểu, Giám-Đốc Thông-Tin Lê Tảo, cùng nhiều nhân-sĩ khác, can-thiệp với Thủ-Hiến Phan Văn Giáo, tôi mới được thả ra.
Ðể tạo một thế đứng vững-vàng hơn, tôi thành-lập Thi+Văn Ðoàn “Xây-Dựng”, xuất-bản các tác-phẩm của mình và của các bạn từ Bắc chí Nam. Mới bắt đầu thì Nhất Hiên (Phan Nhật Hiến) bỏ theo Việt Minh, và nửa chừng thì Như Trị (Bùi Chánh Thời) cũng nhảy lên chiến-khu.
Tôi hướng về nền dân-chủ và lòng hào-hiệp cuả Hoa Kỳ như tia sáng ở cuối đường hầm.
*
Tháng 4 năm 1954, tôi vào phục-vụ tại Phòng 5 Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu với tư-cách văn-nghệ-sĩ & ký-giả bị/được động-viên chuyên-môn. Lê Ðình Thạch và Huy Vân thì kỳ-cựu, Tô Kiều Ngân gốc Nha Thông-Tin cũng đã thành quân-nhân. Tchya (Ðái Ðức Tuấn) và Nhất Lang thì được đồng-hoá sĩ-quan.
Ngoài việc viết bài cho báo “Tiếng Kèn”, cho các đơn-vị Võ-Trang Tuyên-Truyền ở tuyến đầu, và cho chính tôi đi vận-động trong dân-nhân, tôi còn là phóng-viên chiến-tranh và biên-tập-viên chính cuả Ðài “Tiếng Nói Quân Ðội” tại Miền Trung.
Do chương-trình phát-thanh này, mà tôi là giám-đốc, tôi mới đặt phòng-giấy ngay tại trụ-sở của Ðài Phát-Thanh Huế, và gặp mặt Vi Khuê thường-xuyên.
Thay chỗ nhạc-sĩ Anh Chương, tôi cử Lâm Tuyền làm Trưởng Ban Tân-Nhạc; nhưng rồi tôi làm lơ cho Lâm Tuyền đào-ngũ vì anh quá chán chuyện đời.
Tôi đưa Văn Giảng lên thay.
Hà Thanh mới bắt đầu vào nghề.
Những lần xe Jeep bị hư, tôi đạp xe-đạp qua chở Kim Tước từ cư-xá Nha Thông-Tin ở bên kia cầu Trường Tiền. Cặp Châu-Kỳ−Mộc-Lan của giới ca-nhạc, cũng như cặp Hoàng-Pha−Phương-Khanh của giới văn+thơ, cũng đã từng ở đây.
*
Rồi Thoả-Ước Geneva ra đời.
Trong hội-nghị quốc-tế ấy, có ba nhân-vật Việt-Nam đã được thế-giới chú ý hàng đầu: Cô Thiên-Hương, con gái của nhà văn Hồ Hữu Tường, là nữ ký-giả duy-nhất, nói được nhiều ngoại-ngữ và trẻ đẹp nhất trong giới truyền thông; Cụ Võ-Thành-Minh, một lão-thi-sĩ, từ Huế đến, đã bí-mật vượt hàng rào Cảnh-Sát Thụy-Sĩ vào cắm trại trên Bờ Hồ Leman trước hội-đường, tuyệt-thực thổi sáo nói lên nỗi lòng của người dân Việt-Nam mong-muốn Thống-Nhất và khao-khát Tự-Do; và Ông Nguyễn-Quốc-Ðịnh, Ngoại-Trưởng cầm đầu Phái-Ðoàn Quốc-Gia Việt-Nam của chính-phủ Bảo Ðại, đã từ-chức để khỏi ký tên vào văn-bản thừa-nhận việc đất nước bị qua-phân.
Thủ-Tướng Ngô Ðình Diệm cử Ông Trần-Văn-Ðỗ đến thay. Pháp và Việt-Minh thoả-thuận ngưng bắn, lấy vĩ-tuyến 17 ngang sông Bến Hai làm ranh-giới Bắc–Nam.
*
Ðại-Tá Trương Văn Xương, Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu, thuộc cánh Tổng-Tham-Mưu-Trưởng là Trung-Tướng Nguyễn Văn Hinh (con của cựu Thủ-Tướng Nguyễn Văn Tâm, thân-Pháp), mở một chiến-dịch đưa quân từ Huế vào tiếp-thu các Tỉnh phiá trong. Theo chương-trình chính-thức thì Thủ-Tướng Diệm sẽ từ Sài-Gòn ra chủ-toạ lễ thiết-lập Chính-Quyền Quốc-Gia tại vùng đất mới lấy lại này. Theo kế-hoạch riêng của cặp Hinh+Xương thì Diệm, trên đường đi từ Huế vào Quảng-Ngãi, sẽ bị lính và dân dàn chào bằng tiếng hô “Đả Đảo” cùng với trứng thối và cà chua. Câu hỏi nổi bật là “Mười vé phi-cơ cho gia-đình họ Ngô, hay là mạng sống cuả cả trăm ngàn binh sĩ Quốc-Gia?” Các bức tường vẽ khẩu-hiệu đã được xây lên; và biểu-ngữ, bích-chương, cùng truyền-đơn liên-hệ đã được chuẩn-bị sẵn dọc đường rồi.
Phòng 5 Quân-Khu đương-nhiên đảm-trách công-tác tác-động tinh-thần này.
Thành-Phố Huế ngẫu-nhiên được chia thành hai trận-tuyến. Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu thì đóng trong Ðại-Nội, phiá Bắc của Sông Hương; nhà Ông Ngô-Ðình-Cẩn, trung-tâm quy-tụ cuả gia-đình họ Ngô, thì nằm trên Xóm Phú-Cam, phiá Nam của Sông Hương. Bộ-phận “Tiếng Nói Quân-Ðội” của tôi lại đặt trụ-sở tại Ðài Huế, trên bờ phiá Nam. Ðể biểu-dương lực-lượng, Quân-Khu phái đến hai chiếc xe-tăng, án-ngữ hai bên sân, trước Ðài Phát-Thanh. Các chương-trình vô-tuyến dân-chính chỉ có nội-dung lập-lờ, thông-tin hàng-hai.
Ở Quảng-Ngãi, cán-bộ Việt Minh gài lại xúi giục dân-chúng phản-kháng lực-lượng tiếp-thu, vì thấy vẫn có Cố-Vấn Pháp trong hàng-ngũ Quốc-Gia; súng nổ, người chết; Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát xen vào.
Ðảng Cần-Lao, qua nhạc-sĩ Ngọc Linh, móc nối tôi.
Tôi không theo đảng-phái nào hết, nhưng quyết-định ủng-hộ Thủ-Tướng Diệm, với chủ-trương “Ðả Thực, Bài Phong, Diệt Cộng”, để được sự giúp-đỡ cuả Hoa-Kỳ. Quốc-gia giàu mạnh nhất thế-giới này đã dìu-dắt Tây-Ðức, nâng-nhấc Nhật-Bản, và cứu-vớt Ðại-Hàn. Trung-Tá Nguyễn Văn Bông, Tư-Lệnh Mặt Trận Nam–Ngãi, đã phát-biểu với Trung-Tá Nguyễn Văn Tố, Phó Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu, trong khi ổng lái xe ra đón Tố vào:
– Mình cộng-tác với thằng giàu thì hẳn sướng hơn phục-vụ cho thằng nghèo!
Tôi thảo truyền-đơn, tài-liệu, viết bài tuyên-truyền cho chí-sĩ họ Ngô.
Bộ Tham-Mưu của Xương không tin-tưởng ở tôi. Họ lập hẳn một Ðài Phát-Thanh riêng, trong Thành-Nội― dân-chúng gọi là “Đài bí-mật”―để tự mình phổ-biến lập-trường chống-Diệm và hô-hào dân-chúng nổi lên.
Không còn bị Cấp Trên ràng buộc, tôi công-khai dùng “Tiếng Nói Quân Ðội” để hậu-thuẫn cho Diệm và Hoa-Kỳ.
Hồi ấy, chỉ có một số trong giới Nho-học lớn-tuổi nghe danh Ông Ngô-Ðình-Khả, còn đa-số dân-chúng nói chung thì ít ai biết tên Ông Ngô-Ðình-Diệm, ngoại-trừ một nhóm trong giới Kitô-Giáo có đọc tờ báo “Tinh Thần” thời-gian gần đó.
Chương-trình phát-thanh của tôi có ảnh-hưởng rất lớn trong quần-chúng, vì làn sóng của Ðài Huế phát đi rất mạnh và xa, trong lúc “Ðài bí-mật” thì nhỏ và yếu, chỉ lẩn-quẩn vùng gần, lại khi-có khi-không.
Tôi đã lèo-lái để người dân xứ Huế, nghe Đài “của tôi” và trông thấy hai chiếc xe-tăng trấn đóng trước Ðài mà tưởng và tin là phe mạnh nhất trong Quân-Lực đã đứng hẳn qua phía Diệm, nên biệt-phái chiến-xa đến cho tôi để bảo-vệ Tiếng Nói của mình, chống lại phe yếu thế Hinh–Xương.
Toàn-quốc, nhất là Sài-Gòn, hướng về xứ Huế, gốc-gác của họ Ngô, lấy đó làm chỉ-dấu mà lên tinh-thần.
Từ đó, các phần-tử thân-Diệm mới dám đứng ra khỏi vòng giới-hạn của mình mà hoạt-động rộng-rãi trước mắt mọi người.
*
Trong những tháng ngày gay-cấn ấy, cứ mỗi lần từ các cuộc hành-quân hoặc từ các hoạt-vực bên ngoài trở về với phòng-giấy tại Ðài, tôi lại cảm thấy nhẹ-nhõm cả người, khi gặp mặt lại những nữ-nghệ-sĩ trẻ đẹp tươi vui, như bướm, như hoa, tô thắm cuộc đời. Trong vườn thanh+sắc ấy, Vi Khuê của giới thi+văn vẫn gần-gũi với tôi hơn các bạn bên giới cầm+ca. Nhưng “nàng bồ-câu” vẫn vô-tư-lự như mọi ngày, đâu biết đầu-óc tôi đã bỏng-rát những tính-toán mưu-mô, thân-xác tôi đã bầm-dập những gian-nan nguy-khốn, và chỉ trở về văn-phòng để thư-giãn cho những căng-thẳng thần-kinh.
*
Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm thắng phe Hinh+Xương.
Hoa-Kỳ mở Phòng Thông-Tin tại Đại-Khách-Sạn Morin. Giám-Ðốc Thompson A. Grunwald là viên-chức dân-sự Mỹ đầu tiên đặt chân đến Miền Trung. Tôi tổ-chức dạy tiếng Anh trên Ðài, có Tôn Thất Ðát phụ-lực; tham-gia thường xuyên là Thompson, và bất-thường là bất-cứ người ngoại-quốc nào nói tiếng Anh mà tôi gặp được, bắt đầu từ Đại-Tá Richardson, Trưởng Phái-Ðoàn quân-sự Hoa-Kỳ T.R.I.M.
Lớp dạy tiếng Anh của tôi là lớp đầu tiên trong lịch-sử dạy tiếng Anh qua làn sóng truyền-thanh cho thính-giả Việt-Nam.
Nguyễn Cửu Tú (Phó Giám-Đốc Đài), Thompson và Nhuận
Ðại-Tá Nguyễn Quang Hoành lên thay Trương Văn Xương, rồi vì bất-đồng chính-kiến nên lại nhường chỗ cho Thiếu-Tướng Lê Văn Nghiêm.
Ðại-Úy Ngô Văn Hùng thay thế nhạc-sĩ Ngọc Linh, làm Trưởng Phòng 5. Văn Giảng ra đi, tôi cử Lê Trọng Nguyễn lên thay. Nguyễn vừa dịch tài-liệu vừa sáng-tác nhạc; bên cạnh giai-phẩm “Nắng Chiều” là “Hoan-Hô Lê Thiếu-Tướng” theo lệnh của Hùng (bắt chước “Hoan Hô Ngô Thủ-Tướng”). Ðể giúp Tôn Thất Ðậu chọn nhạc ngoại-quốc do thính-giả yêu-cầu, tôi liên-lạc với hàng chục Toà Ðại-Sứ ở Sài-Gòn, viết lời mở đầu về nền âm-nhạc của mỗi nước, và đặc-tính của mỗi bản nhạc, để giới-thiệu trước khi trình-bày. Giáo-Sư Lê Hữu Mục có đến chơi đàn; nữ-sĩ Như Thu đến góp bài; thi-sĩ Hồ Ðình Phương đến ngâm thơ. Trình-bày “Mục Thi-Ca” của tôi là Trần Anh Tuấn, Ðinh Lợi, Lan Hương, và Tâm Thanh (Tôn Nữ Kim Ninh).
*
Ở các Tỉnh Cao-Nguyên và miền núi Tỉnh Quảng-Ngãi, phong-trào đòi tự-trị của người Thượng nổi lên.
Chính-Quyền Diệm gom các phần-tử chủ chốt “Thượng Tự-Trị” về tập-trung ở đầu Cầu Nam-Giao. Một Nha Chiến-Tranh Tâm-Lý được lập nên, đặt trụ-sở ở đầu Cầu Phú-Cam. Đại-Úy Hùng kiêm-nhiệm Nha này. Tôi cũng kiêm thêm một số phần-vụ ở cơ-quan này, nên dời bàn-giấy đến đây.
Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu dời tổng-hành-dinh qua Hữu-Ngạn sông Hương.
Nước Việt-Nam Cộng-Hoà, với sự hậu-thuẫn của Hiệp-Chủng Quốc Hoa-Kỳ, được Thế-Giới Tự-Do nhìn-nhận.
*
Trong những năm trẻ-trung của Nền Ðệ-Nhất Cộng-Hòa ấy, Liên-Xô, Hoa-Cộng và Cộng-Sản Bắc-Việt, là những bên chủ-trương chia đôi đất nước Việt-Nam, chưa sẵn-sàng thực-hiện vũ-trang xâm-lược Miền Nam, mà Hoa-Kỳ thì viện-trợ tối-đa cả tinh-thần lẫn vật-chất cho con bài của mình và cái tiền-đồn mới lập này của họ ở Ðông Nam Á, nên tình-hình an-ninh khả-quan, chế-độ bắt đầu vững-vàng.
Thế là nhiều người liền tranh nhau mưu-quyền thủ-lợi riêng. Hầu hết chiến-công giữ nước, cũng như thành-tích dựng nước, được dùng để dâng lên Ngô Tổng-Thống, chỉ là những cử-chỉ qụy-lụy, những lời-lẽ tâng-bốc, những thái-độ tôn-thờ, dành cho toàn-thể gia-đình họ Ngô, được các tay chân thân-tín của Cụ xét thấy êm tai đẹp mắt nên tường-trình lên mà thôi.
Ông Ngô-Ðình-Khôi, bào-huynh của Diệm, từ-trần đâu cả chục năm trước kia, không ai biết đến; nay dời mộ-phần thì có cả tá cấp-cao chức-lớn gây lộn nhau để giành làm Trưởng Nam danh-dự hầu-cận bên quan-tài; nhiều năm về sau, hễ nhắc đến ông, nhiều kẻ còn khóc-lóc thảm-thương. Ông Ngô-Ðình-Luyện làm đại-sứ tận bên nước Anh, người dân không hề thấy mặt, thế mà khi nhắc đến ổng thì ai nấy đều vẽ-vời ra vô-vàn tài-cao đức-trọng, để ngợi-ca cho vừa lòng thế-gia. Huống chi các “Cố Vấn” hùng-cứ trong nước mà uy-quyền có khi lấn át cả ông anh. Dù không muốn nhập-cuộc, đa-số vẫn phải nhắc đi nhai lại, để được yên thân, những sáo-ngữ đã thành công-thức chót lưỡi đầu môi: “Nhờ ơn Ngô Tổng-Thống và các bào-huynh, bào-đệ cuả Người!” Thế là lắm kẻ được đặc-cách tiến-chức thăng-quan.
Trung-Tướng Thái Quang Hoàng thay thế Lê Văn Nghiêm.
Nhà văn Bùi Tuân trở thành Dân-Biểu, không còn viết thuê xã-luận cho Ðài của tôi, mà diện lễ-phục lái xe-hơi di diễu khắp phố-phường. Nhạc-sĩ Ngô Ganh không còn lập-dị, mặc bộ com-lê may bằng dạ chăn đi dưới nắng hè, bên trong là chiếc áo ngủ cổ kiềng mà mỗi lần đi đâu thì chỉ cần gài thêm vào đó một cái cổ áo trắng có đính sẵn ca-vát là khỏi phải tốn thêm nguyên cả chiếc áo sơ-mi; bây giờ ảnh làm Quản-Ðốc Ðài, kiêm Ðại-Diện Nhân-Dân Miền Trung, ngồi chung dãy ghế danh-dự với Ðại-Biểu Chính-Phủ, Tư-Lệnh Quân-Khu, v.v… trong những buổi lễ công-cộng trên khán-đài Phu Văn Lâu.
Trong lúc đó, tôi bị cơ quan An-Ninh Quân-Ðội thẩm-vấn tới, điều-tra lui. Họ vin vào cớ tôi đã là Trưởng Ðài Quân-Ðội từ khi còn Hinh+Xương.
Một hôm, Tổng-Thống Diệm ra Huế và ở lại đêm. Sáng sau, tôi nghe hàng-xóm kháo chuyện với nhau: “May mà bắt được, chứ không thì quân khủng-bố đã ám-hại Tổng Thống đêm qua rồi!” Ðến sở, tôi hỏi Đại-Úy Ngô Văn Hùng thực/hư thế nào; ổng liền gọi điện-thoại cho An-Ninh Quân-Đội, và cơ-quan này đến bắt tôi. Truy-cứu mới biết: chính-quyền sở-tại và thân-tộc có tổ-chức nhiều vòng đai an-ninh xung quanh nhà-thờ Phú Cam, nơi Diệm đến tiếp-xúc với giáo-dân; có một nhân-viên chìm, thuộc vòng-đai trong, vì đến trễ nên bị chận soát ở vòng-đai ngoài; thấy y có vũ-khí giấu trong người, đồng-bào tưởng lầm là Việt Minh. Chỉ có thế thôi, nhưng vì Diệm đã được thần-thánh-hoá, nên câu hỏi của tôi, dù là để phối-kiểm với mục-đích dùng Đài Quân-Đội mà trấn-an dư-luận đồng-bào, cũng đã bị xem là một sự xúc-phạm tày trời.
Ngày xưa, phần lớn văn-nghệ-sĩ đều phục-vụ trong ngành truyền-thông, nên tôi đã từng mong được chuyển nghề qua làm việc trong cơ-quan Thông Tin, để được quần-chúng độc-giả khán+thính-giả trọng-vọng hơn. Bây giờ đã ở trong ngành Tác Ðộng Tinh Thần, dù của Quân Lực nhưng cũng là thông-tin tuyên-truyền, tôi mới thấy mặt trái của tấm huy-chương.
Lần đó, nhà bác-học Bửu Hội, thân-thích của Cựu-Hoàng Bảo Đại, nhân dịp từ Pháp về thăm nhà, đến nói chuyện về y-học với đồng-bào Huế tại Rạp Chiếu Bóng Morin. Một số văn+thi-sĩ tùng-sự tại Nha Thông-Tin Trung-Phần đã nêu lên nhiều câu hỏi về thời-sự, mục-đích là để gài Hội phải phát-ngôn ủng-hộ Diệm, hoặc ngược lại thì có bằng-chứng để dễ ra tay. Mặc dù Hội đã nhấn mạnh rằng ông không về Việt Nam với mục-đích chính-trị, và xin miễn đề-cập đến các vấn-đề ngoài phạm-vi y-học, đồng-thời số đông trong cử-tọa cũng đã huýt gió phản-đối những câu hỏi lạc-đề, nhưng nhà văn Ðỗ Tấn vẫn trơ-tráo đứng dậy đặt thêm cho được vài câu hỏi nữa.
Bác-Sĩ Trần Văn Thọ, Tổng Giám-Ðốc Thông-Tin, mà còn tranh tài với Bác-Sĩ Trần Kim Tuyến, Giám-Ðốc Nha Nghiên-Cứu (tức cơ-quan Tình-Báo) thuộc Phủ Tổng-Thống; thảo nào mà nhà-văn này cũng không chịu lép vế các nhà-văn khác trong thành-tích bao vây những ai bị nghi là, bị cho là có thể đối-kháng chế-độ đương-quyền.
Một số nhà-thơ giành nhau chức-vụ lãnh-đạo ngành Thông-Tin, khởi đầu bằng địa-vị Chủ-Tịch Hội Văn-Nghệ-Sĩ & Ký-Giả Miền Trung.
Nhà-thơ Đỗ Tấn Xuân nhai lại cái bã Tố Hữu tán-tụng Staline, in hẳn cả một tập thơ―nhan đề “Mùa Hoa Sim Nở”―trong đó có câu “Tiếng đầu lòng con gọi: Cụ Ngô!”
Họ sợ vướng tôi nên tìm cách loại tôi, lùng thu thi-tập “Ánh Trời Mai” của tôi, v.v…
Thế nhưng hầu hết các nam+nữ tân+cổ+nhạc thi+ca+kịch-sĩ cộng-tác với tôi thì chỉ thấy tôi là một nhà thơ trẻ trai, hiền-lành, hòa-đồng với họ trong từng bộ-môn, chứ không biết gì về những khó-khăn của tôi.
Họ cũng không quan-tâm gì đến mục-đích chính-trị của Ðài, mà lại đinh-ninh rằng trọng-tâm hoạt-động và lý-do cùng ý-nghĩa của sự hiện-diện của Ðài chỉ là phần diễn-ngâm ca-tấu giải-trí văn-nghệ mà họ cống-hiến cho số thính-giả gần xa ái-mộ họ mà thôi.
Vi Khuê thì trầm-lặng hơn họ và có một thế đứng riêng. Nàng không ca hát nhưng số khán+thính-giả địa-phương hằng ngày háo-hức đến xúm dán mũi vào cửa kính để xem tận mắt các nữ-danh-ca hát thật cũng như dượt bài, đều không bỏ lỡ cơ hội nhìn ngắm cô biên-tập-viên duyên-dáng của Ðài. Các người-đẹp trình-diễn thì chỉ xuất-hiện vào giờ có chương-trình liên-quan, còn Vi Khuê thì có mặt ở đó suốt ngày, để những lúc trở về Ðài tôi nhìn thấy nàng mà dịu-vợi ưu-tư…
*
Thế rồi tôi giã-từ quân-ngũ, rời khỏi Ðài, ra ngoài hoạt-động văn-nghệ nhiều hơn trong một môi-trường rộng-lớn và khoảng-khoát hơn.
Ngoài các nỗ-lực tích-cực trong Quân-Ðội và sau đó là trong ngành Cảnh-Sát Công-An, tôi còn hăng say dùng hoạt-động văn-nghệ riêng tư để góp phần xây-dựng và củng-cố chế-độ Ðệ-Nhất Cộng-Hoà, thí-dụ: viết báo, đi thuyết-trình trong Cảnh-Sát & Công-An và ngoài dân-chúng; sáng-tác và trình-diễn khắp nhiều Tỉnh vở kịch thơ “Gươm Chính-Nghiã” của tôi đề-cao Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm, kêu gọi sĩ-phu khắp nơi, đặc-biệt từ Miền Bắc, về với Chính-Nghiã Miền Nam; sáng-tác và xuất-bản tập thơ “Tuần Trăng Mật” vinh-danh tình yêu vợ+chồng, phù-hợp với nguồn cảm-hứng từ Luật Gia-Ðình của Bà Ngô-Ðình Nhu…
Tôi giữ Mục “Vườn Thơ” trên tuần-báo “Rạng Ðông” của Lê Hữu Mục, họp làm đặc-san với Tôn Thất Dương Tiềm, xuất-bản thơ của các bạn gần xa và của chính mình, kết-thân với các nhóm như Hồ Mộng Thiệp, Thanh Phượng, Anh Ðộ, Tô Như, Quốc Dân… ở Ðà-Nẵng; đồng nhóm Xây-Dựng là Xuân Huyền, Tường Vi, Huyền Chi, Hoài Minh, Bàng Bá Lân, v.v… ở Sài-Gòn. Trong đó, tôi giữ mục “Hội Thơ” (do Hồ Đình Phương trung-gian) trên tuần-báo Văn-Nghệ Tiền-Phong của Hồ Anh, và có nhạc-sĩ Lê Mộng Bảo giúp phần ấn-loát phát-hành sách và đặc-san.
Tôi tái-tổ-chức họp bạn hằng tuần; ngày xưa thì có Nhân Hậu, Vĩnh Thao, Hạnh Lang, Trúc Lang, Võ Ngọc Trác, Xuân Dưỡng, Giang Tuyền, Kiêm Minh, Lê Mộng Hoà, Nhân Nam, v.v…; bây giờ thì có Hoàng Hương Trang, Tuyết Lộc, Kim Lan, Nguyên Xuân Tứ, Hữu Ðỗ, Khang Lang, Hoài Tâm, Hương Thu, Xuân Nghị, Thanh Thuyền, Thế Viên, v.v…; có lần có cả Trần Minh Phú từ Hàng Me đến, Diên Nghị từ đơn-vị về, Hồ Ðình Phương từ Long-An ra…
Ðại-Hội Văn-Hoá Toàn-Quốc dưới thời Ðệ-Nhất Cộng-Hoà (khai-mạc ngày 11 tháng 1 năm 1957) đã đem lại cho tôi một phần thưởng tinh-thần: “Xây-Dựng” cuả tôi được nhìn-nhận là một cành của Cây Ða Văn-Hiến Việt-Nam.
Trong thời-gian đó, Vi Khuê lên xe hoa. Và đôi uyên-ương đưa nhau lên xây tổ ấm trên đồi núi Ðà-Lạt sương mù, bỏ lại “chuồng bồ câu” trống lạnh như nỗi thiếu vắng trong lòng của những ai ai…
*
Sau khi bản-thân tôi gặp nhiều khó-khăn vì không chịu cải-đạo; sau khi người ta giết chết cả hai vợ+chồng thầu-khoán Nguyễn Văn Yến; sau khi người ta dùng ngay phòng họp là nơi tôi hướng-dẫn học-tập “Ðạo-Ðức của Ngô Tổng-Thống” cho các cấp chỉ-huy Cảnh-Sát Huế trong các buổi học-tập Chính-Trị và Công-Dân Giáo-Dục hằng tuần, để làm nơi tra khảo và giết chết thầu-khoán Nguyễn Ðắc Phương rồi ném xác xuống sân tri-hô là Phương nhảy lầu tự tử; sau khi nhận được vô-số bài-vở của anh+chị+em Cảnh-Sát Công-An gửi về tôi để xin đăng lên tờ nội-san “Phục Vụ” do tôi chủ-biên, nội-dung tố-cáo nhiều, quá nhiều, hành-động tham-lam, tàn-bạo, kể cả giết người, dựa quyền cuả ông Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn; v.v…
Do đó, tôi đã liều-lĩnh công-khai nêu lên một số khuyết-điểm của chế-độ họ Ngô, trong một buổi học-tập tại cơ-quan vào ngày Lễ Hai Bà Trưng (3-3-1960).
Biến-cố này đã gây chấn-động cả Miền Trung.
Kết-qủa là tôi bị quản-thúc điều-tra ba tháng, gây tranh-cãi giữa hai ông Cố-Vấn Cẩn và Nhu…
Rồi tôi bị đày lên Cao Nguyên “vùng nước độc và nguy-hiểm” với bụi đỏ mù trời.
Đời sống chính-trị tạo thi-hứng cho tôi sáng-tác và đăng báo rời-rạc các bài thơ mà sau Cách-Mạng 1-11-1963 mới được gom lại ấn-hành thành tập “Với Thượng-Ðế”, tập thơ thứ bảy cuả mình.
*
Qua đến Ðệ-Nhị Cộng-Hoà, tôi cũng lại gặp rắc-rối, vì tôi công-khai phản-đối những sai trái, nhất là chiều-hướng quân-phiệt trong chế-độ Nguyễn Văn Thiệu, bằng một bức thư trần-tình gửi lên Cấp Trên**.
Sau cùng tôi được (hay bị?) đưa về lại Miền Trung để giải-quyết giùm (và tôi đã giải-quyết được) những khó-khăn nội-bộ tại vùng đất này mà trước đó Trung-Ương hầu như bó tay…
Giờ đây, tôi trở về Huế lại.
Ngồi trên ghế đá công-viên trước Ðài Phát-Thanh Huế, tôi nhắm mắt mường-tượng những gì đã xảy ra tại đây vào buổi tối 8-5-1963―phản-ứng của giới Phật-Tử bị cấm treo cờ Phật-Giáo vào ngày lễ Phật, Phật-Giáo-Đồ tập-trung, chất nổ, người chết, sức mạnh quần-chúng…
Rồi lịch-sử đã sang trang…
Lắc đầu xua đi những ảnh-hình thế-sự, tôi thả hồn sống lại quãng đời thơ trẻ đã qua.
Những khuôn mặt cuả Huế một thời, mà tôi nhớ thêm: các nhà văn Bửu Kế, Phan Khoang…; các nhà thơ Phan Văn Dật, Nguyễn Anh, Tô Kiều Ngân…; nhà khảo-cứu Bửu Cầm; hoạ-sĩ Phi Hùng; nhà dựng kịch Lê Hữu Khải; các kịch-sĩ Vũ Ðức Duy, Vĩnh Phan, Minh Mão, Hà Nguyên Chi…; các nhạc-sĩ Nguyễn Hữu Ba, Lê Quang Nhạc, Ưng Lang, Hoàng Thi Thơ, Lê Tất Vịnh, Hoàng Nguyên…; các ca-sĩ Minh Trang, Thanh Nhạn, Tôn Thất Niệm, Ngọc Cẩm–Nguyễn Hữu Thiết, Bạch Yến, Thiện Nhân, Hương Việt, Diệu Hương…
Tôi không gặp lại Phương Như, Bằng Trình của Huế, Anh-Ðộ Ðỗ Cẩm Khê của Ðà-Nẵng, và mất liên-lạc với Huyền-Chi từ sau khi nàng lấy chồng. Trước đó, bóng người áo trắng Kiều-Ngọc đã vuột khỏi tầm tay tôi.
Nhưng tôi vẫn còn nhớ rõ buổi hoàng-hôn ấy tôi lái xe Lambretta-2-bánh chở Trần Dạ Từ từ khách-sạn Khê-Ký lên Bến-Ngự để anh gặp Nhã Ca, và buổi sáng chủ-nhật kia Hy Văn Mộng đến nhà tôi chơi bị cháu nhỏ tè ướt cả quần khi anh bế nó lên hôn.
Có những bạn thân không còn, hoặc còn nhưng phai thân…
Nhưng Vi-Khuê thì vẫn còn là một người bạn thân. Cuả vợ+chồng chúng tôi.
Trong cuốn lưu-bút “Kỷ-Niệm Vàng” mà tôi giữ kỹ, bây giờ vẫn còn tờ giấy bạc “anh gánh dưa” một đồng mới toanh mà Vi-Khuê đã ký tặng mừng tuổi tôi vào dịp Tết năm nào.
Hình-ảnh ấy càng đậm nét khi nàng đưa Vân-Anh, cả hai phất-phơ tà áo màu qua cánh đồng An-Cựu vàng rực mùa lúa gie, đến thăm tôi vào thuở ban đầu, để rồi sau đó thì nàng làm chứng-nhân cho cuộc lễ thành-hôn của tôi với người bạn thân ấy của nàng.
*
Giờ đây Thành-Phố Huế đã bị giáng bậc xuống làm
Thị-Xã, tước mất―ngoại-trừ về phần văn-hóa và lịch-sử― cái địa-vị thủ-phủ của Miền Trung; hoa-khôi Ðồng Khánh ngày càng hiếm-hoi; Ðài Huế xuống cấp làm Ðài Tỉnh nhỏ; các xướng-ngôn-viên và ca-sĩ chỉ gợi tiếc những giọng oanh vàng và hương sắc ngày xưa…
Ðệ-Nhất Cộng-Hoà thế kia, Ðệ-Nhị Cộng-Hoà thế này. Mỗi chế-độ có những vấn-đề khác nhau, nhưng đều giống nhau ở vận nước chông-chênh.
Liệu những biến-thiên của cuộc đời sẽ còn đem lại những đổi thay nào khác nữa cho Đồng-Bào, cho Quê-Hương?
Huế vẫn còn đây, Ðài Huế vẫn còn đây, và tôi trở về ngồi đây.
Nhưng tôi không còn tìm thấy lại được, sau mỗi chặng đường―cũng vẫn gian-nan một mình chống-chọi với ma-quỷ còn sót lại trong thời buổi mới―sự thanh-thản, dù trong chốc-lát, cho tâm-hồn mình, như những ngày nào xa xôi…
=====================
ĐẠI-TÁ NGUYỄN HỮU DUỆ
TÔI đã phát-biểu với Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia, có cả Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương, cùng nghe, rằng nếu tôi còn đảm-trách an-ninh & phản-gián Vùng I ngày nào thì ngày đó tôi còn ngăn-chận được mọi cuộc biến-loạn, cho Vùng ấy, và, do đó, cho cả Miền Nam*.
Tôi nói như thế liền sau khi tôi đề-nghị bổ-nhiệm hai sĩ-quan tín-đồ Kitô-Giáo làm Tỉnh/Thị-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh/Thị, là hai chức-vụ quan-trọng nhất trong chính-quyền tại Tỉnh Thừa-Thiên và Thị-Xã Huế. Như thế nghĩa là sau khi thay-đổi hai quan-chức ấy, mà nếu tình-hình ngoài đó vẫn còn bất-an, thì chính tôi mới là người có thể dẹp yên các mưu-đồ quấy rối nội-chính tại Huế và Thừa-Thiên.
Đề-nghị của tôi đã được Trung-Ương chuẩn-y ngay.
Thế rồi, mới dự lễ giao+nhận chức-vụ Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh/Thị giữa Thiếu-Tá Liên Thành và Trung-Tá Hoàng Thế Khanh ở Huế xong, tôi đã phải ra ngoài đó lại để chủ-toạ lễ giao+nhận chức-vụ Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh/Thị: Trương Công Đảm thay-thế Trương Công Ân.
*
Nhớ hôm Trung-Tá Hoàng Thế Khanh nhậm-chức, ngay sau buổi lễ tôi đã đi vào một số văn-phòng thuộc Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực cũng như thuộc Sở Đặc-Cảnh Tỉnh/Thị sở-tại, để quan-sát và nghe-ngóng tình-hình chung. Ngoại-trừ số đông lâu nay vốn có thiện-cảm với tôi, có một số ít viên-chức sắc-phục cũng như dân-phục mà qua ánh mắt của họ nhìn nhau trước, trong và sau khi họ nói chuyện với tôi, tôi cảm thấy rõ-ràng rằng, dù Ngành Công-Lực ở cố-đô có do cá-nhân hay phe-nhóm nào đứng đầu đi nữa, thì bây giờ, đối với thiểu-số ấy, tôi vẫn chỉ là một người khách lạ, một người dưng, đáng nghi, đáng phòng.
Trước kia, Liên Thành tưởng tôi ăn-ý với Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng I, là Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, vốn có khuynh-hướng Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng, để chống phe-phái Đại-Việt Cách-Mạng-Đảng mà trong đó anh cùng Trương Công Ân là đảng-viên cấp cao.
Giờ đây, cánh ấy lại tưởng tôi thoả-hiệp với lớp mới là những phần-tử cực-đoan của dư-Đảng Cần-Lao để chống phá Phật-Giáo.
Trong lúc đó, chính Hoàng Thế Khanh cũng lo đề-phòng tôi, vì tôi nguyên là nhân-vật đầu tiên công-khai đơn-độc chống chế-độ độc-tài nhà Ngô, bị mật-vụ triều Ngô gán cho là thành-viên quá-khích của Đảng Đại-Việt để phát-vãng tôi ra khỏi Miền Trung vào năm 1960…
Tôi thì xưa nay vẫn là một người độc-lập. Tôi coi nhẹ các cấp lãnh-đạo nhất-thời; tôi chỉ chú-trọng quảng-đại quần-chúng miên-viễn ngoài đời và đa-số công-chức & quân-nhân trung-chính trong Chính-Quyền mà thôi.
Tôi tách mình riêng ra khỏi các bộ-phận đón-tiếp và tháp-tùng, để tiện tiếp-xúc với một số cá-nhân bộc-trực, trong số này có Đại-Uý Trần Vĩnh Thuận tức “Thuận Xù”*. (*Xem “Ông Đồn Lợi”). Anh có một bộ tóc bù-xù nên bạn-bè đặt cho anh cái tên như trên.
Thuận là một trong số các bạn thân của tôi ngày xưa, nhất là giai-đoạn liền trước biến-cố 1960, là năm chúng tôi xa nhau. Bây giờ anh là Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực một Quận ngoại-ô trong Tỉnh Thừa-Thiên.
Được tôi kéo ra để chuyện-trò riêng với nhau, câu nói đầu tiên của anh là trách-móc tôi:
– Tôi tưởng anh đã quên hết dĩ-vãng và bạn-bè!
Tôi chưa kịp nói gì thì Thuận đã nói tiếp, như để tăng phần khuấy-động tình-cảm trong lòng tôi:
– Anh Đặng Hữu Lợi đã chết, anh Trần Văn Cư đã mất, anh Phan Văn Trực đã qua đời, anh Lê Tấn Lực đã đi xa, anh Nguyễn Mầm đã thành phế-nhân, anh Nguyễn Duy Hát đã ra khỏi Ngành…
Những việc ấy, và cả nhiều việc khác nữa, tôi đã biết từ bao lâu rồi; nhưng khi nghe “Thuận Xù” nhắc lại tự-nhiên lòng tôi bỗng nhói đau như mới lần đầu tiên nhận được tin buồn về những người thân thương.
Chưa hết, “Thuận Xù” còn oái-oăm thò tay vào trong cổ áo tôi, nắn tìm xem tôi có mang một sợi dây chuyền nào không. Khi không thấy gì, anh mới ôm chầm lấy tôi mà hôn.
Ngày xưa, khi Ông Ngô-Đình Diệm mới về nước chấp-chánh, tôi là người đã ủng-hộ ông tận-tình, đơn-độc, liều-lĩnh ly-khai khỏi BTL Đệ-Nhị Quân-Khu, tức chống lại nhóm Hinh+Xương, dùng phương-tiện của Quân-Đội Quốc-Gia lúc ấy đang chống Diệm để phát-triển ảnh-hưởng ban sơ đang còn mong-manh của họ Ngô, mở đường cho thế-lực nền Đệ-Nhất Cộng-Hoà sớm vững mạnh bắt đầu từ Miền Trung.
Do đó, sau khi chính-quyền Diệm đã ổn-định, giới-chức hữu-trách trong Quân-Đội đã đề-nghị Trung-Ương ban thưởng “Quân-Công Bội-Tinh” cho tôi. Các sĩ-quan lãnh-đạo Ngành Chiến-Tranh Tâm-Lý tại Đệ-Nhị Quân-Khu, lúc đó toàn là những phần-tử thân-tín của Cố-Vấn Ngô Đình Cẩn, đã tặng tôi một sợi dây chuyền có treo một thập-tự-giá bằng vàng để làm kỷ-niệm khi quân-nhiệm của tôi đã mãn hạn-kỳ.
Thủa ấy, có nhiều công-chức và quân-nhân bỏ đạo của mình để theo Đạo Kitô. Số người cả trong lẫn ngoài chính-quyền tuy không phải là con chiên của Chúa mà cũng đeo thập-tự-giá dưới cổ thì khá đông. Không rõ do ai kể lại mà Thuận biết tôi cũng có một cái, nên anh cứ dòm chừng tôi, xem tôi có đeo hay không.
Ngày nay, “Thuận Xù” cố ý nhắc tôi nhớ lại cái vật trang-sức ấy, cái ý-nghĩa tượng-trưng của một phản-ứng người, trước một bối-cảnh đời.
Chỉ vừa mới thay-đổi cấp lãnh-đạo chính-viện Tỉnh có mấy hôm, và đến hôm nay thì mới thay-đổi cấp chỉ-huy Ngành An-Ninh (chưa động đến Ngành Phản-Gián) sở-quan, mà màu-sắc tín-ngưỡng của cá-nhân họ đã tác-động sâu-đậm lên tâm-lý của số đông viên-chức địa-phương như thế này sao?
Tôi cũng đã có linh-tính và ước-tính là sẽ có một cái gì đó xảy ra, nhưng tôi đã cắt đứt chiều-hướng xung-khắc của nhóm Linh-Mục Nguyễn Kim Bính ở Phú Cam đối với Chính-Quyền Tỉnh/Thị dưới thời Đại-Tá Tôn Thất Khiên rồi. Thế mà đường-lối đối-nghịch của họ lại nhắm sâu vào cả các chính-đảng và tôn-giáo khác, nhất là Phật-Giáo, mà tổ-chức quần-chúng là “Lực-Lượng Hoà-Hợp Hoà-Giải Dân-Tộc” thì cũng đang cùng đương-đầu với Chính-Quyền Trung-Ương.
Trong trường-hợp Đại-Việt Cách-Mạng-Đảng bất-hòa với Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng, chắc “Thuận Xù” không cần nhắc-nhở gì tôi. Chỉ có trường-hợp Kitô-Giáo chèn ép Phật-Giáo, mới khiến anh phải bày-tỏ thái-độ như thế với tôi.
Thế mới biết, làm một người trung-lập không phải là việc dễ. Hầu như mọi người, nhất là trong Chính-Quyền, trong các giáo-hội và trong các chính-đảng, đều đinh-ninh rằng, người nào cũng phải là đảng-viên của một đảng nào đó, tín-đồ của một đạo nào đó, hay ít nhất cũng là đồ-đệ của một nhân-vật nào đó. Điều tệ-hại nhất là khi người ấy không thuộc cùng một cánh với mình thì người ta coi người ấy như kẻ phản-động, như kẻ thù.
Đáng lẽ tôi nói cho “Thuận Xù” biết về lập-trường của tôi; nhưng tôi lại ngại là anh sẽ kể lại với người khác, và người khác ấy lại tưởng rằng tôi cốt thanh-minh để mong cầu một chút ân-huệ gì của họ chăng.
Năm 1954, nếu tôi vượt qua những thủ-tục thông-thường trong các cơ-quan quân-sự và hành-chánh, nhất là vượt qua lòng tự-trọng của chính mình, như lắm kẻ đã làm, đến kể công với Cố-Vấn Ngô Đình Cẩn, hoặc Cố-Vấn Ngô Đình Nhu, hoặc chính Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm, thì chắc-chắn là tôi đã được ban cho nhiều đặc-quyền đặc-lợi rồi. Năm 1967, nếu tôi kể công với Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu rằng tôi đã bí-mật nhúng tay phá vỡ âm-mưu đảo-chính của Thiếu-Tướng Nguyễn Cao Kỳ để bảo-toàn kết-quả cuộc bầu-cử đem lại thắng-lợi cho ông ngồi vững trên ghế Nguyên-Thủ Quốc-Gia, thì cũng chắc-chắn là tôi đã được trọng-thưởng nhiều rồi.
Vì tự-trọng và tự-ái, tôi chấp-nhận im-lặng, chỉ mình tự biết lấy mình.
Và mình đã nghĩ đúng, nói phải, làm hay, là đủ rồi.
Tuy nhiên, về vấn-đề đối-nghịch giữa Kitô-Giáo với Phật-Giáo thì tôi phải nói, vì tôi là một chứng-nhân.
Xét chung thì chế-độ Ngô Đình Diệm đã tạo hoàn-cảnh cho một số tín-đồ Kitô-Giáo, và cả một số không phải là con chiên của Chúa, xúc-phạm đến các tôn-giáo khác, nhất là Phật-Giáo mà tổng-số tín-đồ lên đến trên chín mươi phần trăm dân-số, nên các lãnh-tụ Phật-Giáo phải đứng lên tranh-đấu đưa đến cuộc Cách-Mạng 1-11-1963.
Ngày xưa, dưới thời Pháp-thuộc, các quan cai-trị thực-dân Pháp và triều-đình Huế tay-sai đều nằm trong vòng ảnh-hưởng của các cha-cố thuộc Toà Thánh Vatican, nhưng việc lấn-át chỉ xảy ra trong một số lãnh-vực và nhắm vào một số đối-tượng nhất-định, chứ không chèn-ép tràn lan người dân nô-lệ Việt-Nam vốn đại-đa-số là đệ-tử Cửa Thiền.
Liền trước thời Diệm, khi đế-quốc Pháp trở lại với súng đạn viễn-chinh thì cụ Trần Văn Lý lên chấp-chánh ở Miền Trung. Dù là một nhân-sĩ Kitô-Giáo, được Pháp và giáo-hội hậu-thuẫn và nể-vì, nhưng cụ có ỷ vào chức quyền để rẻ-rúng người nào không cùng tín-ngưỡng với mình đâu.
Dù sao, nếu cho rằng mọi tín-đồ Đạo Kitô dưới thời Diệm đều muốn đè bẹp Đạo Phật thì cũng không hoàn-toàn đúng.
Năm 1960, tôi bị đày lên xứ Thượng và bị “mật theo-dõi hành-vi chính-trị”, nghĩa là tôi thuộc thành-phần “phản-loạn” (dưới chế-độ Diệm không có “đối-lập”). Trớ-trêu thay, tôi được Giám-Đốc Cảnh-Sát Công-An trên này cử làm Trưởng Ban Điều-Tra Đặc-Biệt của Nha, bất-chấp lệnh cấm của Tổng-Nha. Nhiệm-vụ và quyền-hạn của tôi là bắt giữ, thẩm-vấn và lập hồ-sơ truy-tố các vụ vi-phạm, cả hình-sự lẫn chính-trị, khắp các Tỉnh ở cựu-Hoàng-Triều Cương-Thổ này.
Tại thủ-phủ của Cao-Nguyên, tôi đã đối-diện với nhiều tín-đồ Kitô-Giáo, vừa là thanh-niên học-thức, vừa là chấp-sự thân-cận của các Cha Xứ ở các Địa-Điểm Dinh Điền và Khu Trù Mật nổi tiếng thịnh-vượng và an-ninh của đồng-bào Miền Bắc di-cư, như Châu Sơn, Kim Châu Phát, Khuê Ngọc Điền, v.v…
Về mặt chính-trị nội-bộ, các thành-viên Kitô-Giáo bị báo-cáo là có ngôn-ngữ và thái-độ chống-đối Chính-Quyền, mà tôi lần-lượt mời đến hỏi cung, đều mạnh-dạn vạch rõ sai-lầm của chế-độ Diệm trong vấn-đề tôn-giáo, và khẳng-định rằng họ phản-đối mọi âm-mưu và hành-động của những kẻ đàn-áp Phật-Giáo. Chính Linh-Mục Nguyễn Viết Khai, là cha đỡ-đầu của Diệm, mà cũng chống Diệm về vấn-đề này. Theo họ, Thánh-Kinh tức là Lời Chúa, có khuyến-khích con chiên mở rộng Hội Thánh, nhưng bằng rao-giảng chứ không phải bằng bạo-lực hay mồi-bả vật-chất của thế-gian.
Biên-Tập-Viên Nguyễn Hữu Liêm và Thẩm-Sát-Viên Nguyễn Giang, ngồi cùng phòng với tôi, vừa làm việc vừa liếc nhìn tôi mà cười. Mà buồn cười thật, chính tôi cũng tự cười mình: một viên-chức an-ninh bị chế-độ trừng-phạt vì chống-đối chế-độ mà lại nhân-danh chế-độ đứng ra bắt lỗi những phần-tử cũng chống-đối chế-độ như mình!
Không lâu trước ngày tôi bắt đầu điều-tra các đối-tượng này, ở Ban Mê Thuột đã xảy ra một cái chết gây sôi-nổi dư-luận gần xa. Nguyên dưới quyền của Biên-Tập-Viên Liêm có một Đội Biệt-Kích Công-An, chuyên đi lùng diệt Việt-Cộng tại khắp các tỉnh Cao-Nguyên. Một hôm, có một đội-viên tên Nguyễn Văn Nam, cùng với đồng-đội mới đi công-tác về, bị mót đại-tiện nên vừa từ trên xe nhảy xuống là đã vội-vàng chạy tuốt vào trong nhà tiêu. Vì gấp-rút và không có gì khác hơn nên anh đã dùng một mảnh giấy báo mà lau hậu-môn. Ngẫu-nhiên có một đội-viên khác, cũng vào cầu-tiêu, trông thấy mảnh giấy báo của Nam có in ảnh của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, nên lưu-ý anh về việc này. Người bị bắt gặp quả-tang “phạm-thượng” đã rút súng tự bắn vào đầu chết ngay tại chỗ―Anh sợ bị đưa ra “phê-bình” trong các buổi “Học-Tập Chính-Trị và Công-Dân Giáo-Dục”, và sau đó là những hậu-quả khôn lường.
Một số trong các tín-đồ Kitô-Giáo nói trên, trong lúc khai-cung, đã đề-cập với tôi về vụ đó, và một người đã chất-vấn tôi:
– Dưới thời Nho-Giáo cực-thịnh, mọi người đều phải tôn-trọng ngay cả bất-cứ một mảnh giấy nào trên đó có Chữ Nho, vì Chữ Nho là biểu-tượng của Đạo Nho, của Đức Khổng-Tử. Tuy thế, nếu có kẻ dùng sách giấy có Chữ Nho, hình-ảnh Đức Khổng-Tử, mà lau hậu-môn, thì kẻ ấy chỉ bị quở mắng, hoặc bị đánh đòn, một lần rồi thôi, chứ có ai vì cái lỗi ấy mà bị hành-hạ tàn-nhẫn đến độ thà tự-tử chết còn hơn để bị bắt giam? Qua cái chết của anh ấy, cũng là đồng-nghiệp Công-An với các anh, các anh nghĩ sao về chế-độ này?
Các anh Liêm và Giang đã đồng-ý với tôi, dẹp bỏ biên-bản chấp-cung, để cho các phần-tử “Công-Giáo công-chính” ấy tự tay viết các lời khai theo ý họ, xong để họ ra về tự-do, rồi đệ-trình hồ-sơ lên Cấp Trên “để tuỳ-nghi thẩm-định” với cái đề-nghị đã trở thành công-thức là “tiếp-tục mật theo-dõi hành-vi chính-trị” của các đương-nhân.
Tôi nhấn mạnh với “Thuận Xù” điều đó, và nhắc thêm về biến-cố 1960: cùng bị đày ra khỏi Huế và các tỉnh thành lớn, lên miền lam-sơn chướng-khí một lần với tôi, còn có các anh Trần Văn Liệu và Trần Tòng; họ cũng là tín-đồ Kitô-Giáo, cũng là dân Phú-Cam, trung-tâm ảnh-hưởng của gia-đình họ Ngô. Trước đó, nhân-sĩ Trần Điền mà tôi quen thân hồi ông còn làm Giám-Đốc Nha Thông-Tin và hầu hết đồng-bào gần xa đều biết tiếng, là thủ-lãnh Hướng-Đạo Việt-Nam, là một nhà trí-thức Kitô-Giáo lừng danh, mà cũng chống-đối Diệm và bị Diệm kết án tử-hình…
Thế thì đâu có phải là đồng-bào Kitô-Giáo nào cũng dễ-dàng đồng-minh với Quỷ Satan?
Thế mà hiện nay vẫn còn có một số thuộc cả hai bên chưa chịu làm lành với nhau.
Ở Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia, người ta kháo chuyện với nhau về một chuyến đi thanh-tra Thừa-Thiên/Huế vừa rồi của Trung-Tá Trần Văn Hương.
Các cấp chỉ-huy ở đây bố-trí cho Hương ngủ ở khách-sạn, ăn ở nhà-hàng, và chi-tiêu linh-tinh gì đó. Khi anh về Trung-Ương rồi, Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực ngoài này, dưới thời Thiếu-Tá Liên Thành, liền gửi một xấp hoá-đơn vào Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia, nơi đã phái Hương đi công-tác, để xin thanh-toán tiền phòng, tiền ăn, v.v… cho Hương!
Ngoài việc Hương bị xem như đã có đòi-hỏi địa-phương cung-phụng này kia, các viên-chức khác từ đó về sau đều ngán Miền Trung, nếu phải ra Huế là lo giữ mình đủ điều.
Nguyên-do là Hương nguyên là Cảnh-Sát-Trưởng ở Huế, dưới thời Đệ-Nhất Cộng-Hoà, và là tín-đồ Đạo Kitô.
Vấn-đề tôi đặt ra với anh+em, không phải chỉ là cá-nhân Trần Văn Hương thật ra là một người tương-đối không quá xấu, không đáng để bị chơi khăm cách đó, nhưng mà là đối với bất-cứ ai, dù trong quá-khứ đã làm việc gì không hay, mà sau đó tình-trạng đã được giải-quyết rồi, và trong hiện-tại họ là người mới, không phạm lỗi gì, thì mình không nên tiếp-tục oán thù vì chuyện đã qua.
Chúng ta ai nấy đều có rất nhiều bạn thân, kể cả thân-nhân, không cùng tôn-giáo với mình. Đừng để sự khác-biệt tín-ngưỡng xen vào làm sứt-mẻ mối gắn-bó trong đời sống giữa những con người với nhau.
*
Trong nội-bộ Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên, có hai Phòng quan-trọng, là Nghiên+Kế và Tác-Vụ; mà hai Chủ-Sự Phòng thì không hợp nhau vì tín-ngưỡng khác nhau.
Trước kia, tôi được cho biết là Trung-Uý Dương Đại Chung báo-cáo tình-hình chính-trị quốc-nội cho Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, ngay cả trước khi lập công-điện hay công-văn trình lên Cấp Trên. Đây là một vấn-đề phức-tạp và tế-nhị vô cùng. Đúng ra, trên nguyên-tắc thì công-chức và quân-nhân không được tham-gia hoạt-động cho một đảng-phái chính-trị nào; nhưng trên thực-tế thì, dưới thời Đệ-Nhất Cộng-Hoà, Đảng Cần-Lao Nhân-Vị đã rập khuôn đảng cộng-sản mà đặt nền-móng bên trong các cơ-quan chính-quyền và đơn-vị quân-lực; và, dưới thời Đệ-Nhị Cộng-Hoà, Đảng Dân-Chủ tuy ra đời sau nhưng cũng đã lan tràn bên trong các công-sở và quân-doanh; cho nên không ai nhớ đến cái nguyên-tắc ấy nữa. Trong lúc đó, không có văn-bản nào cấm các tín-đồ tiết-lộ việc công và việc quân cho các vị “lãnh-đạo tinh-thần”. Có thể là người ta tin rằng việc ấy sẽ không xảy ra; hoặc có thể là người ta cố ý tránh né vì sợ làm mếch lòng các giáo-phái; mà cũng có thể là người ta mặc-nhiên chấp-nhận và cho phép việc làm này? Và, lẽ tất-nhiên, một khi các chính-trị-gia đã có tai+mắt trong các công-đường và binh-trại rồi, thì các tu-sĩ cũng chẳng chịu thua-kém gì ai. Cho nên tôi không trách phạt gì Chung, vì thật ra có một số viên-chức thuộc các giáo-hội khác, các chính-đảng khác, ở khắp nơi, sau này cũng có bắt chước hành-động như Chung, mặc dù không nhất-loạt và tích-cực bằng. Bù lại, lần nào ra Huế tôi cũng tiếp-xúc với anh, để xoá cho anh cái mặc-cảm bị lạc-lõng vì khác phe, và để tận-dụng trong anh cái tinh-thần phục-vụ vốn tiềm-tàng của mỗi người.
Tôi đã lập lại cái thế thăng-bằng trong quan-hệ đối-nhân, và thấy được kết-quả tốt. Ít nhất thì anh cũng đã góp phần gỡ bí chung, khi Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây trực-tiếp gọi máy hỏi tôi về cuộc mít-tinh đang diễn ra. Buổi sáng củ-mật ấy, Linh-Mục Nguyễn Kim Bính triệu-tập giáo-dân trước sân và xung quanh nhà thờ Phú-Cam, chuẩn-bị khí-thế cho một cuộc xuống-đường mới, dự-trù hùng-hậu và quyết-liệt hơn lần rồi.
Tôi đã ra Huế, có mặt tại chỗ, nhưng phải nhờ đến Chung, là người trong cuộc, mới biết đủ những gì khuất kín bên trong giáo-đường, vì các nhân-viên khác tín-ngưỡng khó lòng mà len-lỏi vào được trong cái tập-thể chọn-lọc và có cảnh-giác cao ấy, để chụp ảnh, ghi-âm, nhận-diện thành-phần cực-đoan, thu-thập hành-tung những kẻ khả-nghi, và định-vị cái đài vô-tuyến phát-thanh mà nhà thờ này được phép sử-dụng từ thời Đệ-Nhất Cộng-Hoà―ngày xưa là để giúp các tín-đồ già-yếu bệnh-tật, không đến giáo-đường nổi, cũng có thể ở nhà mà nghe giáo-lễ do đồng-đạo cử-hành; ngày nay là để phổ-biến đến khắp ngõ hẻm hang cùng những lời hô-hào chính-trị phát-động các cuộc mít-tinh, xuống đường chống chính-quyền.
Ngày nay, có Đại-Tá Nguyễn Hữu Duệ và Trung-Tá Hoàng Thế Khanh, Chung và các bạn của anh đương-nhiên thoả-thích hơn.
Ngược lại, Trung-Uý Dương Văn Sỏ, Trưởng Phòng Tác-Vụ, trước các cấp chỉ-huy đều mới, thì không khỏi giao-động tinh-thần, vì không ai đoán được chữ ngờ.
Thượng-Sĩ Lê Văn Y, một Trưởng Lưới Tình-Báo xuất-sắc của Đặc-Cảnh Quận Ba, Đà-Nẵng, mà vì Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực địa-phương không ưa nên đã phải đổi vùng. Thiếu-Uý Nguyễn Ba, một điệp-trưởng hữu-công của Tỉnh Thừa-Thiên, lại là người của Đảng Đại-Việt lúc đương-quyền, mà vì không được lòng các cấp chỉ-huy cùng Đảng nên cũng đã bị đẩy đi xa. Thiếu-Uý Trương Quang Thanh năng-động của Tỉnh Quảng-Nghĩa, phải sống xa quê vì tuy là đảng-viên Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng mà không cùng hệ-phái với các cấp chỉ-huy.
Huống gì gốc-gác của Trung-Uý Sỏ thì rõ-ràng xa-cách với thế-lực cầm quyền hiện giờ.
Do đó, tôi phải duy-trì chỗ đứng của Sỏ, vì đó vừa là tai+mắt vừa là tay+chân của Ngành, không thể để lọt vào người khác phe, khi mà vấn-đề phe-phái đã được chính Trung-Tá Hoàng Thế Khanh không ngần-ngại công-khai nêu lên với Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc và tôi.
Một mặt, tôi giao-tiếp với Sỏ nhiều hơn, để tỏ là đã có tôi đích-thân chăm-sóc khả-năng phục-vụ của anh; mặt khác, tôi đề-cao hai viên-chức khác, chủ ý là nếu phải thay-thế Sỏ thì hẳn là Khanh sẽ phải chấp-nhận một trong hai người này mà thôi. Tôi làm như thế là để vẫn giữ cái thế thăng-bằng trong nội-bộ cơ-quan; nếu không thì một mình Chánh Sở Đặc-Cảnh Trương Công Đảm bị kẹt ở giữa khó lòng mà hoàn-thành trách-vụ của mình.
*
Cũng như ở các Tỉnh khác, ngoài các viên-chức Đặc-Cảnh địa-phương, tôi đã có một số bạn-bè thân-tín, thuộc nhiều giới, ở Thị-Xã Huế và Tỉnh Thừa-Thiên.
Dù không phải là kẻ đa-nghi, song kinh-nghiệm bản-thân không cho phép tôi làm kẻ dễ tin. Thỉnh-thoảng tôi vẫn phải xét lại một vài vấn-đề, dù là bề ngoài không có gì bất-thường.
Tôi tin vào các cộng-sự-viên của mình; nhưng nếu chính các đương-nhân thật tình không nắm vững tình-hình hoặc bị đánh lừa, thì lẽ nào tôi chịu để cho mình cũng cùng bị thiếu-sót hay sai-lầm sao? Nhiều khi gặp phải những bài toán khó giải, tôi đã nhờ vào linh-tính, trực-giác hay “giác-quan thứ sáu”, nhất là thái-độ vô-tư của mình. Nhưng xác-thực nhất bao giờ cũng là tin-tức, tài-liệu, và sự hiểu-biết của các thân-tình-viên nói trên; nhờ họ, tôi đã nhiều lần biết được, và cả biết trước, những mưu-đồ ám-muội của một số nhân-vật này, phe-phái kia…
*
Sau cuộc họp báo của Ngành Đặc-Cảnh chúng tôi tố-cáo Tổng-Hội Sinh-Viên Huế và cả “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”, qua Linh-Mục Nguyễn Kim Bính tại Phú-Cam, đều đã bị Việt-Cộng xâm-nhập và lợi-dụng, thì tình-hình nội-an ở Huế, và cả toàn-quốc, đã lắng dịu đi rất nhiều.
Sinh-viên ở Huế trở lại sinh-hoạt bình-thường, chăm lo trau dồi kiến-thức văn-hóa, không còn bung xung hò hét ồn-ào như thời-gian qua.
Sinh-viên ở Sài-Gòn, mà cái Tổng-Hội trong đó vốn cũng đã bị Cảnh-Lực Quốc-Gia tố-cáo là bị cộng-sản giật dây, nay thêm sáng mắt―chỉ trừ số ít phần-tử cơ-sở Việt-Cộng và thân-Cộng mà thôi.
Về phần “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”, thì Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, Cha Xứ Phú-Cam, đã bị khựng lại, nên ngưng xuống đường; và Linh-Mục Trần Hữu Thanh trong Nam thì cũng, do đó, ngưng các mưu-tính biểu-tình.
Như thế là chúng tôi đã thành-công trong việc ngăn-chận và dập tắt các nỗ-lực xúi-giục toàn-quốc đồng-loạt tuần-hành, gây xáo-trộn trật-tự công-cộng, làm mất an-ninh chung trong mọi giới dân-nhân, tạo hoàn-cảnh và cơ-hội cho kẻ địch lèo-lái mà biến thành xung-đột đẫm máu, kể cả cơ nguy bị đối-phương xâm-chiếm từng cơ-quan, đơn-vị, hay khu-vực ly-khai hay tự-trị ngay trong nội-địa lãnh-thổ Quốc-Gia, mà ảnh-hưởng dây chuyền có thể là mất hẳn cả Miền Nam.
(Tuy nhiên, về mặt tinh-thần, “Phong Trào Chống Tham Nhũng” vẫn còn cố-thủ, tiếp-tục và gia-tăng các nỗ-lực sách-động cũ, trong các nhà thờ, trong các họ đạo, và cả trong giới giáo-dân quân-nhân, thậm chí kêu gọi làm binh-biến, dùng bạo-lực lật đổ Tổng-Thống Thiệu―tức là tuy không mở cổng cho địch vào đồn, mà lại mở lòng, mở ý, sẵn-sàng đón mời “đồng-minh”, vì cùng là kẻ thù của tổng-thống Việt-Nam Cộng-Hòa!)
Mục-đích của nhóm tu-sĩ Kitô-Giáo quá-khích không phải chỉ là lật đổ Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu, mà là tái-lập một chế-độ kiểu Ngô Đình Diệm, nghĩa là dù cho sẽ không có một Tổng-Thống tín-đồ Đạo Chúa với một mạng lưới khủng-bố kiểu Đảng Cần-Lao―vì vào thời đó không có một nhân-vật nào có thể có đủ điều-kiện là một ứng-viên kiểu đó vào chức-vụ đó―thì họ cũng sẽ tìm đủ mọi cách đưa vào Chính-Quyền những nhân-vật và những chính-sách hoàn-toàn do họ giật dây, mục-đích là đàn-áp các giáo-hội khác, để phát-triển Đạo Kitô.
Bây giờ, kế-hoạch thứ nhất―toàn-quốc xuống đường xáo trộn an-ninh, tạo sức ép lớn cả trong lẫn ngoài đủ để lật Thiệu―vì tôi mà đã bất-thành, thì họ xoay qua kế-hoạch thứ hai.
Tôi đã cài-cấy tay-trong trong mọi tổ-chức, dù là chính-trị, kinh-tế, văn-hóa, xã-hội, kể cả tín-ngưỡng. Đặc-biệt trong vấn-đề này tôi càng theo sát ý-đồ và đường-lối của các mục-tiêu, bắt đầu từ Huế, từ xóm Phú-Cam mà ra.
Kế-hoạch thứ hai của họ là triệt-hạ dần các phần-tử nguyên là thành-viên hoặc có cảm-tình, hoặc bị nghi là liên-hệ gần+xa với phe “Phật-Tử Tranh-Đấu” vốn đã góp phần lật đổ Nền Đệ-Nhất Cộng-Hòa. Đối-tượng của họ nằm ở mọi nơi, dân cũng như quân, ở cả ba ngành lập-pháp, hành-pháp và tư-pháp trong Chính-Quyền Đệ-Nhị Cộng-Hòa.
Và họ bắt đầu ra tay.
Một hôm, không lâu trước ngày Thừa-Thiên triệt-thoái rồi Vùng I lui quân, một số đơn-vị Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa đi hành-quân trong hoạt-vực của Chi-Khu Phong-Điền, thuộc Tỉnh/Tiểu-Khu Thừa-Thiên, đã phá vỡ được một căn-cứ của Việt-Cộng, và tịch-thu được của chúng nhiều chiến-lợi-phẩm, trong đó có một số tài-liệu quan-trọng, kể cả một Nghị-Quyết của Đảng-Ủy Liên-Khu IV về Tỉnh Thừa-Thiên/Thị-Xã Huế. Nghị-Quyết này đề-cập đến tình-hình các mặt của Việt-Nam Cộng-Hòa tại Tỉnh liên-quan, nhiệm-vụ của chúng, và kế-hoạch cho một cuộc tấn-công mới, nhằm chiếm-giữ thành-phố Huế lâu dài hơn, rút kinh-nghiệm từ cuộc tổng-công-kích vào mùa xuân năm 1968―Tết Mậu-Thân.
Nguồn (tài-liệu VC): https://thuathienhue.gov.vn/vi-vn/Thong-tin-du-dia-chi/tid/Tu-nam-1945-den-nam-1975/newsid/271876D3-36BE-4461-B109-206D14ED1596/cid/FFD5F879-74BC-4D55-AEB6-E0C0332427ACTrong đó có đoạn:{Ngày 10-2-1975: Quân ủy Trung ương xác định kế hoạch năm 1975 cho Trị – Thiên và nhấn mạnh phải “tích cực sáng tạo thời cơ và sẵn sàng chớp thời cơ tiến lên giành thắng lợi lớn, kể cả giải phóng Huế”}. |
Như đã nói trên, nhiều tu-sĩ Kitô-Giáo đã tổ-chức cho tín-đồ mà là nhân-viên an-ninh & tình-báo của các cơ-quan & đơn-vị khắp nơi báo-cáo tình-hình, tin-tức mới nhất cho các linh-mục, ngay cả trước khi thực-hiện công-điện công-văn trình lên Cấp Trên của mình. Kết-quả hành-quân lần này cũng không ra ngoài lệ thường.
Cho nên người ta đọc thấy đoạn kết của bản Nghị-Quyết Việt-Cộng ghi rõ: sau khi chiếm được Thành-Phố Huế, dứt điểm Tỉnh Thừa-Thiên, chúng sẽ dựng lên một chính-quyền mới, gồm toàn những “đồng-chí nằm vùng công-khai hợp-pháp” của chúng, đó là sáu Nghị-Viên đương-kim của guồng máy dân-cử sở-tại của Việt-Nam Cộng-Hòa, mà đứng đầu danh-sách là Ông Nguyễn-Khoa-Phẩm, Chủ-Tịch Hội-Đồng Tỉnh Thừa-Thiên, và Ông Nguyễn-Khắc-Thiệu, Chủ-Tịch Hội-Đồng Thị-Xã Huế, v.v…
Bộ Chỉ-Huy Tiểu-Khu Thừa-Thiên đã làm báo-cáo kèm với bản chụp sao các trang tài-liệu đánh máy của Đảng-Ủy Việt-Cộng nói trên, trình lên Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn I và Quân-Khu I, Bộ Tổng-Tham-Mưu, v.v…
Chánh Sở Đặc-Cảnh Thừa-Thiên/Huế trình lên tôi, tôi trình lên Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, rồi Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia (kiêm Đặc-Ủy-Trưởng Trung-Ương Tình-Báo) trình lên Tổng-Thống.
Kết-quả trông thấy trước mắt là các ông Nguyễn Khoa Phẩm, Nguyễn Khắc Thiệu, cùng bốn nhân-vật dân-cử nói trên, sẽ bị giải-nhiệm tức-thời.
Giải-nhiệm các Nghị-Viên Hội-Đồng Tỉnh+Thị-Xã không phải là một việc khó.
Trước đây, có một số Nghị-Viên Hội-Đồng Tỉnh Quảng-Nghĩa đã hành-sử tư-cách dân-cử của mình, xin Bộ Chỉ-Huy Tiểu-Khu sở-tại cấp phương-tiện phi-cơ trực-thăng cho họ chở thực-phẩm, thuốc-men, và nông-cụ lâm-cụ lên các Quận miền núi để cấp-phát cho đồng-bào vùng đó đang gặp khó-khăn. Đa-số các vật-phẩm ấy đã lọt vào tay những kẻ buôn lậu và tiếp-tế cho Việt-Cộng, thay vì đến tay người dân khó-nghèo. Thiếu-tá Đặc-Cảnh Hồ Anh Triết đã điều-tra ra sự thật, và kết-quả là Trung-Ương đã giải-nhiệm các Nghị-Viên liên-can.
Nhưng trong trường-hợp trên, các Nghị-Viên ấy chỉ phạm tội buôn lậu, chỉ bị biện-pháp hành-chánh hoặc bị phạt tiền. Đằng này, theo tài-liệu kể trên, thì nhóm Nguyễn Khoa Phẩm rõ-ràng là tay-sai của Việt-Cộng nằm vùng, lâu nay đã hoạt-động cho địch đắc-lực đến độ được chúng tín-nhiệm chọn cử cầm đầu bộ máy chính-quyền mà chúng sẽ dựng lên nay mai. Với bằng-chứng đó, các đương-nhân sẽ không những chỉ bị giải-nhiệm, mà chắc-chắn là sẽ còn bị câu-lưu truy-tố về tội phá rối trị-an, ở tù, và có vết-tích xấu về mặt chính-trị trong hồ-sơ lý-lịch cá-nhân, mất hết mọi cơ-hội để ra tham-gia chính-sự dù ở bên dân-cử hay bên công-quyền.
*
Ngay sau khi tài-liệu Việt-Cộng nói trên được Tiểu-Khu và chính-quyền Tỉnh Thừa-Thiên và Thị-Xã Huế làm bản sao gửi đi các nơi, tôi được nguồn tin tín-cẩn báo riêng cho biết: đoạn kết trong bản Nghị-Quyết Việt-Cộng ấy là do một nhóm dư-đảng Cần-Lao quá-khích thông-đồng với nhau mà ngụy-tạo thêm.
Ông Nguyễn Khoa Phẩm, ông Nguyễn Khắc Thiệu, và tất cả các Nghị-Viên có tên trong đoạn kết của bản Nghị-Quyết Việt-Cộng ấy, đều là tín-đồ Phật-Giáo, có quan-hệ chặt-chẽ với Giáo-Hội Phật-Giáo Việt-Nam Thống-Nhất; họ đồng-thời cũng là đảng-viên quan-trọng của Đại-Việt Cách-Mạng-Đảng.
Đạo Phật và Đảng Đại-Việt, cùng các giáo-phái và chính-đảng khác, đã bị chế-độ Ngô Đình Diệm đàn-áp, và đã góp phần tích-cực vào việc lật đổ chế-độ ấy.
Hiện nay, Đại-Việt và Phật-Giáo đang ngăn-chận dư-đảng Cần-Lao, là một nhóm tín-đồ Kitô-Giáo và giáo-phái khác mà quyền-lợi vật-chất hoặc tinh-thần đã quá gắn-bó với chế-độ Diệm, không để cho họ tái-lập quyền sinh-sát để trả thù cho gia-đình họ Ngô.
Từ nhiều năm qua, hầu như mọi quyền hành-pháp và lập-quy tại Tỉnh Thừa-Thiên/Thị-Xã Huế đều nằm trong tay Đảng Đại-Việt, và hầu như lần bầu-cử nào các liên-danh Phật-Giáo cũng thắng phiếu vào Hội-Đồng Tỉnh và Thị-Xã địa-phương.
Bây giờ thì nhóm cựu Cần-Lao ấy, cái thiểu-số tác-yêu tác-quái đã là tác-nhân tác-hại cho chính cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và các anh+em của ông phải mất mạng, và cho Đảng ấy phải tự xóa tên của mình, nhóm ấy đã lại nắm được vị-thế cầm đầu cả quyền hành-pháp lẫn ngành công-lực của toàn Tỉnh & Thị rồi.
Theo kế-hoạch thứ hai của các Linh-Mục Trần Hữu Thanh và Nguyễn Kim Bính, họ muốn gấp-rút thanh-toán các phần-tử đối-nghịch hiện còn cầm đầu cơ-quan dân-cử của Tỉnh+Thị nầy.
*
Đồng-thời với tin-tức mật riêng của tôi, đích-thân Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên/Thị-Xã Huế, Trương Công Đảm, trình-bày với tôi là thuộc-viên của anh bị giao-phó công-tác thực-hiện việc giả-mạo đoạn văn vu-khống các Nghị-Viên kia.
Anh là bạn thân của Trung-Tá Hoàng Thế Khanh, hiện là cấp chỉ-huy tại chỗ của anh; nhưng việc này là “một tệ-nạn rất nguy-hiểm, vì nó là mầm-mống gây thù-nghịch ngay trong hàng-ngũ của những người đang đứng chung cùng một chiến-tuyến”. Do đó, vì “trung-thực”, vì “chính-tâm”, anh đã chọn đặt chính-nghĩa lên trên tình-cảm hay quyền-lợi cá-nhân, nên anh liền báo-cáo Sự Thật lên tôi.
Tài-liệu ngụy-tạo của Nguyễn Hữu Duệ thì chỉ đi theo hệ-thống báo-cáo tình-hình, chứ không thông-qua kỹ-thuật kiểm-tra; vả lại vấn-đề Việt-Cộng chủ-trương tái-diễn biến-cố Tết Mậu-Thân ở Huế là điều hầu như mọi người đinh-ninh là chuyện đương-nhiên; nghĩa là các cấp nhận được báo-cáo đều đã tin chắc nội-dung là đúng 100%.
Tôi liền lấy bản chụp sao của Nghị-Quyết ấy ra xem lại, chú ý nhìn kỹ thì thấy, dù bằng mắt thường, quả thật đoạn cuối đã được đánh máy bằng một máy đánh chữ khác, khác hẳn với các trang trước và với đoạn trước cùng trang.
Tôi lặng người đi một lát, rồi nhắm mắt lại ôn lại lời dạy của Đức Phật Thích-Ca: “Oán-cừu nên cởi, không nên buộc!” Năm trăm năm sau, Đức Giê-Su cũng rao-giảng như trên: “Hãy hết sức mình sống hòa-thuận với mọi người… Đừng tự mình trả thù ai… Đừng để điều ác thắng mình, nhưng hãy lấy điều thiện mà thắng điều ác!” (Romans 12:18,21). Tôi lại lật lui, đọc thêm trong sách Proverbs 10:12: “Tính ghen-ghét phát-sinh tranh-chấp; chỉ có lòng thương yêu mới lấp hết tội-khiên”. Trước hết, và trên tất cả là “Mười Điều Răn” đã có từ xưa, trong sách Exodus 20:16: “Các con không được làm chứng gian để hại người xung quanh!”…
Kể từ biến-cố 1-11-1963, đã mười hai năm trôi qua, Đệ-Nhất Cộng-Hòa không còn, mà một nhóm nhỏ phần-tử thân-Diệm còn rơi-rớt lại vẫn còn hiểm-độc như thế. Họ mới gặp dịp chó-ngáp-phải-ruồi ngóc đầu lên được một chút mà đã gian-manh bày mưu thâm, tính kế hiểm vu-oan giá-họa để hãm-hại người khác tín-ngưỡng ngay, huống gì khi cái chế-độ độc-tài độc-tôn bạo-ác ấy đang còn phủ trùm lên khắp quê-hương, mà họ lại nắm chính-quyền trong tay, thì họ đã tác-yêu tác-quái đến mức nào.
Nếu vụ ngụy-tạo tài-liệu Việt-Cộng ở Huế mà đạt kết-quả do họ mong muốn, rồi các nơi khác cũng sẽ noi theo―giống như kế-hoạch biểu-tình, Huế mà làm xong là các nơi khác cũng sẽ làm theo―không cần Tỉnh-Trưởng, Tư-Lệnh Hành-Quân; chỉ cần bất-cứ một cá-nhân nào có thể báo-cáo tin-tức, chuyển trình tài-liệu, là đã có thể thêm-thắt theo ý của nhóm chủ-trương: hậu-quả sẽ như thế nào trên khắp vùng đất gọi là Miền Nam Tự-Do?
Tôi không là người của bất-cứ một chính-đảng hay giáo-hội nào; mà Trương Công Đảm thì cũng không nặng tình đậm nghĩa với ai đến độ mù-quáng lý-trí và thui-chột lương-tâm mà bao che cho lũ gian-manh. Huống gì anh đã thấy rõ là chúng sẽ còn lợi-dụng anh thêm trong nhiều âm-mưu tiếp theo.
Trong vụ giả-mạo tài-liệu này, điều bí-mật đã được báo-cáo lên tôi cũng rất có thể sẽ được tiết-lộ cho người khác biết, và hậu-quả tất-nhiên sẽ là một phản-ứng mạnh của giới Phật-Tử, với mối liên-kết có sẵn với nhiều tổ-chức khác, thí-dụ Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng và Đại-Việt Cách-Mạng-Đảng, mà ngoài Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc ra thì riêng Đại-Việt cũng đã là một chính-đảng có khối lượng đảng-viên đông nhất và mạnh nhất trên toàn cõi Việt-Nam Cộng-Hòa.
Việc làm bất-lương của vài ba con chiên ghẻ, làm chứng dối như thế, rất có thể sẽ châm ngòi cho một cuộc nội-chiến khốc-liệt giữa hai giới Phật-Tử và cựu Cần-Lao cực-đoan, sớm đẩy Việt-Nam Quốc-Gia đến bờ vực thẳm tương-tàn.
*
Hôm qua, tài-liệu bắt được của Việt-Cộng mà Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên/Thị-Xã Huế trình lên thì tôi đã giao cho Sở Nghiên+Kế Khu I làm Phiếu Chuyển đệ-trình lên Bộ Tư-Lệnh CSQG/Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương theo lệ thường rồi.
Nhưng hôm nay, về vấn-đề ngụy-tạo đoạn kết, có tầm quan-trọng lớn-lao đối với tình-hình an-ninh và nội-chính của Quốc-Gia, thì tôi đã tức-tốc vào báo-cáo riêng với Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng I, và tự tay đánh máy một Phiếu Trình mật, gửi riêng cho Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, bản sao gửi Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia, và cử đại-diện thân-tín mang thẳng đến văn-phòng của hai vị ấy ở Sài-Gòn.
Tôi cũng báo-cáo thẳng lên Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư-Lệnh QĐI&QKI, tức Đại-Biểu Chính-Phủ tại Vùng I, theo đúng tinh-thần của Sắc-Lệnh của Chính-Phủ đã quy-định cho trách-vụ của tôi.
Tất-nhiên tôi đã nêu tên nguồn tin và giải-thích rõ trường-hợp nhận tin, đặc-biệt là Trương Công Đảm, để giúp Cấp Trên kiểm-chứng dễ-dàng. Ngoài ra, tôi còn tuyệt-đối giữ kín vụ này tại địa-phương mình, để tránh náo-loạn trong khi chờ-đợi quyết-định của Trung-Ương.
Nguồn tin của tôi nói rõ rằng chính Đại-Tá Nguyễn Hũu Duệ, Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Trưởng Thị-Xã Huế, là nhân-vật chủ-chốt trong việc thi-hành thủ-đoạn này, việc mà, nếu ông mà từ-chối―nhân-danh dân Chúa, làm theo lời Chúa hơn là lời Cha―thì hẳn chưa biết chờ đến bao giờ Linh-Mục Nguyễn Kim Bính mới kiếm ra cho được một con chiên ngoan đạo kiểu đó theo ý của mình.
Đại-tá Duệ mà lên làm Tỉnh-Trưởng ngoài đó là do đề-nghị đặc-biệt có tính-toán của tôi, chứ không phải là do “tài” hay “đức” gì của ổng.
Nhưng ổng đã để lộ ra “tài đức” thật-sự của ổng.
Ổng đã nuôi lòng trả thù từ ngót mười hai năm nay, đúng theo lời trối của cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm (“Tôi chết thì trả thù cho tôi!”), lạm-dụng Trung-Tá Hoàng Thế Khanh―tôi nghĩ là Khanh ở thế bị-động, vì Khanh bản-chất chính-trực―hiện là Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh/Thị ở dưới quyền mình, hành-động theo kế-hoạch của nhóm “lãnh-đạo tinh-thần” cực-đoan của mình―đứng đầu Miền Trung là Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, Cha Xứ Phú-Cam―trong chương-trình chung là bứng-tỉa các nhân-sự mà họ cho là kẻ thù của phe Kitô-Giáo quá-khích và cựu-Cần-Lao ác-ôn, mà bước khởi đầu là ngụy-tạo đoạn kết vu-oan giá-họa tha-nhân trong bản Nghị-Quyết của Việt-Cộng nói trên.
Phóng-ảnh đoạn trích thư của Ô. Trương Công Đảm,
cựu Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế:
Trương Công Đảm hiện ở Thành-Phố Denver, Colorado, USA.
*
Sau Quốc-Biến 30-4-1975, ra Hải-Ngoại, cựu Đại-Tá Nguyễn Hữu Duệ xuất-bản cuốn hồi-kí “Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng-Thống Ngô Đình Diệm”, được mời đi nhiều nơi thuyết-trình về “ước mơ chưa đạt” của dòng họ Ngô Đình.
Tôi gửi thư trực-tiếp hỏi vài điều để thấy trình-độ và khả-năng của đương-nhân “trả thù cho lãnh-tụ anh-minh”.
Phóng-ảnh thủ-bút của cựu Đại-Tá Nguyễn Hữu Duệ:
“Tôi đổi ra Huế năm 1973* làm Tỉnh Trưởng Thừa Thiên và Thị Trưởng Huế – Tôi không nhớ rõ ngày tháng chỉ nhớ là thời gian rất ngắn khi rút lui khỏi Huế*.
Ngoài ra tôi chưa hề phục vụ ở Huế bao giờ.
Xin kính chúc ông và gia quyến an khang.
Kính thư,
(Chữ ký)
Xin cáo lỗi vì già nên tay run khi viết thư.”
——-
*Làm Tỉnh/Thị-Trưởng Thừa-Thiên/Huế “năm 1973” rồi “rút lui khỏi Huế” vào tháng 3-1975 mà bảo [1973-75] là “thời-gian rất ngắn”!
Viết thư là có thì-giờ tra-cứu, chứ không phải là trả lời tức-thì trên máy điện-thoại, mà còn nhớ sai ngày làm Tỉnh-Trưởng (thực-sự là nhậm-chức vào tháng 11 năm 1974), thì làm sao mà viết nổi sách hồi-ký lịch-sử (cuốn “Nhớ lại những ngày ở cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm”)?