Nguyễn Hoàng Quốc Việt : Tháng Tư Đen Việt Nam chia buồn với Tháng Tư Đen Ba Lan
Bản Tin Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ
Tháng Tư Đen Việt Nam chia buồn với Tháng Tư Đen Ba Lan
Từ đầu tháng 4 đến giữa tháng 5 năm 1940, bạo chúa Staline đã ra lệnh hành quyết hơn hai vạn tù binh và tù nhân dân cán chính Ba Lan tại nhiều nơi trong khu rừng Katyn và đổ tội cho quân đội Đức Quốc Xã của Hitler. Các nạn nhân thuộc về những thành phần ưu tú của quốc gia Ba Lan. Đa số là sĩ quan hiện dịch gồm nhiều tướng lãnh, sinh viên sĩ quan trừ bị, quân y sĩ, tuyên úy quân đội, cảnh sát, viên chức, luật sư, trí thức, văn nghệ sĩ, những người mà Staline nghi ngờ là sẽ chống đối quyết liệt một chế độ cộng sản do Staline áp đặt trên quê hương họ sau khi Đức quốc xã của Hitler bị đánh bại.
Varsovie 12 tháng 4 năm 2010
(Associated Press) (Reuters/Adam Kozak/Agencja Gazeta)
Ngày 10 tháng 4 năm 2010, trên đường đi Katyn dự lễ Tưởng Niệm Những Nạn Nhân của vụ Thảm Sát Dã Man nói trên, Tổng Thống Ba Lan và phu nhân Lech và Maria Kaczynskina đã tử nạn khi máy bay rớt xuống gần phi trường Smoleńsk. Tất cả phái đoàn đi với Tổng Thống và Phu Nhân (gần 90 người) và phi hành đoàn (7 người) cũng đều thiệt mạng. Đây là cái Tang Lớn nhứt sau Thế Chiến thứ hai đối với dân tộc Ba Lan. Danh sách những nạn nhân đính kèm cho thấy sự mất mát quá lớn những tài năng trí tuệ, tinh khôi và dũng cảm của Ba Lan. Rất đông những người lâm nạn đó từng đóng góp hào hiệp cuộc đời họ cho công cuộc tranh đấu để giành lại độc lập, tự do dân chủ, công bằng xã hội và nhân phẩm. Họ đã một thời, đông đảo ở lứa tuổi thanh xuân, chung góp sức, bẻ gãy được xiềng xích đế quốc cộng sản quốc tế, mà tàn dư vệ tinh, thỏa hiệp với tân đế quốc cộng sản Bắc Kinh, hiện còn tác động vô cùng khốc hại trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta.
Cả dân tộc Ba Lan đau khổ, chịu tan g. Giữa thủ đô Varsovie, một rừng hoa nức nở thương tiếc những người đi không trở lại. Và một biển nến thắp sáng niềm tin vào hồn thiêng sông núi Polska. Hoa và nến, và sau đó hàng trăm ngàn công dân Ba Lan và bạn hữu ngoại quốc không hẹn mà gặp nhau ngày 17 tháng 4 tại Quảng Trường Pilsudski trong buổi lễ tưởng niệm các nạn nhân. Hoa và Nến và Người chỉ biết cầu nguyện trong niềm đau thương chung. Niềm đau thương Tháng Tư Đen Ba Lan, từ Katyn 1940 đến Smoleńsk 2010. Niềm đau thương của một dân tộc không chấp nhận chế độ độc tài cộng sản và đã chiến thắng ngụy quyền và tội ác. Một dân tộc anh em và bạn thân của những người Việt Nam trong và ngoài nước không ngừng chống đối lại chế độ xã hội đen – độc tài cộng sản suốt 35 năm qua, từ Tháng Tư Đen Việt Nam 1975.
Tháng Tư Đen Ba Lan 2010. Các nước thành viên Liên Hiệp Âu châu, nhiều nước khác, đặc biệt là Nga, đã tổ chức Quốc tang, điều hiếm thấy trong lịch sử Nhân Loại.
Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ và Trung Tâm Nhà Văn Việt Nam Lưu Vong, với sự tán đồng của nhiều thành viên Ủy Ban Bênh Vực Nhà Văn bị Đàn áp và Cầm tù Văn Bút Thụy Sĩ Pháp Thoại, đã ủy nhiệm nhà thơ Nguyên Hoàng Bảo Việt viết điện thư và bưu thư Chia Buồn.
Điện thư và bưu thư Chia Buồn đề ngày 12 tháng 4 năm 2010 đã được gởi đến
* Văn hữu Wladyslaw Bartoszewski, Chủ Tịch,
nữ văn hữu Barbara Miecznicka, Tổng Thư Ký,
và nữ văn hữu Anna Nasilowska, Chủ Tịch Ủy ban Bênh vực Nhà Văn bị đàn áp và cầm tù
Trung tâm Văn Bút Ba Lan ở Varsovie Ba Lan
* Ông Zdzislaw Rapacki
Đại Sứ Trưởng Phái bộ Thường trực Cộng Hòa Ba Lan
tại Trụ sở Liên Hiệp Quốc và các Tổ Chức Quốc Tế ở Genève Thụy Sĩ, và
* Ông Jaroslaw Starzyk,
Đại Sứ Cộng Hòa Ba Lan ở Thụy Sĩ
Tòa Đại Sứ ở Berne Thụy Sĩ
Điện thư và bưu thư đề ngày 14 và ngày 15 tháng 4 năm 2010 đã được gởi đến
* Ông Jerzy Buzek
Chủ Tịch Quốc Hội Âu Châu
Trụ sở Quốc Hội Âu Châu ở Strasbourg Pháp
* Ông Bronislaw Komorowski
Quyền Tổng Thống Cộng Hòa Ba Lan
Chủ Tịch Hạ Viện Ba Lan
Trụ Sở Quốc Hội ở Varsovie Ba Lan
* Ông Donald Tusk
Thủ Tướng Ba Lan
Phủ Thủ Tướng ở Varsovie Ba Lan
* Ông Radosław Sikorski
Ngoại Trưởng Ba Lan
Bộ Ngoại Giao ở Varsovie Ba Lan.
Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam xin lược dịch và trích đăng mấy đoạn chính trong điện thư và bưu thư Chia Buồn viết bằng tiếng Pháp đã được gởi đến :
Ông Bronislaw Komorowski, Quyền Tổng Thống Cộng Hòa Ba Lan
Đương kiêm Chủ Tịch Hạ Viện Cộng Hòa Ba Lan ở Varsovie Ba Lan
Thư Chia Buồn viết :
Kính thưa Ngài,
Chúng tôi viết thư hôm nay để bày tỏ nỗi đau buồn sâu sắc và không thể diễn tả của chúng tôi trước cái chết của Tổng Thống và phu nhân Lech và Maria Kaczynski, những cộng sự viên của cố Tổng Thống, những nhân vật quan trọng của Quốc Hội, Chánh Phủ, Quân Lực, Ngân Hàng Quốc Gia Ba Lan, những nhà quản trị và viên chức cao cấp, những chánh khách và những nhân vật tiếng tăm của xã hội dân sự Ba Lan, trong thảm nạn phi cơ tại Smoleńsk.
Thật vậy, chúng tôi bị xúc động mãnh liệt và đau buồn trước tấn thảm kịch quốc gia mà anh chị em cùng bạn hữu Ba Lan của chúng tôi ở Ba Lan và các nơi khác trên thế giới đã phải chịu.
Xin Ngài hãy tin chắc rằng chúng tôi đứng bên cạnh Ngài và anh chị em cùng bạn hữu Ba Lan, với niềm cảm thông và mối thân tình của chúng tôi, đối diện với cuộc thử thách khủng khiếp này, cuộc thử thách lớn nhứt trong thời kỳ hiện đại của Ba Lan sau Thế Chiến thứ hai.
Chúng tôi thành tâm cầu chúc nước Ba Lan dũng cảm, tự tin và xứng đáng được kính trọng sẽ vượt qua mọi chướng ngại cùng nghịch cảnh và tìm thấy bình an, hạnh phúc và thịnh vượng.
Chúng tôi cầu nguyện cho tất cả các nạn nhân của thảm kịch quốc gia này, cho các gia đình Ba Lan đang chịu tang – gia đình của anh chị em và bạn hữu Ba Lan của chúng tôi.
Chúng tôi trân trọng gởi đến Ngài và qua Ngài, gởi đến các cộng sự viên của Ngài, đến các vị dân biểu, nghị sĩ Quốc Hội cùng các thành viên của Chính Phủ Cộng Hòa Ba Lan, tất cả niềm cảm thông sâu sắc với lời chia buồn chân thành và những tâm tưởng thân ái anh em của chúng tôi.
Trong bưu thư Chia Buồn, có đoạn viết thêm:
(…) chúng tôi rất đau đớn vì vừa mất một người Bạn tuyệt vời là Chị Anna Walentynowicz, anh thư của Gdansk, người nữ công nhân đồng sáng lập Công Đoàn Solidarność. Chúng tôi không bao giờ quên Katyn và Gdank, chúng tôi tưởng nhớ Chị Anna Walentynowicz, cùng với những nhân vật và địa danh lịch sử gắn liền với Cao trào tranh đấu của Solidarność suốt thập niên 80. Hai mươi sáu năm trước đây, tên Chị Anna Walentynowicz và Solidarność đã được ghi chép trân quý trong bài thơ tiếng Việt ‘’Những Đêm Tháng Mười’’mà tác giả viết sau khi được tin cố linh mục Popieluszko bị công an mật vụ bắt cóc rồi ám sát, tiếp theo bài thơ ‘’Hát với Solidarność’’viết giữa mùa Giáng Sinh 1981 sau khi Solidarność bị trấn áp thô bạo. Chúng tôi ước mong rằng hai bài thơ đính kèm theo thư này sẽ được Ngài đón nhận như là hai Vòng Hoa Tưởng Niệm và Cảm Thông, Đoàn Kết và Hy Vọng trong tình thân ái của bạn hữu Việt
Hai bài thơ ‘’Những Đêm Tháng Mười’’ và ‘’Hát với Solidarność’’ của thi hữu Nguyên Hoàng Bảo Việt đã được nữ thi sĩ Małgorzata Bąbelek (Gosia Babelek) dịch sang tiếng Ba Lan một tuần trước khi xảy ra thảm nạn máy bay tại Smoleńsk. Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam xin được đăng giới thiệu cùng quý bạn đọc bài thơ ‘’Những Đêm Tháng Mười’’ với các bản dịch tiếng Ba Lan, tiếng Pháp và tiếng Anh. Rất tiếc vì bài thơ ‘’Hát với Solidarność’’ khá dài cho nên không thể đăng trong Bản Tin hôm nay được. Trong một Bản Tin kỳ tới, Liên Hội sẽ đăng tiếp bài thơ ‘’Hát với Solidarność’’ cùng các bản dịch tiếng Ba Lan, tiếng Pháp và tiếng Anh.
Genève ngày 29 tháng 4 năm 2009
Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ
Ligue vietnamienne des droits de l’homme en Suisse
Vietnamese League for Human Rights in Switzerland
***********************************************
Những Đêm Tháng Mười
Chúng nó giết Người tưởng Người sẽ chết
Popieluszko vẫn sống với quê hương*
Với chúng tôi Người không chỉ là niềm nhớ
Những đêm tháng Mười nối tháng Tư đen*
Bao nhiêu thù hận Đảng ném lên gương mặt
Tới tấp những bàn tay sắt Staline.
Chúng tôi đau từng gốc răng chân tóc
Chúng nó tra tấn điên cuồng suốt đêm
Móc mắt tưởng Người không còn nhìn thấy
Mùa Xuân Tự do nhân loại nô nức trở về
Chúng tôi đau trên mười ngón tay dập nát
Từng mảnh xương vỡ vụn từ đầu đến chân
Đâm vào lưỡi tưởng Người không còn tiếng nói
Không được gọi chúng tôi là anh em.
Ôi Popieluszko nhân ái và bất khuất
Chúng tôi đau từng tia máu trên môi Người
Bao đá ghì xuống sợi dây thừng siết cổ
Chúng tôi đau từng đợt sóng vỗ Vistule
Nghe xót xa hồi chuông Thánh đường Stanislas
Chúng tôi đau trong ngực mỗi người bạn Ba Lan
Từ Nowa Huta đến Katyn,
Chúng tôi đau trên trán Cha Mẹ Anh Chị em
Khóe mắt trẻ thơ ngủ bên cánh hoa ngọn nến
Từ Wroclaw đến Ursus, Silésie đến Poznan
Chúng tôi đau trái tim vùi trong giàn lửa
Karol Wojtyla, Adam Michnik, Jacek Kuron
Danuta Lech Walesa, Anna Walentynowitcz…
Chung một vết thương dẫu chưa gặp nhau
Giữa tâm hồn chúng ta ôm sâu kín
Máu Jerzy đọng theo đường chỉ mũi kim
Thêu lên nền trời những chữ ‘SOLIDARNOŚĆ’
Ôi đất nước lầm than thiếu vắng nụ cười
Đôi vai trần một mình Người gánh vác
Những đòn roi không đem trả địch thù
Làm củi sưởi mùa đông chúng ta đi tới
Đốt cháy ngục tù tuyệt vọng nín câm.
Như đêm vượt biển lòng Tin sao vằng vặc
Không la bàn thuyền nhân vẫn thấy hải đăng
Popieluszko thủy chung khi ngã xuống
Gởi lại chúng ta những hạt mầm xuân. (10.1984)
Nguyên Hoàng Bảo Việt
Trích tập thơ Dấu Tích Phượng Hoàng
Bạn Văn xuất bản Paris 2008
* Cố linh mục Jerzy Popieluszko, sinh ngày 23 tháng 9 năm 1947, được coi như là người lãnh đạo tinh thần của Solidarność, nghiệp đoàn Công nhân Ba Lan từng tranh đấu chống bạo quyền Cộng sản cho tới ngày chế độ phi nhân bị sụp đổ. Thiết tha với lý tưởng, Người luôn luôn rao giảng những giá trị nhân bản, nhứt là lòng can đảm, tính lương thiện và tình yêu Tự do. Linh mục đã bị mật vụ Cộng sản Ba Lan bắt cóc, tra tấn vô cùng dã man trước khi bị ám sát và ném xác xuống sông Vistule, trong một đêm tháng mười năm 1984.
* Tháng Tư Đen Việt Nam 1975.
_____________________________________________
Noce Października
Zabili Człowieka
Wierząc że Człowiek umarł na zawsze
Popiełuszko pozostał żywy *
Wieczny w duchu kraju
Nieśmiertelny w naszej pamięci.
Po czarnym Kwietniu przyszły noce Października *
Droga Krzyżowa
Partia wybucha
Nienawiść się mści
Żelazne pociski stalinowskie ją przygniatają
Szpecąc skamieniałe oblicze.
Boli nas każdy wyrwany ząb
Każda kępka wydartych włosów.
W gniewie torturowali Człowieka przez całą noc
Przebili mu oczy
Wierząc, że zniszczą jego wyobrażenie
Wiosny Wolności
Gdzie ludzkość, w zapale, śpieszy się do powrotu.
Boli nas dziesięć zmiażdżonych palców
Boli nas każde złamanie, od głowy do stóp,
Gdy ucinali mu język
Zdawało się im, że pojmali Słowo
Zabronili nam nazywać się braćmi.
O Popiełuszko, ludzki ale niepoddany
Cierpimy każdą kroplą krwi z twoich opuchniętych warg
Balast się zanurza
Lina cię dusi
Cierpimy każdą rozbijającą się falą niepewnej Wisły
Za Świętym Stanisławem rozbrzmiewa żałobny dzwon.
Cierpimy uciśniętą piersią każdego z naszych przyjaciół
Od Nowej Huty do Katynia
Od Gdańska do Katowic
Cierpimy niespokojnymi czołami ojców i matek
Braci i sióstr
Oczyma dzieci uśpionych wśród kwiatów
W świetle świec
Od Wrocławia po Ursus
Od Śląska po Poznań.
Boli nas cierpienie serca
Skryci w płonącym stosie
Karol Wojtyła, Adam Michnik, Jacek Kuroń,
Danuta i Lech Wałęsa, Anna Walentynowicz…
Moi bracia i siostry
Nasza wspólna rana
Opatrujemy ją, każdy z nas, z największej głębi duszy,
Nawet jeśli nigdy się nie spotkaliśmy.
Krew Jerzego lśni się od nitki po kłębek
Upiększa w tle lazur liter
SOLIDARNOŚĆ!
Biedny kraj pełen nędzy, pozbawiony śmiechów!
Na jego nagich ramionach, sam jeden, Człowiek doznaje
Deszczu uderzeń
Pałek zemsty
Nie oddajemy ich naszym wrogom
Robimy z nich stosy by ogrzać się zimą
Idziemy naprzód
Dodajemy ognia więzieniu ciszy i beznadziei.
Jak gdyby w nocy przejścia
Dzięki oświeconej wierze gwiazd
My, lud łodzi, pozbawieni busoli,
Mogliśmy skierować się ku latarni
Popiełuszko, wierny, upadając
Powierza nam nasienie odnowienia. (10.1984)
Nguyên Hoàng Bảo Việt
Tłumaczenie: Małgorzata Bąbelek
Fragment ze zbioru wierszy «Piętno Feniksa», Wydawnictwo Bạn Văn 2008, Paryż.
* Młody duszpasterz robotników huty w Warszawie, ksiądz Popiełuszko głosił odwagę, uczciwość i umiłowanie Wolności.
Bestialsko torturowany i zamordowany w październiku 1984 przez milicję w służbie komunistycznej dyktatury w Polsce.
* Wietnam, kwiecień 1975 .
Les Nuits d’Octobre
Ils ont tué l’Homme
Croyant que l’Homme est mort à jamais
Popieluszko reste vivant*
Éternel dans l’esprit du pays
Immortel en notre mémoire.
À l’Avril noir succèdent les nuits d’Octobre*
Chemin du calvaire
Le Parti explose
La haine se venge.
Les serres de fer staliniennes l’accablent
Défigurent la face lapidée
Nous souffrons à chaque dent déracinée
À chaque poignée de cheveux arrachés.
Ils ont, en furie, torturé l’Homme toute la nuit
Lui ont crevé les yeux
S’imaginant démolir sa vision
Du Printemps de la Liberté
Où l’humanité, enthousiaste, se presse de retour.
Nous souffrons aux dix doigts écrasés
Nous souffrons à chaque fracture, de la tête aux pieds
Ayant incisé sa langue
Ils prétendent condamner la Parole
L’interdire de nous appeler frères.
Ô Popieluszko humain mais insoumis
Nous souffrons à chaque jet de sang, de tes lèvres tuméfiées
Le lest plonge
La corde t’étrangle
Nous souffrons à chaque flot brisé, de la Vistule houleuse
De Saint-Stanislas le glas mordant retentit.
Nous souffrons à la poitrine oppressée, de chacun de nos amis
De Nowa Huta à Katyn
De Gdansk à Katowice
Nous souffrons aux fronts anxieux des pères et mères
Des frères et sœurs
Aux yeux des enfants assoupis entre les fleurs
À la lumière des bougies
De Wroclaw à Ursus
De Silésie à Poznan.
Nous souffrons la douleur du cœur
Enfoui dans le bûcher ardent
Karol Wojtyla, Adam Michnik,Jacek Kuron
Danuta, Lech Walesa, Anna Walentynowicz…
Mes frères et sœurs
Notre plaie commune
Nous la couvons, chacun, au plus profond de notre âme
Même si nous ne nous sommes encore jamais rencontrés.
Le sang de Jersy perle au fil et à l’aiguille
Brode sur le fond d’azur les caractères
SOLIDARNOŠC
Pauvre pays misérable privé de rires !
Sur ses épaules dénudées, à lui tout seul, l’Homme subit
Une pluie de matraques
Ces gourdins de vengeance
Nous ne les renvoyons pas à nos ennemis
Nous en faisons des bûches pour nous chauffer l’hiver
Nous avançons
On met le feu à la prison du silence et du désespoir.
Comme si c’était dans la nuit de la traversée
Grâce à la foi illuminée d’étoiles
Que nous, les boat people démunis de boussoles
Avons pu repérer le phare
Popieluszko, fidèle, en tombant
Nous confie la semence du renouveau. (10.1984)
Nguyên Hoàng Bảo Việt
Original en Vietnamien: ‘’Những Đêm Tháng Mười’’
extrait du Recueil de Poèmes ‘’ Dấu Tích Phượng Hoàng ‘’
version française de Mme Hoàng Nguyên
publiée dans le Recueil de Poèmes ‘’ l’Empreinte du Phénix’’
Editions BẠN VĂN Paris 2008
* Jeune aumônier des ouvriers de la fonderie Warszawa (Varsovie), père Popieluszko prêchait le courage, l’honnêteté et l’amour de la Liberté.
Il fut sauvagement torturé et assassiné, en octobre 1984, par la police politique du régime communiste polonais.
* Việt Nam Avril Noir 1975.
The Nights of October
They murdered the Man,
Believing the Man to be dead forever,
Popieluszko lives on eternally*
In the country’s soul,
Immortal in our memory.
After Black April came the Nights of October*
The road to Calvary,
The Party exploded,
And hate took its revenge.
The Stalinist iron clasps overcame him,
And disfigured the face which had first been stoned;
We suffer for every tooth torn out,
For every handful of hair pulled out.
In fury, they tortured the Man all night,
Blinded him,
Thinking they could destroy his vision,
From the Springtime of
When an enthusiastic people fought its way back.
We suffer for the ten crushed fingers,
We suffer for each fracture, from the head to the feet,
Cutting out his tongue,
They thought they had stopped free speech
Forbidden him from calling us brothers.
O, Popieluszko, human but a rebel,
We suffer at each spurt of blood from your swollen lips,
The weight falls,
The rope strangles you,
We suffer for every wave which breaks on the storm-tossed Vistula,
From Saint Stanislas the bitter death knell tolls
We suffer every time one of our friends is crushed down,
From Nowa Huta to Katyn,
From Gdansk to Katowice,
We suffer at the sight of the wrinkled brows of our fathers and mothers,
Of brothers and sisters,
Of children who slumber among the flowers,
In the candlelight,
From Wroclaw to Ursus,
From
We suffer at the aching heart
Buried in a flaming pyre,
Karol Wojtyla, Adam Michnik, Jacek Kuron
Danuta, Lech Walesa, Anna Walentynowicz…
Our brothers and sisters,
We share this common wound,
And nurse it within each of us, deep in our souls,
Even though we have not yet met.
Jerzy’s blood drops on the needle and thread,
And on the azure background embroiders the letters
SOLIDARNOŠC
Poor miserable country deprived of any laughter !
On his bare shoulders, he alone
Is subjected to an avalanche of truncheons,
Those pitiless cudgels,
We will not use them against our enemies,
We will make them into logs to heat our homes in winter,
We will advance
And set fire to the prison of silence and despair,
As if it were the night we crossed
When, thanks to our faith, with the stars shining the way,
We, the boat people, having any compass,
Caught sight of the beacon,
Popieluszko, ever faithful, fell,
But gave us the seeds of renewal. (10.1984)
Nguyên Hoàng Bảo Việt
Original in Vietnamese: ‘’Những Đêm Tháng Mười’’
Excerpt from Anthology of Poems ‘’ Dấu Tích Phượng Hoàng ‘’
Publishers Bạn Văn Paris 2008.
English translation by author.
* Father Popieluszko was a young priest for the workers at the Warsaw steelworks,
who preached courage, honesty and love for liberty.
He was brutally tortured and murdered in October, 1984, by the Polish regime’s political police.
* Vietnam, Black April, 1975,
******************************************************
Ấn bản 29.04.10