Tạp ghi của NNS, Sơn Nguyễn : Trang Thơ Nhạc
Chúc Thân Hữu một ngày đầu Tuần thật Vui vẻ & Bình An.
Từ 4 giờ sáng đã thức xem trận chung kết giữa Hòa Lan-Tây Ban Nha, giờ vẫn còn buồn ngủ.
Trang Thơ Nhạc (vội vã) sáng nay Kính (mến) gởi đến Thân Hữu:
1. Nhạc
Lý Con Sáo Bạc Liêu
Nhạc Sĩ: Phan Ni Tấn
Ca sĩ: Phi Nhung
"…Khi nào cầu Quay nọ hết quay…
Thì Qua với Bậu mới đứt dây cang thường…".
2. Bài viết:
1. Mấy Nhịp Cầu Quay.
Đỗ Thanh Vân
2. Ký Ức Một Giòng Sông
Phan Trung Nghia.
3.Thơ:
· Lâm Hảo Dũng
· Kim Tuấn
Tình Thân.
Kính.
NNS
…………………………………………………………………
Bài Viết:
(Chú thích 1: Trong bài hát của Anh Phan Ni Tấn: Lý Con Sáo Bạc Liêu, có đề cập đến Cầu Quay. Hồi còn bé được Mẹ đưa về Mỹ Tho thăm Bà con, trước khi ra đi nước ngoài, NNS thật ấn tượng về (địa danh) cầu Quay. Dù bao nhiêu năm tháng qua đi, NNS vẫn nhớ hình ảnh hai bên đường, qua cầu Quay, là xã Tân Mỹ Chánh, trên đường đi Chợ Gạo. Rồi bên phải là Vàm Kỳ Hôn, với những vườn mận bát ngát. Đứng nhìn qua bên kia Sông, nước chảy cuồn cuộn, thấp thoáng những đệ tử của Ông Đạo Dừa mặc áo màu nâu đi qua đi lại trên chiếc thuyền hoa lớn. Năm 2006 về dạy học và giúp cho chương trình Liên Hiệp Quốc, trên đường xuống Cần Thơ, NNS nói với người Tài xế (của Viện Đại Học Cần Thơ phái lên rướt từ Phi cảng Tân Sơn Nhất), ghé qua đây cho NNS nhìn lại cảnh cũ thời nào. Cũng nao nao trong lòng, dù sinh quán ở tận miền Trung. Chả trách một người nặng lòng với sông nước miền Nam như Anh Phan Ni Tấn, đã từng cỡi xe đạp đi cùng khắp nẻo đường, yêu Quê nhà đến thế đó, thì viết Nhạc Quê hương không hay sao được…
Bài hát thật Ca dao…
(NNS)
Mấy nhịp Cầu Quây
Nhà tôi
ở phía bên kia Cầu Quây, và tôi luôn luôn nghĩ rằng tôi không phải là dân chợ. Hồi đó, cái hồi bắt đầu từ những năm nào tôi không biết cho đến năm 1954, Cầu Quây là ranh giới chia tỉnh Mỹ Tho ra làm hai tuy nó nối liền đôi bờ sông Bảo Ðịnh. Mấy chữ "bên kia Cầu Quây“ đồng nghĩ với mấy chữ "vấn đề an ninh“, tuy chiều chiều nam thanh nữ tú vẫn thường thơ thẩn bên lan can cầu hóng gió và nhìn ghe thuyền qua lại. Dạo ấy, cho tới đầu những năm 50 người bên nây ngại sang bên kia lắm, cũng như vào thời 60, 70 nói tới Cầu Vỹ là ai cũng chùn chân.
Gia đình tôi tản cư lên Mỹ Tho đâu năm 1946 và tìm được một căn phố ở bên kia Cầu Quây, đường Trịnh Hoài Ðức, gần ngả tư, tức là không xa đầu Cầu Quây bao nhiêu. Chiến tranh đã tàn phá gần hết làng tôi, làm tiêu tan cả tài sản ba má tôi, cho nên dù có là con nhà khuê các ai trong hoàn cảnh đó cũng đều trở thành hạt cát. Mỗi ngày tôi phải lội bộ đi học trường Cầu Bắc. Quãng đường đó đối với người lớn chắc cũng đã không gần, huống hồ là cho một đứa bé 7 tuổi, mà đoạn ngán ngẩm vô biên là lên dốc cầu, nhứt là dốc phía bên chợ nó dài và rộng gấp hai lần dốc bên nây, và những phút đi ngang qua cầu giữa mùa nóng đốt. Ba má tôi cũng không có phương tiện di chuyển nào khác, nên phải giải quyết bằng cách cho tôi ở lại trường buổi trưa. Năm lớp tư, má tôi sáng sớm nấu cơm bỏ vào hộp để tôi mang theo.
Tôi và các bạn nhỏ đã thâu ngắn đường đi bằng cách quăng cái cặp đệm xuống đất, từ đoạn đường d´Ariè trướ Tòa án, đá lài cho cặp đẩy đóng lá me bên vệ đường chạy đùa tới trước rồi chạy theo cặp, và cứ tiếp tục cho đến hết khúc đường có nhiều lá me rơi. Chúng tôi vui thú đến quên đường dài, nhưng tới nơi thì cái hộp cơm bằng giấy của má tôi đã đổi hình thay dạng. Năm lớp ba, tôi được ăn cơm ở cantine trường vì nhà xa và gia đình nghèo.
Tới năm lớp nhì thì tôi được ba má sắm cho một chiếc xe đạp. Thế là con đường không còn dài dằng dặc nữa, nhưng đạp lên cái dốc trước nhà thuốc tây Trần văn Khánh và Ty Ðiền Ðịa thì vẫn còn quá não nề.
Từ khi có xe đạp tôi thường lấy cớ để chạy xe. Tuy sợ dốc cầu nhưng mỗi chiều tôi đều đều đạp xe qua tiệm bán nước đá cây ở con đường sau khám Mỹ Tho, mua một cục cột dây lát máng vào guidon xe về cho cả nhà có nước đá uống trong bữa cơm. Và vui nhứt là khoảng năm 1950 có một tiệm làm bánh mì khám phá ra cách làm bánh mì ngọt và bánh mì ngọt có trộn nho khô. Thế là bọn con nít xóm tôi cứ đúng 6 giờ chiều là hè nhau chạy xe đạp sang chợ để mua bánh mì mới ra lò. Đó là mode "mới“ của dân bên kia Cầu Quây.
Ðời sống bên kia Cầu Quây là đời sống nửa quê nửa tỉnh. Xóm tôi ở xui xẻo là chỉ có toàn con trai ở tuổi tôi với vài chị lớn và một hai bé gái còn nhỏ hơn tôi nữa, nên trò chơi sau trường học của tôi cũng độc đáo. Tức là tôi nhập bọn với đám con trai đi đánh trổng, đá cầu, chọi đáo… , rồi tùy theo mùa mà kéo nhau vô rẫy hái rau đắng về cho dế ăn hay đi vớt lăn quăn ở các đường mương để nuôi cá lia thia đá. Lối sống của hạt cát, hòn sỏi đó đã cho tôi những kỷ niệm tuyệt vời không thể có được đối với những bé gái cùng tuổi ở chợ hay những tiểu thơ măng non trong nhà cao tường kín, những kỷ niệm cùng với một đám "quỷ con“ trong xóm mà sau bao nhiêu vật đổi sao dời chúng tôi cũng còn tìm kiếm nhau lại để thỉnh thoảng trao đổi vài dòng thăm hỏi.
Ðiều khó quên là đời sống ở đó không phải lúc nào cũng êm như bàn thạch. Nghe súng đạn trò chuyện giữa đêm thường xuyên đến nỗi dưới sàn cái divan nhà tôi ngày nào cũng được lau chùi bóng lưởng và trải chiếu cẩn thận. Ðêm đêm má tôi dựng một tấm nệm lớn trước đầu nằm, tưởng như đạn vào nệm sẽ ở luôn đó. Mỗi khi nghe súng nổ nồ, nhứt là khi nghe tiếng nổ to từ bót số 1 gần đầu cầu, là cả nhà lập tức chun xuống sàn. Tánh trẻ con thật vô tư, tôi thấy vui mà ngủ dưới sàn trong khi người lớn lo âu sợ sệt. Tôi nhớ, hồi ở quê tôi cũng đã từng chun xuống tranchée để trốn bom, cái hầm đào sâu xuống đất được trét đất sét láng trơn và mát rượi làm tôi cứ thèm ngủ ở đó.
Ngả tư là khu bán thức ăn đủ loại, là nơi nhậu nhẹt của đám lính Pháp và lính đầu đỏ Việt vào cuối tuần hay ngày lễ. Thế nên ở đây cũng có tiếng lựu đạn nổ hà rầm. Ngày cách-toduy-dê, dân ta gọi thế để chỉ ngày 14 tháng 7. Họ không cần biết là ngày gì, chỉ biết ngày cách-to-duy-dê là ngày nhục nhã buổi sáng và nguy hiểm buổi chiều. Buổi sáng là cuộc lễ to ở đầu cầu, cách bót số 1 vài mươi thước. Năm nào cũng có trò leo cây thoa mỡ bò để lấy phần thưởng ở đỉnh cột, và trò lội sông bắt vịt. Ai có thương cho cái cảnh "năm tấc trèo lên một thước tuột xuống "hay có bắt được rồ vẫn cứ vuột“ thì thương, chớ hàng quan khách Tây Ta và các bà đầm cứ thích thú cười nghi
êng ngửa. Nhưng "vui“ là"vui“ buổi sáng thôi, tới tối khi cả bọn lính đầu đỏ và lính mắt xanh, sau mấy tiếng đồng hồ hò hát vang rân, bò càng bên hàng đống chai rượu là chắc mẽm sẽ có màn quăng lựu đạn từ một góc kín đáo nào đó. Bọn trẻ con chúng tôi bị cấm cung khi mặt trời vừa xuống.
Gia đình tôi dọn nhà qua chợ một năm sau khi tôi đậu vào Lycée Le Myre de Vilers. Trường vẫn còn mang tên Pháp mặc dù niên học tôi bắt đầu cho chương trình Việt. Năm 1954, Pháp về nước. Vùng bất an ninh đã được an ninh. Cầu Quây thật sự là nhịp cầu nối kết hai vùng của tỉnh. Mùi hủ tiếu Phánh Ký bay sang tận bên chợ mời mọc hằng bao nam nữ học sinh của ngôi trường trung học đã được đổi tên thành Nguyễn Ðình Chiểu từ ngày 22.02.1953. Và con đường đi Chợ Gạo không còn là con đường cho hàng dọc xe nhà binh Pháp mang đầy sình đất nặng nề chạy về sau những cuộc hành quân, mà là con đường dẫn xuống nơi gặp gỡ thơ mộng của thanh thiếu niên Mỹ Tho: chùa Vĩnh Tràng!
Ngày nay, với tuổi đời chồng chất mấy nhịp Cầu Quây như thân già yếu ớt, nặng trĩu trên vai nền xi măng nứt rạn và sườn sắt rỉ sét. Cầu Quây chỉ dùng cho người đi bộ. Chỉ còn là biểu tượng cho thành phố Mỹ Tho và là dấu vết đầy thân thương trong lòng dân Mỹ Tho!
Đỗ Thanh Vân (Vinh Lan)
Nội San 14 / 2008
……………………………………………………
|
|
|
Chú Thích 2:
(Cho Bạn trẻ của NNS)
Trong bài hát có câu "Vì chưng lẻ bạn mới ốm o cung đàn". Câu này có rất nhiều người hiểu sai, nghĩ là cái chân (vì cái chân, người Nam đọc là cái chưng, cái cẳng). Thật ra đây là Từ cổ xưa mà Cụ đồ Chiểu từng dùng…
"Vì chưng hay ghét cũng là hay thương" nằm trong truyện "Lục Vân Tiên" của Nguyễn Đình Chiểu. Tác phẩm được sáng tác vào khoảng đầu những năm 50 của thế kỷ 19, khi ông bị mù, về dạy học và chữa bệnh cho dân Gia Định.
Cốt truyện xoay quanh cuộc xung đột giữa Thiện và Ác, nhằm đề cao tinh thần Nhân nghĩa, thể hiện khát vọng lý tưởng của tác giả về một Xã hội tốt đẹp.
Câu thơ này nằm trong đoạn trích từ câu 473 đến câu 504 trong truyện Lục Vân Tiên ( Một quyển truyện thật đặc thù miền Nam, như Chú Tư Cầu sau này của Nhà văn Lê Xuyên hay Xuân Tóc Đỏ của miền Bắc…).
Nội dung là cuộc nói chuyện giữa nhân vật ông Quán với 4 chàng Nho sinh: Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm và Bùi Kiệm.
Những điều ông Quán ghét:
Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm. – Ghét đời U, Lệ đa đoan. – Ghét đời Ngũ Bá phân vân. – Ghét đời Thúc, Quý phân băng… Đó là những triều đại Vua chúa say đắm tửu sắc,ăn chơi sa đọa, lộng hành quyền lực làm cho đất nước suy yếu, bấn loạn, nhân dân khốn cùng. Mỗi câu thơ lục bát là một tiếng dân. Nhà thơ đứng về quan điểm của người bình dân để bình phẩm lịch sử.
Những điều ông Quán thương:
Đó điều là những con người có tài, có đức, muốn hành đạo giúp đời nhưng đều không đạt sở nguyện.
Điển hình như: Thương đức Thánh nhân (Khổng Tử) , vì long đong, lận đận – Thương thầy Nhan Tử: hiếu học nhưng mất sớm – Thương ông Gia Cát: phí hoài tài năng công sức – Thương thầy Đổng Tử: không có điều kiện để thi thố tài năng. – Thương người Nguyên Lượng: bất đắc chí – Thương ông Hàn Dũ: bị đi đày – Thương thầy Liêm Lạc: không được trong dụng…
"Vì chưng hay ghét cũng là hay thương": Ghét và thương là hai thái cực tình cảm trái ngược nhau ở một con người vậy mà ở Nguyễn Đình Chiểu "lẽ ghét thương" lại xuất phát từ một điểm: Ông ghét cũng vì dân và thương cũng vì dân.
Đó là chân lý sống của một thầy Giáo mẫu mực coi việc dạy người quan trong hơn dạy chữ, đạo đức quý trọng hơn cả tài năng.
……………………………………………………………
Thơ:
Với Long Xuyên |
. |
ngập đồng sóng dạt phù sa trăm năm tiếng hát não nề chạnh lòng chiếc lá mùa thu Kim Tuấn |
Bài Gợi Nhớ Về Châu Ðốc |
. |
em khóc dòng sông, khóc nước sông em ở bên kia trời cách biệt em khóc dòng sông đó phải không ? bởi ta lười biếng làm sao thấy em khóc dòng sông đó phải không ? ta nhớ một đời riêng để nhớ Lâm Hảo Dũng |
Kính.
NNS