Biên khảo

Nguyễn Hưng Quốc : Đọc…chơi vài bài ca dao


Đọc…chơi vài bài ca dao

Nguyễn Hưng Quốc
 
 
Ca dao, ai cũng biết là hay. Tuy nhiên, có nhiều bài ca dao chúng ta đọc đi đọc lại cả trăm lần, mơ hồ cảm nhận là chúng hay, mà chả hiểu chúng hay ở chỗ nào cả. Chỉ đến một lúc nào đó…

Ví dụ bài ca dao rất quen thuộc này:

Mình nói dối ta mình hãy còn son,
Ta đi qua ngõ thấy con mình bò.
Con mình những trấu cùng tro,
Ta đi xách nước tắm cho con mình.

Tôi thuộc bài ca dao này từ nhỏ. Nhưng chỉ gần đây, tôi mới bắt đầu loé thấy một ít cái hay của nó. Trước hết, chúng ta biết ngay bài ca dao này được làm theo thể lục bát. Bình thường, trong thơ lục bát, câu sáu chữ nằm trên câu tám chữ, lục rồi mới đến bát. Tuy nhiên, trong bài này có điểm lạ: là thơ lục bát, nhưng thay vì mở đầu bằng một câu lục thì nó lại mở đầu bằng một câu bát phá thể. Hệ quả là gì? Hệ quả là hơi thơ của câu thứ nhất dài hẳn ra. Dài và thiết tha vô hạn: tấm lòng của anh thanh niên mở ra bao la với những nguyên âm "o" và nguyên âm "a" rộng rãi và khép lại ở nguyên âm "i" thầm thì trong chữ "mình" lặp lại đến hai lần ở câu thứ nhất. Thành ra ở đây, ngay câu thứ nhất, đã có một nghịch lý: ý câu thơ là tố cáo một sự dối trá ("Mình nói dối ta…") mà giọng thơ thì lại rất mực ngọt ngào và ấm áp: anh thanh niên biết mình bị lừa mà lại sẵn sàng chấp nhận bị lừa, sung sướng để chịu bị lừa.
Hay nhất trong bài ca dao trên là chữ "mình". "Mình" là cách xưng hô đầy âu yếm để gọi người mình yêu. Chữ "mình" ấy lặp lại đến năm lần, mang hai ý nghĩa hoàn toàn khác nhau: bốn lần đầu, "mình" là em, chỉ người con gái, ngôi thứ hai số ít: "con mình" là con của em, là "your child". Đến lần thứ năm, cũng là "mình", nhưng "mình" ở đây lại là ta, là chúng ta, ngôi thứ nhất số nhiều, bao gồm cả người con trai lẫn người con gái: "con mình" ở câu cuối là "our child". Người thanh niên chấp nhận đứa con riêng của người yêu làm con của mình.(1)
Bài ca dao mở đầu bằng chữ "mình", kết thúc cũng bằng chữ "mình". Từ chữ "mình" đầu bài đến chữ "mình" cuối bài, cách nhau chỉ có 28 từ mà thực ra là cả một quá trình chuyển hoá của mối quan hệ giữa người con trai và người con gái, là lịch sử của một mối tình vừa ngang trái lại vừa cảm động. Trước là hai, sau chỉ là một: người thanh niên chấp nhận người tình ngay cả khi bị chị đánh lừa.
Cuối cùng, vì lặp đi lặp lại nhiều lần từ "mình", chứa đựng nhiều âm "m" vốn là một phụ âm môi, nhẹ nhàng và ngọt ngào, bài ca dao mang đầy giọng tâm tình. Như một lời thủ thỉ, thầm thì. Hiếm có bài ca dao nào của Việt Nam mà có cái giọng ngọt và ấm đến như vậy.
Hay bài ca dao này, còn nổi tiếng và quen thuộc hơn nữa:

Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc;
Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay…
– Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh không hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ;
Chim vào lồng, biết thuở nào ra.

Bài ca dao này đã được khá nhiều người phân tích. Phần lớn đều tập trung ở khía cạnh hình tượng và ngữ nghĩa. Những sự phân tích ấy ít khi khác nhau cho nên tôi không muốn nhắc lại làm gì. Tôi chỉ xin lưu ý đến khía cạnh ngữ âm, một khía cạnh ngờ như có khả năng tiết lộ khá nhiều điều thú vị, đặc biệt là cảm xúc của người con gái.
Bài ca dao được cấu trúc bằng hai ngôn ngữ: ngôn ngữ của người con trai và ngôn ngữ của người con gái. Bài ca dao giống như một vở kịch với hai lời đối thoại. Nhưng lời nói của người con trai không hẳn là một lời nói, có vẻ như là lời kể của ai đó, một nhân vật thứ ba, ở ngoài. Tại sao? Không có gì khó hiểu cả: người con trai đang ở trong một trạng thái bất ổn, phân thân, hồn một nơi mà thân xác một nơi. Nhiều người ngạc nhiên tự hỏi: không hiểu anh loăng quăng, líu quýu trèo lên, trèo xuống để làm gì vậy? Thật ra, có gì lạ đâu. Nhớ, trong một bài ca dao khác, một người con gái cũng có cái dáng điệu loăng quăng líu quýu như thế: "Khăn thương nhớ ai / Khăn rơi xuống đất / Khăn thương nhớ ai / Khăn vắt lên vai…" Sự loăng quăng líu quýu ấy chỉ là một cách để làm nguôi ngoai một tâm trạng bời bời, đồng thời cũng là một dấu hiệu cho thấy anh không còn tự chủ được mình nữa, anh bị thất lạc tâm hồn. Anh bàng hoàng. Anh thảng thốt. Anh chấn động trước sự việc người anh yêu thầm đi lấy chồng.
Ngắm nụ hoa tầm xuân xanh biếc, người con trai ngẩn ngơ: "Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay." Câu này còn có dị bản là "Em đã có chồng, anh tiếc lắm thay". Ca dao là một thứ văn chương truyền khẩu, từ đời này sang đời khác, do đó, khó mà nói được bản nào là đúng, bản nào là sai. Nhưng tôi vẫn có thích câu "Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay" hơn. Lý do thứ nhất là vì cách dùng chữ "đã" trong câu sau khiến cho tôi nghĩ đó là một cách nói khá mới. Lý do thứ hai là vì nhạc điệu: khi chữ "rồi" thay thế chữ "đã", câu thơ thêm một thanh bằng, hơi thơ thành ra nhẹ hơn, ngậm ngùi hơn; hơn nữa, khi chữ "rồi" đi liền theo sau chữ "chồng", âm "ông" trong chữ "chồng" cũng bớt mạnh và vang hơn là lúc nó đứng một mình.
Một câu hỏi quan trọng mà người đọc thơ không thể không đặt ra: có quan hệ gì giữa nụ tầm xuân và việc người con gái lấy chồng, từ đó, dẫn đến niềm tiếc nuối, xót xa kia? Ngỡ như không có. Mà lại có. Ở cái vần "iếc" trong chữ "biếc" cuối một câu thơ vốn có thật nhiều nguyên âm mở. Nó như một sự khép lại. Nó mảnh. Nó sắc. Như một sợi khói bay lên, bay lên, xa hút: nó hình tượng hoá một sự mất mát, một cái gì vuột khỏi tầm tay.
Người con gái chắc cũng yêu bạn mình. Chị đã từng chờ đợi. Hoài công vì sự nhút nhát của anh. Chị vừa thông cảm lại vừa giận. Chị đay nghiến: "ba đồng… một mớ….". Sở dĩ đay nghiến là vì còn yêu, còn thương. Nhưng dẫu sao thì cũng đã lỡ: chị đã có chồng. Người con gái ý thức rất rõ điều đó, cho nên, giọng chị cứng lại:

Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng…

Vần hai câu thơ rơi vào âm "ông" sang sảng, ngân vang. Mạnh, rất mạnh. Dứt khoát, rất dứt khoát. Nhưng tôi ngờ là chị chỉ cao giọng để lừa dối chính chị. Bởi, nói chưa hết câu ấy, giọng chị đã trầm xuống, thổn thức:

… Như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ;
Chim vào lồng biết thuở nào ra.

"Câu", "đâu", "gỡ", "thuở": những chữ kết thúc bằng nguyên âm "u" và "ơ", nửa khép nửa nhẹ, bềnh bồng, rưng rưng, không chừng là một tiếng khóc.
Câu ca dao dưới đây khác hẳn:

Em như cục cứt trôi sông
Anh như con chó chạy rông trên bờ.

Từ trước đến nay, bài ca dao này thường chỉ được đọc trong những lúc nói chuyện phiếm, như một bài ca dao trào lộng. Đọc cho vui, đọc để cười chơi, vậy thôi. Trong ý nghĩa ấy, bài ca dao được nhìn nhận như một cái gì khá tục và khá nhảm.
Tuy nhiên, theo tôi, không chừng đó là một bài ca dao hay.
Vấn đề là: nó hay ở chỗ nào?
Trước hết là nó bạo và nó mới. Nó không có một chút sáo ngữ nào cả. Dĩ nhiên, nói thế, chúng ta cần thận trọng. Không phải cứ hễ viết tục là thoát sáo. Từ trước đến nay, ở đâu cũng có những người khoái viết tục và viết bạo. Hiện nay, người ta lại càng viết tục và viết bạo. Nhưng chưa chắc đã hay. Dù sao, theo tôi, cái tục của câu ca dao này quả là hay thực. Nó không phải chỉ bạo để bạo, chỉ mới vì mới mà còn là một sự sáng tạo hầu vẽ nên một thế giới gần hiện thực hơn. Chúng ta hãy nhớ lại xã hội Việt Nam ngày xưa. Đâu phải ai cũng như là Thuý Kiều và Kim Trọng, cũng là "người quốc sắc, kẻ thiên tài", là "trai anh hùng, gái thuyền quyên" cả. Trong xã hội thời xưa, đặc biệt là ở nông thôn, đại đa số các cặp tình nhân là những anh thợ cày và những chị đầy tớ. Anh đi làm mướn, chị đi ở đợ. Anh giống như Chí Phèo, chị giống như Thị Nở. Đời sống của họ cơ cực, tối tăm. Cho nên, không có gì lạ khi họ tự ví

Em như cục cứt …
Anh như con chó …

Cái tục của ngôn ngữ, cái thô của hình tượng ở đây lại là những cái thực và là một sự sáng tạo. Nó phá đổ những khuôn sáo cũ kỹ và giả tạo trong văn chương bác học. Nó vứt bỏ những son phấn những mũ mão đai hia để làm hiện hình những con người gần gũi với cuộc đời hằng ngày.
Hơn nữa, điều đáng cảm động ở đây là cặp tình nhân tự biết thân phận của người họ yêu và của chính họ chẳng ra gì. Em không ra gì. Mà anh thì cũng chẳng ra gì. Thế nhưng họ vẫn cứ yêu nhau, thương nhau. Chúng ta nhớ trong truyện "Chí Phèo", Chí Phèo và Thị Nở cũng từng có lúc yêu nhau như tất cả mọi cặp tình nhân khác trên đời này. Và trên đời này, tất cả những con người bất hạnh khác, khi yêu nhau, thì cũng yêu nhau như tất cả những con người bình thường hay may mắn khác yêu nhau. Cách biểu hiện tình yêu có thể khác nhau nhưng những rung cảm những xao xuyến những quyến luyến những ngây ngất trong lòng thì chắc chắn là không có gì khác nhau cả.
Ở giữa câu lục là hai từ bắt đầu bằng phụ âm [k] ("cục cứt") mạnh, gắt, như một nỗi đau uất. Ở giữa câu bát là hai từ bắt đầu bằng phụ âm [ch] ("chó chạy") mềm mại, ngân vang, như một nỗi buồn tênh. Câu ca dao, như thế, không phải chỉ tả mối tình giữa hai người khốn khó bất hạnh tự ví mình với những gì hèn mọn, thậm chí hèn hạ nhất trên mặt đất. Điều đáng đau xót, toát lên từ câu ca dao này là ở chỗ, mặc dù họ tự biết thân phận của mình, mặc dù họ hoàn toàn an phận, chấp nhận cái số kiếp làm phân, làm chó, họ vẫn không được gần nhau. Em vẫn lênh đênh giữa sông và anh vẫn chạy rông trên bờ. Anh vẫn không bắt được em, vẫn ở từ xa mà nhìn em một cách thèm thuồng. Giữa hai người vẫn có một khoảng cách vời vợi. Không cùng.
Bài ca dao, do đó, mặc dù có một số chữ có vẻ tục, có vẻ sỗ sàng lại chứa đựng một ý nghĩa hết sức thâm trầm, thể hiện được đúng số phận của hàng triệu triệu cặp thanh niên nam nữ nghèo khó, lam lũ và bất hạnh trong cuộc đời, nhất là cuộc đời ngày xưa.
Còn một câu ca dao khác cũng rất đáng bàn. Đó là câu

Vân Tiên ngồi dưới bụi môn
Chờ cho trăng lặn bóp l. Nguyệt Nga

Xin nói ngay: tôi không có ý định khen đây là bài ca dao hay.
Không hay, nhưng nó không hẳn chỉ là một cách nói tục tĩu, nhảm nhí, và chắc chắn không phải là những câu vần vè vô nghĩa như lâu nay chúng ta vẫn thường tưởng.
Chỉ cần đặt câu hỏi: tại sao người ta lại không nói Kim Trọng hay Từ Hải hay Sở Khanh hay Mã Giám Sinh "ngồi dưới bụi môn"? Trả lời câu hỏi ấy, chúng ta sẽ thấy ngay tác giả của câu ca dao này chính là những độc giả của Nguyễn Đình Chiểu. Thế nhưng, ở đây lại nảy ra một câu hỏi khác: tại sao, trong truyện Lục Vân Tiên, người ta không chọn nhân vật nào khác, như Bùi Kiệm, một nhân vật được Nguyễn Đình Chiểu mô tả bằng những lời lẽ rất nặng nề, rất thích hợp với vai trò của kẻ "ngồi dưới bụi môn": "Còn thằng Bùi Kiệm máu dê / Ngồi chề bê mặt như sề thịt trâu"? Tại sao?
Tại sao người ta lại chọn ngay chính Lục Vân Tiên, một nhân vật được xem là nghiêm trang, nghiêm túc, thậm chí nghiêm khắc, có thể xem như một khuôn mẫu về đạo đức, để bắt làm cái chuyện phàm phu tục tử ấy? Tại sao người ta lại chọn cái nhân vật không dám nhìn cả phụ nữ "Khoan khoan ngồi đó chớ ra / Nàng là phận gái, ta là phận trai", không dám lần khân lâu bên phụ nữ "Vân Tiên ngó lại rằng: Ừ / Làm thơ cho kịp chừ chừ chớ lâu" lại làm cái việc "công xúc tu sỉ" ấy?
Tại sao? Chắc chắn là có lý do. Và lý do cũng không có gì khó hiểu: Chúng ta dễ dàng thấy được câu ca dao trên là một cách phản ứng chống lại thái độ đạo đức khắt khe, có phần giả tạo của Lục Vân Tiên, và phần nào cũng là của Nguyễn Đình Chiểu. Chế diễu thái độ đạo đức cứng nhắc ấy, dân chúng đã cho Lục Vân Tiên làm cái việc nhảm nhí là "ngồi dưới bụi môn, chờ cho trăng lặn…" Trong cách nhìn này, câu ca dao trên có cùng trường nghĩa với một câu ca dao khác, từ lâu vẫn được xem là có "lập trường tiến bộ" và "đứng đắn" hơn:

Ban ngày quan lớn như thần,
Ban đêm quan lớn tần mần như ma.

Nói cách khác, tôi nghĩ, chúng ta hoàn toàn có lý để xem câu "Vân Tiên ngồi dưới bụi môn…" như một cách đọc truyện Lục Vân Tiên. Đó là một lời phê bình cuốn Lục Vân Tiên. Trong vô số những lời phê bình truyện Lục Vân Tiên, không chừng cách phê bình này của dân gian là một cách phê bình hay. Hay và sắc sảo. Nó nhắm vào một trong những vấn đề trung tâm của tác phẩm là quan niệm đạo đức cũng như cách thức xây dựng nhân vật của cụ Đồ Chiểu nói chung.
Cũng vậy, chúng ta có thể đọc những câu:

Vân Tiên cõng mẹ chạy ra,
Đụng phải cột nhà, cõng mẹ chạy vô.
Vân Tiên cõng mẹ chạy vô,
Đụng phải cái bồ, cõng mẹ chạy ra.
Vân Tiên cõng mẹ chạy ra…

hay một dị bản của nó:

Vân Tiên cõng mẹ trở ra
Đụng phải Chà Và, cõng mẹ trở vô.
Vân Tiên cõng mẹ trở vô,
Đụng phải ông Tây cồ, cõng mẹ trở ra.
Vân Tiên cõng mẹ trở ra…

như một sự phê phán quan điểm đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu: ông một mực đề cao những chuẩn mực đạo đức cổ điển và cổ kính như trung, hiếu, tiết, nghĩa với hy vọng là chúng sẽ giúp duy trì sự ổn định trong xã hội, tuy nhiên, một là, xã hội Việt Nam vào nửa sau thế kỷ 19, trong sự cọ xát dữ dội với văn minh Tây phương và thế lực thực dân, cứ ngày một rạn nứt, vô phương hàn gắn; hai là, bản thân những chuẩn mực đạo đức tưởng đâu là chân lý vĩnh cửu ấy thật ra rất đáng ngờ, và với sự lung lay của Nho học, càng ngày càng đáng ngờ thêm. Con thuyền "chở đạo" của Nguyễn Đình Chiểu, do đó, không phải chỉ trôi trên một dòng nước ngược mà còn, hơn nữa, trên thực tế, chỉ loay hoay mãi trong một vũng nước tù, không có lối thoát, hết "đụng" cái này thì "đụng" cái kia, cứ quanh quanh quẩn quẩn mãi trong sự tuyệt vọng và bế tắc. Nói cách khác, đó là những lý tưởng ở đường cùng. Biện pháp dựa trên nguyên tắc đạo đức mà Nguyễn Đình Chiểu đề xuất, hay đúng hơn, cổ vũ, đã không giải được bài toán của thời đại.
Theo tôi, chỉ với cách hiểu như thế, chúng ta mới giải thích được tại sao một nhân vật chính diện trong một tác phẩm nặng dụng tâm giáo huấn của một tác giả được xem là tiêu biểu nhất của dòng văn học giáo huấn lại biến thành – không phải một lần mà là nhiều lần, ít nhất là hai lần như vừa nêu – một nhân vật hài trong nền văn học dân gian.
Một ngày nào đó, nếu tôi đủ hứng thú và can đảm làm một tuyển tập phê bình về Nguyễn Đình Chiểu, có khi tôi sẽ chọn in những câu ca dao trên ngay ở trang đầu. Ở đâu đó, bên kia thế giới, đã xa lắm lắm những lời dạy lẩm cẩm kiểu "trai thời trung hiếu làm đầu / gái thời tiết hạnh làm câu trau mình", đọc những lời phê bình thông minh và hóm hỉnh ấy, không chừng cụ Đồ sẽ cả cười.
Chú thích:
1. Nói chung, chữ "mình" trong tiếng Việt có khá nhiều nghĩa và đặc biệt, quá trình chuyển nghĩa của nó rất thú vị. Ý nghĩa đầu tiên của chữ "mình" là bộ phận chính của cơ thể (đầu/mình/tứ chi); từ đó, nảy sinh ra ý nghĩa thứ hai là toàn bộ cơ thể (mình mẩy). Cũng từ đó, "mình" sẽ nảy ra ý nghĩa thứ ba là bản thân người nói, tương đương với chữ "I" trong tiếng Anh. Rồi cũng từ đó, "mình" chuyển sang nghĩa thứ tư là chỉ người mình yêu (tương đương với chữ "you"). Lý do là, với người Việt, yêu ai là xem người đó là một với chính mình, như trong câu thơ:

Mình với ta tuy hai mà một
Ta với mình tuy một mà hai.

Gọi người mình yêu là "mình" tức là xem người đó chính là cơ thể của mình, là chính bản thân mình. Hai người nhập làm một. Từ đó, lại nảy ra ý nghĩa thứ năm của chữ "mình", đó là ý nghĩa chỉ chúng ta (tương đương với "we"). Bởi vì "mình" là mình, mà người yêu cũng là "mình", thì như vậy, "mình" đã là số nhiều, là một không gian chung dành cho nhiều người.

Sự chuyển nghĩa của chữ "mình" cho thấy, với người Việt Nam, tình yêu không phải chỉ là một sự hoà nhập làm một; hai người yêu nhau không những chỉ thuộc về nhau. Đó là những quan niệm bình thường và quen thuộc ở khắp nơi. Với người Việt Nam, yêu nhau là cho cái mình của mình cho nhau, là đem cái chữ "mình" vốn chỉ cơ thể của bản thân mình để tặng cho người mình yêu, là nhường cả chủ quyền trên cơ thể của mình cho người mình yêu. Nếu chúng ta kết hợp chữ "mình" này và chữ "nhà" dùng để chỉ vợ hay chồng lại với nhau, chúng ta sẽ thấy một quan niệm khá hoàn chỉnh về tình yêu và hôn nhân của người Việt Nam: Yêu nhau và lấy nhau là đem chính bản thân mình tặng cho nhau, là biến người mình yêu thành chính mình, hơn nữa, thành nơi cư ngụ của mình. Người này là "mình" của người kia, là "nhà" của người kia. Nói cách khác, yêu nhau và lấy nhau là ở trong nhau, là che chở cho nhau, là tự biến thành tổ ấm cho nhau.

—————————————————————————————————————

Sent: Wed, July 28, 2010 1:07:52 AM
Subject: Bai viet duoc gui tu Phan Phương

Văn thơ Lạc Việt !


www.BanMeOnline.org

Chào ban Quản Trị,

Thông qua website www.vantholacviet.com, Phan Phương gửi bài viết mới tới ban biên tập nội dung.

·  Người gửi: Phan Phương

·  Email: binhhyvuong@yahoo.com

·  Tiêu đề bài viết: Đọc… chơi vài bài ca dao

·  Phan Phương: Bài "Đọc… chơi vài bài ca dao" của Nguyễn Hưng Quốc có đạo vài ý chính trong hai bài "Mình bảo với ta…" và "Trèo lên cây bưởi…" từ bài viết của Bụi Bặm viết về hai bài ấy đăng ở trang Đặc Trưng hồi 9/2003 với những gợi ý mới về cách đọc và hiểu ca dao Việt. Lúc đó, Bụi Bặm có châm chích phe Tiền Vệ về chuyện nói phéc, nói tục trong văn chương mà đòi làm mới văn chương nên phe Tiền Vệ xúm vào đánh phá Bụi Bặm, gọi BB là Việt cộng. NH Quốc và phe ông ta có đọc các bài viết của Bụi Bặm vào lúc ấy trong diễn đàn Văn học Nghệ thuật ở Đặc Trưng, nên nay không thể nói là không biết. Viết sau và viết theo ý của người khác thì phải nêu xuất xứ, dù bài viết của Bụi Bặm viết tản mạn trên Net, chưa xuất bản. Nay NH Quốc "chôm" ý tưởng mới về bài ca dao "Nàng bảo với ta…" từ Bụi Bặm làm của riêng mình thì là đạo ý văn. Tiến sĩ "chôm" làm chuyện bất chính là đạo ý văn người làm ý văn mình. Gần đây, năm 2010, NH Quốc có tranh luận với cộng sản bên VN về chuyện ông ta đạo văn; tôi có biết nhưng không thèm để ý. Lâu quá, Bụi Bặm im tiếng trên Net, NH Quốc tưởng "safe" nên viết bài về ca dao với ý ăn cắp từ bài viết của Bụi Bặm. Nếu êm xuôi, thì ông ta sẽ biến món ăn cắp thành món ông ta làm mới; còn nếu Bụi Bặm lên tiếng tố đạo văn thì ông ta sẽ la lên "Nó[Bụi Bặm] là cộng sản, thấy chưa. Tụi nó xúm nhau tố tôi [NH Quốc] đạo văn". Tiến sĩ "chôm" đang làm trò vặt. Tôi, Phan Phương, là Bụi Bặm khi viết ở trang Đặc Trưng, đàn ông, đang sống ở Toronto, Canada, nay không còn hứng thú với thi ca Việt nữa; tuy nhiên, tôi phải lên tiếng về trường hợp Nguyễn Hưng Quốc đạo ý văn tôi làm của riêng. Tôi là người nêu cách hiểu mới về bài ca dao "Nàng bảo với ta nàng hãy còn son…". Quý vị có thể đọc các bài viết của Bụi Bặm ở trang Đặc Trưng, mục diễn đàn Văn học Nghệ thuật.

Received: Wednesday, July 28, 2010, 12:19 PM

Kính anh Phan Phương.

Tôi xác định không quen ông Nguyễn Hưng Quôc, nhưng thấy bài viết hay nên bỏ lên web.

Tôi đã tìm trong Đắc Trưng nhưng không thấy bài Đọc .. Chơi vài bài ca dao, và cũng đã tìm trong Đặc Trưng theo tên :  Bụi Bặm và Phan Phương.

Tôi đã đóng bài Đọc .. Chơi vài bài Ca dao. Tuy nhiên tôi vẫn muốn có bài Đọc Chơi vài bài ca dao nguyên thủy mà ông đã viết trong e-mail xác nhận là của ông, nếu có thể ông làm ơn gởi cho tôi. Vì đạo văn là hành động không nên làm.

Cám ơn ông nhiều

           
Chinh Nguyen L19

Kính anh Chinh Nguyen:

Anh vào trang dactrung.com, bấm vào "phố rùm" là diễn đàn mới hiện nay, ở đó anh bấm vào "phố cũ 2" là diễn đàn cũ ngày trước, rồi ở đó anh bấm vào mục "Phê bình văn học nghệ thuật", rồi anh cứ bấm theo trang về năm 2003 là sẽ thấy bút hiệu Bụi Bặm trong trang đó. Trong đó, Bụi Bặm có viết 2 bài tiêu biểu về cách hiểu mới về các bài ca dao cũ, bài "Cảm thông" viết về bài ca dao "Nàng bảo với ta nàng hãy còn son…" và bài "Muộn màng" viết về bài ca dao "Trèo lên cây bưởi hái hoa…". Trước tôi, chưa có ai hiểu bài ca dao "Nàng bảo với ta nàng hãy còn son…" cho đúng, kể cả Nguyễn Hưng Quốc khi ông ta viết mấy bài đó lúc trước; sau tôi, ông ta mới viết theo kiểu hiểu mới của bài tôi viết. Còn ở trang thơ cũng năm đó 2003 thì tôi có hai bút hiệu Bụi Bặm và Phan Phương. Sau đó, tôi bỏ không viết ở trang đó nữa vì bị phá và bị họ hùa nhau tặng tôi nón cối.


Chuyện ca dao đã cũ kỹ và nhỏ, nhưng tôi đang định sẽ viết một bài mới về chuyện đạo ý văn này đăng trên Đặc Trưng bây giờ để mọi người biết mà tránh chuyện đạo văn.
Cám ơn anh.

Tôi sẽ copy 1 bài viết của tôi ở trang DT để anh đọc.

[Đây là bài viết của Bụi Bặm trên Đặc Trưng hồi 2003, tôi copy và gửi cho anh để anh thấy ai là người nêu ra cách hiểu mới về bài ca dao đó.]

———————————————————————————————————————



 

Bụi Bặm: tản mạn "đọc và nghĩ lại một số ca dao Việt"

CẢM THÔNG
Nàng bảo với ta nàng hãy còn son
Ta đi qua ngõ thấy con nàng bò
Con nàng những đất cùng tro
Ta đi gánh nước rửa cho con nàng
(Khuyết danh)

Cần phải nói ngay là tựa đề bài ca dao trên là do tôi đặt; đại đa số các bài ca dao Việt không có tên. Bài này được trích đăng trong sách giáo khoa trung học Việt nam trước và trong thời Cộng sản. Chính bản thân tôi đã được học bài này ở trung học Cộng sản; sách giáo khoa và gíáo viên theo sách ra rả là bài ca dao tố cáo "bi kịch tình yêu trong thời phong kiến, v.v…".

Có nơi còn chép chữ ‘mình’ thay cho chữ ‘nàng’. Không cần bàn cãi về chữ "nàng" hay chữ "mình" trong bài ca dao này vì chuyện ấy thiết tưởng không cần thiết và vô ích; chữ nào cũng không làm sứt mẻ ý và tình trong bài chút nào hết.

Bốn câu trong bài theo thể ‘song BÁT lục bát’, xa hẳn thể thơ ‘song THẤT lục bát’ cổ của thơ Việt, cho nên nghiêng hẳn về hơi hướng dân ca. Bài ca dao trần trụi làm theo lối phú (nói thẳng), tâm tình phú. Rất nhiều khi, tôi cứ ngờ ngợ là dường như mình bị trợt một cái gì sau mỗi lần đọc xong bài ca dao. Có cái gì đó ẩn đằng sau lối nói phú ấy. Tôi đọc lại, đọc lại, đọc lại, và bất chợt khám phá ra rằng bốn câu của bài chứa bốn điều kỳ lạ.

Điều kỳ lạ thứ nhất: "nàng bảo với ta nàng hãy còn son".
Nếu chàng và nàng ở cùng làng, tất chàng phải biết nàng "còn son" hay "hết son". Nếu cái sự "hết son" kín quá, khó thể biết thì chàng cũng phải thấy chồng con người ta sờ sờ ra đó chớ. Như vậy, chàng và nàng phải ở khác làng. Hai làng cũng không thể gần nhau. Chắc hai làng phải xa nhau. Không xa quá vì hai người đã có dịp gặp nhau. Chỉ vừa đủ xa để chàng không rõ chỗ ở cùng gia cảnh của nàng.

Điều kỳ lạ thứ hai: "ta đi qua ngõ thấy con nàng bò".
Thời xưa, khi có chồng, người con gái phải về nhà chồng. Gia đình chồng có thể là đại gia đình bao gồm nhiều người nhiều thế hệ trong nhà chồng. Chí ít thì cũng là tiểu gia đình, gồm chồng, nàng và con. Vậy mà, nàng đã dối chàng rằng nàng "còn son", lại còn dám cho chàng biết chỗ ở của nàng để chàng tìm tới ! Và đi qua ngõ thấy đứa nhỏ đang bò là chàng lại biết ngay rằng con của nàng chớ không của ai khác trong nhà đó !

Điều kỳ lạ thứ ba: "con nàng những đất cùng tro".
Phụ nữ dù có bị gả ép, không thương chồng và dù có không thương con cách mấy đi nữa thì cũng không ai lại bỏ con bò một mình lê la với "đất cùng tro" ở ngoài ngõ chẳng có ai trông nom. Nàng ở đâu lúc chàng đi ngang qua cửa ngõ ? Tại sao nhà vắng hoe, chỉ có mỗi mình cu tí bò ngoài ngõ, và chàng đi ngang qua thôi lại biết ngay là con của nàng ?

Điều kỳ lạ thứ tư: "ta đi gánh nước rửa cho con nàng".
Tại sao chàng tỉnh bơ đi gánh nước rửa cho con nàng. Không sợ chồng nàng đang ở trong nhà hoặc đi đâu về thình lình hay sao ? Không kể tới ai khác, nếu có, ở trong nhà nàng hay sao ?

Bốn điều kỳ lạ đó làm tôi suy đi nghĩ lại và xét lại cái gọi là "bi kịch tình yêu trong thời phong kiến v.v." mà bài ca dao bấy lâu nay vẫn gánh chịu. Thật ra, bi kịch tình yêu thì thời nào mà chẳng có; hài kịch tình yêu còn có nữa là.

Có điều gì đó rất kín đáo ở trong bài ca dao ấy. Thử điểm lại nội dung: chàng nghe nàng dối là hãy còn son; chàng tìm tới nhà thì thấy con nàng đang bò ngoài ngõ; con nàng không có ai coi sóc nên dơ dáy; chàng lẳng lặng đi gánh nước rửa cho con nàng. Tại sao không có hình bóng ai nữa trong bài ca dao ngoài chàng đi ngang qua ngõ và đứa nhỏ bò một mình ? Nàng ở đâu và làm gì lúc chàng đi ngang qua cửa ngõ đó ?

Có phải là khi "nàng bảo với ta nàng hãy còn son" là nàng có ý lấp lửng với riêng chàng rằng nàng không có chồng ? Còn son theo ý nàng hẳn là còn chưa có chồng đó mà thôi. Khi chàng tìm tới và đi ngang qua ngõ thì có lẽ lúc đó nàng đang ngồi với con. Nàng dường như ngượng quá nép vào cửa ngõ để tránh chàng, thành thử đứa nhỏ bò một mình trên đất cát vào lúc đó. Chàng hỏi nàng thì nàng nhỏ nhẹ rằng đó là con nàng. Chắc nàng phải vừa núp trong cửa ngõ vừa thỏ thẻ thêm nhiều nữa, cho nên chàng biết là nàng có con nhưng không chồng và sống một mình với con. Do đó mới có chuyện chàng tỉnh bơ lẳng lặng đi gánh nước rửa cho con nàng mà không kể tới ai khác nữa trong nhà. Nàng là người mẹ độc thân (single mother). Người mẹ trẻ của thời xưa ấy phải lấp lửng gần như dối trá chuyện ‘còn son’ của nàng với chàng trai lạ. Thời ấy, không chồng mà có con là chuyện xấu hổ ghê lắm, không có cách nào nói làm sao cho đẹp mặt được. Nàng muốn chàng biết là nàng chưa có chồng, thành ra phải nói ‘còn son’ và dấu đi chuyện có con. Chàng tìm tới. Chàng hiểu ra. Chàng lẳng lặng ‘đi
gánh nước rửa cho con nàng’, tỏ ý cảm thông. Biết, hiểu là một chuyện. "À…tôi biết v.v." hoặc "Ừ….tôi hiểu v.v." nhưng từ hiểu biết đi đến chỗ thông cảm còn xa cách lắm. Bởi vì có thông cảm hay cảm thông thì người ta mới chấp nhận, người ta mới dấn thân, người ta mới chia sẻ. Bài ca dao để ngỏ về chuyện chàng ta có chấp nhận, dấn thân, và chia sẻ hay không. Chỉ chấm dứt ở chỗ chàng cảm thông vì chàng săn sóc cho con nàng. Để lơ lửng ở chỗ cái tâm thông cảm đó là cũng để cho người đọc tự kết luận nhiều rồi.

Tôi là thanh niên độc thân đang sống đầu thế kỷ XXI, ở trong xã hội Bắc Mỹ nơi được coi là văn minh, có tinh thần phóng khoáng và cởi mở, và chung quanh có nhan nhản các người mẹ trẻ độc thân (single moms), vậy mà đọc thấy tấm lòng bao dung và nhân ái của chàng trai Việt trong bài ca dao thời xa xưa đó tôi chỉ biết tỏ dấu kính phục.

September 20, 2003

 

 ——————————————————-

Vậy thì anh hãy đi luôn bài này, cũng viết vào năm 2003 ở Đặc Trưng, để cho rõ sự việc, mặc dù bây giờ tôi hết muốn viết lung tung trên Net nữa. Hãy xem, nhờ copy ý mới về ca dao của người khác mà NH Quốc mới "lóe sáng" được vài ý "mới" để vẽ vời thêm ra; bài ông ta cũng thêm vào đó vài câu vớ vẩn tầm phào nói chơi được ông ta cho là ca dao để nhân tiện đó làm mới luôn. Give me a break !
 
Bụi Bặm: tản mạn "đọc và nghĩ lại một số ca dao Việt"

MUỘN MÀNG

1- Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra cánh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay

2- Đắt gì một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không ?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra !

(Khuyết danh)

Trước hết, phải nói ngay rằng tên của bài ca dao ở trên là do tôi đặt. Tôi không nhớ chính xác tựa đề của bài ca dao là gì.

Hoa tầm xuân thuộc loại giây leo, mọc theo các bờ tường thành hoặc các thân cây khác. Hoa tầm xuân màu đỏ, cánh hoa màu xanh. Câu 3 của đoạn 1 thường được chép sai là "nụ tầm xuân nở ra xanh biếc". Trong thế giới này không có hoa nào màu xanh, càng không thấy hoa màu xanh biếc. Tầm xuân nở ra trên cánh biếc thì hợp lý hơn.

Hai câu đầu của đoạn 2 "ĐẮT GÌ một mớ trầu cay, Sao anh CHẲNG hỏi những ngày còn không" cũng thường được chép lệch đi là "BA ĐỒNG một mớ trầu cay, Sao anh KHÔNG hỏi những ngày còn không". Trong câu chép lệch đó, ‘ba đồng’ không phải chỉ số lượng ba đồng bạc, mà chỉ con số ít, tựa như ‘mấy đồng’ hoặc ‘vài đồng’. ‘Ba đồng’ và ‘một mớ’ trong câu ấy dùng để chỉ số lượng thật ít, không đích xác là bao nhiêu, nhưng rất ít ỏi. Vì là ca dao truyền khẩu cho nên người đời sau đã sai lệch sửa lời lại là ‘ba đồng’ và ‘sao anh không hỏi’. Thật ra ‘đắt gì’ và ‘sao anh chẳng hỏi’ nghe khá hơn. Lý do sẽ được nói ở phía dưới.

Bài ca dao ở trên còn có tương truyền là của Đào Duy Từ làm ra để trả lời Chúa Trịnh. Nguyên trước đó Đào Duy Từ ở bắc dưới triều Trịnh, thi đỗ thủ khoa kỳ thi hương nhưng sau đó bị xét lại lý lịch thì bị đánh rớt và cấm hẳn đi thi vì ông là con của một kép hát. Thời phong kiến, con cái phường hát bị liệt vào hàng xướng ca vô lại và bị cấm đi thi. Đào Duy Từ trốn vào nam thuộc chúa Nguyễn, trước làm nghề chăn trâu để kiếm sống, sau được chủ nhà hâm mộ tài và tiến cử gặp chúa Nguyễn và trở thành bậc quân sư lỗi lạc giúp chúa Nguyễn. Chính ông đã đề ra kế sách ngăn bắc giao nam giúp chúa Nguyễn: xây lũy Trường Dục dọc sông Gianh để chống quân Trịnh nam tiến, ngoại giao và hòa hiếu với các lân quốc phương nam như Chiêm Thành, Chân Lạp, các nước ở phía đông như Mã Lai, Nam Dương v.v. để có thế lực chống Trịnh lâu dài và tìm cách tiến về phương nam. Chúa Trịnh sau này biết tài ông nên cho người vào nam dụ ông trở về bắc; ông từ chối. Sử bên lề không nói rõ là chúa Trịnh cho người nào vào gặp ông cách nào và ông trả lời ra sao. Bài ca dao ở trên được cho rằng ông làm ra để trả lời chúa Trịnh. Điều này không đáng tin cậy, vì nhiều lẽ: – ông là người tinh thông văn, phú, thơ… nên không lẽ nào ông lại làm ca dao để trả lời. – ông không thể nào mượn lời của chàng trai trong bài ca dao đó để nói lên niềm hối tiếc của chúa Trịnh về ông; viết như vậy không phải lẽ. – sự nghiệp thi phú của ông chắc cũng còn để lại, không lẽ nào bài đó lại không được mang tên ông ?

Hơn nữa, bài ca dao có hai đoạn: đoạn 1 là lời của người nam, đoạn 2 là lời của người nữ. Giống như là câu hát đối đáp giữa nam và nữ ở các vùng quê vào thời xưa, hai đoạn hát đối đáp đó đã trở thành ca dao và được truyền tụng về sau. Đọc lên sẽ thấy rõ ràng là lời hát đối đáp nhau giữa nam và nữ. Do đó, tương truyền bài ca dao là của Đào Duy Từ là điều không hợp lý.

Hãy trở lại với bài ca dao. Lời của chàng trai "trèo lên cây bưởi hái hoa, bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân, nụ tầm xuân nở ra cánh biếc, em có chồng anh tiếc lắm thay". Lối hát đối/ca dao ngày xưa hay dùng lối nhập đề luân khởi (hay ‘lung khởi’ ?, tôi có thể nhớ lộn), đưa ra hình ảnh xa vời nào đó làm ẩn dụ để rồi đi vào nỗi niềm tâm sự. Hoa bưởi và nụ tầm xuân chưa bao giờ là biểu tượng của tình yêu giữa trai gái Việt. Dùng hai hình ảnh đó chỉ là cách nhập đề luân khởi; hoặc cũng có khi nhà chàng ta/nhà nàng có vườn cà và cây bưởi sau nhà chăng. Anh ta trèo lên cây bưởi không phải để hái bưởi mà là hái hoa. Rồi anh ta bước xuống vườn cà không phải để hái cà mà là hái nụ tầm xuân. Nhìn nụ tầm xuân nở ra, anh ta không thấy màu hoa đỏ mà lại thấy cánh hoa màu xanh biếc. Không phải anh ta thất tình quá rồi thần hồn rối loạn mà sinh ra leo trèo cây, bước xuống vườn, và nhìn lẫn lộn màu đỏ hóa ra màu xanh đâu. Cả đoạn đó không có chữ nào nói lên nỗi thất tình của anh ta. Hơi thơ của đoạn lại rất tỉnh táo và phảng phất bùi ngùi, nuối tiếc. Cũng không phải tác giả dùng từ ‘xanh biếc’ để cho hợp vần với chữ ‘tiếc’ ở câu sau đâu. Nếu muốn, tác giả có thể đặt câu ‘nụ tầm xuân nở ra đỏ ối, em có chồng anh hối lắm thay’, cũng nói lên được tâm sự hối tiếc của chàng trai. Hãy ngẫm nghĩ một chút đi: anh ta leo cây bưởi thấy trái mà nhớ tiếc cho hoa lúc hoa chưa kết trái; anh ta bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân leo quanh luống cà để nhìn hoa nở, thấy cánh lá biếc mà tiếc nhớ cho hoa lúc còn là búp nụ. Nhớ ti&ecir
c;́c búp nụ để rồi liền đó chàng ta bắt quàng qua tiếc cho người con gái đã có chồng. Anh ta đâu có thất tình hay lẩn thẩn ? Anh ta liên tưởng qua ẩn dụ rất hay.

Lời của người con gái "đắt gì một mớ trầu cay, sao anh chẳng hỏi những ngày còn không". Chữ ‘đắt gì’ đi với ‘một mớ’ thật tương xứng; nghe trong giọng nói còn có hơi trách móc hơn. Trong khi "ba đồng một mớ trầu cay, sao anh không hỏi những ngày còn không" nghe như câu hỏi chỉ để mà hỏi, không để tâm cho lắm. "Sao anh CHẲNG hỏi…" nghe thật là vừa như trách, vừa như tiêng tiếc hơn. Nhưng ngay sau đó, nàng lại cho biết ngay tình trạng hiện tại "bây giờ em đã có chồng, như chim vào lồng như cá cắn câu", để chàng trai khỏi phải vo ve thêm. Ý thức về tam tòng [tại gia tòng phụ: còn ở nhà theo cha, xuất giá tòng phu: lấy chồng theo chồng, phu tử tòng tử: chồng chết ở với con] của nàng trong thời phong kiến rất rõ rệt, cho nên nàng hạ tiếp theo ngay rằng "cá cắn câu biết đâu mà gỡ, chim vào lồng biết thuở nào ra" để chấm dứt ong qua bướm lại giữa hai người. Câu nàng nói "bây giờ em đã có chồng" khẳng định là nàng đã có chồng rồi vào lúc hai người gặp nhau đó. Bài ca dao không có chi tiết nào cho biết là hai người có biết nhau trước đây hay không. Dù hai người có biết nhau trước hay không thì vào thời xưa nam và nữ không được tự do làm bạn hay kết bồ với nhau như thời nay. Chỉ có hai trường hợp cho hai người trong bài ca dao trên: 1/ trước đây chàng biết nàng và yêu thầm nhớ trộm, sau đó nàng có chồng, nay có dịp gặp nhau nơi hát đối chàng bèn thổ lộ nỗi niềm tiếc của chàng với nàng. Nàng biết; nàng trách khéo cho nguôi lòng chàng, tựa như ‘sao chẳng hỏi lúc người ta chưa có chồng, bây giờ thì muộn rồi’. 2/ Chàng và nàng chưa hề biết nhau, nay gặp nhau nơi hát đối; chàng thích nàng, hỏi thăm thì biết là nàng đã có chồng; chàng bèn chờ lúc nàng ra hát mà tiếp theo ra hát lên nỗi lòng tiếc của chàng. Nàng trách khéo lại rất có duyên và khéo léo khép lại tình hình của hai người. Chừng đó mà thôi.

Hình như bài ca dao trên có khi được đặt tên là "Nụ tầm xuân". Tôi cho rằng đặt tên như vậy là thiệt thòi cho hoa bưởi vì rõ ràng là hoa bưởi và nụ tầm xuân là hai hình ảnh làm tiền đề luân khởi để dẫn nhập vào tâm sự của người nam trong bài ca dao, nay chỉ gọi là "nụ tầm xuân" thì hoa bưởi để ở đâu ? Đó là chưa nói trong tâm sự của người nữ còn có hai hình ảnh khác "cá cắn câu" và " chim vào lồng".

Bài "Muộn màng" ở trên không phải là kiệt tác trong ca dao Việt nam; bài chỉ ở mức bình thường. Tình và ý trong bài đơn giản, mộc mạc như khoai lang; vả chăng, ca dao Việt bài nào cũng mộc mạc. Ca: hát; Dao: tập tục. Ca dao: bài hát về tập tục sinh hoạt của bối cảnh nào đó trong thời gian nào đó. "Muộn màng" chỉ là dấu chỉ mang tâm sự tiếc nuối lỡ làng của người nam vào một thời xa xưa khi biết người con gái chàng thích đã có chồng; còn nàng thì khéo léo trách chàng chậm bước và duyên dáng chấm dứt chuyện chưa bắt đầu giữa hai người ở đó. Tuy nhiên, bài ca dao lại được trích đăng trong sách giáo khoa và được dạy cho nhiều thế hệ, do đó có khá nhiều người Việt của nhiều thế hệ biết. Biết với những chữ sai lệch. Có những chữ sai lệch là do bài được truyền khẩu qua lỗ tai của những người không được nhạy bén cho lắm với ngôn ngữ của thi ca. Thi ca rất lạ lùng: chỉ cần thay đổi một chữ là có thể làm giảm dung lượng ý và tình trong bài hoặc làm hỏng duyên bài thơ.

September 7, 2003

error: Content is protected !!