Văn

Nguyễn Hoàng Bảo Việt: Kẻ Sống Sót

Bài thơ K SNG SÓT và ca khúc NGƯỜI  SNG SÓT TR V ca nhc sĩ Nguyn Văn Thành

 

Nguyên Hoàng Bo Vit

 

Min Nam Vit Nam T Do Tháng Tư Đen 1975

 

(…)

Tôi vn đi trong bóng ti

Không nhìn thy

Mt con người

Đi trong mưa gió

Vi tiếng vng v t bin

Xa xôi

Tr Thiên Nam Ngãi Bình

La máu

Năm nào min Trung di tn

Gic pháo đui không nương tay

Tr khóc thiếp ôm xác m

Ch cúi xung hôn em ln cui

Bà lão lc đàn cháu m côi

Run ry hong ht

Trn cung phong

Mao-ít Lê-nin-nít

Đã thi qua quê hương

Nh bt r tình cm truyn thng

Vùi dp hoa thơm vườn văn hóa

Kéo dân tc git lùi

V thi k đồ đá

Xô triu người ra bin

Bao nhiêu đến được bến b

Trên nhng ghe thuyn mc nát

Trôi git ngoài đại dương

Quên sao được

Vit Nam đau thương ơi! (…)

(NHBV)

…………………………………………………………..

 

 

Liên Hi Nhân Quyn Vit Nam Thy Sĩ

kính chuyn đến quý bn đọc và quý din đàn

 

Ca khúc Người Sống Sót Trở Về

do nhạc sĩ Nguyễn Văn Thành, Dân Chủ Ca, phổ nhạc

từ bài thơ Kẻ Sống Sót của thi hữu Nguyên Hoàng Bảo Việt.

                                                                 

———————————————————————————– 

 

http://www.danchuca.org/128kbps/NguoiSongSotTroVe.mp3 (hi-speed)

http://www.danchuca.org/DanChuCaPhoTho.shtml
—————————————————————————————-

 

K Sng Sót

 

Đêm đã xuống

Trên đường trốn về Nam

Tìm sao để định hướng

Con chim Việt còn nhớ cành.

 

Sau lưng tôi

Bạn bè ở lại

Giữa trại tù tập trung

Nào ai biết

Dù màn sắt hay màn tre

Ngục hình của Cộng sản

Ngàn lần hơn Lao Bảo

Trăm lần hơn Côn Nôn

Luật rừng thời trung cổ

Khổ sai và tẩy não

Chung thân

Chết đói và tuyệt vọng

Muôn năm

Xích xiềng và liềm búa

Khua vang

Khua vang

Khua vang trong trí nhớ.

 

Mỗi hột cơm khô

Là một giọt máu

Anh em đã nhịn ăn

Cho tôi mang theo

Và nguyện cầu

Cho tôi được sống

Tự do

Cho tôi được hát

Tình ca

Cho tôi được viết

Bài thơ

Gởi đi thế giới

Nhân danh anh em.

 

Rùa thần nào đã nâng đỡ

Lúc tôi bơi qua Lô Giang

Sao không nghe nữa

Những tiếng hò khoan

Những mái chèo trăng

Đôi bờ im vắng

Sương khuya

Núi rừng Việt Bắc hoang vu

Bâng khuâng nhìn tôi đi

Trốn về Nam .

 

Dọc theo dòng Bến Hải

Phía bắc cầu Hiền Lương

Tôi đi lẩn khuất

Vũ An h Khanh ơi!

Giọt máu nào

Trái tim An h năm xưa

Hóa thành viên hồng ngọc

Dưới đáy nước cô đơn

Cho tôi nhìn thấy

Từ khi Cộng sản hạ sát An h

Đâu chỉ có ‘Nửa Bồ Xương Khô’

Sọ người gom lại

Cả đồi cả núi

Máu nước mắt

Như triều sông

Dâng lên

Dâng lên

Dâng lên không ngớt.

 

Tôi vẫn đi trong bóng tối

Không nhìn thấy

Một con người

Đi trong mưa gió

Với tiếng vọng về từ biển

Xa xôi

Trị Thiên Nam Ngãi Bình

Lửa máu

Năm nào miền Trung di tản

Giặc pháo đuổi không nương tay

Trẻ khóc thiếp ôm xác mẹ

Chị cúi xuống hôn em lần cuối

Bà lão lạc đàn cháu mồ côi

Run rẩy hoảng hốt

Trận cuồng phong

Mao-ít Lê-nin-nít

Đã thổi qua quê hương

Nhổ bật rễ tình cảm truyền thống

Vùi dập hoa thơm vườn văn hóa

Kéo dân tộc giật lùi

Về thời kỳ đồ đá

Xô triệu người ra biển

Bao nhiêu đến được bến bờ

Trên những ghe thuyền mục nát

Trôi giạt ngoài đại dương

Quên sau được

Việt Nam đau thương ơi!

 

Cả nước bị chiếm đóng

Máu dân tô màu cờ đảng

Rũ xuống những đồn canh

Lạng Sơn đến Cà Mau

Quân phản trắc

Rước giặc về

Bao vây Tổ quốc

Giày xéo mộ Quang Trung

Đấu tố Mẹ Âu Cơ

Theo sau quan thầy Sô-Viết

Lính đánh thuê Cuba Đông Đức

Làm nhục em gái chúng ta

Giặc tưởng Kaboul khi đến Huế

Cao nguyên Đà Lạt là rừng núi An gola

Đi nghênh ngang giữa Sài Gòn

Như lúc chúng tiến vào Prague

Lúc chúng hỏa thiêu Budapest

Lúc chúng đàn áp anh em ta

Ở Đông Bá Linh và Poznan

Bọn công an nhân dân

Làm sấm làm sét

Làm giông làm gió

Làm vua

Ở từng quận từng phường từng phố

Tôi nhìn tận mặt quân phi nghĩa

Tội ác ngàn năm cũng không quên.

 

Con nai bình nguyên

Bám sát chân tôi

Người và thú

Cùng bị săn đuổi

Từ Vàm Cỏ Đông

Nhìn về thành phố

Sài Gòn đâu đã ngủ

Tối tăm giờ giới nghiêm

Tôi đếm

Bấy nhiêu sao

Bao nhiêu ánh mắt

Bao nhiêu dòng lệ

Mưa tuôn ướt xối

U hoài

Trên những pho tượng đá

Vẫn đứng đợi

Người sống sót trở về

Từ Auschwitz hay Sibérie xa xăm

Từ Vientiane hay Phnom Penh gần gũi

Từ trại tù tập trung con tin

Trên đất nước Việt Nam tan vỡ…

 

Đằng sau những cánh cửa sổ

Khép vội trước mũi súng sát nhân

Sài Gòn đâu đã thất thủ

Thầm thì những lời ru con

Thay cho tiếng nói

Giặc đã cưỡng đoạt

Trên tháp chuông trơ vơ

Thập tự giá phô tấm lòng nhân ái

Dưới mái chùa hiu vắng

Hạnh từ bi nở ngát tòa sen

Bóng đen bầy quạ dữ

Bay vây quanh.

 

Tôi đếm

Bấy nhiêu ngọn nến

Bao nhiêu nhánh mặt trời Tự do

Sẽ mọc lại.

 

Tôi đếm

Bấy nhiêu giọt sương long lanh

Bao nhiêu chuỗi cười ròn rã

Bao nhiêu lớp người nô lệ

Sẽ đứng lên.  (1978)

                                                

Nguyên Hoàng Bảo Việt

Trích tập thơ Dấu Tích Phượng Hoàng

Bạn Văn xuất bản Paris 2008

 

Le rescapé

 

La nuit tombée

Sur le chemin fuyant vers le Sud

L’oiseau Việt fidèle à sa branche

Repère l’Astre pour s’orienter.

 

Derrière moi languissent

Au fond du goulag

Mes amis

Dans l’agonie

Et on l’ignore !

Abominables rideaux de fer ou de bambou

Dérobant à la vue les calvaires

Cent fois, mille fois pires

Que le Lao Bảo et le Poulo Condor*.

Sauvages lois du Moyen Âge

Travaux forcés à vie

Lavage de cerveau permanent

L’inanition, le désespoir, se perpétuent

Chaînes, fers, le marteau et la faucille

Grincent

Crissent

Percutent ma mémoire.

 

Chaque grain de riz séché

Dont mes frères se sont privés, pour ma provision

Compte une goutte de sang versé.

Leurs prières implorantes sont vouées à ma survie

En liberté

Afin que je puisse chanter l’Amour

Que je puisse écrire des poèmes

Et les confier au monde entier

Au nom des damnés.

 

Miraculeux concours de la Tortue d’Or*

Tout au long de ma traversée sur le Lô!

Mais pourquoi se sont tus

Les chants alternés des jeunes amoureux

Et les rames clapoteuses

Remuant aux éclats la lune diaphane?

Etrange mutisme des rives

Brume nocturne glaciale.

Angoissés

À chaque pas du fugitif

La forêt vierge et le mont chauve, désolés

Du Việt Bắc*

Attachent leurs regards affectueux.

 

Du côté nord du pont de Hiền Lương

Je longe le Bến Hải, la ligne de démarcation

Me faufilant, inaperçu.

Vũ An h Khanh

Où puis-je donc recueillir la perle de sang cristallisé

De ton cœur jadis transpercé?

Puisse ma vision être susceptible de discerner

Le rubis solitaire, sous ces eaux, enfoui!

Depuis que les communistes t’ont assassiné

Non seulement

‘Une demi-grange d’ossements secs’ *

Est décelée.

À la vérité

Les crânes ramassés s’amoncellent

En montagnes

Le sang, les larmes, ces torrents en crue

Montent

Grossissent

Débordent…

 

Je poursuis ma voie dans l’obscurité

Sans apercevoir un seul être humain

Je marque mes pas

Sous la pluie

Dans le vent

Messagers des plaintes de la mer lointaine…

Trị, Thiên, Nam, Ngãi, Bình

À feu et à sang!

Souvenirs d’horreur de l’évacuation du Centre

Hordes barbares acharnées

Artilleries lourdes délibérées

Font rage

Bombardent, ratissent, détruisent.

 

S’agrippant au cadavre de sa mère

L’enfant, égosillé, s’assoupit

La sœur, en sanglots, se baisse, effondrée

Embrasse son frère mort, une dernière fois

La grand’mère égare ses petits-enfants orphelins

Elle tremble. Elle s’affole.

La tornade ‘maoïsme-léninisme’ a traversé le pays

Elle déracine l’ultime sentiment de la tradition

Elle ravage les fleurs parfumées du jardin d’agrément

De la Culture

Elle refoule le peuple à l’âge de pierre

Elle accule au grand large million de victimes.

Combien de rescapés ont pu regagner la terre ferme?

Sur les embarcations de fortune détériorées

Surnageant à la dérive dans l’océan

Comment oublier ta détresse?

Ô Việt Nam! Ma douleur!

 

La terre natale est occupée

Le sang des innocents teint de rouge

La bannière du Parti

Qui drape les miradors, du Nord au Sud.

Les traîtres ont livré passage aux ennemis

Ils assiègent la patrie

Ils profanent la tombe de Quang Trung*

Ils dénoncent la Mère ancêtre Âu Cơ

En escorte à leur maître absolu soviétique

Les mercenaires cubains et Est allemands

Déshonorent nos sœurs.

Dans la Cité impériale*

Ils se donnent bon droit comme à Kaboul

Au beau milieu du site pittoresque de Đà Lạt

Ils se croient sur les hauts plateaux d’ An gola

Ils se pavanent au cœur de Sài Gòn

Arrogants

Comme ils ont assujetti Prague

Comme ils ont incendié Budapest

Comme ils nous ont étouffés dans le sang

À Berlin Est et à Poznan.

Le ‘KGB’ local crache la foudre

Sème l’orage

Il règne sur chacun des districts

Sur chaque arrondissement

Sur chaque quartier de la ville

En despote féodal.

 

 

Scélérat perfide, je te regarde en face

Tes crimes resteront ineffaçables à jamais!

 

Inoffensif

Le cerf de la plaine m’emboîte le pas

L’homme, comme le gibier, est pourchassé

Depuis le Vaïco oriental*, je contemple la ville morne

Sài Gòn, sans être assoupie, veille dans les ténèbres

Du couvre-feu.

Je compte

Autant de galaxies

Autant de regards fervents

Autant de flots de larmes

Pluie silencieuse et nostalgique

Ruisselant

Sur les statues et statuettes de marbre

Qui persévèrent debout

En attendant le retour du survivant.

D’Auschwitz ou de la Sibérie lointains

De Vientiane ou de Phnom Penh voisins

Du camp de concentration des otages

Au sein d’un Việt Nam disloqué !

 

Derrière les volets furtivement rabattus

Face aux bouches à feu criminelles

Sài Gòn, insoumise, ne cède pas à la reddition.

D’éternels chuchotements inspirateurs des berceuses

Remplacent la parole confisquée.

Au-dessus du clocher isolé

La Croix ouvre son cœur pour l’Amour du prochain

Sous le toit du temple désert

La Miséricorde épanouie embaume le Lotus sacré

De tous côtés, planent

Les spectres des grands corbeaux

Voraces.

 

Je compte

Autant de bougies allumées

Autant de rameaux lumineux

Couronnant l’Astre de la Liberté

Resplendiront…

 

Je compte

Autant de gouttelettes de rosée étincelantes

Autant de chapelets de rires cristallins

Autant de damnés de la tyrannie

Se lèveront. (1978)

 

Nguyên Hoàng Bảo Việt

extrait du Recueil de Poèmes  Dấu Tích Phượng Hoàng

 version française par Mme Hoàng Nguyên

 publiée dans le Recueil de Poèmes L’Empreinte du Phénix

 Editions BẠN VĂN Paris 2008 

 

*

Lao Bảo, Poulo Condor: pénitenciers.

– Tortue d’Or: la Tortue légendaire, protectrice du pays.

– Việt Bắc : région montagneuse du Nord Việt Nam.

– Une demi-grange d’ossements secs: titre d’un livre écrit par Vũ An h Khanh, écrivain et poète. Après les Accords de Genève, l’auteur tenta de fuir le Nord Việt Nam. En traversant la rivière Bến Hải, ligne de démarcation, il fut abattu par les gardes communistes.

– Quang Trung: nom de règne de Nguyễn Huệ (1788-1792)

jeune souverain des Tây Sơn, vainqueur des envahisseurs manchous.

– Cité impériale: Huế, capitale du Centre Việt Nam.

– Vaïco oriental: la rivière Vàm Cỏ Đông.

error: Content is protected !!