Ngựa Vực hồn thơ (Xướng Hoạ 2). Tác Giả : Diệu Tần – Đỗ Quí Bái – Băng Đình – Ngô Đình Chương
Ngựa Vực Hồn Thơ
Diệu Tần họa
Chuyển dịch tuần hoàn năm con ngựa
Bóng câu Nguyễn Huệ bụi tung trời
Nửa thế kỷ qua, chồn bốn vó
Tư bản, vô sản ai thắng ai?
Thanh niên háu đá năm năm bốn
Ngựa nhỏ quật đuôi nhập cuộc đời
Cõi thế trông chừng như bỡn cợt
Nước đại chỉ phi có một hồi
Chàng trai từ giã mùa thu chớm
Thăng Long rồng vẫn bặt tăm hơi
Sông Hồng nước đỏ như pha máu
Trấn Quốc mù sương, mây ngừng trôi
Tam Đảo Ba Vì thôi thấy bóng
Hiệp định kỳ khôi nước xé đôi
Ruộng đồng Cải Cách xương phơi trắng
Cầu sương Bến Hải đứng chơi vơi
Quê hương bỗng chốc chia hai nửa
Tàu ngựa ở đâu? khóc lỡ cười
Động viên trai trẻ vào Thủ Đức
Nắng chói miền Nam nắng dõi soi
Xếp bút nghiên tập làm chiến sĩ
Bãi bắn lung linh, đạn ròn trời
Giờ đây móng ngựa băm nước kiệu
Một hai đếm mãi nhịp quân hành
Kỷ luật quân trường như sắt thép
Đâu còn thơ phú lửng lơ mây!
Tang bồng hồ thỉ theo một hướng
Một chuyến di cư nhớ cả đời
Đừng mong ngắm suối bên lưng ngựa
Thơ viết làm sao nổi dặm dài?
Bến Hải Cà Mau biên cương khép
Gió Lào hầm hập loang máu ai
Mưa tuôn như thác trên sườn đá
Hiếm ánh trăng vàng để mộng mơ
Chớp tắt hỏa châu, đâu hồ điệp?
Ngựa hồng hí mãi đã mòn hơi
Vào năm Sáu Sáu, năm ác chiến
Khăn trắng trên đầu khắp nơi nơi
Khóc con tử trận, cha bạc tóc
Thương rể đầu xanh, mẹ thở dài
Mải trách người, sao ta không trách
Nhũng nhiễu bọn tham vớ món hời
Miền Trung lửa đỏ mây Quảng Trị
Cửu Long dậy sóng bóng ma trơi
Ba năm sau nữa, bầy tân chủ
Oán thán dâng lên đến tận trời
Tuấn mã bỗng đâu thành tẩu mã
Bằng không da ngựa cũng bọc thây
Đổi đời cóc nhái lên lãnh đạo
Bắt hết nhà văn, đốt sách thơ
Ngựa già Bảy Tám lê chân chạy
Lăng xăng lũ khỉ nhảy lên ngôi
Mâm son bát sứ thôi vô ích
Mảnh chĩnh bờ tre chễm chệ ngồi
Xua dân đi lập Kinh Tế Mới
Tiện việc đảng ta cướp giật nhà
Tham nhũng gấp trăm lần thời trước
Đại thắng mùa xuân chúng ba hoa
Tướng lãnh mất còn, ai nổi dậy?
Người chết theo thành, kẻ trốn xa
Chúng dẻo miệng cười tình huynh đệ
Nhưng gọi anh em kẻ ngụy tà
Lấy được đồng tiền, moi được bạc
Chúng nói: Thương sao khúc ruột xa!
Vượt biển trăm ngàn trôi mất xác
Kẻ thoát, ngùi trông mãi ánh tà
Cha anh lớp lớp tù lao cải
Chợ trời em, mẹ chạy long đong
Lớp ba chỉ đạo ông đại học
Chúng lùi nước lại cả trăm năm
Lũ ngợm trong bưng làm kinh tế
Cán bộ ngu đần đặc cán mai
Cành Nam chỉ đậu loài chim Việt
Tìm mãi Tết xưa ở nước người
Năm ngọ Chín Mươi cuồng vó ngựa
Đường về xa lắc hỏi cùng ai
Lối mòn rêu phủ che móng sắt
Phai tàn mấy độ những gốc mai
Sẽ có ngày hờn căm rực lửa
Oán than như bom nổ ngang trời
Tài nguyên đất nước ngày khánh tận
Chủ nghĩa công nhân: bóc lột người
Quan chức nhỏ to đua nhau vét
Bỏ tù linh mục chẳng hổ ngươi
Đĩ điếm luông tuồng tràn đầu phố
Sẽ đứng vùng lên diệt giặc thù
Ta vượt đại dương đòi lại nước
Thuận lòng dân, cố tránh xương phơi
Tươi lên ánh mắt bao sương phụ
Về kiếm mồ xưa khóc lẫn cười
Tuấn mã hồi hương thiên kỷ mớ
iMở ra trang sử rất thắm tươi
Bao giờ ngựa chiến rung bờm hí
Bỏ hết yên cương, uống rượu mời
Hồng lên đôi má cô thiếu nữ
Điểm giọt mưa Xuân hoa cúc tươi
Đất trời ta đó, thanh bình cũ
Mắt biếc môi son nở nụ cười
Ngưa vực hồn thơ bùng gió nổi
Chim ca đàn sáo trổi chơi vơi
Con về sắm sửa xe tứ mã
Đưa mẹ đi thăm khắp núi đồi
Diệu Tần
Họ tên: Nguyễn Tinh Vệ. Bút hiệu trước năm 75: Tinh Vệ. Sinh năm 1932, Nhâm Thân tại Mạo Khê, Đông Triều, Hải Dương.
Nghề nghiệp: Giảng dạy tại Viện Ngôn Ngữ Bộ Quốc Phòng Mỹ, Monterey.
Tác phẩm: Trên Bờ Kinh An Hạ, 1988; Cơn Mưa Đầu Mùa, 1990; Hoa Đào Năm Ngoái, 1996; Tập Truyện Ngắn; Kéo Da Non, 1994, Truyện Dài. Tác phẩm sẽ in: Xứ Người, tập truyệ; Hoa Xuân Lại Nở, thơ; Câu Chuyện Chữ Viết Và Tiếng Nói, ngôn ngữ; Giới Thiệu Và Nhận Xét Văn Thơ, nhận xét.
Giải Thưởng Văn Học: Giải Nhất Thoại Kịch Văn Nghệ Quân Đội, Vở Kịch Bão Loạn, 1967; Giải Nhất Thoại Kịch Văn Chương Toàn Quốc, Vở Kịch Cơn Lốc, 1966-1969.
BÀI HỊCH HƯNG QUÔC
ĐQB họa Ngựa Vực Hồn Thơ
Thiên Mã Hành không, ta tự tại
Tung bờm, múa vó, hý vang trời
Thênh thang đồi núi vui rong ruổi,
Cương dàm không vướng sợ chi ai?
Sáu mươi năm chẵn tròn hoa giáp
Ngựa đã trải bao cuộc đổi đời
Năm Năm mươi bốn, mười hai (12) tuổi,
Lìa bỏ Long Thành số mạng thôi!
Từ đó nổi trôi theo vận nươc,
Quản chi lội suối với leo đồi?
Rừng thiêng,nước độc từng lưu gót.
Tháng ngày vô vị lạnh lùng trôi
Chẳng được dâng đời công hãn mã!
Cùng nhau soay chuyển lại cơ trời.
Bạn chung hoài vọng tìm chưa gập
Hùng tâm tráng trí thủa nào vơi?
Tuấn mã vui chân ngàn dặm thẳng
Chẳng chịu nhập theo bọn ngợm người
Sáu sáu (66) tung mây rời nước cũ
Quê ai vò võ bóng trăng soi.
Vó Kỳ vó Ký vương hoài bão
Đành bỏ quê cha một góc trời!
Để ráng rèn văn và luyện võ
Sẵn sàng nếm mật vơi nằm gai.
Sáu tám (68) miền Nam tràn khói lửa
Hoa kỳ bó cẳng uổng tài trai
Đã mộng thoát ly danh với lợi
Vẫn chẳng làm sao chút gánh đời
Đành phải vì đời ra sức ngựa :
Gẫm xem Việt sử khắp chiều dài
Bốn nghìn (4.000) năm lẻ Ôi oanh liệt!
Theo chân Lộc Tục vượt non đồi
Đã bao Trưng Trắc. bao Thường Kiệt
Thù nhà nợ nước chẳng buông rơi
Ngước nhìn tổ quốc lòng không thẹn
Dãi mật phơi gan với đất trời
Thanh sử lừng danh bao tuấn kiệt
Xả thân vì nước khắp nơi nơi
Bao Trần Quốc Toản,Trần Quang Khải
Chung lưng đấu cật lại kề vai….
Huyền Trân, thân gái vì dân tộc
Mấy năm vò võ nước non Hời?
Trai hùng gái đảm nào đâu thiếu?
Lòng trung với nước chẳng hề vơi?
Gẫm lại giận cho Trần Ích Tắc
Đầu Mông chẳng nghĩ đến ngày mai.
Hỡi ơi con cháu Hùng Vương cả
Tại sao trung nịnh lại chia hai?
Không noi truyền thông Diên Hồng nữa?
Mà nguồn chia rẽ cứ đem khơi
Chỉ vì danh lợi mà quên hết
Giết cả anh em tính đoạt ngôi
Thỏ chết hồ kia còn bi lụy
Nghĩ lại thẹn cho cái thứ người!
Gục mặt cố quên điều quốc sỉ
Buồn chưa giòng giống Lạc Long ơi!
Có ai tự ngắm mình rồi để
Thẹn với hồn thiêng giữa núi đồi?
Đồng bào mặc kệ cho nheo nhóc,
Mặc cho sương trắng ruộng đồng phơi
Chỉ cốt leo lên ngôi chúa tể
Tranh với trời trăng vẻ rạng ngời.
Luồn cúi lân bang không biết nhục
Chao ôi uổng phí cả thân trai!
Sót kẻ nóng lòng vì đại cuộc
Còn đang luân lạc chín phương trời.
Đêm đêm mài kiếm nhìn trăng lạnh
Rồi cúi đầu buông tiếng thơ dài
Đồ điếu găp thời lên cũng dễ
Anh hùng vận bĩ hận lòng khơi
Họa hoằn đồng chí xưa cùng gập
Tinh thần chiến đấu chửa mờ phai
Ngựa đã sẵn lòng lo bảo trợ
Giúp nhau đùm bọc tỏ tình người
Những người lỡ vận xa non nước
Mà tấc lòng thành biết gửi ai?
Ngựa từng thao thức ngàn đêm trắng,
Mưu đồ xây dựng lại ngày mai
Ngày mai ai biết rồi sao nhỉ ?
Biết hỏi ai đây hỡi đất trời?
Bôn ba tưởng đã mòn chân ngựa
Vẫn kiếm chưa ra được một người
Xứng được Long câu theo trợ tá
Cho dân tin tưởng khắp nơi nơi,
Thưc tâm thực chí lo dân nước
Hùng tâm tráng tri chẳng buông.trôi
Qui tụ toàn dân về một khối
Sẵn sàng sướng trắng máu đào phơi
Dành lại nhân quyền cho giống Lạc
Tô điểm giang sơn dựng lại đời
Như thủa Quang Trung bình giặc Mãn
Cho Thiên niên kỷ không không hai (002)
Năm nay Nhâm Ngọ, năm con ngựa
Quân Tửu Hụê Thu đặt sẵn rồi
Nào những bậc ưu thời mẫn thế!
Xin ngừng giây lát đón xuân tươi
Rồi sẽ lên yên tung vó ngựa
Nụ cười ngạo nghễ nở trên môi
Sá chi thành bại – trò dâu biển –
Ngựa vực hồn thơ đã tới nơi
Lưng ngựa thảo ngay HƯNG QUỐC HỊCH
Ngâm vang sông núi đến muôn đời
Lạc Thủy Đỗ Quý Bái
Ngựa Vực Hồn Thơ
Ngựa Hý
Băng Đình
Huynh trưởng, bạn hiền Nguyễn Đình Tạo (Quận Tạo, Thợ Tạo) chuyên trị thơ dài, bắt anh em nối điêu. Kỳ này muốn nhưng không nói ra. Lại khích: “Đọc chơi thôi đừng mang họa”. Bèn chấp bút Ngựa Hý, đủ 102 câu, 51 vần. Nhưng trang tặng Lão Huynh Hà Thượng Nhân và Tiểu Muội Huệ Thu.
BĐ
Thợ Tạo! chơi trò chơi khích tướng
Biết nhau đang khản cổ kêu trời
Vợ mang bạo bệnh ung thư máu
Bè bạn cơ hồ được mấy ai
Ngựa Vực Hồn Thơ ba bốn đoạn
Dài hay ngắn cũng thẩy cho đời
Truyền tay nhau… “ý đừng mang họa
Tháng tận năm cùng chỉ đọc thôi”
Ta vốn như cây chờ gió thoảng
Là ru với gió hát xanh đồi
Người sẵn tiền còm chi ấn tống
Ta dư lá héo thả dòng trôi
Chẳng ra biển cũng qua ghềnh thác
Cũng đỏ phù sa thắm mặt trời
Liệm giấc sầu miên vùi đáy cát
Thủy triều hôm sớm nhịp đầy vơi
Thơ phai lá mục bờ năm tháng
Trơ lại từng trang người khóc người
Sinh thủa Thực dân còn thịnh trị
Lớn khôn hùng sử Lạc Hồng soi
Lũy tre giam giấc hồ bay nhảy
Đáy giếng trông lên một mẩu trời
Chính sách ngu dân cùng khổ hóa
Roi đòn thống trị rít ghê gai
Phu phen nguồn nhựa cao xu máu
Tân Thế Giới đành bán tuổi trai
Cơm áo kéo còng lưng thẳng xuống
Mồ hôi nước mắt nhỏ quanh đời
Đông Du đắp đổi Duy Tân mộng
Gánh nặng chiều buông tiếng thở dài
Tâm sự não nề trang Quốc Sĩ
Biên cương Hoa Việt núi qua đồi
Bánh xe khứ quốc còn ghi dấu
Giọt lệ anh hùng lã chã rơi
Năm tháng mỏi mòn năm tháng lụn
Việt Nam với giặc khó chung trời
Ngày tang Yên Bái đầu rơi xuống
Oan khốc tràn lan khắp mọi nơi
Hoa Tự Do thơm nguồn máu thắm
Việt Nam Thế Giới đứng kề vai
Giặc thêm sức mạnh nhờ dê chó
Bán đứng quê hương ngỡ giá hời
Huyết hãn dân ta tài sản giặc
Núi chừng cao và biển chừng vơi
Nhắm khi cả nước cùng khao khát
Độc lập huy hoàng ánh nắng mai
Quốc Sĩ lệ thầm rơi lỗi hẹn
Càng đau trót lỡ một lầm hai
Nội thù giấu mặt loài lang sói
Dựng đứng thù vơ oán chạ khơi
Giai cấp đấu tranh trò ngoại nhập
Giặc Hồ nước trước đoạt tranh ngôi
Đồng Chinh Duẩn Giáp chia văn võ
Nấu thịt nồi da quỷ mặt người
Tháng Tám Mùa Thu tàn thế chiến
Đôi bờ khởi sự Việt Nam ơi
Năm mươi năm lẽ đời chia hướng
Hai sắc cờ tranh một ngọn đồi
Hương khói đền Hùng thêm lạnh lẽo
Bia tàn cây cỗi máu xương phơi
Năm Tư một lát dao oan nghiệt
Đuốc lửa Miền Nam bỗng tỏ ngời
Nửa nước chìm sâu làn nước Đỏ
Dặm nghìn da ngựa chí làm trai
Ta đi theo tiếng ngàn xưa gọi
Dành lại quê hương giữ đất trời
Viết tiếp Bốn Ngàn Năm Lịch Sử
Núi hoa sông gấm hẹn lâu dài
Gần xa bè bạn Đồng Minh góp
Quân Viện Kinh Thương tựa sóng khơi
Văn Hóa đổi trao nguồn kiến thức
Tình người bốn biển há phôi phai
Cờ Vàng phất phới Đông Nam Á
Nước Việt đâu thua kém nước người
Thế cuộc nào ngờ cơn mạt vận
Bạn thù thù bạn những ai ai
Dòng chưa sang đã trò thay ngựa
Bóng tối lan tràn phủ ánh mai
Phản tướng kên kên gào sát chủ
Bạch Cung tín hiệu lóe xanh trời
Việt Nam hái trọn mùa bom đạn
Cho trống muôn kho lẫm xứ người
Phản Chiến Phản Thùng thân tốt thí
Múa tay trong bị giặc nhiều nơi
Nga Hoa mở túi vô điều kiện
Miễn cả Đông Dương Cộng nuốt trôi
Thái Mã thông đường ra biển lớn
Úc Châu Ấn Độ Búa Liềm phơi
Ký Sinh Dơ cậy tài thoi dệt
Tấm thảm đen cho những cuộc đời
Hòa ước chi đâu hàng ước đó
Hận này duy có một không hai
Đoàn quân bách chiến đành tay trói
Súng gẫy lê chân ngục lạnh mời
Sao Chổi Cờ Hồng Nam chí Bắc
Hoa mùa Xuân cũng lạt màu tươi
Ta đi nào biết về đâu nhỉ
Giọt lệ oan khiên ướt khóe môi
Cố quốc vời trông mây ngút trắng
Tâm tình vương khắp chốn ngàn nơi
Dẫu ta thua trận nào thua cuộc
Còn sẵn sàng đây những mảnh đời
Băng Đình
Giáng Sinh 2001
Băng Đình
– Tuổi Giáp Tuất, quê Thái Bình.
– Giấy tờ hộ tịch: Vũ Băng Đình, 1935, Hưng Yên.
– Bút hiệu: Băng Đình, Thái Bình…
– Học lực: Đệ Nhị (11) Sinh Ngữ Chu Văn An, Hà Nội
– Chuyên môn: Đạo diễn Truyền Hình Điện Ảnh.
– Tỵ Nạn Cộng Sản:
* Từ 1950 tại Hưng Yên, Hà Nội Sàigòn.
* Từ 1990 tại Mỹ, diện Thuyền Nhân.
– Xuất thân: Khóa 6 Cộng Hòa, SVSQ Trừ Bị Thủ Đức, 18-2-1957.
– (Tình nguyện nhập ngũ, cải ngạch Hiện Dịch)
– Tướng Mạo Quân Vụ:
* Bộ Binh: Đại Đội TRưởng ĐĐ 1, Tiểu Đoàn 3/12,
Trung Đoàn 12 Bộ Binh, Sư Đoàn 4 Dã Chiến. (Tiền thân SĐ 7 BB)
* Chiến Tranh Tâm Lý:
Đại Đội Trưởng Đại Đội 102 Chiến Tranh Chính Trị. Tăng phái Biệt Khu Quảng Đà.
Đạo Diễn Truyền Hình Điện Ảnh.
* Biệt Phái Ngoại Ngạch:
Công Cán Ủy Viên tại Văn Phòng Bí Thư Tổng Thống, đặc trách Nha Báo Chí kiêm Trưởng Phái Đoàn Báo Chí Phủ Tổng Thống. (Đệ Nhị Cộng Hòa)
Quản Đốc Trung Tâm Quốc Gia Điện Ảnh kiêm Chánh Sự Vụ Sở Thời Vụ THVN.
– Chức Vụ cao nhất trong Quân Đội: Sĩ Quan Trực Tiểu Đoàn.
– Cộng Tác: Báo Chí, Phát Thanh Quân Đội, Dân Sự trước 1975 tại Sàigòn. Từ 1990, Văn Nghệ Tiền Phong và Thế Giới Ngày Nay tại Mỹ
Ngựa Vực Hồn Thơ
Nguyên Hà
Chắp bút đề thơ trang chiến mã
Vó câu rong ruổi bốn phương trời
Rung bờm hý lộng nơi biên địa
Khắp chốn tung hoành những mấy ai?
Bản chất thẳng thừng như ruột ngựa
Chung lưng góp sức giúp xây đời
Kìa bao trang sử còn lưu dấu
Đất Việt ngàn đời vẫn thế thôi
Ngày xửa ngày xưa quân rợ Bắc
Giặc Ân cướp bóc, phá nương đồi
Xóm làng tan nát dân cùng khổ
Khói lửa điêu tàn, vận nổi trôi
Tiếng vọng loa truyền vang khắp chốn
Có người tài đức cuối chân trời
Một thanh kiếm bạc ra ngăn giặc
Ngựa sắt phun tràn lửa chẳng vơi
Đốt cháy giặc Ân quân cướp nước
Lấp bao thảm họa cứu muôn người
Thiên Vương ngựa sắt làng Phù Đổng
Vó ngựa Sóc Sơn ánh rạng soi
Nước Việt từ đây yên bóng giặc
Sử xanh tỏ rạng giữa lưng trời
Nét son tô đậm trang hào kiệt
Vó ngựa tung hoành giẫm sạch gai
Chiến mã Quang Trung mờ cát bụi
Bình Nam, phạt Bắc thỏa tài trai
Đống Đa chứng tích oai hùng sử
Vạn nấm mồ Thanh để tiếng đời
Đất Việt ngàn năm dân Lạc Việt
Giang sơn gấm vóc núi sông dài
Ngựa Hồ phương Bắc quên nguồn cội
Chim Việt trời Nam nhớ núi đồi
Vạn dặm trường đồ tri mã lực
Nào ai đếm được tiếng mưa rơi
Nhứt ngôn ký xuất lời quân tử
Tứ mã nan truy dẫu cuối trời
Ngựa đá, tuyên dương công tướng sĩ
Bạch Đằng, Hưng Đạo rạng ngàn nơi
Giặc Nguyên phơi xác, dòng sông đỏ
Áo nhuộm máu thù, vai sát vai
Chiến thắng hò reo vui sóng vỗ
Thanh bình mẹ cất tiếng ru hời…
Ngàn năm Bắc thuộc gông xiềng xích
Dân Việt muôn đời hận khó vơi
Mã đáo thành công, câu chúc Tết
Mừng Xuân Nhâm Ngọ, cúc, đào, mai
Tình Trung Nam Bắc, ba nhưng một
Giòng giống Lạc Hồng nỡ xé hai
Hổ thẹn núi sông, sầu cách biệt
Tuôn tràn sóng dậy mịt mù khơi
Ngựa xe pháo dập tàn binh lửa
Hận lũ vô thần, Khỉ đoạt ngôi
Vận nước suy tàn, Thiên Lý Mã
Nhớ xưa ngàn dậm, trách chi người
Thói đời đen bạc, trò dâu bể
Non nước mịt mờ, non nước ơi!
Vó rũ tà huy thân chiến bại
Âm vang ngựa hí phía sau đồi
Nhịp tim bừng dậy trời quang rạng
Khúc hát thanh bình nắng đẹp phơi
Da ngựa bọc thây nơi chiến địa
Tang bồng hồ thỉ ánh trăng ngời…
Người đi trả nợ tình sông núi
Non nước mong chờ cậy sức trai
Tuấn mã oai hùng rung chuyển mạch
Tiếng vang phục quốc thấu tai trời
Cờ vàng phất phới reo hồn nước
Dứt tiếng kêu than, tiếng thở dài
Hồi tưởng lẫy lừng trang chiến mã
Truy phong Xích Thố vạn trùng khơi
Một đao, một ngựa xông trăm trận
Lẫm liệt Vân Trường chẳng lợt phai
Mượn chốn Đào Viên thề kết nghĩa
Ngời trang tình sử ấy bao người
Đồng sanh, đồng tử vinh chung hưởng
Hoạn nạn cùng chia dễ mấy ai?
Bách mã tề phi, tranh khéo họa
Một rừng chiến mã hẹn ngày mai
Ngựa bay về tổ trời Nam Việt
Dựng lại non sông giữa đất trời
Sự nghiệp ngàn năm dân Lạc Việt
Dày công xây đắp rang danh Người
Vua Hùng một cõi trời Nam Bắc
Đất rợp bóng cờ khắp vạn nơi
Trưng Triệu lừng danh trang nữ kiệt
Giữa dòng sông Hát cánh hoa trôi
Cột đồng Đông Hán còn lưu dấu
Đinh, Lý, Lê, Trần tấm sử phơi
Tấm sử phơi bầy bao thế hệ
Quang Trung, Lê Lợi tiếng muôn đời
Ngô Quyên, Hưng Đạo ngăn xâm lược
Sóng dậy Bạch Đằng trận thứ hai
Vỡ mộng xâm lăng phường rợ Bắc
Cờ reo chiến thắng, rượu vui mời
Thanh bình khúc hát say tình nước
Nhạc ngựa lưng trời đẹp thắm tươi
Gió mới hương dâng tràn khắp lối
Nắng hồng rực rỡ ấm làn môi
Mẹ già tóc điểm sương, ngồi đợi
Chiến mã reo hò khắp vạn nơi
Mã đáo công thành. Nơi cố quận
Tình chàng, ý thiếp ngát hương đời
Tampa, đầu Xuân Nhâm Ngọ
Nguyên Hà
KHAI BÚT ĐẦU NĂM NGỰA (2014)
Ngựa Hồ, ngựa Hồ, lũ Hồ ngựa
Vó câu tàn phá rền đất trời
Ngựa không ăn cỏ, ăn xương máu
Lồng lộn, điên cuồng chẳng kể ai
Sáu mươi năm trước từ phương Bắc
Bồng bế, thiên cư, cuộc đổi đời
Nơi đó con người không thể nói
Chỉ là những máy móc mà thôi
Nơi con sông lớn loang màu đỏ
Thấm độc bình nguyên đến núi đồi
Thì cũng như ai ta bỏ cuộc
Mặc tình sóng nước cứ buông trôi
Dừng bến Nam phương làm lữ khách
Đánh cuộc hơn thua với lão trời
Cũng lắm vui buồn nơi xứ lạ
Nhớ về quê cũ cũng đầy vơi
Rủ đám bạn bè chơi chữ nghĩa
Ta thử đem chuông đấm xứ người
Lửa binh ta lẽ nào quên được
Nỗi lòng chứng giám có trăng soi
Ta học làm chim cho thỏa chí
Gầm lên bay bổng bốn phương trời
Đưa những Kinh Kha đầy dũng khí
Vào vùng đất ngựa thật chông gai
Tưởng một lần đi không trở lại
May mà còn được nửa thân trai
Ta về học cách săn bắt ngựa
Dẹp tan Hồ ngựa ở trên đời
Khắp nẻo thôn quê, nơi hẻo lánh
Muối cơm rừng thẳm, ngủ ven đồi
Những đêm đại bác rền giấc ngủ
Thêm lần ta hứng mảnh bom rơi
“Sự bất quá tam” câu xưa ấy
Chẳng biết gì hơn phận gửi trời
Vẫn mang hùng khí lùng bắt ngựa
Nhốt từng chuồng ngựa ở nhiều nơi
Ai biết ai hay đời lữ khách
Nợ nần gánh vác nặng đôi vai
Niềm vui gặp gỡ dân sơn cước
Hay líu lo bên cạnh giếng Hời
Hồ ngựa nảy sôi như bọ nhặng
Giải trừ tai ách chẳng sao vơi
Nhiều đêm bóp trán nằm thao thức
Có còn ngang dọc được ngày mai
Sức người thật khó hơn thiên mạng
Xương máu, công thành chỉ một hai
Rời lại đổi đời trong hỗn loạn
Vật vờ mê tỉnh giữa trùng khơi
Mấy chục triệu người mất chỗ đứng
Ngựa Hồ phút chốc bỗng lên ngôi
Nay bầy quái vật không còn hí
Xí xố bên nhau tập tiếng người
Ta biết kêu ai cho đã giận
Đấm lồng ngực nặng tại ta ơi
Bên nửa địa cầu trôi dạt đến
Phố đây ta điếng lặng trên đồi
Quãng đời quá khứ mong chôn chặt
Mang nửa hồn đau trải nắng phơi
Để làm sống lại con tim Việt
Phải bước hiên ngang phải rạng ngời
Giữa lúc bên nhà đang chuyển biến
Ta còn nghĩa vụ một người trai
Thêm lần ta nổi cơn cuồng vọng
Lại ván hơn thua với lão trời
Gởi câu Nguyễn Trãi khắp bè bạn
Nối kết anh em tính chuyện dài
Nhưng rồi cơm áo nơi đất lạ
Tinh thần năm cũ khó mà khơi
Đả đảo, hoan hô cho đỡ mặt
Thu về, đông đến mộng tàn phai
Đặng Dung mài kiếm xưa tóc bạc
Ta mỏi chân, thôi nhận xứ người
Làm chốn an cư phần sót lại
Cho rồi thân phận cõi trần ai
Mong sao quê mẹ yên Hồ ngựa
Mọi người đứng dậy để nay mai
Anh hùng phải tạo nên thời thế
Chẳng quỉ thần chi, chẳng mệnh trời
Ngựa Hồ phải cúi đầu dân Việt
Yêu quái làm sao mãi trị người
Nhớ lấy Hoàng Sa mà phục hận
Trải hờn Bản Giốc để nơi nơi
Mấy chút đỏ xanh tô vẽ ấy
Cơm thừa bóp họng khó mà trôi
Ngựa Hồ hút máu căng da thịt
Tội đồ thiên cổ đủ bày phơi
Ta ở bên đây chim gãy cánh
Nhỏ miệng ai nghe lão cuối đời
Miến Điện lân bang nhờ đã có
Nữ kiệt đức tài khó thấy hai
Bài học nằm lòng cho tiểu quốc
Gấu, ưng, rồng, quạ, chớ nên mời
Đầu năm ta chợt niềm tin mới
Nước Việt Nam rồi sẽ đẹp tươi
Lếu láo đôi câu thơ tống cựu
Nghinh tân bao chén chửa mềm môi
Ước nguyện ngựa Hồ thành ngựa chiến
Nếu không chúng sẽ chẳng còn nơi
Đồ tể đao kia nên bỏ xuống
Nhớ câu nhân quả để tu đời
Riêng ta tạ lỗi cùng sông núi
Mang tiếng làm trai đứng chật trời
Ngô Đình Chương
Mồng Một năm Giáp Ngọ (2014)
Giáp Ngọ, Một Vòng Hoa Giáp
Bóng ngựa năm tư nay lại đến
Sáu mươi năm mòn mỏi chân phi
Bốn vùng chiến thuật đều in dấu
Suốt giải Trường Sơn vó cũng ghi
Bốn mũi tên bay về bốn hướng
Tang bồng hồ thỉ chí nam nhi
Hồ Gươm một thuở chim tung cánh
Đà Lạt tang bồng cất bước đi
Năm cánh hoa mai Xuân đất nước
Một thời tao loạn tuổi xuân thì
Năm nay ngựa lại về chờ chủ
Ngửa mặt rung bờm đoán thịnh suy
Rập vó ào ào tung gió bụi
Mắt ngời hun hút ánh tà huy
Yên cương còn vướng mùi sương khói
Chinh chiến ngày qua động bốn bề
Dấu đạn còn ghi trên áo trận
Máu thù vẫn đọng giữa hàng khuy
Ngàn xưa sao tưởng ngày nay nhỉ
Cứ tưởng rằng xa, chợt hiện về
Sáu chục năm dài thu gọn lại
Nỗi buồn nỗi hận khó qua đi
Năm nay bóng ngựa về đây lại
Dăm vết thù hoang lưng vẫn ghi
Hùng dũng cang cường cao tiếng hí
Đường dài muôn dặm vó cuồng phi
Ngựa ta vẽ lại đường biên trấn
Vạch một đường gươm vẹn tiếng thề
Đông Anh
Giáp Ngọ 2014
Kính chúc Vạn Sự Bình An
Áo Dài và Hoa Hậu
Viết tặng những công sức bỏ ra làm đẹp cuộc đời…
Những nàng thiếu nữ áo dài hoa hậu
ĐA
Em yểu điệu như nhánh mai cành trúc
Làn tóc mềm buông phủ kín bờ vai
Tà áo dài bay bay trong gió cuốn
Lượn theo thân và quấn quit gót hài
Áo vàng tươi phất phơ cười với nắng
Rộn rã ban mai mát phố Sài Gòn
Đường Cổ Ngư áo dài nhung đỏ thắm
Lóng lánh trên vai mấy giọt mưa phùn
Bảy màu áo cho một tuần thương nhớ
Trắng, xanh lam đon đả tuổi học trò
Tím, Sen, Vàng cuối tuần quên sách vở
Màu hồng riêng cho những buổi hẹn hò
Em về đây từ bốn phương, tám hướng
Tấm thân ngà đưa tà áo tung bay
Muôn màu sắc rộn ràng phô cánh bướm
Mang nguồn vui, sắc đẹp đến nơi này
Em biết không, áo dài em đang mặc
Đem quê hương tô điểm bốn phương trời
Cho sống lại những chuỗi ngày đi học
Đang tô hồng cho tuổi ngọc tương lai
Cám ơn em những vạt tình khép mở
Khi tung bay, gió dào dạt vô cùng
Khi khép lại cả trời xanh huyền bí
Ôi não nùng mê hoặc đến thinh không…
Đông Anh