-
THANKSGIVING – THỔ DÂN MỸ (ThaiLan dịch)
-
Hạnh Phúc Với Tuổi Hạc
3 đoạn dịch của ThaiLan
JÓN KALMAN STEFÁNSSON – TLdich
Những bài dịch, nếu xét về phương diện tầm quan trọng mà chúng mang đến thì thật là khó phân tích.
Chúng làm cho mảng kiến thức của ta được nhân lên rất nhiều, cũng như khiến ta trưởng thành hơn, vì ta sẽ hiểu về thế giới nhiều hơn, cũng như hiểu chính bản thân mình sâu sắc hơn.
Một quốc gia có rất ít kiến thức được dịch từ ngôn ngữ khác và hạn chế sự tìm kiếm, chỉ đào sâu kiến thức phong phú của ngôn ngữ trong những suy nghĩ của chính họ, sẽ có trí tuệ rất hạn hẹp, và nếu có nhiều đất nước như thế, sẽ trở nên mối nguy nan cho các quốc gia khác, bởi vì có vô số kiến thức cần thiết sẽ trở nên xa lạ với họ, vượt ra khỏi thực lực và tập quán đặc thù của họ.
Những tài liệu được dịch sẽ mở rộng tầm nhận thức của con người và của thế giới cũng lúc. Chúng sẽ giúp bạn hiểu thêm về những dân tộc xa xôi.
Con người sẽ bớt nghiêng về sự thù hận, hoặc nỗi lo sợ nếu như họ hiểu được người khác.
Sự thông cảm có khả năng cứu vãn con người khỏi những khó khăn của chính họ.
Nếu như bạn hiểu biết về kẻ thù thì các tướng lãnh rất khó để đốc thúc bạn đang là lính của họ phải chém giết phe bên kia-
Bạn hãy nghe đây, hận thù và thành kiến chỉ là thành quả của nỗi kinh sợ và sự thiếu hiểu biết – bạn có thể ghi nhớ cho rõ, bạn nhé –
JÓN KALMAN STEFÁNSSON
NGỢI CA TUỔI HẠC – JEAN PIERRE SIMÉON – TLdich
Tôi yêu làm sao những vị cao niên ngồi sưởi nắng bên khung cửa sổ
Vui thích nhìn đám mây lơ lửng trên cao
Lúc vào Đông, ánh nắng phớt nhẹ lẫn vào từng con đường, bước thấp bước cao.
Tôi yêu làm sao
những gương mặt muôn vàn nếp nhăn
Là ký ức của vạn nẻo đường đời..
hình thành một quãng đời đã qua.
Tôi trân quý bàn tay run rẩy tuổi hạc
mơn trớn vầng trán mịn trẻ thơ
Như cành cây yếu đuối nghiêng ngảvuốt nhẹ
con sông trong suốt.
Tôi yêu làm sao
Những cử động chậm chạp yếu mềm vào tuổi xế chiều
Nắm bắt từng khoảnh khắc cuộc đời
Như nâng niu chén quân bằng sứ . . .
và phần ta, cũng hay chăm chút từng khoảnh khắc như thế
Với năm tháng trôi qua-JEAN PIERRE SIMÉON
Thư của Victor Hugo gửi Lamartine
“Đây là lý do tại sao tôi thực hiện tác phẩm Những Người Khốn Khổ“
Victor Hugo(1802-1885), cây đại thụ của văn học Pháp và văn học toàn cầu, tượng trưng cho tính hiện đại trong văn học thế kỷ 19, có tầm nhìn xa của một nhà văn dấn thân trước thời đại, là tác giả của tác phẩm Những Người Khốn Khổ, và nhiều truyện khác.Đó là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, xã hội và triết học nhuốm màu lý tưởng của chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa xã hội, một tác phẩm trọn vẹn, nhiều lần được chuyển thể thành phim: câu chuyện về Jean Valjean và Cosette đã đi vào thần thoại toàn cầu.
Trong bức thư gửi cho người bạn Alphonse de Lamartine, văn hào lần lượt nêu rõ ràng khởi thủy cấp tiến của tác phẩm này, phù hợp với những lý tưởng và ước mơ của bản chất con người.
Một lá thư- một cú đấm từ cha đẻ của những kiệt tác của nền văn học Pháp!
***
Gởi anh bạn danh tiếng của tôi
Nếu cực đoan là lý tưởng thì đúng vậy, tôi là người cực đoan.
. . .
Phổ cập hóa quyền sở hữu (ngược lại với việc xóa bỏ nó) bằng cách loại bỏ chủ nghĩa ký sinh, đó chính là đạt được mục tiêu này: mọi người đều là sở hữu chủ , không ai là chủ của ai cả, đối với tôi đây là nền kinh tế học thực sự về chính trị và xã hội.
Đích đến còn rất xa. Đó có phải là lý do để không bước đến đó?
Tôi nói gọn lại và tóm tắt.
Vâng, trong khả năng con người được quyền đòi hỏi bao nhiêu thì tôi muốn tiêu diệt định mệnh của con người; Tôi lên án chế độ nô lệ, tôi xua đuổi nghèo đói, tôi chỉ dẫn về sự ngu dốt, tôi điều trị bệnh tật, tôi soi sáng màn đêm, tôi căm ghét hận thù.
Đây chính là con người tôi và đây là lý do tại sao tôi thực hiện Những Người Khốn Khổ.
Trong tâm trí tôi, Những Người Khốn Khổ chỉ là một cuốn sách lấy tình huynh đệ làm nền tảng và sự tiến bộ là đỉnh cao, không có điều gì khác.Bây giờ xin hãy phán xét tôi. […]
========================
Lettre de Victor Hugo à Lamartine “ Voilà pourquoi j’ai fait Les Misérables“
Victor Hugo (1802 – 1885 ), géant de la littérature française et universelle, symbole de la modernité dans la littérature du XIXème siècle, esprit visionnaire et écrivain engagé avant l’heure, est l’auteur, entre autres, des Misérables. Roman historique, social et philosophique teinté des idéaux du romantisme et des exigences du socialisme, œuvre totale, maintes fois adaptée au cinéma, l’histoire de Jean Valjean et de Cosette est entrée dans la mythologie universelle.
Dans cette missive adressée à son ami Alphonse de Lamartine, l’homme de lettres énonce haut et fort à son tour l’origine radicale de cette œuvre, à hauteur des idéaux et des rêves de la nature humaine.
Une lettre-coup de poing du père de la littérature française!
+++++++
Mon illustre ami,
Si le radical, c’est l’idéal, oui, je suis radical.[. . .]
Universaliser la propriété (ce qui est le contraire de l’abolir) en supprimant le parasitisme, c’est-à-dire arriver à ce but : tout homme propriétaire et aucun homme maître, voilà pour moi la véritable économie sociale et politique.
Le but est éloigné. Est-ce une raison pour n’y pas marcher ?
J’abrège et je me résume.
Oui, autant qu’il est permis à l’homme de vouloir, je veux détruire la fatalité humaine ; je condamne l’esclavage, je chasse la misère, j’enseigne l’ignorance, je traite la maladie, j’éclaire la nuit, je hais la haine.
Voilà ce que je suis, et voilà pourquoi j’ai fait Les Misérables.
Dans ma pensée, Les Misérables ne sont autre chose qu’un livre ayant la fraternité pour base et le progrès pour cime.
Maintenant jugez-moi. […] -
L’épave (Henry Gréville) – Mảnh Tàu Nổi Trôi -Thái Lan Dịch
L’épave (Henry Gréville) – Mảnh Tàu Nổi Trôi(Thái Lan Dịch)
Henry Gréville
L’épave – Henry Gréville
Le vent qui soufflait en tempête depuis la veille au soir s’était calmé un instant ; un rayon de soleil, jaune et pâle, traversa les nuages et fit briller comme de l’étain neuf les toits de schiste bleuâtre. Roger ouvrit la fenêtre ; la senteur âpre et bien connue du varech poussé sur les plages par les hautes marées le saisit à la gorge, et il l’aspira avec délices en fermant les yeux pendant un instant. Les arbres avaient assez bien résisté ; beaucoup de feuilles brunes jonchaient le sol, mais les hêtres perdent leur feuillage de bonne heure, et les ouragans n’effraient pas les troncs serrés en rang épais le long des grandes avenues, sur les haies doubles, ni leurs branches enchevêtrées, courbées dès l’enfance dans la direction la plus fréquente du vent. Quelques rosiers remontants n’avaient plus leurs roses de la veille, quelques tiges grêles avaient cédé dans le parterre, et c’était tout.
159 Roger interrogea le ciel du regard. – Dites donc, monsieur, lui dit la vieille servante qui venait aussi examiner le temps, est ce que ce n’est pas fini, le sabbat de cette nuit ? – Je crois plutôt que cela va recommencer, répondit-il. Les grands nuages s’avançaient en masses régulières et lourdes comme des escadrons de cavalerie ; leur teinte uniforme, leurs bords réguliers, annonçaient qu’ils venaient de loin, ils arrivaient de l’horizon, vite mais sans hâte fébrile, dans toute leur puissance et leur majesté. Le rayon jaunâtre qui glissait entre les nuées venait du second tiers de l’horizon ; le zénith appartenait tout entier à ces cohortes redoutables. La pluie tombait par intervalles, droite et régulière, car le vent ne soufflait plus à la surface de la terre, et de moins accoutumés à ces fausses accalmies eussent cru le danger passé. Roger prêta l’oreille, et le grand fracas des vagues qui déferlaient à une lieue de là, sur la plage, lui arriva comme l’écho d’une bataille.
Le froissement des galets roulés rappelait les 160 mitrailleuses, les lourdes vagues, s’écroulant à pic, imitaient les coups de canon… Il écoutait la tête penchée. Soudain, l’ouragan reprit, le vent souffla en foudre, comme disent les marins, les branches des hêtres craquèrent et se rompirent sous cet assaut inattendu. Du fond du ciel, d’énormes masses nouvelles, presque noires accoururent, se précipitèrent sur les lourds escadrons réguliers, puis, emportées par un courant irrésistible, se déchiquetèrent en lambeaux qui s’en allèrent on ne sait où. Les nuages gris disparurent roulés par la tempête, une brume noirâtre envahit le ciel, fondue en petite pluie fine qui frappait douloureusement le visage, et au-dessus des bruits de la terre ainsi violentée dans tout ce qui croît à sa surface, l’écroulement des vagues monstrueuses frappa régulièrement la grève, semblable au roulement du tonnerre.
Roger ferma sa fenêtre, descendit l’escalier de granit qui résonnait sous les clous de ses souliers de chasse, et, passant devant la servante, se trouva dans le jardin. – Monsieur, est-ce que vous sortez ? Il n’y pas 161 de bon sens. – C’est trop beau, répondit-il de son ton calme ; il faut que j’aille voir cela. Pendant que la vieille femme grommelait et levait les mains au ciel, il était déjà sur la route, et marchait résolument à la rencontre de l’ouragan furieux. Le paletot bien boutonné, les mains enfoncées dans ses poches, offrant au vent aussi peu de prise que possible, il fit assez rapidement un quart du chemin, protégé par l’abri des haies de terre battue qui enclosent les pièces de terre, et qui faisaient obstacle au vent de la mer.
Mais, au premier coude de la route, cet abri disparut, et il se trouva en butte à toute la rage de la tempête; vainement il voulut résister, il se trouva soudain acculé contre l’angle du chemin. Baissant la tête, s’adossant au mur, il attendit un moment plus favorable ; bientôt il put lever les yeux et regarder devant lui. Le soleil brillait toujours, et sa clarté pâle, presque blanche, donnait un singulier aspect maladif aux objets qu’elle éclairait. Les brumes qui passaient en courant dans le ciel empêchaient le plus souvent ses rayons d’arriver jusqu’à la terre, et c’est l’Océan seul qui les recevait. Entre les deux hautes collines couronnées de bruyères qui descendaient en pente abrupte dans la vallée jusqu’au rivage, le coin de mer que Roger pouvait apercevoir semblait une vaste coupe pleine d’écume et de reflets métalliques. L’onde affolée au large se brisait en vagues contrariées, formant des bandes immenses qui accouraient frénétiquement à l’assaut d’un rocher noir, le recouvraient et retombaient en un bouillonnement laiteux qui se répandait au loin comme une nappe d’huile ; puis la vague, se reconstituant, prenait de plus en plus d’ampleur, et immense, effrayante, venait battre le galet qui s’écroulait avec fracas sous ces coups épouvantables.
Saisi d’un désir irrésistible de contempler de plus près ce spectacle étonnant, Roger rassembla ses forces, et se lança en courant sur la route en pente. À mesure qu’il descendait, la violence du vent diminuait, et, quand il fut au fond de la 163 vallée, il se trouva dans une zone presque calme. Il ralentit sa course, reprit haleine, secoua ses vêtements et regarda autour de lui. À quelques pas en avant marchait une forme brune, la tête enveloppée d’un voile épais, aux plis serrés ; il n’eut pas besoin de la regarder deux fois, un tressaillement de son cœur lui avait appris le nom de cette promeneuse hardie. En toute autre circonstance, il eût peut-être rebroussé chemin, – à quoi sert de se parler quand on ne peut s’entendre ? – Mais il est des jours où un esprit de vaillantise et d’audace s’empare de nous et nous porte plus loin que ne le voudrait notre raison, si on la consultait ; Roger doubla le pas et rejoignit la promeneuse. – Par ce vent affreux ? lui dit-il, au moment où il se trouva près d’elle.
Elle tressaillit aussi, non de frayeur, et répondit : – Rien au monde n’est plus beau. – C’est mon avis, dit Roger. Ils se remirent à marcher de conserve dans l’air apaisé de ce coin de vallée, protégé par une haute colline. – Vous allez loin ? demanda-t-il au bout d’un instant. – Jusqu’au rivage. Je suis sortie exprès pour voir l’effet de ce soleil étrange sur cette mer en furie. Il y a là un contraste qui me navre et qui m’attire. N’est-il pas vrai que le soleil ne devrait briller que sur des scènes de paix, sinon de joie ? – Les malheureux ont pourtant quelque droit à un peu de consolation, répondit Roger. – Ah ! reprit-elle avec amertume, un tel soleil ne console pas… il ne fait qu’éclairer les souffrances, et les souffrances préfèrent l’obscurité. Roger ne répondit pas. Ils ne voyaient plus l’Océan, et une sorte de calme semblait renaître en eux. Après Quelques minutes, il interrogea encore sa compagne, mais avec une espèce de soumission mélancolique. – Vous vouliez quitter ce pays, dit-il ; n’avez vous point changé d’avis?
– Que sais-je! répondit-elle avec amertume. Est-ce que je sais ce que je veux? J’en viendrai à me fuir moi-même; – mais cela, c’est ce qu’aucun voyage, si lointain qu’il soit, ne peut me donner. J’ai vu bien des contrées, et mon humeur est toujours la même, elle ne changera pas, allez ! – Détestez-vous ce pays plus qu’un autre ? demanda-t-il, avec cette même tendresse craintive que démentaient ses yeux hardis et sa bouche résolue. Elle secoua la tête sans répondre. Une douceur fugitive détendit ses traits contractés par l’amertume. – Non ! plus que tout autre, je l’aime ou j’ai cru l’aimer… J’y serais morte avec joie, mais je ne peux pas mourir, rien ne me tue ! L’amertume reparut sur ses traits délicats, et elle fit de la main un geste plein de colère hautaine. – Il faut que je m’en aille ! reprit-elle aussitôt: oui, il faut que je m’en aille. Je n’ai que trop 16 attendu. Elle prononça ces derniers mots d’une voix toute pleine de reproches et d’angoisses. – Vous pourriez être heureuse ici, reprit Roger, vous y êtes aimée… Vous ne le serez jamais mieux ni plus ailleurs… mais ailleurs, on vous attend sans doute!
– M’attendre! Et qui, grand Dieu! m’attendrait ? Où? Je n’ai plus rien : ni patrie, ni famille: j’ai tout brisé autour de moi. J’ai changé mon or pur contre du cuivre empoisonné, et depuis lors personne, non, personne, entendez vous, Roger ? ne m’aime ni ne m’attend. La route tournait subitement, une rafale aiguë leur ferma la bouche à tous les deux. Le rivage était proche ; sans se toucher la main, sans presque sembler se connaître, ils gravirent le mur de galets que les hautes marées élèvent chaque fois, et qui protège le village contre les coups de mer, puis ils s’arrêtèrent pleins d’une horreur sacrée. À dix pas d’eux, battant son plein, la mer 167 attaquait la terre, sa vieille ennemie, avec la rage de sa plus formidable colère. Quelques pouces de plus, et la digue protectrice était franchie ; – mais le soleil déclinait vers l’horizon, et, pour ce jour là, l’Océan n’irait pas plus loin. La violence du choc faisait trembler sous leurs pieds l’amas de galets mal entassé ; un frisson, non d’épouvante, mais de respect pour cette force indomptable, les secouait de la tête aux pieds ; ils s’assirent sur le galet, à quelque distance l’un de l’autre.
Étroitement enveloppée dans son vêtement d’un brun très foncé, qui laissait deviner son corps svelte et nerveux, la tête légèrement inclinée en avant sous le voile qui serrait ses tempes et ses cheveux noirs, elle semblait la statue de la concentration. Roger ne voyait que son profil délicat de médaille grecque, et cependant il sentait le regard de ses yeux verts se fixer sur les vagues comme pour les interroger. Dans cette courte conversation sur la route, elle venait de lui révéler la plaie de son cœur, jusque-là si religieusement cachée. Elle avait aimé, au loin sans doute, car, dans ce pays qu’elle habitait depuis deux ans, personne ne savait rien d’elle, sinon qu’elle était bonne et charitable, assez riche pour n’avoir besoin de personne, assez simple pour ne rien posséder de meilleur que les autres, assez réservée pour que personne n’osât l’interroger. Pourquoi Roger s’était-il épris de cette énigme vivante ? Pourquoi, lui qui pouvait choisir parmi toutes les jeunes filles du pays et de la ville voisine, avait-il vécu depuis dix-huit mois dans une retraite presque absolue, voyant rarement la jeune femme, et ne trouvant plus de plaisir auprès d’aucune autre ? C’est peut-être parce qu’il avait trouvé en elle ce qui précisément manquait aux autres : l’intelligence pour partager ses goûts artistiques fruit de ses études, la connaissance du monde, qui fait que l’on s’entend aussitôt entre gens bien élevés, – et la beauté, – la beauté absolue, celle des lignes, qu’éclaire, comme une flamme intérieure, le sens du beau et du bien poussé à sa plus haute limite.
Il l’aimait, et ne pouvait le lui dire ; entre elle 169 et lui, elle avait toujours placé une barrière infranchissable de dignité glaciale ; pourquoi aujourd’hui avait-elle levé un coin du voile qui couvrait sa vie mystérieuse ? Et lui, chose bizarre, au lieu de se sentir froissé de ce demi-aveu, il en éprouvait une sorte de joie inquiète et troublée. C’est qu’il vivait loin du monde. Lui aussi n’avait trouvé qu’un métal méprisable en échange de ses trésors, et le monde lui importait si peu qu’il ne tenait plus à lui. Mais elle… n’aimait-elle vraiment plus rien ? Jadis, dans leurs premiers entretiens, elle avait paru détachée de tout ; une amertume souveraine, un dédain glacial, étaient le fond de sa philosophie ; mais en ces derniers temps, elle avait semblé s’attendrir ; parfois, sa voix émue avait laissé tomber l’entretien commencé… Sentait-elle la vie revenir à son âme desséchée ? Ce n’est pas à vingt-quatre ans qu’on est sûre d’être à jamais morte au bonheur ! Tout en songeant à ces choses, il la regardait, et s’efforçait de deviner quelle pensée douloureuse attachait ses yeux sur l’Océan en furie. Il vit une larme, ce n’était pas une goutte d’eau, se détacher des longs cils noirs et rouler sur les joues pâles, où le poudrin de la mer attirait une teinte à peine rosée. Les larmes se succédèrent lentement d’abord, puis plus pressées, et lui n’osait parler, n’osait approcher, craignant de lui rappeler sa présence peut-être oubliée, craignant de la faire s’enfuir, pour cacher la faiblesse de ce cœur jusque-là si bien fermé. Que n’eût-il pas donné pour essuyer avec ses lèvres ces larmes silencieuses, irrécusable preuve de longues douleurs subies dans la nuit et dans la solitude ? Qui donc avait pu la blesser, cette âme fière, si digne d’estime et d’amour ?
Ah! quel que fût son destin dans le passé, elle avait été victime, non coupable, ses yeux purs et son front honnête l’attestaient hautement. Les vagues énormes déferlaient devant eux, si près qu’elles semblaient à chaque fois vouloir les engloutir. Elles accouraient du large avec une crête d’écume de plus en plus haute et mousseuse ; à travers l’onde glauque on voyait la clarté du 171 soleil ; souvent, un rayon jaune filtrait, bien loin, sur le sable fin que laissait voir la vague transparente. Elle approchait rapidement, haute de quinze pieds, se recourbant en volute frangée ; arrivée au bord du galet, elle s’écroulait tout d’une masse, comme s’écroulerait un palais, avec un bruit terrible, et se précipitait à l’assaut des galets, puis, redescendant la pente du rivage, courait à la rencontre d’une autre qu’elle prenait corps à corps, et réduisait en poussière d’écume impalpable et salée.
Les flocons que les marins appellent les papillons blancs de la mer s’envolaient au fond des terres où les moutons parqués dans la lande les voyaient avec surprise tomber sur les fleurs des ajoncs. La jeune femme tourna la tête vers Roger ; le vent avait séché ses larmes, et de son désespoir récent il ne lui restait plus qu’une expression navrée. Elle se leva et dit quelques mots. Il ne pouvait l’entendre au milieu de ce fracas, et il se rapprocha pour pouvoir lui répondre. Ils étaient tout près l’un de l’autre ; cependant il restait entre eux un petit espace qui ne permettait pas même à leurs vêtements de se toucher. Elle lui montrait du doigt, à quelque distance, un objet sombre, qui, porté par les eaux, avançait et reculait sans pouvoir toucher le rivage ; cependant, repris par une vague plus forte, il se trouva bientôt sous leurs yeux. Dans l’onde verte et transparente, il semblait d’un noir intense ; c’était une simple planche arrachée à quelque barque ; elle ne portait aucune indication et n’offrait rien d’intéressant. – C’est une épave, dit Roger. Pour s’entendre, ils devaient se parler à l’oreille, et son souffle effleura la joue de sa compagne. – En arrive-t-il beaucoup ainsi ? demanda-t elle d’une voix lente, comme épuisée par l’intensité de la douleur.
– Parfois, après les grandes tempêtes. Quoique ce soit défendu par les lois, on n’ôtera pas de la tête de nos paysans que le droit d’épave est un droit sacré. 173 – Le droit d’épave ? répéta la jeune femme en tournant la tête vers Roger. Il vit alors dans ses yeux profonds l’immensité d’une douleur irrémédiable ; il y vit aussi, telle que le rayon jaune dans la vague transparente, la clarté d’une tendresse douloureuse qui s’épanchait sur lui, sans joie et sans espoir. Troublé, il continua : – Oui, dans leur idée, l’épave appartient à celui qui la sauve ; il a parfois bien du mal à la disputer à la mer, il la tire à grand-peine hors de la portée des vagues, on ne peut lui persuader ensuite qu’elle n’est pas à lui… C’est la loi du pays : l’épave est à celui qui l’a planche me fait de la peine ; elle ne peut ni sauvée. Elle répéta machinalement : – L’épave est à celui qui l’a sauvée. L’épave allait et venait sous leurs yeux, tantôt rejetée sur le sable, tantôt reprise par la vague, tournée et retournée cent fois en une minute.
La jeune femme se leva et fit quelques pas. – Allons plus loin, dit-elle ; cette pauvre planche me fait de la peine ; elle ne peut ni s’écarter ni trouver un port. – Elle trouvera bien quelqu’un pour la sécher et la brûler, répondit Roger. – Eh bien ? fit-elle en tournant vers lui son visage soudain enfiévré, elle sera au moins bonne à quelque chose ! Elle apportera dans la cabane la flamme et la chaleur qu’elle possède en elle… cela ne vaut-il pas mieux que d’errer toujours, incessamment battue par les tempêtes ? Elle s’assit sur le galet et promena son regard autour de l’horizon toujours chargé de nuages. Le soleil avait disparu, et toute la tristesse de la tempête revenait plus intense, avec une pluie méchante et rageuse qui les frappait au visage ; elle ne la sentait certainement pas.
L’endroit où ils s’étaient assis formait une petite crique, et la vague, moins profonde, y était, aussi moins bruyante. Ils pouvaient se parler et s’entendre ; cependant il se trouvait tout près d’elle. – J’aurais aimé, dit-elle, de cette voix trempée de larmes qui la rendait si vraie et si touchante, 175 une petite maison avec un jardin, beaucoup d’air, beaucoup de lumière, du soleil de tous les côtés… un peu d’aisance, – mais cela, je l’ai et ne le dois à personne, c’est tout ce qui me reste de mon enfance heureuse ; – j’aurais voulu un être à aimer, qui ne fût pas un chien, car les chiens meurent avant vous, et on les pleure… un être à aimer, qui ne m’eût ni en mépris ni en pitié, qui m’aimât comme une créature semblable à lui… et pour celui-là, – ainsi que l’épave de là-bas, – j’aurais donné ma flamme et toute ma chaleur, dussé-je mourir rapidement consumée… mais pas sans avoir fait un peu de bien, pas sans avoir connu la joie du sacrifice récompensé… je n’ai jamais connu que l’autre, celui qu’on vous reproche, en vous disant : Je ne l’avais pas demandé ! Il la regardait, interdit, n’osant la comprendre, n’osant lui répondre. Est-ce que vraiment elle voudrait, après tant de souffrances, qu’il ignorait, mais qu’il devinait si bien, mettre sa main dans celle d’un honnête homme, simple de cœur et de goût, sans grande fortune, elle faite pour porter hardiment toutes les couronnes ?
– Mais non, reprit-elle, je suis l’épave qui flotte à toutes les vagues, qui bat tous les rivages, et je mourrai réduite en poussière contre tous les rochers de la vie, sans avoir éclairé ni réchauffé de foyer. Elle s’était levée et marchait sur le sable que la mer, en se retirant, laissait à sec peu à peu. Une vague monstrueuse s’avançait, Roger se recula instinctivement, croyant que sa compagne faisait de même. Soudain, dans l’écroulement du flot, il entendit un cri et vit rouler une forme brune. Semblable à l’épave, elle flottait dans la transparence glauque de la vague, abandonnée comme un corps inerte. Sans pousser un cri, les dents serrées, décidé à reprendre sa proie à l’Océan trop avide, il entra dans l’eau, reçut sur la tête le choc de deux ou trois lames, plongea, reparut, saisit le corps qui ne résistait pas, et le rapporta sur le rivage, serré contre sa poitrine. Il courut jusque derrière le galet, et là, sur une couche de sable fin, il déposa celle qu’il avait reconquise.
Elle ouvrit les yeux et les fixa sur lui, avec quelle douceur soumise, avec quelle tendresse éperdue ! – Vous m’avez sauvée, lui dit-elle d’une voix faible, et sans pouvoir remuer, dans le grand engourdissement de tout son être. Je suis l’épave. Savez-vous que l’épave est à celui qui la sauve ? – Je le sais, répondit-il, en la regardant comme une mère regarde un enfant malade. C’est ainsi que vous êtes à moi pour toujours.
Paris, 9 mars 1879.
Henry Gréville
Bài Dịch: Mảnh Tàu Nổi Trôi
Cơn gió bão từ tối hôm trước đã dịu đi trong giây lát; một tia nắng vàng nhạt xuyên qua mây khiến những mái nhà đá phiến xanh sáng bóng. Roger mở cửa sổ; anh nghe mùi tảo quen thuộc dạt vào bãi biển khi thủy triều dâng cao, và anh nhắm mắt lại hưởng một cách thích thú. Cây cối vẫn mạnh mẽ chống chọi lại bão tố ; nhiều chiếc lá nâu vương vãi trên mặt đất, những đám cây sồi rụng lá sớm, bao nhiêu cơn lốc không làm những thân cây dày đặc dọc các con đường rộng chùng lòng, chúng đã uốn cong theo hướng gió ngay từ khi chúng còn bé. Một vài bụi hồng mọc lại đã rụng hoa từ đêm trước, chỉ còn trơ trụi vài cành cây mảnh mai.
Roger nhìn lên bầu trời, suy nghĩ.
Bà giúp việc cũng đến nhìn trời và nói:
-Thưa ông, buổi lễ hội của trời đất đêm qua vẫn chưa tan sao ạ?
-Tôi nghĩ bão vẫn tiếp tục, bà ạ, anh trả lời.
Những đám mây lớn ào tới một cách nặng nề như những đội kỵ binh; màu sắc đồng nhất của chúng, với đường viền đều đặn, cho ta biết chúng đến từ rất xa, từ chân trời, nhanh chóng, mạnh mẽ và uy nghi. Tia sáng vàng nhạt lướt giữa những đám mây đến từ phần bên kia của chân trời; thiên đỉnh hoàn toàn thuộc về những đoàn quân ghê gớm này. Mưa rơi liên tục và đều đặn, vì gió không còn thổi trên mặt trái đất nữa, và những người không quen với sự yên tĩnh giả tạo này sẽ tin rằng mối nguy hiểm đã qua. Roger lắng nghe, và tiếng sóng vỗ lớn cách xa hàng dặm trên bãi biển vang đến tai anh như tiếng vang của một trận chiến.
Những đám mây xám biến mất do cơn bão cuốn đi, một làn sương mù đen kịt lan ra trên bầu trời, rồi nhung hạt mưa nhỏ quất vào mặt làm rát da, và thêm vào những tiếng rền vang của mặt đất, từng đợt sóng khủng khiếp đập vào bờ như sấm sét.
Roger đóng cửa sổ lại, đi xuống cầu thang bằng đá granit, tiếng giày vang lên.
– Thưa ông, ông định ra ngoài đấy ư? Có lẽ không nên đâu ạ.
– Khung cảnh đẹp quá, tôi phải đi xem đây, anh trả lời bằng giọng bình tĩnh.
Bà lão đang càu nhàu và giơ tay lên trời, anh đã ra ngoài đường, kiên quyết đón cơn cuồng phong dữ dội. Cài cúc chiếc áo khoác, hai tay thọc vào túi, để gió không thể tấn công được, anh nhanh chóng bước đi, qua đám hàng rào bằng đất bao quanh các thửa đất chắn gió mạnh từ biển thổi vào-
Mặt trời vẫn chiếu sáng, một thứ ánh sáng nhợt nhạt gần như trắng khiến những vật thể được chiếu sáng có vẻ yếu đuối một cách kỳ lạ . Sương mù bay qua bầu trời ngăn cản tia sáng chiếu vào trái đất và chỉ có đại dương tiếp nhận ánh sáng. Sóng cuồng trên biển vỡ thành từng đợt đối nhau, tạo thành những dải mênh mông lao điên cuồng tấn công vào tảng đá đen, bao phủ mỏm đá rồi lại rơi xuống thành đám bọt trắng đục lăn ra xa như một tấm dầu; rồi làn sóng lập lại, ngày càng mạnh hơn, to lớn, đáng sợ, đánh vào những viên đá cuội, sụp đổ hẳn bởi những cú va chạm khủng khiếp.
Bị thôi thúc bởi mong muốn được chiêm ngưỡng cảnh tượng đáng kinh ngạc này kỹ hơn, Roger cố gắng bắt đầu chạy xuống con đường dốc. Khi anh đi xuống, cường độ gió giảm dần, và khi anh đến bên dưới thung lũng, anh thấy mình ở một vùng gần như yên tĩnh. Anh bước chậm lại, lấy lại hơi thở, rũ những hạt nước trên áo và nhìn xung quanh. Anh nhìn thấy phía trước một hình dáng mờ mờ, đầu quấn khăn; anh không cần phải nhìn hai lần, trong trái tim hồi hộp của anh đã cho anh biết tên của người bộ hành rất dạn dĩ này.
Nếu như vào một thời điểm khác, có lẽ anh đã quay gót đi – nói chuyện với nhau có ích gì khi chúng ta không thể hiểu nhau? – Nhưng có những ngày mà sự dũng cảm và táo bạo chiếm lấy hồn ta và đưa ta đi xa hơn những điều lý trí mong muốn, nếu ta tham khảo ý kiến của suy xét bình tĩnh và cẩn thận; Roger bước nhanh và đến bên cô ấy. – Cô dám ra ngoài với cơn gió khủng khiếp này ư? anh hỏi cô, lúc đã đến bên cạnh cô gái.
Cô giật mình, vì đột ngột chứ không phải vì sợ hãi và đáp:
– Cảnh vật bây giờ thật là tuyệt!
– Tôi cũng nghĩ như vậy, Roger nói.
Họ lại bước đi bên nhau trong không khí đã lắng dịu ở góc thung lũng này, ngọn đồi cao đã ngăn chặn cơn bão.
– Cô định đi xa không? anh lại hỏi.
– Tôi muốn đến bờ biển. Tôi cố tình đi ra ngoài để xem mặt trời kỳ lạ này ảnh hưởng thế nào trên vùng biển đang nổi cơn thịnh nộ này. Có một sự tương phản làm tôi ngao ngán nhưng vẫn có điều gì quyến rũ tôi. Phải chăng mặt trời chỉ nên chiếu sáng những cảnh bình yên, hay ít ra là niềm vui thôi ?
– Những người bất hạnh vẫn có quyền được an ủi một chút chứ, Roger trả lời.
-Vâng! cô cay đắng trả lời,- ánh nắng như vậy không an ủi được… nó chỉ soi sáng nỗi đau, và nỗi đau lại thích bóng tối hơn.
Roger không trả lời. Họ không còn nhìn thấy Đại dương nữa và một cảm giác bình yên dường như đang trở lại trong họ. Sau vài phút, anh ta lại hỏi người bạn đồng hành, với giọng chấp nhận một cách buồn bã.
– Cô muốn rời khỏi đất nước này, cô không thay đổi ý định sao?
–Làm sao tôi biết được! Cô trả lời một cách cay đắng. Tôi có quyền biết mình muốn gì không? Tôi còn phải chạy trốn khỏi chính mình nữa cơ mà – nhưng muốn có được điều đó, bất cứ một cuộc hành trình nào, dù xa xôi đến đâu, cũng không thể cho tôi toại nguyện. Tôi đã đi qua rất nhiều quốc gia, tâm trạng của tôi vẫn sẽ không thay đổi, thế thôi!
– Cô thù ghét đất nước này hơn bất kỳ nơi nào khác phải không? anh hỏi với vẻ dịu dàng e ngại trái ngược với vẻ dạn dĩ của đôi mắt và nét cương nghị từ đôi môi.
Cô lắc đầu không trả lời. Một cảm giác ngọt ngào thoáng qua làm nét căng thẳng vì cây đắng trên gương mặt cô dịu bớt đi.
-Không! tôi yêu anh ấy hoặc tôi nghĩ rằng tôi yêu anh ấy… Tôi có thể chết vì vui sướng, nhưng tôi không thể chết, không thể! Sự cay đắng lại hiện lên trên nét mặt thanh tú của cô, và cô khoát tay, giận dữ một cách kiêu kỳ. – Tôi phải đi đây! đúng rồi, tôi phải đi. Tôi đã chờ đợi quá lâu. Những lời này được thốt ra với vẻ đầy trách móc và lo sợ.
– Cô vẫn ở lại đây, có thể cô sẽ hạnh phúc, Roger tiếp tục, cô sẽ có được tình yêu … Cô sẽ không vui và hạnh phúc hơn ở bất cứ nơi nào khác … nhưng biết đâu ở nơi nào đó, có thể có người đang mong đợi cô!
-Chờ tôi! Lạy Chúa ơi! Người nào sẽ đợi tôi chứ? Ở đâu? Tôi không còn gì cả: quê hương cũng không, gia đình cũng không: tôi đã phá vỡ mọi thứ xung quanh mình. Tôi đã đổi vàng nguyên chất của mình để nhận lấy đồng tẩm độc, và kể từ đó không còn ai, không một ai, anh nghe không, Roger? không một ai yêu tôi hoặc chờ đợi tôi.
Con đường bỗng rẽ ngoặt gấp, rồi một cơn gió cực mạnh ào đến khiến cả hai phải ngậm miệng lại.
Họ đã đến gần bờ biển; không chạm tay vào nhau, có vẻ như không hề quen biết nhau, họ trèo lên bức tường đá cuội mà mỗi lần thủy triều dâng cao lại bồi thêm vào, làm thành bờ đập bảo vệ ngôi làng khi sóng biển tràn vào, rồi họ dừng lại, kinh hoàng nhìn cảnh vật. Cách chỗ họ ngồi chừng mười sải chân, sóng biển đang tấn công mặt đất, kẻ thù từ xưa nay, và họ thẫn thờ như thế trước sức mạnh không chế ngự được của thiên nhiên.
Qua bộ quần áo màu nâu sẫm nàng quấn quanh mình, ta có thể hình dung thân hình mảnh khảnh đang lo âu, đầu hơi nghiêng về phía trước dưới tấm khăn che sát mặt với mái tóc đen huyền, cô ấy như là bức tượng, đang cố gắng tập trung. Roger chỉ nhìn thấy hình dáng như ảnh tượng Hy Lạp thanh tú của cô, và cảm nhận đôi mắt xanh thật đẹp đang nhìn chằm chằm vào những con sóng như đang muốn biết chúng sẽ cuốn dữ dội thế nào đây. Lúc nãy khi kể lể vài dòng, cô vừa tiết lộ cho anh biết vết thương trong lòng cô, mà từ bấy đến nay vẫn được che giấu một cách thật chu đáo. Cô đã yêu, chắc là một người nào ở rất xa, bởi vì qua hai năm cô sống nơi đây, không ai biết gì về cô, ngoại trừ tính tình cô rất bác ái, không cần giúp đỡ về những nhu cầu, rất giản dị, không xa hoa cầu kỳ, rất dè dặt nên không ai dám hỏi han điều gì về cuộc sống riêng tư.
Tại sao Roger lại say mê sinh vật bí ẩn này? Tại sao? trong khi anh có thể lựa chọn trong các cô gái trẻ ở miền này cũng như vùng lân cận, nơi anh đã trải qua mười tám tháng gần như hoàn toàn hưu trí, và thật hiếm khi anh gặp cô gái này, phải chăng anh không còn tìm thấy niềm vui ở bất kỳ ai khác? Phải chăng vì anh đã tìm thấy ở cô những điều thiếu sót ở những người kia: trí thông minh để cùng chia sẻ sở thích nghệ thuật của anh, – đó là thành quả học tập của anh-, chia sẻ những hiểu biết về thế giới,…những điều căn bản mang sự hòa hợp giữa hai người. – và thêm nữa vẻ đẹp, – vẻ đẹp tuyệt đối của những đường nét, được hoàn chỉnh ở đỉnh cao nhất cho tình yêu nồng nàn.
Anh yêu nàng, nhưng không thể thổ lộ; giữa cô và anh, cô luôn đặt một rào cản không thể vượt qua bằng một sự trang nghiêm lạnh giá; tại sao hôm nay cô lại vén ra một góc màn cuộc đời bí ẩn của mình?
Và thật kỳ lạ, thay vì cảm thấy bị xúc phạm khi nghe lời thú nhận nửa vời này, anh lại cảm thấy một niềm vui xen lẫn lo lắng và bối rối. Đó là bởi vì anh sống xa thế giới. Anh ta cũng chỉ tìm thấy một thứ chất liệu con người không đáng kể khi phải đổi lấy kho báu của mình, và bây giờ anh không còn quan tâm đến thiên hạ và môi trường nữa. Nhưng đối với nàng… có thật là nàng không còn yêu thích gì nữa hay sao? Trước đây, khi đầu tiên trò chuyện, cô ấy dường như dửng dưng với mọi việc ; sự cay đắng tột bậc, thái độ khinh thường lạnh giá, là căn bản triết lý sống của nàng; nhưng dạo gần đây cô ấy có vẻ dịu dàng hơn; đôi khi, giọng nói đầy cảm xúc của cô đã ngưng hẳn khi vừa mới bắt đầu kể một câu chuyện nào đó …
Có phải cô cảm thấy tâm hồn khô héo của mình đang sống lại?
Vừa miên man suy nghĩ , anh nhìn cô và cố đoán xem suy nghĩ chua cay nào khiến cô dán chặt mắt vào đại dương đang cuồng nộ. Anh nhìn thấy một giọt nước mắt, không phải nước mưa hoặc nước biển, đang rơi từ hàng mi đen dài, lăn xuống đôi má nhợt nhạt, và hạt mưa nhẹ vừa phủ lên màu hồng phấn. Nhìn những giọt nước mắt tiếp tục rơi từ từ, sau đó nhanh hơn, anh không dám hé môi, không dám lại gần, e sợ cô sẽ nhớ rằng anh đang hiện diện nơi đây, và sẽ chạy đi, để che giấu trái tim yếu đuối từ lâu nay vẫn một mực khép kín. Ước gì anh có thể đổi tất cả những gì anh sở hữu để lau những giọt nước mắt thầm lặng này bằng đôi môi mình, những giọt nước mắt làm bằng chứng rõ ràng về những nỗi đau không ngớt trong cô đơn, khi màn đêm buông xuống? Ai là người có thể làm tổn thương một tâm hồn kiêu hãnh, đáng được quý trọng và yêu thương này?
Trên vùng đồng cỏ, đàn cừu ngạc nhiên nhìn những bông bọt biển mà các thủy thủ gọi là bướm trắng của biển rơi xuống những bông hoa cây bấc. Cô gái quay đầu nhìn về phía Roger; gió đã lau khô nước mắt của nàng, và nỗi tuyệt vọng ban nãy chỉ còn lại nét âu sầu. Cô đứng dậy và nói điều gì mà anh không nghe được, chung quanh quá ồn; anh tiến lại gần hơn. Họ đang đứng sát bên nhau; nhưng giữa hai người vẫn còn một khoảng trống, và quần áo của họ cũng không chạm vào nhau.
Cô chỉ cho anh xem một vật thể màu sẫm bị nước mang theo con sóng, lao đến rồi lại bị cuốn đi mà không thể nào tấp vào bờ được; nhưng rồi một ngọn sóng mạnh đã mang vật ấy đến chỗ họ đang đứng. Trong làn sóng xanh trong suốt, hình thù ấy thành một màu đen đậm; và đó chỉ là một mảnh ván bị tách ra từ một chiếc thuyền nào đó; không thấy dấu hiệu nào để nhận biết, cũng không có gì đáng quan tâm.
– Đó là một mảnh xác tàu, Roger nói.
Họ phải đến gần sát tai nhau thì mới có thể nghe được, và hơi thở của anh phả vào má nàng.
– Những mảnh tàu như thế này có thường trôi đến không? cô hỏi bằng giọng chậm rãi, như thể kiệt sức vì nỗi khổ đau khôn cùng.
– Đôi khi, sau những cơn bão lớn. Dù bị pháp luật cấm nhưng người nông dân luôn nghĩ rằng quyền được giữ xác tàu đắm là một quyền thiêng liêng.
– Quyền giữ xác tàu đắm? nàng hỏi lại, nhìn về phía Roger.
Anh vừa nhìn thấy trong đôi mắt sâu thẳm của cô nỗi đau không thể nguôi ngoai; và nỗi đau dịu dàng ấy không có niềm vui và không có hy vọng, giống như tia sáng màu vàng trong làn sóng trong suốt đang tuôn ra trên người anh.
Cảm thấy bối rối, anh nói tiếp:
– Đúng vậy, theo quan niệm của họ, xác tàu thuộc về người đã nhặt được; đôi khi họ thật khó khăn khi phải giằng co với biển, thật vất vả mới kéo ra khỏi làn sóng hung dữ, rồi sau đó lại được xét rằng mảnh tàu đắm ấy không thuộc quyền sở hữu của mình …
Thế nên luật của xứ này là: xác tàu sẽ thuộc về người đã mang được mảnh tàu về.
Cô lặp lại, không suy nghĩ :
– Xác tàu đắm thuộc về người đã cứu nó.
Mảnh gỗ của xác tàu trôi đến rồi lại bị cuốn đi trước mắt họ, có khi bị ném lên cát, có khi bị sóng cuốn, đưa lên đưa xuống hàng trăm lần trong một phút.
Người phụ nữ đứng dậy và bước đi.
– Ta hãy đi xa hơn phía đằng kia, – cô nói; – tôi thấy miếng gỗ này tội nghiệp quá ; nó không thể đi xa cũng như không thể tìm thấy một nơi để tấp vào.
– Nó sẽ tìm được người sấy khô và cho vào lò sưởi, Roger trả lời.
– Vậy sao? – nàng quay nhìn anh ấy, gương mặt bỗng đỏ hồng lên – Ít ra thì nó cũng sẽ có ích ! Nó sẽ mang lửa và hơi ấm từ trong mình nó vào trong căn lều còn hơn là lang thang mãi, rồi bị bão giông vùi dập, anh thấy không?
Cô ngồi trên một tảng đá và nhìn phía chân trời vẫn còn tràn ngập mây xám. Mặt trời đã biến mất, và nỗi u sầu do cơn bão mang đến lại trở nên sâu đậm hơn, với những giọt mưa dữ dội quất mạnh vào mặt họ; có lẽ nàng cũng không còn không cảm nhận được điều đó.
Nơi họ ngồi là một cái vịnh nhỏ, ít sóng hơn và ít ồn ào hơn. Họ có thể nói chuyện và nghe thấy nhau; nhưng anh vẫn ngồi rất gần bên cô.
Cô nói, bằng một giọng nói đẫm nước mắt, chân thật và cảm động:
-Tôi ước gì có được một ngôi nhà nhỏ có vườn, chung quanh là cảnh vật bao la, tràn ngập ánh sáng, tia nắng rọi khắp nơi… một chút gì thật thoải mái, – những điều này tôi đã sở hữu và không nợ ai cả, đó là tất cả những gì còn lại của tuổi thơ hạnh phúc của tôi.–Tôi mong muốn có một sinh vật để yêu thương, không phải là loài chó, bởi vì chúng sẽ ra đi trước mình, và ta lại thương khóc chúng…mà một sinh vật để yêu, không khinh miệt, hoặc thương hại tôi, một sinh vật sẽ yêu thương tôi như một tạo vật tương đồng với họ… và đối với người ấy, – cũng như mảnh tàu trôi nổi ở đằng kia, – tôi sẽ sưởi họ bằng ngọn lửa con tim nồng nàn và toàn bộ hơi ấm của mình, cho dù tôi sẽ suy mòn kiệt sức rất nhanh … nhưng trước đó tôi phải hoàn thành được điều gì đó, phải tận hưởng được niềm vui khi đã hy sinh như thế … từ trước đến nay tôi chỉ nếm được điều ngược lại, luôn bị trách cứ rằng: “Tôi đâu có đòi hỏi việc này đâu!” –
Anh nhìn cô, sững sờ, không đủ can đảm để hiểu những điều cô vừa thổ lộ, không dám trả lời. Nàng có thực sự ao ước, sau bao nhiêu đau khổ nàng đã gánh chịu mà anh không hề biết đến, nhưng anh đã đoán rất rõ, và người phụ nữ này, một người quả cảm đã mang bao nhiêu gánh nặng mà cuộc đời đã nghiệt ngã ban tặng cho cô, nàng có thực sự muốn giao thân phận mình vào tay một gã chính trực, rất đơn giản trong tình yêu và nhãn thức, với cơ nghiệp không có gì gọi là bao la vĩ đại không?
– Nhưng không đâu, nàng trả lời, tôi là xác tàu trôi trên sóng, đập vào bờ biển khắp nơi và tôi sẽ tan thành cát bụi bám vào tất cả những tảng đá của cuộc đời, mà không bao giờ thắp sáng hay sưởi ấm một mái ấm gia đình nào. Cô đứng lên và đi trên cát đã dần khô khi nước biển rút đi. Một đợt sóng khổng lồ đang ập tới, Roger bước lùi theo bản năng và nghĩ rằng người bạn đồng hành cũng đang bước lùi.
Đột nhiên, khi thủy triều vừa dâng lên và rút đi, anh nghe thấy tiếng kêu la và nhìn thấy một dáng hình màu nâu đang bị cuốn đi. Trông như một xác tàu bị đắm, vật thể đang trôi nổi trong làn sóng trong suốt lạnh lẽo và đen ngòm, trơ trọi như một cơ thể vô tri.
Mím môi thật chặt, anh quyết tâm lấy lại miếng mồi từ đại dương tham lam, và lao nhanh xuống nước, đầu anh hứng chịu những ngọn sóng dữ chém vào, anh ngụp xuống, trồi lên, nhanh chóng giành lấy thân thể bất động, ôm thật chặt và bơi vào bờ. Anh chạy đến phía sau tảng đá, rồi đặt món quà mà anh ta vừa tranh giành được với sóng biển trên một lớp cát mịn.
Cô mở mắt và nhìn anh, thật dịu dàng, thắm thiết, say đắm:
-Anh đã cứu tôi, cô nói với anh bằng một giọng yếu ớt, không thể cử động vì toàn thân tê cóng.
Tôi là xác tàu đắm. Anh biết rằng xác tàu trở thành sở hữu của người cứu nó không?
-Tôi biết, anh trả lời, và nhìn cô như một người mẹ nhìn đứa con đau yếu.
– Vì thế nàng sẽ thuộc về ta . . . đến thiên thu-
Thailan dịch
-
Sân bay quốc tế O’Hare
HAI CHUYỆN THẬT HAY VÔ CÙNG
– O’Hare là tên phi trường quốc tế ở Chicago .
– Al Capone, 1 tên gangster khét tiếng một thời ở Mỹ.
– Easy Eddie là luật sư của Al CaponeCó rất nhiều quân nhân Mỹ can trường trong Thế chiến thứ hai. Một trong những anh hùng đó là O’Hare – Trung Tá Phi Công Hải Quân Butch. Trung Tá O’Hare là phi công khu trục phục vụ trên hàng không mẫu hạm Lexington trong vùng biển Nam Thái Bình Dương.
Câu chuyện thứ nhất
Một hôm, phi đoàn của O’Hare được giao thi hành một phi vụ quan trọng. Sau khi cất cánh, liếc nhìn bảng đồng hồ, ông nhận ra có chuyện không ổn, hoặc là đồng hồ báo xăng bị hư hoặc là ai đó đã không bơm đẩy xăng cho ông. Với tình trạng này, ông không đủ xăng để hoàn thành nhiệm vụ và trở về. Trung tá O’Hare báo với Phi Đoàn Trưởng và được lệnh phải quay về. Ông miễn cưỡng rời khỏi đội hình và quay trở lại hàng không mẫu hạm.
Trên đường về, bỗng O’Hare thấy một cảnh tượng làm ông dựng tóc gáy: Dưới thấp xa xa trước mặt ông là một phi đoàn oanh tạc cơ của Nhật đang trên đường tiến về hạm đội Hoa kỳ. Phi đoàn khu trục của Hoa Kỳ đã bay đi thi hành nhiệm vụ và hạm đội không còn bảo vệ. Dù có gọi, phi đoàn khu trục cũng không thể trở về kịp để cứu và cũng không đủ thời gian để báo về hạm đội mối nguy hiểm sắp đến. Việc duy nhất còn có thể làm là bằng bất cứ giá nào cũng phải xua đuổi, phá tan hoặc chuyển hướng đội oanh tạc cơ Nhật.
Trung Tá Phi Công Hải Quân Hoa Kỳ Butch O’Hare.Không còn nghĩ đến an nguy cho mình, trung tá O’Hare lao thẳng vào đội hình phi đoàn oanh tạc cơ Nhật, bốn nòng súng 50 ly gắn trên cánh nhả đạn đỏ rực, ông nhắm bắn hết chiếc này đến chiếc khác. Đến khi hết đạn, ông vẫn tiếp tục tấn công, liều lĩnh đâm thẳng vào các phi cơ Nhật, cố gắng cắt đuôi chiếc này, hay cắt cánh chiếc kia mong cho họ không điều khiển và bay được. Trong đáy cùng tuyệt vọng, ông đã làm bất cứ gì có thể làm để các oanh tạc cơ Nhật không đến được hạm đội Hoa kỳ.
Cuối cùng, các phi công Nhật bối rối và chuyển hướng. Thở ra nhẹ nhõm, trung tá O’hare lê lết chiếc máy bay tả tơi của mình về lại hàng không mẫu hạm. Ông báo cáo sự việc, chiếc máy quay phim gắn trên phi cơ là bằng chứng rõ ràng nhất. Nỗ lực trong tuyệt vọng để bảo vệ hải đội Hoa kỳ, ông đã hạ 5 chiếc oanh tạc cơ Nhật.
Đó là ngày 20/2/1942. Trung tá O’Hare là phi công Hải Quân đầu tiên trong quân chủng được trao tặng Huân Chương Danh dự của Quốc Hội Liên Bang Hoa kỳ. Năm 1943, trung tá O’Hare tử trận trong một cuộc không chiến lúc ông 29 tuổi. Để không ai có thể quên được người anh hùng này, phi trường thành phố Chicago, quê hương ông, đã được đặt tên là phi trường O’Hare.Câu chuyện thứ hai
Hơn 15 năm trước đó, tại thành phố Chicago có một người mang biệt danh là Al Capone. Trong thời gian này, Al Capone hầu như làm chủ thành phố, trở thành ông trùm mafia nổi tiếng nhất Chicago và nước Mỹ thời đó …
Easy Eddie là luật sư của Al Capone. Chắc chắn Eddie rất giỏi, tài năng của Eddie đã giúp Al Capone nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Để tỏ lòng biết ơn, Al Capone hậu đãi Eddie rất lớn. Không chỉ tiền bạc mà còn tài sản. Gia đình Eddie sống trong một lâu đài lớn, chiếm nguyên một đoạn đường của thành phố Chicago.Edward Joseph O’Hare hay còn gọi là “Easy Eddie”, sinh ngày 5/9/1893 – 8/11/1939), luật sư ở St. Louis.
Ông trùm Al Capone (1899-1947) chỉ đạo các băng nhóm tội phạm tại Chicago suốt những năm 1920s.Như mọi người cha khác, Eddie có một “nhược điểm”, ông có một con trai và yêu con vô cùng. Cậu bé có một cuộc sống hoàn hảo. Và mặc dù chìm ngập trong thế giới tội ác, Eddie cũng đã có những cố gắng dạy con biết thế nào là phải, trái.
Eddie đã dạy cậu con trai vượt lên từ cuộc sống nhớp nhúa của chính mình, ước mong con sẽ là người tốt … Dù giàu có và quyền thế, nhưng vẫn có một thứ Eddie không thể cho con, một thứ mà chính Eddie đã trót bán cho Al Capone: Đó chính là danh dự.
Qua nhiều đêm trằn trọc thao thức, Eddie quyết định cố gắng rửa sạch những vết nhơ dưới cái tên của mình, ngõ hầu cho con biết thế nào là trung thực và ngay thẳng.Và cuối cùng, Eddie quyết định ra trước tòa làm nhân chứng, chống lại ông trùm, biết rằng giá phải trả sẽ không nhỏ. Trên hết thảy, Eddie muốn phục hồi tên tuổi mình, hy vọng sẽ để lại cho con tấm gương và danh dự.
Eddie đã ra trước tòa làm nhân chứng, trùm Al Capone vào tù. Vài tháng sau, Eddie gục ngã trong cơn mưa đạn trên một con đường lẻ loi ở Chicago.Vậy hai câu chuyện này có liên quan gì với nhau?
O’Hare – Trung tá phi công hải quân Butch chính là con trai của Easy Eddie.Tuổi thơ và tấm gương của người cha luôn để lại dấu ấn cực kỳ sâu sắc cho cả cuộc đời này!
Sưu tầm
https://en.wikipedia.org/wiki/Edward_O%27HareO’Hare là tên phi trường quốc tế ở Chicago
Thành phố Chicago trông thật nổi bật bên sự êm đềm của dòng sông Những thông tin thú vị về Chicago
1. Vườn thú Lincoln
Với diện tích 14 ha, Vườn thú Lincoln, nằm ở phía tây của hồ Michigan là một trong số ít các vườn thú trên thế giới cho phép du khách vào cổng miễn phí.
2. Viện bảo tàng nghệ thuật
Ngoài bảo tàng Louvre ở Paris, Pháp; Viện Nghệ thuật Chicago, nằm trên South Michigan Avenue đang lưu giữ bộ sưu tập lớn nhất của những bức tranh ấn tượng nhất.
3. Sông Chicago
Đây là con sông duy nhất trên thế giới chảy ngược. Lý do là bởi vì các nguy cơ về sức khỏe của người dân, trong năm 1800 và đầu những năm 1900 người ta đã tiến hành đảo ngược dòng chảy của sông.
4. Ngân hàng máu đầu tiên
Năm 1937, Chicago là ngân hàng máu đầu tiên tại Mỹ.
5. Sự ra đời của dây kéo
Dây kéo ra đời vào năm 1851, hệ thống làm sạch chân không vào năm 1868 và các bánh xe Ferris vào năm 1893, tất cả đều được phát minh tại Chicago.
6. Truyền hình màu
Năm 1956 lần đầu tiên tất cả truyền hình màu xuất hiện lần đầu ở Chicago với WMAQ-TV, một sản phẩm của NBC.
7. Cửa hàng McDonald đầu tiên
Ray Kroc đã mở nhà hàng McDonald đầu tiên tại Des Plaines, ngoại ô Chicago, vào ngày 15/4/1955.
Xem Thêm lịch khởi hành và giá tour du lịch mỹ: tại đây
8. Cái nôi của Walt Disney
Walt Disney đã được sinh ra tại Chicago vào ngày 05/12/1901. Ông cũng tham dự trong việc hình thành của Viện Nghệ thuật Chicago.
9. Thư viện công cộng
Từ đống tro tàn trong trận hỏa hoạn lớn ở Chicago năm 1871 thư viện công cộng Chicago đã được xây dựng.
10. Chiếc điện thoại di động đầu tiên
Martin Cooper, một người gốc Chicago, phát minh ra điện thoại di động đầu tiên. Ngày 03/04/1973, Cooper thực hiện cuộc gọi điện thoại đầu tiên tại thành phố New York.
-
Chicago – Thành phố Gió
Đây là thành phố lớn thứ 3 ở Mỹ. Chicago là nổi tiếng vì là một trong những thành phố lớn tại Mỹ, độc đáo với kiến trúc chọc trời đầu tiên trên thế giới.
Chicago nằm ở đông bắc bộ tiểu bang Illinois, trên bờ tây nam của hồ Michigan. Đây là thành phố chính của vùng đô thị Chicago tại Trung Tây Hoa Kỳ và vùng Ngũ Đại Hồ. Chicago nằm trên một đường phân thủy lục địa tại điểm Chuyển tải Chicago, nối lưu vực sông Mississippi và lưu vực Ngũ Đại Hồ. Thành phố nằm bên hồ nước ngọt Michigan rộng lớn, và hai sông là sông Chicago qua trung tâm và sông Calumet chảy qua vùng công nghiệp South Side. Lịch sử và kinh tế của Chicago gắn chặt với hồ Michigan. Phần lớn vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy của khu vực trước đây sử dụng sông Chicago, song hiện nay các tàu to chở hàng trên hồ sử dụng cảng Lake Calumet tại South Side. Hồ Michigan giúp điều hòa khí hậu cho Chicago; khiến cho các khu phố ven hồ có chút ấm hơn vào mùa đông và mát hơn vào mùa hạ.
Từ hai thập niên cuối của thế kỷ 19, Chicago là điểm đến của các làn sóng nhập cư từ Nam, Trung và Đông Âu, như người Ý, người Do Thái, người Ba Lan, người Bosnia, và người Séc. Năm 1930, hai phần ba số người Mỹ gốc Phi tại Chicago sống tại các khu vực mà người Da đen chiếm khoảng 90% dân số. South Side của Chicago là nơi tập trung đông người Da đen đô thị thứ nhì tại Hoa Kỳ, sau Harlem tại New York.
Trên một nửa dân số của tiểu bang Illinois sống tại vùng đô thị Chicago. Chicago là thành phố lớn nhất tại siêu đô thị Ngũ Đại Hồ.
Hồ Michigan, một trong Ngũ Đại Hồ, bao la như biển Nhiều lãnh đạo tôn giáo thế giới từng đến Chicago, bao gồm mẹ Theresa và Đạt Lai Lạt Ma thứ 14. Giáo hoàng Gioan Phaolô II đến Chicago vào năm 1979 trong chuyến công du đầu tiên của ông tới Hoa Kỳ sau khi được bầu làm giáo hoàng.
Cách thuật nhớ phổ biến để nhớ lại tên của các hồ là chữ “HOMES” (tiếng Anh: “những cái nhà”), tức là Huron, Ontario, Michigan, Erie và Superior, nhưng cách này không có thứ tự đặc biệt nào. Những cách khác, thí dụ như Sister Mary Hates Ecumenical Overtures (“Xơ Maria ghét những ca khúc khởi đầu của nhà thờ”) hay She Made Harry Eat Onions (“Bà ấy bắt Harry phải ăn hành”), xếp các hồ từ phía tây đến phía đông.
Đi bộ dọc hồ Michigan Đi thuyền trên hồ Chicago là quê hương của những tòa nhà chọc trời đầu tiên và là một trong những thành phố được xây dựng đẹp nhất trên thế giới. Nếu du khách có dịp du ngoạn đến “thành phố của gió” , thì đừng quên chiêm ngưỡng những tòa nhà lộng lẫy, nổi tiếng nhất thành phố xinh đẹp này.
Tháp Willis
Tháp Willis được công nhận là tòa tháp cao nhất ở Chicago và một trong những tòa nhà nổi tiếng nhất trên toàn cầu. Hoàn thành vào năm 1973, nó đã đạt danh hiệu tòa nhà cao nhất thế giới cho đến năm 1998. Ngày nay nó vẫn là tòa nhà cao thứ hai tại Hoa Kỳ và trước đây được gọi là Tháp Sears cho đến hết năm 2009.
Tháp Willis nổi bật giữa thành phố Chicago về đêm Chicago là quê hương của những tòa nhà chọc trời đầu tiên và là một trong những thành phố được xây dựng đẹp nhất trên thế giới. Nếu du khách có dịp du ngoạn đến “thành phố của gió” , thì đừng quên chiêm ngưỡng những tòa nhà lộng lẫy, nổi tiếng nhất thành phố xinh đẹp này.
Tháp Willis
Tháp Willis được công nhận là tòa tháp cao nhất ở Chicago và một trong những tòa nhà nổi tiếng nhất trên toàn cầu. Hoàn thành vào năm 1973, nó đã đạt danh hiệu tòa nhà cao nhất thế giới cho đến năm 1998. Ngày nay nó vẫn là tòa nhà cao thứ hai tại Hoa Kỳ và trước đây được gọi là Tháp Sears cho đến hết năm 2009.
Chicago : “Thành phố Gió” (WINDY CITY)
1/- Thành Phố Của Túi Gió
Một báo cáo chính xác hơn là cái tên này đã được các nhà báo thời đó từ các thành phố khác đặt ra để chỉ Chicago. Một điều cần lưu ý là những phóng viên này không sử dụng tên này như một thuật ngữ thể hiện sự quý mến. Thay vào đó, họ dùng nó với ý nghĩa rằng thành phố đầy rẫy những “túi gió”, tức là những người tham lam chỉ quan tâm đến tiền bạc. Cụ thể hơn, những kẻ túi gió này là những chính trị gia và những người nổi tiếng. Ví dụ, một phóng viên của tờ Chicago Daily Tribune tuyên bố rằng thành phố có một lực lượng cảnh sát vô dụng đang thể hiện sự phù phiếm của mình trong thành phố lộng gió. Một phóng viên khác từ Milwaukee cũng viết điều tương tự và đề cập đến đạo đức thối nát mà Chicago đã so sánh với Milwaukee. Sau khi hai nhà báo này bắt đầu sử dụng cái tên này, nhiều nhà báo cũng thúc đẩy việc sử dụng cái tên này. Đáng chú ý, hầu hết những nhà báo đó đều đến từ thành phố New York do thất bại cay đắng.2/- Chicago được gọi là “Thành phố Gió” vì có hai lý do khả thi. Một là do những cơn gió lạnh thổi từ hồ Michigan. Hai là do các thành viên của các thành phố đối thủ đã đặt cho Chicago cái tên này để chế giễu các chính trị gia và cư dân tự mãn của thành phố này. Thuật ngữ này được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1856 để chỉ Green Bay, nhưng sau đó được liên kết với Chicago vào năm 1876 do sự cạnh tranh của thành phố này với Cincinnati-
Sự cạnh tranh với Cincinnati
Theo đó, rõ ràng là Chicago không tự đặt tên cho mình nhưng đây là cái tên mà thành phố đã học cách áp dụng trong nhiều năm. Như đã nói trước đó, Cincinnati cũng là nơi được sử dụng cái tên này nhiều nhất có thể do sự cạnh tranh giữa hai thành phố. Sự cạnh tranh của họ liên quan đến việc buôn bán thịt đóng gói.Bắt đầu từ thập niên 1960, giống như hầu hết thành phố tại Hoa Kỳ, nhiều cư dân da trắng của thành phố chuyển đến vùng ngoại ô, các khu phố biến đổi hoàn toàn về phương diện chủng tộc.[38] Thay đổi kết cấu trong công nghiệp khiến những công nhân tay nghề thấp chịu ảnh hưởng nặng nề. Năm 1966, Martin Luther King, Jr. và Albert Raby lãnh đạo Phong trào Tự do Chicago, phong trào lên đến đỉnh với các hiệp định giữa Thị trưởng và các lãnh đạo phong trào. Các dự án xây dựng lớn được tiến hành trong thời gian nhiệm kỳ của Richard J. Daley, gồm có tháp Sears (nay gọi là Willis Tower), Đại học Illinois ở Chicago, McCormick Place, và Sân bay quốc tế O’Hare.
Năm 1999, các nhà chức trách Công viên Millennium và một nhóm các nhà sưu tập nghệ thuật, phụ trách bảo tàng và kiến trúc sư đã xem xét những đề xuất thiết kế điêu khắc của 30 nghệ sỹ. Ủy ban này đã chọn dự án điêu khắc của nghệ sỹ quốc tế nổi tiếng Anish Kapoor qua đề nghị của nghệ sỹ Jeff Koons để xây dựng một công trình150-foot (46m) thường trực tại công viên. Hợp đồng với Kapoor cũng nêu rõ rằng tác phẩm nghệ thuật phải được thiết kế để tồn tại khoảng 1000 năm. Phương án đề xuất của ông, sau được gọi là Cloud Gate, được lấy cảm hứng từ thủy ngân lỏng và được thiết kế để phản chiếu chân trời của Chicago. Cloud Gate là công trình công cộng ngoài trời đầu tiên bằng thép không gỉ của nghệ sỹ người Anh Anish Kapoor được dựng tại Mỹ. Tác phẩm ban đầu được dự tính nằm ở góc đông nam của Vườn Lurie, nhưng các quan chức công viên cuối cùng quyết định vị trí đặt ở AT & T Plaza, vị trí hiện tại của tác phẩm điêu khắc này.
Cấu trúc thiết kế tượng đã nảy ra vô số tình huống phân vân, khó xử. Có những lo ngại rằng nó có thể giữ nhiệt và truyền nhiệt độ nóng, lạnh. Quá nóng để chạm vào nó về mùa hè và lạnh đến nỗi một cái lưỡi có thể dính vào nó vào mùa đông. Cũng đã có những ý kiến cho rằng sự thay đổi nhiệt độ trái ngược cực điểm như vậy có thể làm suy yếu cấu trúc. Rồi thì những graffiti, phân chim và dấu vân tay… cũng là vấn đề nhức nhối, vì chúng sẽ ảnh hưởng đến tính thẩm mỹ của tác phẩm điêu khắc. Vấn đề cấp bách nhất là việc mong muốn tạo ra một cấu trúc liền mạch duy nhất, không hàn. Norman Foster đã tính tới bao nhiêu phương án tưởng như không thể. Một vấn đề khác là tác phẩm điêu khắc ban đầu được ước tính nặng 60 tấn, vì không thể ước tính độ dày của thép tương thích với tạo hình thẩm mỹ mong muốn, nên cuối cùng, hiển nhiên, nó nặng tới 110 tấn và việc dàn dựng chịu lực phải được thực hiện sao cho nâng được nó. May mắn thay, tất cả các vấn đề đã được giải quyết.
Điêu khắc không thể tiến triển mà không có sự sáng tạo và cảm hứng. Điều thực sự rất khó đối với các nhà điêu khắc là việc đi đến có một ý tưởng hay mà chưa ai có thể tưởng tượng ra. Anish Kapoor chính là một trong số các nghệ sĩ tài năng với Cloud Gate (tạm dịch là Cổng mây), công trình nghệ thuật nổi tiếng của ông.
Cloud Gate – Khối điêu khắc hình trứng khổng lồ với trọng lượng 110 tấn, được gò tạo từ một loạt đồng nhất những tấm thép không có độ bóng cao. Bên ngoài tác phẩm điêu khắc tựa như tấm gương lớn phản chiếu bầu trời với những nóc nhà nổi tiếng của thành phố và những đám mây. Bên dưới tác phẩm điêu khắc, một vòm cầu cao chừng 3,7 mét, tạo nên “cửa” một buồng lõm, mời gọi du khách tản bộ xung quanh, chạm vào bề mặt như gương của tác phẩm và nhìn thấy muôn vàn hình ảnh phản chiếu biến dạng và kỳ thú của mình từ nhiều góc nhìn. Tác phẩm điêu khắc của Kapoor được dựng lên dựa trên nhiều chủ ý nghệ thuật, mặc dù vậy đối với nhiều khách du lịch chỉ đơn giản là xem tác phẩm điêu khắc với đặc tính phản quang độc đáo của nó là một cơ hội tuyệt vời để chụp ảnh.
Tác phẩm điêu khắc này lần đầu tiên khi ra mắt được công chúng và các phương tiện truyền thông tên là The Bean (Hạt đậu), nhiều tháng sau nó mới được Anish Kapoor chính thức đặt tên là Cloud Gate. Cái tên đến từ thực tế là ba phần tư bề mặt bên ngoài của tác phẩm điêu khắc phản chiếu bầu trời, và tác phẩm điêu khắc này trông tựa như cái cổng vào bầu trời.
Cloud Gate đã trở thành biểu tượng của thành phố Chicago. Công chúng đã ngay lập tức yêu thích nó, trìu mến đặt tên là Hạt đậu. Như có một quyền lực to lớn, nó thu hút tất cả những người dân địa phương, khách du lịch cũng như những người hâm mộ nghệ thuật. Đây là một trong những điểm thu hút việc chụp ảnh nhiều nhất trong thành phố, và hình ảnh của nó được sao chép trên các trang web internet và du lịch, các tạp chí nghệ thuật và kiến trúc.
The American Welding Society (Hiệp hội hàn của Mỹ) đã công nhận Cloud Gate, MTH Industries và PSI như một nhóm liên kết, và quyết định trao cho họ giải thưởng Extraordinary Welding Award. Tác phẩm điêu khắc tại công viên Millennium này được nêu tên là một trong 10 thành tựu kiến trúc đẹp nhất năm 2004.
Vài dòng về Anish Kapoor
Anish Kapoor sinh ra tại Bombay vào năm 1954, và hiện đang sống và làm việc tại London. Ông đã học tại Hornsey College of Art (1973-1977) và Trường Nghệ thuật Chelsea, London (1977-1978).
Kapoor là một trong một thế hệ các nhà điêu khắc người Anh, cũng như các đồng nghiệp điêu khắc Anh Tony Cragg và Richard Deacon, là những người đã đạt được sự công nhận quan trọng trong những năm 1980 và có chung mối quan tâm đến vật liệu sử dụng và hình thức nghệ thuật trừu tượng.
Trong loạt sáng tác đầu tiên (1989-1990), ông tập trung vào hình hình học và màu sắc, sắp đặt những hình nửa vòng tròn, hình máy bay và các hình dạng khác được thể hiện với bảng màu sáng. Năm 1990, ông đại diện cho nước Anh tại Venice Biennale với “Void Field”, và trong suốt thập kỷ các tác phẩm điêu khắc của ông được đầu tư với nhiều tham vọng hơn, thao tác ngày càng cao cả về hình thức và không gian. Ông đã giành giải Turner năm 1991 và vào năm 2002 đã nhận được hợp đồng đặc biệt bởi Ủy ban Unilever cho hội trường Turbine của Tate Modern ở London.
Ngoài việc được đặt mua tác phẩm cố định lớn của ông là Cloud Gate (2004) cho công viên Millennium ở Chicago. Trong suốt sự nghiệp của mình nhiều triển lãm cá nhân đã diễn ra tại MAC Grand-Hornu, Bỉ (2004); Museo Archeologico Nazionale, Naples (2004); Kunsthaus Bregenz (2003); Trung tâm Nghệ thuật đương đại Baltic, Gateshead (1999); Piazza del Plebiscito, Naples (1999); Hayward Gallery, London (1998); và Fondazione Prada, Milano (1995). Kapoor được đại diện bởi Gladstone Gallery ở New York-
*** Sân bay quốc tế O’Hare-
HAI CHUYỆN THẬT HAY VÔ CÙNG
– O’Hare là tên phi trường quốc tế ở Chicago .
– Al Capone, 1 tên gangster khét tiếng một thời ở Mỹ.
– Easy Eddie là luật sư của Al CaponeCó rất nhiều quân nhân Mỹ can trường trong Thế chiến thứ hai. Một trong những anh hùng đó là O’Hare – Trung Tá Phi Công Hải Quân Butch. Trung Tá O’Hare là phi công khu trục phục vụ trên hàng không mẫu hạm Lexington trong vùng biển Nam Thái Bình Dương.
Câu chuyện thứ nhất
Một hôm, phi đoàn của O’Hare được giao thi hành một phi vụ quan trọng. Sau khi cất cánh, liếc nhìn bảng đồng hồ, ông nhận ra có chuyện không ổn, hoặc là đồng hồ báo xăng bị hư hoặc là ai đó đã không bơm đẩy xăng cho ông. Với tình trạng này, ông không đủ xăng để hoàn thành nhiệm vụ và trở về. Trung tá O’Hare báo với Phi Đoàn Trưởng và được lệnh phải quay về. Ông miễn cưỡng rời khỏi đội hình và quay trở lại hàng không mẫu hạm.
Trên đường về, bỗng O’Hare thấy một cảnh tượng làm ông dựng tóc gáy: Dưới thấp xa xa trước mặt ông là một phi đoàn oanh tạc cơ của Nhật đang trên đường tiến về hạm đội Hoa kỳ. Phi đoàn khu trục của Hoa Kỳ đã bay đi thi hành nhiệm vụ và hạm đội không còn bảo vệ. Dù có gọi, phi đoàn khu trục cũng không thể trở về kịp để cứu và cũng không đủ thời gian để báo về hạm đội mối nguy hiểm sắp đến. Việc duy nhất còn có thể làm là bằng bất cứ giá nào cũng phải xua đuổi, phá tan hoặc chuyển hướng đội oanh tạc cơ Nhật.
Trung Tá Phi Công Hải Quân Hoa Kỳ Butch O’Hare.Không còn nghĩ đến an nguy cho mình, trung tá O’Hare lao thẳng vào đội hình phi đoàn oanh tạc cơ Nhật, bốn nòng súng 50 ly gắn trên cánh nhả đạn đỏ rực, ông nhắm bắn hết chiếc này đến chiếc khác. Đến khi hết đạn, ông vẫn tiếp tục tấn công, liều lĩnh đâm thẳng vào các phi cơ Nhật, cố gắng cắt đuôi chiếc này, hay cắt cánh chiếc kia mong cho họ không điều khiển và bay được. Trong đáy cùng tuyệt vọng, ông đã làm bất cứ gì có thể làm để các oanh tạc cơ Nhật không đến được hạm đội Hoa kỳ.
Cuối cùng, các phi công Nhật bối rối và chuyển hướng. Thở ra nhẹ nhõm, trung tá O’hare lê lết chiếc máy bay tả tơi của mình về lại hàng không mẫu hạm. Ông báo cáo sự việc, chiếc máy quay phim gắn trên phi cơ là bằng chứng rõ ràng nhất. Nỗ lực trong tuyệt vọng để bảo vệ hải đội Hoa kỳ, ông đã hạ 5 chiếc oanh tạc cơ Nhật.
Đó là ngày 20/2/1942. Trung tá O’Hare là phi công Hải Quân đầu tiên trong quân chủng được trao tặng Huân Chương Danh dự của Quốc Hội Liên Bang Hoa kỳ. Năm 1943, trung tá O’Hare tử trận trong một cuộc không chiến lúc ông 29 tuổi. Để không ai có thể quên được người anh hùng này, phi trường thành phố Chicago, quê hương ông, đã được đặt tên là phi trường O’Hare.Câu chuyện thứ hai
Hơn 15 năm trước đó, tại thành phố Chicago có một người mang biệt danh là Al Capone. Trong thời gian này, Al Capone hầu như làm chủ thành phố, trở thành ông trùm mafia nổi tiếng nhất Chicago và nước Mỹ thời đó …
Easy Eddie là luật sư của Al Capone. Chắc chắn Eddie rất giỏi, tài năng của Eddie đã giúp Al Capone nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Để tỏ lòng biết ơn, Al Capone hậu đãi Eddie rất lớn. Không chỉ tiền bạc mà còn tài sản. Gia đình Eddie sống trong một lâu đài lớn, chiếm nguyên một đoạn đường của thành phố Chicago.Edward Joseph O’Hare hay còn gọi là “Easy Eddie”, sinh ngày 5/9/1893 – 8/11/1939), luật sư ở St. Louis.
Ông trùm Al Capone (1899-1947) chỉ đạo các băng nhóm tội phạm tại Chicago suốt những năm 1920s.Như mọi người cha khác, Eddie có một “nhược điểm”, ông có một con trai và yêu con vô cùng. Cậu bé có một cuộc sống hoàn hảo. Và mặc dù chìm ngập trong thế giới tội ác, Eddie cũng đã có những cố gắng dạy con biết thế nào là phải, trái.
Eddie đã dạy cậu con trai vượt lên từ cuộc sống nhớp nhúa của chính mình, ước mong con sẽ là người tốt … Dù giàu có và quyền thế, nhưng vẫn có một thứ Eddie không thể cho con, một thứ mà chính Eddie đã trót bán cho Al Capone: Đó chính là danh dự.
Qua nhiều đêm trằn trọc thao thức, Eddie quyết định cố gắng rửa sạch những vết nhơ dưới cái tên của mình, ngõ hầu cho con biết thế nào là trung thực và ngay thẳng.Và cuối cùng, Eddie quyết định ra trước tòa làm nhân chứng, chống lại ông trùm, biết rằng giá phải trả sẽ không nhỏ. Trên hết thảy, Eddie muốn phục hồi tên tuổi mình, hy vọng sẽ để lại cho con tấm gương và danh dự.
Eddie đã ra trước tòa làm nhân chứng, trùm Al Capone vào tù. Vài tháng sau, Eddie gục ngã trong cơn mưa đạn trên một con đường lẻ loi ở Chicago.Vậy hai câu chuyện này có liên quan gì với nhau?
O’Hare – Trung tá phi công hải quân Butch chính là con trai của Easy Eddie.Tuổi thơ và tấm gương của người cha luôn để lại dấu ấn cực kỳ sâu sắc cho cả cuộc đời này!
Sưu tầm
https://en.wikipedia.org/wiki/Edward_O%27HareO’Hare là tên phi trường quốc tế ở Chicago
-
Suy Ngẫm
-
ĐÀ LẠT VÀ “HỢP TÁC XÔ – THÁI NỮ LAN
ĐÀ LẠT VÀ “HỢP TÁC XÔ – tháinữlanNhớ các bác và anh chị Ngô thị Lý, Trần văn Sang, Phan gia Khả, Nguyễn văn Long cùng các bạn của những ngày Cực mà Vui ấy rất nhiều . . .
***
Từng thùng cây thông con được đưa từ chiếc xe tải vừa sửa xong xuống đất.
37 người làm trong “Hợp Tác Xã Sửa Chữa Ô Tô 19/8 ” Đà Lạt, đang đi công tác ở gần thác Prenn: Bửu Sơn Tự, là một ngôi chùa nhỏ của vài chú tiểu và một nhà sư tu được vài năm nay. Chùa có ngọn đồi không cao lắm, còn đất trống nên nhường cho Hợp Tác Xã để trồng cây. Cuối tuần này các công nhân đến “công tác”.
Những “công nhân” từ trước đến giờ chỉ biết làm bạn với bút vở hoặc những sĩ quan của QLVNCH mới đi “học tập cải tạo” về, ngày xưa chỉ huy đàn em nhiều vô số, điều binh khiển tướng. . . bây giờ đành nuốt nghẹn cho qua ngày tháng, cùng “hợp tác” vào xưởng sửa chữa này với các nghề nghiệp: thợ máy, thợ hàn, thợ sơn, thợ điện. . . có được vài ba nữ nhi làm thư ký, thủ quỹ.
Đây là công ty kết hợp 3 ông chủ Ga ra có tiếng ở Đà Lạt: Ga ra Ba Đời– Ga ra Trung Tính và Ga ra Hiệp Thành.(Ga-ra Trung Tính của chú Nguyễn Trung Tính và Hiệp Thành của bác Nguyễn Hữu Định ở gần trường Việt Anh, ga-ra Ba Đời của chú Nguyễn văn Đời ở gần cây xăng Kim Cúc, trên đường đi về Sài Gòn).
Đợt I trồng cây hôm nay thì cả xưởng phải đi. Sau đó, mỗi 2, 3 tuần thì một toán gồm các nam nhi thay phiên nhau xuống để trồng tiếp .
[cũng như thanh niên thanh nữ đều phải đi lao động ở các phường xã, trồng cây trên nhiều đồi ở Lâm Đồng, trong đợt ” Vì Lợi Ích 10 năm Trồng cây và 100 năm Trồng người” của “Đảng và nhà nước“]
Hôm đó Chủ Nhật – Trời đầy sương mù, mùa nhập học – Những người thợ lẳng lặng làm công việc của mình. Người nam đào đào cuốc cuốc, người nữ đem những em bé thông bỏ vào lỗ, lắp đất lại. Có anh chàng nghệ sĩ hát nghêu ngao, phá vỡ bầu không khí yên lặng buồn chán. . . mỗi người suy nghĩ về những ngày xưa yên ả trong tổ ấm với cha mẹ anh chị em, người thì đang lo âu không biết người thân của mình đang lênh đênh trên biển, hay đã nằm trong bụng cá, hoặc đã may mắn đến một trại tỵ nạn nào đó . . .
Bỗng
“Trên dốc đá
Tôi tình cờ quen nàng“… *1/-
Lời ca thật cao vút nào vừa cất lên-
– Ôi! Anh Long, lãng mạn dữ ta! (Anh ấy là cựu Trung Úy Biệt Động Quân, rất dễ thương, và đàn hát rất hay.)
– Tôi nói dùm anh bạn thân của tôi đây nè! Anh ấy đang cuốc bên cạnh chị đó!
Tôi nhìn sang bên trái, và thấy anh ấy cũng đang nhìn mình – Ngày ấy mình bao nhiêu tuổi, tưởng rằng con tim đã chai đá sau những người xưa . . . nhưng sao giờ đây vẫn rộn ràng. . .
Anh làm thủ kho kiêm thợ điện của Hợp Tác Xã – tôi là thủ quỹ. Anh vừa đi “cải tạo”về; anh và tôi vào HTX vì đều “lỡ thời”, không có nghề ngỗng vì lý lịch dày quá!
Bỗng dưng, thấy tóc mình lõa xõa bay tứ tung, tôi không biết phải làm sao, dây cột tóc tuột mất rồi, hai tay thì đầy cả bùn đất. Hôm ấy không nhớ đem bao tay theo, mà tìm nước để rửa thì không thấy đâu, chắc phải lên chùa mới có. Anh vừa trông thấy vẻ khó chịu của tôi liền bước đến bên cạnh khi tôi hỏi anh có thể cột lại tóc dùm được không?
Cảm giác lạ lẫm khi tay anh chạm vào gáy. Học Đại học 4 năm từ vài năm trước, có vài người đã “đi qua đời tôi”, nhưng chỉ đi dạo “Chủ nhật uyên ương hẹn hò đây đó“. . ., chưa có ai cột tóc cho tôi – Sau này anh bảo: Chưa bao giờ thấy tóc mịn như tơ vậy cả . . .
Sau buổi trồng cây hôm ấy, rồi nhiều tháng qua, đi về cùng đường, lúc đầu thì đôi khi vô tình thấy anh đi trước, hoặc tôi đi trước, thế là chờ nhau để đi sánh đôi. . . Rồi sau này buổi sáng anh chờ tôi xuống hết con dốc, ngang qua nhà anh thì anh mới ra để đi cùng. Buổi chiều về, đi ngang khu nhà của anh, lúc xưa còn thưa thớt nhà, phải đi ngang một khu rừng nhỏ, có con suối bé tí, có vài mỏm đá, anh lựa phiến đá nào không trơn, bước lên, tôi chỉ việc bước theo anh-
Có lúc quay đầu lại, anh hỏi:
-Tại sao đi theo vậy, lỡ không đúng phiến đá nhẵn thì sao?
Tôi định trả lời: – Thì té xuống thôi ạ, nhưng thôi.
Có lần tiệc Tất Niên của tiệm sửa xe, mọi người đều chĩa mũi dùi vào anh và tôi, nhiều bạn trong tổ Máy nhao nhao:
-Thủ kho mà o (ve vãn) thủ quỹ nè!
Nào thủ kho ơi, nâng ly xem nào!
“Quân tại Tương giang đầu / Thiếp tại Tương giang vĩ
Tương tư bất tương kiến / Đồng ẩm Tương giang thủy” *2/-
( Chàng ở đầu sông Tương/ Thiếp ở cuối sông Tương
Nhớ nhau mà không thấy/ Cùng uống nước sông Tương “-
– Nhà tôi cách nhà anh vài rặng thông, đầu dốc, cuối dốc, ở con đường đi vào Dinh 3 của vua Bảo Đại.
Và rồi, anh Long lại hỏi:
-Tại sao tên chị không giống ai vậy chị? Tôi thường nghe nào là Ngọc Lan, Bạch Lan, Thanh Lan, Hoàng Lan… Tên chị ngộ ghê ta!
Tôi bèn kể rằng:
– Có một gia đình sống ở một nông trại gần thác Cam Ly Đà Lạt- Họ sinh được một gái, một trai- Khi cậu con trai được vài tháng tuổi thì người cha phải đi xa trong nhiều năm. Bảy năm sau, ông trở về, và sau đó một đứa con gái nữa lại ra đời.
Bảy năm gặp lại nhau, như Chức Nữ và Chàng Ngưu Lang ở cầu Ô Thước, trên Thiên Đình, . . .
Họ bên thơ mộng đặt tên cho con gái là Nữ Lan.(đáng lẽ có chữ g, nhưng giống khoai lang quá…)
Ôi cái tên kỳ cục, phải không ạ?
&&&
Có một hôm, tôi vào kho để xin xuất giấy in hồ sơ giấy tờ cho văn phòng. Sau khi giao hàng và đưa sổ cho tôi ký, anh còn đưa tôi một phiếu xuất kho khác, và dặn về nhà rồi hãy đọc- Thật là một tài liệu hiếm quý và không giống bất kỳ tờ phiếu xuất kho nào: Xuất Kho: Người nhận:- Hàng xuất: Một lời nói gói trong một trái tim. . .! (màu hồng nữa chứ! Ôi!) -Tôi nhớ lời cô em gái anh kể, ngày xưa cô rất nhiều nàng theo anh, nhưng anh rất khó tính, và ít nói về chuyện này, còn bao nhiêu chuyện khác thì rất uyên bác- (và anh cũng không cần phải tặng tôi tập thơ “Ta Chờ em Từ Ba Mươi Năm” (Thi sĩ Vũ Hoàng Chương) như người tài xế tàu bay đã tặng tôi)
Và rồi, tôi vẫn đi theo anh. . .cho đến một ngày anh đến xin phép BaMe tôi để đưa tôi về gặp Bố Mẹ anh. Ôi, người Bắc! Tôi đã không dám về nhà của một anh sinh viên người Huế vì Me tôi bảo: “Tránh người Huế và người Bắc nghe con (mặc dù gia đình mình là người miền sông Hương)”
Tránh trời không khỏi nắng !!!
Nhiều tháng qua. . .
Và hôm đám cưới: tất cả những xe của HTX vừa mới được sửa xong, cả 3 người giám đốc và các chủ xe đều rất hân hoan cho nhà trai xử dụng bao nhiêu là xe, khoảng 12 chiếc lớn nhỏ làm nguyên một phái đoàn đến rước dâu đi nhà thờ làm lễ…
Xe hoa “thời bao cấp” là chiếc xe van chở cả bên họ nhà trai đến – Thật là đặc biệt!
Hoa làm bó hoa cho cô dâu và gắn chung quanh xe là marguerites (cúc trắng có nhụy hoa vàng rất to) là loại hoa tôi rất thích, nhưng lúc đó ở chợ Đà Lạt không thấy bán, nên anh Long và 2 người trong tổ Sơn đến hái trộm ở vườn Bích Câu…!
Những năm tháng cơ cực- Phải rời bỏ Đà Lạt đề về Sài Gòn. Anh đi làm ghe với bạn, ngõ hầu có thể đem cả gia đình đi, vì vốn liếng cả bên nội ngoại đều dồn hết cho chuyến đi của anh lớn và hai em trai tôi, sợ phải đi “nghĩa vụ”, nhưng tôi không chịu đi vì Nội Ngoại các cháu đều không thể – như năm 75 tôi đã không đi với anh tài xế tàu bay qua đảo Guam…
Rồi mùa hè – mùa mưa – nhiều mùa qua đi… nhớ lúc còn trong chăn ấm nệm êm với Ba Me và anh chị em, nhớ lúc còn nghịch phá với bạn bè Trung học, học Đại, cư xá của các xơ. . .đã trôi qua mất rồi. . . Bạn bè từ tiểu học. . . rồi những cái “đuôi” – Bây giờ họ ở đâu, có khốn đốn cơ cực như mọi người ở Đất Mẹ không?
Thời nhà nước “mở cửa“- Anh vốn rất thích chụp hình nên đã rủ bạn mở tiệm (photoshop,) chụp và rửa hình. Anh rất say mê với công việc, dù rất nhiêu khê, đối đầu với thuế vụ, cạnh tranh. . . Luôn luôn “Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi“, nên nhiều hôm ở lại trên tiệm đến sáng mới về, vì máy rửa hình hư, và anh vốn là handyman, học hỏi rất nhiều nên có thể sửa được nhiều máy móc cũng như bao nhiêu việc khác – mấy mẹ con tôi rất hãnh diện về điều này – nên cố sửa để kịp rửa hình gấp cho khách (hình thẻ, hình đám cưới đám tang. . . nhất là hình để trên bàn thờ người mới ra đi (anh kể là có khi gia đình không có hình nào của người thân cả, nên phải nghĩ ra cách lấy đuôi nhang chống mi mắt của họ lên để chụp hình, sau làm photoshop để xóa đuôi nhang).
Tôi cũng may mắn làm phiên dịch cho một công ty của Pháp, rồi làm ở Hội Nghiên Cứu Dịch Thuật, dịch đuổi cho Hội nghị, (dịch sau người diễn giả 3, 4 giây…) – điều ngại nhất là dịch cho”cán bộ ta“, dùng toàn từ vựng của “ngoài ấy“!
Ngày qua được xứ Tự Do- trễ nhiều, – đa số bạn bè người thân đã ra đi, người may mắn hoặc kém may mắn. . . như người anh kế rất yêu quý của tôi đã đến được nơi chuyển tiếp vài tháng rồi đã ra đi sau một tai nạn đau lòng – đáng lý ra hôm sau cả ba anh em đều được định cư ở nước Anh. . .- người anh mà tất cả các chị em chúng tôi cũng như gia đình và đại gia đình đều thương quý vì anh rất hiền-
Tôi bị bịnh migraine nên mấy năm sau, bố các cháu chỉ làm tài xế đưa đón tôi đi làm ba, bốn việc trong tuần. Dạy chính ở trường, dạy thêm tiếng Pháp ngoài giờ ở Trung tâm Văn Hóa Pháp cho con của các chuyên gia từ Pháp qua đây công tác, nếu cho chúng học trường Quốc tế nơi tôi dạy thì chi phí rất cao, nên ba mẹ chúng chỉ cho học ngoài giờ hoặc thứ bảy; con cháu người Việt lưu vong được may mắn có bao nhiêu vị thiện nguyện giúp để duy trì Tiếng Nước Tôi ở các chùa và nhà thờ, nhưng con họ phải đến trường tư học thêm.
… Cuối tuần tôi làm cho tiệm bán áo quần – Và buổi tối dịch online cho một văn phòng ở Austin,Texas, đôi khi đi dịch trực tiếp cho hội họp – “Tranh thủ tối đa” để cày… Các con bảo Bố quá cực lúc ở quê nhà rồi – đi học “cải tạo” đến còn da bọc xương, bịnh hoạn… rồi làm ở Hợp Tác Xã sửa xe cũng cực, đến khi cai quản tiệm hình lại cũng chẳng thư thả bao nhiêu -… “nên bây giờ Bố chỉ làm Uber cho mẹ thôi Bố ạ” – Giờ rảnh anh sửa đủ thứ trong nhà, nào xây căn bếp ngoài sân để hàng xóm “nghe ghiền” mùi mắm ruốc…, sửa xe,. . . anh lột bỏ thảm trong các phòng để lót gỗ (tự làm một mình, chuyển đồ đạc trong phòng qua một bên để đặt gỗ xuống, rồi khi xong lại hoàn tất nửa bên kia. . .).
Rồi lại thêm một nghề mới mà anh cũng tỏ ra thích thú: nghiên cứu Youtube về gia chánh, thế là mấy mẹ con tôi tha hồ được thưởng thức tài nghệ của “cordon-bleu” (chef cook), anh rất khéo và để ý, nên những món anh nấu rất tuyệt, cũng như nhà có sẵn máy may nên anh cũng tự mày mò sửa áo quần cho gia đình, bạn bè, áo quần cho cháu nội ngoại, rồi cắt tóc “dạo” không công cho bạn, vì trước đó anh có học nghề này, định mở tiệm, nhưng các con không muốn-
Anh thật đúng là “Bảy nghề”-
Khi vui vui kể về những cái đuôi của “nàng”,. . .nào là bạn cùng lớp ngồi phía sau lưng để vẽ nó rồi mượn tập ép thư, nào là người ở cư xá nam nhờ chim xanh ở cùng phòng với họ và học cùng lớp với nàng, nào là tài xế tàu bay, hoặc là một món nợ band aid. . . hoặc Sơn Tinh Thủy Tinh (bạn ở cư xá chọc vậy thôi, chứ nó đâu có thể là Mỵ Nương ha), anh đã bảo Kệ họ, bởi vì bây giờ họ xa rồi, có anh thôi, và anh cũng chẳng cần biết – Anh luôn tự tin, và anh hơn nhiều người-Thật vậy !.
Nhưng “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” *3/ hay sao cơ chứ hở Trời!
Gia đình tôi không có ai là Má Hồng cả, mà tại sao??
Niềm hạnh phúc bình dị ấy không kéo dài được bao lâu, cho dù cũng chưa trọn vẹn vì hai con trai lớn của chúng tôi du học bên Úc cũng chưa được qua đây, giấy tờ bảo lãnh còn đang kéo dài…
Có lẽ ông Trời ganh…
Anh bị bịnh
Anh chưa làm được nhiều điều: anh rất yêu trẻ con, và anh còn mong chờ cháu ngoại, và thêm cháu nội, vì chỉ mới có con của con trai thứ…anh ước mơ khi các con đã thành thân, có người chăm sóc thay bố mẹ, anh sẽ lái xe chở gia đình các con đi nhiều tiểu bang bằng xe van, đụng đâu nghỉ đó như nhiều bạn anh đã thực hiện được, một giấc mơ quá tầm thường, quá đơn giản.
Nên anh xung phong để bác sĩ thử một loại thuốc mới. Anh không muốn đầu hàng, anh yêu con cháu quá. . .
Anh chưa làm gì được hết, cho dù anh có kéo dài được thêm ngày tháng
Anh chịu thua rồi. . .!!!
Nào là chị Nấm chị Bắp, Nhi, Việt, và cu Nam, em Mai… (Bây giờ có cu Việt rồi đó ông- vài năm trước, ông đã đặt tên cho cu Nam, để nhớ Đất Mẹ…) – Ông ơi, ông thích cháu đầy nhà mà, ngày xưa ông chở bà đi làm, đến ngã tư thấy xe honda bên cạnh có em bé là ông thích lắm, họ cứ tưởng là ông chẳng có “trự” nào, ai ngờ về nhà. . .một lũ 4 “trự”!
******
Rồi Bố còn chưa về lại Việt Nam lần nào, Quê Hương, Đất Mẹ,. . . Sài Gòn, bao nhiêu đắng cay, Nha Trang hiền hòa, mẹ hay kể bao kỷ niệm thời thơ ấu đi nghỉ hè với Ba Me anh chị em…
Và Đà Lạt – ngôi trường của mình, có tháp cao, hiện diện trên hầu hết tất cả những bưu ảnh về xứ Ngàn Thông-
Con đường tình ta đi. . .Con đường của mình, từ nhà mẹ xuống nhà Bố, đi làm. . .
Có còn lại chăng dư âm thôi
Anh ơi, anh ơi! Sao đắng cay*4/-
Mẹ có về một lần cùng với bà Ngoại các cháu,…những con đường…muôn vàn cảnh cũ…khắp nơi… Đau xót quá!
******
Bố ơi- Dù mai đây Ai đưa em đi đến cuối cuộc đời – ngày xưa mẹ hay hát.
Bố thì không thích những bài hát ủy mị, nhưng bây giờ mới thấm, thấy không Bố ơi…(xin đổi là ): Rồi mai đây..Ai đưa em… *5/-
Hở Bố ơi?
Dallas, mùa Đông lạnh buồn-2017 – 𝓽𝓷𝓵
==========================
*1/- Linh Hồn Tượng Đá – Mai Bích Dung – *2/- Trường Tương Tư – Lương Ý Nương –
*3/- Truyện Kiều – NGUYỄN DU) – *4/- Tình Lỡ – Thanh Bình – *5/- Niệm khúc Cuối – Ngô Thụy Miên –
-
Dưới bóng cây tần bì & 10 nhà độc tài nguy hiểm tàn ác nhất lịch sử loài người
Henry Gréville (ThaiLan dịch)
Hai người đang đi chầm chậm trên lối đi hẹp bằng đất thỉnh thoảng có những con đường mòn xanh mơn mởn cắt ngang, mà cứ hai năm một lần những xe đẩy chở cỏ khô hoặc lúa mì lại ùa vào những đám hoa cúc và cỏ. Những cơn mưa gần đây đã tạo thành từng vũng ao nhỏ ở những đoạn lồi lõm; nhưng ở phần giữa đường, đầy bụi bặm và rải rác có dấu vết móng ngựa, thì khúc đường cũng khá rộng để hai người có thể sánh đôi.
– Vậy là nàng không đồng ý phải không?
Anh thanh niên hỏi một cách gượng gạo, đôi mắt nhìn xuống đất và ngón tay quay quay một cọng yến mạch dại. Cô gái vẫn im lặng. Ôi, sao anh ấy có thể tàn nhẫn khi nói rằng chính cô là người không muốn! Tại sao trong những ngày tháng dài như thế mà anh không đoán được chính anh là người mà nàng yêu?
Cô cúi đầu xuống và cầm góc tạp dề màu xanh lên, mân mê, cuộn tròn rồi lại thả ra trong đôi tay run rẩy của mình để tỏ ra không lúng túng, cũng giống như anh xoay vòng cọng cỏ của mình để có thái độ vững vàng.
– Có thật là nàng không muốn? Nàng có nhớ không, chúng ta đã cùng nhau Rước Lễ Lần Đầu, nàng không còn nhớ gì sao?
Cô liếc nhìn tháp chuông nhỏ nhô lên trên hàng rào rồi lại nhìn con đường, bây giờ đám bụi dày đặc đã tạo thành một tấm thảm nhung.
– Thời đó nàng đã yêu tôi rất nhiều, – anh tiếp tục nói một cách cay đắng – nhưng trái tim em đã thay đổi: lúc đó em nói là không thể sống mà không có tôi bên cạnh; rồi sau đó, em đã không còn thích thú khi nhìn thấy tôi nữa.
Cô không nói gì; đôi má cô bỗng ửng hồng thêm lên; anh nghĩ cô sẽ nói điều gì, nhưng cô vẫn im lặng, và tiếp tục đi bên cạnh anh.
Con đường trở nên hẹp hơn, những nhánh cây tần bì và những cây cỏ đang giăng qua đầu họ. Một ngày ảm đạm, êm dịu, thật ngậm ngùi đang đến với họ, len lỏi qua những tán lá, và những tia nắng mặt trời vừa mới nhảy múa dưới chân họ trên con đường được lót bằng thảm cỏ hoang, ở đó hầu như không còn nhìn thấy những con đường mòn nữa.
Anh tiến lại gần hơn và nắm lấy góc tạp dề mà không chạm vào bàn tay run rẩy của cô gái.
– Vâng, tôi nghĩ rằng em đã yêu tôi; tôi đã nghĩ rằng hai chúng ta sẽ dành cả cuộc đời bên nhau; gia đình em không giàu có, tôi cũng chẳng khá hơn; điều này chẳng ảnh hưởng gì đến chúng ta cả, đúng không nàng? Dù thế nào đi nữa, chúng ta vẫn hạnh phúc bên nhau, chỉ cần trong gia đình ta có tình yêu là đủ? Nhưng em đầy tham vọng, tôi hiểu rồi, em chỉ muốn giàu có và trở nên nghiệp chủ, chắc hẳn là thế; em rất sợ phải sống trong nghèo khó… Ôi! Nếu tôi suy nghĩ như em, về phần tôi, giờ này tôi đã kết hôn, đã có một cô vợ bên tôi rồi! Nhưng rồi tôi tự nhủ: Ta sẽ chỉ kết hôn với người ta yêu, và tôi đã tự hứa với mình như thế, không sai vào đâu được! Còn em, trái tim của em muốn tìm kiếm một nơi khá hơn, có địa vị hơn, phải không? Em muốn vươn lên khỏi vị trí hiện tại của em, đúng không?
Anh buông góc tạp dề ra và bực bội nhìn cô. Những người nông dân gặt lúa đang mài lưỡi hái của họ ở cánh đồng cỏ bên dưới; ta có thể nghe thấy tiếng cối xay đang xoay đều đặn trên dòng sông nhỏ. Một điệp khúc của một đoạn hát vượt qua không gian đang mơn man trên đầu họ, và tan nhanh trong bầu khí tháng sáu nóng rực…
– Ôi chàng của em! – cô gái thốt lên, vừa đặt cả hai tay lên vai chàng, và nhìn anh bằng đôi mắt sâu thẳm, đẫm lệ – em vẫn luôn yêu anh, nhưng anh chưa bao giờ nói lời nào, và sáng nay cha đã hứa gả em cho một người khác, chàng ơi chàng!
Cô buông lơi hai bàn tay một cách chậm chạp, chán chường xuống chiếc yếm… Trên kia những tia nắng óng ánh đổi màu đang nhảy múa qua những chiếc lá, và họ đứng đó, bất động, chỉ biết nhìn nhau, lòng mang một nỗi tuyệt vọng khôn cùng; và ở một nơi xa xăm, một gã nào đó vô cùng hạnh phúc đang hân hoan ngân lên bài ca thánh thót, xuyên qua cỏ cây núi rừng, vang rền, bay bổng trên đầu hai người đau khổ.
– Henry Gréville
(ThaiLan dịch)
10 nhà độc tài nguy hiểm tàn ác nhất lịch sử loài người: Kẻ “khát máu” nhất có thể không phải là người bạn nghĩ.
TL dich
Lịch sử cho thấy rằng một số nhà cai trị khát máu đã có thể nắm quyền lực của cả một quốc gia, hoặc thậm chí một số quốc gia, để thống trị nỗi kinh hoàng ở đó. Cuộc sống của những người khác không là gì đối với họ, miễn là họ có thể đạt được mục tiêu của mình: quyền lực tuyệt đối. Dưới đây là danh sách mười nguyên thủ quốc gia tàn ác nhất, đúng ra là những kẻ độc tài trong lịch sử.
10/ Mohammed Suharto
-1998-
Cựu tổng thống Indonesia này nổi tiếng với chính sách chống cộng quyết liệt. Đồng minh trung thành của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh, chế độ độc tài của ông đã gây ra cái chết của 1,5 triệu người trong 31 năm trị vì.
Một năm trước khi lên nắm quyền vào năm 1965, khi còn là một vị tướng trong quân đội Indonesia, Suharto đã tổ chức một trong những cuộc thảm sát lớn nhất của thế kỷ 20. Mục tiêu của ông rất đơn giản: loại bỏ PKI, Đảng Cộng sản Indonesia, đảng có tầm quan trọng thứ ba trên thế giới sau Nga và Trung Quốc. Suharto và người của ông đạt được điều này với sự hỗ trợ tích cực của Hoa Kỳ. Kết quả thật kinh hoàng. Những vụ thảm sát này thực sự đã khiến cho một triệu người đã bỏ mạng.
9/ Kim II-sung ( Kim Nhật Thành)
Kim II-sung là người sáng lập và là nhà lãnh đạo đầu tiên của Bắc Triều Tiên, nơi ông giữ chức chủ tịch cho đến khi qua đời. Ông có liên quan đến cái chết của ít nhất 1,6 triệu người, ông ta chính là ông nội của Kim Jong-un, nhà độc tài hiện tại của đất nước, người tiếp tục bắt giữ thế giới làm con tin bằng các vụ thử bom hạt nhân của mình.
“ Tổng thống vĩnh cửu của Cộng hòa ” giữ đất nước trong tình trạng bị cô lập và áp đặt nhiều lệnh cấm đối với người Bắc Triều Tiên. Kim II-sung cũng chịu trách nhiệm về các cuộc thanh trừng, thành lập các trại tập trung và một chính sách độc đoán không thừa nhận bất kỳ sự chỉ trích nào. Những bức tượng, bài hát, bài thơ, sách, áp phích… Sự sùng bái cá nhân của Kim II-sung thật tày đình. Tiểu sử hoang đường của nhà độc tài khát máu này được tạo nên từ những hành động anh hùng và những sự kiện siêu nhiên gần như lố bịch với cái nhìn từ bên ngoài. Con trai của ông là Kim Jong-il lên nắm quyền điều hành đất nước, hình thành nên triều đại cộng sản đầu tiên trong lịch sử.
8/ Saddam Hussein
–2004- bị xét xử
Nắm quyền ở Iraq, Saddam Hussein không ngần ngại giết tất cả các đối thủ của mình: người Shiite, người Sunni, người Kurd, người Thiên Chúa giáo, người Kuwait, người Kurd, người Ả Rập Xê Út, người Iran… Con số khủng khiếp nạn nhân của ông ta ước tính lên tới 2 triệu người.
Mãi cho đến Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai, triều đại giết người của Raïs (lânh tụ – tiếng Á Rập) mới kết thúc. Sau khi bị quân đội Mỹ bắt giữ, Saddam Hussein thực sự đã bị Tòa án Đặc biệt Iraq kết án tử hình. Ông bị treo cổ vào ngày 30 tháng 12 năm 2006 ở ngoại ô Baghdad.
Kể từ đó, chính quyền Iraq đã cố gắng thu hồi tài sản mà nhà độc tài tích lũy được sau những lạm dụng của ông ta. Kho báu khổng lồ của ông được giấu đằng sau các thỏa thuận tài chính phức tạp được thiết lập tại các thiên đường thuế trên khắp thế giới.
7/ Pol Pot
Là cựu lãnh đạo của Khmer Đỏ và Đảng Cộng sản Campuchia, Pol Pot đứng sau nạn diệt chủng Campuchia. Cuộc thanh trừng người dân của ông đã cướp đi sinh mạng của khoảng 2,5 triệu người trong vài năm. Đó là 20% dân số Campuchia. Nếu cai trị lâu hơn, Pol Pot có thể đứng đầu danh sách những nhà độc tài sát nhân nhất trong lịch sử.
Dọn sạch toàn bộ thị trấn thành các cộng đồng nông thôn, săn lùng tàn nhẫn giới thượng lưu, giam giữ trong các trại lao động… Chế độ độc tài của Pol Pot tàn bạo một cách đáng kinh ngạc. Việc sử dụng tra tấn có hệ thống của Khmer Đỏ là triệu chứng của chế độ khát máu này. Để chấm dứt những cuộc tra tấn không thể tưởng tượng được, những người được cho là chống đối sau đó đã giao tên của những người thân cho những kẻ tra tấn. Những người này lần lượt bị thẩm vấn và đưa ra những cái tên khác khi đã kiệt lực.
Vòng luẩn quẩn này đã góp phần vào sự tự hủy diệt của Campuchia chỉ trong vòng 4 năm.
6/- Enver Pasha
Enver Pasha được coi là một trong những người tổ chức chính cuộc Diệt chủng người Armenia diễn ra trong Thế chiến thứ nhất. Khi đó ông là Bộ trưởng Bộ Chiến tranh của Đế chế Ottoman. Ông chịu trách nhiệm về cái chết của 2,5 triệu người.
Trong cuộc diệt chủng bắt đầu vào năm 1915, hai phần ba người Armenia ở Đế chế Ottoman đã chết. Bộ trưởng Nội vụ của Enver Pasha, Talaat Pasha khát máu không kém, đã viết một bức điện để khuyến khích các cuộc hành quân: “Chính phủ đã quyết định tiêu diệt tất cả người Armenia cư trú ở Thổ Nhĩ Kỳ. Sự tồn tại của chúng phải chấm dứt, cho dù các biện pháp được thực hiện là hành động tội ác. Không cần biết đến tuổi tác và giới tính. Sự cắn rứt lương tâm không hiện hữu ở đây.”
5/- Hideki Tojo
Vừa là Thủ tướng và Bộ trưởng Quân đội Đế quốc Nhật Bản, Hideki Tojo bị kết án về nhiều tội ác chiến tranh trong Thế chiến II. Gần 5 triệu người được cho là đã bị giết theo lệnh của ông ta.
Sau khi quân Nhật đầu hàng, Hideki Tojo định tự sát khi quân cảnh bao vây nhà anh. Tuy nhiên, viên đạn suýt trúng tim anh ta. Cùng với các nhà báo, những người lính Mỹ đã tìm cách cứu anh ta.
Con người được gọi là Hitler Nhật Bản bị xét xử vì những tội ác khủng khiếp nhất trong lịch sử loài người. Hideki Tojo bị treo cổ năm 1948.
4/- Leopold II của Bỉ
Vị vua thứ hai của Bỉ có liên quan đến cái chết của gần 15 triệu người, đặc biệt là do quá trình thuộc địa hóa Congo và các phương pháp được sử dụng để biến người dân địa phương thành nô lệ: (tàn sát, cắt xẻo, nô lệ, v.v.). Đất nước đúng nghĩa là “ sở hữu cá nhân ” của vua chuyên chế .
Trong thời trị vì của Leopold II, người Congo bị áp đặt hạn ngạch sản xuất cao su quyết liệt. Cái chết hoặc cắt cụt chi của công nhân là cái giá phải trả trong trường hợp mất mùa hoặc nổi dậy. Những người lính được gửi đến Congo được hưởng lợi từ việc rút ngắn thời gian nghĩa vụ quân sự nếu họ mang về nhiều bàn tay bị đứt lìa của đồng đội của mình… Một trong quá nhiều ví dụ về sự man rợ được Leopold II của Bỉ cho phép.
3/ Adolf Hitler
Thật là đáng ngạc nhiên và kinh hoàng, Adolf Hitler chỉ đứng ở vị trí thứ ba trong danh sách những nhà độc tài tàn ác nhất trong lịch sử với con số khủng khiếp 17 triệu người bị giết.
Holocaust chắc chắn là tội ác ghê tởm nhất của Quốc trưởng. Tuy nhiên, cuộc thanh trừng sắc tộc đối với người Do Thái ở châu Âu cũng đi kèm với việc thảm sát người giang hồ, người đồng tính luyến ái, người tàn tật… Ngoài ra, nhiều cá nhân đã thiệt mạng trong các trại lao động cưỡng bức của Đệ tam Quốc xã và trong các cuộc giao tranh do khát khao quyền lực của Adolf Hitler gây ra trong sự tàn phá của Thế chiến II.
2/ Joseph Staline
Vị trí thứ hai của “bục danh dự” được trao cho nhà lãnh đạo cộng sản nổi tiếng, Joseph Stalin. Cha đẻ của các dân tộc là nguồn gốc của nạn đói, sự trục xuất, hành quyết … đã khiến hơn 30 triệu người chết.
Nhận xét một cách cay đắng, các cuộc thanh trừng, lao động khổ sai ở các trại lao cải và cưỡng bức nhập ngũ chỉ là một số yếu tố khiến Joseph Stalin trở thành một trong những nhà độc tài giết người khét tiếng nhất trong lịch sử. Việc cưỡng chế tập thể hóa đất nông nghiệp là một bộ mặt củng cố thêm về chế độ độc tài của Bạo chúa Đỏ. Điều này đặc biệt dẫn đến nạn đói ở Ukraine khiến hàng triệu người chết. Liên bang Xô viết đã không làm gì để ngăn chặn. Chính quyền Liên Xô còn được cho là đã khuyến khích việc đó .
1/ Mao Trạch Đông
– Chân dung Mao Trạch Đông trên Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh
Nhà lãnh đạo nguy hiểm nhất không ai khác chính là Mao Trạch Đông, người sáng lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Con số thiệt hại của Hoa Tiêu Vĩ Đại hầu như không thể tưởng tượng được với gần 80 triệu người thiệt mạng. Con số này tương đương với dân số hiện tại ở Thổ Nhĩ Kỳ hoặc Đức.
Một số quyết định của Mao có hậu quả thảm thương nguy kịch đến Trung Quốc. Ví dụ, Đại nhảy vọt, (Đại nhảy vọt ngày nay được đa số mọi người, cả trong và ngoài Trung Quốc, xem như là một đại thảm họa kinh tế, thực sự đúng là một “Đại Nhảy Lùi” (Great Leap Backward) một chính sách quốc gia về hiện đại hóa bắt buộc, đã dẫn đến nạn đói thảm khốc nhất do Con người gây ra. Cuộc cách mạng văn hóa do Mao truy nã đã dẫn đến các vụ thảm sát và bắt bớ trên khắp đất nước.
(theo history&science) – TL dich
&&&&&
Trọng lượng của Ly Nước
Một hôm, vị giáo sư tâm lý học vừa đi vòng quanh giảng đường vừa giảng dạy các nguyên tắc để đối đầu với những căng thẳng trogn cuộc sống cho một khán phòng chật kín sinh viên. Khi cô ấy giơ một ly nước lên, mọi người đều nghĩ rằng họ sẽ được hỏi câu hỏi truyền thống “Ly đã cạn một nửa hay ly vẫn còn một nửa”. Thay vào đó, với nụ cười trên môi, giáo sư hỏi:
-Ly nước mà tôi đang cầm nặng bao nhiêu gam?
Đám sinh viên trả lời ly nước nặng từ vài trăm gam đến khoảng gần nửa kg.
Cô ấy trả lời:-Theo quan điểm của tôi, trọng lượng chính xác của chiếc ly này không thành vấn đề. mà điều quan trọng là thời gian tôi giữ nó trong ty duoc bao lâu. Nếu tôi giữ cái ly trong một hoặc hai phút, có nghĩa là ly khá nhẹ. Nếu tôi cầm liên tục trong một giờ, sức nặng của nó có thể khiến cánh tay tôi hơi mỏi. Nếu tôi cầm liên tục trong một ngày, cánh tay của tôi có thể sẽ bị chuột rút và hoàn toàn tê liệt, buộc tôi phải thả cái lý xuống đất. Trong mỗi trường hợp, trọng lượng của ly không thay đổi, nhưng nếu tôi cầm nó càng lâu, tôi càng cảm thấy nó nặng hơn.
Khi cả lớp gật đầu tán thành, cô tiếp tục:
-Những căng thẳng và lo lắng của các em trong cuộc sống giống như ly nước này. Nếu ta suy nghĩ về chúng chỉ một lúc thôi, sẽ không có gì xảy ra. Nếu suy nghĩ lâu hơn một chút , các em sẽ bắt đầu đau một chút. Nếu suy nghĩ về chúng cả ngày, em sẽ cảm thấy đờ người rồi tê liệt – không thể làm bất cứ điều gì khác trừ khi em xoá bỏ tất cả những lo âu ấy đi.
Bài học: Điều quan trọng cần nhớ là buông bỏ những căng thẳng và lo lắng của bạn. Bất kể điều gì xảy ra trong ngày, vào buổi tối, hãy đặt mọi gánh nặng của bạn xuống càng sớm càng tốt . Đừng mang chúng suốt đêm và sang ngày hôm sau với bạn. Nếu bạn vẫn cảm thấy nặng trĩu vì sự căng thẳng của ngày hôm qua, thì đó là một dấu hiệu và lý do thật chính đáng rằng đã đến lúc phải đặt cái ly xuống, bạn nhé.
(Theo :1,000 Little Things Happy, Successful People Do Differently —1 000 Sự việc Nhỏ nhặt mang Hạnh Phúc – Những Người Thành Công Hành Xử một cách khác đi)
==========
DẤU PHẨY
–
Một giáo viên trẻ đến làng. Thị trưởng muốn xem thử anh chàng thành thị này như thế nào, nên quyết định tham gia vào một buổi học.
Anh thầy giáo nhấn mạnh sự quan trọng của dấu phẩy.
Sau nửa giờ, bài học kết thúc và bọn trẻ ra ngoài để giải lao.
Thị trưởng thấy rằng nửa giờ là dành quá nhiều thời gian cho chỉ một dấu phẩy nhỏ! Trong khi mà có nhiều vấn đề khác quan trọng hơn để học hỏi!– Thưa ông, ông cho rằng , dấu phẩy là không quan trọng sao? Ông nghĩ như vậy ạ? giáo viên trả lời.
– Bây giờ, với những dấu chấm câu, đầu tiên là hai chấm, sau đó là dấu phẩy, ta sẽ có:
Anh ta đi đến bảng đen và viết:
Thị trưởng nói rằng giáo viên là một kẻ ngốc.
Với hai dấu chấm:
Thị trưởng nói: giáo viên là một kẻ ngu ngốc.
Với dấu phẩy:
Thị trưởng, giáo viên nói, là một kẻ ngu xuẩn.
– Thế nên, ngài cho rằng dấu phẩy là không nhằm nhò gì phải không ạ?
Bài học của giai thoại này: Điều kinh khủng nằm trong những chi tiết.Những người soạn thảo bài về luật pháp, hợp đồng và những điều lệ khác biết rất rõ việc này.
Một luật sư có thể thua kiện chỉ vì một dấu phẩy.KHUYẾT DANH
-
CHUYỆN SƯU TẦM VÀ DỊCH – THÁI LAN
1/- BÚT CHÌ VÀ CỤC TẨY
. . . . . . . . Cây bút chì hỏi thăm cục tẩy: – Bạn thân của tôi ơi, bạn khỏe không?Anh bút chì tức giận trả lời:- Tôi không phải là bạn của anh… tôi thù ghét anh…Cục tẩy hỏi lại, giọng kinh ngạc và buồn bã:- Tại sao vậy? Anh bút chì gay gắt:- Bởi vì anh xóa hết tất cả những gì tôi ghi chép!
Cục tẩy lại nói:
– Tớ chỉ tẩy xóa những lỗi lầm thôi.
Bút chì:
– Việc đó thì mắc mớ gì đến anh cơ chứ?…
Cục tẩy:
– Tớ là cục tẩy và đó là công việc của tớ.- Không thể gọi đó là công việc.
– Việc làm của tớ cũng có ích như việc của bạn vậy cơ mà.- Bạn sai rồi và bạn còn kiêu kỳ nữa, bởi vì người viết luôn giỏi hơn kẻ tẩy xóa, t
ôi cho
bạn biết như vậy đó!- Xóa điều sai cũng tương đương như viết điều hay!
Bút chì trầm ngâm một hồi lâu rồi thốt lên với một chút ngậm ngùi:
-Nhưng mà tôi thấy bạn mỗi ngày lại ngắn bớt đi một chút.
Cục tẩy:
– Bởi vì mỗi lần mà tôi tẩy xóa đi một lỗi lầm của bạn thì tôi lại hy sinh một phần của tôi.
Bút chì cũng tâm sự:
– Tôi cũng vậy, tôi nhận thấy mình mỗi ngày mình lại ngắn hơn trước đâymột chút …
Cục tẩy liền nói, để an ủi bút chì:
– Cả bạn và tôi chúng ta chỉ có thể giúp ích người khác bằng cách tựmình hy sinh cho họ…Thế rồi c
ục tẩy nhìn bút chì một cách dịu dàng và hỏi: – Thể bạn vẫn còn ghét tôi đ
ấy
à?Và rồi anh bút chì đã mỉm cười :
– Bạn ơi, làm thế nào tôi có thể ghét bạn được khi bạn đã ghép cả hai chúng mình vào một việc to lớn là hy sinh, hở bạn?
SUY NGẪM:Cứ mỗi sáng thức dậy với Ánh Dương, cuộc đời của bạn đã bớt đi một ngày..
Nếu như bạn không thể là chàng bút chì để ghi lại hạnh phúc của tha nhân, thì hãy là một nàng tẩy
dịu hiền sẵn sàng bôi xóa những nỗi đau của họ, và lan truyền niềm hy vọng và lạc quan trong tâm
hồn họ để ngày mai của họ tươi sáng hơn, bạn nhé.Mong sao Đạo lý thánh hiền luôn hướng dẫn mọi suy nghĩ của ta mọi nơi, mọi lúc.===========================================2/– NGƯỜI ĐIÊN RỒ, NGƯỜI KHÔN NGOAN VÀ CHÚ CHIM
Một ông nọ bắt được chú chim hoàng yến.Chú chim thật bé nhỏ nên có thể nằm gọn trong lòng bàn tay ông, và để được tự do trở lại, chú liền thương lượng với ông, đưa ra những điều kiện sau:
– Thưa ông, ông muốn làm gì với cháu thế? Cháu quá bé nhỏ, quá gầy chỉ còn da bọc xương! Ông hãy thả cháu ra đi! Để bù lại, cháu sẽ cho ông biết về ba sự thật rất hữu ích.
– Được rồi, người đàn ông trả lời. Nhưng làm thế nào ta có thể biết những sự thật ấy là tốt cho ta hay không?
– Dạ đơn giản thôi, thưa ông, chim hoàng yến trả lời.
Cháu sẽ nói cho ông sự thật đầu tiên khi ông vẫn còn giữ cháu trong tay. Ông sẽ nghe sự thật thứ hai khi cháu bay lên cành cây này; như thế ông sẽ vẫn có thể bắt cháu nếu điều này không phù hợp với ông. Cuối cùng, cháu sẽ nói cho ông biết điều thứ ba, là điều quan trọng nhất, khi cháu đã bay lên trên bầu trời.
– Đồng ý, ông ấy trả lời. Nào, việc thứ nhất hay ho như thế nào đâu?
– Dạ đây ạ: nếu ông đánh mất điều gì, cho dù ngay cả chính mạng sống của ông, thì ông không được hối tiếc.
Người đàn ông suy nghĩ: ” Ồ, đó là một sự thật rất thâm thúy”-
– Được rồi, người đàn ông nói. Hãy cho tôi biết sự thật đầu tiên.
– Đây này: nếu mất đi một thứ gì, dù là mạng sống của mình, cũng không được hối hận.Đây là một sự thật sâu sắc, người đàn ông suy nghĩ: quả thực, không ràng buộc với những hình thức bên ngoài là bí mật của sự tự do đúng nghĩa.
Và ông mở tay ra. Con chim bay đậu trên cành, và nó thốt ra sự thật thứ hai:
Nếu ai đó nói với ông điều gì đó vô nghĩa, đừng tin điều đó trong bất kỳ trường hợp nào cho đến khi ông có bằng chứng rõ ràng ạ!
– Tốt lắm, người đàn ông nói, bạn khôn ngoan hơn nhiều so với khối óc loài chim nhỏ bé của bạn: thật vậy, con người đương nhiên luôn bị thu hút bởi những lời dối trá và ảo tưởng, sinh ra từ dục vọng của mình!
Rồi sự thật thứ ba là gì?
– Đó là, chú chim hoàng yến bây giờ đã lượn lờ trên bầu trời cao – trả lời rằng:
Trong bụng cháu có hai viên kim cương, mỗi viên to bằng nắm tay của ông. Nếu như lúc nãy ông giết cháu, thì ông đã sở hữu được một tài sản kết xù rồi, thưa ông!
Điên tiết, người đàn ông đã cố ném đá thật mạnh và xa nhắm vào chú chim.
Một lúc sau, ông tự trách mình, nguyền rủa sự ngu ngốc của mình, rồi bắt đầu khóc than cho số phận của mình.– Thật là ngu xuẩn! chú chim kêu lên.
1/-Cháu đã nói với ông là không bao giờ nên hối tiếc bất cứ điều gì, nhưng rồi ong đã hối hận vì đã thả cháu ra!
2/-Cháu đã nói rằng đừng bao giờ tin vào điều phi lý, và ông đã tin khi cháu khẳng định rằng cháu đã nuốt hai viên kim cương to bằng nắm tay của ông trong khi mà thân mình cháu chỉ to bằng bàn tay ông thôi!
*** Vì dục vọng và sự mù quáng của ông, ông sẽ không bao giờ có thể bay cao lên bầu trời giống như cháu, ông ơi!
KHUYẾT DANH𝓽𝓷𝓵 = SƯU TẦM và dịch =============
2/- Cây hoa hồng
Harriet Beecher Stowe, thailan dịchTượng bán thân nữ văn hào Harriet Beecher Stowe, tại Sảnh Vinh danh Vĩ nhân Mỹ.
Được biết đến nhiều nhất về một tiểu thuyết về chế độ nô lệ –Uncle Tom’s Cabin (Túp Lều của Chú Tom), xuất bản năm 1852 – tác giả Harriet Beecher Stowe, nhà văn người Mỹ gốc Âu tích cực ủng hộ chủ nghĩa bãi nô. Tác phẩm này công kích sự tàn bạo của chế độ nô lệ; tác phẩm đến với hàng triệu người trong dạng tiểu thuyết và kịch nghệ, gây ảnh hưởng lớn ở Vương quốc Anh, làm sáng tỏ các yếu tố chính trị trong thập niên 1850 về vấn đề nô lệ đối với hàng triệu người, cũng như củng cố phong trào bãi nô ở miền Bắc, nhưng lại khiến miền Nam phẫn nộ. Tổng thống Abraham Lincoln tóm tắt ảnh hưởng của tác phẩm này khi tiếp kiến Stowe, đã nói, “Vậy ra bà chính là người phụ nữ nhỏ bé đã viết cuốn sách gây ra cuộc chiến vĩ đại này!” Bà cũng đã viết nhiều truyện ngắn.
Câu chuyện được giới thiệu sau đây được trích từ tập truyện mang tênFlowers on The Snow(Những đóa hoa trên tuyết)
*
Cây hoa hồng mộc mạc đơn sơ ấy đang ngự trong một chiếc bình trong suốt màu xanh lá cây như chiếc lá mùa xuân, và bao quanh là giá đỡ bằng gỗ mun xinh đẹp, được đặt trước cửa sổ phòng khách. Nụ hoa hồng thật bình dị, ở giữa bức màn bằng lụa là sang trọng với vải rìa mịn như tơ, và quanh đó là những vật quý hiếm đắt tiền do bàn tay người chủ nhà giàu có trang trí, nhưng cành bông hồng đơn giản là vật đẹp nhất giữa tất cả những thứ quyền quý cao sang ấy.
Thật thuần khiết, trinh nguyên, với những cánh hoa màu trắng, hơi nhuộm một màu son nhẹ, tràng hoa tròn, phần trên hoa hơi nghiêng, như thể sẵn sàng hòa vào thân cây!
Ôi! Thật là một sản phẩm quá hoàn hảo từ bàn tay con người tác tạo nên!
Nhưng tia nắng xuyên qua những tấm rèm này đang chiếu sáng một nét đẹp tuyệt trần hơn cả hoa hồng. Nằm trên chiếc ghế trường kỷ, trong một góc tối và đang say sưa đọc sách, một mỹ nhân với vẻ đẹp tươi mát sánh ngang với bông hoa xinh xắn kia. Gương mặt sáng hồng, vầng trán thông minh, diện mạo xinh đẹp này biểu hiện suy nghĩ sâu sắc nhất, đôi hàng mi dài, đôi môi tỏ nét nghiêm túc, nhưng dịu dàng và nhẫn nhục, toàn bộ nét hoàn mỹ ấy, đó là một ước mơ về cái đẹp thật lý tưởng.
– Florence! Florence! – Một tiếng gọi vui vẻ du dương như tiếng nhạc vang lên, rồi lập lại, có vẻ nóng lòng.
Bạn hãy quay đầu lại đi, bạn sẽ nhìn thấy một cô bé tươi trẻ, hoạt bát, điển hình cho sức sống của con trẻ với đôi mắt linh hoạt, đôi chân nhảy nhót, lướt nhẹ trên thảm, và một nụ cười với vô số lúm đồng tiền như thể hai mươi nụ cười đang tụ lại cùng lần trong một nụ cười.
– Florence này! – Cô bé tinh nghịch nói, – Hãy để cuốn sách hay tuyệt đầy cả những ý nghĩ của nhà hiền triết ấy qua một bên đi, và hãy nói chuyện với một con bé chán ngắt tội nghiệp này chị ạ. Em đang suy nghĩ không biết nàng sẽ làm gì với cây hồng khi mà chị rời khỏi nơi này, bởi vì đó là quyết định của chị; thật là hoài phí khi cây hoa ấy lại được giao lại không đúng người như em. Em rất thích nhiều loại hoa, nhưng mà phải là hoa được trình bày đẹp đẽ nghệ thuật thành bó hoa để mang đến những buổi dạ hội cơ, chứ nói đến việc chăm sóc cẩn thận thì em không thể có năng khiếu đó đâu chị ạ.
– Đừng lo âu về vấn đề ấy, Catherine yêu quý ạ. – Florence trả lời với nụ cười tươi tắn. – Chị không có ý để em thực hành tài năng của mình đâu: chị đã có một nơi an toàn cho cây hoa quý báu của chị rồi.
– Ồ, vậy chắc chị đã đoán được em muốn nói ai rồi phải không? Bà Marshall đã gặp chị rồi sao; hôm qua bà đã đến, và em đã cho bà biết rằng chị sẽ rất buồn khi phải rời xa vật báu của chị, và bà nói là sẽ rất vui thích mang cây hoa vào trong nhà kín của bà. Cây hoa đang rất sung mãn, bao nhiêu là nụ sắp bung nở ra rồi! Và em đã nói thêm rằng chị sẽ rất an tâm khi giao hoa cho bà; và em biết chị cũng rất thích bà Marshall.
– Rất tiếc, Catherine, nhưng chị đã muốn làm khác đi, em ạ.
– Ủa, vậy chỉ muốn nói đến ai vậy? Ở đây chị đâu có nhiều bạn thân đâu.
– Bởi vì đôi khi tính khí của chị hơi khác thường một chút em ạ
– Nói cho em biết ai vậy chị.
– A, em biết rồi mà, đó là cô bé có gương mặt trắng xinh đó, người mà thường giúp chúng ta những việc vặt.
– Vậy sao? Cô bé Mary Stephens ư? Thật là điên rồ! Florence à, đây lại thêm một ý tưởng già nua trước tuổi của chị đó: may áo búp bê cho trẻ em nghèo khổ, đan nón và vớ cho tất cả bọn trẻ bẩn thỉu trong làng. Em nghĩ là chị thường đến thăm những nơi dơ bẩn, những con đường hôi hám ở phía sau nhà ấy nhiều hơn là đến đường Chestnut, ở đó biết bao nhiêu người chờ đợi chị; rồi còn chưa hết sao, chị lại còn đem tặng viên ngọc quý thiên nhiên này cho một người thợ may trong khi mà một người bạn thân ngang hàng cùng lứa với chị sẽ rất hân hoan đánh giá thật cao việc ấy. Thế em hỏi chị những bọn người ấy có nhu cầu gì về hoa kia chứ?
– Họ cũng cần hoa như chị thôi em ạ. – Florence ôn tồn trả lời.
– Em có để ý rằng không lúc nào cô bé đến đây mà không liếc nhìn một cách thèm thuồng vào các nụ mầm hàm tiếu hay sao? Em có nhớ cô bé đã hỏi một cách rất nhã nhặn thương tâm rằng bé có thể đưa mẹ đến để xem cây hoa của chị bởi vì mẹ của bé rất yêu hoa không?
– Này, hãy suy nghĩ đi, Florence, một bông hoa quý hiếm trên một cái bàn, giữa nào là thịt, trứng, bột bèo, bị giam hãm không có khí trời trong căn phòng chật hẹp ấy, nơi mà bà Stephens giặt giũ, lau chùi, nấu nướng, rồi còn bao nhiêu việc khác nữa…!
– Kate à! Nếu như chị phải ở trong một căn phòng chung chật hẹp, rồi làm đủ thứ việc lau chùi rửa dọn như em nói, nếu như chị phải làm việc tất bật trong nhiều giây phút suốt một ngày trời của chị, cảnh vật duy nhất là bức tường gạch, một căn phòng bức bí, thì một nụ hoa như thế sẽ là một niềm vui vô biên đối với chị.
– Florence ơi, chị thật là đa cảm; những người nghèo họ không có thì giờ đâu! Hơn nữa, em không nghĩ là nụ hoa sẽ sống lâu ở nhà họ, đây là một loại hoa cần chăm sóc đặc biệt, và phải có môi trường phù hợp nữa.
– Chuyện đó thì không đúng đâu em, một bông hoa không cần biết đến người chủ là giàu hay nghèo, và ánh dương chiếu vào phòng của bà Stephens cho dù qua khung cửa sổ rách nát đến đâu thì cũng toả sáng và ấm cúng như tia nắng xuyên qua cửa sổ của chúng ta đây thôi. Thượng đế rất quang minh, không phân biệt bất cứ người nào em ạ. Rồi em thấy hoa cũng sẽ xinh tươi như khi ở trong nhà chúng ta thôi.
– Em nghĩ thật là kỳ lạ, nếu muốn tặng cho người nghèo, thì hãy nghĩ đến những thứ mà họ rất cần như thức ăn, áo quần, chị thấy không?
– Có thể, nhưng khi đã tặng họ những thứ như thế rồi, tại sao ta không thêm một chút gì đó thật thú vị? Chị biết có những người bần cùng trước đó vẫn có những tình cảm về thiên nhiên, nhưng khi họ không còn ngay cả những thứ tối thiểu cho cuộc sống thì những suy nghĩ thanh cao ấy cũng thui chột mất đi. Như bà Stephens, mỗi khi nhìn thấy những đồ vật xinh xắn, như hoa, chim muông, nghe được nốt nhạc lãng mạn, bà cũng xao xuyến như chị thôi, nhưng vì không có phương tiện nên bà dành chấp nhận tất cả những thứ xoàng xĩnh xấu xí.
– Em có nhớ bà ấy rạng rỡ như thế nào khi chị tặng cho con của bà cái nón len viền giải ruy băng thật đẹp, và bà ấy đã cực nhọc nhiều ngày để may một cái áo xinh xắn cho ngày rửa tội của bé không? Chị nghĩ rằng khi nhận món quà xinh ấy, bà ấy sẽ mãn nguyện hơn khi được nhận một bao gạo hoặc bột, em à
– Chúa ơi, tất cả những điều này có thể là sự thật, nhưng em chưa bao giờ nghĩ đến điều đó, em chưa bao giờ nghĩ rằng những người làm việc cực nhọc như thế lại có thể có một chút ý tưởng về khiếu thưởng thức và nét đẹp chị ạ.
* * *
Trong một căn phòng rất nhỏ, ánh sáng chỉ lọt qua khung cửa sổ duy nhất, sàn lát gỗ không có thảm, trong góc là chiếc giường màu trắng, trên bàn có vài món thức ăn bày trên đĩa không đồng bộ; và trên bệ cửa sổ là cây anh đào đựng trong hộp nhỏ, là vật sáng sủa duy nhất.
Một người phụ nữ nhợt nhạt và ốm yếu đang ngả lưng trên một chiếc ghế dài cũ kỹ, mắt nhắm và đôi môi co lại vì đau đớn. Cô xoay mình trong vài phút, để tay lên mắt, rồi cô tiếp tục một cách uể oải công việc mà cô bắt đầu từ sáng. Cửa mở toang ra, và một cô bé mảnh mai khoảng mười hai tuổi bước vào, đôi mắt xanh thẫm thật hân hoan vì vui thích, trên tay là chậu đựng cành cây nhỏ mà họ hằng ao ước.
– Mẹ ơi, hãy xem nè! Một cái thì nở rồi, còn hai nụ sắp bung ra đây mẹ, rồi bao nhiêu là cành giâm đang nhô lên, thấy không mẹ!
Gương mặt bà mẹ rạng rỡ hẳn lên khi nhìn vào cây hoa, rồi lướt đến vẻ mặt của con gái mà từ rất lâu rồi bà chưa thấy ánh lên niềm vui ngập tràn như thế.
– Xin Thượng Đế ban ơn lành cho cô ấy! Bà mẹ vô tình thốt lên.
– Cô Florence phải không mẹ! Tất nhiên rồi mẹ ạ, con biết thế nào mẹ cũng nghĩ về cô ấy. Mẹ cảm thấy thật nhẹ nhàng sảng khoái khi nhìn đóa hoa phải không mẹ? Giờ đây thì mẹ không cần phải nhìn ngắm một cách thèm thuồng bao nhiêu là hoa hồng ở chợ nữa, vì cây hồng này đẹp tuyệt vời hơn hẳn tất cả những đóa hoa mà ta đã trông thấy từ xưa nay phải không mẹ? Bao nhiêu là nụ, rồi còn mùi thơm nữa! Bây giờ mình đặt nó ở đâu nhỉ?
Rồi cô bé vừa nhảy nhót vừa đặt cây hoa chỗ này, rồi thụt lùi để ngắm, rồi lại mang đặt nơi khác, cứ thể cho đến khi mẹ bé bảo rằng hoa chỉ sống và trở nên xinh đẹp khi có ánh mặt trời.
– Cô Florence thật dễ thương biết chừng nào phải không mẹ? Cô ấy đã tặng chúng ta bao nhiêu là quà, nhưng con nghĩ món quà này là đẹp nhất!
Rồi bà Stephens quên hẳn đi những lo âu và bệnh hoạn của mình khi nhìn thấy con gái hạnh phúc như thế.
Florence không thể nào ngờ rằng, khi cô tặng món quà này, một sợi chỉ vô hình được dệt từ đó để định mệnh của cô được hình thành.
* * *
Vào một buổi chiều mùa đông lạnh giá, một người kỵ sĩ cao lớn thanh lịch đến ngôi nhà của hai mẹ con cô bé để nhân bộ áo quần anh đã nhờ họ may sửa. Anh là một người từ nơi khác đến, được vài người quen giới thiệu công việc của bà Stephens. Anh ta đang chuẩn bị bước ra cửa, bỗng nhìn thấy cây hoa hồng và nhìn ngắm một cách thích thú.
– Cây hoa mới đẹp làm sao! – Anh buột miệng thốt lên.
– Dạ vâng thưa ông, cô bé Marie trả lời, đó là quà của một tiểu thư cũng xinh đẹp yêu kiều như cánh hoa cô tặng mẹ con cháu đó ạ.
– À vậy sao!
Người lạ mặt nói, vừa nhìn cô bé bằng đôi mắt đen sáng với vẻ mặt vui mừng và kinh ngạc.
– Và tại sao cô ấy lại tặng cho bé, hở cô bé nhỏ xinh?
– Bởi vì mẹ con cháu rất nghèo và mẹ cháu bị bệnh, và mẹ sẽ không thể mua được một bụi hoa hồng đẹp như vậy. Mẹ và cháu trước đây đã có một khu vườn, và cả mẹ và cháu đều rất yêu hoa; cô Florence biết được điều này, và cô ấy đã tặng bông hồng cho mẹ cháu.
– Florence ư? – Người thanh niên hỏi lại.
– Vâng, cô Florence l’Estrange, một cô gái rất xinh đẹp. Người ta bảo cô ấy không phải là người ở thành phố này; tuy nhiên, cô ấy nói tiếng Anh giống như những người phụ nữ khác, nhưng giọng nói nhẹ nhàng hơn.
– Bây giờ cô ấy còn sống ở đây không? ở thành phố này? – Ông ấy tiếp tục hỏi.
– Thưa không ạ, cô ấy đã đi nơi khác được vài tháng, bà góa phụ trả lời, bà vừa nhận thấy nét mặt đăm chiêu thất vọng của vị khách.
Nhưng rồi bà nói thêm:
– Ông có thể biết được tin tức về cô ấy đây ạ. Địa chỉ nhà dì của cô ấy là … số 10 đường…
Và sau đó, Florence nhận được một lá thư, khi nhìn thấy nét chữ viết, cô thật xao xuyến.
Trong những năm đầu của thời thơ ấu, khi cô cùng gia đình cư ngụ ở Pháp, cô đã quen thuộc với nét chữ này. Cô ấy đã yêu như một người phụ nữ như cô biết yêu – chỉ một lần. Nhưng quá nhiều trở ngại từ người thân, bạn bè, sự chia cách lâu dài, nhiều năm đau khổ đã trôi qua, đến nỗi cô tin rằng đại dương đã khép lại giữa cô và đôi tay yêu quý này; và đó là lý do tại sao khuôn mặt diễm kiều của cô lại mang những nét hằn vì buồn đau.
Nhưng bức thư này cho cô biết rằng anh vẫn ở gần đây, rằng anh đã tìm ra được cô và theo bước chân của cô, như người ta phát hiện ra lòng sông có nước trong suốt và tinh khiết lâu ngày đã bị cây xanh che khuất, khi anh dõi theo bao nhiêu việc từ thiện cô đã gieo trên mọi nẻo đường, và rằng cô là thiên thần của bình an và hạnh phúc.
… Và có lẽ đoạn kết của câu chuyện thần tiên này đã thật thơ mộng, phải không ạ?
– Harriet Beecher Stowe
Tháilan phỏng dịch
-
BỘ SƯU TẬP VÔ HÌNH – Stefan Zweig -ThaiLan Dịch
BỘ SƯU TẬP VÔ HÌNH- Stefan Zweig -ThaiLan dịch -5020 chu
Đến ga kế sau ga Dresde, một người đàn ông có tuổi vào bên trong toa của tôi. Ông ấy lịch sử chào tôi, ngồi xuống, nhìn tôi và gật đầu chào như thể vừa gặp một người bạn lâu năm không gặp. Ông giới thiệu tên mình vật tôi chợt nhớ rằng đây là một người bán đồ cổ rất nổi tiếng ở Berlin, tôi đã từng đến mua thủ bút và sách ở tiệm của ông. Ông nói với tôi: Tôi phải kể cho ông nghe tôi vừa mới đến nhà của một người; đây là câu chuyện thật hi hữu hiếm có mà tôi chưa từng gặp trong suốt hơn ba mươi năm trong nghề.
Tranh Đức Mẹ, tranh vẽ tay -sách in cổ (trước 1500 ở châu Âu)
Bạn có thể biết là các tác phẩm nghệ thuật ngày nay được bán như thế nào, vì tiền đã mất giá . Những người giàu đột nhiên rất yêu chuộng các tác phẩm về Madonnas, tưởng Đức Mẹ , sản xuất trước năm 1500 và các bản in cũ. Họ đòi hỏi rất nhiều, hơn cả những gì chúng tôi có thể cung cấp cho họ. Thậm chí chúng tôi phải cảnh giác sợ họ đến nhà và lục soát để tìm.
Khi họ đến nhà và vơ vét tất cả những vật có giá trị của tôi, tôi chỉ còn nước kéo rèm cửa hàng của mình và đóng cửa. Tôi thật xấu hổ khi kiểm lại và thấy trên các kệ hàng, chỉ có một vài hàng cũ hoặc lỗi thời, mà không người bán hàng rong nào dám trưng bày trên xe của họ; cửa hàng đồ cổ này nổi tiếng từ thời ông nội tôi.
Trong lúc bối rối này, tôi bỗng muốn xem qua danh sách các khách hàng cũ của chúng tôi, để cố gắng tìm ra một người mà tôi có thể mua một vài bản sao. Những danh sách này luôn là một nơi để tìm kiếm những vật thật xưa cũ, nhất là vào thời điểm hiện nay. Thật vậy, tôi không tìm thấy điều gì đáng quan tâm: hầu hết những khách hàng của chúng tôi trước đây đã qua thế giới bên kia hoặc đã bán bộ sưu tập của họ từ lâu. Một vài người sống sót có lẽ không thể cung cấp cho tôi điều gì quan trọng. Nhưng đột nhiên, tôi đọc được vài lá thư của vị khách hàng xưa nhất của chúng tôi.
Kể từ khi bắt đầu chiến tranh, năm 1914, ông ấy đã không đặt hàng với tôi; nếu ông còn sống thì chắc đã ngoài tám mươi.
Thư từ của ông đã gởi từ khoảng sáu mươi năm trước. Ông đã liên lạc với cha tôi và ông tôi rồi. Ông là một người kỳ dị, hơi lố bịch; một trong những người kỳ quặc mà các họa sĩ Menzel và Spitzweg thường vẽ và thỉnh thoảng người ta vẫn bắt gặp ở các thị trấn tỉnh lẻ này. Những bức thư của ông được viết tay với nét chữ ngay ngắn, số tiền được gạch dưới bằng thước kẻ và mực đỏ. Để tránh nhầm lẫn, ông đã viết mỗi con số hai lần, và để tiết kiệm, ông đã sử dụng những tờ giấy trắng xé ra từ những bức thư nhận được và làm phong bì cho riêng mình. Những tài liệu kỳ lạ này, ngoài chữ ký của ông, còn có cả một loạt chức danh: cựu cố vấn kiểm lâm, trung úy dự bị, được huân chương hạng nhất. Là một cựu chiến binh của những năm bảy mươi (1870: chiến tranh Pháp Đức – hoặc Pháp Phổ). Nhưng người tiểu tư sản tiết kiệm quá mức này lại có những phẩm chất khác thường của một nhà sưu tập. Ông ấy rất am hiểu về các bản in và đã thể hiện một gu thẩm mỹ tinh tế. Tôi quan sát những đơn đặt hàng của ông. Tôi nhận thấy rằng vào thời điểm mà người ta có thể mua được những bức tranh khắc đẹp nhất chỉ bằng một thaler (đồng tiền bằng bạc của Đức), thì người đàn ông sống ở tỉnh lẻ này đã gom lại từng chút một và không ai có thể tin được, ông đã sở hữu một bộ sưu tập tranh khắc rất có thể cạnh tranh với những bộ sưu tập lừng lẫy nhất của những người mới giàu lên.
Thật vậy, những bức tranh mà ông đã mua từ cửa hàng của chúng tôi với số tiền khiêm tốn bằng marks và pfennigs giờ đây sẽ có giá trị đáng kể. Hơn nữa, mọi thứ đều cho thấy rằng chắc chắn ông đã rất thành công với các tiệm khác và đã thu được rất nhiều từ các cuộc đấu giá của họ. Thật ra chúng tôi đã không có được tin tức gì của ông kể từ năm 1914. Nhưng tôi biết rỡ về các giao dịch bán hàng với số lượng lớn quan trọng như vậy nên không thể nào không quan tâm đến việc này.
Do đó, tôi kết luận rằng nhà sưu tập kỳ lạ này hẳn vẫn còn sống, hoặc kho báu của anh ta dang trong tay những người thừa kế.
Thế là vào ngày hôm sau tôi quyết định đi tìm gặp ông, tức là vào tối hôm qua, đến một trong những thị trấn hẻo lánh nhất ở tỉnh Saxon. Rời nhà ga nhỏ, tôi lững thững dạo bước trên con đường chính của thành phố cổ. Đối với tôi, không thể tin rằng một trong những căn nhà lụp xụp này lại là nơi sinh sống của một người đàn ông sở hữu những bức tranh khắc lộng lẫy nhất của Rembrandt cũng như của Durer và Mantegna, tất cả đều hoàn chỉnh và trong tình trạng được bảo quản hoàn hảo. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi đến bưu điện, tôi được biết rằng người cố vấn kiểm lâm vẫn còn sống. Tôi thú nhận là tôi thật sự xúc động cảm khi đến nhà ông vào buổi trưa . Ông sống trên tầng hai của một khu nhà tồi tàn mà có lẽ một nhà thầu đã xây một cách cẩu thả vào năm 1860.
Tôi rụt rè bấm chuông. Ngay lập tức, một bà lão với mái tóc bạc phơ ra mở cửa. Tôi đưa danh thiếp của tôi và hỏi liệu Cố vấn có thể tiếp tôi không. Bà ấy nhìn tôi, ngạc nhiên và nghi ngờ. Ở thị trấn tỉnh lẻ nhỏ này và trong ngôi nhà khiêm tốn này, một chuyến viếng thăm là một sự kiện phi thường. Bà lịch sự bảo tôi chờ một lát. Bà lấy danh thiếp của tôi và đi vào phòng bên cạnh. Tôi nghe tiếng thì thầm. Đột nhiên, giọng một người đàn ông kêu lên
– A! ông R…, từ Berlin, nhà buôn đồ cổ nổi tiếng… xin mời ông vào. Tôi sẽ rất vui!
Bà cụ mời tôi vào phòng khách. Ở giữa phòng, một người đàn ông to lớn mặc quân phục, đứng dậy và thân mật chìa tay ra cho tôi. Cử chỉ chào đón tự nhiên thật trái ngược với thái độ cứng ngắc và bất động của ông.
Ông đã không bước đến gần tôi. Hơi bất ngờ, tôi tiến đến bắt tay ông.
Khi tôi muốn nắm tay ông, tôi nhận thấy bàn tay đó không đưa ra để bắt tay tôi nhưng lại như chờ đợi. Tôi đã đoán ra được: người đàn ông này bị mù. Từ thời thơ ấu, tôi luôn cảm thấy ngượng ngùng khi đứng trước một người mù. Tôi chưa bao giờ có thể nghĩ rằng một người đàn ông còn sống mà không nhìn thấy mọi việc rõ như tôi. Ông bắt tay tôi một cách nồng nhiệt và chào đón tôi một cách thân tình.
-Thật là một chuyến thăm bất ngờ,ông cười nói. Làm sao người ta có thể tin rằng một trong những quý ông từ Berlin lai đến cái tỉnh lẻ nhỏ bé này! Ôi ! Chắc chắn đây là một chuyến thăm thú vị. Tôi đoán biết được lý do bạn lại đến gặp tôi… Công việc kinh doanh đang rất tệ ở nước Đức nghèo nàn của chúng ta.
Quý ông thương gia nhớ đến khách hàng cũ của mình và tìm họ như những con chiên lạc… Nhưng, ở đây, tôi sợ rằng bạn không tìm được điều bạn muốn đâu, thưa bạn. Những người hưu trí nghèo chúng tôi có được một mẩu bánh mì trên bàn là đã may mắn lắm rồi. Chúng tôi không thể mua bất cứ thứ gì nữa với mức giá điên rồ như hiện tại…
Tôi trả lời rằng ông đã hiểu sai mục đích chuyến thăm của tôi. Tôi đã không đến để bán bất cứ gì. Khi đi ngang qua khu vực này, tôi không muốn bỏ lỡ cơ hội bày tỏ lòng kính trọng của mình với một trong những khách hàng lâu năm nhất của chúng tôi và một trong những nhà sưu tập vĩ đại nhất ở Đức. Nghe những lời này, khuôn mặt của ông thay đổi, thể hiện sự vui mừng và tự hào. Ông quay sang vợ mình, như muốn nói: “em nghe thấy chưa.” Ông nói với tôi bằng một giọng vui vẻ và dịu dàng:
– Thật đấy, bạn thật tốt bụng… Ban sẽ chiêm ngưỡng những thứ mà người ta không thể nhìn thấy hàng ngày, ngay cả ở thành phố Berlin sang trọng của bạn.
…Những bức tranh mà ta sẽ không có bản sao đẹp hơn trong tủ của hoàng gia ở Vienna hoặc Paris. Bạn thấy không, khi bạn sưu tập trong sáu mươi năm, giờ đây bạn đã tích lũy được những vật quý không thể tìm thấy ở bất kỳ nơi đâu nữa. Louise, đưa hộ tôi chìa khóa tủ. Đúng lúc đó, một điều bất ngờ đã xảy ra.
Bà cụ nhỏ bé, đang đứng phía sau ông và đa lắng nghe chúng tôi nói chuyện bỗng giơ hai tay về phía tôi có vẻ cầu xin; và bà đang lắc đầu.Tôi không hiểu gì cả. Bà đến gần chồng, đặt tay lên vai và nói
-Nhưng, Herwarth ạ, bây giờ là giờ ăn trưa rồi. Sau đó lại phải nghỉ ngơi như lời bác sĩ bảo. Vậy thì xin mời khách đến vào buổi chiều được không ạ. Anne-Marie sẽ đến, cháu biết rõ hơn tôi, và sẽ giúp ông khách.
Vừa nói, bà vừa ra dấu năn nỉ tôi. Bây giờ tôi mới hiểu. Tôi đành cáo từ, và hẹn sẽ trở lại. Ông có vẻ không vui, như thể người ta vừa lấy mất món đồ chơi ưa thích của đứa trẻ ; ông nói:
-Vấn đề không phải là xem ba hay bốn bức tranh vẽ tay, mà là hai mươi bảy bức, mỗi bức của một nghệ sĩ khác nhau, và tất cả đều hoàn chỉnh… Vậy bạn hãy đúng hẹn nhe, nếu không thì chúng ta sẽ không đủ thời gian để xem hết đâu. Bạn sẽ rất ganh tị đấy, bạn càng ganh bấy nhiêu thì chúng tôi là những nhà sưu tập lại càng thích thú bấy nhiêu đấy! Chúng tôi chỉ muốn gom lại tất cả báu vật cho mình, và không để lại cho người khác bất cứ thứ gì!
Bà đưa tôi ra cửa, và tôi nhận thấy bà có vẻ rất ngượng ngùng. một nỗi lo âu thật sâu kín- Bằng một giọng nghẹn ngào, bà lại nói
– Con gái Anne Marie của tôi có thể đến đón ông tại khách sạn không? như thế sẽ tốt hơn, thưa ông.
-Dạ thưa tôi rất vui lòng ạ.
Một giờ sau, một người phụ nữ hơi lớn tuổi ăn mặc rất giản dị đến gặp tôi. Tôi nhận thấy cô ấy có vẻ ngập ngừng để nói lên điều trăn trở của cô, cứ mỗi lần thì gương mặt lại đỏ lên, và đôi tay cứ nắm lấy nếp áo- Rốt cuộc cô cũng bối rối thốt lên:
-Mẹ tôi bảo tôi đến gặp ông…chúng tôi muốn xin ông..tin ông biết… một cách thẳng thắn …trước khi ông đến xem..Bộ sưu tập của cha tôi bị mất đi vài tác phẩm..rất tiếc là một số lớn trong bộ sưu tập ấy-
Cô hít thở thật sâu và nói tiếp: – ông sẽ hiểu sự tàn ác của thời gian là như thế nào… Lúc cha tôi 76 t, ông vẫn còn muốn tham gia chinh chiến, nhưng thị lực của ông trở nên rất kém, còn ngoài ra sức khỏe của ông rất tốt – trước đây ông còn đi bộ, nhưng bây giờ chỉ còn niềm vui duy nhất là ngắm nhìn bộ sưu tập của mình – đúng hơn là mỗi chiều ông đến sờ nắn những bức tranh yêu quý ấy, từng bức một, theo thứ tự mà ngày xưa ông đã sắp, và thuộc lòng – và chẳng quan tâm đến điều gì khác nữa. Mỗi ngày tôi đều đọc kết quả bảng đấu giá cho ông, và khi biết rằng giá tranh xưa ngày càng cao, ông càng vui sướng
Và điều kinh khủng hơn hết, thưa ông- là cha tôi không hiểu gì về giá cả thị trường cũng như thời đại hiện nay…ông ấy không hiểu là chúng tôi đã mất hết tất cả, và với số tiền hưu hàng tháng của ông thì không thể sống đến hai ngày…và nỗi khó khăn lại thêm chồng chất khi anh rể của tôi đã hy sinh ở trận chiến, để lại vợ và bốn con thơ – cha tôi không hề biết đến những thiếu thốn vật chất – Ban đầu chúng tôi ăn tiêu rất dè xẻn, nhưng rồi cũng không kham nổi, nên đã bán vài món trang sức để dành bấy lâu – Nhưng hỡi ôi! cũng không thấm vào đâu vì ông tiêu đến dòng pfennig cuối cùng để mua tranh.
Rồi một hôm, trong nhà không còn gì để bán nữa cả. Không biết xoay sở thế nào, mẹ và tôi phải đem bán món đầu tiên trong bộ sưu tập. Cha tôi sẽ không bao giờ cho phép làm điều ấy. Ông ấy không biết gì cả, không biết thời thế khó khăn thế nào, không biết là đất nước đã thua trong cuộc chiến, vì chúng tôi không đọc tin tức cho ông nghe. Bức tranh mà chúng tôi bán rất có giá trị. Đó là tranh khắc axit của Rembrandt
Khắc axit (tiếng Anh: etching) là kỹ thuật dùng axit hay thuốc cẩn màu (mordant) để cắt các chi tiết của một tấm kim loại, từ đó tạo ra những nét khắc chìm (intaglio).[1] Kỹ thuật này được áp dụng trong tranh in từ khoảng đầu thế kỷ 16.
The Soldier and his Wife. Tranh của Daniel Hopfer, ông được cho là họa sĩ đầu tiên áp dụng kỹ thuật khắc axit vào tranh in
Người mua trả cả triệu marks, chúng tôi tưởng rằng sẽ yên thân trong nhiều năm; nhưng rồi đem gởi ngân hàng, đến hai tháng sau thì chẳng còn gì cả, ông biết đó. Thế là chúng tôi buộc phải bán tấm tranh thứ nhí, rồi lại thêm bức nữa. Tiền gởi đến quá trễ, nên lại mất giá. Rồi chúng tôi tham dự những cuộc ban đấu giá; và đã bị khách hàng lừa,.. cứ thế từng bức tranh lại ra đi, chỉ có một hai bức là được giữ lại. Bởi vì lý do đó nên mẹ tôi đã hoảng lên khi ông đến nhà. Nếu cha tôi mang bộ sưu tập ra cho ông ngay lúc đó, thì mọi việc sẽ đổ bể ..Chúng tôi đã thay thế bằng những bản sao hoặc chỉ đơn giản là những tấm bìa trắng, khi sờ vào thì cũng y hệt như bức tranh, để cho ông không nghi ngờ gì khi chạm đến vật quý. Cha chỉ sờ nắn chúng và đếm lần lượt, nét mặt cha tôi hiện lên niềm hân hoan vui thích như lúc xưa còn nhìn thấy chúng . Cha cũng cho rằng ở thành phố này không ai có đủ tư cách để ngắm những vật báu của mình. Ông yêu một cách say mê mỗi bức vẽ và khắc ấy, đến nỗi cha có thể u buồn đến tận cùng nếu biết được tất cả chúng đều không còn nữa. Từ khi người quản đốc bảo tàng Dresde qua đời, giờ đây ông là người đầu tiên mà cha nghĩ sẽ rất hân hạnh khoe kho báu của ông
Vì lý do đó, cô ta vừa nói vừa nhìn tôi, đôi mắt đẫm lệ- Chúng tôi van nài ông..đừng làm cho cha đau khổ, dùng làm cho chúng tôi thêm khổ đau..xin ông đừng phá vỡ niềm ảo tưởng cuối cùng ấy. Xin ông giúp chúng tôi làm cho cha tin rằng tất cả những bức tranh của cha vẫn thật sự hiện hữu, khi cha sẽ mô tả cho ông. Có thể mẹ và tôi đã hành động không đúng, nhưng chúng tôi không còn cách nào khác, thưa ông: sự sống là quan trọng, nhất là của bốn đứa bé đáng kể hơn rất nhiều so với những mảnh giấy đã sẫm màu. Và mỗi ngày ông ấy mân mê những tờ giấy đó trong suốt ba giờ đồng hồ, như nói chuyện với một người bạn thân. Và hôm nay có lẽ là ngày hạnh phúc nhất của cha, ngày mà cha chờ đợi trong bao nhiêu năm để khoe kho tàng với một vị rất am hiểu về hội hoạ .
Cô ấy đã diễn tả bằng một giọng xúc động đến nỗi tôi khó có thể ghi lại một cách chính xác.Than ôi, tôi đã gặp nhiều người nghèo bị bóc lột một cách đáng xấu hổ và bị lừa dối một cách đê tiện, chỉ vì một mẩu bánh mì, mà phải dứt bỏ của cải quý giá nhất, tài sản thừa kế của tổ tiên họ; nhưng tôi chưa bao giờ gặp trường hợp như thế này, khiến tôi vô cùng bối rối. Tôi đã hứa sẽ giữ bí mật và giúp đỡ những người phụ nữ tội nghiệp này. Chúng tôi cùng nhau về nhà. Trên đường đi, tôi thất kinh ngạc và buồn khi biết sự thiếu hiểu biết của họ đã bị lợi dụng một cách đau thương như thế nào.
Vừa đến ngưỡng cửa, tôi đã nghe lời mời rất to và vui của ông cụ : -Mời vào! Mời vào!, Đôi tai của người khiếm thị chắc hẳn đã nghe bước chân của chúng tôi trên cầu thang- Hôm nay không hề chớp mắt , ông ấy vô cùng nôn nóng khoe báu vật của ông, bà cụ vừa nói vừa mỉm cười. Và cô gái thì đã nói bằng mắt rằng tôi đã hiểu chuyện. Trên bàn là một chồng các bức tranh. Ông bắt tay tôi và mời tôi ngồi- -Đây này! Thật nhiều quá..và các quy ông từ Berlin thì không bao giờ có thời gian cả. Đây là hầu như trọn bộ tác phẩm của danh họa Durer – Đây là bức Đại Mã
Một cách thận trọng chi ly, như thể chạm vào một vật dễ vỡ, ông rút ra khỏi tấm bìa các tông một miếng bìa cứng đóng khung một tờ giấy trống không ố vàng. Ông cẩn thận dùng đầu ngón tay nhấc tấm bìa lên ngay đôi mắt đờ đẫn của mình và say mê nhìn mà không hề thấy. Trên khuôn mặt của ông là sự ngây ngất kỳ diệu của sự ngưỡng mộ. Đột nhiên, không biết do sự phản chiếu của tờ giấy hay ánh sáng bên trong, đôi đồng tử cứng ngắt bất động của ông bật sáng lên .-Xem đây, bạn đã bao giờ nhìn thấy một bản sao nào tuyệt hơn chưa? Thật là tinh túy, đến từng chi tiết nhỏ nhất Tôi đã so sánh tờ này với bản sao của Dresden- Ông lật tờ giấy lại và chỉ vào mặt sau, để cho tôi phải xem con dấu ở đó. – Đây là con tem của bộ sưu tập Nadler, kia là của Rémy và Esdaile. Những nhà sưu tập nổi tiếng này không nghĩ rằng có ngày tuyệt phẩm của họ sẽ nằm trong căn phòng bé này.
Tôi rùng mình khi thấy ông thốt lên bao nhiêu là lời ca tụng , đứng trước một tờ giấy trắng.
Rồi với độ chính xác đáng kinh ngạc ông lấy đầu ngón tay chỉ vào những dấu hiệu của nhà sưu tập chỉ còn tồn tại trong trí tưởng tượng của ông, tôi đột nhiên có cảm giác như mình đang chứng kiến một trò ảo thuật. Cổ họng nghẹn lại, tôi không biết phải trả lời thế nào. Nhìn sang hai người phụ nữ, tôi lại thấy những cử chỉ van xin của họ. Vì vậy, tôi trấn tĩnh lại và bắt đầu diễn vai trò của mình.
– Ah! thật là một bản sao tuyệt vời!
Ngay lập tức mặt ông rạng rỡ lên
– Tấm này chưa là gì đâu ông bạn ơi tôi phải cho anh xem cuốn Nỗi Sầu và Niềm Đam Mê, thật độc nhất vô nhị. Đây, bạn có thấy vẻ tươi mát này, tông màu ấm áp và bạt lót hoàn hảo này không?
Rồi những ngón tay của ông lần theo những đường viền tưởng tượng:
– Tất cả những người buôn bán tranh ảnh và giám đốc các viện bảo tàng ở Berlin sẽ phải ganh tị! Ông cứ tiếp tục như thế, trong suốt hai tiếng đồng hồ, để thuyết mình dài dòng một cách long trọng
Quý vị ạ, tôi không thể mô tả cho bạn ấn tượng huyền hoặc của cuộc phô trương mớ giấy lộn này, mà trong trí tưởng tượng của con người tội nghiệp này, chúng vẫn đang hiện hữu trong thực tế, đến nỗi ông lần lượt mô tả chúng mà không có chút sai sót nào, với những chi tiết nhỏ nhất. Bộ sưu tập vô hình, từ rất lâu đã được phân tán khắp bốn phương trời, vẫn tồn tại, và không hao mòn mẻ sứt tí nào đối với người khiếm thị, người bị lừa dối vì lòng từ bi này.
Thiên cảm quá nhiệt tình, sự cởi mở của ông khiến chính tôi cũng bắt đầu tin vào điều đó.
Chỉ một lần duy nhất sự tự tin trong cơn miên hành của ông suyt phải thua: ông ấy vừa mới khoe về độ chính xác của đường cắt trong bức tranh Antiope của Rembrandt, một tác phẩm chắc hẳn là vô giá. Những ngón tay rất nhạy cảm của ông lần theo những đường nét của bức vẽ một cách âu yếm bỗng dưng đã không nhận ra dấu vết trên tấm bìa. Vẻ mặt ông sa sầm lại, và ông nói thầm một cách ngập ngừng: Bức này rõ ràng là Antiope mà! Ngay lập tức, tiếp tục diễn vài trò của mình, tôi cầm lấy tờ bìa đóng khung và bắt đầu mô tả một cách nhiệt tình và đến từng chi tiết nhỏ nhất bản khắc axit mà trí óc tôi đã ghi nhớ rất chính xác.
Bây giờ khuôn mặt của ông mới hết căng thẳng. Tôi càng tán dương kiệt tác này bao nhiêu thì gương mặt héo úa của ông càng lộ rõ sự thân tình vui vẻ tột bực. Thế là ít ra cũng có người thông thạo ,” ông quay sang hai người phụ nữ và nói. Cuối cùng, một chuyên giả đã xác nhận sự vô giá của những bức tranh này. Bà và con luôn cằn nhằn tôi đã đem hết tiền vào bộ sưu tập này. Tất nhiên là mọi việc không dễ dàng chút nào. Trong sáu mươi năm, không bia, không rượu, không thuốc lá, không du lịch, không đi xem hát – chỉ dành dụm cho bộ sưu tập này! Nhưng các người sẽ thấy: khi tôi không còn đây nữa, bà và con sẽ trở nên giàu, giàu hơn tất cả dân trong thành phố, giàu như những người giàu có nhất ở Dresde. Sau đó, các người sẽ thấy vui mừng vì sự điên rồ của tôi. Nhưng chừng nào tôi còn sống, không một tờ giấy nào ra khỏi nhà. Hãy mang tôi đi trước rồi sau đó mới đến bộ sưu tập của tôi.
Vừa nói, ông vừa vuốt ve những tấm bìa trắng nhách như thể đó là một người thân yêu. Một cảnh tượng thật kinh ngạc và cảm động! Trong suốt những năm chiến tranh đau buồn vừa qua, tôi chưa bao giờ thấy một khuôn mặt nào bừng lên niềm hạnh phúc trong sáng và hoàn hảo như thế. Hai người phụ nữ đứng bên cạnh ông sững sờ như hình những vị thánh mà ta vẫn thấy trên các bức tranh xưa trước ngôi mộ của Đấng vừa sống lại. Niềm hạnh phúc bừng sáng trên khuôn mặt nhăn nheo của họ, với đôi mắt vui cười ướt đẫm nước mắt. Còn ông ấy vẫn còn ngụp lặn trong vui sướng với lời khen của tôi. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi những bức tranh phỉnh gạt ấy cũng được mang đi và họ đem cà phê đến.
Niềm cảm hứng tuôn trào khiến ông có vẻ trẻ lại rất nhiều. Rồi ông vừa kể cho tôi nghe những lần ông mua được tranh như thế nào vừa mò mẫm sờ vào bức tranh. Cho đến khi tôi nói đã đến lúc tôi phải cáo từ, thì ông tỏ ra bực tức và dậm chân như đứa trẻ – Ông nói:- Ồ, không thể được, anh bạn mới nhìn thấy có một nửa kho tàng của tôi thôi! Khi thấy ông ngoan cố như vậy, hai người đàn bà giải thích một cách khó khăn rằng phải để cho tôi đi nếu không sẽ bị nhỡ chuyến tàu. Sau khi không thể làm gì được, một cách tuyệt vọng, ông cầm lấy tay tôi, vuốt ve theo cách trìu mến của một người khiếm thị như thế muốn chứng tỏ tình cảm mà lời nói không thể diễn tả được hết-
Cuộc viếng thăm của bạn đã mang cho tôi một niềm vui vô tận, giọng nói đầy xúc cảm mà tôi không bao giờ quên được, Thật là một sự an ủi lớn lao cho tôi khi được tiếp một người sành về hội họa như bạn. Nhưng bạn đã không hoài công khi đến nhà một người khiếm thị tội nghiệp. Tôi hứa sẽ thêm một điều khoản vào di chúc của tôi rằng gia đình anh sẽ chịu trách nhiệm về việc vinh dự bán đấu giá bộ sưu tập của tôi. Bạn hãy hứa với tôi rằng bạn sẽ thực hiện một danh mục thật đẹp mắt nhe. Đây sẽ là bia mộ của tôi đó
Tôi nhìn vợ và con gái ông. Họ nép vào nhau, bỗng rùng mình và cả hai hợp thành một cơ thể đang run lẩy bẩy. Phần tôi, một cảm xúc kỳ quặc dâng lên khi tôi nghĩ ông cụ đáng thương này, vẫn không một chút nghi ngờ, đã giao cho tôi việc bán bộ sưu tập của ông, một bộ tranh quý đã bay đi tứ phương từ rất lâu rồi. Quá cảm động, tôi đã phải hứa những điều mà tôi sẽ không bao giờ có thể giữ lời được. Và rồi, đôi mắt đờ đẫn của ông lại sáng lên. Qua cái nắm tay của ông, tôi cảm nhận được cả tâm huyết của ông phó thác cho tôi. Hai người phụ nữ tiễn tôi đến cửa. Họ không dám nói chuyện với tôi. Đôi tai rất nhạy của ông sẽ nghe được những lời thì thầm nhỏ nhất. Nhưng đôi mắt đẫm lệ của họ biểu lộ lòng biết ơn đối với tôi. Tôi lảo đảo bước xuống cầu thang như trong mơ. Trong thâm tâm, tôi cảm thấy xấu hổ. Tôi đã đến như một thiên thần của một câu chuyện cổ tích trong ngôi nhà của những người nghèo khó. Tôi đã phục hồi thị lực cho một người mù trong hai giờ, cố ý nói dối và tiếp tay cho một sự lừa dối có lương tâm. Thật ra, tôi muốn đến để có được một vài món quý hiếm bằng mưu mẹo.
Điều mà tôi mang về chính là thứ vô giá này: ký ức về một nhiệt huyết sống động và thuần khiết, về một sự phấn khích tinh thần hoàn toàn tận tâm cho nghệ thuật mà con người dường như đã đánh mất từ lâu. Lóng tôn kính sâu sắc tràn ngập trong tôi, nhưng tôi cũng cảm thấy có một nỗi nhục nào đó len vào mà không hiểu tại sao. Khi ra tới đường, tôi nghe thấy tiếng cửa sổ mở mạnh ra và có ai gọi tên tôi.
Ông cụ đã kiên quyết nhìn theo tôi với ánh mắt không hồn. Ông nhoài người thật xa ra bên ngoài cửa sổ đến nỗi hai người phụ nữ phải giữ chặt người ông. Ông vẫy chiếc khăn tay và hét to “Chúc đi đường bằng an!” thật trong trẻo và hân hoan như giọng trẻ thơ. Tôi sẽ không bao giờ quên niềm vui của người đàn ông ấy. Trên cao ông đang thanh thản hạnh phúc, còn bên dưới là những người qua đường tất bật và đầy âu lo. Một ảo ảnh an lành như một đám mây mờ ảo che khuất thế giới thực tại cùng vô vàn hỗn loạn mà ông không bao giờ biết được. Và tôi nhớ đến câu nói rất thiết thực này – hình như của Goethe:
“Các nhà sưu tập là những kẻ hạnh phúc.»
Stefan ZWEIG -ThaiLan dịch
-
Harriet Beecher Stowe – Thái Lan chuyển ngữ
Harriet Beecher Stowe
Tượng bán thân Harriet Beecher Stowe, tại Sảnh Vinh danh Vĩ nhân Mỹ.
Được biết đến nhiều nhất về một tiểu thuyết về chế độ nô lệ , – Uncle Tom’s cabin (Túp Lều của chú Tom) 1852, tác giả Harriet Beecher Stowe, nhà văn người Mỹ gốc Âu tích cực ủng hộ chủ nghĩa bãi nô-
Tác phẩm này công kích sự tàn bạo của chế độ nô lệ; tác phẩm đến với hàng triệu người trong dạng tiểu thuyết và kịch nghệ, gây ảnh hưởng lớn ở Vương quốc Anh, làm sáng tỏ các yếu tố chính trị trong thập niên 1850 về vấn đề nô lệ đối với hàng triệu người, cũng như củng cố phong trào bãi nô ở miền Bắc, nhưng lại khiến miền Nam phẫn nộ. Tổng thống Abraham Lincoln tóm tắt ảnh hưởng của tác phẩm này khi tiếp kiến Stowe, đã nói, “Vậy ra bà chính là người phụ nữ nhỏ bé đã viết cuốn sách gây ra cuộc chiến vĩ đại này!” (theowikipedia)-
Bà cũng đã viết nhiều truyện ngắn.
Câu chuyện được giới thiệu sau đây được trích từ tập truyện mang tên Flowers on the snow- (Những đóa hoa trên tuyết)
Cây hoa hồng -2452 chữ
Cây hoa hồng mộc mạc đơn sơ ấy đang ngự trong một chiếc bình trong suốt màu xanh lá cây như chiếc lá mùa xuân, và bao quanh là giá đỡ bằng gỗ mun xinh đẹp, được đặt trước cửa sổ phòng khách. Nụ hoa hồng thật bình dị, ở giữa bức màn bằng lụa là sang trọng với vải rìa mịn như tơ, và quanh đó là những vật quý hiếm đắt tiền do bàn tay người chủ nhà giàu có trang trí, nhưng cành bông hồng đơn giản là vật đẹp nhất giữa tất cả những thứ quyền quý cao sang ấy.
Thật thuần khiết, trinh nguyên, với những cánh hoa màu trắng, hơi nhuộm một màu son nhẹ, tràng hoa tròn, phần trên hoa hơi nghiêng, như thể sẵn sàng hòa vào thân cây!
Ôi! Thật là một sản phẩm quá hoàn hảo từ bàn tay con người tác tạo nên!
Nhưng tia nắng xuyên qua những tấm rèm này đang chiếu sáng một nét đẹp tuyệt trần hơn cả hoa hồng. Nằm trên chiếc ghế trường kỷ, trong một góc tối và đang say sưa đọc sách, một mỹ nhân với vẻ đẹp tươi mát sánh ngang với bông hoa xinh xắn kia. Gương mặt sáng hồng, vầng trán thông minh, diện mạo xinh đẹp này biểu hiện suy nghĩ sâu sắc nhất, đôi hàng mi dài, đôi môi tỏ nét nghiêm túc, nhưng dịu dàng và nhẫn nhục, toàn bộ nét hoàn mỹ ấy, đó là một ước mơ về cái đẹp thật lý tưởng.
-Florence! Florence! Một tiếng gọi vui vẻ du dương như tiếng nhạc vang lên, rồi lập lại, có vẻ nóng lòng.
Bạn hãy quay đầu lại đi, bạn sẽ nhìn thấy một cô bé tươi trẻ, hoạt bát, điển hình cho sức sống của con trẻ với đôi mắt linh hoạt, đôi chân nhảy nhót, lướt nhẹ trên thảm, và một nụ cười với vô số lúm đồng tiền như thể hai mươi nụ cười đang tụ lại cùng lần trong một nụ cười.
-Florence này, -cô bé tinh nghịch nói, – hãy để cuốn sách hay tuyệt đầy cả những ý nghĩ của nhà hiền triết ấy qua một bên đi, và hãy nói chuyện với một con bé chán ngắt tội nghiệp này chị ạ. Em đang suy nghĩ không biết nàng sẽ làm gì với cây hồng khi mà chị rời khỏi nơi này, bởi vì đó là quyết định của chị; thật là hoài phí khi cây hoa ấy lại được giao lại không đúng người như em. Em rất thích nhiều loại hoa, nhưng mà phải là hoa được trình bày đẹp đẽ nghệ thuật thành bó hoa để mang đến những buổi dạ hội cơ, chứ nói đến việc chăm sóc cẩn thận thì em không thể có năng khiếu đó đâu chị ạ.
– Đừng lo âu về vấn đề ấy, Catherine yêu quý ạ, Florence trả lời với nụ cười tươi tắn; chị không có ý để em thực hành tài năng của mình đâu: chị đã có một nơi an toàn cho cây hoa quý báu của chị rồi.
– Ồ, vậy chắc chị đã đoán được em muốn nói ai rồi phải không? Bà Marshall đã gặp chị rồi sao; hôm qua bà đã đến, và em đã cho bà biết rằng chị sẽ rất buồn khi phải rời xa vật báu của chị, và bà nói là sẽ rất vui thích mang cây hoa vào trong nhà kín của bà. Cây hoa đang rất sung mãn, bao nhiêu là nụ sắp bung nở ra rồi!
Và em đã nói thêm rằng chị sẽ rất an tâm khi giao hoa cho bà; và em biết chị cũng rất thích bà Marshall.
-Rất tiếc, Catherine, nhưng chị đã muốn làm khác đi, em ạ.
-Ủa, vậy chỉ muốn nói đến ai vậy? Ở đây chị đâu có nhiều bạn thân đâu
-Bởi vì đôi khi tính khí của chị hơi khác thường một chút em ạ
-Nói cho em biết ai vậy chị ?
– A, em biết rồi mà, đó là cô bé có gương mặt trắng xinh đó, người mà thường giúp chúng ta những việc vặt.
-Vậy sao? Cô bé Mary Stephens ư? Thật là điên rồ! Florence à, đây lại thêm một ý tưởng già nua trước tuổi của chị đó: may áo búp bê cho trẻ em nghèo khổ, đan nón và vớ cho tất cả bọn trẻ bẩn thỉu trong làng.
Em nghĩ là chị thường đến thăm những nơi dơ bẩn, những con đường hôi hám ở phía sau nhà ấy nhiều hơn là đến đường Chestnut, ở đó biết bao nhiêu người chờ đợi chị; rồi còn chưa hết sao, chị lại còn đem tặng viên ngọc quý thiên nhiên này cho một người thợ may trong khi mà một người bạn thân ngang hàng cùng lứa với chị sẽ rất hân hoan đánh giá thật cao việc ấy.
Thế em hỏi chị những bọn người ấy có nhu cầu gì về hoa kia chứ?
-Họ cũng cần hoa như chị thôi em ạ, Florence ôn tồn trả lời.
Em có để ý rằng không lúc nào cô bé đến đây mà không liếc nhìn một cách thèm thuồng vào các nụ mầm hàm tiếu hay sao?
Em có nhớ cô bé đã hỏi một cách rất nhã nhặn thương tâm rằng bé có thể đưa mẹ đến để xem cây hoa của chị bởi vì mẹ của bé rất yêu hoa không?
-Này, hãy suy nghĩ đi, Florence, một bông hoa quý hiếm trên một cái bàn, giữa nào là thịt, trứng, bột bèo, bị giam hãm không có khí trời trong căn phòng chật hẹp ấy, nơi mà bà Stephens giặt giũ, lau chùi, nấu nướng, rồi còn bao nhiêu việc khác nữa…!
– Kate à! Nếu như chị phải ở trong một căn phòng chung chật hẹp, rồi làm đủ thứ việc lau chùi rửa dọn như em nói, nếu như chị phải làm việc tất bật trong nhiều giây phút suốt một ngày trời của chị, cảnh vật duy nhất là bức tường gạch, một căn phòng bức bí, thì một nụ hoa như thế sẽ là một niềm vui vô biên đối với chị-
-Florence ơi, chị thật là đa cảm; những người nghèo họ không có thì giờ đâu!
Hơn nữa, em không nghĩ là nụ hoa sẽ sống lâu ở nhà họ, đây là một loại hoa cần chăm sóc đặc biệt, và phải có môi trường phù hợp nữa.
– Chuyện đó thì không đúng đâu em, một bông hoa không cần biết đến người chủ là giàu hay nghèo, và ánh dương chiếu vào phòng của bà Stephens cho dù qua khung cửa sổ rách nát đến đâu thì cũng toả sáng và ấm cúng như tia nắng xuyên qua cửa sổ của chúng ta đây thôi.
Thượng đế rất quang minh, không phân biệt bất cứ người nào em ạ. Rồi em thấy hoa cũng sẽ xinh tươi như khi ở trong nhà chúng ta thôi.
-Em nghĩ thật là kỳ lạ, nếu muốn tặng cho người nghèo, thì hãy nghĩ đến những thứ mà họ rất cần như thức ăn,… áo quần, chị thấy không?
– Có thể, nhưng khi đã tặng họ những thứ như thế rồi, tại sao ta không thêm một chút gì đó thật thú vị?
Chị biết có những người bần cùng trước đó vẫn có những tình cảm về thiên nhiên, nhưng khi họ không còn ngay cả những thứ tối thiểu cho cuộc sống thì những suy nghĩ thanh cao ấy cũng thui chột mất đi.
Như bà Stephens, mỗi khi nhìn thấy những đồ vật xinh xắn, như hoa, chim muông, nghe được nốt nhạc lãng mạn, bà cũng xao xuyến như chị thôi, nhưng vì không có phương tiện nên bà dành chấp nhận tất cả những thứ xoàng xĩnh xấu xí.
-Em có nhớ bà ấy rạng rỡ như thế nào khi chị tặng cho con của bà cái nón len viềng dải ruy băng thật đẹp, và bà ấy đã cực nhọc nhiều ngày để may một cái áo xinh xắn cho ngày rửa tội của bé không?
Chị nghĩ rằng khi nhận món quà xinh ấy, bà ấy sẽ mãn nguyện hơn khi được nhận một bao gạo hoặc bột, em à
-Chúa ơi, tất cả những điều này có thể là sự thật, nhưng em chưa bao giờ nghĩ đến điều đó, em chưa bao giờ nghĩ rằng những người làm việc cực nhọc như thế lại có thể có một chút ý tưởng về khiếu thưởng thức và nét đẹp chị ạ.
&&&
Trong một căn phòng rất nhỏ, ánh sáng chỉ lọt qua khung cửa sổ duy nhất, sàn lát gỗ không có thảm, trong góc là chiếc giường màu trắng, trên bàn có vài món thức ăn bày trên đĩa không đồng bộ; và trên bệ cửa sổ là cây anh đào đựng trong hộp nhỏ, là vật sáng sủa duy nhất.
Một người phụ nữ nhợt nhạt và ốm yếu đang ngả lưng trên một chiếc ghế dài cũ kỹ, mắt nhắm và đôi môi co lại vì đau đớn. Cô xoay mình trong vài phút, để tay lên mắt, rồi cô tiếp tục một cách uể oải công việc mà cô bắt đầu từ sáng.
Cửa mở toang ra, và một cô bé mảnh mai khoảng mười hai tuổi bước vào, đôi mắt xanh thẫm thật hân hoan vì vui thích, trên tay là chậu đựng cành cây nhỏ mà họ hằng ao ước.
-Mẹ ơi, hãy xem nè! Một cái thì nở rồi, còn hai nụ sắp bung ra đây mẹ, rồi bao nhiêu là cành giâm đang nhô lên, thấy không mẹ!
Gương mặt bà mẹ rạng rỡ hẳn lên khi nhìn vào cây hoa, rồi lướt đến vẻ mặt của con gái mà từ rất lâu rồi bà chưa thấy ánh lên niềm vui ngập tràn như thế.
– Xin Thượng Đế ban ơn lành cho cô ấy! Bà mẹ vô tình thốt lên.
– Cô Florence phải không mẹ! Tất nhiên rồi mẹ ạ, con biết thế nào mẹ cũng nghĩ về cô ấy.
Mẹ cảm thấy thật nhẹ nhàng sảng khoái khi nhìn đóa hoa phải không mẹ?
Giờ đây thì mẹ không cần phải nhìn ngắm một cách thèm thuồng bao nhiêu là hoa hồng ở chợ nữa, vì cây hồng này đẹp tuyệt vời hơn hẳn tất cả những đóa hoa mà ta đã trông thấy từ xưa nay phải không mẹ? Bao nhiêu là nụ, rồi còn mùi thơm nữa! Bây giờ mình đặt nó ở đâu nhỉ?
Rồi cô bé vừa nhảy nhót vừa đặt cây hoa chỗ này, rồi thụt lùi để ngắm, rồi lại mang đặt nơi khác, cứ thể cho đến khi mẹ bé bảo rằng hoa chỉ sống và trở nên xinh đẹp khi có ánh mặt trời.
-Cô Florence thật dễ thương biết chừng nào phải không mẹ? Cô ấy đã tặng chúng ta bao nhiêu là quà, nhưng con nghĩ món quà này là đẹp nhất!
Rồi bà Stephens quên hẳn đi những lo âu và bệnh hoạn của mình khi nhìn thấy con gái hạnh phúc như thế.
Florence không thể nào ngờ rằng, khi cô tặng món quà này, một sợi chỉ vô hình được dệt từ đó để định mệnh của cô được hình thành.
&&&
Vào một buổi chiều mùa đông lạnh giá, một người kỵ sĩ cao lớn thanh lịch đến ngôi nhà của hai mẹ con cô bé để nhân bộ áo quần anh đã nhờ họ may sửa .
Anh là một người từ nơi khác đến, được vài người quen giới thiệu công việc của bà Stephens. Anh ta đang chuẩn bị bước ra cửa, bỗng nhìn thấy cây hoa hồng và nhìn ngắm một cách thích thú.
-Cây hoa mới đẹp làm sao! Anh buộc miệng thốt lên.
-Dạ vâng thưa ông, cô bé Marie trả lời, đó là quà của một tiểu thư cũng xinh đẹp yêu kiều như cánh hoa cô tặng mẹ con cháu đó ạ.
-À vậy sao!
Người lạ mặt nói, vừa nhìn cô bé bằng đôi mắt đen sáng với vẻ mặt vui mừng và kinh ngạc.
– Và tại sao cô ấy lại tặng cho bé, hở cô bé nhỏ xinh?
– Bởi vì mẹ con cháu rất nghèo và mẹ cháu bị bệnh, và mẹ sẽ không thể mua được một bụi hoa hồng đẹp như vậy. Mẹ và cháu trước đây đã có một khu vườn, và cả mẹ và cháu đều rất yêu hoa; cô Florence biết được điều này, và cô ấy đã tặng bông hồng cho mẹ cháu.
–Florence ư? người thanh niên hỏi lại.
-Vâng, cô Florence l’Estrange, một cô gái rất xinh đẹp.
Người ta bảo cô ấy không phải là người ở thành phố này; tuy nhiên, cô ấy nói tiếng Anh giống như những người phụ nữ khác, nhưng giọng nói nhẹ nhàng hơn.
-Bây giờ cô ấy còn sống ở đây không? ở thành phố này ?,- ông ấy tiếp tục hỏi.
– Thưa không ạ! cô ấy đã đi nơi khác được vài tháng, bà góa phụ trả lời, bà vừa nhận thấy nét mặt đăm chiêu thất vọng của vị khách.
Nhưng rồi bà nói thêm:
– ông có thể biết được tin tức về cô ấy đây ạ. Địa chỉ nhà dì của cô ấy là:… số 10 đường…
Và sau đó, Florence nhận được một lá thư, khi nhìn thấy nét chữ viết, cô thật xao xuyến.
Trong những năm đầu của thời thơ ấu, khi cô cùng gia đình cư ngụ ở Pháp, cô đã quen thuộc với nét chữ này.
Cô ấy đã yêu như một người phụ nữ như cô biết yêu – chỉ một lần.
Nhưng quá nhiều trở ngại từ người thân, bạn bè, sự chia cách lâu dài, nhiều năm đau khổ đã trôi qua, đến nỗi cô tin rằng Đại dương đã khép lại giữa cô và đôi tay yêu quý này; và đó là lý do tại sao khuôn mặt diễm kiều của cô lại mang những nét hằn vì buồn đau.
Nhưng bức thư này cho cô biết rằng anh vẫn ở gần đây, rằng anh đã tìm ra được cô và theo bước chân của cô, như người ta phát hiện ra lòng sông có nước trong suốt và tinh khiết lâu ngày đã bị cây xanh che khuất, khi anh dõi theo bao nhiêu việc từ thiện cô đã gieo trên mọi nẻo đường, và rằng cô là thiên thần của bình an và hạnh phúc.
. . . Và có lẽ đoạn kết của câu chuyện thần tiên này đã thật thơ mộng, phải không ạ?
Harriet Beecher Stowe -TL phỏng dịch
ReplyForward -
SUY NGẪM – THÁI LAN
ĐIỀU LUẬT ĐỂ CÓ HÔN NHÂN HẠNH PHÚC
– Chỉ đi ngủ một khi mối bất hòa đã được giải quyết– Chỉ phê phán người bạn đời một cách trìu mến khi một cuộc cãi vã xảy ra
– Hãy dàn xếp thế nào để cho người kia luôn có lý
– Chỉ la hét khi nhà cháy
– Không khơi lại những sai lầm trong quá khứ
– Quên hết mọi thứ, chỉ trừ bạn đời của mình
– Không bao giờ nổi giận cùng lúc với người kia
– Luôn luôn nhận mình đã hành động sai trái
– Phải biết tha thứ và luôn tạ lỗi
– Mỗi ngày hãy gởi một hành động yêu thương đến ” họ” –Khuyết danh
===================
– Những hình thức đa dạng
Bạn nhìn thấy nhiều ngôi sao trên bầu trời, vào ban đêm, nhưng bạn không còn tìm thấy chúng ở đó khi mặt trời mọc; Bạn có thể nói rằng không có ngôi sao trên bầu trời vào ban ngày không?
Thế nên, hỡi bạn thân mến ! bởi vì bạn không chiêm ngưỡng Thượng Đế vì sự thiếu hiểu biết của bạn, đừng nói rằng không có Thượng Đế.
Cũng thế, cùng một chất nước, được gọi bằng các tên khác nhau theo dân tộc khác nhau, có dân tộc gọi là water, người thuộc nơi khác gọi là eau, rồi agua, rồi pani, …cũng như Sat-Chi-Ananda , phước lành thông minh vĩnh cửu, được dân tộc này cầu khẩn là Đức Chúa Trời, dân tộc kia là Allah, Jehovah, Hari hoặc Brahma…
Cũng giống như ta có thể leo lên đỉnh một mái nhà bằng cách dùng thang, một cành tre, cầu thang hoặc dây thừng, tất cả các tôn giáo trên thế giới đều hướng dẫn ta theo một trong những cách này để tiếp cận Thượng Đế.
Những tín ngưỡng khác nhau chỉ là những con đường khác nhau để đến với Đấng Toàn Năng. Có nhiều con đường khác nhau dẫn đến đền thờ của lòng sùng kính của bạn. Tương tự như vậy, có nhiều cách khác nhau dẫn đến nhà của Thượng Đế.Mỗi tôn giáo chỉ là một trong những con đường dẫn đến Ngài.
Sri Ramakrishna
=========================== – ĐIỀU QUAN TRỌNG
“Tôi cảm thấy thật buồn!”, một cơn sóng biển nói, khi nhận ra rằng những cơn sóng khác lớn hơn nó. « Những cơn sóng rất lớn, rất mạnh mẽ, và tôi rất nhỏ, rất yếu kém. »
Một làn sóng khác trả lời: “Đừng buồn bạn ạ. Nỗi buồn của bạn tồn tại chỉ vì bạn chú trọng đến sự vật bên ngoài, bạn không nhận ra bản chất thực sự của mình.»
“Tôi không phải là một làn sóng sao?”
“Làn sóng chỉ là một biểu hiện nhất thời của bản chất thật sự của bạn. Thực ra, bạn là nước. »-Nước ư?
“Đúng vậy. Nếu bạn hiểu rõ rằng bản chất của bạn là nước, bạn sẽ không còn xem trọng hình dạng sóng của mình và nỗi đau của bạn sẽ biến mất.
Điều quan trọng là bạn Hãy nhớ rằng nhân loại là một phần của tổng thể . Bởi vì con người thường xem mình là trung tâm của sự vật bằng cách tự ban cho mình những quyền đặc biệt không có lý do hợp lý. Vì vậy, anh ta chỉ nhìn thấy ở người đồng loại của mình những gì anh ta không sở hữu được, mà không nhìn thấy bao nhiêu thứ anh ta đã sở hữu, và anh tự gây ra cho mình những mối ưu tư vô ích nhất”.Zen
========
– CẦN SUY NGẪM
.
Khi gia đình ta thật đông con,
Một khi chúng xinh đẹp thông minh xuất chúng
Với một ngoại hình hoàn hảo
Ta không thấy đó là gánh nặng,
Nhưng nếu như một đứa con yếu kém hơn những đứa kia,
Không linh hoạt xuất sắc,
Thì ta lại khinh miệt con, chê bai nó đủ điều;
Nhưng bạn ơi,
Đôi khi chính đứa con nhỏ bé không giỏi giang mà ta ghét bỏ đó
Lại mang hạnh phúc đến cho gia đình
Nguồn: Perrault
********
– NHỮNG BƯỚC CHÂN CỦA NGÀI
Vào những giai đoạn cuối đời,
một người đàn ông nhìn lui
và nhận thấy rằng,
trong suốt quãng đường dài cuộc đời của mình,
trên cát có bốn dấu chân bước đi.
Đó là dấu chân của mình và của Thượng Đế.
Nhưng, ô kìa, trong những giai đoạn khốn khổ,
thì chỉ có hai dấu chân!
Vô cùng ngạc nhiên và thậm chí đau lòng,
ông ta nói với Ngài:
” Con thấy là chính
những lúc cùng quẫn nhất
thì Ngài đã bỏ con cô đơn..”
” Hoàn toàn sai rồi con ạ! ” Thượng Đế trả lời,
trong những lúc con sa cơ lỡ vận,
chỉ có
vết chân của ta thôi,
bởi vì… lúc đó…
ta ôm con trên tay.”(
Theo michelegabriel. Histoires à réfléchir)
====GIA ĐÌNH CỦA TA….
Khi bước đi vội vã trên lề đường,
Một người bộ hành chen lấn khi đi ngang tôi,
“Ồ! Xin lỗi ông “ -tôi nói với ông ta
Ông ấy trả lời: “Tôi cũng xin cô thứ lỗi,
Tôi không nhìn thấy cô!”
Người khách lạ và tôi đã thật lịch sự với nhau,
Đã trao đổi những lời lẽ thật đẹp cho nhau,
Và cả hai chúng tôi tiếp tục con đường của mình sau khi nói ”Xin chào!”
Một khi về đến nhà
Thì câu chuyện lại hoàn toàn khác hẳn.
Chúng ta đối xử như thế nào với những người thân yêu của chúng ta…
Trẻ con, vị thành niên và người lớn tuổi ?
Bạn có bao giờ nghĩ đến điều đó không?
****
Sau đó, vào buổi chiều, khi tôi đang làm cơm tối,
Con trai tôi đến sau lưng tôi và đứng im như vậy, không nói tiếng nào.
Trong một lúc vô ý, bất thần tôi quay người lại, và làm cháu ngã.
“Tránh ra đi nào! ”, tôi giận dữ quát lên,
“Sao lúc nào con cũng lẩn quẩn bên chân mẹ vậy”!
Cậu bé quay lại và buồn bã bỏ đi .Tôi không nhận biết được tôi vừa làm cậu bé tổn thương như thế nào.
Đến lúc đi ngủ,… Tôi nghe Thượng Đế nhỏ nhẹ …nói với tôi:“Tại sao con thật dễ dàng đối xử với người ngoài đường một cách khả áimà lại không thể hành xử như vậyvới những người bên cạnh con, họ yêu mến con và con cũng thương yêu họ vậy?”Con hãy dậy đi và hãy nhìn trên sàn nhà bếp.Con sẽ thấy một bó hoa thật đẹp ở cửa…đó là hoa mà con trai con mang về cho con.Nó đã tự tay hái lấy những đóa hoa đó cho con:có hoa hồng, vàng và xanh trời.****Có điều con chẳng hiểu gì cảKhi nó nhẹ nhàng đến sau lưng con Là để không làm lộ điều bí mật dành cho con mà con sẽ rất thích thú.Nhưng con đã không nhìn thấy dòng lệ tràn ra trên má của nókhi con bảo nó tránh đi.”Tôi đã ngồi dậy rồi đến cánh cửavà nhìn thấy bó hoa thật đẹp dưới đất.Chính vào lúc đó tôi mới cảm thấy thật sự đau đớn,và mắt tôi đã đẫm lệ..****Tôi bước đi nhẹ nhàngđến bên giường con và nói với con:“Dậy đi, con yêu của mẹ, dậy đi con!”“Đây là những đóa hoa hôm nay con đã hái cho mẹ phải không?”Con tôi mỉm cười và nói:“Con đã tìm thấy hoa này bên cạnh một gốc câyvà con đã hái vì con thấy chúng rất đẹp…đẹp như mẹ của con! Con biết rằng mẹ rất thích,nhất là những cánh hoa xanh trời vì con biết mẹ rất yêu màu xanh ấy.”Tôi nói với con: “Con trai của mẹ, mẹ thật buồn vì đã cư xử rất tệ với con hôm nay”.Mẹ không nên quát mắng to tiếng với con như lúc chiều.Con tôi đáp lại: “ Ôi, Mẹ ơi, không sao đâu Mẹ.Dù vậy con vẫn yêu mẹ cơ mà!”“Con của mẹ, mẹ cũng rất yêu con, con ạvà mẹ rất thích hoa , nhất là hoa màu xanh trời.”Lúc ấy, một khoảnh khắc dịu dàng yêu thương làm cho chúng tôi thật gần gũi bên nhau.****Kể từ hôm đó,Tôi đã học được rằng phải ân cần chăm chútngười thân yêu cũng như để ý đến người xa lạ hay đúng hơn là chăm chút thương yêu người thân hơn người xa.(Khuyết danh)-
********
=============
TÔI ĐÃ RẤT LO SỢ–
Tôi đã rất sợ phải ở một mình, cho đến khi..
Tôi học được cách tự yêu thương mình.
Tôi đã rất sợ thất bại, cho đến khi…
Tôi nhận ra rằng tôi sẽ thất bại nếu như tôi không gan dạ dám làm.
Tôi sợ rằng tôi sẽ bị gạt bỏ, cho đến khi …
Tôi hiểu ra rằng tôi phải có lòng tự tin vững chắc
Tôi đã rất sợ sự đau đớn, cho đến khi…
Tôi hiểu rằng ta cần phải đau xót mới mong khôn lớn được
Tôi đã rất sợ sự thật, cho đến khi…
Tôi khám phá ra dối trá là xấu xa đến độ nào.
Tôi đã rất sợ sự chết chóc, cho đến khi…
Tôi học được rằng đó không phải là sự kết thúc, mà chính là một giai đoạn khởi thủy.
Tôi đã rất sợ sự hận thù, cho đến khi…
Tôi nhận thức được rằng thù hận chung quy chỉ là sự ngu muội dốt nát.
Tôi rất sợ bị người khác chế giễu, cho đến khi…
Tôi học được cách mình tự nhận ra những điều buồn cười ở chính bản thân mình.
Tôi rất sợ bị tuổi già xâm chiếm, cho đến khi…
Tôi hiểu được rằng càng ngày tôi càng có thêm sự khôn ngoan.
Tôi rất sợ mọi người sẽ nghĩ thế nào về mình, cho đến khi…
Tôi nhận ra rằng cho dù tôi có làm gì đi nữa thì họ cũng đã có lời phê bình về tôi rồi.
Tôi đã rất sợ quá khứ, cho đến khi…
Tôi hiểu ra rằng tôi không bị tổn thương vì những ngày đã qua nữa.
Tôi đã rất sợ bóng tối, cho đến khi…
Tôi đã nhìn thấy ánh sáng của một ngôi sao rực rỡ diệu kỳ như thế nào.
Tôi đã rất sợ sự đổi thay, cho đến khi…
Tôi thấy được rằng ngay cả con bướm đẹp nhất cũng phải qua một kỳ biến thái.
Cho dù cuộc sống của chúng ta ngày càng phong phú hơn, và nếu như chúng ta cảm thấy sờn lòng…
Thì bạn ơi, ta hãy nhớ rằng, cuối cùng, luôn luôn có thêm một điều gì đó và điều ấy tuyệt hơn rất nhiều.KHUYẾT DANH –
=====================
– NHỮNG ĐIỀU KHÔNG NÓI RA SẼ LÀM HẠI TA…
Bạn có biết những điều không nói ra sẽ đi về đâu không?
Điều gì bạn muốn làm nhưng đã không thực hiện sẽ đi đâu?
Những cảm giác bạn tự kềm chế sẽ trôi đi đâu?
Ta mong muốn biết bao những việc này sẽ đi vào lãng quên, nhưng bạn biết không, những điều không nói ra sẽ chất chứa trong chúng ta và làm cho tâm hồn ta tràn đầy tiếng kêu thầm lặng. Những điều không thổ lộ biến thành nỗi trăn trở, thành nỗi đau đớn.
Những điều không nói ra biến thành nỗi luyến tiếc, thành giờ khắc lặng trôi. Những điều không nói ra trở thành bổn phận, thành nợ ơn. Những lời nói không được thốt lên sẽ chuyển biến thành sự tước đoạt, thành nỗi buồn đau, thành sự bất bình.
Những điều không nói ra sẽ không tự nó biến mất, mà trái lại giết hại chính ta…Nguồn: lesmotspositifs
–
===========
– Ta được sinh ra…
Ta được sinh ra để yêu thương..
như chim chóc được sinh ra để hót ca,như đóa hoa để tung hương thơm cùng khắp,
như dòng sông để tuôn trào.
Ta được sinh ra để ban tặng ..
Như suối nguồn để làm tươi mát,
như bóng cây xanh rậm để phục hồi sinh lực,
như cây là để chở che .
Ta được sinh ra để tạo niềm tươi vui…
như người diễn viên để ca múa,
như chú hề để xoay xoay,
như đứa trẻ để bay nhảy .
Ta được sinh ra để tương hợp…
Như người mẹ để ủi an,
như người anh để ta vững tin,
như người hàng xóm để lắng nghe.
Ta vào đời để sinh sôi…
như đồng cỏ xanh thẫm,
như lúa mì sớm tươi tốt,
như bầu trời sáng muôn màu.Jules Beaulac, Người và sự vật, 1993
====================
– XIN HÃY NHỚ CHO…
Nếu như một sự việc chẳng là gì có thể đem đến niềm đau
Thì một sự việc chẳng là gì cũng có thể mang hạnh phúc…Rằng bạn có thể là một người đem gieo
niềm lạc quan, can đảm, tự tin…
Rằng tính khí vui vẻ của bạn có thể
làm cho cuộc sống của tha nhân tươi sáng hơn
Rằng bất cứ lúc nào bạn cũng có thể gởi đi một lời tử tế…
Rằng nụ cười của bạn không chỉ tô vẽ cho bạn thêm xinh,
mà còn khiến cho sự hiện hữu của những người đến bên bạn trở nên tuyệt vời hơn…
Rằng đôi tay bạn là để ban tặng
và trái tim bạn là để tha thứ…Thomas Merto
==========
– Tôi là chính tôi
Hoa tulip sẽ không là hoa hồng
Và hoa hồng sẽ không là bồ công anh
Niềm hy vọng trở thành một bông hồng để làm gìKhi ở trong tôi “Tôi là chính tôi”
Có lẽ tôi là một bông hoa tulip
thức dậy vào mỗi mùa xuân
Xum xoe màu sắc, khởi nguyên của mình
Thường được xem là không đúng thờiCó lẽ tôi là một bông hồng
tỏa hương thơm của tình yêu
mặt ảm đạm của tôi làm người bị châm chích
Nhưng hạnh phúc sẽ trở lạiCó thể tôi là bồ công anh
vung vãi khắp nơi và không ai hiểu được
nhưng khi hoa làm tròn vai trò hữu ích
cuộc sống của bạn sẽ được vị hương ngọt ngào
Cho dù bạn là hoa gì
Tất cả đều có phần quan trọng
nhưng bạn phải nhớ
đấng Tạo Hóa đã sinh ra bạn
Hoa tulip không thể là bông hồng
Và hoa hồng không thể là cây bồ công anhHy vọng trở thành hoa hồng để làm gì
Khi bên trong tôi “Tôi là như tôi hiện hữu“
Roger Kemp -
VÀI SUY GẪM – THÁI LAN
1/-HitlerVào tháng giêng năm 1894, lúc đó Hitler được 4t, đã suýt chết đuối, và một thầy tu đã cứu ông ta. Lịch sử của thế giới
có lẽ sẽ khác đi rất nhiều nếu như vị thầy tu đó không cứu được “vĩ nhân”, phải không thưa quý vị?
*** Và không biết “vĩ nhân” Putin ngày xưa có bị như vậy không, để cả thế giới ngày nay phải hối tiếc…?(ghi thêm..)======2/- THẦY VÀ TRÒ–
Một bài học thật tuyệt về đạo đức cho những người vô thần…
Một giáo sư đại học thách đố học trò bằng câu hỏi sau: -“Có phải chính Thượng Đế đã tạo dựng nên mọi thứ đang hiện hữu với chúng ta?
Một sinh viên dạn dĩ trả lời:-“Dạ thưa Thầy, quả đúng như vậy ạ”
Giáo sư lại hỏi-“Thượng Đế đã tạo nên tất cả hay sao?”- “Da, thưa đúng ạ”. Vị giáo sư liền trả lời: -” Nếu như Ngài đã tạo nên tất cả, như thế Ngài cũng đã tạo ra điều ác bởi vì điều ác đã hiện hữu, và nếu theo nguyên tắc định nghĩa điều ác và điều thiện, chúng ta đã làm điều nọ hay điều kia, do Ngài tạo ra, như thế suy ra là Thượng Đế là không tốt.”
Người sinh viên trở nên im lặng khi nghe câu trả lời như thế. Vị giáo sư cảm thấy rất vui và hãnh diện vì một lần nữa đã chứng minh được rằng niềm tin vào Thượng Đế chỉ là một điều hoang tưởng.
Rồi một sinh viên khác đưa tay lên:-“Thưa thầy, em có thể hỏi thấy một câu được không ạ?”- Tất nhiên rồi, giáo sư trả lời.
Sinh viên nói: – “Thưa thầy, vậy thì cái lạnh có hiện hữu không ?”- Ôi, sao lại có câu hỏi như thế nhỉ? Dĩ nhiên là nó hiện hữu chứ. Vậy em chưa bao giờ bị lạnh sao?”giáo sư hỏi.
Chàng thanh niên trả lời- “Thưa Thầy, thật ra thì cái lạnh không hiện hữu, Theo như định luật về vật lý, điều mà chúng ta cho là cái lạnh thật ra chỉ là sự thiếu nhiệt dung. Tất cả mọi cá thể hoặc vật thể đều sở hữu hoặc truyền được năng lượng. Nhiệt dung do một cá thể hoặc vật thể tạo ra, nhiệt dung ấy truyền năng lượng đi. Nhiệt độ âm tuyệt đối (- 460oF) chính là sự thiếu vắng nhiệt dung hoàn toàn; tất cả mọi vật thể trở nên bất động và không thể có phản ứng ở nhiệt độ này. Cái lạnh không hiện hữu tự nó. Chính chúng ta đã nghĩ ra từ đó để diễn tả những gì chúng ta cảm nhận khi ta không có tí thân nhiệt nào cả.
Thanh niên lại tiếp tục:- “Thưa Thầy, vậy chứ bóng tối có hiện hữu không?”. Vị giáo sư:- Dĩ nhiên rồi!
Sinh viên: – “Thưa Thầy lại sai nữa rồi, bóng tối cũng không hiện hữu.Thật ra bóng tối chỉ là sự thiếu vắng ánh sáng. Ta có thể nghiên cứu về ánh sáng, nhưng không thể nghiên cứu về bóng tối. Thật ra, ta có thể xử dụng lăng trụ của Newton để phân chia ánh sáng trắng ra thành nhiều màu rồi khảo cứu những độ dài sóng khác nhau của mỗi màu.Thầy không thể nào đo lường được bóng tối . Chỉ một tia sáng nhỏ có thể tràn vào trong một khoảng tối bao la và làm toả sáng cả vùng đó. Làm thế nào thầy có thể biết được bóng tối ở đó chiếm bao nhiêu khoảng cách? Thầy chỉ có thể đo được dung lượng của ánh sáng hiện hữu trong đó. Như thế có đúng không thưa thầy? Bóng tối chỉ là một từ do con người dùng để diễn tả điều gì sẽ xảy ra khi ánh sáng không hiện hữu.
Sau cùng, thanh niên hỏi giáo sư:-“Vậy thì thưa Thầy, điều xấu có hiện hữu không”.
Đến bây giờ thì Giáo sư trở nên lưỡng lự, và trả lời: -“Tất nhiên là có, như tôi đã nói rồi. Ta đã nhìn thấy điều xấu hàng ngày trong cuộc sống. Ta thấy nó trong bao nhiêu điều vô nhận đạo giữa người với người. Ta đã thấy nó trong vô vàn những tội ác và bạo lực khắp nơi trên thế giới. Những sự biểu lộ ấy toàn là hiện hữu của cái ác, cái xấu!”
Sinh viên trả lời: – “Thưa Thầy, cái Ác không hiện hữu đâu ạ, hay đúng ra là nó không tự nó hiện hữu. Cái Ác đó chỉ là sự thiếu đức tin vào Thượng Đế. Nó chỉ giống như bóng tối và cái lạnh, một từ ngữ mà loài người đã nghĩ ra để diễn tả sự thiếu đức tin vào Thượng Đế. Thượng Đế không tạo ra điều Ác. Điều Ác không như đức tin, hay TÌNH Yêu đã hiện hữu thật sự, cũng như ÁNH SÁNG và Nhiệt dung đã hiện hữu. Cái Xấu chỉ là hậu quả xảy đến một khi con người không có được TÌNH YÊU của Thượng đế trong trái tim họ. Điều Xấu cũng giống hệt như cái Lạnh sẽ đến khi không có tí nhiệt dung nào hoặc là bóng tối sẽ đến khi không có tí ÁNH SÁNG nào.”
Vị giáo sư phải ngồi xuống ghế, thật bàng hoàng khi nghe câu trả lời.
Tên của người sinh viên trẻ tuổi kia là gì vậy?…. …..Albert Einstein.
=== Tái Bút: Hỏi: Thượng Đế có hiện hữu không?Trả lời: Không!H: Bạn có nhìn thấy khối óc của bạn không?TL: Không!H: Bạn không nhìn thấy nó, thế nhưng bạn biết là nó hiện hữu ư?TL: Đúng.TL: Thì cũng như Thượng Đế mà thôi, bạn không nhìn thấy Ngài, mà bạn vẫn biết là Ngài đang có mặt ở đây và NGÀI hiện hữu!KHUYẾT DANH
============3/-NHỮNG QUYẾT ĐỊNH SAI LẦM –
Trao đổi giữa một nhà báo và một doanh nhân.
-Thưa ông, ông có thể cho biết bí quyết thành công của ông là gì không ạ?- Điều đó chỉ tóm gọn bằng hai chữ.- Hai chữ thôi sao?- Quyếtđịnh đúngđắn.- A, tất nhiên rồi! Nhưng làm thế nào mà ông có thể đạt đến những quyết định đúng đắn?- Chỉ gom lại một từ thôi- Từ đó là gì thưa ông- Kinhnghiệm.- Rồi kinh nghiệm ấy, làm sao ông có được?- Bằng hai chữ: quyết định sailầm.(Theo histoires inspirantes)- =====4/-Một người chiến binh không phải là người như các bạn nghĩ đâu. Họ không phải là người đi ra chiến trận để lấy mạng sống của những người khác. Đối với chúng tôi, một người chiến binh là một người hy sinh chính thân mình rất nhiều vì hạnh phúc an lạc của tha nhân. Bổn phận của họ là bảo vệ những người lớn tuổi, những người không thể tự bảo vệ được, những người không thể tự chăm sóc cho bản thân và quan trọng nhất là trẻ thơ, chúng là tương lai của nhân loại chúng ta.
SITTING BULL- Trưởng Bộ Tộc SIOUX
=====5/- BỐN CHÀNG SINH VIÊN TINH RANH –
Một buổi tối nọ, bốn chàng sinh viên đi chơi tiệc tùng vui vẻ đến mãi khuya mới về và không ai có thể học bài vở cho buổi kiểm tra được dự trù vào sáng ngày mai. Đến sáng thức dậy, họ bèn nghĩ ra một kế . Bọn họ liền bôi đất cát và dầu mỡ thật bẩn lên khắp người.Rồi họ đến thưa với Thầy Chủ nhiệm Khoa rằng tối qua họ đã đi dự tiệc cưới và trên đường về thì bánh xe bị bể và họ phải cùng nhau đẩy chiếc xe trên suốt đoạn đường còn lại để về đến nhà. Thế nên họ không thể sửa soạn kịp thời cho buổi kiểm traThầy Trưởng khoa suy nghĩ một lúc và bảo rằng họ có thể trở lại để thi sau 3 ngày. Họ cám ơn thầy và thưa với thầy họ có thể sẵn sàng sau thời hạn đó.Đến ngày thứ ba, họ đến trình diện với Thầy. thầy nói đây là một Buổi Kiểm Tra theo Tình Thế thật Đặc Biệt, và cả bốn chàng trai đều phải ngồi ở các phòng khác nhau để làm bài. Tất cả bọn họ đều đồng ý vì họ đã chuẩn bị kỹ càng trong suốt 3 ngày qua.
Bài Thi chỉ gồm 2 câu hỏi với tổng số điểm là 100:1/ Họ Tên ?—— (1 Điểm)2/- Bánh xe nào bị nổ lốp? ———(99 Điểm)Chọn – a) Trước bên Trái-b) Trước bên Phải- c) Sau bên Trái-d)- Sau bên Phải.Bài học:Làm mọi việc phải có trách nhiệm, nếu không bạn sẽ phải học một bài học.
===============
6/-Nếu như cái cây biết rằng cái rìu sẽ dành cho nó số phận như thế nào, thì cây sẽ không tạo phương tiện cho cái rìu có được cái cán.Diouf Boucar
=============7/-HOA HỒNGMột người đàn ông trồng một cây hoa hồng và chăm sóc tưới hoa hàng ngày.Trước khi hoa nở ông ta nhìn ngắm nó.Ông ta thấy nụ hoa sắp nở và cả những cái gai ở cây.Rồi ông ngẫm nghĩ: Làm thế nào mà một loại hoa tuyệt đẹp như thế Lại là sản phẩm của một loài thảo mộc đầy cả gai nhọn hoắt như vậy được?Và khi nghĩ như vậy, ông ta cảm thấy rất buồn và không còn thiết tha chăm tưới cây hoa nữaNụ hoa đã không thể nở ra được vì cây đã khô héo.
Những trường hợp như thế rất thường xảy ra.Trong tâm của mỗi con người luôn có một cánh hoa hồng.Những đức tính của ta từ khi được sinh ra lớn dần theogai góc của những sai lầm tội lỗi của ta.
Rất nhiều người trong chúng ta nhìn lại bản thân mình vàhọ chỉ nhìn thấy toàn là gai nhọn của bao nhiêu khuyết điểm.Ta thường tuyệt vọng, vì nghĩ rằngcó lẽ ta không thể có được điều gì tốt đẹp từ trong tâm ta .Thế nên ta lơ là không còn muốn chăm tưới nụ hoa hồng là những ưu điểm mà ta hằng sở hữu,và hậu quả là hoa đã tàn héo.
Ta không bao giờ nhận thức được tiềm lực của ta.Có những người không thể nhìn thấy hoa hồng từ bên trong tâm của họmà người khác phải chỉ cho họ thấy.
Một trong những tài phú bẩm kỳ diệu nhất mà con người sở hữu đượcLà có thể vượt qua những gai nhọn ấyVà tìm thấy nụ hồng bên trong người khác.
Đó là đặc tính của tình yêu thương, là nhìn một ngườimà khi ta đã biết những sai lầm của họ, làm cho họ nhận ra tâm hồn cao thượng của họ.Và giúp họ hiểu rằng họ có thể vượt qua khuyết điểm của họ.
Nếu ta cho họ thấy hoa hồng, họ sẽ chiến thắng được tất cả những gai góc.Và rồi hoa hồng ấy sẽ nở rộ ra, và sẽ thêm ba mươi, sáu mươiCả trăm nụ hoa sẽ nở rộ ra giống như nụ hoa thuở ban đầu.
Bổn phận của ta ở cuộc đời này là giúp tha nhânbằng cách cho họ thấy nụ hồng trong tâm họ, thay vì gai nhọn.
Chỉ khi đạt được điều đó , ta mới vươn đến tình thương đích thựctrong tim ta đối với mọi người.
Chỉ đến lúc đó hoa của ta mới thật sự nở rộ trong vườn của ta.(Theo Mots positifs)==========
8/-Ai phải làm cái gì?– Khuyết danhĐó là câu chuyện của bốn người , họ tên là: Tất cả Mọi người, Ai đó, Mỗi người, và Không Ai cả.
Có một công việc rất quan trọng cần phải được thực hiện và Tất cả Mọi người đều được yêu cầu phải làm. Mọi Người ai cũng tin chắc rằng có một Ai đó sẽ làm. Đúng ra, Mỗi người đều có thể làm, Nhưng rồi Không Ai làm cả. Có một Ai đó đã nổi giận bởi vì đó là việc của Mọi người, Nhưng mà Tất cả Mọi người đều nghĩ rằng có một Ai đó có thể ra tayBởi thế Không Ai nhận thấy rằng Tất cả Mọi người sẽ không làm.
Và cuối cùng, Tất cả Mọi người trách móc Ai đó rằng Không Ai làm một việc mà Mỗi người đang lý ra đã có thể thực hiện được.
Thế nên…không có điều gì được thực hiện cả!!!=====================
9/-Sự im lặng là thứ duy nhất bằng vàng mà người phụ nữ vô cùng thù ghét.ReplyForward -
TỪ MỘT LẦN DỰ TẤT NIÊN
TháiLan –1689 chữ
Một thuở vàng son- ghi nhớ muôn đời- là thời đến Giảng Đường, phải không thưa quý vị?
Tiểu học thì “Hằng năm, cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc….” * 1/-
Trung học thì phải miệt mài sách vở kéo bỏ Cơm Cha – Áo Mẹ – Công Thầy…
Những ngày đến Giảng đường, hồi hộp, lo âu, hãnh diện . . . Mình lớn thật rồi sao? Học Đại. . . ! Ớn quá đi thôi. . . !
Có những buổi học liên lớp hoặc nhiều khóa khác nhau, về môn Tâm lý học do các giáo sư từ Sài gòn ra hướng dẫn, tim không khỏi đập loạn xạ khi vô phòng tìm hàng ghế có bạn cùng lớp. . . Nhớ lại thời Trung học, những lúc trời mưa học sinh không được đứng ngoài sân vào giờ ra chơi mà tất cả phải quanh quẩn trong sân có mái che, cũng cùng cảm giác “bất an”, vì “họ”đông quá! . . .
Từ đây phải quen dần thôi…
Và rồi, cuộc sống ở cư xá, những lần các xơ (soeurs) tổ chức hội chợ, rất đông phụ huynh cùng các sinh viên cư xá bạn, sinh viên khắp các khoa đến tham dự, có những “người ấy”- đã gởi thư, hoặc nhờ”chim xanh” cùng phòng trao lại, hoặc làm Sơn Tinh Thùy Tinh đem quà đến nhờ xơ trao dùm. . .
Những lần đi đấu Cầu Lông liên cư xá, tôi có đến giang sơn Nam Giao, Xavier. . . có bóng ai trên lầu dõi theo từng lần giao bóng. . .
Cuối năm thường có nhiều sinh hoạt văn nghệ ở các phân khoa: đêm Luật, đêm Y, đêm Sư Phạm…
Có lần cư xá chúng tôi được mời đến dự tất niên ở cư xá Huỳnh Thúc Kháng.
Cư xá ở 127 Huỳnh Thúc Kháng, mặt sau nằm trên đường Phan Bội Châu, góc trái của cầu Gia Hội, – nếu đi từ chợ Đông Ba, đường Trần Hưng Đạo, Huế, – đây là nơi thường trú trong năm học của các anh/ các bạn sinh viên từ Quảng Nam Đà Nẵng ra Huế học. Sau này tôi biết thêm rằng cơ sở này là tòa soạn Báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng ngày xưa nên còn nguyên nét rêu phong, cổ kính bên ngoài. Các anh được tiếng là ăn nói vô cùng lưu loát- vì phần đất miền Trung này sản sinh ra bao nhiêu văn thi sĩ, nhạc sĩ tài hoa. . . thật quả không sai!
Năm ấy nhóm chúng tôi gồm năm người- chị Chủ tịch, chị Phó, và ba người trưởng các ban, đại diện các nữ sinh viên đến dự.
Các anh thật khéo tay trang trí phòng họp rất dễ thương, đơn sơ vài cành đào cắt rất khéo , trang trí vài tấm thiệp Xuân, giăng lồng đèn màu đỏ vàng cùng giấy hoa các màu thật đẹp mắt. Chương trình mừng Tất niên thật đậm đà “hồn Việt”. Ban Tiếp tân đón chào khách rất nồng nhiệt, cởi mở.
Dần dà các Thầy Cô cùng đại diện các khoa, cư xá nam nữ đến đông đủ. Anh Chủ tịch với bài diễn văn súc tích trình bày đôi điều về sự hình thành của cư xá, tri ân các Thầy Cô, các vị ân nhân, và nhắc nhở quý sinh viên nên chăm lo sách đèn.
Thầy /Cô phát biểu những tình cảm dành cho sinh viên đầy nhiệt huyết và quyết tâm trong học tập để góp phần xây dựng Đất Nước.
Chủ tịch các cư xá cũng lần lượt lên cám ơn Thầy Cô, ban Tổ chức và chúc Tết mọi người.
Mục văn nghệ tiếp theo không kém phần hấp dẫn với nhiều màn biểu diễn đa dạng của các nghệ sĩ khắp các khoa-
Các vị chủ nhà thật đa tài: làm thơ, ngâm thơ, và bao nhiêu là ca nhạc sĩ…
Anh Chủ tịch cư xá Nam Giao lên ngâm bài thơ Đừng tưởng của thi sĩ Bùi Giáng
Có vài đoạn sâu sắc như sau:
Đừng tưởng giàu hết cô đơn.
Cao sang hết ốm, tham gian hết nghèo.
…
Đừng tưởng cứ nghèo là hèn,
Cứ sang là trọng, cứ tiền là xong.
Đừng tưởng quan chức là rồng,
Đừng tưởng dân chúng là không biết gì.Một anh ở cư xá Xavier cùng một chị ở cư xá Mai Khôi lên hát bài dân ca Tuy Cực Mà Vui
” Xuống ghe cùng đi cùng đi thẻ mực
Thẻ mực tuy cực mà vui ……….. “thật dễ thương
Và ba chị của cư xá chúng tôi khiến cử tọa cảm động với bài Hội Trùng Dương thật ấn tượng của nhạc sĩ Phạm Duy
….” Trời rằng, trời hành cơn lụt mỗi năm à ơi, khiến đau thương thấm tràn, ngập Thuận An để lan biển khơi, ơi hò ơi hò..…”Và còn nhiều tiết mục thật xuất sắc, tài tình, có cả mục Sớ Táo Quân thật hài hước, sâu sắc! Sao các đấng nam nhi tài giỏi ghê rứa!
Các bạn nữ chỉ dám phụ trách vài mục đơn ca hoặc hợp ca. . .
Phần thức ăn nhẹ có mứt bánh và không thể thiếu món Pâtés chauds của các vị ở cư xá Xavier, ngay sát tiệm Charbanron mà “dân” Jeanne d’Arc (và cả cư xá nữ sinh viên Mai Khôi) không thể nào làm lơ mỗi khi đi học về, nhất là mùa Thu Đông, từng chiếc bánh dòn tan thơm phức nóng hổi . . . (nhưng mà ghé mua cũng ngại gặp “người” quá sức !)
Các bạn liên hồi có cơ hội ghẹo nhỏ Chúc Lang với chủ nhân cái “band aid” **3/– Đây là lần đầu tiên nhỏ “được” đến tham quan “nhà” của “họ” (nhưng lúc đó hắn cũng chưa chắc người ấy có phải là do ông Tơ bà Nguyệt sắp xếp cho nhỏ không . . . )
Cư xá của các anh không rộng như ngôi nhà các xơ của chúng tôi (vì chỗ của sinh viên nữ chúng tôi cũng là trường Trung học nên có đến hai dãy lầu cho chúng tôi trọ) nhưng tấm chân tình của các anh thật rộng mở, để lại cho quan khách những kỷ niệm khó phai . . .
Sau này, “người band aid” có cơ hội “khoe” với tôi: “Người dân miệt này” rất thật thà chất phác, hiếu khách. . .
Chỉ có Trời mới biết ạ!
Buổi Liên hoan kết thúc trong tình thân ái các cư xá.
Chủ nhà cùng khách chia tay nhau trong niềm luyến tiếc với bài “LY RƯỢU MỪNG ” của nhạc sĩ Phạm Đình Chương, bài hát không thể thiếu để mừng Mùa Xuân đến với Đất Trời, bao nhiêu hy vọng về một ngày mai Tươi Sáng cho Đất Nước:
Nhấc cao ly này
Hãy chúc ngày mai sáng trời tự do
Nước non thanh bình
Muôn người hạnh phúc chan hoà
Rồi đây chúng tôi sẽ còn gặp lại tất cả cử tọa hôm nay, vì sẽ còn đi dự Tất niên ở các cư xá trong chuỗi liên cư xá nam nữ của Cố Đô ngày ấy.
Hôm ấy người “Band aid” đã đưa chúng tôi về. Đi ngang cầu Trường Tiền để trở về bên kia sông Hương, gió mùa Đông giá buốt làm chúng tôi co ro, nhưng trong lòng không thấy giá băng. . .
Bây giờ, mỗi lần nhớ về kỷ niệm cùa những ngày xa xưa ấy, cũng không khỏi nghe một niềm vui nho nhỏ len lỏi vào hồn. . .
+++++
Quý vị ơi
Cho dù
– “En không en tét đèn đi ngủ, đổ chó en. Con chó lớn kén con chó nhỏ nhen reng, kêu cái ẻng”
– Ra ngoài cươi lấy cái chủi vô xuột cái dà
( Ra ngoài sân lấy cái chổi vô quét cái nhà )
–Con zước Cậu Mợ (Ba Mẹ) xơi cơm ạ
–Thằng Hai ra ngoải coi nó dìa chưa ” ( ra ngoài đó xem nó về chưa)
– Hơm goa goa nói goa goa mà goa hổng goa, hơm nai goa hổng nói goa goa mà goa goa
(hôm qua tôi nói nói tôi qua mà tôi không qua, hôm nay tôi không nói tôi qua mà tôi qua)
Mọi miền đều có cái hay, cái dễ thương riêng biệt…
Đất Mẹ có Vua Chúa, nhiều vị anh hùng cũng như những văn thi sĩ tài ba lỗi lạc xuất thân từ ba miền nổi tiếng khắp năm châu, bài này xin mạn phép kể ra đây những vị của riêng đất Quảng:
– Người “xứ Quảng” cũng đã làm rạng danh đất tổ của mình..
“Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu Hồng Đào chưa nhấm đà say.”
Với danh sách không ngắn:
–Lãnh tụ Phong trào Cần Vương: Trần Văn Dư, Phó bảng Nguyễn Duy Hiệu & Phong trào Duy Tân: Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp-
Nhà chí sĩ Phan Thanh,Nguyễn Tiểu La,Võ Quảng..
–Nhà thơ, nhà văn: Bùi Giáng, Nguyên Ngọc,Thu Bồn,Nguyễn Văn Bổng,Nguyễn Nhật Ánh, Phan An…
–Nhạc sĩ: La Hối, Lê Trọng Nguyễn,Phan Huỳnh Điểu, Vương Gia Khương, Trầm Tử Thiêng, Thuận Yến, Trần Quế Sơn, Từ Huy, Trần Quảng Nam…
Và có ai trong chúng ta- bất luận tuổi nào… mà không biết đến những câu … rụng rời ?
“Mười năm không gặp tưởng tình đã cũ
Mây bay bao năm tưởng mình đã quên
…………………
Như anh hôm nay thấy lòng tiếc nhớ
Mười năm không gặp
Mười Năm Nhớ Thương! *3/-
Thật hãnh diện thay, các anh của cư xá mang tên cụ Huỳnh –
(Nổi tiếng với tài năng, đức độ và lòng yêu nước, người dân Việt Nam thường nhắc đến ông với một tên gọi gần gũi: Cụ Huỳnh: theo Wikipedia)
Thấy người sang bắt quàng…
Có bạn người xứ Quảng cũng hãnh diện lắm, phải không quý vị…
=========
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng
Xin chào nhau giữa lúc này….
Bên bờ nước có bóng ta bên người (Chào Nguyên Xuân-Bùi Giáng )++++++++++++
Những ngày Xuân buồn nhớ Quê Hương, Tết Nhâm Dần 2022- ThL
=========================
GHI CHÚ
*1/-Tôi đi học – Thanh Tịnh
*2/-Mời xem tùy bút “Món nợ..cái Band aid“- của ThLan
*3/- Mười Năm Tình Cũ– Trần Quảng Nam (Tên tác giả cũng đã…rất ấn tượng rồi ạ)
-
Tổng hợp bài viết về Giáng Sinh-THÁILAN
Câu chuyện về lễ Hanouka: Năm đối với năm
TháiNữLan dịch
Đôi vợ chồng Spitzer phải đợi ngót mười năm mới có con được. Sau mười năm, bỗng dưng họ lại có đến năm đứa con: người vợ đã sinh năm. Trước khi các bé chào đời, cuộc sống của họ rất khiêm tốn, vì khả năng hạn hẹp, rồi khi gia đình thành bảy miếng ăn, thì cảnh túng quẫn lại càng bi thảm hơn. Ở bang Florida, quanh khu gia đình Spitzer sinh sống, có một phụ nữ lớn tuổi rất khá giả là bà Gordon. Bà nghe nói đến gia đình nghèo khổ ấy, và quyết định cứu giúp họ bằng cách tặng cho họ những số tiền khổng lồ.
Một hôm, bà Gordon muốn đến thăm sản phụ. Bà muốn gặp gia đình mà bà đang trợ giúp. Vừa bước vào nhà, bà nhìn thấy một tấm hình chân dung treo ở tường. Bà đến gần nhìn cho kỹ, bỗng ngất xỉu và ngã xuống. Xe cấp cứu phải chở bà đến nhà thương.
Ngày hôm sau, người mẹ mới sinh đến thăm bà, vì bà ấy đã cứu giúp gia đình họ rất nhiều .Người mẹ trẻ không thể hiểu được điều gì đã làm cho vị ân nhân xúc động đến như vậy khi nhìn thấy bức hình của mẹ mình.
Bà Gordon rất cảm động khi thấy người khách đến thăm mình, và sự xúc động ấy lại càng gia tăng thêm khi biết rằng bà Spitzer chính là con gái của người đàn bà trong tấm ảnh.
“Nhờ mẹ của cháu mà ta còn sống đến ngày hôm nay”.
Bà ấy tâm sự, và bắt đầu kể câu chuyện của mình.
Trong thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai, ta bị bắt làm tù binh ở trại tập trung Bergen-Belsen. Nhóm của ta là một nhóm nhỏ, gồm những bé gái từ 14 đến 16 tuổi. Cho dù cuộc sống đầy khổ hình trong trại địa ngục ấy, tất cả chúng ta đều quyết tâm phải đạt được càng nhiều Mitsvot càng tốt (Mitsva – số nhiều là Mitsvot: quy định về hạnh kiểm trong Do Thái giáo).
Vài ngày trước lễ Hanouka, ta và các bạn đã chuẩn bị khẩu phần bơ thường ngày, những phần rất khiêm nhường, để sử dụng thay cho dầu thắp sáng. Chúng tôi đã lấy ra vài sợi chỉ từ quần áo để xe thành bấc nến. Sau đó chúng tôi cần dụng cụ để bỏ bơ và bấc vào.
Chúng tôi chọn vỏ khoai tây để dùng cho mục đích đó. Nhưng ngay cả việc làm sao để có được “dụng cụ” đó, chúng tôi phải thật can đảm và bạo gan. Chúng tôi phải chạy ra khỏi căn trại dùng làm nơi trọ rồi đến nhà bếp để ăn cắp khoai tây.
Trong giai đoạn dò xét được thực hiện sau đó, chúng tôi khám phá rằng trong suốt 24 tiếng một ngày, thì có một khoảng thời gian chừng năm phút sẽ không có người canh gác ở cửa bếp: từ nửa đêm đến quá nửa đêm 5 phút. Thế là năm đứa con gái quyết định mạo hiểm sinh mạng của mình để cố lấy cho được mớ khoai tây quý giá kia. Và ta là một trong năm đứa đó.
Nhưng thật không may cho chúng tôi, chúng tôi bị bắt. Người gác đêm phát hiện ra chúng tôi, ghi tên và số tù rồi hống hách tuyên bố rằng ngày mai chúng tôi sẽ bị hành hình bằng cách treo cổ trước mặt tất cả những nữ tù nhân ở trại. Để cho tất cả mọi người học được bài học.
Ở trại của chúng tôi có một cô gái Do Thái không sống cùng với đám con gái khác trong các lều trại. Cô ấy thông thạo nhiều ngôn ngữ, và bọn Đức giao cho cô một công việc đặc biệt: cô phải lắng nghe tường trình về những thông tin ở các đài phát thanh nước ngoài rồi dịch lại cho mấy tên sĩ quan. Nhờ công việc ấy cô được sống trong một lều trại riêng biệt, nơi đó cô hưởng được nhiều đặc quyền.
Thế là giữa đêm khuya chúng tôi lén đến lều của cô ta. Căn lều chìm trong bóng tối, nhưng một điệu nhạc rất mơ hồ đưa chúng tôi vào đến một khoảng đất trống bên cạnh căn lều. Chúng tôi ngạc nhiên xiết bao khi thấy cô đốt một ngọn nến Hanouka và hát bài Maoz Tsour (Theo Hồi Giáo, đến lễ Hanouka — lễ này thể hiện sự bành trướng không ngừng của đức tin Do Thái – trong suốt mùa lễ, mỗi đêm họ hát hai bài chính ngay sau khi thắp nến: Maoz Tzur và Hanerot Halalu).
Vừa nhìn thấy những bằng chứng về Do Thái giáo, chúng tôi rất phấn khởi. Chúng tôi nói chuyện với cô ta và khẩn nài xin cô cứu giúp chúng tôi. Nhưng cô ấy không muốn nghe. Cô khiển trách chúng tôi và yêu cầu chúng tôi phải rời khỏi nơi ấy ngay.
Hôm sau, ngày đầu tiên của lễ Hanouka, vào buổi chiều, tất cả nữ tù nhân trong trại đến tập trung ở quảng trường để chứng kiến vụ hành quyết năm cô gái. Sự căng thẳng và nỗi kinh hãi lên đến cực điểm. Mỗi cô gái đứng trên một cái ghế, một chiếc thòng lọng quẩn quanh cổ. Khi tên sĩ quan bước đến, hắn đọc tên của chúng tôi, kèm theo câu “ là những tên tội phạm mưu toan ăn cắp khoai tây”.
Những tên đao phủ được giao việc hành hình đang chờ lệnh để đạp vào ghế của chúng tôi để đưa chúng tôi vĩnh viễn sang thuợng giới. Bỗng dưng, cô nữ thông dịch viên đến gần tên sĩ quan và rỉ vào tai hắn điều gì đó. Cô ấy khoa tay rất nhiều lần, và lộ vẻ rất lo âu. Viên sĩ quan có vẻ bối rối và không mấy hài lòng về những điều cô ấy vừa nói. Tuy nhiên ông ấy cũng hạ lệnh cho tháo dây thừng ở cổ chúng tôi ra và bắt buộc chúng tôi phải biến đi ngay.
*
Bà Gordon hít vào một hơi thật dài, lau hàng nước mắt chảy dài trên đôi má. “Một thời gian không lâu sau điều thần diệu xảy đến cho chúng tôi vào lễ Hanouka, tất cả các nữ tù nhân ở Bergen-Belsen đã được phóng thích. Cuộc chiến đã kết thúc, mà chúng tôi cũng không có cơ hội để cám ơn vị ân nhân đã cứu mạng tôi. Cô ấy luôn luôn đi theo tôi. Tôi đã không thể nào quên cô ấy được. Rồi bỗng nhiên, tôi tìm ra được cô ấy – ngay trên tường nhà của cháu đây.
Giờ đây, đến lượt người sản phụ bị xúc động. Cô nói tiếp theo để đem phần kết cuộc cho câu chuyện ấy:
“Buổi tối trước khi cháu sinh, cháu thấy mẹ cháu hiện ra trong giấc mơ và nói bằng tiếng Yiddish (ngôn ngữ của người Do Thái): “Finf fur finf” (Năm chống với năm). Cháu hỏi mẹ cháu: “Mẹ ơi, Mẹ muốn nói gì vậy? Bà không trả lời câu hỏi của cháu. Ngày hôm sau, cháu đã sinh được năm em bé. Cháu nghĩ rằng mẹ cháu muốn ám chỉ đến việc cháu sẽ sinh năm. Lúc đó cháu không hề biết căn cứ vào đâu mà cháu có quyền hạ sinh được năm bé như vậy. Nhưng bây giờ thì cháu đã hiểu…”
TháiNữLan dịch—
CÂU CHUYỆN SAU ĐÊM GIÁNG SINH– KHUYẾT DANH- TL dịch
Một khi những người chăn chiên đã ra đi và mọi việc đã trở nên yên tĩnh trở lại, em bé trong máng cỏ ngẩng đầu lên và nhìn về phía cánh cửa hé mở. Một cậu bé đang đứng đó, e dè bẽn lẽn… rụt rè và sợ sệt.
– Đến đây nào cậu bé, Chúa Giêsu bảo. Tại sao con e sợ đến vậy con?
– Dạ bẩm, con không dám…Con không có gì để tặng ngài cả, cậu bé trả lời.
– Ta ước mong biết bao cậu sẽ tặng cho ta một món quà, bé sơ sinh nói.
Cậu bé xa lạ đỏ mặt lên vì hổ thẹn.
– Thật sự con không có gì cả , thưa ngài… con không sở hữu được bất cứ gì cả ạ; nếu như con có món gì, con sẽ tặng ngài …ngài xem đây ạ.
Rồi moi móc lục lọi trong hai túi quần vá chằm vá đụp của mình, cậu bé lôi ra một lưỡi dao cũ đã rỉ sét .
– Dạ con chỉ có chừng này thôi, nếu ngài muốn con xin tặng ngài ạ.
– Không đâu, con cứ giữ đi, chúa Giêsu trả lời. Ta muốn những thứ khác của con kia. Ta muốn con cho ta ba món quà.
– Con rất hân hạnh, thưa ngài, cậu bé nói, nhưng con sẽ làm gì cho ngài ạ?
– Hãy tặng ta hình vẽ sau cùng của con đi.
Vẻ mặt của cậu bé trở nên lúng túng và đỏ rần lên . Cậu ta bước đến gần mạng cô và để tránh cho Mẹ Marie và Thánh Joseph không thể nghe mình nói gì, cậu thì thầm vào tai Chúa Hài Đồng Giêsu:
– Thưa ngài, con không thể.. hình con vẽ quá tệ hại xấu xí..không ai muốn nhìn thấy đâu ạ!
-Con ạ, chính vì nó xấu nên ta mới nói con đưa cho ta, em bé trong máng cỏ trả lời…Con phải luôn luôn tặng cho ta tất cả những gì người khác gạt bỏ đi, và những gì mà con cũng không ưa thích.
-Và nữa nè, ta muốn con đưa cho ta cái đĩa của con, em bé tiếp tục.
-Nhưng mà sáng nay con đã làm bể đĩa mất rồi, thưa ngài! chú bé ấp úng trả lời.
– Bởi vì vậy nên ta muốn con đưa cho ta… Con luôn phải tặng cho ta tất cả những gì bị gãy bể trong suốt cuộc đời của con, ta muốn dán chúng lại…
– Còn bây giờ con hãy lập lại cho ta nghe con đã trả lời ba mẹ con như thế nào khi họ hỏi lý do làm sao con đã làm bể cái đĩa,
Chúa Giêsu nhất định hỏi để xem chú bé kể lại sự việc ra sao… Chú bé liền sa sầm nét mặt, cúi mặt xuống, xấu hổ và nói thì thầm một cách buồn bã:
-Con đã nói dối.. con đã nói rằng vì sơ ý nên cái đĩa đã tuột khỏi tay con; nhưng sự thật thì không phải như thế.. Lúc đó con đang tức giận và con đã đẩy mạnh cái đĩa cho nó rớt xuống nền gạch hoa và đã vỡ ra!
– Con ạ, đó chính là điều ta muốn con thổ lộ ra! Chúa Giê Su nói. Con hãy giao hết cho ta tất cả những thứ xấu xa phiền toái trong cuộc đời của con, nào là những điều dối gian, những lần vu khống, những sự hèn nhát và những điều ác độc của con. Ta muốn con hay trút hết những gánh nặng đó cho ta…Con không cần đến những thứ đó… Ta muốn làm cho con luôn hạnh phúc vui sướng và con hãy nhớ rằng ta luôn luôn tha thứ cho những lỗi lầm của con, con ạ.
Rồi vừa ôm hôn cậu bé vì đã tặng mình ba món quà đó, chúa GiêSu nói:
– Bây giờ thì con đã biết đường dẫn đến Trái Tim của ta rồi, ta ước mong mỗi ngày con đều đến thăm ta con nhé.
KHUYẾT DANH- Thailan dichNẾU NHƯ ÔNG NOEL QUÊN GHÉ THÌ?
TL dịch theo lời kể CÂU CHUYỆN THẬT của bà ngoại bạn Mone Dompnier
Kính nhớ các bác các chú, những ngày tháng dài ở miền Bắc đồng khô cỏ cháy núi rừng hiểm độc…đã thiếu miếng đường, như cô bé Sylvie năm 1900 trong câu chuyện thật này,
Và kính tặng tất cả
những ruột thịt ở Đất Mẹ, sau năm 75…
Một buổi sáng Giáng sinh.
Dưới gốc cây thông, những tờ giấy màu bị xé toạc, những chiếc hộp mở toang cả ra, và bọn trẻ thì phấn khích giữa bao nhiêu là quà mà ông già Noel mang đến cho chúng vào đêm qua.
Bà tôi thì ngồi hơi xa một chút, đang mỉm cười khi thấy niềm hạnh phúc và sự ngạc nhiên vui thích của các cháu.
– Bọn nhỏ này được cưng chiều quá chừng, bà nói khẽ, có vẻ như bà sợ rằng tôi sẽ nghĩ bà trách móc khi thấy vô số đồ chơi và những thiết bị tân thời cho những môn chơi trên máy như thế.
Đúng là tôi không thể cưỡng lại để lựa chọn khi lướt qua các món ở cửa hàng đồ chơi.
Là thú vui của tôi khi chọn từng món đồ và chắc chắn sẽ khiến các con reo lên vì thích thú.
Đem giấu tất cả những món ấy đi. Rồi cuối cùng sắp chúng dưới gốc cây thông, với niềm nôn nao chờ đợi giây phút bọn nhỏ thức dậy và khám phá-
– Cháu biết không, bà vẫn nhớ một Giáng sinh từ thời thơ ấu.
Từ rất lâu lắm rồi…
*******
Một đêm đầy sao, lạnh cóng. Một cô bé trằn trọc, quay qua quay lại trên giường, quá bồn chồn để có thể nhắm mắt.
Ở trường, chiều nay cô giáo đã kể về ông già Nô En, các chú tuần lộc và chiếc xe trượt tuyết của ông ấy, những món quà ông phân phát cho trẻ em.
– Và chẳng mấy chốc, ông sẽ đi qua tất cả các trang trại của làng. Nếu con đã tỏ ra ngoan ngoãn trong suốt năm học, ông ấy sẽ mang đến cho con một món quà vào đêm Giáng sinh. Nhưng các con đừng quên đặt đôi guốc của mình trước lò sưởi con nhé…
Bọn trẻ nghe cô giải thích, vẻ kinh ngạc. Cô giáo trẻ của họ đến từ thành phố, cô ấy biết rất nhiều, cô ấy không thể sai được.
Vì vậy, khi Sylvie về nhà cũng kể mọi chuyện cho cha mẹ và các chị nghe, và em cũng mang đôi guốc gỗ của mình đặt ngay ngắn trước lò sưởi, như lời cô giáo đã dặn dò.
Nhưng sau khi làm điều đó, bé cũng có vẻ bồn chồn lo âu.
– Nếu ông già Nô En quên đến nhà mình thì sao? Trang trại của chúng ta ở trên dốc rất cao của ngôi làng. Có lẽ ông Nô En sẽ không nhìn thấy nhà của ta đâu, Ba Mẹ ạ.
– Bé cưng của mẹ, con đừng lo, con ạ. Trước khi đi ngủ, ba mẹ sẽ máng đèn lồng ở cửa chuồng ngựa nhe con. Đôi mắt các chú tuần lộc rất tinh tường, chúng sẽ nhìn thấy, con yên tâm nhé con.
Đêm ấy, cô bé Sylvie thật khó mà dỗ giấc ngủ. Nếu như mình vẫn còn thức, có lẽ mình sẽ nghe
tiếng ông già Nô En và chiếc xe trượt tuyết với tiếng chuông rung trên con đường đầy tuyết nè ha.
Nhưng cô chỉ nghe thấy những lời thì thầm, tiếng cười thật khẽ vọng lên từ dưới nhà bếp.
Cô bỗng nhìn thấy một tia sáng vàng rọi lên ở khe gỗ sàn nhà. Và nhìn lên ô kính cửa sổ,
những hạt bông tuyết lấp lánh thật đẹp. Cha cô đã treo đèn lồng lên rồi.
Sylvie mỉm cười, yên tâm. Và rồi cuối cùng đêm tối cũng mang bé đi vào giấc mộng đẹp…
Khi cô mở mắt ra… “Ôi, hôm nay là Giáng sinh rồi!” “.
Một niềm hy vọng to lớn làm tim cô đập rất mạnh. Vẫn còn đang mặc áo ngủ, đi chân trần, cô
chạy ngay đến đôi guốc của mình, và nhìn thấy góc một chiếc khăn tay ca rô màu xanh trắng nhô ra, giống như khăn của cha mình.
– Ôi, con có quà nè ! Ông Nô En đã tặng con một món quà! Cha ơi, Mẹ ơi!
Bên trong chiếc khăn tay…là một miếng đường thật to! Chỉ của mình con thôi phải không?
– Cha nhìn này! Có phải thật sự là của riêng con không?
– Ôi, đúng rồi đó con. Chắc là ông già Nô En biết rằng con là một đứa bé rất thích ăn quà đó con.
Các chị của cô bé cười vang khi thấy bé vui thích. Họ biết rằng thỏi đường mà cha để bên trong chạng thức ăn được bọc cẩn thận trong một chiếc khăn, là nỗi thèm thuồng của cô bé mỗi khi cha cô lấy con dao nhíp nạo một miếng nhỏ cho bé, đôi mắt bé sáng lên như muốn nói cha cho thêm tí nữa… Sau đó cô bé liếm ngấu nghiến những đầu ngón tay một cách tiếc nuối…
Vậy mà giờ đây cô sở hữu nguyên cả một miếng thật to, chỉ riêng cho mình cô thôi!
– Đừng ăn hết một lần con ạ, cha bảo cô bé.
Ôi không, đẹp quá, ngôn tuyệt quá, phải kéo dài niềm hạnh phúc này càng lâu càng tốt. Mở khăn tay ra và rón rén liếm cục đường nhiều lần trong ngày thật vui thích biết bao!
Cô bé nóng lòng chờ đợi cho hết ngày lễ để kể về món quà của mình cho cô giáo, một người thầy biết rất nhiều câu chuyện tuyệt vời.
Và rồi… Khi cô giáo vừa cười vừa hỏi bọn trẻ về kỳ nghỉ lễ của chúng, thì Sylvie là người rất nóng lòng nên đã lên tiếng trước, cô bé có rất nhiều điều để kể. Chiếc đèn lồng trong đêm, chiếc khăn tay trắng xanh, miếng đường…
Nhưng, đến khi cô kể xong câu chuyện và im tiếng thì tất cả bạn bè cô bé trở nên im lặng một cách kỳ lạ.
Ở ngôi làng miền núi này, nơi mà sự nghèo đói, thậm chí khốn khổ, đã càn quét toàn vùng, thì chỉ có Sylvie được Ông già Noel đến thăm vào ngày 25 tháng 12. Những đôi guốc của bạn bè cô bé vẫn trống rỗng một cách đáng thương trước lò sưởi.
– Có lẽ chúng ta không ngoan như lời ông Nô En dặn dò rồi, cô bé Marie thốt lên một cách buồn bã.
Trên bục giảng, nụ cười cô giáo bỗng trở nên héo hắt và đôi mắt cô đẫm lệ…
Tôi cũng nhìn thấy đôi mắt của Sylvie ướt đẫm khi bà vừa kể cho tôi nghe ngày ấy
niềm hạnh phúc của bà bỗng chốc tan biến khi nhận thấy nỗi buồn của các bạn trong lớp , những người khốn khổ mà ông Nô En đã quên ghé nhà chúng.
Ôi bài học về cuộc đời mà bà Ngoại đã truyền cho tôi qua câu chuyện trên thật quý hóa biết dường nào!
Bà có biết chăng món quà Giáng Sinh mà bà vừa ban tặng cho tôi mang ý nghĩa như thế nào đối với tôi không?
Con xin dâng tặng câu chuyện này cho bà ngoại S. của con, đã kể cho con nghe về lễ Giáng Sinh của bà thời thơ ấu, năm 1900- Mone Dompnier.
Đôi vợ chồng Spitzer phải đợi ngót mười năm mới có con được. Sau mười năm, bỗng dưng họ lại có đến năm đứa con: người vợ đã sinh năm. Trước khi các bé chào đời, cuộc sống của họ rất khiêm tốn, vì khả năng hạn hẹp, rồi khi gia đình thành bảy miếng ăn, thì cảnh túng quẫn lại càng bi thảm hơn. Ở bang Florida, quanh khu gia đình Spitzer sinh sống, có một phụ nữ lớn tuổi rất khá giả là bà Gordon. Bà nghe nói đến gia đình nghèo khổ ấy, và quyết định cứu giúp họ bằng cách tặng cho họ những số tiền khổng lồ.
Một hôm, bà Gordon muốn đến thăm sản phụ. Bà muốn gặp gia đình mà bà đang trợ giúp. Vừa bước vào nhà, bà nhìn thấy một tấm hình chân dung treo ở tường. Bà đến gần nhìn cho kỹ, bỗng ngất xỉu và ngã xuống. Xe cấp cứu phải chở bà đến nhà thương.
Ngày hôm sau, người mẹ mới sinh đến thăm bà, vì bà ấy đã cứu giúp gia đình họ rất nhiều .Người mẹ trẻ không thể hiểu được điều gì đã làm cho vị ân nhân xúc động đến như vậy khi nhìn thấy bức hình của mẹ mình.
Bà Gordon rất cảm động khi thấy người khách đến thăm mình, và sự xúc động ấy lại càng gia tăng thêm khi biết rằng bà Spitzer chính là con gái của người đàn bà trong tấm ảnh.
“Nhờ mẹ của cháu mà ta còn sống đến ngày hôm nay”.
Bà ấy tâm sự, và bắt đầu kể câu chuyện của mình.
Trong thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai, ta bị bắt làm tù binh ở trại tập trung Bergen-Belsen. Nhóm của ta là một nhóm nhỏ, gồm những bé gái từ 14 đến 16 tuổi. Cho dù cuộc sống đầy khổ hình trong trại địa ngục ấy, tất cả chúng ta đều quyết tâm phải đạt được càng nhiều Mitsvot càng tốt (Mitsva – số nhiều là Mitsvot: quy định về hạnh kiểm trong Do Thái giáo).
Vài ngày trước lễ Hanouka, ta và các bạn đã chuẩn bị khẩu phần bơ thường ngày, những phần rất khiêm nhường, để sử dụng thay cho dầu thắp sáng. Chúng tôi đã lấy ra vài sợi chỉ từ quần áo để xe thành bấc nến. Sau đó chúng tôi cần dụng cụ để bỏ bơ và bấc vào.
Chúng tôi chọn vỏ khoai tây để dùng cho mục đích đó. Nhưng ngay cả việc làm sao để có được “dụng cụ” đó, chúng tôi phải thật can đảm và bạo gan. Chúng tôi phải chạy ra khỏi căn trại dùng làm nơi trọ rồi đến nhà bếp để ăn cắp khoai tây.
Trong giai đoạn dò xét được thực hiện sau đó, chúng tôi khám phá rằng trong suốt 24 tiếng một ngày, thì có một khoảng thời gian chừng năm phút sẽ không có người canh gác ở cửa bếp: từ nửa đêm đến quá nửa đêm 5 phút. Thế là năm đứa con gái quyết định mạo hiểm sinh mạng của mình để cố lấy cho được mớ khoai tây quý giá kia. Và ta là một trong năm đứa đó.
Nhưng thật không may cho chúng tôi, chúng tôi bị bắt. Người gác đêm phát hiện ra chúng tôi, ghi tên và số tù rồi hống hách tuyên bố rằng ngày mai chúng tôi sẽ bị hành hình bằng cách treo cổ trước mặt tất cả những nữ tù nhân ở trại. Để cho tất cả mọi người học được bài học.
Ở trại của chúng tôi có một cô gái Do Thái không sống cùng với đám con gái khác trong các lều trại. Cô ấy thông thạo nhiều ngôn ngữ, và bọn Đức giao cho cô một công việc đặc biệt: cô phải lắng nghe tường trình về những thông tin ở các đài phát thanh nước ngoài rồi dịch lại cho mấy tên sĩ quan. Nhờ công việc ấy cô được sống trong một lều trại riêng biệt, nơi đó cô hưởng được nhiều đặc quyền.
Thế là giữa đêm khuya chúng tôi lén đến lều của cô ta. Căn lều chìm trong bóng tối, nhưng một điệu nhạc rất mơ hồ đưa chúng tôi vào đến một khoảng đất trống bên cạnh căn lều. Chúng tôi ngạc nhiên xiết bao khi thấy cô đốt một ngọn nến Hanouka và hát bài Maoz Tsour (Theo Hồi Giáo, đến lễ Hanouka — lễ này thể hiện sự bành trướng không ngừng của đức tin Do Thái – trong suốt mùa lễ, mỗi đêm họ hát hai bài chính ngay sau khi thắp nến: Maoz Tzur và Hanerot Halalu).
Vừa nhìn thấy những bằng chứng về Do Thái giáo, chúng tôi rất phấn khởi. Chúng tôi nói chuyện với cô ta và khẩn nài xin cô cứu giúp chúng tôi. Nhưng cô ấy không muốn nghe. Cô khiển trách chúng tôi và yêu cầu chúng tôi phải rời khỏi nơi ấy ngay.
Hôm sau, ngày đầu tiên của lễ Hanouka, vào buổi chiều, tất cả nữ tù nhân trong trại đến tập trung ở quảng trường để chứng kiến vụ hành quyết năm cô gái. Sự căng thẳng và nỗi kinh hãi lên đến cực điểm. Mỗi cô gái đứng trên một cái ghế, một chiếc thòng lọng quẩn quanh cổ. Khi tên sĩ quan bước đến, hắn đọc tên của chúng tôi, kèm theo câu “ là những tên tội phạm mưu toan ăn cắp khoai tây”.
Những tên đao phủ được giao việc hành hình đang chờ lệnh để đạp vào ghế của chúng tôi để đưa chúng tôi vĩnh viễn sang thuợng giới. Bỗng dưng, cô nữ thông dịch viên đến gần tên sĩ quan và rỉ vào tai hắn điều gì đó. Cô ấy khoa tay rất nhiều lần, và lộ vẻ rất lo âu. Viên sĩ quan có vẻ bối rối và không mấy hài lòng về những điều cô ấy vừa nói. Tuy nhiên ông ấy cũng hạ lệnh cho tháo dây thừng ở cổ chúng tôi ra và bắt buộc chúng tôi phải biến đi ngay.
*
Bà Gordon hít vào một hơi thật dài, lau hàng nước mắt chảy dài trên đôi má. “Một thời gian không lâu sau điều thần diệu xảy đến cho chúng tôi vào lễ Hanouka, tất cả các nữ tù nhân ở Bergen-Belsen đã được phóng thích. Cuộc chiến đã kết thúc, mà chúng tôi cũng không có cơ hội để cám ơn vị ân nhân đã cứu mạng tôi. Cô ấy luôn luôn đi theo tôi. Tôi đã không thể nào quên cô ấy được. Rồi bỗng nhiên, tôi tìm ra được cô ấy – ngay trên tường nhà của cháu đây.
Giờ đây, đến lượt người sản phụ bị xúc động. Cô nói tiếp theo để đem phần kết cuộc cho câu chuyện ấy:
“Buổi tối trước khi cháu sinh, cháu thấy mẹ cháu hiện ra trong giấc mơ và nói bằng tiếng Yiddish (ngôn ngữ của người Do Thái): “Finf fur finf” (Năm chống với năm). Cháu hỏi mẹ cháu: “Mẹ ơi, Mẹ muốn nói gì vậy? Bà không trả lời câu hỏi của cháu. Ngày hôm sau, cháu đã sinh được năm em bé. Cháu nghĩ rằng mẹ cháu muốn ám chỉ đến việc cháu sẽ sinh năm. Lúc đó cháu không hề biết căn cứ vào đâu mà cháu có quyền hạ sinh được năm bé như vậy. Nhưng bây giờ thì cháu đã hiểu…”
TháiNữLan dịch
EM BÚP BÊ GIÁNG SINH– G. LENOTRE — tháinữlan dịch- 4,827 chữ-
Theo trí nhớ của tôi về quá khứ xa xôi, tôi vẫn nhìn thấy bà hầu tước De Flavigny, luôn tươi cười và thanh thản, bà thường ngồi ở chiếc ghế bành thấp bọc nhung màu vàng nhạt, đầu đội chiếc nón len viền ren, có vài lọn tóc bạch kim lòa xòa trên mặt. Bên cạnh bà luôn có một phụ nữ khác cùng lứa tuổi, ngồi ở chiếc ghế thấp, cũng tươi cười hiền hậu: bà ấy thường được gọi là “Cô Odile”.
Bà ấy không phải là cô hầu, mà hình như có một mối dây thân mật khiến hai bà là đôi bạn thân; họ thường ngồi đan những chiếc váy lót bằng len để rồi mỗi thứ năm đem tặng cho người nghèo cùng với một mẫu bánh mì và năm đồng tiền hai xeng ( liard= 1/4 xu của Pháp thời đó), vừa kể cho nhau những dòng tâm sự không bao giờ cạn. Vào những ngày không đan đác thì họ lại lục soạn bao nhiêu là tủ kệ, mở những hộp xinh đẹp quấn đầy cả dãi ruy băng, rồi bày ra nào là những khăn lót dĩa, lót bình hoa thêu thùa rất công phu, rồi chùi dọn suốt ngày. Bọn chúng tôi là một đám trẻ con tò mò được phép chứng kiến những hoài niệm về kho tàng cổ xưa rất hữu ích ấy, với điều kiện không được đụng đến bất cứ thứ gì.
Bên trong một cái tủ bí mật ấy, như là ngôi đền nhỏ, chúng tôi thấy một vật để đứng trong một hộp thủy tinh mà hai phụ nữ ấy chăm chút như một vật linh thiêng: đó là con búp bê lớn, mặc một chiếc áo đầm bằng lụa đã sờn theo kiểu xưa; đầu nó thì đã rụng gần hết tóc qua thời gian, mũi thì bị gãy, gương mặt và tay thì đã bị tróc hết lớp sơn bọc ngoài, và chân thì chỉ còn một chiếc giày gót cao đã bị nứt nẻ, màu đỏ phai nhòa, với khóa cài bạc đã thành đen điu .
Khi nhìn thấy món đồ vật trang trí uy nghi ấy, bà hầu tước và cô Odile bế nó ra với sự dè dặt của đứa trẻ lễ sinh ở nhà thờ khi phải cầm vật thánh trong hòm thánh tích: họ nói từng câu ngắn với vẻ ké né: “Ôi, CÔ BÉ lại bị rụng tóc nữa rồi…Cái váy lót lại mòn thêm nữa…Ôi ngón tay này lại sắp rơi xuống nữa nè.” Họ cẩn thận chăm chút mở nắp hộp ra, vỗ bụi trên tóc, vuốt nếp gấp chiếc váy bằng đầu ngón tay, nhẹ nhàng, âu yếm.
Rồi họ để em bê trên ngăn kệ đẹp nhất, như trên một kệ thờ.
– “Bé có đứng được không, cô bạn yêu dấu của tôi?”, bà hầu tước hỏi bạn mình.
Còn bà Odile thì chỉ gọi bà là “Bà Solange”, một cách thân mật, không kèm chức tước.
Chúng tôi không biết gì thêm về hai phụ nữ ấy và con búp bê, cho đến một đêm trước Giáng Sinh, vào một năm xa xưa lắm rồi, bỗng dưng chúng tôi được tham dự, được “kết nạp” vào toàn bộ bí mật đó. Hôm ấy Odile và bà bá tước đã nói chuyện với nhau một cách sôi nổi hơn thường ngày.
Đến chiều tối, cả hai trở nên trầm lặng, gần như tĩnh tâm, rồi im lặng chắp hai tay lại, ngậm ngùi nhìn nhau, và ta hiểu rằng họ đang hướng về một kỷ niệm thật yêu dấu của riêng họ. Khi bên ngoài trời tối hẳn, Odile thắp nến lên; rồi lấy xâu chìa khóa từ bên trong cái tạp dề, bà mở cửa tủ đựng em búp bê. Bà bưng con bê ra khỏi hộp; trong mớ áo quần trang hoàng kiêu sa thuở nào, giờ đây với cái đầu nhẵn tóc, nó có vẻ già hơn hai người phụ nữ rất nhiều, và họ đang chuyền tay nhau vật báu bằng những cử chỉ thật chăm chút, gần như là âu yếm, như thể đối với con gái yêu.
Nữ hầu tước để con bê lên chân mình, nhẹ nhàng kéo đôi tay bằng thạch cao đến gần thân nó, toàn bộ khớp kêu ken két như tiếng rên rỉ, rồi bà nhìn ngắm ” cô nàng” với một nụ cười thật trìu mến -” Cô bạn yêu dấu của tôi, bà gọi mà như thể nói với con bê, bây giờ ta kể chuyện của mình cho bọn trẻ nghe nhé?” Rồi Odile gật đầu đồng ý; nữ hầu ước ra dấu cho chúng tôi đến đứng quanh bà; con bê vẫn ngồi trên đùi bà, và làm như bà sẽ thuật lại câu chuyện cho mỗi con bê nghe thôi.
Bà kể rằng từ rất nhiều năm trước, khi bà con là đứa trẻ, cuộc nội chiến tàn phá xứ Bretagne của bà, đó là thời gian kinh hoàng. Từ những ngày đầu năm 1792, cha mẹ của bé Solange đã di cư, và giao bé cho một bà nông dân sống bên cạnh lâu đài của họ ở Ploubalay trông chừng, vì tính cách nguy hiểm của cuộc trốn chạy nên không thể mang bé đi cùng; họ nghĩ rằng chiến tranh sẽ sớm kết thúc thôi, và họ sẽ trở về trong thời gian ngắn. Nhưng rồi không lâu sau đó, biên giới đã bị đóng cửa, và luật lệ gắt gao ngăn cấm những kẻ di cư trở về lại nước Pháp. Cô bé Solange phải ở với gia đình người hàng xóm tốt bụng, không nhận được tin tức gì của cha mẹ mình, vì hình phạt sẽ là án tử hình nếu ai có ý muốn liên lạc với những người di cư.Ploubalay là một ngôi làng rộng lớn, cách Saint-Malo khoảng ba dặm; bờ biển gần đó có đầy cả những tảng đá lớn, bao quanh là quần đảo đá ngầm, nên mọi mưu toan cập bến đều rất nguy hiểm. Bọn lính mới chiếm cứ toàn bộ thị trấn, họ đã đuổi bon lính phe bảo hoàng đi; tên trung sĩ cầm đầu bọn họ là một người có tính tình như bao nhiêu người trong quân cách mạng: thô lỗ, sắt đá.
Hắn người vùng Alsace, tên là Metzger. Mọi người đều sợ hãi hắn ta, nhất là đối với bé Solange, khi nhìn bộ ria mép, đôi lông mày rậm, ánh mắt nghi ngờ, giọng nói cứng ngắt, vang to, của người đàn ông kinh khiếp đó, là cả một cơn ác mộng cho bé.
Khi tên trung sĩ không làm việc với toán lính của hắn, thì hắn ngồi ở cửa nhà thờ, để canh chừng những con đường của thị trấn với vẻ mặt thật dữ tợn. Một hôm bé Solange đi mua bánh mì cho bà Roualt, lúc về thì thấy ông ấy đang nhìn theo mình. Bé muốn đi vòng ra sau, nhưng lại không dám. Lấy hết can đảm, bé liền đi thật nhanh như thể ở nhà đang có người đợi mình. Đến lúc tưởng rằng đã thoát đôi mắt cú vọ của hắn, bỗng bé nghe thấy giọng nói ồm ồm của tên lính:
– Này cô bé kia, đứng lại!
Cô bé tội nghiệp cảm thấy như tim mình ngừng đập: bé không bước được nữa, chắc là chết giấc mất thôi…
– Đến đây xem nào…- xích tới chút nữa..
Bé phải nghe theo, không còn kiểm soát mình được nữa, bé chỉ cách tên trung sĩ hai bước chân, mà cũng chưa dám ngẩng mặt lên nhìn. Hắn để bé đứng như vậy một lúc, rồi bỗng bằng một giọng vang to như sấm làm con bé rùng mình: – Mi thuộc dòng quý tộc phải không? Cô bé há hốc miệng, phú dâng cho Thượng Đế. Bé không hiểu lắm, nhưng biết rằng chữ đó là dành cho những người sẽ bị giết.
– Mi bao nhiêu tuổi hả?. Bằng một giọng khàn đi vì kinh khiếp, bé trả lời: – Tám tuổi, bé định nói thêm cho lịch sự , “thưa ông”, nhưng rồi không thốt ra, vì biết rằng nếu nói ra thì tên ấy sẽ bóp cổ bé ngay tức khắc. Nhưng hắn không có vẻ gì là để ý đến điều đó, lại làu bàu:
– Hừ, tám tuổi…tám tuổi! Rồi nói thầm: – Mi cao lớn và mạnh khỏe đấy, so với tuổi của mi.
Cô bé nhìn ông ta, hắn thật là kinh khủng, với vẻ mặt dữ dằn, đầu đội cái nón hai sừng có vài sợi lông chim đỏ, gương mặt rám nắng, ống điếu thì đen thui, túi đạn đeo chéo trước ngực, kiếm dài ngoằng và đôi ủng đầy cả bùn sình. Và điều ghê gớm nhất là đôi mắt hắn, sâu hoắm, sắc sảo như chực ăn tươi nuốt sống cô bé.
-Thôi, chuồng đi! hắn ra lệnh. Cô bé liền nhanh chân chạy một mạch về nhà, vừa chạy mà tim vẫn còn đập thình thịch.
Kể từ hôm đó, cô bé có cảm tưởng như tên trung sĩ luôn theo dõi mình. Khi hắn có việc đi ngang trước nhà gia đình Rouault, là phải cố nhìn vào bên trong để tìm bé. Hoặc khi gặp bé ngoài đường, hắn gọi bé bằng cái giọng quỷ quái, thô lỗ, làm cho con bé run lẩy bẩy: – Ah! cô bé kia!
Solange ước sao không phải đi ra ngoài nữa, nhưng bà Rouault, tiên đoán rằng cha mẹ của bé sẽ không có cơ may trở về nữa, và bà không thể để bé ăn không ngồi rồi, nên thường sai đi mua những thứ cần thiết cho gia đình.
Thế là, bị ép buộc để hàng ngày phải diện kiến với con bù nhìn ghê sợ của mình, Solange đành phải chịu đựng sự nghiệt ngã của đời mình; và tên lính mới ấy chỉ còn chờ có được cơ hội. Một hôm khi đang ngồi rửa rau ở máy nước công cộng trong khu nhà, hắn bỗng xuất hiện và hỏi: – Này bé, tên mi là gì? Cô bé biết rằng giờ ấy đã điểm, nên cam chịu trả lời: – Solange… Tên lính reo lên:- Solange! – (hắn đọc là Zaulanche)
-Cái tên mới ngộ làm sao! Rồi hắn nắn cánh tay bé, và bế con bé lên để xem thử nó có nặng không – Tám tuổi ư! Sao mà lớn nhanh thế!
Cô bé có cảm tưởng như mình đang là con mồi ngon trong tay một con yêu tinh…
*** Bây giờ đang là tháng Mười Hai, những tháng ngày u buồn ảm đạm, không có ánh dương; ngày nào bọn lính mới cũng bắt được những người di cư trở về, họ sống quá cơ cực ở Jersey hoặc Luân Đôn, không chịu đựng nổi, nên quá ao ước được trở về Pháp, rất nhiều người đã mạo hiểm cập bến.
Bọn lính phục kích ở bờ biển cũng như toàn bộ khu vực , và đã luyện một đám chó to lớn đi săn loại mồi đặc biệt này, để tìm ra tung tích những kẻ khốn cùng, ban ngày thì nằm rẹp trong lau sậy, ban đêm thì men theo các mương rãnh. Dân làng thường thấy bao nhiêu người đi ngang qua Ploubalay này bị xiềng xích, áo quần thì tả tơi, bọn lính thì đi kèm họ đến Saint Malo, hoặc Rennes, rồi sau một cuộc xét xử sơ sài, bị đem ra bắn. Luật lệ không nương tha và không có kháng án: bất cứ người di dân nào bị bắt là chịu tử hình.
*** Vào đêm vọng Giáng Sinh năm 1793 ấy, trong làng không còn ai nhớ về những buổi lễ thân thương của thuở xa xưa nữa. Nhà thờ thì đóng cửa, chuông thì im vắng; đêm tối đã buông xuống, đầy sương mù; suốt ngày người dân nghe tiếng chó sủa không ngớt về phía khu Bodard: hôm nay bọn lính đã thu hoạch được khá rồi…
Cô bé Solange ngủ ở căn gác kế căn đựng thóc lúa, đầy cả bóng tối ghê rợn, và ban đêm bé nằm bất động, nghĩ đến bao nhiêu điều bất trắc có thể xảy ra. Hôm ấy bé vừa thay áo quần vừa run vì lạnh và bé thật buồn, nhớ đến bao nhiêu đêm Giáng Sinh với cha mẹ mình, thật vui thích, và trong lòng bé thấy thương mến làm sao!
Những buổi sáng thức dậy sao sung sướng hạnh phúc quá! ở cạnh lò sưởi tràn đầy quà cáp gói bằng dãi nơ thật xinh xắn, rồi bao nhiêu là đồ chơi và bánh kẹo!
Vừa mơ mộng như thế, cô bé vừa cầm đôi guốc gỗ một cách uể oải, không muốn để cạnh lò sưởi vì biết rằng rồi đây chúng cũng sẽ trống trơn khi bé thức dậy, y như năm vừa rồi. Ngay cả Đức Chúa nhỏ bé cũng lo sợ và không đến nước Pháp nữa hay sao?
Bé có cảm tưởng như có tiếng động, thế là bé nhanh nhẩu thổi nến và chui vào chăn. Rồi bé ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ, bé thấy như cánh của nhè nhẹ mở ra, và một bóng đen lẻn vào căn gác. Bé hé mắt ra nhìn: căn phòng bây giờ đã được ánh trăng chiếu sáng,. Ta có mơ không đây? Bé nhận rõ bóng đen là một người đàn ông: một người đàn ông ăn mặc như những người di cư mà bé thấy ở ngoài quận khi lính đem tù nhân đi Saint Malo; rồi bé nghe thấy một giọng nói thật khẽ: – – Solange, bé con nhỏ cưng của ta, đừng sợ con ạ.
Bé cảm thấy một bàn tay đang dang những lọn tóc trên trán ra một cách cẩn thận: một tia sáng của ánh trăng đang chiếu rõ cô bé.
Người đàn ông nhìn bé: – Ôi con yêu Solange của ta, con xinh đẹp quá, và cao lớn, mạnh khỏe nữa!
Ông ấy không ngớt ngắm nhìn bé. Rồi ông ôm lấy bé một cách cuồng nhiệt, và hôn tới tấp làm bé suýt nghẹt thở. Bé không còn biết mình thức chưa hay còn đang mơ; nhưng bé biết ngay là nếu cha của mình còn sống, thì đây chính là giọng của người, những cái vuốt ve trìu mến, và ôm ấp bé như thế. Bé thấy người đàn ông quỳ bên cạnh giường mình, rồi bé nghe ông khóc nức nở; bé khép mình trong tay cha- rồi quá hạnh phúc! bé nhắm mắt ngủ tiếp.
Bình minh hôm sau, bé mở choàng mắt, và lúc đầu thật khó khăn để nhớ lại những gì vừa xảy ra đêm qua, nhưng rồi bé trấn tĩnh lại: chắc chắn là mình đã nằm mơ rồi: căn phòng trống trơn, cánh cửa thì khép kín; dưới nhà bé nghe rõ bước chân bà Rouault đi qua đi lại. Solange ngồi ở mép giường, và bỗng nhiên, sung sướng hét lên,… Trên đôi guốc của mình, được sắp lại ngay ngắn, bé vừa nhìn thấy một con búp bê dựng đứng, mặc chiếc áo váy thật rực rỡ bằng lụa xanh, một con bê thật cao lớn, uy nghi, tươi cười, ăn mặc như một phu nhân, với những lọn tóc xoắn thật xinh bao lấy khuôn mặt bằng sứ thanh tao, trên vai là khăn choàng kiểu hoàng hậu, chân thì mang giày bằng da cừu, khóa cài giày lại bằng bạc sáng loáng…
Cô bé liền quỳ xuống trước “lệnh bà”, và ngay tức khắc gọi bà là Yvonne. Bé thay áo quần rất nhanh, rồi ôm “con gái” trên tay, bé đi xuống nhà.
Bà Rouault, vừa nhác thấy bé cùng với món đồ chơi tuyệt diệu ấy mà trong trí tưởng tượng của bà cũng chưa bao giờ mơ ước được, vô cùng ngạc nhiên thốt lên:-
— Lạy Trời, Solange, ai cho cháu con bê này vậy? – Thưa bà, đó là chúa Hài Đồng Giê Su ạ, cô bé trả lời một cách hồn nhiên.
Người đàn bà há hốc miệng kinh ngạc: ôi, nói về lòng tin theo kiểu thần thánh này thì bà chịu thua thôi. Tuy nhiên, bằng chứng rành rành đây khiến bà choáng ngợp: bà biết rằng ở Ploubalay này, hoặc ngay cả tỉnh thành Matignon, Saint Malo, hoặc Rennes đi nữa cũng không một ai có thể sắm được cho mình hay người thân một món đồ huyền diệu như thế.
Thế rồi, chính vì điều này, bà trở nên rất cung kính, và ngắm nhìn mà không dám đụng vào phu nhân mà Solange trao cho bà một cách long trọng. Bà liền gọi ông đến: – Ông xem thử món quà mà Chúa Hài Đồng mang đến cho Solange nè; ông ấy là một người chất phác,và không biết gì về những trang sức lụa là của các bà mệnh phụ đâu. Nhưng rồi các bà hàng xóm đều ùa đến. Tất cả đều choáng ngợp và chắp tay lại kinh ngạc, rồi xầm xì; vài người nghiêng mình trước một vật thần thánh, vài người không hiểu nổi điều thần bí này.
Còn Solange thì chẳng quan tâm đến nỗi xúc động của họ, bé đang ru Yvonne, và ôm hôn nó một cách thận trọng, môi chỉ dám phớt nhẹ lên lọn tóc vàng óng và đôi má bóng lưỡng của con gái mình; bé đem nó đến cửa sổ để cho nó thấy cảnh bên ngoài.Rồi bà Rouault trở về với thực tế, sai con bé đi mua hàng ở tận góc xa xôi của ngôi làng; con bé hớn hở đem em búp bê theo. Hiện tượng này đã được một nửa quận biết rồi; các bà nông dân đứng ở cửa sổ để nhìn, và bé Solange biết được bây giờ mình trở nên quan trọng thế nào rồi.
Khi bé đến trước nhà thờ, nơi đó tên Metzger vẫn ngồi vắt ngang ghế, lần này thì bé không thèm quay đầu lại để nhìn nữa: hôm nay thì chẳng có mối hiểm nguy nào đến với bé nữa rồi? Niềm vui bất tận trong lòng khiến bé không còn sợ việc gì hay ai nữa, nên khi tên trung sĩ gọi bé lại, và hỏi nó ôm vật gì, thì bé trả lời một cách tự tin: – Đó là một con búp bê – Một con bê thật đẹp! Ở đâu mà nhóc có được vậy? – Thưa ông trung sĩ, chính Chúa Giê Su Hài Đồng đã cho tôi.
Tên lính theo phe cộng hòa liền đứng phắt dậy, lấy chân hất cái ghế ra: – Mi nói cái gì? hắn hét lên – Đó là con bê mà Chúa đã cho cháu nhân dịp Giáng Sinh, ông trung sĩ – Ah, mi nghĩ là ta sẽ tin vào … nhưng trước vẻ ngây thơ của con bé, hắn ngừng nói; nhưng giật lấy con bê từ tay cô bé, hắn nhìn thật kỹ , và nói: – Ôi, một lệnh bà đẹp thật; mà này, nhìn xem, bên dưới giày có ghi nè: Berkint-London- vậy ra con bê này là dân xứ Anh quốc? Vậy thì Chúa Giê Su Hài Đồng là người Anh hả?
– Cháu không biết, thưa ông, cô bé vừa trả lời vừa lấy lại con búp bê; bây giờ niềm vui của cô bé đã bị hỏng rồi
– Để xem nào, hắn làu bàu, rồi quay lại gọi thuộc hạ.
Một tên hạ sĩ chạy ra.
– Hôm qua có người lạ nào xuất hiện trong làng không?
– Dạ tôi nghĩ là không đâu ạ, hôm qua bọn lính canh đã làm việc rất tốt. Thật ra đám chó săn đã hú lên một cách không bình thường, nhưng chúng tôi đã lục soát kỹ rồi, mà không tìm thấy gì cả.
– Được rồi, tập họp mọi người lại đi. Rồi hắn đeo túi đạn vào, cài dây lưng, lấy khẩu súng và dẫn đầu đám lính đến nhà bà Rouault.
Solange, trở nên thật lo âu, đi bên cạnh hắn, nhưng bước nhanh hơn, và ôm ghì bé Yvonne xinh đẹp và tươi cười vào lòng.
Đến nơi, hắn ta để hai tên lính gác trước cửa, rồi chia vài tên ra khắp nơi bên trong và quanh nhà.
Rồi bảo đám còn lại đi theo mình, hắn vô trong phòng, cầm tay bé Solange, ngồi vào ghế, rồi kéo bé đến gần mình, và bằng một giọng rất nhỏ nhẹ, có lẽ để dỗ dành con bé: – Nào, bé con, kể cho ta nghe tất cả mọi việc đi nào.
Thế là bằng một giọng rất nhỏ, buồn bã, cô bé bắt đầu kể về “giấc mơ của bé”, về người đàn ông mà bé nghĩ là đã nhìn thấy trong phòng, về ảo tưởng của những nụ hôn mà ông ấy đã hôn bé, và rồi đến lúc sáng, cô ngạc nhiên xiết bao khi phát hiện ra con bê thật xinh…
Tên trung sĩ theo dõi thật kỳ lời của cô bé, không bỏ sót chi tiết nào. Bỗng dưng, quay lại phía đám lính đang lắng nghe, hẳn ra lệnh:
– Bọn bây, quay trở ra đi, và hãy canh cho thật kỹ mọi ngõ ngách! Nã súng vào đầu bất cứ tên nào có ý trốn chạy!
Bọn họ ra ngoài, khi còn lại một mình Metzger và cô bé:
– Nào, bé con, mi nói là người đàn ông đã hôn mi,… và gọi là “Solange bé nhỏ của ta”, rằng ông ấy đã quỳ bên cạnh giường cô bé và còn khóc nữa?
Cô bé gật đầu , không muốn nói dối, nhưng cũng cảm nhận được một tai họa sắp xảy đến.
Metzger chưa vội hành động. Hắn đặt đôi tay thô ráp lên vai bé Solange, và nói thật nhỏ, như thế nói cho chính mình:
– Ừ, hắn ta nói một cách nghiêm trang, ta cũng có một bé nhóc con như thế này, ở Alsace (miền Đông nước Pháp, cạnh Đức & Thụy Sĩ), thành phố Gersheim ( Đức)… nó cũng lên tám tuổi…đã tròn hai năm rồi ta cũng chưa gặp lại con bé… và ta nói thế này: Để chỉ nhìn thấy nó thôi, cho dù nó đang ngủ, trong bóng tối, để hôn nó một chút thôi, chỉ để cảm thấy nó thiu thiu ngủ trên vai ta, mớ tóc vàng của bé thì sát vào mặt của ta…thì ta đây cũng dám liều mạng sống của ta như vậy… Hình như người cha nào cũng như thế cả.”
Hắn ra chiều suy nghĩ thật kỹ càng. Rồi hắn trở nên cương quyết, đứng phắt dậy, lại thô bạo, và lắc lắc cái đầu như để xua đuổi một ý nghĩ hèn kém nào đó, rồi quay ra cánh cửa mở: – Hai người đi với ta, chúng ta sẽ lục soát căn nhà nhỏ bé này!
Solange bỗng la lên: – Thưa ngài trung sĩ, gượng đã!
Bé đã nghe tên lính ấy nói và đột nhiên cô bé đã hiểu tất cả: đêm đó, chính ba của bé đã đương đầu với cái chết để được đến vài phút bên cạnh con gái bé cưng, đã rời khỏi nơi ẩn náu, băng qua biển cả, cặp bến vào những tảng đá nguy hiểm, trườn người giữa đám lau sậy dưới họng súng của bọn lính canh, đề về đến làng. Chính ba của bé khi nghĩ rằng bé sẽ không có món đồ chơi nào cho lễ Giáng Sinh cả, nên đã mang “lệnh bà” đến cho nó.
Ba của bé đang ẩn trốn trên căn gác kia, và rồi đây họ sẽ lên bắt ông đi, và bé sẽ nhìn thấy ông bị xiềng xích quấn vào người, và đi với bọn người lính bao quanh…
Thế rồi, cô bé, lòng dạ tan nát, khóc nức nở làm rung cả đôi vai bé nhỏ, và chạy đến bên tên trung sĩ– Đợi đã! Đợi đã, ông ơi!
Tên lính bây giờ đã trở lại vẻ hung ác dữ dằn, nói bằng giọng thô lỗ: – Gì nữa đây?, hắn hỏi.
Solange suy nghĩ như thế này: Để cứu cha của bé, bé sẽ đưa hết tất cả những gì bé sở hữu; nhưng hỡi ôi, bé chỉ có mỗi con bê. Bé liền nảy ra ý định hy sinh thật cao cả – Thưa ngài trung sĩ, ngài có một con gái…cùng tuổi với cháu…mà ngài chưa gặp lại từ hai năm nay phải không? Metzger liền gật đầu ra hiệu đúng như vậy.
-Thế thì! Thế thì!, Solange nói tiếp, đôi mắt ngấn lệ, có thể bởi vì ông không có mặt ở nhà nên chúa Hài Đồng Giê Su đã quên cô bé rồi chăng…
Vậy ông hãy lấy con búp bê của cháu đây này, cháu tặng ông đó.
Tên lính liền quay lại phía cô bé; hắn nhìn cô bé với đôi mắt đã ướt đẫm; hắn thở rất mạnh, đôi môi run rẩy dưới bộ ria mép, và ta nhận thấy trên gương mặt hắn những bắp thịt cử động lên xuống, tỏ rõ cảm xúc bị đè nén. Hai người lính bước vào phòng.
– Cháu đừng nói gì hết, không phải lo điều gì, tên trung sĩ nói nhỏ với bé.
Rồi hắn nói với bọn lính :
– Chúng ta sẽ lên trên kia, và lục soát mọi ngõ ngách. Bọn bây giữ súng sẵn sàng và hãy lên đạn, và cố nhìn cho kỹ. Bé con này, đi trước đi.
Cả ba người lính và cô bé leo lên bậc thang: vừa vào căn gác, hắn đặt một người ở ngưỡng cửa, người kia cạnh cửa sổ; hắn mở cửa căn gác xép, rồi chỉ một mình hắn bước vào đó, đóng cửa lại.
Trống ngực Solange đập thình thình, muốn vỡ toang ra. Một lúc sau, cửa gác bật mở, và Metzger hiện ra: – Bên trong này không có gì cả.!
– Ta trở xuống thôi. Con chim đã bay mất rồi. Chúng ta đã bị lừa…
Rồi khi xuống bên dưới nhà, lúc chỉ còn một mình hắn và Solange, hắn nói nhỏ vào tai bé:
– Cháu hãy nhớ kỹ điều này: “Người đàn ông ấy” có thể ở lại trên đó hết đêm nay và nguyên cả ngày hôm sau. Cháu nói ông ta hãy yên tâm đi, mọi việc sẽ tốt thôi. Ông ấy sẽ ra đi vào đêm ngày mốt, và đến Lancieux và Saint-Briac, ở đó ông có thể ra khơi lại; vùng đó sẽ không có lính gác, ta sẽ đem lính của ta qua phía bên kia. Cháu hiểu rõ chưa? – Dạ hiểu, thưa ngài trung sĩ – Vậy tốt rồi! Còn con búp bê này của cháu, ta sẽ mang nó đi: ta sẽ gởi về cho bé Odile của ta. Ta phải lấy con bê, bởi vì có thể có một người khác sẽ tò mò giống như ta khi thấy Chúa Hài Đồng Giê Su mang cho bọn nhóc như cháu những món đồ mỹ nghệ xuất xứ từ Anh Quốc đó. Cái em bé này đã gây cho cháu quá nhiều phiền toái rồi.
– Thế nhé! Và nhớ giữ bí mật nhe cháu! Và đừng quên: đi về phía Lancieux và Saint-Briac.
Rồi ông ta đi ra, gọi cả bọn lính đi theo; và rồi, ngay chiều hôm đó, mang họ đi thám hiểm về phía Matignon, cùng với lũ chó săn luôn, trong suốt ba ngày tròn. “
&&&&&&
“Và đó là câu chuyện của cả ba chúng ta, nữ bá tước Flavigny nói, đó là chuyện lôi thôi duy nhất trong suốt cuộc đời của cả ba chúng tôi, Odile, Yvonne, và tôi.
Mười lăm năm sau, khi tôi làm đám cưới với bá tước của tôi, chúng tôi đi tham quan vùng Alsace; tôi đã đến Gersheim, và hỏi thăm về trung sĩ Metzger, về con gái Odile của ông ta, vì các con biết đấy, những cái tên đó đã in đậm trong trí nhớ của ta rồi.
Ta đã tìm thấy người lính già ở nhà máy sản xuất hoa làm rượu bia của ông ta. Ông ấy đã giải ngũ, sau khi được lãnh huân chương ở Austerlitz, do chính Hoàng đế trao tặng.. Ông ấy đã kể cho con gái mình câu chuyện về bé Solange,và Odile đã cất giữ “lệnh bà”; rồi khi ông ấy qua đời, vài năm sau đó, ta đã đưa Odile về đây với ta; cô bé đã mang Yvonne lại cho ta, và kể từ ngày đó, cả ba chúng ta không bao giờ rời nhau nữa.
G. LENOTRE – tháinữlan dịch
CÂU CHUYỆN VỀ CÂY GIÁNG SINH KỲ DIỆU – (tháng 10, 2015)
Một người cha đặt cây thông Giáng Sinh trong nhà cho các con trai và không bao giờ đem bỏ đi…
Đây là một truyện cổ tích đời nay làm cho ta càng yêu thích sự kỳ diệu của mùa Giáng Sinh.
Ngày xưa có một gia đình người Mỹ sinh sống ở thành phố nhỏ Wausau ở tiểu bang Wisconsin, miền Đông Bắc Hoa Kỳ. Cha mẹ nuôi dạy sáu đứa con trai thật đáng yêu, sáu cậu đều thích đi câu cá trên thuyền với cha . Khi mùa Đông đến, chúng chạy ùa ra vui thích trượt băng trên cái hồ cạnh nhà suốt buổi chiều ,rồi tranh nhau chạy về nhà để thưởng thức ly sữa sô cô la nóng một cách ngon lành. Rich, người em nhỏ nhất luôn trân quý vô số những kỷ niệm yêu dấu như thế.
Nhưng, từ nhiều năm nay, kỷ niệm thường trở về với cậu ta là cây thông Giáng Sinh được đặt ở góc phòng khách trong ngôi nhà tuổi thơ của cậu. Vào một ngày đẹp trời của tháng mười hai, lúc đó Rich chỉ mới 14 tuổi, cậu và các anh cùng với cha mẹ họ đem một cây thông vào nhà . Neil, người cha luôn tôn trọng tập tục về cây thông Giáng Sinh này, và không gì có thể thay đổi được việc ấy, cho dù các con đều đã trưởng thành. Cây chễm chệ ngự trong phòng khách, đó là cây thông thuộc giống Epica xinh đẹp cao hai mét rưỡi.
Rich vẫn còn nhớ mình đã treo những quả châu đầu tiên lên cây thông Giáng Sinh. Nhưng vài hôm trước ngày Giáng Sinh, một thư thông báo tin không vui giáng xuống gia đình họ : đó là hai anh lớn bị gọi đi nhập ngũ vào thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam. Người cha từng là cựu quân nhân của Thế Chiến Thứ Hai và Chiến Tranh Triều Tiên biết rằng thử thách ấy sẽ gay go như thế nào cho các con. Thế là ông đặt ngay một lời nguyền:
“Tôi chỉ dẹp bỏ cây thông Giáng Sinh khi mà tất cả các con tôi đều trở về sum họp trong ngôi nhà này.”
Neil đã tuyên bố lời nguyền đó từ năm 1974. Rich, người em út của gia đình, nay đã 55t và anh ta đã kể lại câu chuyện này một cách cảm động. Và vì lý do đã kể trên, cây thông Giáng Sinh của gia đình vẫn giữ nguyên vị trí ở phòng khách, đến nay đã được bốn mươi năm . Hai người anh đi lính đã an toàn trở về Mỹ từ cuộc chiến, nhưng một anh là thương binh hạng nặng và đang sống ở tiểu bang Washington, ở đầu mút bên kia của đất nước.
Tình trạng sức khỏe của anh chưa cho phép anh thực hiện chuyến trở về gặp mặt gia đình. Về phần cây thông Giáng Sinh , nó vẫn hiện ngang sừng sững và qua bao nhiêu năm tháng vẫn giữ được nguyên vẹn tất cả những đồ vật trang trí trên mình nó, không sót một món nào. Còn chàng Rich từ nay rất hãnh diện về cha mình cùng với “truyền thuyết” này của gia đình, anh ta còn đùa rằng cây thông Giáng Sinh trở nên thân quen như bàn ghế trong nhà và anh cũng không thèm để ý đến nó nữa.
Phần lớn những cây thông Giáng Sinh lần lượt rụng hết lá sau nhiều tháng không được ở ngoài khí trời, nhưng cây thông của Neil, tất nhiên cũng có vài lá thông bị vàng úa, nhưng cây gần như vẫn y nguyên. Ngay cả những vật trang trí và đèn đóm đều gần 100 tuổi rồi. Đó là một trong những cây thông Giáng Sinh hiếm hoi có chiều dài lịch sử. Và người cha giải thích sự kiện này một cách hết sức đơn giản:
“Những cành lá của cây thông Giáng Sinh của chúng tôi vẫn còn xanh tốt chỉ vì một nguyên do, đó là chúng chờ đợi con trai tôi trở về. Thật kỳ diệu thay! Nhưng tôi dám cá cược với quý vị là ngày mà con tôi về thì tất cả lá thông ấy sẽ rụng xuống.”
Ta hãy hy vọng rằng Giáng Sinhnăm 2015 này, tất cả gia đình sẽ được sum họp đông đủ quanh cây thông Giáng Sinh kỳ diệu ấy.
Câu chuyện tuyệt vời trên đây nhắc cho chúng ta nhớ rằng Giáng Sinhchính là thời điểm để gặp lại người thân và sum họp để gia đình hưởng được những giờ phút đầm ấm bên nhau, và biết đâu, tin vào sự thần diệu của Giáng Sinh…
Nguồn: Eliane Hong,( tháng 10, 2015)- theo READER’S DIGEST- Tháinữlan dịch
THƯỢNG ĐẾ ĐÃ AN BÀI – Mục sư Bob Reid- TháiLan dịch
Đây là câu chuyện cho ta thấy những sự việc xảy đến trong cuộc đời ta luôn có lý do…
Một Mục sư và vợ ông ta vừa mới dọn đến ngoại ô thành phố Brooklyn và họ có nhiệm vụ làm cho nhà thờ ở đây sinh hoạt lại. Họ rất háo hức với cộng đoàn ở giáo xứ mới này. Khi họ nhìn thấy nhà thờ, họ biết cần phải sửa chữa nhiều vì rất nhiều nơi bị hư hỏng.
Họ tự đề ra mục tiêu là phải hoàn tất mọi việc trước lễ Giáng Sinh.
Họ đã làm việc rất cật lực trong nhiều ngày, sửa lại các hàng ghế, sơn phết tường, tô lại vách… và ngày 18 tháng 12, họ sắp hoàn thành công việc.
Nhưng rồi, ngày hôm ấy, một cơn giơ lốc đã tàn phá khu phố, trong suốt hai ngày.
Đến ngày 21, mục sư hướng về phía nhà thờ. Tim ông se thắt lại khi thấy tòa nhà đã tróc mái, và bên trong là một lỗ hổng thật lớn, phía cuối nhà thờ, ngay sau tòa thánh.
Vị mục sư lau chùi những đống đổ nát trên sàn nhà, rồi đi về .
Trên đường về, ông nhìn thấy các văn phòng đang tổ chức bán chợ trời và ông dừng lại. Ông nhìn thấy một tấm khăn trải bàn màu ngà, với nét thêu hoa văn rất thanh nhã, với màu sắc thật đẹp ,và ở giữa là một cây thánh giá thêu rất sắc sảo. A, đây là kích cỡ thật thích hợp để che lổ hổng ở toà thánh. Ông ta mua tấm khăn và đem về nhà thờ.
Trong khi đó, trời lại đổ tuyết bên ngoài. Rồi một phụ nữ lớn tuổi đi hướng ngược lại đang cố chạy theo cho kịp chuyến xe bus, nhưng bà đã hụt mất rồi. Mục sư thấy thế liền để nghị bà vô trong nhà thờ cho đỡ lạnh trong khi chờ chuyến xe sau.
Bà đến ngồi ở băng ghế và không để ý đến ông đang bắc thang và gắn tấm khăn trải bàn vừa mới mua làm thành một bức thảm treo tường. Vị mục sư không thể nghĩ rằng tâm khăn lại tuyệt đẹp như thế khi ông vừa gắn xong và nhìn ngắm bức tường. Tấm khăn che đậy sự khiếm khuyết một cách tuyệt hảo.
Rồi bỗng nhiên ông thấy người phụ nữ đi đến gần tấm thảm. Gương mặt bà ta trở nên xanh mét như tàu lá.
” Thưa ngài, bà nói, làm sao ngài có được tấm khăn này?”
Mục sự giải thích xuất xứ của tấm khăn và bà nhờ ông kiểm lại ở bên trong góc phải tấm khăn có thêu những chữ EBG không. Đó là những mẫu tự đầu của tên bà, và chính bà là người đã thêu tấm khăn đó, 35 năm trước đây, khi bà còn ở bên Áo.
Bà không thể tin nổi khi mục sư kể lại làm sao ông mua lại được tấm khăn ấy.
Bà giải thích rằng trước cuộc chiến, bà và chồng mình sống một cuộc đời rất thoải mái ở Áo.
Rồi khi bọn quốc xã đến, bà bị buộc phải ra đi, và chồng bà thì rời nhà tuần sau đó. Nhưng ông ấy bị bắt, rồi vào tù; từ đó bà chưa bao giờ gặp lại ông hoặc trở về ngôi nhà xưa của họ.
Mục sự có ý muốn trả lại tấm khăn cho bà, nhưng bà yêu cầu ông giữ lại để dùng cho nhà thờ. Mục sự đành đề nghị đưa bà về nhà, đó là điều tối thiểu ông có thể làm lúc đó. Nhà bà ở phía bên kia đảo Staten và bà đến Brooklyn hàng ngày để làm công việc thu dọn nhà cửa cho chủ.
Đêm vọng Giáng Sinh ở nhà thờ mọi việc diễn ra thật hoàn hảo. Phòng lễ gần như đông chật, ban nhạc hát Thánh Ca và niềm hân hoan của những người dự lễ thật tuyệt vời. Khi buổi lễ chấm dứt, mục sư và vợ ông ta đến chào mọi người ở ngưỡng cửa và nhiều người hứa sẽ trở lại đi lễ.
Có một người đàn ông cao tuổi hơn mục sư vẫn ngồi ở băng ghế và nhìn quang cảnh; vị mục sư không hiểu tại sao ông ấy chưa ra về.
Người đàn ông hỏi mục sư làm sao có được tấm khăn trải bàn trên tường, vì khăn đó giống hệt tấm khăn mà vợ ông đã thêu rất lâu rồi, lúc họ còn ở bên Áo trước chiến tranh, làm thế nào mà có thể có được hai tấm khăn giống nhau đến thế?
Ông kể cho mục sư nghe rằng trước khi quốc xã đến quê hương của ông, vợ ông buộc phải rời bỏ quê nhà , và đáng lý ông phải theo bà ta một thời gian sau, nhưng ông đã bị bắt và ngồi tù.
Ông chưa bao giờ gặp lại vợ mình hoặc trở về căn nhà của họ từ 35 năm qua.
Vị mục sư hỏi ông có cho phép mục sư đưa ông đi một vòng không.
Mục sư chở ông ta đến đảo Staten, đến ngay ngôi nhà mà mục sư đã chở người đàn bà thêu tấm khăn về ba ngày trước đó.
Mục sư giúp ông ta bước lên ba bậc thềm trước nhà, đến gõ cửa, và ở đó mục sự đã trải qua một lễ Giáng Sinh vĩ đại nhất, tuyệt vời nhất mà ông chưa bao giờ tưởng tượng được.
Đây là câu chuyện thật- do Mục sư Rob Reid thuật lại; ông thêm rằng Thượng Đế luôn can thiệp một cách huyền bí.
Theo soleilinterieur- Mục sư Bob Reid-TháiLan/NữLan chuyển ngữ
NGÀY NÀO CŨNG LÀ LỄ GIÁNG SINH
1085 chữ-Virginie Ronteix –TháiLan dịch
Trong gia đình Langelot, họ “thờ “đạo hạnh phúc, – hạnh phúc lan tỏa từ mỗi con tim. Ngay từ phút đầu mới quen nhau, Rose và Aimé đã cảm thấy vô cùng kinh ngạc về khung trời khả năng được mở ra trước mắt họ: mỗi ngày họ sẽ có thể làm rạng ngời tất cả những niềm hạnh phúc mà họ có thể có được bằng tình yêu của mình. Năm tháng qua đi, bao nhiêu nghi lễ được diễn ra mỗi khi từng đứa con được sinh ra để đặt nền vững chắc cho thông lệ của gia đình. Vào những dịp đặc biệt rõ ràng, ta có thể nhìn thấy họ nhảy múa vui cười trong phòng bếp để chấm dứt một ngày buồn tẻ âm u với một ly rượu làm bằng mặt trời tuyệt hảo; rồi những ngày phải mở bung cái dù ra và mang giày ủng cao thì cả gia đình lại xua đuổi bầu trời xám xịt bằng cách nhảy vào những vùng nước bắn tung tóe ra để làm cho những đám mây ấy” rối bù lên”, -từ ngữ riêng của Elias, cậu bé nhỏ nhất trong đàn chiên vui vẻ ấy. Hai cô chị Célia et Méline vừa khả ái vừa năng nổ bao nhiêu thì cậu bé càng tinh nghịch bấy nhiêu. Bức tranh của gia đình này sẽ chưa hoàn hảo nếu ta không kể đến cặp mèo hoang đã được cứu thoát khỏi hiểm nguy, một chú chó được huấn luyện bằng cả sự khôn ngoan của loài khuyển để canh giữ cái cơ ngơi phong phú này do bao nhiêu công khó dựng nên, vài con gà, một đàn cá đỏ hơn mươi con và đôi lúc vài chú chuột…
Cả ngôi nhà ấy là cả một con tàu đầy đủ (như con tàu của Noe trong Kinh Thánh).
Tầm quan trọng của đạo hạnh phúc này đạt đỉnh điểm vào chính đêm Giáng Sinh. Phải nói rằng kể từ ngày đầu tháng mười hai, thì dường như ngay cả ngôi nhà cũng không thể nào chịu đựng nổi. Ta thấy những ngăn kệ được trang hoàng đầy cả nến, và mỗi chiều tối thì tất cả những ngọn nến được thắp lên cùng với bếp lửa ở lò sưởi. Đó là dấu hiệu…Rồi sau đó thì những vòng hoa trang trí, những đồ vật xinh xắn do lũ nhỏ tự làm, những màu sắc, những hình vẽ được lôi ra khỏi hộp. Mùi quế và vỏ cam, mùi bánh quế có gừng, phảng phất trong không khí, đó là những mùi vị của hạnh phúc tột đỉnh…
Theo thông lệ, ngày 15 tháng mười hai, cả gia đình cùng đến khu vườn ương một cách hùng hồn nghiêm túc như một nghi thức. Đó là một sứ mệnh vào tầm quan trọng bậc nhất: chọn một cây thông giáng sinh. CÂY thông…Ý tưởng phải chọn một cây, phải chặt đứt một nguồn sống, cho dù đó là nguồn sống thực vật, làm cho họ thật khó chịu và đau lòng. Và họ cũng cần cả rễ cây.
“Kẻ” được hân hạnh tuyển chọn sau khi được xem xét tỉ mỉ, và được quyết định chung cuộc, sẽ có quyền chễm chệ ngay chính giữa phòng khách, bên cạnh lò sưởi.
Tối hôm đó Rose mang “hộp hạnh phúc” từ ngạch (kệ) của lò sưởi xuống, vì hôm nay là sinh nhật của nàng. Nguyên tắc khá đơn giản. Mỗi thành viên của gia đình đều nhận quà gồm một mớ dãi lụa đủ màu sắc và vài dãi màu trắng. Trên những dãi đầy sắc màu thì sẽ ghi “niềm hạnh phúc trong ngày”. Một chữ, một ý tưởng, một cuộc gặp nào đó, một cảm nghĩ, một điều gì rất hay hoặc rất tuyệt vời đã “để lại dấu vết” cho ngày hôm đó. Còn trên dãi màu trắng ư? Sẽ không ghi gì cả. Điều này có nghĩa là một điều gì quá sâu kín, riêng tư để được bật mí. Nhưng nó vẫn hiện hữu ở đó, và tùy mỗi người muốn giữ lại vết tích hay không.
Và tất cả những dãi lụa xinh ấy đều có nơi đến. Chính những cành cây thông vừa mới được “xông đất” vào ngôi nhà này là nơi mà mọi người sẽ trân trọng buộc những đợt sóng vui mừng ấy vào. Dần dà, trong một nghi lễ ngập tràn niềm vui nhưng cũng không kém phần vô cùng nghiêm trang ấy, cây thông đã ngập đầy những thông điệp hạnh phúc đó và trong một khoảng thời gian rất dài trở thành một biểu tượng phúng dụ của toàn bộ những nỗi hân hoan của gia đình Langelot. Đôi khi, vào một ngày không có ý nghĩa nào đó, một kỷ niệm không vui lại hiện lên. Thế là Rose ném ngay một nhúm muối vào lửa ở lò sưởi. Những hạt muối nổ lách tách như pháo hoa kia sẽ làm vỡ tan tành những cái rùng mình buồn bã cuối cùng ấy.
Đó là một buổi tối thật tuyệt vời. Truyền thuyết của gia đình được ghi trên những dãi lụa màu ấy, và hơn lúc nào hết, bọn trẻ đã học được thế nào là sẻ chia, niềm vui sướng và vị ngọt dịu dàng khi được ở bên nhau. Rose mỉm cười và nói rằng đây là món quà sinh nhật tuyệt vời nhất cho nàng. Còn chàng Aimé thì khiến ta gởi tưởng đến một tấm chắn chống lại mọi phiền nhiễu của thế giới. Cả hai đều sở hữu một pháo đài tình yêu. Nhưng điều quan trọng nhất là họ tin vào đó…Tất cả các thành viên đều như vậy. Và niềm tin tuyệt diệu trong hạnh phúc chính đáng ấy, cùng với những động tác kèm theo, tạo nên một nơi trú ẩn an toàn, xa với phần còn lại của thế giới. Sự hiện diện của cây thông ấy ngay ở đây, trước mặt họ, trong thời khắc này của năm tháng là phương thuốc công hiệu nhất cho nỗi u sầu.
Lễ Giáng Sinh là đỉnh điểm của tất cả những điều ấy. Cây hạnh phúc đã ngự trị suốt buổi tối hôm ấy.Thỏa thuê và tràn ngập hạnh phúc, đôi khi họ ngủ gà gật bên góc lò sưởi để chờ đợi giờ mở quà theo tập tục (những đứa bé nhất được ưu tiên!), rồi sau đó là bữa điểm tâm. Và suốt ngày hôm đó được dành để khám phá muôn vàn sự huyền diệu thêm vào những điều thần tiên đã hiện hữu trong nhà. Không bao giờ có những món quà để mà “sở hữu”, nhưng đó là những món quà để “hiện hữu”. Ngôi nhà kêu gù gù còn hơn cả mấy chú mèo…Và khi nhìn vào đôi mắt của Rose và Aimé, ta có thể nhìn thấy niềm hãnh diện và sự dũng cảm của những người đã lựa chọn cho cuộc sống của mình và họ đã bằng lòng với điều đó. Bây giờ là lúc để gợi lại những niềm vui từ xa xưa nhất. Elias thì không bao giờ chán chê nghe kể về buổi tối mà cha mẹ nó thông báo cho hai đứa chị rằng chúng sẽ có em trai. Còn Célia et Méline thì nỉ non vui thích khi kể các chú mèo con được sinh như thế nào, việc chú chim bé nhỏ được cứu vớt và mơn trớn ra sao cho đến khi bé chim có thể cất cánh bay được. Cha mẹ chúng thì nhớ lại những cuộc viếng thăm bất ngờ đã làm cho cả gia đình đều rất đỗi hoan hỉ. Những vụ thu hoạch thần kỳ, những trò chơi với cái xích đu, nước, mùa hè khi thời tiết quá sức nóng bức…Cả gia đình hiến thân miệt mài cho cuộc đời. Và cuộc đời cũng đã báo đáp họ thật là hậu hĩnh.
Bây giờ đã đến ngày đầu tháng Giêng. Từ sáng sớm, Aimé đã cực nhọc đào một cái lỗ cho thật sâu rộng, thoải mái cho cây. Một phần của mảnh đất to lớn đã được biến thành khu vực trồng thông. Rồi cây hạnh phúc được di chuyển một cách long trọng và được chuyền tay nhau để đẩy xe cút kít đến nơi cư trú mới của nó, trên cành vẫn còn buộc lủng lẳng những dãi nơ xinh đẹp. Bọn trẻ cùng nhau giúp đặt cây vào lỗ rồi lấp đất chung quanh thế nào cho nó thật vừa vặn và thích nghi. Và rồi chúng lại xoa nhẹ vào các cành để chào cây một lần sau cuối một cách nghiêm cẩn, tỏ vẻ luyến tiếc; sau đó chúng trở vào nhà và ngồi quanh bàn bếp, quây quần rộn ràng vui nhộn. Rose thì đang chờ họ trong một mùi hương sữa sô cô la và mật ông nóng hổi. Chính giữa bàn hàng loạt những dãi nơ trắng và đủ màu sắc đã được bày ra cùng với ly sô cô la mong đợi ấy cho mỗi vị thực khách; và thế là buổi tiệc mừng năm mới có thể bắt đầu được rồi. Bên ngoài kia, khi mùa Xuân đến, ta sẽ thấy trong tổ của lũ chim những cành lá xen kẽ với những dãi lụa muôn màu. Niềm hạnh phúc, một khi đã bén rễ vào một nơi nào, sẽ mang sắc màu vĩnh cửu đến nơi đó…
Virginie Ronteix– TháiLan dịch
Xmas Truce
It was December 25, 1914, only 5 months into World War I. German, British, and French soldiers, already sick and tired of the senseless killing, disobeyed their superiors and fraternized with “the enemy” along two-thirds of the Western Front (a crime punishable by death in times of war). German troops held Christmas trees up out of the trenches with signs, “Merry Christmas.”
“You no shoot, we no shoot.” Thousands of troops streamed across a no-man’s land strewn with rotting corpses. They sang Christmas carols, exchanged photographs of loved ones back home, shared rations, played football, even roasted some pigs. Soldiers embraced men they had been trying to kill a few short hours before. They agreed to warn each other if the top brass forced them to fire their weapons, and to aim high.
A shudder ran through the high command on either side. Here was disaster in the making: soldiers declaring their brotherhood with each other and refusing to fight. Generals on both sides declared this spontaneous peacemaking to be treasonous and subject to court martial. By March 1915 the fraternization movement had been eradicated and the killing machine put back in full operation. By the time of the armistice in 1918, fifteen million would be slaughtered.
Not many people have heard the story of the Christmas Truce. On Christmas Day, 1988, a story in the Boston Globe mentioned that a local FM radio host played “Christmas in the Trenches,” a ballad about the Christmas Truce, several times and was startled by the effect. The song became the most requested recording during the holidays in Boston on several FM stations. “Even more startling than the number of requests I get is the reaction to the ballad afterward by callers who hadn’t heard it before,” said the radio host. “They telephone me deeply moved, sometimes in tears, asking, ‘What the hell did I just hear?’ ”
You can probably guess why the callers were in tears. The Christmas Truce story goes against most of what we have been taught about people. It gives us a glimpse of the world as we wish it could be and says, “This really happened once.” It reminds us of those thoughts we keep hidden away, out of range of the TV and newspaper stories that tell us how trivial and mean human life is. It is like hearing that our deepest wishes really are true: the world really could be different.
++++++++++++++++++++++++
Cuộc Ngưng Bắn đêm Giáng Sinh
Khi họ nói KHÔNG Với Chiến Tranh – 650 chữ–David G. Stratman – NữLan dịch
22/6/2012-
Đó là vào ngày 25 tháng 12, năm 1914, chỉ mới 5 tháng kể từ khi bắt đầu Thế Chiến thứ I. Lính Đức, Anh và Pháp đã thật chán chường và mệt mỏi với những cuộc bắn giết vô nghĩa, đã bất tuân thượng cấp của họ và đã thành huynh đệ với “Kẻ thù” trong suốt hai phần ba của Mặt Trận phía Tây (một trọng tội với bản án tử hình vào thời chiến). Những đội quân Đức giương cây thông Giáng Sinh lên trên các chiến hào với biểu ngữ “Chúc Mừng Giáng Sinh”.
“Bạn không bắn,chúng tôi cũng không bắn”. Hàng ngàn dòng quân lính lũ lượt băng qua một vùng đai trắng với toàn thân người thối rửa rãi cùng khắp. Họ ca những bài hát mừng Giáng Sinh, trao đổi hình ảnh của gia đình thân thương ở quê nhà, chia nhau phần lương thực, chơi túc cầu với nhau, hoặc ngay cả quay thịt. Binh lính ôm hôn những người mà trước đây vài giờ họ đã nhắm bắn.
Bộ Tư Lệnh Tối Cao của cả hai phe đều cảm thấy ghê sợ. Đây là thảm họa đang hình thành: binh lính tuyên bố tình huynh đệ với nhau và từ chối đi chiến đấu. Tướng lãnh của cả hai phe tuyên bố việc hòa giải tự phát sinh là mưu phản và bị đưa ra tòa án quân sự. Vào tháng 3 năm 1915 phong trào huynh đệ chi binh đã bị triệt hạ và máy chém đã được đưa vào xử dụng . Đến thời điểm ngưng chiến vào năm 1918, mười lăm triệu nạn nhân đã bị hành hình.
Rất ít người nghe nói đến câu chuyện về Cuộc Ngưng Bắn đêm Giáng Sinh. Vào ngày Giáng Sinh năm 1988, một câu chuyện của Boston Globe kể rằng một xướng ngôn viên đài phát thanh FM địa phương đã cho phát rất nhiều lần bài ” Giáng Sinh ở Chiến Hào”, một ballad ( bài dân ca hoặc về truyền thống dân tộc) về Cuộc Ngưng Bắn đêm Giáng Sinh- và họ đã rất sững sốt về hậu quả của việc này .Bài hát đã trở nên bài được yêu cầu nhiều nhất trong suốt kỳ nghi lễ ở Boston trên rất nhiều trạm phát thanh FM. Và người xuống ngôn viên nói thêm” Tôi càng kinh ngạc hơn khi thấy không phải số lần bài hát được yêu cầu mà chính là phản ứng sau đó của những thính giả trước đây chưa bao giờ được nghe bài hát đó : “Họ gọi cho tôi với tâm trạng rất xúc động, đôi khi nghẹn ngào và bật khóc, nói rằng ” Ôi Trời, tôi vừa được nghe những lời gì vậy?”
Quý vị thật dễ dàng đoán được vì sao những thính giả đó phải bật khóc chứ? Câu chuyện về Cuộc Ngưng Bắn đêm Giáng Sinh đi ngược lại với phần lớn tất cả những gì chúng ta được nghe về loài người.
Câu chuyện ấy đã cho chúng ta một ý niệm về thế giới theo ước mong của chúng ta, và nói lên rằng” Việc này đã thật sự xảy ra một lần rồi”. Điều này nhắc chúng ta nhớ về những cảm nghĩ mà ta đã giấu kín, vượt ra ngoài tầm của các câu chuyện trên truyền hình và báo chí, và cho ta biết cuộc sống con người thật tầm thường và thấp kém như thế nào. Sự kiện này giống như ta được nghe rằng những ước mơ sâu kín nhất của ta thật sự là có thật: Thế giới thật ra có thể khác đi.
Trích dẫn từ “Chúng ta CÓ THỂ Thay Đổi Thể Giới”, David G. Stratman : Ý Nghĩa Thật của Cuộc Sống Hằng Ngày (New Democracy Books, 1991)
Nữ Lan dịch
CÂY TẦM GỬI VÀ CÂY NHỰA RUỒI
Cây Nhựa Ruồi (Holly- Houx) Cây Tầm Gửi (Mistletoe: Gui) Loại cây linh thiêng của các đạo sĩ (xứ Gaule -Gô-loa)
Một loại cây linh thiêng của các đạo sĩ, cây tầm gửi hiện là một phần của truyền thống Giáng sinh và cuối năm ở châu Âu. Chúng tôi mời bạn khám phá những biểu tượng và truyền thống gắn liền với những cành cây trang trí xinh xắn này.
Các chú chim thich mổ loại quả màu trắng này vào mùa lạnh nhưng quả lại độc đối với con người.
Theo Phong tục, cây được treo trên khung cửa để khách có thể hôn nhau bên dưới vào ngày đầu năm mới.
Cây tầm gửi, mà người Hy Lạp nghĩ là gắn liền với Hermes, vị thần đưa tin của Olympus và thần sức khỏe, cũng được coi là một loại cây linh thiêng vào thời của người Gô- loa. Các đạo sĩ tin rằng loại cây này được một bàn tay thần thánh gieo trên cây sồi và cho rằng sự kết hợp giữa cây thiêng liêng của họ và những cành cây không bao giờ vàng úa này là biểu tượng của sự bất tử.
Vào ngày thứ sáu của năm Celtic*, các đạo sĩ đi cắt cây tầm gửi và thốt lên: “O Ghel an Heu”, một thành ngữ có nghĩa đen là “Hãy để lúa mì nảy mầm!”.
Biểu tượng này là sự tái sinh của mặt trời sau ngày đông chí, do sự biến dạng của biểu thức “Au gui l’an neuf!”: Lễ đón năm mới được tổ chức với cây tầm gửi.
Các đạo sĩ cũng cho rằng loài cây này có những đặc tính kỳ diệu, đặc biệt là chữa một số bệnh, cung cấp khả năng miễn dịch chống lại chất độc, đảm bảo khả năng sinh sản của phụ nữ và bảo vệ đàn ông khỏi sự trù ém phù thủy.
Hơn nữa, khi kẻ thù gặp nhau dưới cành tầm gửi trong rừng, họ phải hạ vũ khí và tuân theo thỏa thuận ngừng bắn cho đến ngày hôm sau.
Và phong tục treo một chùm tầm gửi và trao nhau một nụ hôn bên dưới cành bắt nguồn từ đây như một dấu hiệu của tình bạn và lòng khoan dung.
Một truyền thống ngoại giáo
Nụ hôn dưới cây tầm gửi tốt lành có lẽ là một truyền thống có nguồn gốc từ Celtic*. Một lời giải thích khác là phong tục này, rất phổ biến ở người Anglo-Saxon, có liên quan đến truyền thuyết về Freya, nữ thần tình yêu, sắc đẹp và khả năng sinh sản.
Theo truyền thuyết, người đàn ông phải hôn bất kỳ cô gái nào tình cờ gặp bên dưới cành tầm gửi treo trên trần nhà.
Truyền thống ngoại giáo này đã được duy trì, ngay cả khi Giáo hội đã cố gắng thay thế cây tầm gửi bằng cây nhựa ruồi, những chiếc gai của chúng gợi nhớ đến vương miện của Chúa Kitô và những trái màu đỏ là máu của ngài.
Một biểu tượng của sự thịnh vượng
Mặc dù ý nghĩa ngoại giáo của nó đã bị lãng quên, phong tục trao nhau một nụ hôn dưới cây tầm gửi vẫn còn tồn tại rất nhiều ở châu Âu và Canada.
Nụ hôn của các cặp đang yêu được hiểu là lời hứa hôn nhân, là điềm báo hạnh phúc và trường thọ.
Ở Pháp, phong tục này có mối liên hệ đặc biệt hơn với đêm giao thừa và ngày đầu năm mới: nhánh tầm gửi, biểu tượng của sự thịnh vượng và trường thọ, là điềm vui mừng bước qua ngưỡng cửa của một năm mới.
GHI CHÚ * Celtes: một nhóm các dân tộc khác nhau từ Tây Bắc châu Âu-
-
VĂN: CÒN TUỔI NÀO CHO EM…? – THÁI LAN
CÒN TUỔI NÀO CHO EM...? *2/ –
KÍNH GỞI QUÝ VỊ ÍT TUỔI
– Nhỏ ơi, mở cửa đi, có người đem gì cho nhỏ kià!
– Ứ! ai biểu!
– Anh có làm gì đâu?
-Thiệt không?
– Hé xem chút xíu thôi-
Tôi hé cửa, ô thì ra người giúp việc của chung cư đang cầm bó hoa phi yến violets mà tôi rất thích – ở Đà Lạt
của tôi có rất nhiều, mà ở đây suốt bao nhiêu năm nay không thể tìm thấy ở đâu cả..
Sao anh tìm được hay vậy ta? Ừ, giận, nhưng mà vẫn mở cửa ra lấy hoa chứ!
Tôi nhắn tin: – Xin cám ơn, nhưng anh nhớ lại đi…
Tối hôm qua, như thường lệ, tôi vẫn gõ cho anh vài chữ trước khi ngủ, nhưng không thấy hồi âm, nên sáng nay tức!
+++
Có vẻ như hai người tuổi teen đang gởi tin cho nhau?…
Không phải đâu ạ, họ đều nhiều bó lắm rồi…
Anh trả lời: – A, tại vì hôm qua cháu Tí nó kể cho anh là tuần sau Lễ Tốt nghiệp, cháu được chọn làm valedictorian – đọc bài diễn văn từ biệt, rồi nhiều chuyện nữa, sau đó anh quên trả lời cho em. May quá, vô tình chùm hoa violets đến tạ lỗi dùm anh rồi nhỏ à.
Tôi mỉm cười. Thiệt là!
Trước ngày dọn đến khu chung cư dành cho người … ít tuổi, tôi rất băn khoăn và cảm thấy buồn tủi. Đi đâu làm gì cũng một mình, vì ông ấy đi xa rồi, và tôi cũng không giúp đưa đón các cháu được… Và điều quan trọng nhất là tôi rất sợ ma; hết trong vòng tay yêu thương che chở của Ba Me anh chị, rồi đến đấng trượng phu đầy nghị lực sức mạnh – tôi thường nghĩ rằng mình sẽ chẳng bao giờ phải suốt ngày ngồi một mình trông ngóng người thân, vì anh “mái nhà” của tôi rất khỏe mạnh, cho dù bị bầm dập sau nhiều năm đi tù cộng sản…lúc nào cũng có đôi, và tôi thường nói ” Bố ơi, Bố đừng giành đi trước nhé Bố, vì Bố rất giỏi, kiên cường, uyên bác mọi thứ, sẽ vẫn luôn giúp cho con cháu, cho xã hội…
Để mẹ đi trước, vì mẹ vô tích sự! Với lại mẹ không thể sống một mình, bố ạ. Mẹ sợ mọi thứ”-
Thế đấy, mà ông í đã ích kỷ ra đi. Để lại mình tôi. Các con bảo mẹ muốn ở với đứa nào, tùy mẹ, mẹ nhé. Vài năm nay, khi đã “gác kiếm”, mỗi ngày không còn chạy theo cái đồng hồ, tôi sống với gia đình con gái, anh và em cháu đều ở xa, và cháu là tay hòm chìa khóa của gia đình, tỏ tường mọi thứ. Nhưng rồi có người bạn cũng “côi cút” như tôi, bà đang sống rất thoải mái ở một chung cư người ít tuổi, một mình một cõi, không phiền hà đến ai. Hai thế hệ dưới cùng một mái nhà đôi khi cũng có những điều bất tiện…
Đến chung cư này được chừng bốn tháng, một hôm trong buổi họp – ban Giám Đốc thường có những sinh hoạt để ngày bớt dài cho mọi người, tổ chức dạy nấu ăn, đan móc, … bingo… và tôi có giúp dạy cho những sinh hoạt ấy, vì đó là những thú tiêu khiển mà tôi rất thích…Bên cạnh tôi là một đấng nam nhi – Ông ấy gợi chuyện và hỏi tôi có phải người ở xứ Sương Mù không, vì những người ở xứ đó đa số đều biết đan..và có nhiều người Huế nên họ biết nấu món Huế…
– Tại sao ông biết?
– Vì tôi ở căn đối diện với nhà của cô, cách khu đậu xe và khoảng sân rộng, thỉnh thoảng tôi thấy cô ngồi đan…
Thôi chết rồi! Có lúc tôi ra ban công khi trời mát, để vừa đan vừa nhìn xuống vườn hoa rất đẹp bên dưới. Tôi cũng có nhìn sang dãy nhà bên đó, cũng thấy có vài người ra đứng ngắm trời trăng như mình…
Và rồi, buổi sáng, buổi chiều đi bộ trên những con đường quanh chung cư có nhiều bóng cây rợp mát, tôi lại gặp ông ấy, có lần ông xin phép được sóng đôi cùng tôi.
-Thanh có thích bài “… con đường Duy Tân cây dài bóng mát” không?
– Dạ thích, đó cũng là câu chuyện tùy bút về ngày xưa của Thanh đó ạ –
…Chúng tôi kể cho nhau nghe nhiều kỷ niệm về Đà Lạt
, về Huế – ông ấy là người gốc Cố Đô, và có nhiều năm sống ở xứ Ngàn Hoa, nên những cà phê Tùng, khu Hòa Bình, các ghềnh thác, hồ núi, và sông Hương…các thắng cảnh ở hai nơi thương yêu ấy là tiền đề cho những buổi dạo mát của ông Thịnh và tôi.
– Ngộ chưa Thanh, cả hai chúng ta đều có những bốn chữ giống nhau trong tên của mình; đáng lý ra…
– Sao cơ?
– Đáng lý ra nếu như mình gặp nhau từ rất lâu rồi, thì anh và Thanh đã có thể nghĩ ra một chữ ký chung cho cả hai rồi, thích thú biết chừng nào, phải không bé?
Đã qua nhiều tháng rồi, và anh thi sĩ đã viết cho tôi những bài thơ, về cái răng khểnh, về mắt buồn… và gởi tin nhắn cho “bé”, cho “nhỏ”…
Anh lớn hơn tôi rất nhiều tuổi.
Anh bảo:
– Cám ơn em đã cho anh sống lại thời xưa, cho phép anh gọi “bé” nha –
Tôi thì vốn đã không bao giờ chịu lớn…! Ai cũng phải chịu thua…
Có hôm sinh hoạt với mọi người ở chung cư, một buổi lễ lạc, anh lên sân khấu hát , vừa nhìn tôi:
” Xin cho yêu em nồng nàn…
…Dù biết yêu tình yêu muộn màng..” *1/-
Hôm đó tôi đã rất xúc động, và cứ nghĩ như ngày xưa…nhưng rồi.
Có hôm tôi phải đi bác sĩ, và con gái bận việc đột xuất nên không chở tôi đi như đã dự định, tôi hỏi anh có thể giúp tôi được không. Tất nhiên anh rất vui, vì lâu nay muốn qua tận căn hộ để giúp tôi sửa vài thứ lặt vặt, như khi tủ lạnh hư, hoặc vòi nước rỉ, nhưng tôi đều không muốn, và kiên nhẫn chờ thợ đến…và tôi cũng chưa bao giờ sang nhà của anh.
Các con của anh và của tôi đều biết chuyện của hai chúng tôi, và chúng rất hoan nghênh, vì ba, mẹ chúng đã có niềm vui chứ không lẻ loi như những năm qua…
Có lúc làm những món anh thích – bánh flan, món Huế…tôi nhờ chị giúp việc của chung cư mang qua cho anh.
Hôm nay ngồi cạnh anh trong xe, tôi cảm thấy rất bỡ ngỡ.
Khi ra về, anh ngừng xe ở một công viên, và quay lại phía tôi, cầm tay tôi và nói:
– Thanh ơi, nhiều đêm rồi anh thao thức, và hôm nay anh muốn hỏi em: Em về sống cùng anh được không? Từ khi biết em, anh thấy cuộc đời mình thật có ý nghĩa, đôi tay anh như có cánh, lúc nào cũng cảm thấy như bay trên mây trời hạnh phúc, em đồng ý nhé em? – Và anh cũng muốn có anh ngay bên cạnh khi em đau đầu, nhức tay…anh sẽ yên tâm hơn, em ạ.
Anh luôn cám ơn Trời đã cho anh gặp được em, dù muộn màng, Thanh ơi…
Mình sẽ tổ chức một buổi họp mặt nhỏ, mời bà con bạn bè đến chung vui với mình, em nhé? Nhỏ của anh?
– Anh Thịnh, thật là đột ngột.
Cám ơn anh đã dành cho Thanh những tình cảm thương quý. Anh cho phép Thanh suy nghĩ rồi trả lời anh sau nhe. Và tôi rút tay về.
Anh rất buồn, nhưng tôn trọng ý của tôi, và đưa tôi về.
Và tôi gởi cho anh một lá thư, sang bỏ vào hộp thư của anh.
“Thưa anh,
Th cám ơn và thật trân quý những tình cảm anh dành cho Th.
Những ngày tháng vừa qua, Th rất vui và hạnh phúc khi có anh cùng đi ngắm muôn hoa vạn vật, thưởng thức ánh trăng vừa lên. Trước đây, khi thấy những cặp đôi sánh vai bên nhau, Th rất buồn tủi, tại sao mình lại cô đơn..?
Nay thì Th cũng đã có người chia sẻ mọi việc, Th cám ơn anh nhiều lắm.
Cám ơn anh đã dệt muôn vàn lời thơ lãng mạn làm say đắm lòng người cho bao độc giả của anh và những dòng thơ tràn đầy cảm xúc cho Th.
Cám ơn anh đã thi vị hóa những tháng ngày cô đơn buồn tủi của Th khi nghĩ về quá khứ. Th không còn lặng lẽ tiếc nuối những hạnh phúc đã qua.
Nhưng xin anh hiểu cho Th, và Th nghĩ anh cũng như Th, có những lúc anh cũng nghĩ về chị, như Th vẫn nhớ về người đã cùng mình chia sẻ ngọt bùi suốt nhiều năm tháng trước đây…
Hãy cứ để mỗi người sống theo ý nguyện của mình.
Dù anh thấy rằng quãng đời còn lại của anh và Th sẽ có ý nghĩa hơn, ấm áp hơn khi mình ở cùng mái nhà, ăn cùng mâm, nhưng không nên để cả hai phải gượng gạo, có những lúc “nếu như là ông ngoại của bé Nhi thì đã khác rồi”. Cũng như anh ” Nếu là Ngọc thì thế này thế kia”, anh nhé.
Cứ để mọi việc tiếp tục như hiện nay, thưa anh. Anh vẫn chăm lo những nhỏ nhặt nhưng cần thiết của Th “Hôm nay trời gió. Em ra ngoài với bé Nhi thì nhớ quàng khăn ấm, em nhé”.
Buổi tối : “Nhớ mang vớ nha em”…
Anh với Th, chúng ta là bạn, ông Tơ đã không se duyên cho mình sớm hơn, nhưng muộn cũng còn hơn không. Gặp nhau, lo cho nhau để cùng bước đi những bước còn lại, để những giờ phút của cả hai không còn lẻ loi, là hạnh phúc nhất trên đời. Các con, các cháu chúng ta không bao giờ muốn người khác thế vào vị trí của cha, mẹ, ông bà của chúng.
Những ngày đặc biệt, sinh nhật, kỷ niệm ngày cưới, … anh và Thanh đều có thể nhớ về những ngày xa xưa, anh nhé.
Mong anh hiểu và không buồn khi đọc những dòng thư này.
Th sẽ luôn trân quý những gì anh đã và sẽ dành cho Thanh.
Thương quý,
– Th”.
Và tối nay, cũng như bao nhiêu đêm, anh vẫn gởi tin nhắn:
” Nhỏ ngủ ngon nhé. Nhớ em”.
Hé màn cửa sổ nhìn qua dãy nhà đối diện, một cánh cửa sổ cũng vừa mới mở ra, và trên màn hình điện thoại, một nụ hôn gió vừa hiện lên.
– “Chúc anh ngủ ngon. Nhớ uống thuốc nhức đầu với thật nhiều nước nhé anh”-
– Bé ơi,
” …còn tuổi nào cho nhau
Còn tuổi trời hư vô...” *2/-
tháilan – mùa Đông xứ Cao Bồi, 2021
*1/- TÌNH KHÚC CHO EM- Lê Uyên Phương
*2/- CÒN TUỔI NÀO CHO EM- Trịnh Công Sơn
-
CÁM ƠN CHA MẸ – Truyện dịch THÁI NỮ LAN
-
Tùy Bút: MỘT MÙA XUÂN RẤT XA…- Thái Nữ Lan
MỘT MÙA XUÂN RẤT XA… –
Thương tặng các bạn sinh viên Huế, và các bạn cư xá Jeanne d’Arc & Xavier của thời vàng son dấu yêu-
Một ngày mùa hè …
Ba chở tôi đến phi trường Phú Bài, Huế, đón cậu em từ Dalat ra để giúp Ba và tôi trong việc làm ăn của Ba. Me và ba em kia vẫn đi làm đi học ở xứ sở sương mù… Gặp lại em Vũ sau nhiều tháng xa cách, thật mừng rỡ… Lúc xưa cả gia đình Ba Me và sáu người con đều quây quần, rồi chị và anh lớn đi xa để tiếp tục việc học, còn lại bốn chị em rất thân nhau. Ôi bao nhiêu kỷ niệm…
Mới mấy năm nay Ba phải ra Cố đô để làm việc, một mình tôi đổi “cấp độ” từ nhỏ đến lớn, bi chừ là “Học Đại” rồi, nên theo Ba được.
Em Vũ mang theo cây đàn tranh cho tôi. Tôi mới học được vài tuần ở Tỳ Bà Viện. Khệ nệ cầm cây đàn, tôi băng qua phòng chờ ở phi trường, rồi lần ra bên ngoài chỗ để xe…Chợt có hai anh lái tàu bay từ bên phi trường quân sự tiến đến, hỏi chuyện…
Có lẽ vì nhìn thấy một con bé với vẻ mặt chẳng có gì là nghệ sĩ mà lại đi chơi loại đàn xưa và rất khó này rồi hai “ông ” ấy tò mò chăng?
Biết chúng tôi ở xứ ngàn thông, các anh rất thích, họ là người dân xứ biển Nhatrang hiền hòa, và thường bay lên đó, họ rất thích thành phố buồn của chúng tôi…
Vài tuần sau, đến lúc nhập học, em tôi phải trở về Dalat, còn tôi thì vào cư xá “để học cho yên” – Ba bảo như rứa…
Vài ngày sau khi đi học, một anh tài xế máy bay ấy, anh Quang, đã đến cư xá và xin “sơ”(soeur) trông coi phòng khách để gặp tôi.
Tôi chưa gặp anh Quang được, vì tôi chưa thưa chuyện với Ba Me tôi. Anh ấy ra về… Vài ngày sau, tôi nhận được lá thư của anh gởi từ Nhatrang… Tôi đã đưa thư cho Ba đọc, (tự tôi cảm thấy cần cho Ba đọc, vì Ba đâu có cấm cản chi mô?) Ba nói lời thư có vẻ chân thành, nhưng ” chưa biết con ạ, các anh ấy thường rất bay bướm”,…nếu anh ấy muốn gặp con ở cư xá, con có thể nói chuyện (vì Ba biết trong phòng khách, luôn có sơ làm việc giấy tờ), và con có thể trả lời thư…
Nhiều tháng trôi qua… Anh thường có dịp phải bay ra Huế, có lần anh và bạn đều lái trực thăng vòng vòng quanh sân trường của tôi. Trời ơi! Cứ bay vần vũ quanh quanh như rứa…Thầy Cô và bạn bè không hiểu chuyện gì đang xảy ra..! Chỉ có Kim Thoa & Ngọc Quỳnh ở cùng phòng cư xá với tôi biết là ai thôi : “Răng mà anh nớ gan cùng mình ghê luôn”!
Rồi còn đi với bạn để đón tôi lúc tan trường… tôi luôn đi với cô bạn thân Kim Thoa, anh ấy cũng luôn có thêm một người bạn đi cùng…
Muốn độn thổ luôn, trời ạ! Hai ông lính thuộc loại dữ dằn, mặc áo bay, đi kèm với hai con bé “chưa lớn”, làm chúng vừa đi vừa nép vào nhau, che mặt mình không hết, cả trường ào ra như ong vỡ tổ,…ai đi xe ra cũng ngoảnh mặt lại nhìn xem hai “con” nào mà ghê gớm rứa hè..?
Thôi thôi bước đi cho nhanh cho rồi…làm hai ông phải la lên: “Hai cô làm gì mà như bị ma đuổi vậy?”
Tôi phải cằn nhằn: -” Sao anh muốn đến trường mà không nói trước, để bây giờ … làm sao mà trốn đây? Ngày mai vô lớp học thì chịu sao cho thấu?
– Thì Thanh Lan cứ bảo là: ông anh ở Nhatrang đi công tác ra thăm em thôi mà, có gì nghiêm trọng đâu?…”
Sau này tôi mới biết, anh ấy lúc nào cũng vậy, những việc gì nguy hiểm, kinh khủng…tất cả đối với anh đều … nhẹ “như lông hồng”… Có lúc thì tốt, nhưng có khi lại không tốt đâu nhe!
Ngày thường thì chúng tôi vừa rảo bước vừa nhìn ngắm cảnh thơ mộng của kinh đô các “mệ” ngày xưa, nhìn qua con sông với cầu Trường Tiền nên thơ, hàng cây Phượng vỹ đến mùa hè nở đỏ rực cả một góc trời…ở xa kia là núi Ngự Bình,.. Ngắm hoài không chán.. Nhưng hôm nay hai đứa chỉ cúi mặt mà chạy, không dám nhìn ngang ngửa chi hết…
Hai anh chỉ đưa chúng tôi về cư xá, vì chúng tôi không đi ra quán uống nước với các anh, xứ Huế rất cổ kính, và cổ hủ về phong tục, nên chúng tôi rất ngại…
– Thanh Lan, mai tụi anh lại phải bay đi Pleiku rồi, cho anh nói chuyện với Lan một chút nhé? Bạn tôi lên phòng, anh Hoàng, bạn của anh Quang bảo anh ấy ra quán càphê gần đó đợi …Anh Quang vô phòng khách nói chuyện với tôi một chút, anh hỏi thăm tôi về việc học, về các em,.. rồi dặn tôi nhớ trả lời thư cho anh, khi nào mùa hè tôi về xứ sương mù, có dịp anh sẽ bay lên để thăm Me và các em, rồi sang năm học tới anh sẽ ra đây thăm Ba tôi.
Sang hè, khi tôi về Dalat nghỉ vài tuần, anh ấy đến nhà và nói chuyện với Me và các em tôi. Có một hôm, em tôi mới đi lấy hình chụp cả nhà về, và để trên bàn phòng khách, tôi chưa kịp cất, anh ấy đến, và muốn xem. Anh chọn một hình chân dung của tôi, và nói rằng kỳ này các anh sẽ đi Bảo Lộc, sẽ có giờ rảnh, anh muốn vẽ hình tôi…Ít lâu sau tôi nhận được một bức hình vẽ bằng bút chì rất đẹp,..tôi lại biết thêm một tài năng của anh ấy…
Sau này anh vẽ hình các con, chắc là tuyệt lắm nhỉ? (ôi, lại mơ mộng hão huyền nữa rồi, cô bé ạ)
Anh đưa cho tôi tập thơ “Ta Chờ Em Từ Ba Mươi Năm” của thi sĩ Vũ Hoàng Chương…
Không biết lúc đó anh bao nhiêu tuổi nhỉ?
1975…
Vài tháng thư từ, độ này anh không bay ra Huế nữa…
Tháng 3… Người dân Huế vẫn chưa hết đau thương với Mậu Thân 1968, nay lại lảo đảo chồng chất trên những chiếc xe đò lớn nhỏ để vô Đà Nẵng, có xe traction ngày thường chỉ chở được 5 người, nay chất thành 8, 9, 10 người,.. rồi những xe minivans thì nhét như cá hộp…
Vô Đà Nẵng cũng không yên,… lại ùa nhau ra phi trường, ra bến cảng … Tôi cùng gia đình người bác ruột lênh đênh trên biển cả một tuần, (Ba đã đi nước ngoài vì công việc, sắp về lại). Suốt một tuần lễ, lênh đênh cũng mây nước, tôi không biết giờ này Ba Me tôi ở đâu, các anh chị em có được bình an không…Bảy ngày , mà dài như bảy năm, buổi tối dài lê thê, không thể nào chớp mắt với sóng biển dập dềnh, ban ngày thì khô rát, nóng cháy….. rồi anh Quang ơi, gia đình anh có được an toàn không, anh đang ở đâu, cầu mong sao anh làm tròn nhiệm vụ người trai thời loạn, như bậc cha anh, nhe anh,..dù cho có hy sinh cũng không màng, anh ơi,..
Xà lan cặp bến Vũng Tàu… Rồi lên Saigon…
Đến được nhà anh chị tôi, thật mừng rỡ biết bao khi gặp lại gia đình anh chị cùng Ba tôi vừa mới trở về được vài hôm, và Me cùng các em đang đi xe đò từ Dalat xuống đây..
Một buổi trưa, Hòn Ngọc Viễn Đông, trời nóng như thiêu… em Vũ , – lại cũng cậu em “xe tơ” này, – chở tôi đi Honda trên đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận, đến đường ray xe lửa, đèn đỏ…nhìn qua con đường đối diện,… thấy anh Quang!
Ôi, phải chăng đây là ý trời…? Nhiều tuần nay không được tin tức… nay được gặp lại anh…
Buổi tối, cuối tháng 4, anh Quang đến nhà anh tôi ở Quận 5,… gặp BaMe tôi (lúc đó cả gia đình đều về nhà anh Chung của tôi), và xin cho tôi được bay đi đảo Guam, xứ Cờ Hoa, với anh cùng đồng đội. Tôi không chịu, vì đi như vậy, biết có gặp lại Cha Mẹ anh chị em được không, với lại đã cưới hỏi gì đâu…?
Vài tháng sau… Gia đình anh, sau khi ở tạm nhà bà con ở Saigon ít lâu, đã trở về miền Thùy Dương..
Tôi theo Ba về Nhatrang để thăm người Cô ruột, chị của Ba.
Tôi được đi ra biển với anh, một buổi chiều…sóng thật lớn…
Suốt bao nhiêu tháng quen nhau, đây là lần đầu tiên tôi đi ra ngoài với anh..
Tôi luôn yêu thương thành phố biển này, ngày xưa cả gia đình thường được Ba chở đi nghỉ hè, cả mấy chị em tôi đều rất mê biển, cát, và sóng… Cả anh và tôi đùa nghịch với cát, nắm cát vào tay, bỏ vào tay đứa kia, nhưng không giữ được, chúng lại tuôn ra…Đi dạo, rồi chạy đuổi nhau ở mép biển, vừa nước vừa cát,..ôi hạnh phúc làm sao…! Đứng nhìn mặt trời lặn, sao đáng yêu quá, tôi luôn yêu cảnh mặt trời mọc hoặc lặn, nhưng sao hôm nay đẹp lạ thường… “Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ”, nhưng Người vui thì cảnh lại quá thơ mộng…
Hạnh phúc ơi…!
Lúc đưa tôi về nhà Cô tôi, anh đưa tôi một tấm thiệp, hình bầu trời đầy sao, và bên dưới là một cô bé đang nhìn lên …
Bên trong
” Người là vì sao nhỏ bé
Ta mãi ước cho lòng làm bầu trời xanh xanh
Người về lòng ta thương nhớ
Ta khẽ hỏi đưa người hay thầm người đưa ta…” *(1)
Hôm sau, anh đến nhà thăm Cô và Ba tôi… và xin phép đưa tôi đi dạo một vòng..
Những đường phố xứ biển quá đẹp, với từng hàng cây Phượng vỹ, vẫn còn đỏ rực hoa mùa hè muộn, cây trứng cá với trái nhỏ đỏ li ti thật xinh và những hàng dương liễu dọc theo bờ biển, thơ mộng làm sao…
Anh đưa tôi lên tượng Phật Bà thật uy nghi trên đỉnh đồi Trại Thủy, đứng trên đỉnh đồi nhìn xuống thành phố thật đẹp… – đã in trong trí tôi bao nhiêu năm nay, bây giờ mỗi khi ngủ tôi vẫn thường nhớ lại cảnh tượng nên thơ này – Tôi rất thích tìm những cọng hoa mắc cỡ ( Trinh nữ), rồi đụng vào lá cho chúng khép lại, và nói với anh: – “Anh ơi, mai sau anh trồng hoa mắc cỡ phía sau nhà mình để em chơi như thế này nhé anh?” Anh cười, chắc có lẽ chịu thua cái con bé lớn mà chẳng lớn chi hết này!
Sau khi đi một vòng, đến dưới chân bức tượng Phật, anh cầm tay tôi, nhìn vào mắt tôi thật lâu, và nói
– “Bé chờ anh nhé, bé ơi?”
Tôi thật nghẹn ngào, mãi lúc sau mới nói được: -“Em sẽ là Hòn Vọng Phu, nếu anh không trở về…”
………………..
Phút giây hạnh phúc như bóng câu qua cửa sổ..
“Anh vuốt tóc em, một lần cuối, một lần cuối cùng, rồi thôi….
Anh hốt trăng thanh, trên áo em xanh, một lần cuối, như những lần đó xa xôi“….*(2)
Đến ngày Ba và tôi trở về xứ Ngàn Hoa, còn anh thì đi …biền biệt… đến bao giờ?
…………….
Trại tù…
Anh viết : “Mỗi kỳ trăng tròn, anh thường nhìn lên ánh trăng, để tìm ánh mắt em phản chiếu trong đó, Ti ơi…Anh nhớ em quay quắt… nhớ đôi mắt thật buồn của em, bé ơi …”
Thăm nuôi…
“Em ngậm ngùi khóc thương
Thương anh đợi mòn mỏi
Hờn căm ngút đoạn trường– ” *(3)
…………………
…Ngày anh Trở về…Mừng mừng tủi tủi…
Kể làm sao cho xiết…
Rồi ngày được định cư ở bến bờ tự do…
Ba ơi, cái ông tài xế máy bay ni không có bay bướm chi hết, Ba à…
Bao nhiêu mùa Xuân đã đi qua… Anh và em đều mong ước một mùa Xuân được trở về, để đến những nơi chốn của thuở vàng son ấy…
&&&&&&&&&&&&
Đất Mẹ, ngày trở về, để đón mùa Xuân như ước mơ, nhưng chỉ có các con và em … Anh đã ra đi…
Saigon, Dalat, Huế…Và sân bay Phú Bài.
Tất cả đã không còn như xưa… Ngôi trường mến yêu, những con đường thân thương …
Nhưng đối với anh và em, vẫn thật đáng quý, những nơi tràn ngập kỷ niệm dấu yêu, kể cho con nghe… Thương quý nhưng nghẹn ngào làm sao…
Và Nhatrang, sóng biển và cát….
Hôm nay ngày rằm cuối năm, trăng sáng vằng vặc, em lại nhìn lên ánh trăng, tìm đôi mắt của anh, như ngày xưa mắt anh và em nhìn nhau trên đó anh ơi …
Ngày mai em sẽ đưa các con lên đồi Trại Thủy, nơi có tượng Phật Bà, và kể cho con nghe về cái ngày xa xưa yêu dấu ấy, anh ơi…Bây giờ em không thể làm Hòn Vọng Phu để chờ anh được nữa rồi, em còn bổn phận với con cháu..
Anh đang ở đâu hở anh
Anh Quang ơi, từ nơi xa ấy, anh có cùng mẹ con em đi thăm lại những con đường có lá me bay, những đồi thông con suối, không anh…
Một mùa Xuân trọn vẹn của anh và em, sẽ không bao giờ có được…
……………….
Trong phòng của mình, vẫn còn bức chân dung ngày xưa anh đã họa lại hình em đó, Quang ơi… Và chiếc áo bay ngày nào của anh vẫn ở bên em…
Những tưởng yêu thương đến trọn kiếp
Mong sẽ trăm năm cùng bạc đầu
——
Vầng trăng xưa, ngươi có nhớ gì không?-
Vũ Hoàng Chương- Ta Đợi Em Từ Ba Mươi Năm
TháiLan/nữlan-Dallas- 2016
———————-
1/– Hai Vì Sao Lạc– Anh Việt Thu
2/- Một Lần Cuối– Hoàng Thi Thơ
3/- Hai Hàng Cây So Đũa -Thơ: Nguyên Huy- Nhạc: Trọng Minh
-
Một Mùa Xuân ất Xa – Thái Nữ Lan
MỘT MÙA XUÂN RẤT XA… –
Thương tặng các bạn sinh viên Huế, và các bạn cư xá Jeanne d’Arc & Xavier của thời vàng son dấu yêu-
Một ngày mùa hè …
Ba chở tôi đến phi trường Phú Bài, Huế, đón cậu em từ Dalat ra để giúp Ba và tôi trong việc làm ăn của Ba. Me và ba em kia vẫn đi làm đi học ở xứ sở sương mù… Gặp lại em Vũ sau nhiều tháng xa cách, thật mừng rỡ… Lúc xưa cả gia đình Ba Me và sáu người con đều quây quần, rồi chị và anh lớn đi xa để tiếp tục việc học, còn lại bốn chị em rất thân nhau. Ôi bao nhiêu kỷ niệm…
Mới mấy năm nay Ba phải ra Cố đô để làm việc, một mình tôi đổi “cấp độ” từ nhỏ đến lớn, bi chừ là “Học Đại” rồi, nên theo Ba được.
Em Vũ mang theo cây đàn tranh cho tôi. Tôi mới học được vài tuần ở Tỳ Bà Viện. Khệ nệ cầm cây đàn, tôi băng qua phòng chờ ở phi trường, rồi lần ra bên ngoài chỗ để xe…Chợt có hai anh lái tàu bay từ bên phi trường quân sự tiến đến, hỏi chuyện…
Có lẽ vì nhìn thấy một con bé với vẻ mặt chẳng có gì là nghệ sĩ mà lại đi chơi loại đàn xưa và rất khó này rồi hai “ông ” ấy tò mò chăng?
Biết chúng tôi ở xứ ngàn thông, các anh rất thích, họ là người dân xứ biển Nhatrang hiền hòa, và thường bay lên đó, họ rất thích thành phố buồn của chúng tôi…
Vài tuần sau, đến lúc nhập học, em tôi phải trở về Dalat, còn tôi thì vào cư xá “để học cho yên” – Ba bảo như rứa…
Vài ngày sau khi đi học, một anh tài xế máy bay ấy, anh Quang, đã đến cư xá và xin “sơ”(soeur) trông coi phòng khách để gặp tôi.
Tôi chưa gặp anh Quang được, vì tôi chưa thưa chuyện với Ba Me tôi. Anh ấy ra về… Vài ngày sau, tôi nhận được lá thư của anh gởi từ Nhatrang… Tôi đã đưa thư cho Ba đọc, (tự tôi cảm thấy cần cho Ba đọc, vì Ba đâu có cấm cản chi mô?) Ba nói lời thư có vẻ chân thành, nhưng ” chưa biết con ạ, các anh ấy thường rất bay bướm”,…nếu anh ấy muốn gặp con ở cư xá, con có thể nói chuyện (vì Ba biết trong phòng khách, luôn có sơ làm việc giấy tờ), và con có thể trả lời thư…
Nhiều tháng trôi qua… Anh thường có dịp phải bay ra Huế, có lần anh và bạn đều lái trực thăng vòng vòng quanh sân trường của tôi. Trời ơi! Cứ bay vần vũ quanh quanh như rứa…Thầy Cô và bạn bè không hiểu chuyện gì đang xảy ra..! Chỉ có Kim Thoa & Ngọc Quỳnh ở cùng phòng cư xá với tôi biết là ai thôi : “Răng mà anh nớ gan cùng mình ghê luôn”!
Rồi còn đi với bạn để đón tôi lúc tan trường… tôi luôn đi với cô bạn thân Kim Thoa, anh ấy cũng luôn có thêm một người bạn đi cùng…
Muốn độn thổ luôn, trời ạ! Hai ông lính thuộc loại dữ dằn, mặc áo bay, đi kèm với hai con bé “chưa lớn”, làm chúng vừa đi vừa nép vào nhau, che mặt mình không hết, cả trường ào ra như ong vỡ tổ,…ai đi xe ra cũng ngoảnh mặt lại nhìn xem hai “con” nào mà ghê gớm rứa hè..?
Thôi thôi bước đi cho nhanh cho rồi…làm hai ông phải la lên: “Hai cô làm gì mà như bị ma đuổi vậy?”
Tôi phải cằn nhằn: -” Sao anh muốn đến trường mà không nói trước, để bây giờ … làm sao mà trốn đây? Ngày mai vô lớp học thì chịu sao cho thấu?
– Thì Thanh Lan cứ bảo là: ông anh ở Nhatrang đi công tác ra thăm em thôi mà, có gì nghiêm trọng đâu?…”
Sau này tôi mới biết, anh ấy lúc nào cũng vậy, những việc gì nguy hiểm, kinh khủng…tất cả đối với anh đều … nhẹ “như lông hồng”… Có lúc thì tốt, nhưng có khi lại không tốt đâu nhe!
Ngày thường thì chúng tôi vừa rảo bước vừa nhìn ngắm cảnh thơ mộng của kinh đô các “mệ” ngày xưa, nhìn qua con sông với cầu Trường Tiền nên thơ, hàng cây Phượng vỹ đến mùa hè nở đỏ rực cả một góc trời…ở xa kia là núi Ngự Bình,.. Ngắm hoài không chán.. Nhưng hôm nay hai đứa chỉ cúi mặt mà chạy, không dám nhìn ngang ngửa chi hết…
Hai anh chỉ đưa chúng tôi về cư xá, vì chúng tôi không đi ra quán uống nước với các anh, xứ Huế rất cổ kính, và cổ hủ về phong tục, nên chúng tôi rất ngại…
– Thanh Lan, mai tụi anh lại phải bay đi Pleiku rồi, cho anh nói chuyện với Lan một chút nhé? Bạn tôi lên phòng, anh Hoàng, bạn của anh Quang bảo anh ấy ra quán càphê gần đó đợi …Anh Quang vô phòng khách nói chuyện với tôi một chút, anh hỏi thăm tôi về việc học, về các em,.. rồi dặn tôi nhớ trả lời thư cho anh, khi nào mùa hè tôi về xứ sương mù, có dịp anh sẽ bay lên để thăm Me và các em, rồi sang năm học tới anh sẽ ra đây thăm Ba tôi.
Sang hè, khi tôi về Dalat nghỉ vài tuần, anh ấy đến nhà và nói chuyện với Me và các em tôi. Có một hôm, em tôi mới đi lấy hình chụp cả nhà về, và để trên bàn phòng khách, tôi chưa kịp cất, anh ấy đến, và muốn xem. Anh chọn một hình chân dung của tôi, và nói rằng kỳ này các anh sẽ đi Bảo Lộc, sẽ có giờ rảnh, anh muốn vẽ hình tôi…Ít lâu sau tôi nhận được một bức hình vẽ bằng bút chì rất đẹp,..tôi lại biết thêm một tài năng của anh ấy…
Sau này anh vẽ hình các con, chắc là tuyệt lắm nhỉ? (ôi, lại mơ mộng hão huyền nữa rồi, cô bé ạ)
Anh đưa cho tôi tập thơ “Ta Chờ Em Từ Ba Mươi Năm” của thi sĩ Vũ Hoàng Chương…
Không biết lúc đó anh bao nhiêu tuổi nhỉ?
1975…
Vài tháng thư từ, độ này anh không bay ra Huế nữa…
Tháng 3… Người dân Huế vẫn chưa hết đau thương với Mậu Thân 1968, nay lại lảo đảo chồng chất trên những chiếc xe đò lớn nhỏ để vô Đà Nẵng, có xe traction ngày thường chỉ chở được 5 người, nay chất thành 8, 9, 10 người,.. rồi những xe minivans thì nhét như cá hộp…
Vô Đà Nẵng cũng không yên,… lại ùa nhau ra phi trường, ra bến cảng … Tôi cùng gia đình người bác ruột lênh đênh trên biển cả một tuần, (Ba đã đi nước ngoài vì công việc, sắp về lại). Suốt một tuần lễ, lênh đênh cũng mây nước, tôi không biết giờ này Ba Me tôi ở đâu, các anh chị em có được bình an không…Bảy ngày , mà dài như bảy năm, buổi tối dài lê thê, không thể nào chớp mắt với sóng biển dập dềnh, ban ngày thì khô rát, nóng cháy….. rồi anh Quang ơi, gia đình anh có được an toàn không, anh đang ở đâu, cầu mong sao anh làm tròn nhiệm vụ người trai thời loạn, như bậc cha anh, nhe anh,..dù cho có hy sinh cũng không màng, anh ơi,..
Xà lan cặp bến Vũng Tàu… Rồi lên Saigon…
Đến được nhà anh chị tôi, thật mừng rỡ biết bao khi gặp lại gia đình anh chị cùng Ba tôi vừa mới trở về được vài hôm, và Me cùng các em đang đi xe đò từ Dalat xuống đây..
Một buổi trưa, Hòn Ngọc Viễn Đông, trời nóng như thiêu… em Vũ , – lại cũng cậu em “xe tơ” này, – chở tôi đi Honda trên đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận, đến đường ray xe lửa, đèn đỏ…nhìn qua con đường đối diện,… thấy anh Quang!
Ôi, phải chăng đây là ý trời…? Nhiều tuần nay không được tin tức… nay được gặp lại anh…
Buổi tối, cuối tháng 4, anh Quang đến nhà anh tôi ở Quận 5,… gặp BaMe tôi (lúc đó cả gia đình đều về nhà anh Chung của tôi), và xin cho tôi được bay đi đảo Guam, xứ Cờ Hoa, với anh cùng đồng đội. Tôi không chịu, vì đi như vậy, biết có gặp lại Cha Mẹ anh chị em được không, với lại đã cưới hỏi gì đâu…?
Vài tháng sau… Gia đình anh, sau khi ở tạm nhà bà con ở Saigon ít lâu, đã trở về miền Thùy Dương..
Tôi theo Ba về Nhatrang để thăm người Cô ruột, chị của Ba.
Tôi được đi ra biển với anh, một buổi chiều…sóng thật lớn…
Suốt bao nhiêu tháng quen nhau, đây là lần đầu tiên tôi đi ra ngoài với anh..
Tôi luôn yêu thương thành phố biển này, ngày xưa cả gia đình thường được Ba chở đi nghỉ hè, cả mấy chị em tôi đều rất mê biển, cát, và sóng… Cả anh và tôi đùa nghịch với cát, nắm cát vào tay, bỏ vào tay đứa kia, nhưng không giữ được, chúng lại tuôn ra…Đi dạo, rồi chạy đuổi nhau ở mép biển, vừa nước vừa cát,..ôi hạnh phúc làm sao…! Đứng nhìn mặt trời lặn, sao đáng yêu quá, tôi luôn yêu cảnh mặt trời mọc hoặc lặn, nhưng sao hôm nay đẹp lạ thường… “Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ”, nhưng Người vui thì cảnh lại quá thơ mộng…
Hạnh phúc ơi…!
Lúc đưa tôi về nhà Cô tôi, anh đưa tôi một tấm thiệp, hình bầu trời đầy sao, và bên dưới là một cô bé đang nhìn lên …
Bên trong
” Người là vì sao nhỏ bé
Ta mãi ước cho lòng làm bầu trời xanh xanh
Người về lòng ta thương nhớ
Ta khẽ hỏi đưa người hay thầm người đưa ta…” *(1)
Hôm sau, anh đến nhà thăm Cô và Ba tôi… và xin phép đưa tôi đi dạo một vòng..
Những đường phố xứ biển quá đẹp, với từng hàng cây Phượng vỹ, vẫn còn đỏ rực hoa mùa hè muộn, cây trứng cá với trái nhỏ đỏ li ti thật xinh và những hàng dương liễu dọc theo bờ biển, thơ mộng làm sao…
Anh đưa tôi lên tượng Phật Bà thật uy nghi trên đỉnh đồi Trại Thủy, đứng trên đỉnh đồi nhìn xuống thành phố thật đẹp… – đã in trong trí tôi bao nhiêu năm nay, bây giờ mỗi khi ngủ tôi vẫn thường nhớ lại cảnh tượng nên thơ này – Tôi rất thích tìm những cọng hoa mắc cỡ ( Trinh nữ), rồi đụng vào lá cho chúng khép lại, và nói với anh: – “Anh ơi, mai sau anh trồng hoa mắc cỡ phía sau nhà mình để em chơi như thế này nhé anh?” Anh cười, chắc có lẽ chịu thua cái con bé lớn mà chẳng lớn chi hết này!
Sau khi đi một vòng, đến dưới chân bức tượng Phật, anh cầm tay tôi, nhìn vào mắt tôi thật lâu, và nói
– “Bé chờ anh nhé, bé ơi?”
Tôi thật nghẹn ngào, mãi lúc sau mới nói được: -“Em sẽ là Hòn Vọng Phu, nếu anh không trở về…”
………………..
Phút giây hạnh phúc như bóng câu qua cửa sổ..
“Anh vuốt tóc em, một lần cuối, một lần cuối cùng, rồi thôi….
Anh hốt trăng thanh, trên áo em xanh, một lần cuối, như những lần đó xa xôi“….*(2)
Đến ngày Ba và tôi trở về xứ Ngàn Hoa, còn anh thì đi …biền biệt… đến bao giờ?
…………….
Trại tù…
Anh viết : “Mỗi kỳ trăng tròn, anh thường nhìn lên ánh trăng, để tìm ánh mắt em phản chiếu trong đó, Ti ơi…Anh nhớ em quay quắt… nhớ đôi mắt thật buồn của em, bé ơi …”
Thăm nuôi…
“Em ngậm ngùi khóc thương
Thương anh đợi mòn mỏi
Hờn căm ngút đoạn trường– ” *(3)
…………………
…Ngày anh Trở về…Mừng mừng tủi tủi…
Kể làm sao cho xiết…
Rồi ngày được định cư ở bến bờ tự do…
Ba ơi, cái ông tài xế máy bay ni không có bay bướm chi hết, Ba à…
Bao nhiêu mùa Xuân đã đi qua… Anh và em đều mong ước một mùa Xuân được trở về, để đến những nơi chốn của thuở vàng son ấy…
&&&&&&&&&&&&
Đất Mẹ, ngày trở về, để đón mùa Xuân như ước mơ, nhưng chỉ có các con và em … Anh đã ra đi…
Saigon, Dalat, Huế…Và sân bay Phú Bài.
Tất cả đã không còn như xưa… Ngôi trường mến yêu, những con đường thân thương …
Nhưng đối với anh và em, vẫn thật đáng quý, những nơi tràn ngập kỷ niệm dấu yêu, kể cho con nghe… Thương quý nhưng nghẹn ngào làm sao…
Và Nhatrang, sóng biển và cát….
Hôm nay ngày rằm cuối năm, trăng sáng vằng vặc, em lại nhìn lên ánh trăng, tìm đôi mắt của anh, như ngày xưa mắt anh và em nhìn nhau trên đó anh ơi …
Ngày mai em sẽ đưa các con lên đồi Trại Thủy, nơi có tượng Phật Bà, và kể cho con nghe về cái ngày xa xưa yêu dấu ấy, anh ơi…Bây giờ em không thể làm Hòn Vọng Phu để chờ anh được nữa rồi, em còn bổn phận với con cháu..
Anh đang ở đâu hở anh
Anh Quang ơi, từ nơi xa ấy, anh có cùng mẹ con em đi thăm lại những con đường có lá me bay, những đồi thông con suối, không anh…
Một mùa Xuân trọn vẹn của anh và em, sẽ không bao giờ có được…
……………….
Trong phòng của mình, vẫn còn bức chân dung ngày xưa anh đã họa lại hình em đó, Quang ơi… Và chiếc áo bay ngày nào của anh vẫn ở bên em…
Những tưởng yêu thương đến trọn kiếp
Mong sẽ trăm năm cùng bạc đầu
——
Vầng trăng xưa, ngươi có nhớ gì không?-
Vũ Hoàng Chương- Ta Đợi Em Từ Ba Mươi Năm
TháiLan/nữlan-Dallas- 2016
———————-
1/– Hai Vì Sao Lạc– Anh Việt Thu
2/- Một Lần Cuối– Hoàng Thi Thơ
3/- Hai Hàng Cây So Đũa -Thơ: Nguyên Huy- Nhạc: Trọng Minh
-
TRUYỆN DỊCH: Chỉ Cần Nhìn Thôi Cháu Ơi! Dịch Giả THÁI LAN.
CHỈ CẦN NHÌN THÔI CHÁU ƠI- MONE DOMPNIER -1159 chữ
*
– Bà ơi, năm nay bà nhiều tuổi rồi. Bà sắp đi theo ông rồi phải không bà? Cháu không muốn bà đi đâu bà ơi. Rồi sau đó cháu sẽ không được nhìn thấy bà nữa, và cháu sẽ rất buồn, bà ạ.
Trả lời như thế nào cho một cô bé bảy tuổi, đôi mắt long lanh ngấn lệ, đang phải đối mặt với nỗi lo sợ về sự ra đi, sự chia ly, không thể tránh được, và vĩnh viễn đây? Câu trả lời vụng về có thể làm cho bé bị tổn thương, khiếp sợ. Làm thế nào để trấn an bé đây?
A, hay là…
– Charlotte cháu cưng của bà, cháu nghe câu chuyện này nhé:
Ở một nơi nào đó trong Vũ trụ, xa thật xa, xa hơn cả những vì tinh tú mà cháu vẫn thấy sáng rực trên bầu trời mỗi buổi tối, có một cái hồ vô cùng rộng lớn, chứa nước thật trong sạch và thật tinh khiết giống như nước trong hồ trên núi của ta đây. Từ cái hồ đó, có một nguồn nước vừa tuôn chảy ra vừa hát ngân vang trên đá cuội, và rồi bỗng dưng chia làm hai con suối nhỏ. Và ở nơi đó, bên cạnh những con suối, có những linh hồn đang ẩn nấp để chờ đợi đến lúc ngự trong thân thể các em bé được sinh ra mỗi ngày trên khắp thế giới. Khi đến lúc phải ra đi để xuống Trái Đất, mỗi linh hồn sẽ phải uống nước từ hai con suối ấy. Nước của một con suối là nước của sự khôn ngoan, còn nước của con suối kia là của tình yêu. Nhưng các linh hồn sẽ không uống cùng một lượng nước từ suối này hoặc suối kia. Hai cái cốc để uống thì luôn luôn có kích cỡ khác nhau. Đôi khi, một linh hồn nhận một cốc lớn nước khôn ngoan và một tách nhỏ xíu nước tình yêu để uống. Hoặc có trường hợp thì ngược lại. Như thế, có vài em bé sẽ trở thành người lớn rất thông minh, họ sẽ thực hiện nhiều cuộc phát mình vĩ đại, thí dụ như những phương thuốc để chữa bao nhiêu bệnh tật. Còn những người khác, khi đã uống nhiều nước tình yêu sẽ hoàn thành được rất nhiều điều tuyệt vời chung quanh họ. Và trong mỗi con người của chúng ta, sẽ vừa có sự thông minh và tình yêu, có khi điều này nhiều hơn, có khi ít hơn điều kia…
– Nhưng mà ngoại ơi, như thế thì không công bằng tí nào cả!
– Này nhé, Charlotte cưng yêu của bà, cháu nghĩ thế nào nếu một thế giới mà chỉ có một loại cây, thí dụ như chỉ có toàn cây thông*1/? Thế thì chúng ta không thể biết đến cây sồi, cây liễu, cây thông rụng lá **2/, cây phong và bao nhiêu loại khác nữa. Rồi hoa nè ? Cháu có thích trên cánh đồng chỉ toàn hoa cúc dại (xuyến chi) không? Sẽ không bao giờ có hoa khuy vàng, hoa thủy tiên cả? Không có hoa anh túc trên cánh đồng lúa? Không có hoa phi yến trên sườn dốc, dọc theo những con đường? Còn trong vườn thì chẳng có bông hoa hồng nào cả? Nếu mọi thứ đều như thế thì thật là đơn điệu và chán ngắt! Cháu thấy không, và đối với loài người, thì cũng giống vậy thôi cháu ạ: cái đẹp là ở trong sự khác biệt. Điều quan trọng, đó là mỗi người biết xử dụng cách tốt nhất những năng khiếu mà họ sở hữu. Nhưng nè cháu, cháu hãy nghe phần tiếp theo của câu chuyện nhé…
Một khi ta đã sống hết quãng đời của ta, thì thân thể của ta phải tan đi, cháu biết rồi đó, nhưng mà linh hồn của ta, cái linh hồn ấy, nó lại trở về suối nguồn của nó. Rốt cuộc thì nó được men theo con đường sẽ đưa nó đến cái hồ, và ở nơi đó, lần đầu tiên nó sẽ đến trước cánh cửa mở ra phía thung lũng thần tiên.
Đôi khi cánh cửa chưa mở ra ngay tức khắc, bởi vì không phải lúc nào linh hồn cũng biết cách để gieo rắc sự thông minh và tình yêu của nó trên Trái Đất, thế nên nó phải chờ ít lâu thì mới có thể đi đến cái hồ được.
Nhưng rồi cũng có những linh hồn phải chờ đợi rất lâu để vượt qua khỏi cánh cửa và đến được hai bên bờ của cái hồ, đó là những linh hồn đã xử dụng không đúng sự khôn ngoan mà con suối đã giao cho chúng, hoặc là cũng có những linh hồn đã quên bẵng rằng chúng còn phải trao tặng tình yêu nữa.
Nhưng nếu linh hồn đã hoàn thành mỹ mãn công việc được giao phó dưới Trái Đất, thì tất cả cửa ngõ đều được mở ra. Linh hồn sẽ xâm nhập vào bên trong quang cảnh tuyệt diệu ấy, nơi đó có những bông hoa xinh đẹp nhất, và đó là nơi sinh sống của những con vật dịu hiền nhất, và bây giờ nó sẽ uống cho hết cơn khát, uống nước thần diệu của hồ, nước của sự khôn ngoan và nước của tình yêu, uống cho thỏa thích. Ở nơi này, sẽ không còn sự lãnh đạm hoặc hận thù nữa, không còn chiến tranh, và cũng không có sự thiếu hiểu biết! Linh hồn sẽ sống trong niềm hạnh phúc vĩnh cửu bên cạnh tất cả những người mà nó từng yêu mến khi còn ở dưới Trái Đất và họ đã đến trước ở Khu Vườn Vũ Trụ. Và linh hồn ấy sẽ chiếu rực rỡ bằng muôn vàn tia sáng trên bầu trời.
Và thế là, đến một ngày, khi linh hồn của bà cất cánh bay xa, bay đến tít một nơi nào đó trên vòm trời lấp lánh muôn ngàn tinh tú, vào buổi chiều tối, thì cháu sẽ thấy một ngôi sao, và ngôi sao ấy sẽ chỉ lấp lánh cho mỗi mình cháu của bà thôi. Và sao đó sẽ nói với cháu rằng: bà đang ở đây này, bà nhìn thấy cháu…và bà rất yêu cháu, cháu cưng à.
Đôi mắt của con bé con đã ráo hoảnh. Và nụ cười đã trở lại trên môi bé.
Và đó là điều quan trọng nhất.
Mone Dompnier – tháilan dịch
GHI CHÚ
*1/-Cây thông (Giáng sinh)- sapin: nhánh lá kim dài, màu xanh lá đậm, lá rời ra, lá kim không rụng, và cây sống ở nhiều địa hình khác nhau-
**2/-Cây thông rụng lá (mélèze): lá kim của chúng nhỏ, màu xanh lá nhạt, mọc thành chùm, chúng sẽ trở nên vàng úa, rơi rụng vào mùa thu, và chỉ sống trên núi-
***************************************
MỐI HIỂM NGUY LÚC NÀO CŨNG TỪ PHÍA SAU ĐẾN– 1648 chữ
Pierre-Hervé THIVOYON – (SHORT EDITION)
Mười tuổi. Ngày 22 tháng 7, 2011, Ba và con chúng ta đã ăn mừng sinh nhật của con. Ngày hôm đó, Ba đã đánh thức con bằng cách vặn nhạc lên, như Ba vẫn thường làm mỗi buổi sáng, để rồi sau đó Ba chở con đến trường. Ba đã tiết lộ cho con biết rằng trong gia đình của Ba, truyền thống không cho làm việc hay học hành ngày mà ta lên mươi tuổi. Thế là Ba dứt khoát cấm con không được học trong suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ đó. Con đã hét lên vì sung sướng.
Cha con mình đã đi dạo bằng xe đạp thật xa dọc theo hồ Tyrifjord *. Theo lời Ba thì màu xanh dương và xanh lục của mắt con đương nhiên là màu của cái hồ. ” Con là một pháp sư về mắt”. Con đã cười phá lên. Sau đó Ba và con, mình đã sửa soạn một bữa tiệc, y hệt như ông nội đã soạn rất công phu ba mươi bảy năm trước, vào một ngày thứ ba của tháng mười hai. “Suốt đời con, sau này con sẽ nhớ mãi cái ngày hôm nay, cũng như cha đã từng”. Ba đã thốt ra những lời như thế một cách trang trọng, tay đặt trên vai con. Và thật vậy, đó là một ngày không thể nào quên được…
Ba và con, hai cha con mình đã cùng nhau đi chợ, chọn lựa kỹ càng nguyên liệu cho món bánh cuộn cá hồi nấu với táo và nhân sâm rất tuyệt của ba. Con đã hỏi Ba về nhân sâm. Ba trả lời rất đơn giản: “Đó là một loại cây cho con sức mạnh”. Rồi ta cắt những phần thịt lườn của cá tuyết, nhẹ nhàng khéo léo đặt lên một lớp cà chua và táo dầm dấm. Và nói về táo nữa, đó là trái cây mà Ba luôn yêu thích: “Loại trái rất đơn giản và không thể thiếu được”. Cũng giống y hệt như Ba vậy. Ba đã mang đĩa thức ăn bốc khói để trên cái bàn gỗ, và phục vụ con như thể một ông vua, “vua của núi rừng”, như Ba luôn thích gọi con như thế. Rồi con đã cắn một cách thích thú để tận hưởng miếng bánh bông lan uớp quế thật dày của Ba, bánh được phết nhiều kem hơn bao giờ hết. Con đã biểu lộ niềm vui thích của con một cách ồn ào, và Ba là người luôn yêu thích tĩnh lặng, đã nói với con rằng ngày hôm đó là ngày của con và con có quyền làm tất cả những gì con muốn.
Các bạn của con, ai cũng có cha và mẹ, con thì chỉ có Ba thôi, tuy nhiên điều đó đối với con cũng bình thường Ba ạ, con chưa bao giờ biết mẹ là ai. Sau bữa ăn hôm đó Ba đã đến đảo Utoya. ” Còn Ba thì hôm nay đâu có phải là sinh nhật của Ba đâu!” Ba phải đến sớm để lo sắp đặt mọi thứ cho những bữa ăn vào tuần sau. Một đám người khác lại đến đó, việc này làm cha con ta phải xa nhau. Con không hiểu những nhóm người ấy đến đảo để làm gì, nhưng mỗi lần Ba đến đó con đều nói với Ba là họ đã rất may mắn khi Ba là người đầu bếp của họ.
Hôm đó là lần đầu tiên con đã chờ đợi Ba một mình trong suốt nhiều giờ trong ngôi nhà ở Sollihogda của chúng ta, và phải theo lệnh của Ba là không được ra khỏi nhà và sứ mệnh của con là làm tất cả những điều con yêu thích, cho đến khi Ba trở về. “Bây giờ con đã được mười tuổi rồi, con có thể ở nhà một mình”. Niềm tự hào giữa Ba và con đó, Ba ạ.
***
Ba đã đi tàu con thoi ở biển. Tất nhiên là Ba đã đến chào Fredrik, ông bạn thời thơ ấu của Ba, người mà đối với Ba và ông ấy, hai người chỉ cần nhìn nhau và gật đầu chào nhau cũng đủ để thấu hiểu nhau. Có thể hôm đó Ba nói chuyện với ông ấy nhiều hơn bình thường, hứng thú vì phấn khởi, kể về buổi tiệc giữa hai cha con mình. Rồi sau đó Ba đã bước đi hai trăm thước về phía toà nhà chính, nơi có phòng bếp của Ba.
Vụ nổ súng đã xé nát tất cả. Sự yên lặng, thân thể của Ba, cuộc đời của Ba và con. Một viên đạn đã xuyên vào bên dưới lưng của Ba, lúc đầu làm cho Ba tê liệt, rồi sau đó cắt đứt sự sống của Ba, hai giai đoạn nhanh như chớp để rồi kế đến là Ba ngã sụm xuống, nặng nề, trên nền đất khô. Ba đã trải qua hai giây để ngã xuống. Còn con thì phải đến mười năm mới ngóc đầu lên để trở lại bình thường.
Vào lúc chiều tối, Fredrik đã đến nói chuyện với con. Đôi mắt của ông ta đỏ. Hôm đó trời đâu có lạnh chút nào đâu. Con đã nói với ông ấy như vậy. Con không hiểu ông ấy nói gì, cho dù ông đã nói rất rõ ràng: “Cháu hãy đến đây với bác, cha của cháu đã chết trong vụ thảm sát rồi”. Con đi theo ông ấy, không nói lời nào, chỉ trở lui vô nhà để đem theo miếng bánh còn sót lại, như là một mảnh cuối cùng của Ba.
***
Fredrik đã chăm sóc con. Ông ấy rất ít nói. Và con, kể từ hôm đó con cũng trở nên im lặng. Cả hai đều cố gắng trong khả năng của mình để sống.
Lúc đầu con đã muốn xoá hết những vết tích của Ba, xoá những bước chân của cha con mình, từ xưa đến giờ đã hoà lẫn vào nhau. Giống như một con thú bị truy đuổi tìm cách trốn thoát một kẻ săn mồi nào đó con cũng không biết. Mối hiểm nguy lúc nào cũng từ phía sau đến, còn con thì nhìn vào phía trước, mà còn chẳng thấy Ba đâu. Ba không thể có mặt ở phía trước con.
Ngày còn lên mười ba tuổi, ông ấy cứ nhất định muốn cho con xem điều gì trong vườn nhà của Ba. Căn nhà trống trơn, nhưng ông ấy vẫn bảo dưỡng với đầy nghĩa tình. Mục đích của ông ấy là gì? Lâu lắm con mới hiểu ra rằng việc ấy là để cho con có thể đến sống ở đó lúc nào con quyết định muốn đến. Gần nơi để phân ủ, một cái cây cao dần lên, và có một quả đầu tiên đang lớn dần. Một trái táo. Chỉ là một trái táo rất đơn giản, con nghĩ quả này là từ những hạt táo đã được vãi ra vào ngày còn được mười tuổi. Một trái táo đã dẫn đường cho con đi. Thế là từ đó mỗi năm con đã trồng những hạt mới trong khu đất bên cạnh căn nhà, một khu đất mà hôm nay đã trở thành khu trồng táo của con. Vườn cây ăn quả của con.
***
Mười năm, đó là thời gian con cần đến để những điều Ba gieo trồng trong con được tăng trưởng. Sức mạnh của cuộc sống, mà Ba đã có thể giữ được sau khi mất đi bao nhiêu người thân và Ba đã giao cho con cho đến mãi ngày sau. Sự đơn giản. Khả năng có thể loại bỏ đi những tình cảm có thể làm tổn hại đến con. Đương nhiên là con luôn bị cái khó khăn của hận thù xâm chiếm tâm hồn. Nỗi buồn phiền đã làm cho con ngụp lặn trong ấy và có thể làm cho con bị chìm đắm. Nhưng rồi con đã nhớ đến câu nói tuyệt vời của Ba: “Nếu Ba muốn khóc, Ba đi ăn táo và uống rượu”. Đó là nguyên lý thừa hưởng từ bà nội, bà cũng quả quyết rằng: “Coi chừng nước đó, có quá nhiều người bị chết đuối rồi”. Buổi tối sau khi làm tiệc sinh nhật mười tuổi của con, Ba định cho con biết về sự thật vì sao mẹ con qua đời, sau khi sự việc xảy ra. Tai nạn. Con thuyền bị va đập. Từ phía sau. Con đã được cứu thoát vào giây phút cuối. Nhưng mẹ thì không. Fredrick có trách nhiệm phải giải thích cho con về tất cả sự việc ấy, bằng lời lẽ vụng về và ít ỏi.
Hai mươi tuổi. Hôm nay con được hai mươi tuổi, và con đã chuyển đến nhà của Ba rồi. Sáng nay con đã đánh thức Fredrik và báo cho ông ta biết rằng con đã về nhà của con. Ông ấy mỉm cười và đã đến ăn cùng với con món bánh cuộn cá hồi nấu với nhân sâm và táo, ăn lườn cá tuyết bày trên một lớp cà chua và táo dầm dấm, rồi bánh bông lan táo uớp quế, phết rất nhiều kem.
Con đã nói: “Cám ơn, Fredrik, cám ơn về mười năm đã qua”. Ông ấy cười, đôi mắt xếp nếp nhăn và ẩm ướt. Chỉ có vậy thôi.
++++
CHÚ THÍCH
Vào ngày 22 tháng 7 năm 2011, cánh hữu cực đoan Anders Breivik đã đặt một quả bom ở thủ đô Oslo, giết chết tám người, trước khi tiến đến hòn đảo Utoya nhỏ bé, nơi hắn rình rập và bắn chết 69 người, phần lớn là thành viên thiếu niên thuộc cánh thanh niên của Đảng Lao động.
******************************************************
NGON-LUA-BENGALE-VNFrcs-2columns-1-1
-
CHUYỆN DỊCH: Lời Hay Ý Đẹp – THÁI NỮ LAN
1/- NHỮNG ĐIỀU KHÔNG NÓI RA SẼ LÀM HẠI TA…
Bạn có biết những điều không nói ra sẽ đi về đâu không?Điều gì bạn muốn làm nhưng đã không thực hiện sẽ đi đâu?Những cảm giác bạn tự kềm chế sẽ trôi đi đâu?Ta mong muốn biết bao những việc này sẽ đi vào lãng quên, nhưng bạn biết không, những điều không nói ra sẽ chất chứa trong chúng ta và làm cho tâm hồn ta tràn đầy tiếng kêu thầm lặng. Những điều không thổ lộ biến thành nỗi trăn trở, thành nỗi đau đớn. Những điều không nói ra biến thành nỗi luyến tiếc, thành giờ khắc lặng trôi. Những điều không nói ra trở thành bổn phận, thành nợ ơn. Những lời nói không được thốt lên sẽ chuyển biến thành sự tước đoạt, thành nỗi buồn đau, thành sự bất bình.Những điều không nói ra sẽ không tự nó biến mất, mà trái lại giết hại chính ta..
Nguồn: lesmotspositifs– TháiLan dịch
********
2/- NHỮNG PHÚT GIÂY HẠNH PHÚC: 1. Có được Tình Yêu.2. Cười đến thắt cả ruột. 3. Khi trở về từ kỳ nghỉ tiền hè nhìn thấy một núi thư từ.4. Lái xe đến một nơi ngập tràn phong cảnh tuyệt đẹp.5. Bất chợt nghe được bài hát yêu thích trên sóng phát thanh.6. Nằm trên giường lắng nghe tiếng mưa rả rích.7. Quấn mình vào tấm khăn nóng ấm khi vừa từ bồn tắm ra.8. Thành công vào kỳ thi vừa qua. 9. Tham gia vào một cuộc bàn luận quan trọng.10. Tìm được tiền trong túi quần từ lâu không xử dụng. 11. Thưởng thức bữa ăn ngon với bạn bè 12. Vô tình nghe được người khác khen mình13. Thức giấc nửa đêm và nhận ra rằng mình còn có thể ngủ thêm được vài tiếng nữa.14. Nghe được bài hát gợi nhớ một người.15. Nhận và trao nụ hôn đầu tiên.16. Tim rộn ràng khi gặp lại người xưa.17. Nhìn thấy những người yêu thương ngập tràn hạnh phúc.18. Quàng trên vài chiếc áo của người yêu còn vương mùi nước hoa của họ19. Đến thăm người bạn cũ và nhận thấy rằng tình bạn xưa vẫn không phôi pha20. Nghe lời yêu thương từ người ấy. ===============
Bạn tốt sẽ đến với ta khi ta gọi họ,và khi ta khốn cùng.. họ tự đếnNguồn: vôdanh – TháiLan dịch
==================
3/-HƯƠNG VỊ CUỘC SỐNG
Trong suốt cuộc đời tôi, có một thứ gia vị rất hiếm, tôi tìm được một cách thật bất ngờ,Thậm chí tôi cho rằng do Thượng Đế ban phát.
Chất bột mầu nhiệm ấy thay đổi đời sống hàng ngày của tôithành tia mặt trời mỗi khi được rắc lên một vấn đề nan giải,một phương cách tìm ra quyết định
Và tôi là kẻ may mắn phi thường đã sở hữu đượcchất màu nhiệm ấy!
Nhưng khi tôi phải vượt qua những chặn đường gian nan,Khi cái thường nhật khiến tôi đau đớn,Khi mọi thứ đã quá sức chịu đựng, và tôi cần đến lòng can đảm và nghị lựcĐể đối mặt với một ngày mới sắp khởi đầu
Và mọi việc vẫn phải được tiếp diễnCho dẫu thời gian làm gián đoạn,Lúc ấy chất gia vị mầu nhiệm của tôisẽ đến làm tăng hương vị cho chuỗi ngày của tôi để tôi có thể hiểu biếtvà lắng nghe một cách tích cực.
Hương thơm của chất ấy trợ lực cho tôi, sức mạnh của hương vị dìu dắt tôi,mùi vị thầm lặng ấy bảo vệ tôi.
Lời chúc tuyệt vời nhất tôi có thể gởi đến bạnđó là tìm được chất bột kỳ diệu ấy,và đem truyền bá cùng với tình yêu thương.Hương vị cuộc sống ấy được mang tên:
“Tình bạn”
Nguồn: Louise B.Giroux – TháiLan dịch
=====
4/- LÀM GƯƠNG CHO TRẺNếu chung quanh đứa trẻ toàn là chê bai chỉ trích…Nó sẽ học cách chê trách.
Nếu như em sống giữa những thù hận gây hấn…Nó sẽ học cách khiêu chiến.
Chung quanh em chỉ là lời chế giễu…Em sẽ học tính rụt rè.
Nếu quanh em toàn là điều hổ thẹn…Em sẽ học cách cảm thấy tội lỗi.
Nếu em ở giữa lòng khoan dung…Em sẽ học cách nhẫn nại. Nếu quanh em toàn là cổ vũ khích lệ…Em sẽ học cách hành động.
Quanh em đầy những tán tụng khen thưởng…Em sẽ học cách ngợi khen.
Sống giữa những người trung thực…Em sẽ học ứng xử công bằng.
Nếu em luôn được bảo bọc an toàn…Em sẽ học cách tin tưởng.
Nếu em gặp toàn là sự tán thưởng…Em sẽ học cách chấp nhận con người của mình.
Nếu quanh em toàn là tình bạn thân thiết…Em sẽ học cách yêu thương cuộc đời. Theo Dorothy Law Nolte -TháiLan- NữLan dịch============================
5/- MƯỜI BA ĐIỀU RĂN CHO CUỘC SỐNG
-Khiếm khuyết lớn nhất: Sự Sợ hãi-Ngày đẹp nhất: Hôm nay-Điều dễ thực hiện nhất: Bị Sai sót-Lầm lẫn tai hại nhất: Từ bỏ-Khuyết điểm lớn nhất: Lòng Ích kỷ
-Môn giải trí hay nhất: Công Việc.-Sự phá sản tệ hại nhất: Nản chí-Thầy cô giỏi nhất: Con cái.-Nhu cầu quan trọng nhất: Lương tri-Cảm xúc hèn hạ nhất: Lòng ghen tị-Món quà đẹp nhất : Sự tha thứ-Tri thức rộng lớn nhất : Thượng Đế-Điều đẹp nhất trên đời: Tình yêu.
Bonheur –TháiLan-NữLan dịch
====================6/-TÔI SẼ TIẾP TỤC TIN TƯỞNG, CHO DÙ…
Tôi sẽ tiếp tục tin tưởng, cho dù mọi người mất hy vọng.Tôi sẽ tiếp tục yêu thương, cho dù người khác tôi luyện lòng hận thù.Tôi sẽ tiếp tục xây dựng, cho dù người khác phá hủy.Tôi sẽ tiếp tục nói đến hòa bình, ngay cả khi cuộc chiến đang diễn ra.Tôi sẽ tiếp tục soi sáng, ngay cả khi đang ở trong bóng tối. Tôi sẽ tiếp tục gieo hạt giống, cho dù người khác dẫm đạp lên vụ mùa đang thu hoạch.Và tôi sẽ tiếp tục kêu lên, cho dù người khác im tiếng.Và tôi sẽ vẽ nụ cười lên những gương mặt đầy nước mắt.Và tôi sẽ mang niềm an ủi đến , khi họ đang đau đớn. Và tôi sẽ ban tặng hình thái niềm vui ở chốn đau buồn.Tôi sẽ mời gọi kẻ quyết định ngưng cuộc chơi hãy tiếp tục bước đi…Và tôi sẽ dang đôi tay ra để đón những người nhận thấy mình đã kiệt sứcBởi vì ngay trong cơn sầu não, lúc nào cũng có một đứa trẻ đang nhìn ta, đôi mắt tràn đầy hy vọng, đang trông chờ ta sẽ làm gì cho bé, và ngay cả khi ta đang bị sầu não buồn phiền ray rứt, từ nơi nào đó ánh mặt trời sẽ luôn lóe sáng lên và ngay ở giữa sa mạc khô cháy một cành cây sẽ mọc lên.Bên cạnh ta sẽ luôn có một con chim cất tiếng hát cho ta, một đứa trẻ mỉm cười với ta và một con bướm khoe sắc làm quà cho ta ngắm.
Nhưng..nếu một ngày nào đó bạn thấy ta không còn bước đi nữa, ta không còn mỉm cười hoặc ta trở nên im lặng, bạn chỉ cần đến gần ta và tặng cho ta một nụ hôn, ôm ta trong vòng tay của bạn hoặc chỉ cần bạn cho ta một nụ cười, bạn ạ.Như thế là đầy đủ đối với ta rồi, vì chắc chắn ta quên rằng cuộc đời đã áp chế ta và đã bắt gặp ta như thế trong một phút giây nào đó.Chỉ cần bạn thể hiện một động tác là ta đã có thể quay trở lại con đường ta đang đi..Hãy nhớ nhé… Khuyết danh (ALEXANDRE LECOUILLARD SUU TAM)TháiLan chuyển ngữ=================
7/-CHIẾC QUẦN ƯỚTBạn hãy cùng đến với tôi ở một lớp 3… Có một cậu bé chín tuổi đang ngồi ở bạn học, và bỗng nhiên, kỳ lạ chưa, một vũng nước xuất hiện ở dưới chân cậu và phía trước quần thì bị ướt. Cậu ta nghĩ rằng tim mình sẽ ngừng đập mất thôi vì cậu không thể nghĩ ra tại sao lại có tình huống này. Trước đây chưa bao giờ xảy ra, và cậu biết rằng một khi bạn bè phát giác ra được thì chúng sẽ không ngừng nói về điều ấy. Rồi khi bọn con gái mà biết được, chúng sẽ mãi mãi không bao giờ chơi với cậu nữa.Cậu bé nghĩ rằng tim mình sẽ ngừng đập; cậu cúi đầu và cầu nguyện: “Lạy Thượng Đế, đây là trường hợp khẩn cấp! Xin Ngài hãy cứu giúp con ngay bây giờ ạ! Chỉ trong vòng năm phút nữa thôi là con sẽ chết mất, thưa Ngài”
Cầu nguyện xong, cậu ta ngước nhìn lên và thấy cô giáo đến; ánh mắt của cô cho cậu biết là cô đã phát hiện ra điều ấy. Khi cô giáo bước về phía cậu, có một bạn nữ tên Susie cùng đi với cô và mang một chậu cá kiểng vàng, chậu đầy cả nước. Susie bỗng vấp ngay trước cô giáo và đổ ập chậu nước vào lòng cậu bé một cách khó hiểu. Cậu bé làm bộ tức giận, nhưng trong khi nước đổ vào người, cậu thốt lên trong tâm “ Xin cám ơn Thượng Đế! Xin cám ơn Thượng Đế!”Và bây giờ, bỗng nhiên thay vì là trọng tâm của sự chế giễu, cậu bé trở nên đối tượng của lòng thương cảm. Cô giáo vội đưa cậu xuống phòng thể dục và cho cậu mặc quần soóc trong khi chờ quần dài khô ráo. Tất cả bọn trẻ quỳ xuống và cùng lau dọn quanh bàn học của cậu bé. Sự cảm thông thật tuyệt vời. Nhưng một khi ta tìm thấy điều ấy trong suốt cuộc đời ta, thì sự chế giễu đáng lẽ cậu phải gánh chịu giờ đã chuyển sang người khác. -Susie. Cô bé muốn đến giúp các bạn, nhưng chúng bảo cô bé không cần nhúng tay vào. Bạn đã gây đủ rắc rối rồi, cô bé vụng về ạ!Và, chiều đến, giờ tan học, khi chúng đứng đợi xe buýt, cậu bé đến thì thầm với Susie “ Bạn đã cố ý làm như vậy, phải không?”Susie cũng trả lời nhỏ nhẹ “Tớ cũng đã từng bị ướt quần một lần..”Cầu xin Thượng Đế giúp ta thấy được những sự việc luôn xảy ra quanh ta đúng lúc để ta có thể hành động kịp thời.
****ĐẠO LÝ: Trong suốt cuộc đời chúng ta, ai cũng trải qua những điều tốt và xấu. Ta phải luôn nhớ ta cảm thấy như thế nào trong cùng tình thế như họ và không nên nhạo báng người khác khi họ phải trải qua thời điểm/ hoàn cảnh như thế.Phải luôn luôn cố gắng thông hiểu hoàn cảnh của họ như thể chính bạn đang phải gánh chịu điều ấy và giúp họ trong khả năng có thể, và cầu nguyện Thượng Đế rằng hôm nay bạn có điều kiện để giúp người đang có nhu cầu.
Nữ Lan / Thái Lan chuyển ngữ.(Tài liệu: Moral)==================== -
Người Việt Cao Quý
“Sướng gì hơn sướng làm lành,
Cho bao nhiêu của để dành bấy nhiêu”
Cuộc đời từ chiếc nôi đến ngôi mộ quá lắm cũng chỉ ba vạn sáu ngàn ngày, nhưng thường phải trải qua không biết bao nhiêu là biến cố. Ba mươi năm đầu là thời gian học hỏi để nên người. “Tam thập lập thân”, cũng là 30 năm sinh tử của cuộc đời, thành bại sau này đều bắt đầu từ những năm trưởng thành của cuộc sống. Những năm đầu, con người hấp thụ kinh nghiệm của nhân sinh hệ lụy. Tùy hoàn cảnh giáo dục gia đình và học đường mà mỗi người mang một bản sắc khác nhau, người thì nhân từ độ lượng, trọng nghĩa khinh tài, đáng là bậc trượng phu; kẻ thì lòng dạ hẹp hòi, tham tiền bỏ nghĩa, phản trắc, bội tín và phi nghĩa.
Giáo dục đã ảnh hưởng đến sự hình thành tâm tính và quan niệm của con người về cuộc sống. Con người tính bổn thiện nhưng thế thượng thường tình có thể bị tà ma, lợi lộc làm mờ ám lương tri. Do đó cổ nhân đã để lại những nguyên tắc luân lý lưu truyền từ đời này sang đời khác nhằm điều chỉnh thái độ và giúp con người cải tà, quy chánh.
Các nguyên tắc luân lý đó thường được bàn bạc qua văn chương và triết học. Triết lý văn nghệ của các truyện nôm như Phan Trần, Nhị Độ Mai … nêu cao khí phách của con người lý tưởng, đạo đức:
“Trời nào phụ kẻ trung trinh,
Dẫu vương nạn ấy, ắt dành phúc kia.
Danh thơm muôn kiếp còn ghi,
Để gương trong sạch, tạc bia với đời.
Gian tà đắc chí mấy hơi,
Mắt thần khôn dấu lưới tròi khôn dung.
Uy quyền một phút như không,
Xem bằng lứa đá, ví cùng đám mây.” (Nhị Độ Mai)
.
Đức tính truyền thống của con người cao qúy theo truyền thống của dân tộc Việt là con người có Trung, có Hiếu, có Tiết, có Nghĩa đúng theo ngũ thường Nhân-Lễ-Nghĩa-Trí-Tín
“Ai ơi lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước, lánh dè thân sau.
Trai thời Trung, Hiếu làm đầu,
Gái thời Tiết, Hạnh là câu sửa mình.”
Nhưng giữ được cương thường đạo nghiã ở đời không phải là chuyện dễ vì lợi lộc, vinh hoa phú quý có thể mua chuộc lòng người. Ngày trước nói đến chữ Trung có nghiã “trung thần bất sự nhị quân”, làm tôi ngay không thờ hai Chúa, “trung trinh ái quốc một lòng vì dân vì nước”! Ngày nay là trung thành với lý tưởng tự chống loài quỷ đỏ, độc tài CS, dù rằng kẻ trung nghiã đôi khi gặp rủi ro, bị gian thần hãm hại hoặc không được trọng dụng hay bị phụ bạc.
“Từ ngày đi sứ đến Tây Kinh
Thấy việc Âu Châu phải giật mình,
Kêu gọi đồng bào mau thức tỉnh
Hết lòng năn nỉ chẳng ai tin!” (Nguyễn Trường Tộ)
Người trung nghĩa và kẻ phản tặc thường được vạch trần mỗi khi quốc gia lâm nạn. Sau khi quân Pháp đánh lấy Nam Kỳ năm 1862, Tôn Thọ Tường phản quốc ra hàng làm sai cho Pháp. Sĩ phu thời bấy giờ cương quyết chống đối hành vi bất trung của Tôn Thọ Tường. Tôn Thọ Tường làm 10 bài thơ liên hoàn nhan đề là “Tự Thuật”. Đứng đầu môn phái chủ trương “trung thần bất sự nhị quân” là Phan Văn Trị. Phan Văn Trị đã hoạ lại 10 bài thơ của Tôn Thọ Tường.
Sự xướng hoạ đã tạo nên cuộc bút chiến về “Chính và Tà” vào hạ bán thế kỷ 19. Đặc sắc là bài “Tôn Phu Nhân Quy Thục”
“Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng,
Ngàn thu rạng kiếp gái Giang Đông,
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc,
Về Hán trau tria mảnh má hồng.
Son phấn đành cam dày gió bụi,
Đá vàng chi đễ thẹn non sông.
Ai về nhắn vói Chu Công Cảnh:
Thà mất lòng anh được bụng chồng!” (Tôn Thọ Tường)
Tôn Thọ Tường tự thú theo Pháp vì mình như người con gái bán gả cho người ta nên dù mất lòng với vua y cũng theo Pháp:
“Thà mất lòng anh được bụng chồng!”
Phan văn Trị hoạ lại, cho Tôn Thọ Tường không phải là người trung nghĩa vì trai ngay phải thờ chúa, gái mới thờ chồng:
“Cài trâm sửa áo vẹn chữ tòng,
Mặt ngã tròi chiều biệt cõi đông
Ngút tỏa đôi Ngô in sắc trắng,
Duyên về đất Thục đượm mầu hồng.
Hai vai tơ tóc trên trời đất,
Một gánh cương thường nặng núi sông.
Ánh hỡi Tôn Quyền anh có biết:
Trai ngay thờ chuá, gái thờ chồng!”
Phải chăng vì vinh hoa phú quý, chức cao quyền trọng mà Tôn Thọ Tường phải hoá kiếp thành một nhi nữ thường tình.!
Người Việt cao quý
phải là người hiếu thảo với cha mẹ
Hiếu tức là hành vi của người con tốt (hảo tử). Khi cha mẹ còn sống thì hết lòng vâng lời, phụng dưỡng cha mẹ; khi cha mẹ mất thì hết lòng thương nhớ. Đó là hiếu đạo của con cái đối với cha mẹ. Kẻ bất hiếu là kẻ thờ ơ chểnh mảng với cha mẹ khi còn sống, lúc cha mẹ chết thì làm văn tế ruồi! Tục thờ kính Ông Bà Tổ Tiên thể hiện lòng hiếu thảo đối với thân sinh phụ mẫu. Đức Khổng Tử bảo rằng hiếu là “người con thờ đấng thân: Khi đấng thân còn sống thì phụng dưỡng cho phải lễ. Khi đấng thân mất thì tống táng cho phải lễ, khi cúng bái đấng thân thì tế cho phải lễ”. Điều quan trọng là khi thờ cha mẹ, nét mặt hoà vui, cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ không kể tháng kể ngày! Nếu nghĩ là có tiền cho cha mẹ vào nhà dưỡng lão và lơ là việc thăm viếng, phụng dưỡng cha mẹ thì chưa phải là có hiếu vì có tiền bạc nuôi ăn không có tình với cha mẹ thì chẳng khác nào nuôi gia súc!
Hán Văn Du ăn ở với mẹ rất là có hiếu, mỗi khi có lỗi mẹ thường đánh đòn. Một hôm Văn Du phải đòn, khóc mãi, mẹ thấy vậy hỏi: Mọi khi mẹ đánh con biết lỗi, con câm ngay, lần này sao con lại khóc dai thế? Bá Du thưa: Mọi khi mẹ đánh, con thấy đau, con biết mẹ còn khoẻ mạnh. Lần này mẹ đánh con, con không đau mấy, con biết mẹ đã yếu, cho nên thương mẹ già yếu mà con khóc. Tình con thương mẹ như thế thật thấm thiết !
NHÂN- NGHĨA-L Ễ- TRÍ- TÍN
Người Việt Cao Quý là người trọng có NHÂN
Người nhân nghĩa khác kẻ tiểu nhân vì lúc nào cũng để tâm việc nhân vì cái tâm không tàn ác, không cường bạo phi lý. Nhân là thương yêu đồng loại, thương người như thể thương thân như lởi của Vua Trần Nhân Tông đối với thần dân. “Trẫm thương dân như thương con trẫm”. Lễ là xử thế hợp lý, lòng kính trọng con người, thánh hiền cư xử với người một cách kính trọng: không có giờ phút nào bỏ được lòng nhân hậu. “Thiên hạ nhất gia, toàn quốc nhất nhân”. Cả thiên hạ như một nhà, cả nước như người.
Người Việt cao quý là người trọng NGHĨA
Trong cuộc đời, con người phải có nghĩa khí với nhau thường được hiểu qua câu ơn nghiã người đồng liêu, với người trên kẻ dưới. C âu huynh đệ chi binh nói lên cái nghĩa khí một dạ, một lòng, quan quân như một. Làm việc nghĩa tức là làm phải, việc hữu ích chung, công bình ơn đức, con người sống vị nghiã dễ sinh tình mến phục. Nếu chỉ biết nhau trong lúc vô sự đến lúc nguy nan, bỏ bạn mà chạy, sống chết mặc bay thì là phi nghiã, bạc ác, bất nhân.
Cổ nhân nói rằng “Lễ nghiã liêm sỉ là bốn giường mối căn bản giữ vững quốc gia. Bốn giưòng vó ấy mà không căng lên được nghiã là vô lễ, vô nghiã, vô liêm, vô sỉ, thì quốc gia phải sụp đổ và diệt vong”. Khuất Nguyên cũng ca ngợi nghiã khí: “Một bên là quần chúng, một bên là bản thân, hai bên đều trọng cả. Nhưng nếu gặp trường hợp cần thì phải hy sinh bản thân để cứu giúp quần chúng”. Vị nghĩa quên mình, vị quốc vong thân. Con người sống trong một ngày, nghe được một điều phải, làm một việc nghiã thì không phải là sống thừa.” Celui qui a planté un arbre avant de mourir n’a pas vécu inutilement”.
Người Việt cao quý Là người có LỄ
Lễ là xử thế hợp lý với lòng kính trọng con người. Thánh hiền cư xử với người một cách kính trọng: không có giờ phút nào bỏ được lòng nhân hậu. Cả thiên hạ như một nhà, cả nước như người. Thánh Phao lồ cũng khuyên nhân loại “ Hãy kính tha nhân như thượng cấp của mình thì mọi sự sẽ được yên vui”.
Người Việt Cao quý là người trọng TRÍ
Người trí là người tự biết mình như triết gia Socrate nói: “Ngươi hãy tự biết ngươi” (Connais-toi toi-même). Con người phải biết mình, phải tự hiểu mình rồi mới có thể hiểu người, tri kỷ tức là biết mình vậy. Có biết mình mới tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Có biết mình mới trọng tư cách của mình tức là tự trọng. Kẻ không tự trọng không phải là kẻ trí vì không hiểu và không trọng mình thì làm sao kẻ khác trọng mình được. Cho nên người Việt cao quý không những phải có nhân, có nghiã, có lễ mà còn phải có trí để biết mình và biết người, hanh động sáng suất. Đánh lưỡi baỷ lần trước khi nói “Il faut tourner la langue sept fois avant de parler”.
Người Việt cao quý là người trọng TÍN
Kẻ bất tín là kẻ gian tà. Ăn cơm Quốc gia, thờ ma Cộng sản! Đã là gian tà thì không thể là kẻ yêu nước, thương nòi được. Trong sự giao tiếp hằng ngày giữa người và người chữ Tín đóng vai trò hết sức quan trọng. Hành động bội tín, làm mất lòng tin tưởng, thì sống cũng chỉ là sống thừa. Chữ tín được liệt rõ trong ngũ thường: Nhân, Nghiã, Lễ, Trí, Tín. Trong sự giao thiệp, sinh hoạt cộng đồng, đoàn thể, chính quyền, phải luôn luôn lấy chữ Tín làm chuẩn. Đức Khổng Tử bảo rằng “Nhân vô tín bất lập” nghiã là phàm làm người mà bất tín thì không còn ai tin cậy và vì vậy không thể đứng vững ở đời được. “Tín vi nhân chi bảo” nghiã là chữ Tín là bảo vật của nhân thế.
Người Việt cao quý là người trọng LIÊM S Ỉ
Liêm sỉ là căn bản đạo đức của văn võ bá quan. Vua, quan mà vô liêm sỉ thì thượng bất chính hạ tắc loạn. Kết cuộc thì quốc gia phải sụp đổ, dân tộc phải diệt vong. Nhưng thế nào là vô liêm, vô sỉ? Liêm là liêm khiết (integrity), là nền tảng của đạo làm người, là tính thanh liêm, phân minh, ngay thẳng, không lấy của bất nghiã. Người mà không có liêm thì cái gì cũng lấy hay làm việc bất nghiã, vơ vét cho đầy túi tham “Có ba trăm lạng việc này mới xong” (Kiều).
Sỉ là hổ thẹn (shame), tự mình lấy làm hổ thẹn. Người vô liêm sỉ thì việc gì cũng làm, là kẻ không biết hổ thẹn (shameless) không tôn trọng luân thường đạo lý.
Thầy Mạnh Tử nói rằng “nhân bất khả vô sì” nghiã là người mà không biết xấu hổ thì không phải là người. Có liêm sỉ là nền tảng của đạo làm người, Có liêm sỉ thì có hiếu, để, trung, tín, lễ, nghĩa. Vô liêm sỉ thì còn gì là luân thường đạo lý.
Người Việt cao quý là người CƯƠNG TRỰC
“Phú quỷ bất năng dâm, bần tiện bất năng di và uy vũ bất năng khuất”. Người cương trực là người trọng lẽ phải, vì lẽ phải có sức mạnh hơn mũi gươm. Người có lòng cương trực, ý chí như sắt đá, trí tuệ sáng như sao bắc đẩu, dù nguy cấp thế nào cũng không thay lòng đổi dạ. Người cương trực là người giữ được tiết tháo, bảo vệ công lý để đối phó vói bạo tặc, cường quyền. Biết bao chiến hữu dân, quân, cán, chính của VNCH đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, hoặc can trường bất khuất trong cảnh tù tội sau ngaỳ CS xâm lăng VNCH. Gương anh dũng đáng kính phục nầy đã được sử sách lưu truyền, thể hiện niềm tự haò, danh dự của dân, quân, cán, chính VNCH. Thái độ cương trực này là tấm gương sáng cho hậu thế soi chung.
Ngoài ra, tứ đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh còn là đặc trưng của nhi nữ Việt Nam. Công tức là làm việc giỏi:
“Gái thì lo việc trong nhà,
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa”.,
Dung tức là sắc diện vui hoà, phục sức thanh lịch. “Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyến nhường màu da”
Ngôn là tiếng nói phải dịu dàng:
“Chim khôn hót tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.”
Hạnh là hạnh kiểm tốt, kể cả vấn đề thờ cha kính mẹ. “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Cái đẹp thì có hạn nhưng cái nết thì vô cùng, vẫn là câu tục ngữ truyền tụng trong dân gian để ca ngợi đức tính đạo hạnh của người con gái. Thể hiện giá trị luân lý vượt thời gian và không gian.
Sở dĩ có câu:
“Đàn ông chớ đọc Phan Trần,
Đàn bà chớ kể Thuý Vân, Thúy Kiều”.
Là vì trong nền luân lý cổ truyền, hình ảnh Phan Sinh trong tác phẫm Phan Trần, đã bị uỷ mị hoá. Phan Sinh thất tình vì ngưòi yêu mà đâm ra nản chí, khóc lóc thảm thiết. Tác giả đã mô tả Phan Sinh khi nghe đến người yêu thì đã “hai hàng lã chã nhường mưa”, không phải là hình ảnh hào hùng, phí phách của người trai nước Việt cao quý.
Thuý Kiều, trong tác phẩm “Đoạn Trường Tân Thanh”của Nguyễn Du, bán mình chuộc cha. Thúy Kiều đã “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần, trong vòng giáo dựng gươm trần, kề lưng hùm sói, giữ thân tôi đòi” là hình ảnh luân lý suy đồi. Khi còn nhỏ không ở với cha mẹ, khi lấy chồng không ở với chồng,vi phạm luân lý tam tòng: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Kiều đã “Giết chồng rồi lại lấy chồng, mặt nào còn đứng ở trong đời này”. Theo quan niệm cũ, người con gái không thể để cho “Ma đưa lối, quỷ dẫn đường, lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”. Tuy nhiên, ngay nay vì quốc biến, gia đình tan nát, cũng có những trường hợp bất đắc dĩ xảy ra nên cũng được thông cảm qua chủ trương “chấp kinh nhưng cũng biết tòng quyền”.
Vậy thì nền luân lý cổ truyền thật là phong phú. Ngày nay, trên bước đường gió bụi của cuộc đời viễn xứ, dù áo rách nhưng phải giữ lấy lề. Người Việt cao quý vẫn là người hiếu đạo, trung nghiã, là người có nhân, có nghiã, có lễ, có trí, có tín, là người liêm sỉ, cương trực:
“Trai thì trung hiếu làm đầu,
Gái thì tiết hạnh là câu sửa mình.”
Truyện người tiết phụ đã là gương sáng truyền tụng trong Ngũ Đại sử: Vương Ngung đi làm quan chẳng may chết sớm. Vợ là Lý Thị trên đường đi nhận hài cốt của chồng, lỡ đường dẫn con vào một quán trọ bên đường xin trọ. Người chủ quán thấy đàn bà con nít có ý nghi ngờ không cho trọ. Người chủ quán nắm lấy tay Lý Thị dắt đuổi ra. Lý Thị ngửa mặt lên trời nức nở than rằng: “Ta làm đàn bà chẳng hay thủ tiết thờ chồng đến nỗi người ngoài cầm được cái tay này. Ta chẳng nỡ để vì một cánh tay mà bẩn lây cả thân ta”. Nói xong lập tức lấy dao thái thịt chặt phăng đứt ngay cánh tay! Xem thế thì tình nghiã vợ chồng cao quý biết dường nào!
Hiện nay các đức tính này cũng được nhắc nhở trong các bô luật luân lý nghề nghiệp (Professional Code of Ethics) dựa trên những ý niệm căn bản về cần, kiệm, liêm chính, nhân, nghiã, lễ, trí, tín. Những kẻ phi nhân, thất đức dù ở trong xã hội nào, vào thời nào chăng nữa thì cũng chỉ là kẻ xấu xa phá hoại nhân quần xã hội mà thôi.
Hoằng dương luân lý cổ truyền dân tộc tức là chuyển tải chủ trương đạo lý đến vói tha nhân về hình ảnh mẫu mực của “người Việt cao quý”. Cương thường đạo lý hướng dẫn hành vi của con người. Lúc thất thế, Nguyễn Công Trứ không trở thành đạo tặc cũng chỉ vì sợ nhục nhã gia phong:
“Mất việc toan trở nghề cơ tắc (1)
Tủi con nhà mà hổ mặt anh em.
Túng đường mong quyết chi cùng tư
E phép nước chưa nên gan sừng sỏ,
Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ
Dường ngâm câu “lạc đạo vong bàn
Gặp anh em khi bàn bạc sự đời,
Lại đọc chữ vi nhân bất phú.
Tất do thiên âu phận ấy là thường
Hữu kỳ đức ắt trời kia chẳng phụ…”
Vậng, sống đức hạnh thì trời không phụ lòng người. “Grace respects nature”. Người Việt mình ăn ở đức hạnh, hãnh diện với dòng giống Lạc Hồng. Chính lòng tự hào về nguồn gốc dân tộc mà chúng ta duy trì cuộc sống thanh đạm ở xứ người, dù thất cơ lỡ vận nhưng không trổ nghề cơ tắc vì sợ “Tủi con nhà mà hổ mặt với anh em”.
Tư tưỏng lên khuôn cho hành động. Dân tộc Việt chúng ta là một dân tộc tự trọng và hào hùng, niềm kiêu hãnh đó dù trải qua phong ba bão táp, vẫn lưu mãi trong tâm khảm mọi người, điều hướng hành động của chúng ta: hành động tốt của người Việt cao quý. Nhờ đó công đồngg được vui hoà, đoàn thể sinh hoạt được hanh thông.
Nền văn hoá cổ truyền của người da đen, da đỏ đã bị băng hoại vì người da trắng tiên phong đã lầm lẫn huỷ hoại văn hoá của hai nhóm thiểu số này khiến cho họ mất cả gia bảo, không còn gì để bám víu, để hãnh diện. Một số người bị lôi cuốn vào cuộc đời đầu đường xó chợ, “như thuyền không lái, như ngựa không cương”, sổng cũng không thể sống nên hồn, muốn chết không xong! Tai hoạ này kết quả không sao lường được, là một vấn xã hội trầm kha trong xã hội ngày nay của Hoa Kỳ ảnh hưởng đến mọi hoạt động giáo dục, an sinh xã hội, kinh tế, chính trị, tội phạm…
Tai họa nầy cũng đang hoành hành xã hội Viêt Nam, nền văn hoá hơn bốn ngàn năm văn hiến đang bị băng hoại vì chủ nghĩa Cộng Sản vô thần. Khôi phục, bảo tồn, phổ biến về quê hương những đặc nét luân lý của nền văn hóa cỗ truyền cũng là môt sứ mệnh trong công tác phục hung quốc tổ thân yêu của chúng ta.
Chúng ta đến Hoa kỳ vì tinh thần yêu chuộng tự do. Bảo toàn những đặc nét của gia bảo luân lý cổ truyền là nhiệm vụ thiêng liêng chung của chúng ta. Được như vậy, tập thể tỵ nạn Viêt Nam sẽ là tập thể gương mẫu, để xây dựng môt hậu phương vững mạnh, sẵn sàng hổ trợ đại nghiêp cứu quốc và kiến quốc.
“Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh, bông trắng, lại chen nhụy vàng
Nhuỵ vàng, bồng trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”
Trần Xuân Thời
The Noble Vietnamese
Nothing brings more happiness than doing good deeds
All the rewards will be with you forever
Our life from cradle to death will not be longer than thirty-six thousand days (100 years), but it may encounter so many situations. The first thirty years is for us to learn how to be a decent person. “The thirty years that should help establish one’s career” are of crucial importance, for your achievements or failures are borne from the years you transformed into an adult. During the first years, man absorbs experiences of mankind. Based on the education one receives from family and school, one develops one’s own character and personality. Someone might become kind and generous, a noble gentleman, while another might be mean, greedy, treasonous, unfaithful, and immoral.
Education has an impact on the formation of personalities and outlooks on life. Man is good by nature; however, materialstic wealth can drive him toward blind greed and turn away his conscience. Ancient elders have left mankind moral principles from generation to generation to to guide man on the correct path, so that he can turn away from wrongful temptations and follow correct guidance.
Those principles of life have been discussed in literuature and philosophical works. Artistic morals from Vietnamese works such as Phan Trần, Nhị Độ Mai, glorified the noble features of a person who follows correct ideals and morals.
God will not fail the pure of heart
In distress you might find some time; but elsewhere you will reap rewards
Good reputation will last forever
Shining examples will be honored for generations and carved in stone for future generations to revere
The evil might feel a short moment of pride
But he cannot escape God’s eyes nor run away from His net
Earthly power lasts but a fleeting moment
Just like stone and fire, incomparable to noble clouds in the sky.
Traditional qualities expected in a noble Vietnamese are: loyalty, filial piety, and constancy, according to the five principles Kindness-Respect-Justice-Wisdom-Trustworthiness.
Listen up! Folks!
Forwarnings for the future and to help you protect yourself
Man must abide above all by loyalty and filial piety
Woman should rely on constancy and virtue to be a good person
However, it is not easy to follow the principles of life, as wealth and materialistic temptations can corrupt man. Previously, loyalty means to be loyal to your king. “A loyal subject will not serve two different kings”, “to be patriotic is to be loyal to the king, to be devoted to the people and the country”. Nowadays, loyalty means to be loyal to nationalistic ideals, to fight against the red communist evils, even though the loyal citizen might run into danger and be harmed by sycophants, or to be in disgrace and not allowed to serve the country.
During my voyage to the West, representing our king,
I was shocked by what I saw in Europe
Wake up! Our compatriots!
But I impored in vain and no one believed me. (Nguyễn Trường Tộ)
The loyal ones are usualy recognized and treasonists are usually revealed when the country is in danger. After the French conquered Southern Vietnam in 1862, Tôn Thọ Tường betrayed the country and served under the French. Vietnamese patriots were all against such unloyal act by Tôn thọ Tường. Tôn thọ Tường then wrote a series of ten poems entitled “Self Reflections”. The loyalist group who defended the motto “A loyal citizen does not serve two different kings” was headed by Phan văn Trị. Phan văn Trị then responded to Tôn thọ Tường’s ten poems.
The duel act of poetic composing and responding created a war between “Right” and “Wrong” in the late 19th century. Of particular note is the poem “Lady Tôn came to the Thục Dynasty”
On horseback, holding on to my sword, I fulfilled my loyaty to my husband
I followed the age-old reputation of the women from Giang Đông
Leaving the Ngô Dynasty, dearly missing my old parents
I reluctantly go to Hán as a dutiful wife
Beauty, makeup will be faded with dust
Stone and gold (things of enduring quality) are not of consequence and should not bring me shame for giving up my country
To my brother Chu Công Cẩn, please relay to him:
I’m sorry if I displeased you by pleasing my husband. (Tôn thọ Tường)
In this poem, Tôn thọ Tường admits he came to serve the French just like a dutiful woman who was was married off to her husband. She will have to be with him.
I’m sorry if I displeased you by pleasing my husband.
Phan văn Trị responded to that poem, pointing out that Tôn Thọ Tường is not a loyal person, because a man has to serve his king, and a woman her husband.
I straighten my dress and put the hair pin carefully on my hair to be a dutiful wife
The sun is setting, and I am leaving the East
White vapor covers the hills on the Ngô side
A pink shade shines from the Thục side
My duties are on my fragile shoulders
The burden of the correct principles to my country too
Brother Tôn, do you know
That a man’s duty is to serve his country, and a woman’s is to serve her husband
Did Tôn Thọ Tường come to serve the French for materislic wealth bestowed on him and for the high rank awarded him, and thus became like a woman?
The Noble Vietnamese
must show filial piety towards his parents
Filial piety is a compliant son’s act. When his parents are alive, he must obey them dedicatedly, support and honor them; when they passed away, long for them with all your heart. It’s the children’s filial piety towards their parents. The irresponsible ones are indifferent, neglect their duties when the parents are still alive and when they pass away , offer them funeral oration and invite just flies to enjoy offering feast.The custom to worship the Ancestors expressed our filial piety towards our dear parents. According to philosopher Confucius : filial duties : Children must venerate their parents : When they are alive, they must be honored and supported , it’s the right duty. When they pass away, the funerals must be organized decently; the celebration with religious rites must be dedicated accurately”. The prominant point is we have to be happy for the worship of our parents.
The parents must endure abundant troubles, and lots of worries to raise their children, but when it’s their turn to support the parents back, the children must not count days and nights! If you think you are rich enough to leave your parents in nursing homes, then being delinquent, not visiting them regularly, not taking care of them, it’s not filial piety, thinking that just spend money for their needs, it’s just like feeding animals!
Hán Văn Du was really a good child, fulfilling his filial piety towards his mother; when he was bad, received punishment with whip. One day, he was punished, but didn’t stop crying, his Mom asked him: You used to admit your fault, and stop sobbing; why today you keep crying? Bá Du replied politely: Normally when you striked, I felt pain, and I knew you’re still healthy. But this time, it wasn’t painful, then I know you become weaker, I’m anguish for your feebleness and cried. How deepened was the son’s love for his mother!
KINDNESS, DECORUM, UPRIGHTNESS, WISDOM, FAITHFULNESS
The Noble Vietnamese must respect KINDNESS
A person with benevolence and righteousness is differnet from a small-minded one because he always worries about kindness, his heart being not ruthless, not acting with absurd violence. Kindness is showing love to fellowmen, loving others like ourselves is King Trần Nhân Tông saying: ” I love my people as well as my own childen”.
Uprightness is to behave logically, respect human; wisemen always treat others with respect: never renounce large-heartedness. All people is like a family, all the nation is like ownself.
The Noble Vietnamese must respect DECORUM
During his life, a person must be righteous with one another, must express gratitude to his colleagues in government departments, with his superiors and inferiors . Being like brothers in the army shows the righteousness with one heart and mind, from the officer to the soldier. Being righteous means to act in the common sense, doing useful works for the public, fair gratefulness; a person living with decorum will win admiration and respect. If you just be frequent with others in normal unharmed situations, then run away when they are in need, “every man for himself” is an unrighteous , a ruthless, inhumane behaviour.
Wise men in the past said: “Wisdom, Decorum, Incorruptibility, Shameless are four basic rules of conduct to be followed for maintaining the nation to be safe. Those four rules if they are not tightened, if we don’t have wisdom, decorum, of we are corruptible, shameful, we don’t respect them, then the nation will be destroyed, the race had to perish.” Khuất Nguyên also praises Decorum: “One side is the people, the other side is one own self, both are equal importance. But in requisite situation, one must be ready for self-sacrifice to help and assist the public”. Forget own self for decorum, for the nation devote yourself. “The one who has planted a tree before dying didn’t live uselessly”.
The Noble Vietnamese must respect UPRIGHTNESS
” Uprightness is to behave logically, respect human. Wisemen always treat others with respect: never renounce large-heartedness. All people is like a family, all the nation is like ownself. Saint Paul also admonished human kind :” Respect others like your superior, then everything will be peace and happiness”.
The Noble Vietnamese must respect WISDOM.
A wise man is the one who knows himself, like the philosopher Socrate has said: “Know thyself” (Connais-toi toi-même). A person must know himself , must be self – understanding first, then after he can understand others. Know thyself, then you can self improve, manage household, govern the country, give peace in the world . Know thyself then you can respect your conduct: it’s self-respect. The one who doesn’t have self-respect is not a wise man because he doesn’t understand himself , not self -respect either, how can others respect him? That’s why The Noble Vietnamese , not only must have : Kindness, Decorum, Uprightness, but also must have Wisdom, in purpose to know himself and then others, then can act with intelligibility. “Turn your tongue seven times in your mouth before speaking”.
The Noble Vienamese must be FAITHFUL
The one who is dishonest is unfaithful, devilish. Owing his life to the Republic of Vietnam, but still venerates the Communist devil! Being a devilish person, he can’t be a patriotic, can’t love his race.
During everyday contact with one another, Honesty plays a foremost role. A life with a betrayal act, depriving the confidence, is a needless life. Honesty is listed clearly in five constant virtues: Kindness, Decorum, Uprightness, Wisdom, Faithfulness. In social relations, community ativities, organisations, government, Faithfulness is always considered as a criterion. Philosopher Confucius has told: Being a human, if a person is unfaithful, no one will trust him; then he will never be able to have a stable position in life. For that reason, Faithfulness is the Treasure of a human life in all over the world.
The Noble Vienamese must be INCORRUPTIBLE
Being Incorruptible is the basic of morals of all executives & officials in court retinue. If the emperor, officials are unscrupulous, the public will be rebels. The results are the nation will be destroyed, the race had to perish. But what does dishonest, perfidious means? Honesty is integrity, the base of human ethics, to be uncorrupted, definite, upright, not rapacious for disloyal possessions. The ones who are not honest will always take anything or act with disloyalty, snatching covetously all other belongings. “With three hundred taels, then it will be terminated” (Kiều).
Incorruption means shame, feeling disgraceful by ourselves. Unscrupulous individu will do everything, and is the one who is shameless, and doesn’t respect moral principles.
The philosopher Mạnh Tử said: If you are a human and you cannot be shameless, then you are not a human. Being incorruptible is the basic of the ethics to be human. If you are incorruptible, then you will have filial piety, benevolence, righteousness, wisdom, and propriety. If you are unscrupulous, you cannot think about moral principles.
The noble Vietnamesemust be HIGH-MINDED
A person with upright mind is the one who holds good sense in esteem, because good sense is stronger than the point of a sword. A person with upright mind has iron will, his intelligence brightens like the Great Bear, although in critical situations will not be fickle. A high-minded person is the one who can keep his decency, defending justice, dealing with tyrants, despotism. How many fighters, people, soldiers, officers in the government of Republic of VietNam have laid down their lives, fighting for national independence till their last exhalation, or fearless, undaunted in prison after the Communists agression to the Republic of VietNam. This example of great fortitude, worthy to be admired is passed by tradition in history, showing pride, honor of people, soldiers, officers in the Republic of VietNam government. This attitude of high-minded is a brightly light for the posterity to follow.
Besides, there are four virtues: Task, Countenance, Way to talk, Conduct, which are specific characteristics of Vietnamese female sex.
Task is the best way to work.
verses – not translated
Countenance is the cheerful appearance,elegant apparels.
verses – not translated
Speech,the way of talking must be graceful.
(POEM)-not translated
Conduct must be good behaviour one, including filial piety, to take reverent care of the parents. ” Goodness is better than beauty”. Beauty is restricted but good behaviour is unlimited, is still the proverb which is transmitted gloriously among the masses of the people to praise the moral virtue of the young woman. This concept is to express the moral value non-temporel and above space.
The reason of those verses:
” If you are a man, don’t imitate Phan
If you are a woman, don’t relate to Thuý Vân, Thúy Kiều“
Because in the traditional morality , the image of Phan Sinh in the writing Phan Trần, became a slobby character. Phan Sinh being lovesick became discouraged, weeping bitterly. The author described him, when talking about his lover, immediately “His tears streamed down endlessly”, is not a magnanimous, high-minded image of the noble Vietnamese hero.
Thúy Kiều, in the tale “A New Cry From a Broken Heart” (The Tale of Kiều) , author Nguyễn Du, has to sell herself to save her father. She has been ” Twice in brothels, twice beeing a servant, ….TRONG VÒNG GIÁO DỰNG GƯƠM TRẦN, KỀ LƯNG HÙM SÓI, GIỮ THÂN TÔI ĐÒI.” is a depraved moral image. During childhood, not living with the parents, being adult and married, not living with her husband, violating the three moral rules to follow:”Being at home, the woman must follow her father, when married must folow the husband, in case the husband pass away must follow the son”. Kiều has “Killed her husband, then remarried, how can she dared to continue to live “.In the past, a girl cannot ” Be guided by a ghost, nor leaded by devils, but searching sorrowfull paths tofollow”. However, in reason of the events of the country in the present, and miserable families, with reluctant circumstances, this concept still can be tolerated with the policy “observe the rules but still can be out of principles”.
Then the traditional morality is so abundant. In the present, with our days and nights of turmoils of the life far away from motherland , A clear fast is better than a dirty breakfast. Noble Vietnamese still has to be in filial piety, faithful, must be human, grateful, ethical behaviour, faculty of reasoning, trustful, conscientious, upright.
” Being pious, loyal and faithful are guidelines for men
And for women : chaste and virtuous”.
The story of the chaste wife was always a model example eulogized in Five Generations Stories: The King Ngung was a royal title,and unluckily, died soon. His wife Lý Thị on her way to receive her husband’s remains, didn’t arrive to the place yet, must stopped by a hotel to stay. The owner seeing that they are just woman and kid, was in doubt, didn’t want them to stay. He hold her hand to send them away. Lý Thị with her face upward, sobbing, lamented:” Me, being a woman, I want to keep chastity to worship my husband, but now a stranger has held this hand; I can’t bear that due to a hand all my body will be infected with impurity “. After saying those words, she grabbed a kitchen knife and cut off the hand immediatly! For that example, see how noble is the warmhearted love of husband and wife!
Nowadays those virtuous qualities are still reminded in the Professional Code of Ethics, based on the fundamental concepts about industrious and thrifty, honest, kindness, respect,justice, wisdom, trustworthiness. The ones who are inhuman, unrighteous in any society, any time will still be vicious persons to breakup the social human community.
Disseminating extensively traditional morality of the nation is the work to transfer the guideline of ethics to altruists about the examplary model of “The Noble Vietnamese”. The principles of life guide human atcs. Nguyễn Công Trứ, in his fallen time didn’t became worst person in society just to avoid shameful for family manners and attitude:
(POEM)– not translated
It is true: If we live with righteousness, God won’t let us down. . “Grace respects nature”. We, Vietnamese people always behave, act with vertue, and we are proud of our Lạc Hồng race. It’s the pride of the origin of our nation that we can maintain our frugal, pure and noble life in a foreign country, despite of being in a predicament and our luck is running out, we didn’t “show up” wrong jobs, being anxious of “guilty with the famiy and shameful with others”
Thoughts mold actions. Our Vietnamese people is a self-respectfull and heroic nation; this prideful sense, despite we suffered from stormy periods, will be forever in our deepest heart, will guide the direction of our acts : The good acts
of a Noble Vietnamese. Owing to that, the community can enjoy, and society activities can be proceeded smoothly.
The traditional culture of black, indian peoples were ruined because the white pioneers destroyed by mistake the cuture of those two minority groups causing the lost of their heirloom(inheritage), having nothing to cling on for life, to be proud of. Some were tempted to be in street life, “like an unsteered boat, a horse without bridle”, living an insignificant life, unable to stop it! This tragedy has unexpected results, and remains a chronic social problem in American society nowadays, influencing all educational activities, social security,economics, politics, crime..
This affliction is also raging in Vietnamese society, the culture of more than four thousand years of literature is being ruined by atheist Communism. To restore, conserve, diffuse special moral characteristics
of traditional culture to our country is also a mission of renaissance for our dear motherland
We come to America because of the love of Freedom spirit. Preserve intact particular charateristics of traditional moral (ethics) heirloom is our divine duty. As such, the Vietnamese refugee community will be an examplary model, to build a strong back- line, ready to support the great liability to save the nation and establish the nation.
(POEM)- not translated
&&&&&&&&&&&&&&
ORIGINAL: Trần Xuân Thời – Translation: Thúy M & TháiLan (Nữ Lan)