Agatha Christie – Mười Người Da Đen Nhỏ
Ở trường, các bé thường líu lo bài hát thật dễ thương Mười/ Năm Chú Khỉ Con, hoặc Mười Người Da Đen Nhỏ để cho các bé tập đếm-
Lời bài hát Mười Người Da Đen Nhỏ thời bây giờ như sau
One little, two little, three little Indians,
Four little, five little, six little Indians,
Seven little, eight little, nine little Indians,
Ten little Indian boys.
Ten little, nine little, eight little Indians,
Seven little, six little, five little Indians,
Four little, three little, two little Indians,
One little Indian boy.==========================
Xin giới thiệu với anhchi một trích đoạn của truyện Mười Người Da Đen Nhỏ– tiểu thuyết gia Agatha Christie
Nguyên bản Ten Little Soldier Boys | Tạm dịch Mười Người Lính Nhỏ |
Ten little Soldier boys went out to dine; | 10 tên lính nhỏ đi ăn |
One choked his little self and then there were nine. | Một tên mắc nghẹn giờ còn chín tên |
Nine little Soldier boys sat up very late; | 9 tên thức muộn trong đêm |
One overslept himself and then there were eight. | Một quên thức dậy, tám tên ngậm ngùi |
Eight little Soldier boys traveling in Devon; | Devon du thuyền chúng đi |
One said he’d stay there and then there were seven. | Một tên nằm lại bảy thời ra đi |
Seven little Soldier boys chopping up sticks; | Bảy tên bổ củi làm chi |
One chopped himself in halves and then there were six. | Bổ đôi một đứa sáu tên muộn phiền |
Six little Soldier boys playing with a hive; | Sáu đem tổ ong ra nghiền |
A bumblebee stung one and then there were five. | Một ong đốt chết còn 5 sững sờ |
Five little Soldier boys going in for law; | Đến tòa năm đứa kia chờ |
One got into Chancery and then there were four. | Một vào thượng thẩm, 4 ra biển ngồi |
Four little Soldier boys going out to sea; | 4 tên cùng ra biển trời |
A red herring swallowed one and then there were three. | Trích đỏ nuốt một giờ còn lại 3 |
Three little Soldier boys walking in the zoo; | Vườn thú 3 đứa la cà |
A big bear hugged one and then there were two. | Gấu to vồ một còn 2 vẹn toàn |
Two Little Soldier boys sitting in the sun;[6] | Hai tên đi dưới nắng vàng |
One got frizzled up and then there was one. | Một khô cong chết, một tên bơ phờ |
One little Soldier boy left all alone; | Còn tên lính nhỏ thẫn thờ |
He went out and hanged himself and then there were none. | Hắn đi treo cổ rồi chẳng còn ai. (theo wiki) |
=========
Agatha Mary Clarissa, Lady Mallowan, DBE Knight Commander hay Dame Commander of the Most Excellent Order of the British Empire (KBE hay DBE): Hiệp sĩ Đế quốc Anh (1890 – 1976), thường được biết đến với tên Agatha Christie, là một nhà văn trinh thám người Anh. Bà còn viết tiểu thuyết lãng mạn với bút danh Mary Westmacott, nhưng vẫn được nhớ đến hơn cả với bút danh Agatha Christie và hơn 80 tiểu thuyết trinh thám. Với hai nhân vật thám tử nổi tiếng, Hercule Poirot và Bà Marple (Miss Marple), Christie được coi là “Nữ hoàng trinh thám” (Queen of Crime) và là một trong những nhà văn quan trọng và sáng tạo nhất của thể loại này.
Theo Sách kỷ lục Guinness, Agatha Christie là nhà văn có tác phẩm bán chạy nhất mọi thời đại của thể loại trinh thám, và đứng thứ hai nếu tính cả các thể loại khác (chỉ xếp sau William Shakespeare).
============== TRÍCH ĐOẠN- CHƯƠNG 3 –
Mười Người Da Đen Nhỏ– tiểu thuyết gia
Agatha Christie -TL dịch
Bữa ăn tối sắp kết thúc.Món ăn rất ngon, rượu thì hoàn hảo. Rogers đã hoàn thành công việc của mình một cách tuyệt diệu.Tất cả các vị khách đều có tâm trạng vui vẻ và họ bắt đầu chuyện trò rôm rả.
Quan tòa Wargrave cảm thấy phấn chấn sau vài ly rượu porto trở nên hóm hỉnh và hăng say để mỉa mai; Bác sĩ Armstrong và Tony Marston vui vẻ lắng nghe, cô Brent trò chuyện với Tướng Macarthur; họ đã tìm ra những điểm chung r
ất h
ợp nhau. Vera Claythorne đã hỏi ông Davis những điều rất hợp lý về Nam Phi. Ông Davis biết rất rõ chủ đề này. Lombard theo dõi cuộc trò chuyện của họ. Một đôi lần anh chợt ngước lên và mí mắt nheo lại. Thỉnh thoảng, anh kín đáo nhìn quanh bàn và quan sát những vị khách khác.Đột nhiên, Anthony Marston buông ra lời nhận xét:-Những bức tượng nhỏ này thật quái dị nhỉ?Ở giữa chiếc bàn tròn, những bức tượng nhỏ bằng sứ được đặt
trên chiếc đĩa bằng thủy tinh.
-Những chú bé da màu, Tony nói. Đảo Người Da Màu. Tôi đoán ý tưởng xuất phát từ nơi này.Vera nghiêng người về phía trước.
– Đúng là ngộ thật. Tất cả là bao nhiêu người ? Mười người phải không?-Vâng, mười người .Vera kêu lên:-Trông chúng thật buồn cười. Đây là mười chú bé da màu
trong bài hát ru. Trong phòng ngủ của tôi, bài hát được đóng khung và treo phía trên lò sưởi.- Trong phòng tôi cũng vậy, Lombard tuyên bố.-Trong phòng tôi nữa!-Trong phòng tôi nữa!-Và cả trong phòng tôi nữa!Mọi người đều hùa vào nói cùng lần.- Ô! Ý tưởng này cũng ng
ộ đấy chứ nhỉ, Vera
nói. Thẩm phán Wargrave càu nhàu: –Đúng ra, chuyện đó như đùa với trẻ con. Rồi ông ta rót một ít rượu porto vào ly.Emily Brent liếc nhìn cô Claythorne; Vera Claythorne gật đầu trả lời và cả hai đứng dậy.Trong phòng khách, qua khung cửa sổ sát đất mở ra sân thượng, ta nghe tiếng sóng vỗ vào vách đá.-Tôi thích nghe tiếng rì rào của biển, Emily Brent
nói.
– Còn tôi thì rất ghét, Vera trả lời rất xẵng.
Cô Brent nhìn cô , vô cùng ngạc nhiên. Vera đỏ mặt và nói thêm, kiềm chế cảm xúc: – Ở đây vào một ngày giông bão thì khó mà ổn được…Emily Brent đồng ý với điều này và nói:
– Ngôi nhà phải đóng cửa vào mùa đông. Trước tiên, những người giúp việc không chịu ở lại vào mùa Đông.
Vera lẩm bẩm: – Mùa nào cũng khó tìm được bất cứ ai muốn sống trên đảo.
Emily Brent: – Bà Oliver thật vui mừng khi tuyển được những người giúp việc trong ngôi nhà này: cô phụ trách nấu ăn là một đầu bếp xuất sắc.
Vera nghĩ thầm :- Thật không thể tưởng được rằng người lớn tuổi cứ lẫn lộn tên gọi như thế! Cô nói : -Bà Owen thật may mắn.
Emily Brent có mang theo phụ tùng để thêu thùa trong túi xách. Đang định xâu kim, cô chợt dừng lại và quay sang cô bạn:-Owen? Cô vừa nói Owen phải không?
-Đúng.
– Từ xưa đến giờ tôi chưa bao giờ nghe thấy tên đó.
Vera mở to mắt.
-Thật vậy sao?…
Cô chưa nói hết câu. Cánh cửa vừa mở và những người đàn ông đang bước vào phòng khách. Roger theo sau, trên tay là khay để những cốc cà phê.Thẩm phán đến ngồi cạnh Emily Brent và Armstrong thì bên cạnh Vera. Tony Marston bước về phía khung cửa sổ sát đất, vẫn mở rộng. Blore ngắm nhìn một bức tượng đồng với vẻ ngạc nhiên ngây ngô, tự hỏi liệu những hình khối góc cạnh này có thực sự thể hiện cơ thể của một người phụ nữ hay không.Tướng Mac Arthur, quay lưng về phía lò sưởi, vân vê bộ ria mép ngắn bạc trắng của mình. Bữa tối rất ngon và
ông rất hài lòng vì đã đến theo lời mời. Lombard lật và lướt xem qua tờ báo Punch trên một chiếc bàn gần tường, cùng với những tờ báo khác. Người phục vụ đến mời thực khách dùng cà phê đen đặc, bốc khói.
Nhìn chung, tất cả các vị khách sau bữa ăn thịnh soạn và ngon miệng này đều hài lòng với cuộc sống và với chính mình. Kim đồng hồ chỉ chín giờ hai mươi. Không khí im lặng bao trùm cùng khắp… .. một sự im lặng của sự thoải mái dễ chịu. Giữa không gian tĩnh mịch ấy, một giọng nói vang lên… đột ngột, huyền bí và gay gắt:
–Thưa quý ông quý bà. Xin hãy yên lặng!
Ai nấy đều giật nẩy mình. Mỗ
i người nhìn xung quanh mình, quan sát người bên cạnh và nhìn chằm chằm vào bức tường. Ai đang nói vậy?
Giọng nói tiếp tục, mạnh mẽ và rõ ràng:—Quý vị bị tố cáo về những tội danh như sau:
–Anthony Marston từng cán chết 2 em nhỏ trong lúc lái xe bạt mạng.
–Thomas và Ethel Rogers từng cố tình bỏ mặc người chủ của mình ốm yếu đến chết để vợ lấy tài sản thừa kế.
–John Mac Arthur từng ra lệnh cho người tình của vợ mình- một sĩ quan trẻ tên Arthur Richmond tham gia một nhiệm vụ tự sát trong chiến tranh để gián tiếp giết anh ta.
–Emily Brent từng đuổi một cô gái giúp việc nghèo khi cô mang bầu, khiến cô đi tới chỗ tự vẫn.
— Lawrence Wargrave từng kết án tử hình Edward Seton vì tội giết người mặc dù có bằng chứng cho thấy anh ta vô tội.
–Edward Armstrong từng phẫu thuật trong lúc say rượu khiến cô gái bệnh nhân qua đời ngay trên bàn mổ.
–William Blore từng đưa ra bằng chứng giả để tòa án kết tội một người tham gia vụ cướp nhà băng, người này sau đó đã chết trong tù.
–Philip Lombard từng bỏ rơi đoàn tùy tùng 21 người bản địa khiến họ chết đói ở châu Phi.
–Vera Claythorne từng cho phép Cyril Hamilton bơi ra quá xa khiến cậu bé bị chết đuối. C
ô là bảo mẫu của cậu bé.
–Marion Marshall. Bị buộc tội chịu trách nhiệm về cái chết của nữ diễn viên đồng thời là người tình, cô Beatrice Taylor. Các bị cáo có lời bào chữa nào không?
Tiếng Nói bỗng im bặt-======
Câu chuyện :
Cuối năm 1930, có 8 vị khách được mời nghỉ tại ngôi biệt thự trên Soldier Island, một hòn đảo nằm trơ trọi ở Sticklehaven, ngoài khơi vùng Devon, Anh Qu
ốc.
Một cặp vợ chồng bí ẩn, Owens, gởi thư mời tám người không quen biết nhau thuộc đủ mọi tầng lớp và lứa tuổi đến một hòn đảo mà họ làm chủ, một hòn đảo nằm trơ trọi ngoài khơi vùng Devon. Trên hòn đảo khô khan này, một dinh thự sang trọng được xây dựng đã khơi dậy sự tò mò của các phóng viên người tỉnh Luân đôn và gây ra nhiều cuộc thảo luận. Do đó, những vị khách tò mò bị cám dỗ bởi viễn cảnh có một kỳ nghỉ thú vị. Sau khi được ông Fred Narracott chở tới đảo, họ nhận ra rằng chủ ngôi biệt thự (người được cho là đã mời họ) không có mặt, đón tiếp họ là hai người quản gia, cặp vợ chồng Thomas và Ethel Rogers. Trong bữa ăn đầu tiên, một giọng nói bí ẩn tiết lộ điểm chung của họ: tất cả họ đều phải chịu trách nhiệm về cái chết của ai đó, nhưng đã trốn thoát khỏi tòa án.Ở giai đoạn này, khung cảnh của câu chuyện đã được đặt ra. Từ lúc đó trở đi,
họ bị cô lập hoàn toàn, không ai trong số họ có thể thoát khỏi định mệnh của mình.Lần lượt, họ sẽ bị sát hại một cách có phương pháp, theo cách làm nhớ đến những lời trong một bài đồng dao dành cho trẻ em. Con sói đang ở trong đàn cừu, liệu họ có thành công trong việc vạch mặt nó không?
Quan điểm của tôi :
Agatha Christie nói về tác phẩm này: “Tôi viết Mười Người Da Đen Nhỏ vì độ khó của chủ đề đã mê hoặc tôi. Mười người phải chết mà không trở nên lố bịch hoặc vụ giết người trở nên rõ ràng. Tôi viết cuốn sách này sau rất nhiều lần lên kế hoạch và tôi hài lòng với kết quả đạt được. Rõ ràng, minh bạch nhưng vẫn có lời giải thích hợp lý; th
ật ra, phải mất một đoạn kết để giải thích sự việc. »Quả thực, như thường lệ, Agatha Christie cung cấp cho chúng ta tất cả manh mối cần thiết để giải quyết bí ẩn, nhưng tôi sẽ chịu thuabất cứ ai tìm ra kẻ sát nhân ngay lần đầu tiên họ đọc cuốn tiểu thuyết… Sự hồi hộp tột độ, cho đến trang cuối cùng. Người đọc được đắm mình trong khung cảnh hấp dẫn của một hòn đảo khắc nghiệt, không hiếu khách, một tảng đá bị gió cuốn đi, nơi những sự kiện lần lượt diễn ra …. Các vụ giết người được dàn dựng như theo một vở kịch trên sân khấu, trong bầu không khí đè nặng bởi nỗi thống khổ và hoang tưởng của các nhân vật. Tâm lý của mỗi nhân vật đều được tác giả khai thác một cách xuất sắc: lời kể được phong phú hơn, đoạn kết trở nên lôi cuốn hơn…Dự án mưu đồ rất xảo quyệt , phức tạp một cách đáng ngạc nhiên, nhưng về cách viết vẫn rất đơn giản, dễ tiếp cận với mọi người-Nói tóm lại, tôi đã trải qua khoảng thời gian tuyệt vời khi làm bạn với cuốn sách này. Tôi đã đọc rất nhiều tiểu thuyết của Agatha Christie vào lứa tuổi thiếu niên của mình và truyện này vẫn là một trong những truyện mà tôi yêu thích, ngang cùng với “Án Mạng Trên Tàu Tốc Hành Phương Đông“. (Murder on the Orient Express/Murder on the Calais Coach -1934)
Nhược điểm duy nhất: một số câu nói sáo rỗng đã lỗi thời về người Do Thái và người Da Đen.
Marie (beq-)