-
Trang Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ
VĂN THƠ LẠC VIỆT khóc người hiền
THÍCH TUỆ SỸ sư đã thoát phiền
Cầu nguyện Người về nơi Phật Quốc
Độ trì dân Việt hết truân chuyên…
Văn Thơ Lạc Việt
Kính Tiễn Hoà Thượng Tuệ Sỹ
Gió lạnh thu sầu lá ngập hiên
Tin buồn Hoà Thượng đã nằm yên
Nhà thơ đạo pháp ban lời ngọc
Tu sĩ kinh từ khỏa bút nghiên
Cốt cách oai nghi ngài đạt diệt
Tâm tư vững chải bậc tham thiền
Nhân quyền giải thưởng tùy duyên hợp
Phật quốc cao đăng đấng thánh hiền
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 11/24/2023
Tiếc Thương Thầy Tuệ Sỹ
Người đã đi về phương trời xa thẳm
Thịt da người máu đỏ thấm chân đi
Tư tưởng người trái tìm còn nóng bỏng
Vì tha nhân còn ảo vọng sân si.
Ánh hào quang chiếu sáng thời hiện tại
Tuyệt tác văn chương chứng tỏ nhân tài
Đức khiêm nhường tự cho mình nhỏ bé
Lúc đêm khuya vằng vặc ánh sao mai.
Để một thoáng nơi trần gian tạm trú
Cánh hạc bay rồi đến tận chân mây
Thầy Tuệ Sỹ vĩnh hằng nơi chín suối
Lòng bồi hồi chưa kịp nói chia tay.
Tiếng kinh cầu âm vang nơi cửa Phật
Mái chùa cong bóng dáng vị sư già
Thích Tuệ Sỹ người hiền từ chân chính
Xác thân này xin phủ áo cà sa.
Tế Luân
Thành kính phân ưu
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ
KÍNH TIỄN THẦY THÍCH TUỆ SỸ
*
Một đóa huỳnh sen mới rũ tàn
Đau buồn Phật tử khắp nhân gian
Viện Tăng Thống giữ tài danh kiệt
THÍCH TUỆ SỸ còn đức tiếng vang
Học giả văn chương từng rực rỡ
Giáo sư dịch thuật đã huy hoàng
Thầy đi kính tiễn – tâm hương gửi
Cực Lạc người về hưởng phước an
Phương Hoa – NOV 25 2023
ĐIẾU THI BÁI BIỆT
Nam mô nhất niệm chí thành Hồng ân Tam Bảo:
Giữa dòng đời thành trụ hoại không,
Như bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông;
Theo mưa dầm nước lũ,
Trời đất đã sang Đông.
Báo tin đầy thương tiếc:
Hòa thượng Thiền sư Tuệ Sỹ,
Sau 81 năm trụ thế, 74 mùa bản hạnh viên dung,
Trí tuệ, từ bi pháp thân hư huyễn,
Vừa theo mây nước ra đi:
“Lời tiễn biệt nói gì sau tiếng hát,
Hỏi phương nào cho nguyện ước Trường Sơn.”
Nhớ hương linh xưa…
Thầy đã đến và đã ra đi từ vạn cổ,
Mỗi kiếp đời là một bước uyên nguyên:
Tiểu kiếp kia mặc áo hồ cừu,
Tiểu kiếp nầy mặc áo cà sa,
Tiểu kiếp nọ mặc hoàng bào…
Muôn tiểu kiếp vạn ta bà thế giới,
Hơn bảy mươi năm trước,
Chú Thương vượt Trường Sơn tìm nẻo Đạo,
Paksé, Nam Lào, Quảng Bình, Lao Bảo…
Núi thẳm, rừng thiêng, truông dữ, mặc đèo cao:
Vĩnh quyết, nhất tâm, nương mình Phật đạo.
Thắng duyên một thuở,
Nơi xứ Huế trầm lắng, đơn sơ,
Mà được xem là kinh đô Phật giáo.
Bởi mái chùa và viện chủ là… Ôn:
“Ôn” là Ông mà cũng là ôn nhu, ôn hòa, ôn nhã, ôn hậu, ôn tồn…
Đem ân pháp truyền thừa cho sa di 7 tuổi đời là Tuệ Sỹ.
Tuệ thông thái mà phát huy danh Sỹ,
Nên uyên thâm tài trí song toàn,
Đại tạng, hàn lâm, nội điển, kinh tàng…
Hán, Phạn, Pháp, Anh, Nhật, Đức… ngữ văn,
Quán thông triệt giữa trường văn thế đạo.
Thích Tuệ Sỹ:
Tuổi đôi mươi (1964) đã tốt nghiệp đại học Phật giáo,
Tuổi thanh xuân (1970) thành giáo sư đại học
do những công trình nghiên cứu uyên thâm.
Tuổi trung niên: Một cõi tài hoa văn đàn thi phú,
Biên và dịch nhiều danh phẩm Đông Tây kim cổ…
Đạo và đời tương tác nhân văn.
Chiên đàn hương hỷ lạc,
Vườn hoa tâm thơm ngát là thơ.
Lời phiêu hốt bi hùng như sóng cả…
Giấc mơ Trường Sơn và những chân trời tuyệt lạ,
“Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng”
Lịch sử sang trang,
Sư về bên cổ tích.
Từ tâm trong thế cuộc can qua,
Sách vở văn chương một thời xa lạ,
Nhân thế trông nhau qua những cặp kính màu.
Một thân thế một tâm hồn bên góc trời miên viễn,
Không ẩn tàng mà xuất xử với năm châu.
Cửa Thiền không khép,
Giữa cuộc bể dâu.
Thời thế, thế thời, thế thái biết về đâu;
Bát Nhã xuất ly; Đại Bi nhập thế,
Cõi tâm hư thao thiết tìm cầu:
Là tu sĩ không chỉ nguyện cầu,
Là thi nhân thơ càng dậy sóng…
Là học giả tay không nghìn phương trượng,
Quyết dấn mình ngọc bối vớt nông sâu.
Nước trong không sợ vương tay,
Cây ngay không tày chết đứng;
Nên đã trải qua mấy bờ sinh diệt,
Nắng dọi, Thu về, vĩnh kết vẫn hôm nay!
Thầy Tuệ Sỹ,
Hòa thượng thiền sư Tuệ Sỹ,
Nhà thơ học giả Tuệ Sỹ,
Nhiều tên gọi một phiến đời kẻ sĩ,
Đã trùng trùng nối tiếp bước chân qua.
Nhậm vận thịnh suy – thăng trầm thành bại,
Giữa vàng thau lẫn lộn cõi Ta Bà.
Và cứ thế phiêu linh vời vợi,
Cứ an nhiên như đã về đã tới!
Xuất thì vui hồn nhiên như ngày mới,
Xử thì hoàn không về quán niệm cõi Tây Phương.
Thầy vừa mới đó…
Chiều êm vắng tiếng dương cầm tịch tĩnh,
Và hôm nay vân hành Bồ Tát Đạo,
Vạn lý du bước tiếp cuộc hành trình,
Bọt nước bèo mây như như hoa đóm,
Mắt nhắm mơ hồ thư pháp rọi kinh xưa.
Có chín phẩm hoa sen làm nụ cười phụ mẫu,
Hiển bày sen nở thấy Phật trọn niềm vui,
Bồ tát viên dung là bạn lành.
Cuộc đời là quán trọ,
Nẻo về là thiên phương.
Nên trong Nẻo Về dặn dò giải thoát:
“Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn,
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về?”
Chân không diệu hữu,
Thầy vừa ra đi như bóng mây bay qua,
Sư tử hống Trường Sơn uy nghi rừng thẳm,
Nắng xế trăng tà không lại hoàn không.
Theo diệu lý Khổ, Duyên, Không;
Tam pháp ấn Thế tôn truyền dạy.
Đường về Bến Giác thuần thanh tịnh.
Tứ chúng tri ân bái biệt Thầy.
Pháp quyến, môn đồ,
Thiện hữu, thiền duyên…
Tiếp dẫn pháp hành vãng sanh Cực Lạc,
Chí tâm đồng niệm:
Nam mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
Nguyên Thọ
HUYEN-THOAI-VE-THAY-TUE-SY-KIEU-MY-DUYEN
-
Vĩnh biệt Thi sĩ Trịnh Cơ
Vĩnh Biệt Thi Nhân Trịnh Cơ
Buốt nhói tim lòng khóc Trịnh Cơ
Hung tin gởi đến có ai ngờ
Duyên sinh hội tụ đà in phút
Nghiệp tử chia ly đã điểm giờ
Chấm dứt thi đàn thôi ý nhạc
Không còn xướng họa nghẹn lời thơ
Vô thường cuộc sống người yên nghỉ
Lạnh lẽo thu buồn tiếc ngẩn ngơ
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 11/2/2023 -
TRANG ĐẶC BIỆT – TƯỞNG NIỆM CỰU CHỦ TỊCH VTLV ĐÔNG ANH – THÀNH VIÊN VTLV CÙNG QUÝ THÂN HỮU
TIN BUỒN:
Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt
Đau buồn thông báo:
Nhà Thơ ĐÔNG ANH
Tên thật là NGUYỄN ĐÌNH TẠO
-Cựu Chủ Tịch sáng lập VTLV
-Cựu Trung Tá QLVNCH
Vừa gác bút, từ giã Anh Chị Em văn nghệ,
Ra đi lúc 12 giờ 45 sáng hôm nay, Thứ Tư, ngày 28 tháng 6 năm 2023
Tại San Jose, tiểu bang California, Hoa Kỳ.
Sự ra đi của Ông, là một mất mát to lớn với VTLV.
Tính tình Ông hiền hòa, nhà binh mà ăn nói nhỏ nhẹ, hòa đồng thương mến với tất cả Anh Chị Em cầm bút.
Thật Vô Cùng Thương Tiếc!
Trân Trọng Kính Báo
Lê Văn Hải.
NÉN HƯƠNG XA
*
Người về nguyên thuỷ càn khôn
Bao la ấp ủ linh hồn nhà thơ
Kể từ thân phận sa cơ
ĐÔNG ANH – ĐÌNH TẠO NGUYỄN giờ lâm chung
Đọc bài hành ” Khúc Lưu Vong ”
Vô cùng thương tiếc người trong kiếp này
Đời sau sẽ lại xum vầy
Lại cùng xướng hoạ tràn đầy văn chương
Bốn bề chiến hữu tha phương
Thành tâm kính gởi nén hương chia buồn …
Rancho Palos Verdes 29 – 6 – 2023
CAO MỴ NHÂN
THÀNH KÍNH TIỄN ĐƯA
CỰU CHỦ TỊCH VTLV ĐÔNG ANH
*
VĂN THƠ LẠC VIỆT rất đau buồn
Tin dữ nghe rồi khiến lệ tuôn
CHỦ TỊCH – thi nhân vừa biệt thế
ĐÔNG ANH – tiền bối đã về nguồn
Thương người sáng lập thơ đành bỏ
Tiếc Cụ tiền khai bút phải buông
Mộc mạc đôi dòng xin kính tiễn
VĂN THƠ LẠC VIỆT rất đau buồn.
Phương Hoa – JULY 1, 2023
Kính Chào Vĩnh Biệt Anh Đông Anh
*
Kính chào Vĩnh Biệt Đông Anh,
Tuổi già, anh tấm lòng xanh tuyệt vời!
Nhớ anh xưa quán cùng ngồi
Câu thơ Thế Sự, tình đời Thế Gian…
Bây giờ, nước mắt chứa chan:
Thương người chiến trận, nhớ chàng Thi Nhân!Bạn anh, xa cũng như gần,
Tới đây, vĩnh biêt anh lần cuối, nghe…
Chúng ta đi để rồi về:
Quê Hương Nhang Khói…Bốn Bề Năm. Châu!Huệ Thu
Tạm Biệt Thi Sỹ Đông Anh
*
Đông Anh thi sỹ lão thành
Văn Thơ Lạc Việt ngọn ngành từ ông
Tấn Chu rủ bạn Anh Đông
Hẹn hò đủ cặp minh thông cõi trời
Giờ đây Việt Lạc giữa đời
Buồi vui xin giữ một thời Đông Anh
Văn Thơ Tín Đức đồng hành
Tinh hoa Việt – Mỹ lưu danh với ngườiThân đi sẽ nở nụ cười
Khi hồn ở lại hơn mười lần xưa***
Đầu hè gió nhẹ mây đưa
Tiễn huynh muội viết thơ chưa tròn vần
Hoàng hôn giọt nắng buông dần
Đông Anh lần cuối… ngàn lần mãn viên..!!06-29-2023
Hồng HàVĩnh Biệt Thi Sĩ Đông Anh
*
Cổ thụ cây to đã ngã rồi
Thi đàn lặng lẽ tiếc buồn ôi
Văn Thơ lập tổ gầy bền hội
Lạc Việt xây thành dựng vững ngôi
Chiến trận bao thời lo đất nước
Giang san một thủa giữ nương đồi
Đông Anh Nguyễn Tạo về bên Chúa
Cổ thụ cây to đã ngã rồi
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 6/29/2023
Nguyện Cầu Hương Linh Nhà Thơ Đông Anh sớm siêu thoát
Thành kính
Mặc Khách
PHÂN ƯU
Hay tin trưởng thượng Gia cô bê(*)
Mười Một Tháng Năm (**),Chúa gọi về
Xin được chia buồn cùng quý quyếnCầu luôn thanh thản với yên bề
Ở nơi thiên quốc tràn sung mãn
Và chốn siêu sinh thật thỏa thuê
Còn với gia đình, Lời sẽ giúp…
Nỗi đau dần biến, sống vui nhe.
(*) Cố thi sĩ Đông Anh,(**) 11 Thánh Năm năm Quý Mão,28/6/23
Thái Huy
NHỮNG LỜI CHIA BUỒN TỪ THÀNH VIÊN VÀ THÂN HỮU VTLV:
Sydney 29.6.23
Xin chân thành chia buồn cùng tang quyến và QuýThi-Văn hữu VTLV, cầu nguyện hương linh Nhà Thơ Đông Anh siêu thoát vào cõi Vĩnh Hằng.
VÕ Đại Tôn (H.P.L) Sydney.
***
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU cùng tang quyến. Cầu nguyện hương linh người quá cố sớm siêu thoát.
Thủy Lâm Synh
***
Kinh thưa các văn thi hữu
Dược tin nhà thơ Đông Anh đã lìa xa chúng ta, chúng tôi cảm thấy vô cùng xót xa, mất đi một người bạn quý. Xin thành kính phân ưu với tang quyến, và nguyện cầu cho hương linh Đông Anh sớm về cõi vĩnh hằng.
Gia đình Ngô Đức Diễm
***
Tuyết Nhung thành kính chìa buồn cùng gia đình Bác Đông Anh trong sự mất mát quá lớn lao này! Nguyện linh hồn Bác sớm hưởng miền cực lạc!
Thành kính phân ưu!
Tuyết Nhung
***
Được tin buồn nhà thơ Đông Anh,Cựu Chủ Tich VTLV vừa ra đi, Ngọc Hạnh xin chia buồn với tang quyên và đại gia đinh VTLV
Cầu nguyện hương linh Cụ đươc an nhàn chốn vĩnh hăng
THANH KINH PHÂN ƯU
Ngoc Hạnh
***
Thành kính phân ưu cùng gia đình nhà thơ Đông Anh. Nguyện cầu hương linh sớm về cõi Vĩnh Hằng
Như Thu
***
Xin thành thật chia buồn cùng tang quyến và VTVL
Cầu chúc hương hồn cụ Đông Anh sớm về nơi An Lạc
Kính bái
Trịnh Cơ – Paris
***
Ngày nào “Hoa Giáp Đông Anh”
Sách tôi còn giữ, nỡ đành xa nhau?
R.I.P
Đỗ Quang Vinh
***
Vô cùng thương tiếc và Thành kính phân ưu cùng gia đình cố chủ tịch
Cao Bồi Già
***
Xin thành kính phân ưu và tiễn biệt Tiền Bối Thi Sĩ Đông Anh về cõi vĩnh hằng…một trời tiếc thương.
Thành Kính Phân Ưu
Hoàng Mai Nhất***
Chân thành cảm tạ Quý Anh Chị Văn Thi Hữu, với những lời Chia Buồn tràn đầy tình cảm yêu thương, tiếc nuối!
Chắc Niên Trưởng Cựu Chủ Tịch VTLV Đông Anh Nguyễn Đình Tạo của chúng tôi, cũng nở nụ cười nơi Chín Suối!
Một lần nữa, Xin Cám Ơn Nhiều!
Lê Văn Hải – VTLV
CÁO PHÓ
Trong niềm tin vào Chúa Phục Sinh, Gia Đình chúng tôi trân trọng kính báo cùng Thân Bằng Quyến thuộc và bạn hữu xa gần:
Chồng, Cha, Ông Nội, Ông Ngoại, Ông Cố của chúng tôi là:
ÔNG GIACÔBÊ NGUYỄN ĐÌNH TẠO
-Nguyên Sĩ Quan Huấn Luyện Viên Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam
-Nguyên Trung Tá Quận Trưởng Bảo Lộc, Tuyên Đức
-Nguyên Ủy Viên Thường Vụ Liên Hội Người Việt Quốc Gia Bắc Cali
-Cựu Chủ Tịch sáng lập VTLV, bút hiệu Đông Anh.
Sinh ngày 02 tháng 2 năm 1933 tại Dục Nội, Đông Anh, Phúc Yên Việt Nam
Đã được Chúa gọi về lúc 0 giờ 45 sáng ngày 28 tháng 6 năm 2023 tức ngày 11 tháng 5 Năm Quý Mão tại San Jose California, USA
HƯỞNG THỌ 91 TUỔI
Linh cửu được quàn tại Darling Fisher Garden Chapel
471 East Santa Clara Street, San Jose CA 95112
VTLV Cùng Hẹn Gặp Nhau Trong Giây Phút Vinh Danh & Tiễn Biệt!
Kính Mong Quý Niên Trưởng Cố Vấn, Quý Anh Chị Thành Viên,
Chúng ta cùng gặp nhau đông đủ, lúc 4 giờ chiều Chủ Nhật, ngày 16 tháng 7 năm 2023. Tại nhà quàn Darling Fisher Garden Chapel, 471 East Santa Clara St, San Jose, Ca 95112.
Trong giây phút nói lời Tâm Tình, Chia Tay với Người Anh Cả thân yêu của Chúng Ta.
Trân Trọng Kính Mời
Thông Báo Từ Nhà Văn Giao Chỉ, Cố Vấn VTLV
Chúng tôi xin gửi đến chiến hữu xa gần bác Nguyễn Văn Tạo đã qua đời
Bác thuộc khóa Cương Quyết Dalat 1954. Trung đội 17 đại đội 5.
Tin tức về bác Tạo đã được Văn Thơ Lạc Việt phố biển đầy đủ.
Xin bổ túc thêm là cuộc đời trước 75 ông có gia đình với 8 con, 3 gái và 5 trai.
Sau 1975 mẹ các cháu có gia đình riêng và bác Tạo vượt biên một mình,
Qua Hoa Kỳ ông lập gia đình với chị Quỳnh Hoa và lập hồ sơ đoàn tụ với các con qua Mỹ.
Ông đã làm việc trong các cơ quan xã hội và IRCC tại San Jose.
Ông cũng là tác giả nhiều tác phẩm văn thơ và nguyên chủ tịch tổ chức Văn thơ Lạc Việt
Trên Cáo phó này cũng ghi thêm về gia cảnh và chương trình tang lễ 2 ngày.
Khóa Cương Quyết Đà Lạt cũng chỉ còn 8 người tại Bắc CA.
(Lộc, Đôn, Chung, Thuy, Định, Bang, Chien, Luyện…
Vì lý do sức khỏe nên chỉ có một số tham dự.
Chúng tôi sẽ phụ trách phủ cờ trong phạm vi gia đình và bằng hữu
Sẽ mời đại diện Võ bị và Văn thơ Lạc Việt cùng tham dự lúc 4 giờ chiều
Trân trọng thông báo và kính mời
Đại diện hội Cương quyết Đà Lạt
Vũ văn Lộc
Giao Chi San Jose. giaochi12@gmail.com (408) 316 8393
TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
Nhà Thơ Đông Anh.
Cựu Chủ Tịch Sáng Lập Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt.
Đông Anh là bút hiệu của Nguyễn Đình Tạo,
quê quán tại Huyện Đông Anh trước thuộc tỉnh Phúc Yên,
sau thuộc ngoại thành Hà Nội.
Năm 1954 theo học khóa Cương Quyết Phụ Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, ra trường tháng 10 năm 1954.
Đơn vị sau cùng là Tiểu Khu Lâm Đồng
Tù Cộng Sản 9 năm.
Vượt biên tới Galang năm 1985.
Qua Mỹ năm 1986. Định cư tại San Jose, California.
Tác phẩm đã xuất bản:
-Chín Năm Tù Ngục 1989
-Chim Di Trú 1997
-Hoa Giáp Đông Anh 2000
-Ngựa Vực Hồn Thơ 2002
-Vui Tuổi Hạc 2007
-Dòng Kỷ Niệm (viết chung với Chinh Nguyên 2011)
Ðọc Bài Thơ Cũ
-Vào năm 1959 Băng Ðình và tôi cùng chung một đơn vị, Tiểu đoàn 3/12 sư đoàn 4 dã chiến, chúng tôi cùng sống trong một dãy cư xá dành cho các sĩ quan độc thân tại trường Bộ Binh Thủ Ðức vì đơn vị chúng tôi được cử về làm tiểu đoàn thao diễn và an ninh cho trường sau kỳ thao dượt Ðông Phong ở Phan Thiết.
Cứ mỗi buổi chiều, sau khi nghỉ việc và cơm chiều tại câu lạc bộ, chúng tôi ngồi trên hành lang nhìn ra đường và vũ đình trường mà nói chuyện tào lao. Thôi thì đủ thứ chuyện, hết chuyện đời đến chuyện thơ. Ðọc cho nhau nghe những vần thơ mới hình thành, bình luận cùng nhau những vần thơ xướng họa. Rất tiếc là không có giọng ngâm nên chúng tôi cứ đọc “rống” lên gây rất nhiều phiền toái cho mấy anh hàng xóm độc thân khác.
Bài Mưa Chiều Hời đã được chúng tôi đọc đi đọc lại gần như thuộc lòng. Rất tiếc cho cây quế giữa rừng. Rất cảm phục mối tình của Trần Khắc Chung với nàng công chúa cùng họ. Miền Nam sớm nắng chiều mưa, khiến thi nhân như hòa nhịp với thời tiết lạ xứ Hời mà nhớ về quê Bắc xa xăm:
Người đi mây trắng xây thành
Miền Nam mưa nắng một mình người thôi
Bài thơ như một bài hành khi xung trận để mở rộng biên cương. Như bài hát tả nỗi lòng cô phụ bỏ hết lại đằng sau dấn thân vào nơi gió cát xứ người. Những mưa rơi chiều Hời. Những gió bay biên địa. Những sầu muộn mong manh. Những ánh tà dương ngăn ngắt. Tất cả đã khiến cho sự hy sinh của nàng công chúa thêm thê lương, mối tình của Huyền Trân thêm ray rứt. Nhân đó tôi cũng có đôi vần ca ngợi bài thơ của BÐ ghi ở phần sau.
Năm 1990, khi liên lạc với nhau tại Mỹ, tôi hỏi lại bài thơ xưa thì được BÐ trả lời tất cả đã mất hết rồi, mất theo hành trình đốt sách của kẻ thù. Chúng tôi rất buồn, rất tiếc.
Bỗng đầu năm 2003 anh gọi điện thoại cho tôi khoe rằng đã tìm thấy bài thơ. Bài thơ này tìm lại được cũng kỳ bí như huy hiệu con Phượng Hoàng(*), biểu tượng đầu tiên của Trung Tâm Quốc Gia Ðiện Ảnh Việt Nam mà BÐ làm giám đốc khi xưa.
Nhận được bài thơ, tôi muốn chia xẻ với các bạn yêu thơ, với bằng hữu. Nhưng nếu chỉ đăng lên không thôi, e rằng không hết ý. Do vậy mới có vài lời dông dài này.
Ðông Anh
(Tháng Tư năm 2016)
Mưa Chiều Hời
(Gửi Băng Ðình, người viết Mưa Chiều Hời)
Khắc Chung rong ruổi trên lưng ngựa
Theo bóng Huyền Trân nắng chập chờn
Một mối tình si muôn dặm thẳm
Ngàn trùng gió cát lạnh mưa tuôn
Người đi về phía hoàng hôn
Ðể vầng trăng khuyết mỏi mòn kinh đô
Qua Chiêm đem mối tình hờ
Lược trâm bỏ lại ngẩn ngơ hoàng thành
Lưu lạc xứ người thân lạc bóng
Giữa rừng cây quế nghẹn chua cay
Chiều thu chợt biến thành sương phụ
Ðợi lửa lên giàn hương phấn phai
Bỗng dập dồn vó ngựa
Từ biên địa qua đây
Ðưa nàng về cố quốc
Mưa Hời quyện khói bay
Thuyền chao tình sóng vơi đầy
Lướt đi trong cõi trời mây mịt mù
Ngàn sau tình sử, áng thơ
Lung linh ánh nến đọc Mưa Chiều Hời
ĐÔNG ANH
-
Trang Đặc Biệt: VTLV TƯỞNG NIỆM CỰU ĐẠI TÁ HẢI QUÂN QLVNCN – BÙI CỬU VIÊN – PHU QUÂN CỦA NỮ VĂN SĨ HỒNG THỦY – CHỦ TỊCH VĂN BÚT VNHNVĐB HK & Cũng Là THÀNH VIÊN VTLV
****
Thành Kính Phân Ưu
Cùng HỒNG THUỶ và tang quyến trước Tin Buồn Anh BÙI CỬU VIÊN nguyên Đại Tá Hải Quân VNCH. Mãn Phần ngày 11 – 4 -2023 tại Hoa Kỳ .
CAO MỴ NHÂN
VTLV THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
CỰU ĐẠI TÁ HẢI QUÂN QLVNCH BÙI CỬU VIÊN
**
VĂN THƠ LẠC VIỆT gửi chia buồn
Tiếc nuối anh hùng để lệ tuôn
ĐẠI TÁ linh hồn thăng đất Thánh
CỬU VIÊN thân xác trở về nguồn
Luân hồi – sinh tử – do thiên định
Tán tụ – biệt ly – vốn lẽ thường
Thành kính phân ưu cùng bửu quyến
Tiễn người xin thắp nén tâm hương
BBT – Văn Thơ Lạc Việt
TIỄN BIỆT ANH – ĐẠI TÁ BÙI CỬU VIÊN
*
BÙI CỬU VIÊN anh vĩnh biệt rồi!
Bàng hoàng nhói dạ tiếc thương ôi!
Mới còn tại thế đầy vui vẻ
Giờ đã thăng thiên quá ngậm ngùi
ĐẠI TÁ khi xưa gìn Tổ Quốc
HẢI QUÂN ngày ấy cứu bao người
Nhìn chân dung cố dằn tâm mãi
Bút nghẹn thơ tràn suối lệ rơi
*
Lệ rơi lã chã bởi ân tình
Tin dữ đến kề sau Phục Sinh
HỒNG THUỶ đột nhiên về lẻ bóng
CỬU VIÊN chớp mắt rẽ riêng mình
Kiếp người sanh diệt âu phần số
Định mệnh có không vốn lập trình
Mong chị buồn đau ngăn, bớt thảm
Nguyện cho linh giác nhập Thiên Đình
*
Thiên Đình – Thiên Chúa đón chào anh
BÙI CỬU VIÊN nay trách nhiệm thành
Về đất Thánh nhàn, đầy hỷ lạc
Giã đường trần khổ, lắm đua tranh
Hoa Kỳ vĩnh biệt công dân tốt
Tộc Việt mất đi hạt giống lành
Kính tiễn GIUSE về Vĩnh Cửu
Cõi Trời – Thiên Chúa đón chào anh…
Phương Hoa & Tân Khoa – Kính viếng
Hội ngộ sau 60 mươi năm gặp lại.
Rồi vội vã chia tay
Lê Tuấn
Một quá khứ xa thật xa của một thời còn rất trẻ và hồn nhiên trong trắng, không sôi nổi lắm nhưng rất đẹp.
Bỗng nhiên trên 60 mươi năm sau sống lại trong một tình cờ hội ngộ. những kỷ niệm mờ mờ trong trí nhớ, bỗng kết nối thành hình như bức tranh mới phác hoạ trên khung vẽ, đang còn dang dở rồi bị bỏ quên từ lâu trong góc tối của căn nhà kho lâu ngày bụi bám, lớp bụi thờ gian thật cũ kỹ bám trên mặt bức tranh.
Như một phép mầu có một cơn gió thổi qua và lớp bụi đó bay đi, cho những khuôn mặt năm xưa ẩn hiện và dần dần rõ nét, sự nhẹ nhàng ấm áp sắc màu của đời sống nguyên thuỷ như đổ tràn trên bức tranh làm cho lớp bụi thời gian như được hồi sinh.
Đó chỉ là sự dạo đầu cho một câu chuyện, hơn một năm trước tôi được nữ sĩ Phương Hoa giới thiệu tham gia vào nhóm VBVNHN VDBHK chủ tịch là nữ sĩ Hồng Thuỷ, tôi có nói với Phương Hoa
– Tôi biết Hồng Thuỷ vì sự liên hệ họ hàng
– Phương Hoa nghe thế liền báo cho Hồng Thuỷ biết
Từ đó anh em chúng tôi gặp lại nhau sau hơn 60 mươi năm xa cách.
Sự liên hệ họ hàng là vì “Mẹ tôi và Mẹ của Hồng Thuỷ là chị em đôi bạn dì” Mẹ tôi lại ở vai trên nên được gọi là chị. Hơn nữa tôi thường xuyên chở Mẹ tôi đến thăm Mẹ Hồng Thuỷ khi bà còn ở Việt Nam do đó bà rất có cảm tình với tôi.
Đây cũng là cái duyên cho tôi trở thành một hội viên trong nhóm VBVNHN VĐBHK.
Dựa theo câu nói của người xưa
“Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ
Vô duyên đối diện bất tương phùng”
Có một nhóm 7 người từ California tổ chức chuyến đi thăm Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn vào ngày 29 tháng 4 đến ngày 4 tháng 4 năm 2023.
Đi thăm viếng mùa lễ hội Hoa Anh Đào Washington DC, tôi nghe nói rất nhiều về hoa anh đào Washington nhưng chưa một lần ghe thắm.
Trong chuyến đi lần này được sự đón tiếp rất chân tình của anh chị Cửu Viên & Hồng Thuỷ.
Anh chị đã có lời mời phái đoàn chúng tôi đến ở tại nhà anh chị. đây là dịp hội ngộ giữa anh chị em California đối với sự đón tiếp thật chân tình của Anh Chị Cửu Viên & Hồng Thuỷ.
Hơn thế nữa đối với tôi đây là sự gặp gỡ cần thiết để xoá tan lớp bụi thời gian của anh em chúng tôi. Vợ chồng Cửu Viên & Hồng Thuỷ.
Vừa xuống phi trường Washington Dulles chúng tôi đã nhận ra sự có mặt của Anh Viên đến đón, nhìn anh Viên tôi nhận thấy anh trẻ hơn 10 tuổi so với tuổi đời, anh rất nhiệt tình, tháo vác, năng nổ hướng dẫn chúng tôi.
Chúng tôi chia làm hai nhóm một nhóm đi theo xe anh Viên về nhà, còn nhóm của tôi và anh Thái Phạm đi thuê xe, chúng tôi sẽ về sau. Chúng tôi có một tuần lễ ở nơi này nên rất cần thuê một chiếc xen Van để làm phương tiện di chuyển.
Chúng tôi được anh chị Cửu Viên & Hồng Thuỷ đón tiếp tại tư gia, sự chuẩn bị như một khách sạn 5 sao (Five Start Hotel). Mỗi cặp vợ chống hay riêng lẻ đều có một phòng ngủ riêng rất chu đáo.
Chị Hồng Thuỷ rất tâm lý vì chúng tôi bay đường dài, nên đã chuẩn bị một món phở bò rất ngon, mỗi người một tô phở bò thơm phức đậm đà tình cảm, ngày hôm sau chị Hồng Thuỷ còn thiết đãi chúng tôi món búm riêu cũng tuyệt vời.
Anh Viên còn ân cần khui chai rượi vang đỏ, tận tay rót từng ly mời chúng tôi, chất rượu nho thật ngọt ngào mang hương vị của Rượu Vang Sapa California. Tôi chợt nhớ một bài thơ viết đã lâu xin trích hai câu thơ viết ra đây cho vui:
Buồn uống ly rượu đỏ
Chết còn nhớ môi em.
Sự ân cần tiếp đón khách từ phương xa của anh chị Cửu Viên & Hồng Thuỷ rất tuyệt vời, đã để lại trong tâm hồn anh chị em chúng tôi những chân tình thật vô giá.
Từ nơi anh tôi đã học được lòng nhiệt tình hiếu khách, một tâm hồn bao dung, hiền hoà, lúc nào anh cũng nở một nụ cười.
Mặc dù trong quá khứ anh Viên là Hải Quân Đại Tá Tư Lệnh Vùng Ba Sông Ngòi. Nhưng ở nơi anh không thể hiện chút uy quyền nào, “dù chỉ là một chút thoáng hiện vì chức vụ trong quá khứ”, ở nơi anh tôi nhận thất một con người rất giản dị, thật đôn hậu, hiền hoà và hoà đồng với mọi người.
Tôi không biết nói gì hơn là:
– Cám ơn – Cám ơn thật nhiều
Tại nhà Anh Viên & Hồng Thuỷ tôi là người thức dậy sớm nhất, 6 giờ sáng là tôi đã ngồi tại cái bàn tròn trong gian bếp ấm cúng, tự pha cho mình một ly cà phê, Anh Viên có chỉ dẫn cách pha cà phề và dặn dò:
– Anh Viên nói: Ai thức sớm thì cứ tự nhiên như ở nhà.
Tôi nghe lời anh nên rất tự nhiên xuống gian bếp và ngồi tại cái bàn tròn
nhâm nhi tách cà phê, mở cái laptop mang theo để nghe thật nhỏ những bài tình ca thật lãng mạng, tôi thả hồn vào dòng nhạc và lang thang trong những vần thơ chợt đến, tôi đã viết nhiều bài thơ tại nơi này.
Xin trích dẫn một bài thơ viết về hoa anh đào Washington DC.
Lạc Bước Vườn Đào
Tôi đứng giữa vườn đào cánh trắng
Thấy hoa đào lất phất bay bay
Như bông tuyết trắng mênh mông đến
Giây phút chạnh lòng tình đắm say.
Cảm nỗi thương lòng nhìn liễu rũ
Hồ thu cảnh đẹp em đi qua
Hoa đào trắng diểm trên màu áo
Vạt lụa tung bay đủ sắc màu.
Tia nắng ban mai soi bóng nước
Long lanh gợn sóng lòng bâng khuâng
Hoa rơi gió thổi bay xa mãi
Nỗi nhớ dâng đầy tình thế nhân.
Tôi đến đây như người lạc lối
Giữa vườn đào biết lối nào đi
Thi nhân đậm nét hồn du khách
Viết vội vần thơ mộng ước gì.
Lê Tuấn
04-02-23
Một lúc sau Anh Viên thức dậy bước vào gian bếp, tôi nghe tiếng ho húng hắng, vì mấy hôm nay anh Viên bị viêm họng.
Anh Viên nở nụ cười lên tiếng chào:
– Good morning anh Tuấn
– Tôi cám ơn và chao anh buổi sáng
Anh Viên tự tay làm điểm tâm cho tôi, món trứng ốp la và bánh mì
nòng dòn, rồi anh cùng tôi ngồi vào bàn tâm sự cho vui, không phải riêng tôi mà Anh Viên tự tay làm điềm tâm cho mọi người, đều có sự đón tiếp thật công bằng.
Đó cũng là những tình cảm thân thương mà anh đã dành cho mọi người.
Thật là ái ngại nhóm chúng tôi đã làm phiền anh chị mất cả tuần lễ để lo cho chúng tôi, mỗi bữa cơm tối đều do anh chị phục vụ, sau bữa cơm tối chúng tôi còn quay quần bên nhau ca hát Karaoke rất vui.
Chúng tôi đã một lần đến thăm gia đình Anh Viên & Hồng Thuỷ, một lần đến thăm thủ đô Washington DC, thăm nhiều nơi có những thắng cảnh thật đẹp.
Rồi cũng đến ngày chia tay trở về nhà. Chúng tôi đã mang theo những gì? Ngoài những bức ảnh kỷ niệm, những đoạn phim và đặc biệt những tình cảm thật sâu đậm trong tâm hồn mà anh chị Cửu Viên & Hồng Thuỷ đã để lại.
Một lần nữa xin đa tạ những ân tình của anh chị Cửu Viên & Hồng Thuỷ.
Ngày 11 tháng, 2023 có một hung tin đến bất ngờ như tiếng xét đánh ngang tai, lúc 12 giờ đếm tôi nhận được tin nhắn Anh Viên đã ra đi. Sáng hôm sau thức dậy tôi vội đọc email xác nhận thì qủa đúng như thế
Không ai học được chữ ngờ. Qủa thật đời sống là vô thường đến và đi rất vội vã. “cuộc đời sớm họp tối tan là như thế”
Chỉ cần một chút tĩnh tâm và suy tư thì tất cả mọi người đều nhận thấy điều này. Danh vọng, tiền tài, giầu sang phú quý hay khổ đau tất cả đều sẽ tan biến đi, một khi con người vừa nằm xuống nhắm mắt suối tay.
Những gì có thể mang theo đó là tâm hồn, sự trong sáng hiền hoà, đạo đức từ tâm hồn sẽ tồn tại mãi mãi.
“Sống là đến – Tử là quy” con người đến với thế gian là để trải nghiệm cuốc đời, và khi chết đi là quay đầu trở về từ nơi đến.
Sự vô thường của định luật (Sinh, lão, bệnh, tử) là như thế. Đời sống thì rất mong manh, nhưng cái chết thì chắc chắn sẽ đến không biết lúc nào.
Nhà thơ Bùi Giáng đã ý thức sâu sa về sự hữu hạn này, nên ông đã viết câu thơ:
“Nhưng em hỡi trần gian ôi ta biết,
Sẽ rời xa vĩnh viễn với người thôi.”Anh Bùi Cửu Viên đã nằm xuống như một người chân chính và thánh thiện, thể xác của anh dù có tan biết nhưng tâm hồn anh vẫn toả sáng rực rỏ như những ánh sao trên trời và hương linh củ anh vẫn bay cao về yên nghỉ trên nước Thiên Đàng nơi có tình thương bao la của Thiên Chúa che chở.
Chỉ thương cho người vợ, người đầu ấp tay gối trong một cuốc tình gắn bó trên 60 mươi năm, cuốc tình này đã trở nên hơi thở của đời sống, một khi không khí của đời sống bị chia cắt liệu rằng người vợ có chịu đựng được sự mất mát to lớn này hay không?
Điều mà chúng ta nên cầu nguyện và an ủi thật nhiều cho một người đó là chị Hồng Thuỷ. Xin chị hãy bình tĩnh, hãy lắng đọng trong tâm hồn để sẵn sàng đón nhận sự thật, về sự ra đi của anh Viên.
Tôi hko6ng biết nói gì hơn là góp lời cầu nguyên. Xin Thiên Chgu2a ban hồng ân của ngài đến với gia đình Hồng Thuỷ.
Tôi có ngẫu hứng viết bài thơ chia buồn, xin được chia sẻ
Đại Tá Bùi Cửu Viên
Trời vừa hừng sáng nhận hung tin
Như tiếng sấm sét nổ trong lòng
Một người nằm xuống buồn thương xót
Bùi Cửu Viên, đã chảy suôi dòng.
Tiễn người đi trời buồn như khóc
Tiếng nghẹn ngào nức nở thâu đêm
Hồng Thuỷ vợ hiền lòng thổn thức
Tan nát lòng đau cả nỗi niềm.
Người đi xa mãi không về lại
Ở tận cao xanh cõi hiển linh
Vẫn biết đời chỉ là cõi tạm
Nhưng sao nhớ mãi những ân tình.
Một mai lẻ bóng cõi lòng em
Đêm vắng chong đèn dõi mắt xem
Cái bóng bên tường anh hiện hữu
Bốn mùa thay lá rớt bên thềm.
Đơn lẻ mình em chiều phố vắng
Hẹn lòng ôm lấy mối tình riêng
Anh đi biền biệt phương trời rộng
Trên nước Thiên Đàng nơi cõi thiêng.
Lê Tuấn
Khóc thương một người anh Hải Quân Đại Tá Bùi Cữu Viên
Đã sớm vội ra đi bỏ lại người vợ hiền Hồng Thuỷ tràn ngập nỗi niềm thương khóc cho người chồng đã vội ra đi – 04-11-23
Bài viết ngắn này không đủ diễn tả hết những chân tình mà anh chị Cửu Viên & Hồng Thuỷ đã để lại trong tâm hồn chúng tôi.
Không có ngôn từ nào có thể diễn tả hết nỗi đau mất đi người thân, không có lời nào có thể an ủi hương linh người đã bay xa, và tâm hồn người còn ở lại.
Thôi thì xin góp tiếng trong lời kinh cầu nguyện và xin phó thác mọi chuyện cùng Thiên Chúa.
Như lời phó thác cuối cùng của Chúa Jesu trên thập tự giá:
“Lạy Cha. Con xin phó thác hồn con trong tay Cha”
Chúng tôi đã một lần đến thăm gia đình Anh Viên & Hồng Thuỷ, một lần đến thăm thủ đô Washington DC, thăm nhiều nơi có những thắng cảnh thật đẹp. Rồi cũng đến ngày chia tay trở về nhà.
Chúng tôi đã mang theo những gì? Ngoài những bức ảnh kỷ niệm, những đoạn phim và đặc biệt những tình cảm thật sâu đậm trong tâm hồn mà anh chị Cửu Viên & Hồng Thuỷ đã để lại.
Một lần nữa xin đa tạ những ân tình của anh chị Cửu Viên & Hồng Thuỷ.
Trân trọng
Lê Tuấn
MỜI ĐỌC BÀI PHỎNG VẤN: ĐẠI TÁ HẢI QUÂN BÙI CỬU VIÊN CỦA ĐÀI Á CHÂU TỰ DO – ĐỂ BIẾT THÊM VỀ NGƯỜI SĨ QUAN HQ CỦA QLVNCH TRONG NGÀY MẤT NƯỚC 29 THÁNG TƯ – KHÔNG NGẠI HIỂM NGUY, ĐÃ QUAY CHIẾN HẠM LẠI ĐỂ CỨU CHIẾC CHIẾN HẠM MẮC CẠN, TRÊN ĐÓ CHỨA HƠN 3000 NGƯỜI BỎ NƯỚC RA ĐI – MỘT TRONG SỐ ĐÓ LÀ ÔNG NGUYỄN VĂN KHANH, GIÁM ĐÔC BAN VIỆT NGỮ CỦA ĐÀI Á CHÂU TỰ DO SAU NÀY.
Hạm Trưởng Bất Đắc Dĩ Trong Ngày Di Tản
Hòa Ái, phóng viên RFA
Light Purple Defocused Blurred Motion Abstract Background, Widescreen, Horizontal CHIA BUỒN
Hai lúa Nguyễn Hoàng Linh
Gia đình Phê rô Nguyễn Hoàng Linh xin chân chia buồn cùng Văn Hữu Hồng Thủy và tang quyến. Hai lúa sẽ nhớ mãi kỷ niệm hôm gặp Chú Viên tại nhà thờ Cha Long lúc đưa một ông Giám Mục bà con hai lúa xuống làm lễ dưới nhà thờ Cha Long và đã được Chú tận tình chỉ dẫn đường đi gần hơn xuống Đại Vương Cung Thánh Đường dưới DC. Lần cuối cùng gặp Chú vào tháng 11 năm 2021 được sắp ngồi cạnh Chú suốt buổi tiệc. Hai lúa mê man nghe Chú kể chuyện ông chú rể hai lúa ( là đàn em khóa 10 HQ sau khóa của Chú Viên ) từng bị lột lon ra sao. Sau khi mãn tiệc Chú ra tận xe hai lúa lấy mấy cái bánh chưng hai lúa biếu Chú vì Chú nói cậu đậu xe bên thương xá Eden quay lại đây giờ này đường rất nhiều xe loay hoay coi chừng bị xe khác đụng nguy hiểm hiểm lắm !
Chú Viên sống tốt lành quá nên với niềm tin của một người Ki tô hữu , hai lúa tin rằng giờ này Chú đang ở trên Thiên Đàng rồi.
Hai lúa xin mạn phép ghi lại mấy vần thơ mọn vừa viết vội để tiễn Chú :TIỄN NGƯỜI VỪA VỀ NƯỚC CHÚA
Ngày nao hội ngộ thoắt vội đi
Mãn cuộc đời sinh ký tử qui
Kẻ ở gian trần lau ngấn lệ
Người về Nước Chúa khép bờ mi
Thâm tình chồng vợ đành ngăn cách
Nghĩa nặng cha con phải biệt ly
Bốn tám năm dài xa tổ quốc
Xác thân gởi lại đất Hoa KỳHai lúa Nguyễn Hoàng Linh NJ USA
CHÚNG CON CẬY VÌ DANH CHÚA NHÂN TỪ
XIN CHO LINH HỒN GIU SE ĐƯỢC LÊN CHỐN NGHỈ NGƠI
HẰNG XEM THẤY MẶT ĐỨC CHÚA TRỜI SÁNG LÁNG VUI VẺ VÔ CÙNG AMEN !Giã Biệt Anh Bùi Cửu Viên
Đêm ngày 10 tháng 4 (sau lễ Phục Sinh), lúc 12 giờ đêm, nhận text message từ chị Phương Hoa nhắn “MT ơi anh Viên mất rồi …” Tôi bàng hoàng sửng sờ, lục số phone chị PH để gọi lại, nhưng tay run lẩy bẩy tìm một hồi rất lâu mới được vì con mắt hoa lên.
Hôm nay buổi sớm thức dậy, mở tung cánh cửa sổ, trời nắng ấm sau đêm mưa dài, cây cối còn đọng những giọt nước mưa long lanh. Lại tiếp tục một ngày sống…Nhớ sự việc vừa xảy ra, tôi nghe tim nhói hồi hộp theo nhịp thở, bao nhiêu kỷ niệm ùa về vây bủa, đầu óc nhức buốt theo chuyện sinh ly tử biệt, nhớ những điều Phật dạy “chúng ta hãy nhìn nhận sự thật. Cái sự thật ấy nó diễn ra hằng ngày trong cuộc sống của mỗi cá nhân”. Tôi cố gắng hít sâu thở dài để tránh vướng mắc vào rối loạn tâm lý, nghĩ mông lung, nghĩ xa vời rồi trầm mình trong sự buồn đau thì tâm hồn sẽ bị khô héo gục ngã nhanh chóng. Vươn vai đón nhận ngày mới, vợ chồng tôi đến thăm người chị họ bị gãy xương chân đang nằm trong bệnh viện. Ba giờ chiều về lại muốn quên thực tại, vùi đầu ngồi họa bảy bài thơ bên hội thơ Đường để tránh suy nghĩ điều khác. Nhưng không dễ, đêm vẫn nhớ người anh đáng kính của mình, tôi muốn viết đôi điều để giải tỏa tâm tư cho vơi bớt phần nào nỗi buồn…
Tôi gia nhập vào hội Văn Bút Miền Đông Bắc Hoa Kỳ dưới sự điều hành của chị Hồng Thuỷ. Đầu tháng tư năm 2019, chị Hồng Thuỷ mời chúng tôi gồm chị Đỗ Dung, chị Phương Hoa và tôi qua dự buổi ra mắt sách “Tuyển Tập Văn Bút Miền Đông”, sau nữa là ngắm hoa Anh Đào nở đúng mùa. Vợ chồng anh Đức và chị Bội Hằng cũng lên ở lại nhà anh chị, nên tiện đón chúng tôi.
Tấm lòng anh chị luôn rộng mở với khách thập phương từ hội Trưng Vương, hội Văn Bút cùng nhiều hội nữa. Hình ảnh đầu tiên gặp anh, người đàn ông có dáng cao, thanh nhã lịch sự rất đẹp trai, tôi nghĩ thầm “tới tuổi gần 90 nhưng nét đẹp vẫn còn lưu lại trên gương mặt so bao người già đã bị thời gian tàn phá, huống hồ gì lúc thanh niên có lẽ giữ ngôi vị hoa vương”.Anh bày tỏ sự thân thiện, khoe chúng tôi tờ giấy in những món ăn sáng cho cả tuần. Mỗi sáng anh dậy thật sớm pha cà phê, nướng bánh mì, tráng trứng, chiên lạp xưởng hoặc bày nhiều món khác ép ăn trước khi đi chơi, chưa kể anh còn hâm ly sữa nóng để trước mặt chúng tôi bắt uống nữa. Anh chở đi xem hoa Anh Đào (Tidal Basin), dọc theo đài tưởng niệm tổng thống Franklin Roosevelt, công viên Vietnam Memorial, tượng đài TT Abraham Lincoln, tháp bút chì (Washington Monument, Capitol Building (Quốc Hội), Washington Mall, khu Kenwood. Những nơi không có chỗ đậu xe, anh phải chạy vòng vòng chờ các chị em cợt nắng đùa hoa, ẻo lả chơi vơi du hồn thả mộng quên luôn ông anh gồng mình hy sinh mấy tiếng đồng hồ. Những chỗ được đậu xe anh đóng vai trò đạo diễn và nhiếp ảnh gia mờ mắt theo sự say mê đóng phim của mấy cô em.
Đêm họp mặt tại nhà hàng Harvest Moon thuộc tiểu bang Virginia được gặp mặt đông đủ các hội viên. Qua lời kể lại của các chị ngồi chung bàn: anh là chiến sĩ Hải Quân của VNCH với cấp bậc Đại Tá trước năm 75. Ngày mất nước theo luồng sóng đưa đẩy, gia đình anh chị đã xuống thuyền, và cứu vớt ba ngàn dân bởi chiếc tàu khác bị mắc cạn trên sông.Mỗi tối được chị Hồng Thuỷ nấu đủ các món ngon nhất trên đời, trong buổi dùng cơm nói chuyện cùng nhau, anh Viên tâm tình được hiểu: Anh có nỗi băn khoăn bứt rứt của kẻ ra đi bỏ lại quê hương điêu tàn. Anh lầm lũi sống âm thầm và có quan niệm nhìn về hiện tại, bắt tay vào đời sống mới, muốn làm những điều tốt đẹp cho xã hội, đất nước Hoa Kỳ đã cưu mang. Bước đầu anh chị cũng vất vả như bao người, không từ nan những việc cực nhọc nhất lo cho con cái ăn học. Khi kết quả các con đã thành danh, thành tài, chị có thời gian rảnh rỗi, đã tích cực tham gia những hoạt động xã hội nhiều hơn và anh luôn là người yểm trợ sau lưng.
Chuyến thứ hai vào tháng 10 năm 2021. Nhóm gồm chị Phương Hoa, chị Kim Phú và tôi dùng vé bị đình lại của năm 2020 bởi dịch Coronavirus bùng khởi. Đêm bước xuống phi trường Dulles, trời gió lạnh. Trong lúc đứng chờ lấy hành lý đã thấy ông anh tuổi trên 90 đi rảo quanh tìm kiếm chúng tôi, hình ảnh đó mãi ăn sâu tâm trí, trong tim tôi cảm xúc dạt dào,thêm vào nữa có tô bún riêu cua do người chị 80 tuổi nấu sẵn chờ chúng tôi về, cùng có mặt chị Phan Lang qua trước một ngày.
Đến nhà vẫn cảnh cũ màn hai, anh Viên cũng tuyên bố như lần đầu lúc chúng tôi đòi vào bếp “bước vào nhà này phải tuân hành theo chủ nhà không được trái ý”, nghĩa là mỗi sáng chỉ mình anh được quyền đứng bếp, hỏi từng người dùng gì, uống gì, ăn gì để anh phục vụ và ..ép ăn thức bổ dưỡng.
Chúng tôi dự tiệc họp mặt VBVNHN cũng như ra mắt tuyển tập. Những ngày khác đến nhà Cung Lan, Phương Thuý vui tiếp. Rồi đến khu thương mại Eden tham gia hội sách triển lãm ngoài trời do Nhà Việt Nam, Câu Lạc Bộ Văn Học Nghệ Thuật vùng Hoa Thịnh Đốn, và Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại phối hợp. Có một ngày anh Cửu Viên kêu gọi nhiều nơi thuê xe lớn, tiện việc đi cùng một xe vào rừng ngắm lá vàng Skyline Drive, nhưng hết xe nên anh chị lái hai chiếc. Đi và về cũng như chạy vòng vòng trong rừng hơn 8 tiếng, tôi thầm phục anh chị có nhiều sức khỏe và quá giỏi về mọi mặt.
Tháng tư năm này chị Phan Lang, chị Phương Hoa, thầy Lê Tuấn (anh họ chị Hồng Thuỷ) cùng thầy Thái (nhóm Văn Thơ Lạc Việt) qua chiêm ngưỡng hoa Anh Đào lại được anh chị mời đón về nhà. Tôi rất tiếc vì ông xã bịnh hơi yếu nên không yên tâm tham gia.
Tuy kẻ ở tiểu bang này, người ở tiểu bang khác, và bản tánh tôi lười nói chuyện cũng như thăm hỏi, nhất là gặp những tin buồn tôi lại càng cứng miệng. Nhưng hình ảnh người anh trên 90 và người chị trên 80 tuổi luôn là bóng mát cho tôi tìm niềm an ủi tinh thần khi không còn cha mẹ, hễ nhớ đến là thấy vui tràn trề tăng nhiều năng lượng vào người. Để ý thầm biết anh thích ăn cá salmon, dù thức dùng tủ lạnh nhà anh chị luôn ngập ứ, không thiếu thứ gì nhưng tôi cứ để tình thương sai khiến, bày tỏ chút xíu lòng quý mến của mình đến ông anh, nên mỗi mùa lạnh tôi vẫn thích gởi bò khô và chà bông cá salmon. Chị Hồng Thuỷ gọi phone cho biết “ông già trên 90 chứ vẫn thích nhai bò khô cay xé lưỡi ngon lành”, tôi vui hơn nghĩ ông anh được tuổi thọ, trí tuệ sáng suốt, sức khỏe dồi dào, lái xe đi khắp nơi, tinh thần lạc quan hưởng tuổi già, đó là phước phần lớn trời cho không dễ mấy ai có được.
Lần này nhờ dự chung tiệc trước ngày chị Phương Hoa đi qua Washington DC, nên tôi có cơ hội gởi tiếp chà bông cá cho anh, dặn chị PH chuyển hình xem anh chị nay ra sao. Chị Phan Lang và thầy Tuấn gởi video cũng như hình ảnh, thấy anh vẫn khỏe mạnh tươi cười cụng ly, tôi mừng cho sức khỏe của anh. Khi chị Phương Hoa khóc ngất báo tin và nói câu ngây ngô “chết rồi anh Viên chưa ăn chà bông cá Thuý gởi”, tôi phải bật cười dù nước mắt chan hoà.
Sinh Lão Bệnh Tử vốn là quy luật của cuộc sống. Có ai không chết, có ai sống hoài. Anh Viên đã dùng tấm thân vô thường để bơi qua dòng sông Sinh Tử bằng những việc làm có ý nghĩa, sống cho người tràn yêu thương vui vẻ.
Sinh ly tử biệt là điều đau đớn cho người vợ, các con và sự thương tiếc khôn cùng của người thân, bạn bè xa gần. Anh chỉ bỏ đi thân xác, chứ hình ảnh, nghĩa cử của anh luôn nằm trong trái tim các em, mà mỗi khi nhớ đến lại thầy lòng ấm áp sung sướng vô biên.
Đã đến lúc Chúa gọi anh về. Chúa dang rộng vòng tay yêu thương vỗ về con chiên ngoan đạo, đã từng thực hành lời Chúa dạy có lối sống đẹp, biết san sẻ cho cuộc đời này.
Anh ngủ yên! Thanh thản về chốn Thiên Đàng hưởng nhan Thánh Chúa. Anh vẫn sống trong lòng mọi người, trong tâm tưởng các em.
Minh Thúy Thành NộiNgày 11 tháng 4 năm 2023
Xa Anh Thật Rồi
(Xin được viết thay và thương quý gởi đến chị Hồng Thủy
Tiếc thương người anh, Bùi Cửu Viên vừa tạ thế)*
Xuân còn nắng tươi
Sao anh vội rời
Trần gian vắng người
Em buồn lệ rơiAnh ơi ngỡ ngàng
Đời vui đứt ngang
Tình em dở dang
Còn đâu đá vàngĐêm như ngủ yên
Em ôm gối buồn
Hương anh vẫn còn
Nồng nàng ấm êmThời gian rất dài
Bên nhau ngọt ngào
Tim đầy bóng ai
Duyên tròn khó phaiBờ mi nhạt nhòa
Lăn theo giọt sầu
Nghe lòng buốt đau
Thương hoài khắc sâuEm dâng nguyện lời
Ơn trên Chúa trời
Anh về với Người
Thiên đàng mãi vuiDương Việt-Chỉnh 12/4/2023
PHẠM PHAN LANG
Chị Hồng Thủy Thương Yêu,
Lúc được chị gọi lúc 3 giờ sáng, 11/4/2023 với tiếng khóc nức nở “em ơi, anh đã đi rồi”, em nghe như sét đánh bên tai! Tưởng nghe nhầm, em hỏi lại chị, rồi bật òa khóc cùng chị, làm cả nhà hốt hoảng, vây quanh. Từ hôm đó đến nay, dù bận rộn con cháu về thăm, không lúc nào em không nghĩ về anh chị. Chỉ mới đúng một tuần sau khi từ giã anh chị ra về (lúc đó anh vẫn còn khỏe, dù có hơi mệt và húng hắng ho, nhưng vẫn nhất quyết đưa chúng em ra phi trường, lái xe đi về gần hai tiếng đồng hồ) mà nay anh đã không còn nữa! Thật quá đau lòng.
Trước khi đi, anh còn pha cafe/nước trà và chiên trứng cho mọi người ăn sáng như mọi hôm. Ăn xong, anh còn nhắc em nhớ mang thức ăn để ăn trên máy bay. Thấy em chần chừ, anh lại giục nướng bánh Pate Chaude con gái biếu anh chị để mang theo. Em nướng hai cái thì anh lại bỏ vào lò nướng thêm hai cái nữa cho em. Giờ đây nghĩ lại giây phút đó và những săn sóc chu đáo anh dành cho cả nhóm trong suốt tuần lễ ở nhà anh chị, em lại xúc động nghẹn ngào, không cầm được nước mắt.
Anh đi rồi, chị của em biết sẽ làm sao? Em biết một cuộc tình nồng ấm, đầy yêu thương, hạnh phúc trên 60 năm của anh chị sẽ không dễ gì quên trong một sớm một chiều nhưng hãy rán lên chị nhé và xin chị hãy nghĩ rằng “mọi việc rồi cũng sẽ qua” và nếu phần số anh đã hết mà anh được ra đi nhanh chóng, thanh thản, không kéo dài thân xác đau đớn lê thê và làm khổ người nhà là một diễm phúc đó chị.
Nguyện cầu linh hồn anh Giuse Bùi Cửu Viên sớm được hưởng nhan Thánh Chúa và chúc chị bình an, mạnh khỏe, nhiều nghị lực để lo hậu sự cho anh và vượt qua cơn đau buồn vô cùng này.
Thành kính phân ưu cùng chị và gia đình,
Em PLang & Barry
Khóc Anh Bùi Cửu Viên
*
Tin anh “đã mất” thật đau lòng
Nghe như tiếng sét tự thinh không
Sửng sốt, bàng hoàng, tim nhỏ lệ
Thương chị từ nay vắng bóng chồng
*
Chỉ mới tuần rồi ở nhà anh
Đón đưa nấu nướng anh thật nhanh
Thân ái, nhiệt tình anh săn sóc
Giờ đây hồi tưởng lệ vòng quanh
*
Xin anh nhẹ bước đừng lưu luyến
Nơi cõi trần gian lắm muộn phiền
Bên kia thế giới anh phù hộ
Vợ hiền yêu dấu được bình yên
*
Thành tâm em kính nén hương lòng
Nguyện xin chốn ấy anh thong dong
Thiên đường rộng mở anh thanh thản
An nghỉ vui chơi bến Vĩnh Hằng
PhamPhanLang
13/4/2023
CHỊ ƠI!
Đỗ Dung
CHỊ ƠI!
_ Chị ơi, chị ơi…
Oh My God! Oh My God!… Đầu óc lùng bùng và tôi bật khóc. Đã mấy năm nay nước mắt tôi như khô cạn mà không hiểu sao hôm nay như vỡ oà. Tôi khóc như chưa bao giờ khóc và chỉ kêu lên “Chị ơi…Chị ơi…”
1 giờ khuya giờ Cali, rạng sáng 11/4, nhìn vào phone thấy tin nhắn của PH “ Anh Viên đã đi!” như sét đánh ngang tai. Tôi không tin ở mắt tôi, tôi không tin ở tai tôi và vừa khóc nức nở vừa text cho chị Hồng Thủy: “Chị ơi, chị ơi… em đang khóc!” Nhà tôi đang ngủ trong phòng nghe tiếng khóc cũng hốt hoảng chạy ra:
_ Có chuyện gì? Có chuyện gì vậy?
_ Anh Viên, anh Viên chết rồi!
Anh cũng sững sờ, bàng hoàng không kém. Chỉ biết ngồi bên cạnh xoa lưng an ủi vợ. Chợt tiếng điện thoại reo. Chị Hồng Thuỷ!
_ Chị!
Nước mắt lại tuôn như mưa. Hai chị em cùng nghẹn ngào.
_ Chị vừa ở nhà thương về, mới bước vào nhà đây!
Qua màn nước mắt chị kể về mấy ngày cuối cuả anh. Nhà tôi đã vào phòng ngủ để hai chị em nói chuyện. Nghe chị kể mà thương làm sao, xót làm sao. Cũng được niềm an ủi là mấy ngày cuối anh có chị kề bên và phút lâm chung cũng có người vợ yêu quý ở bên cạnh săn sóc.
Hơn sáu mươi năm đầu gối tay ấp; từ thuở trẻ đến già; từ khi vinh quang tột đỉnh đến lúc nhọc nhằn khốn khó; vui buồn, sướng khổ có nhau – lúc nào anh cũng như cây cổ thụ rợp bóng che chở, một nơi chốn bình yên để chị trở về nép vào nương tựa những khi gặp trở ngại, chông gai, những va chạm trên đường đời… Bây giờ anh đi rồi! Chị ơi, em thương chị quá!
Những ngày sống dưới mái nhà của anh chị, em và các bạn em chắc chắn không bao giờ quên. Anh đúng là một người tuyệt hảo, thương yêu chị vô cùng, anh chăm sóc chị chu đáo như một người anh cả lo lắng, chở che. Anh ít nói nhưng anh đã giúp chị và sát cánh bên chị trong mọi nơi, mọi việc. Bây giờ anh đã ra đi thì chị sẽ hụt hẫng như thế nào. Chị ơi…
Những hình ảnh về anh chập chùng ẩn hiện. Mới ngày naò. Hai anh chị thật là cặp đôi lý tưởng, tâm hồn rộng mở, tính nết hiền hòa, tư cách khiêm cung. Anh chị đón các em đến nhà bằng tình yêu thương chân thật, đậm đà, chan hoà khiến các em luôn có cảm tưởng về thăm ngôi nhà của anh chị ruột.
Chị vừa thút thít vừa kể:
_ Em ơi, anh ra đi rất nhẹ nhàng, bình yên. Chị chỉ thương là nếu biết trước thì chị đã cản không để nhà thương đâm những mũi kim vào thân thể anh khiến anh phải có những lúc đau đớn. Chị không để người ta ép anh uống cả galon nước để sửa soạn làm colonoscopy, thương anh quá nhưng chỉ biết ngồi bên cạnh vỗ về, xoa bóp. Em ơi… Không ngờ anh ra đi nhanh thế. Chị thật ngỡ ngàng nhưng cũng an ủi là ngày cuối giun giủi thế nào mà người y tá trực đã bằng lòng cho chị được ở lại bên anh mặc dù luật lệ nhà thương không cho phép. Chị đã tự tay lau chùi, thay quần áo cho anh, bón anh từng thìa nước và lúc anh trút hơi thở cuối cùng chỉ đã ôm chặt thân xác anh, không nghĩ là anh đã bỏ chị đi thật rồi. Em ơi, chị không nỡ rời anh và ngồi lại bên anh mấy tiếng mới về đây.
_Chị ơi… Xin chị giữ gìn sức khỏe. Khuya quá rồi chị đi ngủ đi để còn sức lo bao nhiêu việc. Chị ngủ ngon đừng sợ gì nhá. Khi em ở nhà chị, một mình em ở nhà dưới mênh mông mà em thấy rất an lành. Chị ngủ cho khỏe nha chị.
(Chả là chị luôn nói với chúng tôi là anh mà đi trước không biết chị sẽ ra sao vì eo ôi… Ở một mình chị sợ ma lắm).
_Ôm thân thể anh lúc anh đã trút hơi thở rồi chị không thấy sợ gì cả, chị không chấp nhận được là anh đã bỏ chị vĩnh viễn. Buồn quá em ơi. Thôi em cũng đi ngủ đi, khuya rồi. Chị cũng đi ngủ đây!
Tôi tắt điện thoại chui nhẹ vào giường sợ phá giấc ngủ ông chồng già của tôi. Tôi không tài nào ngủ được. Hai ngày qua khi nghe tin anh phải vào nhà thương, nhóm chúng tôi cùng hẹn giờ để chung sức hỗ trợ năng lượng để anh mau tai qua nạn khỏi. Nhìn tấm hình anh, nhìn vào cặp mắt và khuôn mặt hiền từ cuả anh, tự nhiên tôi thương quá. Tôi đã thấy một màng voan mỏng, một áng mây đen. Một cảm giác khác thường, lạ lùng nhưng chẳng dám nói ra.
Tin anh Viên mất tôi cũng bàng hoàng, sửng sốt như khi nghe tin anh cả của tôi mất, cũng như một luồng điện giật. Đau đớn!
Bây giờ anh đã đi xa, thật xa… Phút cuối của cuộc đời anh cũng chẳng phiền hà ai, anh vui vẻ, khỏe mạnh cho đến ngày chót. Đến ngày, đến giờ thì anh thoải mái, thong dong ra đi. Anh đã thương yêu chị suốt cuộc đời. Anh không có những ngày tháng bịnh hoạn khiến chị phải lo lắng cực nhọc vì anh.
Chị ơi! Sự ra đi đột ngột là sự mất mát to lớn, sự đau đớn kinh hoàng với chị. Nhưng vạn vật vô thường, Sinh Ký Tử Qui. Thiên Chuá đã đón anh về vùng an lạc tuyệt vời bên chân Chuá.
Chị nghĩ về anh thì anh vẫn luôn bên chị, con cháu hiếu thảo sẽ bàn nhau để sắp xếp cho chị một cuộc sống êm đềm.
Buổi sáng thức dậy đầu óc hơi nặng, tôi mở computer, tin anh mất và những lời phân ưu tràn ngập các diễn đàn. Những lời chia buồn thật chân thành, những hình ảnh đẹp, những kỷ niệm vui, những chuyện tốt lành về anh được đem ra chia sẻ.
Chị và các cháu phải thật hãnh diện về chồng và cha của mình, Đại Tá Hải Quân BÙI CỬU VIÊN, một VIÊN NGỌC QUÝ CỦA VNCH. Chúng em cũng vậy. HÃNH DIỆN QÚA! chị ơi!
Đỗ Dung
CĂN NHÀ HẠNH PHÚC
HOÀNG DUNG
Đã mấy ngày rồi nghe tin anh Viên mất, đầu nhức như búa bổ, cổ họng cứng ngắc như bị ai khóa lại, cứ ngồi im re ngó ra ngoài vườn nhìn mấy nhánh cây ngả nghiêng, xôn xao xì xầm với anh chàng gió, mấy chú chim cũng ríu rít chuyền từ cành này sang cành nọ như đang bảo nhau, “Anh Viên mất rồi, làm sao đây?? Chị Hồng Thủy sẽ làm sao đây? Căn nhà hạnh phúc sẽ như thế nào đây? Chúng ta những chị em yêu mến của chị Hồng Thủy sẽ làm gì đây?”
Bên tai lại còn nghe văng vẳng tiếng anh Viên mấy hôm trước bảo rằng: “Có bia đấy Hoàng Dung”
Ủa làm sao anh Viên biết mình thích uống bia zậy ta? Thì ra anh Viên ít nói nhưng lúc nào cũng để ý tới từng đứa em xem chúng nó thích cái gì, có lẽ mỗi lần họp mặt ở những party anh Viên hay nghe chị Liên Phương chủ nhà nói “Có bia đấy Hoàng Dung”
Viết tới đây thì cảm thấy buồng tim đau buốt, như có cái gì đâm vào khiến nước mắt bật ra, ít ra lúc này mới cảm thấy được như thế, chứ mấy hôm trước nó cứ trơ như đá, cả lồng ngực như bị nguyên một tảng đá thật to đè nặng xuống.
Nói với ông chồng “Không ngờ cái chết của anh Viên lại ảnh hưởng nặng nề tới mình như thế anh nhỉ!” Chàng ta nói “Làm sao được, mấy mươi năm nay mình luôn trông thấy anh ấy cơ mà, có lẽ mình cảm thấy gần gủi anh ấy hơn cả cha mẹ mình, anh em mình nữa kìa!”(Vì mấy vị ấy ở rất xa chúng tôi, khuất tầm mắt nhìn)
Lại nghĩ tới những ngày vui ở nhà chị Hồng Thủy, làm gì thì làm hể mỗi lần mấy chị em ở xa về là chị Hồng Thủy vời cho được Hoàng Dung đến để kể chuyện… bậy, để làm cho các chị cười nghiêng ngả. Có lúc Hoàng Dung đang chăm cháu ở mãi Cali cũng phải mua vé máy bay gấp trở về để làm vui lòng chị Hồng Thủy. Mỗi lần Hoàng Dung bắt đầu kể chuyện là anh Viên chạy lăn xăn bảo với mọi người, “Này… này… các bà làm sao thì làm đừng có cười quá mà làm ướt hết ghế của tôi đấy nhá” ha… ha…
Rồi đây vắng anh Viên căn nhà hạnh phúc ấy có còn được những tiếng cười ngả nghiêng rộn rã của các anh chị em từ mọi nơi đổ về nữa hay không?
Dầu sao Hoàng Dung cũng đã được ngủ trong căn nhà hạnh phúc ấy được một lần, thật ấm áp, thật hạnh phúc.
Hoàngdungdc April/14/2023
NÉN NHANG XIN THẮP
*
Năm năm rồi … có lẽ (*)
Chưa một lần ghé thăm
Lòng nhủ lòng là sẽ…
Bên anh chị tri ân
*
Từ nay… thôi từ biệt
Thành phố hoa đào xinh
Và ngôi nhà thắm thiết
Chị nay sống một mình
*
Một nén nhang xin thắp
Tạ lỗi: anh chị Viên
Ngày tiễn đưa vắng mặt
Chắc vì chưa đủ duyên?
*
Anh mất nhanh… có lẽ
Là đúng số mệnh mà
“Sống khỏe đi rất… khẽ
Thân xác không hành hà
*
Quay trở về nước Chúa
Thả xuống những lụy phiền
Trần gian chơi vài bữa
Sống gửi, thác về Thiên
*
Kiều Mộng Hà
14-4-2023
(*) tháng 4/2018
Thương Tiếc anh Bùi Cửu Viên
Chị Hồng Thủy yêu mến của em ơi
Nghe tin buồn em quá ngỡ ngàng
Tuy vẫn biết đời là cõi tạm
Mà sao giọt lệ vẫn dâng trànTừ nay vắng bóng người tri kỷ
Đừng nghĩ tình yêu quá phũ phàng
Bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa giữ
Thành nguồn an ủi kẻ cô liêuTuy anh đã về nơi vĩnh cửu
Hương hồn anh tỏa sáng nơi nơi
Anh sẽ bên chị khi chị khóc
Và khi chị cười anh cũng vui theoChị ạ anh về bên suối mát
Một ngày anh chị sẽ bên nhau
Hồn anh thanh thản nơi tiên cảnh
Xin chị an bình chốn thế gianTình yêu quá đẹp không hề mất
Hương xưa phảng phất sẽ chẳng phai
Mong chị nguôi ngoai lòng thương nhớ
Mãi mãi muôn đời chị có anh
Diệm TrânThưa chị Hồng Thủy
Vô cùng đau buồn khi nhận được hung tin anh Bùi Cửu Viên phu quân đáng kính của chị vừa qua đời. Mới đây anh ấy vẫn còn khỏe và rất tỉnh táo.Tôi cứ tưởng rằng anh ấy sẽ sống thọ hơn.
Tôi rất quý trọng anh ấy. Cựu Hải Quân Đại Tá Bùi Cửu Viên mà tôi hân hạnh được biết là một Hiền Nhân Quân Tử hiếm có trong thời đại ngày nay.Anh là Cây Đa, Cây Đề trong văn hóa dân tộc Việt. Xòe cánh tay che chở đàn em.Không nề hà tuổi tác, cấp bậc cũ, thân thiện với đàn em.Anh góp công sức rất nhiều cho 5 Đại Hội Văn Bút Mùa Hoa Anh Đào trước thời Đại Dịch. Trong một lần bị mất túi tiền, tôi xin được xuất quỹ bù vào nhưng anh đã nhất quyết không chịu, tôi không biết làm sao để cảm ơn anh. Anh đối với tôi thân thiết như người em thân thiên không có khoảng cách mặc dù tôi chỉ là một cựu Đại Úy.Chị thật là hạnh phúc tốt số khi có được vị Phu Quân như anh Bùi Cửu Viên.Trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có nhiều vị Đại Tá nhưng công trạng, tài ba và phong cách như hàng Tướng Lãnh trong đó có Hải Quân Đại Tá Bùi Cửu Viên.
Tôi thiếu nợ chị Hồng Thủy rất nhiều nước mắt, hôm nay xin chị cho tôi được khóc Phu Quân Bùi Cửu Viên của chị nhé !KHÓC ANH BÙI CỪU VIÊN
Mất Anh buồn lắm Anh Viên ơi !
Bỏ lại trần gian bỏ bạn đời
Chiến hạm lênh đênh thuyền mất lái
Hải hành ngàn dặm giữa xa khơi.Khóc Anh dù có bao nhiêu lệ
Cũng chẳng là bao cho cạn lời
Bái biệt Anh Hùng ngôn bất tận
Mong Anh thanh thản chốn Yên Vui.Đăng Nguyên
Thành tâm phân ưu cùng người em gái văn chương, tài hoa, khiêm cung, đức hạnh Hồng Thủy, chủ tịch hội VNVBHNVDBHK, và kính tiễn đưa hương linh ĐạiTá Bùi Cửu Viên, một anh Hùng đất Việt, về nơi an nghỉ cuối cùng với chúa.
Kính quý,
Cao Minh Nguyệt và gia đình.
Sáu Mươi Năm Lẻ
Sáu mươi năm lẻ mặn nồng
Khổ đau, sung sướng vợ chồng có nhau
Quê người tháng lụn, mưa mau
Cơm lành, canh ngọt; con, dâu, rể hiền
*
Đời vui hạnh phúc triền miên
Thế gian sánh với cõi tiên ngang hàng
Trách ông Thiên Sứ phủ phàng
Đón anh đi, chẳng đoái màng đến em
*
Hôm nào bạn hữu êm đềm
Giờ anh khuất bóng, đá mềm lệ rơi
Sông còn khi lở, khi bồi
Nhưng anh không hẹn khứ hồi được đâu
*
Cũng không bằng vợ chồng Ngâu
Mỗi năm tái ngộ vui câu đá vàng
Tình ta như nước trường giang
Thiên thu vẫn mãi một làn thủy chung
*
Cửu Viên đất Việt người hùng
Em hân hoan núp bóng Tùng của anh
Gia đình ta vẫn tụ quanh
Chờ ngày chúa gọi cùng anh lại về
*
Đôi ta nối lại câu thề
Ở nơi vĩnh viễn không hề khổ đau.
Viết cho em Hồng Thủy thương.
April 2023 – Las Vegas.
*
Cao Minh Nguyệt.
Được tin cựu đại tá Hải Quân Bùi Cửu Viên ,phu quân của Hồng Thủy mới qua đời,Thanh Hoà ngỡ ngàng , thương tiếc vô cùng. Nhân dịp cuối tháng tư, T.H xin trân trọng viết lại một kỷ niệm đầy ắp tình người của Đại Tá đã để lại cho hậu thế. Bài này viết từ mấy tháng trước, khi TH mới được biết anh Bùi Cửu Viên chính là ân nhân của hàng ngàn người, trong đó có Đỗ Trung Quân. Người lính trẻ này đã rất ngưỡng mộ Đại Tá và hằng cầu nguyện cho nguyên Soái Hạm Trưởng 801 được hưởng nhiều hồng ơn Thiên Chúa. Vì quá bận không gửi trước cho CE,nay Thanh Hòa cảm thấy phải gửi cho CE Cô Gái Việt và Minh Châu Trời Đông để tường lãm...
Thanh Hòa
TẠ ƠN ÂN NHÂN
*
Những ngày cuối tháng Tư/1975, lòng dân chúng ở SG hoảng loạn vô cùng, ai cũng muốn tránh CS, chỉ muốn tìm đường chạy. Bằng cách nào, muốn đi đâu cũng cần tiền. Tôi khi đó, cùng vợ và đứa con thơ mới được 10 tháng, đang ở SG, (cũng do mới bị thương trên chiến trường, được tạm làm trong An Ninh quân đội). Ngày thì đôn đáo tìm đường đi, rồi việc sở, tối thì thao thức. Sáng ngày 24/04 còn chập chờn thì thấy đầu giường mình, người bạn trong quân ngũ dạo còn trong Sư Đoàn Bộ Bình, mặt tươi tắn, nói: ”Quân ơi, cố lên đi,mọi sự sẽ ổn,tớ luôn giúp cậu” Thì ra mình vừa nằm mơ, không hiểu sẽ có chuyện gì sẩy ra,chỉ vội vào sở .Tới nơi thì được xếp chỉ thị đi đón một gia đình Hải Quân, đưa và Căn Cứ ở bến Bạch Đằng.Tới cổng,có người lính ra đón,sau khi xem giấy tờ, đếm số người,rồi đưa tất cả và một ngôi nhà gần đó. Chợt thấy tôi là tài xế,anh ta vội chạy ra nói:”Anh Quân đấy hả?”
Thì ra người này là em ruột của một bạn cùng khoá Bộ Binh. Anh ta nói nhỏ “Anh nên vào ngay chiều nay đi!” Vui mừng khôn siết, tôi vội về đón vợ con và đem theo vỏn vẹn một bịch đồ cháu bé, gồm mấy hộp sữa bột, bình nhựa lớn nước lọc và mấy chục bao mì gói. Lại chính người em bạn này đón và đưa vào một căn nhà ngay góc cổng (sau này mới biết đây là nhà của đại tá Hải Quân V.K.Luân. Vô nhà thì đã thấy nhiều người trong đó,Tuyệt nhiên tôi không giáp mặt chủ nhà, mà chỉ thấy một bà cụ và vài cháu trai nhỏ cỡ 9,10 tuổi,nghe nói là người trông nhà giùm. Ai cũng thầm hiểu ngồi đây để chờ phút lên tầu, nhưng không ai biết giờ nào và sẽ được lên tầu nào?
Ai nấy đều giữ im lặng. Xung quanh hàng xóm cũng không thấy người ra vào.
Đây là khu Gia Binh,qua đường là tới khu Trại Lính. Thỉnh thoảng tôi thấy một cháu nhỏ,băng đường qua phía bên kia ,không trở lại. Lạ quá là bà cụ cũng biến đi đâu luôn,chẳng ai biết. Có vài người bắt chước băng qua đường làm như mấy cháu nhỏ, nhưng lại phải quay về vì họ không cho vào.
Đợi chờ mỏi mệt ,đã vài ngày lặng lẽ,không động tĩnh,tôi bèn quyết định xách bịch sữa,vợ tôi thì địu cháu,bỏ nhà, ra đường,đi về phía bến. Mới đi qua vài căn nhà thì nghe tiếng gọi “ Quân! Mày đi đâu đó?” Tìm ra nơi phát ra tiếng nói thì tôi vội đi sát bờ tường,qua một khung sắt nhỏ bằng hai quyển vở,lộ ra một khuôn mặt,lại đúng là mặt của một người bạn thân, đang được làm lính bảo vệ cho một vị lớn. Tôi ghé sát tai vô cái khung sắt nhỏ đó thì được nghe như sau:
”Đi ngay thôi! 5 vị tướng sáng nay vào cả rồi”!
Tôi vội vàng chạy lại nắm tay vợ đi tiếp về phía tầu đỗ. Trên một Soái Hạm sát bờ, có vài người trên bong tầu đang thả dây thừng kéo người lên…Tôi bèn đặt cái túi nặng xuống đất và nhấc cháu địu chặt sau lưng và túm lấy một dây. Vừa địu con sau lưng vừa giúp vợ leo lên bong tầu.
Khi lên tới bong tầu mới phát hiện quên cái bịch lương thực của con. Tôi la vọng xuống:
“Ai làm ơn đeo cái bịch của tôi dưới đó, tôi sẽ kéo lên ngay!”
May sao có một thanh niên chụp ngay cái bịch. Thế là tôi khéo anh ta lên, rồi còn giúp cho vài người khác nữa…Nhìn vào bên trong thì ôi thôi, người đông nghẹt, chẳng biết họ lên từ bao giờ và đi vào bằng cách nào? Định thần lại thì mới biết mình đang ở trên Soái Hạm HQ1.
Loay hoay một lúc tôi kiếm cho gia đình nhỏ bé của tôi được một chỗ trú kín đáo, đó là ngay ổ súng đại bác đen ngòm, rất to ở đuôi tầu.
Hôm nay là ngày 28/04 .Soái Hạm rời bến lúc 7 g chiều. Ngoảnh nhìn ,thì chao ôi,người chạy bộ nguời lái xe gắn máy đuổi theo tầu, miệng la, ó, tay ngoắc ,vẫy…không sao ngăn được nước mắt!
Soái hạm đi được khoảng 1 giờ thì tới khu Rừng Sát. Bóng tối bao trùm vạn vật. Mải lo cho vợ con, tôi không biết tầu đã ngưng chạy vì vừa ủi vào bãi cát, bị sa lầy. Loa phóng thanh vang lên, yêu cầu mọi người lui về phía sau cho phần mũi, húc vào cát được nhẹ đi,hầu dễ bề lùi ra sau. Máy tầu rú lên từng hồi…cố công mấy cũng vô hiệu quả! Nhìn vô rừng thì mênh mông đen ngòm ,lâu lâu lại loé lên một chùm sáng,hẳn là chiến trận đôi nơi còn tiếp diễn…
Lòng thầm nhủ: Nếu không ra khỏi nơi đây thì sớm mai, Cộng quân thấy được thì chỉ có nước chết!
Đã có một giây nghĩ: Giá ở SG thì còn kiếm được đường chạy chứ nơi đây, biết trốn nơi đâu?
Thật là hãi hùng !
Trong khi đó,nhìn ra sông thì thi thoảng lại có một soái hạm hoặc tầu lớn đi từ phía SG tiến ra khơi, ngang qua HQ1 của mình! HQ1 kêu cứu nhưng chả con tầu nào ngừng lại,giúp mình.
Tôi cũng như mọi người, dõi mắt nhìn theo từng con tầu xa dần ,nhỏ dần rồi mất hút trong đại dương,lòng tràn nỗi tuyệt vọng,cay đắng!
Tới gần sáng ngày 29/04 thì có một Soái Hạm từ phía SG đi ra,lướt qua HQ1 ,tiến ra biển như những tầu khác…lại nhỏ dần! Nhỏ dần…thêm tuyệt vọng một lần nữa!
Tôi dõi mắt nhìn theo, cúi đầu cầu nguyện…Sau một hồi, Ô kìa,! cái chấm nhỏ ấy lại to dần,to dần.Tôi sửng sốt,không lý tầu trở lại cứu mình ? Hay là tàu nào đó có nhiệm vụ đặc biệt trở lại SG, hoặc giả tầu buôn nước nào ? Tôi cố kìm nỗi vui mừng ,cho là tâm trí mình hoảng loạn do quá mơ ước ?Vợ tôi mắt tinh lắm,nó:
“Đúng là soái hạm 801 ban sáng vừa qua đây đó!”
Soái Hạm đã trở lại thật và đã thành công kéo HQ1 ra giữa dòng sông!
Không sao tả hết nỗi mừng vui của cả ngàn thuyền nhân lúc bấy giờ! Những người từ cõi tử được quay về với sự sống !
Ai nấy đều không ngớt lời cám ơn và ca tụng vị Soái Hạm Bùi Cửu Viênđã có quyết định can đảm và nhân từ, quay về cứu giúp bao nhiêu sinh mạng con người giữa lúc thập tử nhất sinh!
Tên vị Soái Hạm Trưởng, tôi không bao giờ quên, nhưng dòng đời tất bật, mới đây tôi mới được biết là quý ân nhân này còn khoẻ, ngay trên đất Mỹ và gia đình rất hạnh phúc.
Cầu xin ân nhân và gia đình mãi được bảo bọc trong tình yêu Thiên Chúa.
(Viết lại theo lời kể của một người tị nạn trên Soái Hạm HQ1 ngày 30/04 Trung Uý Đỗ Trung Quân)
Thanh HoàĐẠI TÁ BÙI CỬU VIÊN & PHU NHÂN NHÀ VĂN HỒNG THỦY
-
Tin Buồn: Lại Một Khuôn Mặt Sinh Hoạt Cộng Đồng, Bác Sĩ Trần Văn Nam Vừa Ra Đi! – VĂN THƠ LẠC VIỆT
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
THÀNH KÍNH TIỄN ĐƯA BÁC SĨ TRẦN VĂN NAM
*
Tuyết buồn trải lạnh khắp nhân gian
Tin dữ càng khơi lệ đẫm tràn
BÁC SĨ TRẦN NAM lìa cõi thế
VĂN THƠ LẠC VIỆT khuyết Thi Đàn
San Jose bạn niềm vui giảm
PETRUS KÝ người nỗi khổ lan
Kính tiễn hương linh vào nước Chúa
Thiên thu anh được sống an nhàn.
*
Phương Hoa – FEB 28, 2023
–Theo tin từ Chị Đ, trong Hội Petrus Ký, đã có dịp tiếp xúc với Chị Hiền, Phu nhân của Bác sĩ Nam, thì tin BS Nam đã qua đời là đúng!
Ông ra đi lúc 9 giờ sáng Thứ Sáu, ngày 24 tháng 2 năm 2023, tại tư gia, San Jose.
Lúc đó, Chị Hiền, không có mặt tại nhà, nên Ông đã… từ giã cõi đời, bay cao lên Trời một mình!
Chị Đ, kể: “Chị Hiền cho biết, 2, 3 tuần nay, chị phải ở trong “Rehab” của BS Ngãi trên đường Alvin trị bịnh. Ngày nào khoảng 9 giờ sáng, Anh Nam cũng gọi nói chuyện với Chị Hiền, hôm qua thì không thấy Anh gọi. Chị Hiền gọi lại, thì không thấy Anh trả lời, cứ nghĩ là Anh chạy đâu ra ngoài, chắc tí nữa sẽ chạy về nhà, gọi nữa, cũng không thấy trả lời. Linh tính biết có chuyện, nhờ người quen chạy đến nhà xem sao? Thì thấy Anh Nam đã đi rồi!”
BS Nam sinh năm 1943, con chiên rất ngoan đạo, giảng lời Chúa rất hay, hấp dẫn. Thứ Tư Lễ Tro, Thi sĩ Lê Tuấn còn thấy Anh ở Nhà thờ giúp lễ, vậy mà chỉ cần 2 ngày sau, là đi!
Ông là Hội trưởng Hội Petrus Ký rất lâu đời. Hội nổi tiếng trong Ban chấp hành, có 8 người, ban bệ gì, cũng đều là Bác sĩ! Nên các cuộc Hội ngộ của Hội, vừa dùng bữa, vừa được nghe các bác sĩ thuyết trình về phương pháp giữ gìn sức khỏe!
Ông chuyên về y khoa phòng ngừa, phải nói là ở Mỹ mới có chuyện này. Các nước khác, sinh bệnh gần chết, còn không có tiền chữa, nói gì phòng chuyện ngừa, khi bịnh chưa phát sinh!Chính vì chuyên môn này, ông rất gần gũi với cộng đồng bao nhiêu năm nay, in sách bảo vệ sức khỏe, phát khắp nơi, dạy các lớp cai ma túy, rượu, thuốc lá, giúp quý phụ nữ có bầu, tập phương pháp “đẻ không đau!” và cách nuôi nấng trẻ em. Học xong, đã miễn phí, còn tặng đủ mọi thứ quà! (quỹ của chính phủ mà!)
Tính Ông hiền hòa, bình dân, vui vẻ, hình dáng phúc hậu như Ông Địa, luôn luôn có nụ cười trên môi, ăn nói lưu loát, nên rất được nhiều người thương mến.
Riêng Quý Anh Em trong Văn Thơ Lạc Việt, mà Ông là hội viên trong ban cố vấn, thật bàng hoàng xúc động, vì mới tổ chức cho Ông, một Tiệc Mừng Sinh, tại Nhà hàng Cao Nguyên vừa mới đây, rất vui vẻ cười giỡn, Ông còn hứng thú nhâm nhi ly rượu! giờ thì không còn nữa!
Sống lành, được mọi người thương mến như Ông, chắc chắn Chúa sẽ giang tay đón rước Linh hồn Vincent về chốn nghỉ ngơi, an nhàn, hưởng “Nhan Thánh Chúa”
Thi hài Ông sẽ được quàn tại Oak Hill và cũng sẽ được chôn cất nơi đây. Khi nào có Cáo phó từ gia đình, sẽ thông báo tiếp về Tang lễ. Xin chân thành cảm tạ.
Vô Cùng Thương Tiếc!
-
TIN BUỒN: Tiễn Biệt Anh LẠI ĐỨC HÙNG – VĂN THƠ LẠC VIỆT
(Hình: Anh Hùng trong một sinh hoạt cộng đồng) Tin Buồn:
Chút Lời Tiễn Biệt Anh Lại Đức Hùng, Viên Đá Nền Móng Cho Sinh Hoạt Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Bắc Cali, Vừa Qua Đời
THÀNH KÍNH TIỄN ĐƯA
ANH LẠI ĐỨC HÙNG
*
“Người Việt Quốc Gia” có chuyện buồn
Bạn bè đau đớn lệ sầu tuôn
San Jose mới chào đồng đội
LẠI ĐỨC HÙNG nay biệt Cội nguồn
Thung Lũng Hoa Vàng chung sức tiến
“Vườn Truyền Thông Việt” góp tay vươn
VĂN THƠ LẠC VIỆT cùng đưa tiễn
Cõi Thánh người về – thắp nén hương.
Phương Hoa – FEB 16, 2023
-Tất cả người Việt, cư ngụ tại Thành phố San Jose, có lẽ không ai mà không biết, hay nghe đến tên, Lại Đức Hùng. Anh là khuôn mặt hoạt động cộng đồng sớm nhất, bền bỉ nhất, gần 40 năm nay!
Nhờ Anh du học, đến đây trước, có nhiều điều kiện hơn, nhưng quan trọng nhất là Anh có tâm, có tài, có nhiệt huyết với đồng bào, quê hương, dân tộc, nên đã đứng ra “gánh vác ngà voi!” làm mọi công tác cần thiết cho cộng đồng, mà không biết mệt mỏi. Con người có tâm xây dựng, tính tình hòa đồng, hy sinh cho chuyện chung, thật đáng quý.
Thời kỳ sau 75, chỉ có một số người Việt tị nạn, may mắn, ít ỏi đến Mỹ, khoảng trên dưới 200 ngàn người, hòa tan vào nước Mỹ mênh mông, thì như muối bỏ biển!
Các cộng đồng hải ngoại chỉ thành hình sau thập niên 80, khi có hàng triệu người vượt biển, hàng triệu thuyền nhân may mắn đến bến bờ tự do, đông nghẹt khắp các trại tị nạn tại các nước đông Nam Á. Mà phần đông được nhận định cư tại Hoa Kỳ, lúc đó, mọi sinh hoạt người Việt mới bắt đầu khởi sắc, mới có những hoạt động chung.
Anh Lại Đức Hùng nổi bật nhất trong giai đoạn này, hình ảnh hoạt động của Anh gắn liền với những Hội Chợ Tết, tổ chức quy mô, vĩ đại, thành công, rực rỡ nhất tại hải ngoại.
Dưới danh nghĩa Liên Hội Người Việt Quốc Gia Bắc Cali, quy tụ gần 40 hội đoàn, kết hợp hoạt động, giai đoạn này, Bắc Cali có tinh thần đoàn kết nhất, làm được nhiều công tác thiết thực nhất, đạt được nhiều kết quả rực rỡ nhất, làm chính quyền địa phương phải để ý và người dân bản xứ nể phục.
Dấu tích còn lại, là 3 cột cờ hiện nay, trong Vườn Truyền thống Việt, mang từ Kỳ Đài đường Capitol.
Công tác chung, khởi đầu từ Hội Chợ Tết năm 1983, tại trường San Jose High Scholl, từ đó thành những Hội Chợ Tết lớn nhất hải ngoại tại Fairground.
Để từ đó, thành phố San Jose, là thành phố có đông người Việt định cư đông nhất tại hải ngoại. Hiện nay, trên dưới 150 ngàn người, Người Việt góp tay không nhỏ, để biến nơi đây thành Thung Lũng Điện Tử, vang danh cả thế giới, từ đó cho đến hiện nay.
Góp tay, biến San Jose, thành thành phố lớn thứ 10 nước Mỹ, trên hàng triệu dân cư. Những con đường Tully, Senter, Story, xưa, chỉ là đồng hoang mông quạnh, giờ trở thành những khu thương mại sầm uất, hàng quán san sát nhau. Người dân San Jose, mà không biết đến những tên Lion Plaza, Grand Century, thì không phải cư dân Thung Lũng Hoa Vàng!
Từ đó, cộng đồng người Việt San Jose lớn mạnh, đưa được những nghị viên người Việt vào hội đồng thành phố, có những lúc được 2, có một lần có Phó thị trưởng là người Việt.
Ngắm căn nhà đẹp, hầu như ít ai để ý đến cái nền móng, giờ nhận được tin buồn, hình ảnh viên đá đầu tiên xây dựng cộng đồng người Việt Bắc Cali vừa trở về với đất! Hình ảnh năng nổ, giọng nói nhà binh oang oang, cử chỉ nhanh nhẹn, đầy nhiệt huyết của Anh Lại Đức Hùng, sẽ còn in đậm nét trong tim của tất cả người Việt tại Bắc Cali.
Cám Ơn Anh! Vô Cùng Thương Tiếc! Vĩnh Biệt Anh!
(Sau đây là Cáo Phó từ gia đình)
CÁO PHÓ
Trong niềm tin vào Chúa Phục Sinh, Gia Đình chúng tôi trân trọng kính báo cùng Thân Bằng Quyến thuộc và bạn hữu xa gần:
Chồng, Cha, Ông, Bác, Cậu, Em, Anh của chúng tôi là:
ÔNG GIOAN BAOTIXITA LẠI ĐỨC HÙNG
Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 24 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam
Tổng Thư Ký Liên Hội Người Việt Quốc Gia Bắc Cali từ Năm 1977
Đồng Sáng Lập Viên Hội Tết Fairgrounds San Jose từ Năm 1977
Sinh ngày 13 tháng 2 năm 1947 (Đinh Hợi) tại Thái Bình, Việt Nam
Đã được Chúa gọi về lúc 2 giờ 23 sáng ngày 12 tháng 2 năm 2023 (Quý Mão)
Tại San Jose California, USA
HƯỞNG THỌ 77 TUỔI
Linh cửu được quàn tại Oak Hill Funeral Home & Memorial Park
300 Curtner Ave, San Jose CA 95125
CHƯƠNG TRÌNH TANG LỄ
THỨ SÁU 31 THÁNG 3, 2023 (CHAPEL OF THE OAKS)
10:00AM: LỄ NHẬP QUAN VÀ PHÁT TANG
GIỜ THĂM VIẾNG: 11:00AM -8:00PM
NGHI THỨC TƯỞNG NIỆM & VINH DANH
4:00PM: Lễ Phủ Quốc Kỳ
4:15- 7:30: Phần Tưởng Niệm & Vinh Danh
Quan Khách, Hội Đoàn Phát Biểu
7:30-8:00PM: Gia Đình Tâm Tình
THỨ BẢY 1 THÁNG 4, 2023 (CHAPEL OF THE OAKS)
GIỜ THĂM VIẾNG: 10:00AM-12:15PM)
THÁNH LỄ AN TÁNG: 1:00PM
CHAPEL OF THE VIETNAMESE MARTYRS (ĐỀN THÁNH TỬ ĐẠO)
685 Singleton Road, San Jose CA 95111
Sau Thánh Lễ An Táng là Lễ di quan về lại Oak Hill Memorial với nghi thức Hỏa Táng
TANG GIA ĐỒNG KÍNH BÁO
Vợ: Bà Quả Phụ Lại Đức Hùng, nhũ danh Lại Xuân Mai
Các Con: Lại Đức Dũng (Qúa Vãng)
Lại Xuân Quỳnh & Benjamin Daniel Wiley
Lại Xuân Uyên & Earl Michael Phillip
Chị: Lisa Loan Lai Vương & Vương Ngọc Ziệp và con (FL)
Em: Lại Đức Tiến &Lại Đức Ngọc Tuyết và các con, cháu (CA)
Lại Đức Thắng & Kiều Trang Trần và các con, cháu (VA & Germany)
Lại Đức Toàn & Viviene Nguyễn và các con, cháu (CA & TX)
Lại Đức Mỹ & Minh Thu Nguyễn và các con (Germany)
Lại Thu Hà & Hưởng Trần và các con (VA)
Lại Đức Hiệp & Quỳnh Trang Trịnh và con (CA)
TANG GIA ĐỒNG KHẮP BÁO
XIN MIỄN PHÚNG ĐIẾU & VÒNG HOA
Điện Thoại Liên Lạc:
Lại Xuân Quỳnh (408) 499-3661 / Lại Xuân Uyên: (408)390-7234 /Lại Đức Toàn: (408) 832-1895
Lại Đức Tiến (408) 337-7988/ Lại Đức Hiệp (408) 226-2681/ Lại Anh Thư (669)214-5849
-
TRANG ĐẶC BIỆT TƯỞNG NIỆM: NHÀ VĂN, NHÀ THƠ, NHÀ BÁO – HỒ LINH VŨ NGỌC ANH – VTLV & CHÙM THƠ NỮ SĨ CAO MỴ NHÂN TƯỞNG NHỚ NHÀ THƠ BẠN HỒ LINH
THÀNH KÍNH TIỄN ĐƯA
VĂN THI SĨ HỒ LINH VŨ NGỌC ANH
*
VĂN THƠ LẠC VIỆT kính chia buồn
Tin dữ Giao Thừa khiến lệ tuôn
VŨ NGỌC ANH vừa rời Báo Mõ
Bác HỒ LINH đã bỏ Cội Nguồn
Jose Thành Phố danh lưu mãi
Thung Lũng Hoa Vàng tiếng rạng luôn
Thơ truyện để đời bao tiếc nuối
Tiễn người xin gửi nén tâm hương
Phương Hoa – Mồng 4 Tết Quý Mão, 2023
Tin Buồn!
Cơ Sở Thơ Văn Cội Nguồn vô cùng thương tiếc báo tin:
Nhà văn, nhà thơ
HỒ LINH VŨ NGỌC ANH
Một nhà trí thức khoa bảng, nguyên Luật sư Tòa Thượng thẩm Sài gòn trước 1975
Chủ nhiệm/chủ bút tuần báo Kinh Doanh/Trống Đồng tại Bắc California
Tác giả trên 20 tác phẩm Thơ/Văn xuất bản tại Hoa Kỳ và trên amazon
Thành viên Ban Biên tập tạp chí Nguồn & Ban Điều hành CSTV Cội Nguồn
Sinh quán tại Phát Diệm, tỉnh Ninh Bình, miền Bắc Việt Nam
Đã tạ thế vào lúc 12:30 trưa, ngày 21 tháng 1 năm 2023, nhằm ngày 30 tháng Chạp năm Nhâm Dần.
Tại San Jose, California, Hoa Kỳ.
Hưởng thọ 83 tuổi.
Chút Tiểu Sử:
Nhà văn, nhà thơ Hồ Linh Vũ Ngọc Anh, sinh năm 1939 tại xứ đạo Công giáo nổi tiếng Phát Diệm, Kim Sơn, Ninh Bình, Bắc Việt.
Di cư vào Nam năm 1954, ra hải ngoại, sinh sống tại San Jose, từ trước thập niên 80, nên là khuôn mặt quen thuộc, thân thiết của Cộng đồng VN.
Trước 75, Ông Luật Sư Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn
Một trong những Nhà Văn, viết đều tay, năm nào cũng cho ra mắt những tác phẩm mới, nên là một trong những nhà văn có nhiều mặt sách được xuất bản, nhất tại hải ngoại. Cho tới nay, tác giả đã có trên hai mươi tác phẩm, vừa truyện dài lẫn truyện ngắn, và cả thơ nữa. Ông còn cộng tác với nhiều tạp chí, tuần báo khắp nơi, riêng tại San Jose, ông là cây viết chính, cộng tác với Tuần báo Thằng Mõ, trên 30 năm! Được rất nhiều độc giả mến mộ! Ít có nhà văn nào có sách bán chạy như thế, (Ông có để sách tại tòa soạn, tuần nào cũng tiêu thụ gần cả chục cuốn!) chính vì lý do này, ông mới có phương tiện xuất bản rất là đều đặn!
Văn của ông nhẹ nhàng, lôi cuốn, hấp dẫn, lấy bối cảnh hiện tại ở hải ngoại, nên rất gần gũi người đọc. Chưa kể ông có lối kết thúc câu chuyện rất bất ngờ, mà người đọc, còn muốn…đọc tiếp! đọc nữa! luôn để lại nhiều tiếc nuối!
Các nhà xuất bản lớn tại hải ngoại, đều có mặt sách của Ông. Như: Tự Lực, Xuân Thu, Đại Nam, Cội Nguồn, Thằng Mõ, Đông Phương, Trống Đồng…
Ngoài ra Ông còn có một cơ sở Kinh Doanh, giúp các dịch vụ về giấy tờ, sống rất lâu đời tại miền Thung lũng Hoa Vàng.
Sự ra đi của Ông, để lại nhiều tiếc nuối cho Bạn Bè, Thân Hữu và rất nhiều Bạn Đọc.
Vô Cùng Thương Tiếc!
Nhân phút tưởng nhớ, xin đọc lại lời nhận định cố thi sĩ Hoàng Anh Tuấn về Tác phẩm Ma Cỏ của Hồ Linh.
Đạo diễn, Thi sĩ Hoàng Anh Tuấn nói về tác phẩm MA CỎ của nhà văn Hồ Linh.
Hỏi cảm tưởng nhiều người đọc qua tác phẩm Ma Cỏ của Hồ Linh. ai cũng nhận là thích thú, như tôi.
Cái lạnh, cái rờn rợn từ những giòng chữ tác động vào người đọc như cơn gió heo may, nhỏ thôi, gửi từ cõi âm, từ những mộ phần nghĩa địa.
Có thể chỉ là hư cấu, nhưng hư cấu nào chẳng nảy sinh từ cái thực? Vì vậy, người đọc MA CỎ coi hư cấu ở đây là thực hoàn toàn hay ít ra một phần, một phần khá lớn.
Tôi yêu MA CỎ như yêu những bài thơ trong tập Điêu Tàn của Chế Lan Viên khi thi sĩ mới mười bảy tuổi.
Hoàng Anh Tuấn, 1990
Ma Cỏ
Lời Nói Ðầu
Truyện ma như là truyện chẳng có thực, nhưng ai cũng khoái truyện ma.
Người ta hỏi nhau
Anh thấy ma chưa?
Chị thấy ma chưa?
Tất cả đều trả lời là chưa.
Nhưng chắc có ma, vì có ma nên người ta mới thích nghe truyện ma. Không đâu nhiều truyện ma bằng tại nước Mỹ này. Trên TV chiếu hàng ngày, từ ma cổ, ma tân cho tới ma không gian. Có những phim tài liệu thực về ma. Nhưng xem rồi, có ai tin không? Ít lắm.
Ngay khi được nghe những người thân nhất kể chuyện ma cho nghe, ta cũng hoài nghi. Chỉ có kẻ đã gặp ma họa ra mới tin có ma mà thôi. Nhưng ai là người đã gặp ma?
Bồ Tùng Linh xưa chán truyện người đi viết truyện ma. Kể rằng đêm đêm ngồi bên khung cửa sổ nhìn ra ngoài, nghe ma nói chuyện, thấy được sinh hoạt của xã hội ma mà sáng tác tuyệt tác phẩm Liêu Trai Chí Dị. Nhưng thực họ Bồ đã gặp ma chưa? Chưa chắc đã một lần.
Thế mà ngày nay, còn có những truyện thương tâm hơn cả những truyện tình của các nàng hồ tinh, khổ hơn cả đời các anh hàn sĩ và nhất là lạ hơn cả truyện ma, khó tin hơn cả truyện ma…
Chỉ có người gặp ma mới tin có ma mà thôi. Truyện ma và chuyện đời ngày nay gặp nhau ở điểm đó.
Ðầu Xuân Ất Sửu
Hồ Linh
Thay tựa cho lần tái bản 2
Cuốn Ma Cỏ này được xuất bản năm 1985, mười lăm năm sau mới tái bản, mặc dầu nó đã hết trên thị trường ngay một năm sau khi xuất bản. Nhưng, với độc giả thời đó, dư vị của nó vẫn còn tới ngày nay.
Bây giờ, Ma Cỏ tới tay độc giả rời quê hương sau này, hầu như sẽ chỉ mang lại một vài cảm giác do những chuyện bất thường trong tác phẩm gây ra. Và, nếu có vị nào theo lời trong sách, về San Jose để tìm tới những khu vườn, những cảnh vật được tả trong truyện thì thôi rồi, đâu còn nữa.
Sông kia rầy đã nên đồng
Nơi làm nhà cửa, nơi trồng ngô khoa
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
Thưa đúng như vậy! Những gì cụ Tú Xương nói về thành phố Nam Ðịnh thời xa xưa, đã xảy ra tại nơi này! Những vườn cây trái ngày trước, những bãi vắng năm nào, những khu phố buổi ấy nay đã khác rồi. Vết tích xưa đã không còn nữa, vườn cây đã trở thành những khu gia cư hiện đại, sang trọng, những khu phố tồi tàn, nay là những trung khu thương mại sầm uất, không còn chỗ để “Hải” tìm thấy những U-Linh-Huyền-Hoặc của cây cỏ để mà thắc mắc giữa luật Luân Hồi của nhà Phật và học thuyết Tiến Hóa của Darwin (Truyện Ma Cỏ).
Nhưng với tác giả, chỉ một lời với con cháu mình: “Những bước đầu lập nghiệp của tổ tiên chúng hắn là như thế đó”. Vậy là đủ, là đáng công cho tác giả bỏ cả một nửa đời người cho những tác phẩm xem ra thực vô ích cho đời sau, nhất là cái đời sau đó đã bị bứng gốc khỏi quê hương đích thực của mình.
Tháng 08 năm 2000
Hồ Linh
CÁI XE
Vừa ra trường được hai tháng hắn đã bắt được cái job làm technician ở Sunnyvale. Một trường hợp hiếm có. Hắn rất thỏa mãn. Hắn làm shift thứ hai, từ ba giờ chiều đến mười hai giờ khuya. Ðôi khi, nếu phải làm overtime thì hai giờ hơn cũng đã về đến nhà. Hắn ở San Jose, đi làm tuy hơi xa, nhưng vào cái giờ đó, xa lộ 101 cũng không còn kẹt xe như buổi sớm mai, khi đi ngược về hướng Bắc hoặc buổi chiều khi xuôi Nam.
Có việc làm là cần có xế, một cái xế phải tốt để tránh bị hư trên xa lộ, trong những giờ giấc không thuận tiện gọi người sửa chữa. Mấy hôm trước, nhớ một người bạn co-sign, hắn cũng đã mua được một cái xe vừa ý, một cái Toyota kiểu thể thao-tuy là xe second hand- nhưng trông còn mới, nước sơn màu xám bạc còn khá láng bên trong nệm ghế bọc nhung mầu mơ chín, sang trọng và đặc biệt giá khá rẻ của “American Dealer”.
Sắp đến giờ shift, hắn thu dọn đồ đạc, xếp lại mấy cái “bo” đang làm giở cho ngay ngắn. Tinh hắn hơi bừa bãi, lại ít học, nên bắt đầu đi làm, hắn cảm thấy công việc rất khó nhọc. Nhưng nhờ Thanh, một người bạn cũ ở Saigon, người đã giới thiệu hắn vô đây làm, dẫn dắt từng tí, nên được ít lâu, hắn cũng đã quen việc. Duy có cái tính thiếu ngăn nắp, nhiều lúc đã làm cho người “lit” cằn nhằn.
Vừa rời chỗ làm việc, đang mặc cái áo jacket thì Thanh đi đến:
– Ê bồ, hôm nay cho tôi quá giang về nhà nghe. Xe của tôi mới bị hư cái bình điện hồi chiều, chưa kịp đi thay.
Hắn vui vẻ :
– O.K
Hai người đi nhanh xuống parking lot.
Hắn đóng nhẹ cửa, một tiếng kêu “phập” nhẹ nhàng. Hắn mở máy xe chạy êm ru. Vòng khỏi cuối đường, xe êm ái bon bon trên xa lộ 101.
Thanh liếc khắp trong xe:
– Cái xe này cậu mua được đấy. Rẻ lắm.
Hắn vui vẻ:
– Thì cũng nhớ thằng Văn đó. Nó deal lì lắm.
Thanh khen bạn:
– Cậu mới sang đây chưa đầy hai năm mà đã được như thế này là nhất rồi. Chả bù cho tôi hồi mới qua.
Hắn thân mật:
– Thì cũng nhờ tụi bay dẫn chớ mình tao thì còn khuya. Mày biết tao quá mà. Ở Saigon cũng đi làm thuê làm mướn. May sang đây mới có xe cộ mà lái, chứ ở nhà chẳng bao giờ có hy vọng.
Thanh không góp ý anh ta như đang nghĩ điều gì, bỗng nói :
– Xe máy ngon, nhưng đi mau hơi bị sàng. Hôm nào mày đưa nó vô garage để chỉnh lại bánh lái đi.
Hắn ngẩn ra:
– Tao cũng mới lái xe nên không có kinh nghiệm, thành ra không thấy gì cả.
Trời khuya vắng, xe chạy rất dễ chịu. Từ xa, đã thấy bảng đèn chớp chớp cửa khu giải trí Great America. Thanh sẽ dặn bạn :
Gần đến khúc quanh đàng trước mặt, mày phải lái cẩn thận, nhất là vào những đêm mưa, xe dễ bị lật lắm đấy, đã có rất nhiều tai nạn xảy ra ở khúc này, coi chừng.
– Thế à …
Giọng hắn lạc. Bụng hắn thấy nao nao.
Làm việc được gần hai tháng, hôm nay là buổi overtime đầu tiên của hắn. Công việc làm ăn đang lên, do đó hãng cần phải hoàn tất nhiều khế ước đúng hẹn kỳ, nên nhân viên không ai có thể từ chối làm overtime. Vả lại, phần lớn người làm cũng muốn có những giờ phụ trội để kiếm thêm tiền. Với hắn, thanh niên độc thân, mới vào nghề thì làm thêm giờ lại rất tốt. Hai giờ phụ trội qua đi cũng nhẹ nhàng. Khi ra khỏi hãng, hắn chỉ bị hơi buồn ngủ hơn mọi ngày.
Xe ra đến xa lộ, hắn bỗng thấy cô đơn giữa đường khuya trống vắng. Lâu lâu mới có một chiếc xe ngược chiều vút qua. Ðêm hè, trời nóng bức. Hắn quay hết kính xe xuống để hứng gió mát từ ngoài vào.
Khi ánh chớp của đèn quảng cáo Great America hiện ra ở đằng xa, thì hắn cảm thấy gió khuya hơi lạnh, hắn vội quay cửa kính lên. Nhớ tới lời dặn của Thanh bữa trước, hắn giảm tốc lực xe và chú ý, lái xe một cách thận trọng hơn. Khu Digital đã hiện ra ở phía mặt mờ mờ trong sương đêm.
Bỗng một làn gió lạnh vừa ở đâu thổi tạt vào gáy hắn. Ồ, có lẽ một cánh cửa kính nào còn hở đây. Hắn hơi nhoài mình sang phía tay phải, xiết nhanh tay quay, đồng thời hắn cũng kiểm soát kính bên trái, sát chỗ ngồi luôn. Hình như cả hai cửa kính này đều đóng chặt.
Xe đi qua một vùng đất trống. Xa tít, chập chờn những ánh đèn xanh đỏ của phi trường San Jose mờ ảo. Cảnh vật chợt như tối hẳn lại. Pha đèn cũng chỉ chiều vừa đủ khoảng cách để hắn có thể thấy rõ quãng đường trước mặt. Rồi cảm giác lạnh từ phía sau lại tái diễn. Hắn liếc nhìn qua kính hậu trước mặt. Hắn thoáng giật mình sợ hãi vì khung kính mui sau xe đã bị mờ hẳn đi như có một làn hơi mỏng đọng trên mặt kính , khiến hắn không thể nhìn thấy những ánh đèn ở khoảng trời phía sau … và ngay cả những khung kính cửa bên hông cũng bị hơi đọng như thế. Tình trạng này hay xẩy ra khi bên ngoài trời lạnh mà trong xe có quá nhiều người. Nhiệt độ trong xe hình như xuống thấp, hắn thấy lạnh khắp người. Tiếng động cơ nghe như nhỏ đi và hắn có cảm giác như mình bị giam trong một xó tối lạnh lẽo và u tịch. Hắn hoảng hốt trong cái biến đổi lạ lùng của khung cảnh nhỏ hẹp trong xe, và rồi một thứ âm thanh nhè nhẹ nhưng rất rõ, tiếng hô hấp của một sinh vật ở đâu đây. Có lẽ là tiếng thở gấp của hắn. Hắn không còn suy nghĩ về nó. Chợt nhớ tới cái sưởi trong xe, hắn vội vàng kéo xuống tối đa và bật luôn cả ngọn đèn nhỏ trên trần xe. Tiếng máy quạt của heater và ánh sáng của ngọn đèn làm hắn bình tĩnh. Không có gì cả, kính xe dần trong trở lại. Xe qua đường Montague Highway và tới đầu địa phận thành phố San Jose. Từ trong đường số một, một chiếc xe vừa vào xa lộ. Có thêm một xe đồng hành làm hắn yên tâm. Hắn lại nhớ tới chiếc radio. Bật nút điện, một âm thanh hỗn loạn của hai ba đài trùng nhau. Hắn biết có một đài phát thanh gần đây, bên xa lộ 101. Hắn cảm thấy yên tâm vì đã gần tới nhà. Hắn tắt máy sưởi, quay cửa kính xuống. Một hơi nóng bên ngoài ùa vào. Hắn thắc mắc. Bên ngoài nóng như vậy mà bên trong xe hắn lại lạnh thế!
Sự bất thường xảy đêm hôm đó làm hắn bồn chồn, lo sợ viển vông mấy ngày. Nhất là đêm hôm sau đó. Nhưng tuyệt nhiên không thấy gì xảy ra nữa. Dần dần rồi hắn cũng quên đi. Cho đến một hôm, khi chở một người bạn chạy chơi trên xa lộ. Bỗng người này cũng có một nhận xét như Thanh dạo trước.
– Xe mày sàng quá.
– Ừ đúng, thằng Thanh hôm trước cũng nói với tao như thế. Tao cũng chưa có thì giờ đưa nó đi ba-lăng lại mấy cái bánh xe.
Người bạn đề nghị :
– Lúc nào thấy đường vắng, mày thử bỏ tay lái ra xem sao.
Chạy đến khúc xa lộ thẳng tắp và không có xe cả hai phía, hắn hơi buông tay lái, anh bạn nhẩm đếm chưa đến số 5, thì xe đã chao đầu về phía mặt.
Anh bạn cho một nhận xét :
– Xe mày chắc bị đụng rồi. Tụi ở đây nó kéo sườn hay lắm mà xe còn sàng và chao như thế này thì chắc là bị đụng nặng. Mày có đem đi ba-lăng cũng không hết đâu. Xe đẹp mà rẻ, mình lại càng nghi.
Hắn hơi bất mãn vì xe bị chê :
– Thiếu gì xe không bị đụng, tay lái cũng chao.
– Thì mình cũng chỉ nghĩ như vậy thôi.
Hắn yên lặng. Ðể rồi đi ba-lăng lại tay lái. Có thể sẽ hỏi lại thằng dealer. Ồ, mà có đụng cũng chẳng sao, miễn là có xe mua rẻ và chạy tốt là được rồi.
Trước khi rời xe, anh bạn thân mật dặn :
– Dù là xe bị đụng cũng chẳng sao, miễn là mày lái cẩn thận một chút. Dăm tháng đưa đi tune up một lần. À mà xe đẹp thế này đừng để dơ chịu khó mổi tuần rửa một lần, bên trong lật nệm lên hút bụi đi cho nó sạch sẽ và đỡ mùi hôi.
– Ô-kê.
Hằn hơi ngượng vì cũng thấy xe mình dơ thực.
Buổi tối hôm đó, khi hắn về ngang qua khu Digital, nhớ lại cái đêm nào, hắn bỗng suy nghĩ rất nhiều về việc cái xe này bị đụng tức là một tai nạn khủng khiếp đã xảy ra. Những người trong xe. Mấy người và có ai bị thương? Mà có ai bị chết không ta?! hắn rùng mình liếc vội vào kính chiều hậu trong xe. Băng sau trống trơn. Còn người lái xe. Cái ông hay bà ngồi chỗ này đây. Cái vô lăng, hắn không dám nghĩ tiếp. Ồ, mà chắc gì xe mình đã bị đụng.
Những xe đồng hành đèn bật sáng trưng khiến hắn tự trấn tĩnh. Ðỡ sợ hơn. Xe của Thanh vừa đi ngang qua. Hắn mừng rỡ giơ tay vẫy, Thanh quơ tay chào lại.
Ngày hôm sau, hắn thức giấc vào lúc 1 giờ trưa, một giấc ngủ vật vờ, bứt rứt. Hắn thao thức suốt đêm trước. Nỗi bất an càng tăng lên trong đêm khuya cô quạnh, khiến mãi đến sáng hắn mới chợp được mắt. Hắn định bụng sáng nay sẽ tới hãng bán xe. Nếu thực nó bị đụng, hắn cảm thấy chiếc xe có cái gì bất ổn .. làm bụng hắn bồn chồn khó tả. Nhưng muộn rồi. Khuya nay hắn lại phải làm overtime hai giờ nữa! Từ ngày đi làm, đây là lần thứ hai hắn làm overtime ban đêm. Nghĩ tới lần trước, hắn không khỏi ngại ngùng. Ăn trưa xong, hắn lấy nước xịt rửa chiếc xe. Vừa lau xe, hắn liên tưởng tới những chuyện đâu đâu .. tới người chủ cũ của nó. Hắn nghĩ với một kiểu xe thể thao này, chắc họ phải là một thanh niên hay thiếu nữ và có thể rất khoái tốc lực.
Lau khô bóng xe, hắn lấy máy hút bụi hút nệm và sàn xe.
Từ khi mua nó tới nay, đây là lần đầu tiên hắn rửa xe nên hắn làm rất cẩn thận. Nếu những vụn bánh, đồ ăn còn sót lại sẽ làm cho xe hôi hám. Hắn lật nệm sau, dùng máy hút bụi thực kỹ. Bỗng, hắn bắt gặp một vật gì nhỏ, trắng kẹt ở cửa xe, hắn dùng tay nậy lên. Một cái răng, một cái răng cửa bị gẫy! Chân răng đen sì ghê tởm. Chắc là máu khô. Hắn muốn lợm giọng, vứt vội nó ra ngoài. Hắn trố mắt nhìn chiếc răng nằm trơ trên mặt đất một cách kinh hoàng. Thôi đúng rồi, cái răng cửa của người lái xe. Hắn thẫn thờ một lúc khá lâu rồi mới lại tiếp tục công việc làm sạch băng ghế sau.
Ðến khi lật tấm thảm sau xe lên, hắn lại càng đứng tim hơn. Không nhiều, có lẽ đã được lau đi, nhưng hắn còn thấy rất rõ ở những kẽ hở ở dọc theo sườn xe và ngay cả dưới nệm ghế, những vết máu đã đông đen lại. Tay hắn run run, mồ hôi vã ra. Hắn lột hết thảm ra, đổ nước , thuốc giặt vào chà cọ thực kỹ. Cuối cùng, tất cả đều sạch boong. Nhưng, với mắt hắn, hắn như vẫn còn nhìn thấy tất cả máu và… và cả xác chết nữa!
Xong công việc, hắn nằm vật ra, mệt lử và bối rối khó tả. Thôi rồi, chắc chắn mình đã mua lầm phải cái xe bị ác-xi-đăng rồi! Ðụng rất nặng và khủng khiếp. Nó sơn phết lại, hèn gì mà không láng. Mình đã không biết gì về xe cộ, còn thằng Văn thì chỉ biết nói phét, đếch biết con mẹ gì. Ðiệu này rồi cũng phải tống khứ nó đi, mình không thể xài nó nổi.
Ðã đến giờ đi làm, hắn không còn thời gian để lo chuyện riêng nữa. Nhưng tất cả sẽ phải giải quyết nội trong ngày mai thôi. Ðã định thôi, nhưng cuối cùng hắn cũng bốc điện thoại gọi Văn. Chuông reo năm sáu lần, không ai nhấc máy. Hắn mệt mã gác ống điện thoại, sửa soạn ra đi.
Vừa trông thấy cái xe, tự nhiên hắn khựng lại, sờ sợ. Nó như xa lạ hẳn với hắn. Một con quái vật đang rình rập mưu hại hắn! Nhưng cuối cùng hắn cũng phải mở cửa chui vào xe, lái chầm chậm, ưu tư chồng chất, lo sợ vẩn vơ …
Hôm nay, hắn làm việc trong một tình trạng thực bối rối. Ruột gan hắn nóng bỏng. Hắn linh cảm như có một sự không may sắp xảy ra. Vì thế, có những việc nhỏ mọn, dễ dàng mà hôm nay hắn vấp váp, làm đi làm lại cũng không xong. Tâm trí hắn hốt hoảng, luôn luôn bị ám ảnh bởi cái xe, bởi cái tai nạn nào đó, bởi những cái xác oằn oại, đẫm máu trong xe. Bụng hắn cứ nhâm nhẩm đau khiến hắn phải vào rest room tới hai lần mà tình trạng cũng không dứt.
Giờ coffee break, hắn không ăn hết một cái bánh cookie nhỏ. Hắn hút thuốc liên tiếp, dạ cũng không hết bồn chồn. Hắn đợi Thanh nhưng không thấy anh ta đâu. Hắn bỏ cafeteria vào làm việc tiếp, cố gắng quên đi những âu lo, ám ảnh.
Mười hai giờ đúng, hắn thất thểu ra cửa ngoài chờ bạn. Bỗng Thanh từ trong đi ra, vội vã.
Hắn mừng rỡ, đó bạn:
– Thanh!
Thanh ngừng bước, hỏi:
– Gì thế cậu? Làm overtime buổi nay hả? Thôi ráng lên kiếm chút tiền còm!
Hắn như muốn tâm sự với Thanh về nỗi lo lắng đang đè nặng trong lòng, nên khẽ nói:
– Thanh à, mày có bận gì không? Tao muốn…
Thanh như hiểu ý, hỏi:
– Chuyện gì vậy? Có quan trọng lắm không? Thú thực hôm nay mình hơi bận. Bà xã vừa gọi điện thoại vào cho biết thằng Cu nó đau, bả muốn đưa nó đi emergency. Ðể đến mai được không?
Hắn hơi ngần ngại. Thanh đang có chuyện phải về gấp, mà câu chuyện của hắn thực tế chẳng có gì quan trọng. Giữ hắn lại có thể nguy hiểm cho thằng nhỏ, mà câu chuyện của hắn nói ra, không phải là hắn, chắc chắn Thanh sẽ cười cho là chuyện con nít.
Sau cùng, hắn gượng gạo:
– Thôi được, mày về gấp đi không bả và cháu mong.
Thanh ra tới cửa, còn quay lại:
-“Bye nhé. Trông cậu có vẻ hơi mệt đó, làm đêm không quen, nên về ngủ ngay để lấy lại sức đi.
Hắn nhìn hút bóng Thanh lẫn vào đêm tối. Hắn có cảm tưởng như đã bị bỏ rơi giữa lúc khốn cùng! Hắn đau khổ, hoang mang đến thẫn thờ, trở lại nơi làm việc.
Sở vắng dễ sợ. Một vài nhân viên làm việc trong mấy phòng bên. Tiếng máy lạnh chạy đều đều buồn bã. Thực bơ vơ, lạc lõng.
Ðến giờ tan sở: hai giờ khuya! Hắn ra bãi đậu xe rất mau. Mấy nhân viên cùng sở rồi cũng lái xe đi mất hút. Hắn mở cửa, bước vội vào xe mà không dám nhìn băng sau. Có một sự gì ở đó, vô hình nhưng rất thực.
Xe ra tới xa lộ 101, hắn tự nhủ: đừng sợ, có gì đâu chứ! Thanh niên gì mà nhát gan vậy? Một chiếc xe đi ngược chiều, pha sáng lóa. Hắn lén nhìn nhanh phía sau qua kính chiếu hậu. Băng sau vẫn trống vắng – dĩ nhiên – Sao mình cứ nghĩ là có gì khác lạ… Có gì đâu nào. Mọi tối về khuya đâu có sao! Cũng hai giờ khuya mà. Nhưng hắn chợt nhớ tới đã đọc ở đâu đó, người ta nói là hai giờ khuya mới là giờ âm cực thịnh, mà âm cực thịnh thì … hay có chuyện ghê rợn xảy ra!
Vừa nghĩ tới đó, hắn cũng vừa nhìn thấy ánh neon chớp sáng của hãng Great America ở phía xa. Sương mù thực dầy, khu hãng Digital nhìn không rõ. Hắn cảm thấy mất bình tĩnh mau quá. Chết cha! Hắn mong một ánh đèn xe phía trước. Không có! Tất cả chỉ có mình hắn trên quãng đường này. Kìa, cảm giác lạnh gáy đã thấy! Hắn run run. Nhìn về phía sau… Nhìn vào kính chiếu hậu đi… hắn lưỡng lự. Nhưng… mắt hắn đã thấy rồi! Cửa kính xe đã mờ, mờ quá! Tiếng máy xe đã nhỏ hẳn đi, và tiếng thở của ai rất gấp ở băng sau, tiếng thở ồ ồ, khè khè như người bị cắt cổ họng! Trời, có ai cứu tôi? Không ai cả. Ngưng xe, ngưng xe lại. Mở sưởi, mở radio. Hắn nghĩ tới tất cả, nhưng tay chân như rũ liệt. Băng ghế sau, ai vậy? Ai vậy? Quay lại xem! Hắn không dám quay lại, cả đến kính hậu cũng không dám để mắt tới. Nhưng hắn biết chắc chắn đàng sau có người, không phải người sống! Hắn không còn nhìn thấy gì ở đàng trước mặt vì hơi sương mờ mịt. Chân run. Tay run. Lòng run lên từng chập. Gió lạnh rít bên tai. Hơi lạnh phà vào gáy. Rất lạnh, rất lạnh!
Có gì vừa động vào vai? Cái gì vậy? Một động tác phản xạ không thể cưỡng lại, hắn nghiêng mắt nhìn xuống vai phải. Trời! Một bàn tay, một bàn tay đẫm máu… đẫm máu đang bấu chặt vào vai. Hắn thét lên! Chiếc xe chao đi, mất kiểm soát. Một tiếng động lớn, khô và chắc. Xe ngưng lại. Máy gầm rú điên cuồng. Bốn bánh quay tít. Một vùng phía trước sáng rực.
Không một chiếc xe nào đi qua.
Ba tháng sau, một chiếc Toyota kiểu thể thao mầu xám bạc, nệm bọc nhung mầu mơ chín sang trọng, từ trong hãng America Dealer chầm chậm đi ra. Bên trong, một người thanh niên tóc đen, mỉm cười đắc ý!
(Một truyện lấy trong tác phẩm MA CỎ)
Lời tác giả: Quí độc giả đã thấy được một mẫu người tị nạn nơi xứ người, mà cuộc sống tự lập mới bắt đầu khi may mắn được học một nghề chuyên môn và kiếm được tiền bằng chính sức lao động của mình (không cần tiền Eo-phe nữa). Thời đó có câu “chồng tách(technician), vợ ly(assembly) là đời lên hương. Và xe là cái “cẳng” không thể thiếu, dù nó chỉ là một chiếc xe cũ.
CHÙM THƠ NỮ SĨ CAO MỴ NHÂN TƯỞNG NHỚ NHÀ THƠ BẠN HỒ LINH:
HỒ LINH, TÌNH LINH ĐỀU MÃN PHẦN RỒI, NHƯNG 1956 ở saigon CAO MỴ NHÂN CHUNG MỘT THI ĐÀN THƠ TRẺ VÌ CHỈ 13,14 tuổi trở lên, ĐỘ 10 đứa , DO ÔNG NGUYỄN NGỌC LINH GIÁO SƯ Ở MỸ VỀ THÀNH LẬP CHO TỤI NÀY, TÊN THI ĐÀN LÀ CÔNG ĐOÀN TUỔI XANH. Ông Nguyễn Ngọc Linh SAU LÀ BỘ TRƯỞNG THÔNG TIN. Thi đàn này CÓ VƯƠNG ĐỨC LỆ , SA GIANG TRẦN TUẤN KIỆT …NAY QUA ĐỜI HẾT RỒI, CHỈ CÒN LẠI CMN VÀ LÊ TRUNG HƯNG TRƯỞNG ĐOÀN THÔI. Thi đàn đó chỉ có CMN là thiếu nữ , nhưng đã đăng quá nhiều bài trên báo. Tập thơ NHỮNG VẦN THƠ MA CỦA CAO MỴ NHÂN Tựa : HỒ LINH. Bạt : TÙNG LINH. Nhà xuất bản KINH DOANH. “ Những vần thơ ma “ Của CAO MỴ NHÂN. 2001, Bìa & trình bầy : HỒ LINH.
Xin ghi lại chút kỷ niểm tưởng nhớ người.
CAO MỴ NHÂN
NHỮNG VẦN THƠ MA. Bài số 1
HIU HẮT ÁNH TÀ. CAO MỴ NHÂN
*
Chi Sơn, sương khói đất Giang Nam
Tồn tại trong ta những bẽ bàng
Ta đã nhiều lần qua bến Dịch
Nhiều lần không phá nổi sầu tan
*
Mùa thu tất lạnh hơn thời xưa
Mảnh áo thư sinh che gió lùa
Ta níu lưng người khi lỡ bước
Nửa đường đã trễ chuyến đò mưa
*
Vạt lau trắng ngọn dõi theo ta
Cổ nguyệt buồn hiu hắt ánh tà
Người đến rồi đi theo lửa ngọn
Chợt về thắp vội, gọi hồn ma
*
Hồ linh viễn ảnh nhoà Chi Sơn
Tiếng hát khuya nay bỗng chập chờn
Có phải đời sau người kiếm ngải
Lại là kiếp trước ta tàn cơn
*
Gió lên rồi đấy giã từ nhau
Buốt giá bờ vai tê mái đầu
Ta bỗng thất kinh nhìn sắc bạch
Tóc mình mây phủ kín từ lâu …
*
Hawthorne 8 – 6 – 2001
CAO MỴ NHÂN
NHỮNG VẦN THƠ MA. Bài số 2
CHIỀU DIỄM TUYỆT. CAO MỴ NHÂN
*
Vườn tình ai kết một lầu thơ
Tám hướng sương bay khói phủ mờ
Người đến cùng ta xem nắng lạnh
Đang rời hoa lá để ươm tơ
*
Tơ vương chút nắng, óng vàng thêm
Người dệt xong chưa bức thảm mềm
Có ảnh hình ai tròn giấc ngủ
Mỉm cười trong mộng, thốt : ” yêu em ”
*
Chi Sơn, có phải đường mây kia
Vừa hiện ra thôi ánh lửa thề
Ai vẽ lầu thơ chiều diễm tuyệt
Ảo huyền trăng cổ , bóng lê thê
*
Thì ra núi với sông quen đấy
Ta gặp hồ linh ngó thiết tha
Hình hài quê cũ in trên giấy
Suốt cuộc phù sinh đã cách xa
*
Người chưa về cố quận hoang sơ
Sương khói mười phương vẫn mịt mù
Hay tại vườn tình hoa nở muộn
Nên chờ dấu nhạn báo tin thu…
*
Hawthorne. 17 – 6 – 2001
CAO MỴ NHÂN
NHỮNG VẦN THƠ MA. Bài số 3
GIỜ ĐÃ NỬA ĐÊM. CAO MỴ NHÂN
*
Đã không tách bạch chuyện người
Giữ nguyên tâm sự tuyệt vời của em
Giật mình, giờ đã nửa đêm
Đèn lu, bóng toả vàng thêm cuối đường
*
Bốn bề im vắng canh sương
Ý thơ e có tổn thương ít nhiều
Phải vì vẫn chuyện tình yêu
Hay trong tư tưởng có điều thăng hoa
*
Hoặc là dáng dấp tà ma
Mới vừa hiển hiện giữa ta bơ thờ
Bảo rằng chính tại mộng mơ
Đùa vui một dạo, khiến giờ nghĩa ân
*
Sáng ra, khơi chút lửa trầm
Thắp lên hương khói thì thầm nổi trôi
Bập bềnh hứng cảm pha phôi
Chập chờn ma ảnh thoắt rời ngõ xưa…
*
Hawthore 18 – 6 – 2018
CAO MỴ NHÂN
NHỮNG VẦN THƠ MA. Bài số 34
GIỮA HƯ KHÔNG. CAO MỴ NHÂN
*
Đêm qua thấy lại một người
Áo mầu trinh tuyết đang ngồi rỡn trăng
Trăng cười tròn trịa trên không
Người băng giá ấy mông lung dáng hình
*
Bước vào từ tạ hồ linh
Hồn thơ diễm ảo vô tình trôi đi
Từng lời từng ý lâm ly
Bay theo khói toả trở về hoang sơ
*
Một phen hốt hoảng, ngẩn ngơ
Người thôi rỡn mộng trăng vờ vĩnh xa
Giờ thì chỉ có mình ta
Châu thân lạnh giữa bao la đất trời …
*
Hawthorne. 16 – 8 – 2001
CAO MỴ NHÂN
NHỮNG VẦN THƠ MA. Bài số 83.
GỌI HỒN CỎ HOA. CAO MỴ NHÂN
*
Gọi hồn ai trên cỏ hoa
Thầm thì như lời gió hẹn
Hoa nở, cỏ tươi xanh biếc
Đẹp lòng khách ở phương xa
*
Áo, khăn trùng trùng mỏi mệt
Gọi hồn thơ trong mắt đẹp
Một người nào ngỡ chưa quen
Anh nghĩ rằng đó là em
*
Tại sao chưa từng giã biệt
Đã vùi thân xuống bóng đêm
Gọi hồn ma dưới ánh trăng
Vàng bay từng tờ sáng lạnh
*
Nỗi buồn thăng hoa hiu quạnh
Tháng ngày cách trở quê hương
Dấu chân hồ linh lưu lạc
Khói sương mênh mông bàng bạc
*
Phủ mờ vết tích yêu thương
Gọi hồn tình trước đại dương
Sóng xô đôi bờ nước cạn
Lênh đênh hồi tưởng Giang Nam.
*
CAO MỴ NHÂN
-
VTLV: TRANG TƯỞNG NIỆM VĂN THI THƯ HỌA SĨ VŨ HỐI – KQ LÊ VĂN HẢI Và THÀNH VIÊN VTLV Cùng THÂN HỮU.
Nghệ Sĩ Đa Tài Thân Thương Vũ Hối Vừa Rời Bỏ Chúng Ta! Vừa nhận được tin buồn: Nghệ Sĩ Vũ Hối (Họa sĩ, Thi sĩ, Nhiếp ảnh) vừa từ giã cõi đời hôm nay! Thứ sáu, ngày 19 tháng 8, năm 2022, tại Maryland, Hoa kỳ.
THÀNH KÍNH TIỄN ĐƯA
NHÀ THI THƯ HOẠ VŨ HỐI
(Bài xướng)
Lặng nghe tin đến thật bàng hoàng
Thế giới như vừa tắt ánh quang
VŨ HỐI lìa trần, quy thượng giới
HỒNG KHÔI giã bút, đến Thiên Đàng
“Nghìn Thương Đất Mẹ”* giờ xa tắp
“Những Dấu Chân Đi”* đã biệt ngàn
“Thư Hoạ Trích Kiều”* xin kính tiễn
“Vần Thơ Màu Trắng”* lệ thương tràn.
*
Thương tràn khắp chốn bậc tài hoa
Hội Hoạ Khôi Nguyên, giải ngọc ngà
Bút pháp lung linh dường gió đảo
Chữ đề cuồn cuộn tựa mưa sa
CỎ THƠM im tiếng, chia lìa bạn
VĂN BÚT rời tên, vĩnh biệt nhà
VŨ HỐI – HỒNG KHÔI – về Cực Lạc
Truyền lưu tác phẩm mãi không nhoà.
*Tên tác phẩm của nhà thư họa Vũ Hối
Phương Hoa – AUG 19, 2022
KÍNH TIỄN NGHỆ SĨ VŨ HỐI
(Bài họa)
Nghệ sĩ rời xa chốn núi ngàn
Một đời dâng hiến ánh vinh quang
“Nghìn Thương Đất Mẹ“ về tiên cảnh
“Những Dấu Chân Đi” đến giới đàng
“Thư Hoạ Trích Kiều“ tranh rực rỡ
“Chiêm Bao Trở Giấc“ sắc huy hoàng
“Mùa Giao Cảm“ động trời thu tiễn
“Thơ Vũ Hối“ ngâm kỷ niệm tràn.
*
Kỷ niệm tràn buồn gởi bó hoa
Hồng Khôi Vũ Hối đẹp trăng ngà
Vần thơ thả nét làn sương đọng
Thư pháp tung ngòi ánh nguyệt sa
Hội Bút Việt Nam sầu thảy bạn
Cỏ Thơm Văn Học nhói toàn nhà
Hương lòng tiễn góp lời cầu nguyện
Tiếc nuối hiền nhân lệ ướt nhoà
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 8/20/2022
Chút kỷ niệm về Ông:
Có lẽ người Việt hải ngoại, khoảng thập niên 90, không có ai mà không biết đến Ông. Hay trong nhà mà không có những vật kỷ niệm, liễn, dĩa, trên giấy hoa, với nét thư pháp bay bướm của Ông.
Ông là một Nghệ Sĩ khác người, bỏ công, bỏ thời giờ đi chu du khắp nơi trên thế giới, nơi đâu mà có Cộng Đồng Người Việt, là có mặt của Ông!
Ông tâm sự: “Mỗi lần Ông bỏ nhà ra đi, giang hồ chu du, đơn vị ngắn nhất, là hơn…nửa năm! mới trở lại về…mái nhà!…xưa! Năm nào Ông cũng 2 lần đi như thế, là…hết năm!”
Hỏi tài chánh ở đâu, mà suốt cả thập niên, để Ông thực hiện chuyến đi “Dế mèn phiêu lưu ký” đều đặn như thế? “Tôi đi đâu cũng có bạn bè, thiếu tiền, thì vẽ, viết, RMS trong các sinh hoạt cộng đồng, nhất là những dịp Lễ Tết. Người Việt ai cũng yêu thích “chữ thánh hiền,” nên không ai mà không quên trả tôi ít công, Số tài chánh này luôn luôn dủ, mà còn dư!”
Chính vì thế, được đi đây đi đó, nên Ông quen biết rất rộng, ai cũng biết đến tên Ông.
Chúng tôi có dịp quen biết Ông trên 30 năm nay, quen cả người Anh của Ông là Giáo sư Vũ Ký. Hân hạnh xuất bản 3 tác phẩm của ông, trong đó có cuốn Truyện Kiều, dầy hơn 200 trang, tất cả là mầu, qua nét thư pháp rất công phu.
Ông tính tình hiền hòa, vui tính, hòa đồng, dễ dãi, ai cũng coi như Anh Em, ruột thịt!
Sự ra đi của Ông là một mất mát khuôn mặt lớn, mất một ngôi sao, trong sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật Người Việt Tại Hải Ngoại.
Vô Cùng Thương Tiếc!
LÊ VĂN HẢI
Tác Phẩm đã phát hành:
-Mùa Giao Cảm (Thơ) 1958
-Vần Thơ Màu Trắng (Thơ) – La Poésie de Couleur Blanche, được phiên dịch ra Anh và Pháp ngữ năm 1959 tại Sài Gòn
-Những Dấu Chân Đi (Truyện Ngắn), xuất bản năm 1960
-Hợp Tấu Thi Tuyển cùng 26 nhà văn hiện đại – Nhân Loại xuất bản năm 1969
-Chiêm Bao Trở Giấc (Thơ), xuất bản năm 1997
-Nghìn Thương Đất Mẹ (Thơ và Thư Họa), năm 1999
-CD Vũ Hối và Thơ Nhạc Trong Tranh do Nhật Trường Production thực hiện năm 2000
-CD Thơ Chiêm Bao Trở Giấc do nghệ sĩ Bích Ty- Hà Phương phát hành
-Thư Họa Trích Kiều, năm 2003 (TM xuất bản)
-Thơ Vũ Hối (CD ngâm thơ)
-Tuyển Tập Mây Ngàn (Thơ – Thư Họa Vũ Hối), ấn hành tại Norway năm 2004
-Nghệ Thuật Thư Họa, năm 2007
Trang đặc biêt cho nhà Thư Họa Vũ Hối của Long Hồ Vĩnh Long – Úc Châu: https://lethikimoanh9.blogspot.com/search/label/V%C5%A9%20H%E1%BB%91i%20Th%C6%B0%20H%E1%BB%8Da
Bức tranh Mộng Hoà Bình tác giả Vũ Hối
Thư Hoạ Vũ HốiVĩnh Biệt Vũ Hối. (1932 – 2022)
Xin góp tiếng và chia sẻ cùng diễn đàn. Nỗi buồn chia ly với Hoạ Sĩ Thi Sĩ Vũ Hối. Tôi xin chia sẻ bài thơ Vĩnh Biệt Vũ Hối và bài thơ “Men Chiều Cali” của Thi Sĩ Vũ Hối đã viết từ lâu.
Trân trọng
Lê Tuấn
Bài thơ «Men Chiều Cali» là bài thơ Vũ Hối đã lấy tên thật, và cho đăng trong tập tuyển Cụm Hoa Tình Yêu 1997.
« Vẽ cả trong tranh khung trời lộng gió
Vẽ cả men tình, một độ lên ngôi
Nâng niu ta vẽ cành hoa Nhân Ái
Những đóa hoa cười, nở mãi trên môi !
Nắn nót tình thơ, khung trời lộng gió
Mười ngón tay hoa, vướng nhạc bỗng trầm…
Ta về đâu ướp lạnh miền Đông Bắc
Nhớ Cali, từng vạt nắng hanh vàng
E ấp hành trang: men chiều kỷ niệm
Phong kín gửi người: nỗi chứa chan!
Vẽ người thương, giữa khung trời lộng gió
Vẽ mình ta, ngồi đếm nỗi cô liêu
Vẽ cánh chim rừng, một trời lạc xứ
Cali ơi ! Xin gởi nồng ấm men chiều!…»
Vũ Hối
***
Tôi xin chia sẻ bài thơ Vĩnh Biệt Vũ Hối
Vĩnh Biệt Vũ Hối
Thân phận trăm năm đã vẹn toàn
Chín mươi trường thọ sống huy hoàng
Văn thơ ngang dọc đời danh tiếng
Thư họa rồng bay cuốn liên hoàn.
*
Vũ Hối đã xa rời cõi tạm
Hư vô còn lại cánh thư nhàn
Nét thiên, nét địa đời ngang dọc
Vĩnh biệt xa người hồn chứa chan.
Tế Luân
Thành Kính Phân ưu.
Tôi không hề quen biết Thi Sĩ Vũ Hối. Tôi mến thơ văn và tài năng của ông qua báo chí và những diễn đàn văn học trên Internet. Tôi viết vần thơ tiễn biệt để thương tiếc một nhân tài đã từ giã cõi trân trở về nơi vĩnh hằng.
Thương Tiếc Hoạ Sĩ Vũ Hối
Tin vừa nhận được lệ thầm tuôn
Vũ Hối ngôi sao đã rụng buồn
Bút họa tràn danh đời mỹ mãn
Tranh màu nổi tiếng mộng tròn vuông
Vần xoay phượng múa đường mây ẩn
Chữ xoáy rồng bay dải ngọc luồng
Tiếc nuối nhân tài văn hoá đẹp
Treo tường kỷ niệm nhớ hoài luôn
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 8/19/2022VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC HOẠ SĨ VŨ HỐI
Xin thắp nén nhang kính bái biệt Nhà Danh Hoạ.
CMN
” Ông rất yêu đời, quá yêu đời ”
Hoạ sĩ VŨ HỐI đã rời chúng ta
Nụ cười thân thiện gần, xa
Ngữ ngôn chân thực bao la vô cùng
*
Tam Kỳ, Quảng Tín phương đông
Hội An, Đà Nẵng mênh mông thủa nào
Vượt không gian tới ngàn sao
Nhà danh hoạ đã bước vào hư vô
*
Nét đan thanh vẫn điểm tô
Bức tranh nhân thế chưa khô sắc mầu
Tiếc thương Hoạ Sĩ Á Âu
Tuyệt vời hình ảnh muôn sau nhớ người…
Los Angeles 19 – 8 – 2022
CAO MỴ NHÂN
Sưu tập và trang trí hình ảnh những tác phẩm của thư họa Vũ Hối: Trịnh Bình An SYDNEY – 21.8.22THƯA QUÝ VỊ VÀ QUÝ THÂN HỮU,THẬT ĐAU LÒNG NHẬN ĐƯỢC TIN NGƯỜI BẠN THÂN, ĐỒNG HƯƠNG QUẢNG NAM, CỦA TÔI VỪA “RA ĐI” – XIN CHÂN THÀNH CHIA BUỒN CÙNG TANG QUYẾN VÀ QUÝ THÂN HỮU.TÔI XIN KÍNH GỬI BÀI VIẾT THƠ/VĂN CỦA TÔI TRƯỚC ĐÂY VỀ NGHỆ SĨ ĐA TÀI VŨ HỐI, MONG CÙNG CẢM THÔNG CHUNG, VÀ MONG GIÚP PHỔ BIẾN ĐỂ CÙNG NHAU TƯỞNG NHỚ MỘT NGƯỜI BẠN CHÂN TÌNH VỪA KHUẤT BÓNG NHƯNG MÃI CÒN SỐNG TRONG TÂM TƯỞNG CHÚNG TA. ĐA TẠ.
V.Đ.T. (SYDNEY).
VŨ HỐI,
một mắt còn lại, nhìn cả trời Quê Hương…
Võ Đại Tôn
Trời Dallas về khuya bỗng nhiên trở lạnh. Hai người nằm bên nhau trong căn phòng nơi xứ lạ, ngọn đèn tỏa ánh sáng xanh mơ. Chúng tôi đã thoát ra khỏi xà lim ngục tù cộng sản một thuở nào, tàn tạ cả thời trung niên, nhưng nhiều đêm như đêm nay ác mộng lại trở về qua thao thức, trí tưởng chập chờn quay lại quê hương với vết thương đọa đày dường như vẫn còn nguyên vẹn. Nơi đó cội nguồn vẫn đang là ngục tù rộng lớn với những giòng máu tím đen cuộc đời. Máu của chúng tôi và biết bao tù nhân trong lao tù hòa chung cùng máu của Dân Tộc. Mẹ Âu Cơ đang ôm mặt khóc. Tôi thẩn thờ ngồi dậy, tay bóp đội chân khẳng khiu đang co giật từ hậu quả của những đòn thù tra tấn, và Vũ Hối mở to một mắt còn lại nhìn tôi. Ánh mắt im lặng nhưng nói nhiều lời, gửi trao tâm sự : – cũng không ngủ được ! – Chúng tôi lại thì thầm trong bóng đêm, dường như có tiếng sóng gợn từ giòng sông Thu Bồn đưa hồn chúng tôi trôi về một bến. Hai người cách nhau vài tuổi, một họ Võ-Vũ như nhau, một huyện quê, một đời tù, một say mê nghệ thuật, một con đường lý tưởng, một phương mặt trời.
Những danh từ hạn hẹp do con người tạo ra qua tiếng nói và mực in trên giấy để trao vương miện hoặc phủ bùn đen trên mỗi kiếp nhân sinh rồi cũng sẽ tan đi hay nhạt nhòa tựa hơi gió thoảng qua rèm, dấu mờ vàng úa bám víu thời gian. Ngoại trừ những tên tuổi đã đi vào lịch sử Dân Tộc với danh thơm muôn thuở hay lưu xú vạn niên. Tôi nhìn Vũ Hối không qua hình ảnh của một bậc thầy Thư Họa, một người thơ và một nhiếp ảnh gia, mặc dù tất cả những bộ môn nghệ thuật ấy đã cùng hội ngộ trên đỉnh cao thiên phú dành cho một người. Tôi không nhìn Vũ Hối qua giải khôi nguyên Hội Họa Quốc Tế tại Hoa Kỳ, qua sự hiện diện trong Đại Hội Mỹ Thuật Thế Giới, qua vinh danh là Họa Sĩ Sáng Tạo Nghệ Thuật với công trình sáng lập trường phái Luân Vũ Họa và trường phái Thư Họa, qua sự tiếp đón trọng thể từ những vị nguyên thủ quốc gia, luôn cả Tổng Thống từ một phương trời Đông Âu Tiệp Khắc xa xôi đã dành riêng cho tài hoa Vũ Hối mang giòng máu Việt. Tôi không cần lặp lại những vần thơ của Vũ Hối đã từng được các nhạc sĩ, ngay từ thời tiền chiến, phổ thành ca khúc, để nghe tiếng võng đưa theo Lời Ru Của Mẹ *.
Bởi vì, tất cả những điều đó đã được các nhà phê bình nghệ thuật, bạn bè gần xa, những người ngưỡng mộ tài danh Vũ Hối đã hơn một lần thốt ra thành lời hoặc in trên sách báo. Như Du Tử Lê đã viết “Vũ Hối là một bằng chứng bất công của Thượng Đế hay kết quả sau cùng của một hiến tặng cuộc đời cho văn học nghệ thuật”. Như Hà Huyền Chi đã ghi : “Chữ và thơ Vũ Hối tươm mật trên từng tuyến máu giao hưởng, làm thành một cõi riêng”. Như tôi cũng từng cảm thông viết nên dòng thơ gửi về Vũ Hối qua bài Một Trời Lộng Bút * với những câu “Ngọn bút anh rung, vẽ một đời mơ, Sông quyện núi, tụ về say nét mực. Một phut giây mà quặn đau tiềm thức, Chữ thay hình đổi dạng kiếp phù sinh…”. Tôi đã từng im lặng ngồi nhìn Vũ Hối, với một mắt còn lại cuối nửa đời sau của anh, vung tay bắt từng cánh chim phượng, từng khúc lưng rồng, từng ánh tơ trăng, từng điệu vũ cầu vồng, từng lá rụng mưa rơi, từng giọt lệ mọng nước rưng rưng và vô vàn hoa bướm, buộc tất cả phải tượng hình luân vũ trên trang giấyqua nét chữ chập chờn. “Vút cao lên, tỏa rộng ánh bình minh, Hay chìm xuống, ngỡ ngàng cơn nửa mộng…”. Tất cả, đã có người thương mến và cảm phục viết về Vũ Hối, hôm qua, bây giờ, và sẽ mai sau.
Đêm nay, tôi chỉ muốn nhìn Vũ Hối đang nằm cạnh tôi dưới một góc trời lưu vong, đôi bạn từng tù, như một người thực sự yêu Nước. Một người dân xứ Quảng không đeo mặt nạ. Tôi quay nhìn thật rõ con mắt còn lại của anh mà ngậm ngùi thương bạn, thương mình, thương cả Quê Hương. Vũ Hối cũng lặng lẽ nhìn tôi, một mắt, trong ánh sáng mờ ảo của ngọn đèn khuya. Tôi chợt cảm thấy lòng mình nao nao, không dám nhìn sâu thêm nữa, sợ cõi tận cùng cay đắng nơi đó con người đã đối xử với nhau bằng hận thù bạo lực. Vì lý do không chịu khai báo trong tù, cộng sản đã tra khảo anh đến mù một mắt và xác thân gần như bại liệt. Nhiều người trong giòng họ Võ-Vũ chúng tôi tại Quảng Nam đã bị cộng sản giết hại, tù đày, qua từng giai đoạn nổi trôi của mệnh Nước điêu linh. Để rồi hôm nay, thế hệ chúng tôi cho dù mắt mù, chống nạng, vẫn còn đứng lên để đòi lại quyền sống không phải chỉ cho riêng mình. Những thửa ruộng cằn khô đất cày lên sỏi đá, giòng
sông như sữa mẹ Thu Bồn, lũy tre làng xác xơ chiều ôm nắng quái, đã nuôi chúng tôi nên Người, chung lòng quặn đau niềm đau Tổ Quốc. Dường như không có một bước chân nào Vũ Hối đã đi qua, từ trại tù nơi quê nhà đến bốn phương trời lưu vong hôm nay, dường như không có một bức Thư Họa nào của Vũ Hối đã triển lãm trong các sinh hoạt cộng đồng hoặc được trang trọng treo lên nơi nội thất bạn bè, rồng bay trên tơ lụa, phượng múa trên dĩa vàng tráng men, dường như không có một câu thơ nào của Vũ Hối trong giây phút linh cảm xuất thần hoặc tích tụ từ bao nỗi trầm thăng cuộc đời và mệnh Nước, mà không mang dấu ấn Quê Hương. Hồn anh và đất Mẹ đã hòa chung thành Một. Trong dáng khẳng khiu thân xác, trầm tư mộc mạc, ta thấy lại ngọn tre đường làng ngả nghiêng chiều gió đang bật dậy để vói đến trời cao. Tinh thần sĩ phu tự hào nòi giống. Trong cuộc sống bịt bùng xà lim hay nơi chốn tạm dung, lúc nào anh cũng vươn mình đi tìm Lẽ Sống. Cho Tình Người và cho Nghệ Thuật. Nét Đẹp chân chính tụ đầy ánh mắt còn sót lại một đời.
Vũ Hối chập chờn bước đi, nấu nước pha trà cho hai chúng tôi buổi sáng rồi cặm cụi ngồi viết một vài câu thơ trên dĩa sứ để đúng hẹn trao tặng bạn bè. Trong ánh đèn mờ ảo, tôi thấy từng dòng chữ nhảy múa luân hồi, từng cánh hoa rụng xuống, từng nhát kiếm bay lên. Anh chợt ngẩng đầu nói với tôi mà như nói một mình : –“Chỉ còn một mắt, khó thấy rõ nét để thỏa chí tung tay”. Tôi tiếp lời mà cũng như nói một mình : -“Một mắt cũng đủ nhìn đời, nhìn làm chi cả hai con mắt cho thêm nản lòng !”. Chúng tôi, hai thân-tù-hôm-qua, cùng chung một nỗi cô đơn, chợt cùng nhìn ra khung cửa sổ. Anh lại nói : -“Trời sắp sáng rồi !”. Tôi biết. Dường như anh muốn nói, và tôi cũng đang nghĩ : Quê Hương sẽ không còn bóng đêm !.
VÕ ĐẠI TÔN
(Dallas, TX – USA).
- Lời Ru Của Mẹ : bài thơ nổi tiếng của Vũ Hối đã được phổ nhạc từ thời tiến chiến.
- Trích trong bài thơ Một Trời Lộng Bút của Võ Đại Tôn viết tặng Vũ Hối, 2001.
Xin đọc tiếp bài thơ “Một trời lộng bút” dưới đây. Cảm Tạ.
MỘT TRỜI LỘNG BÚT
MỘT TRỜI LỘNG BÚT…
Cảm đề bức Thư Họa “Điểm Tuyết Mai Vàng Vọng Cố Hương” của Vũ Hối)
Võ Đại Tôn (HPL)
Đứng bên này đại dương
Nghe Thu Bồn sóng vỗ.
Trong lòng anh – cánh mai vàng nở rộ
Trời quê hương mây nước cũng thành Thơ.
Ngọn bút anh rung, vẽ một đời mơ
Sông quyện núi, tụ về say nét mực.
Một phut giây mà quặn đau tiềm thức
Chữ thay hình đổi dạng, kiếp phù sinh.
Vút cao lên, tỏa rộng ánh bình minh
Hay chìm xuống, ngỡ ngàng cơn nửa mộng.
Gió vờn hoa, nhụy vàng lay khẽ động
Nụ tròn trinh e ấp tuyết hồn Xuân.
Đời thoáng qua, ngân nhủ mắt nhân quần
Ai thấy được phút giao thần linh cảm ?
Xin lắng nghe tiếng vàng reo ngọc chạm
Bút hồn Quê réo rắt máu tim anh.
Mực dù phai, Tâm Bút với Tâm Thành
Luôn vĩnh cửu theo Hồn Thiêng Đất Mẹ.
VÕ ĐẠI TÔN (Hoàng Phong Linh).
THƯ HOẠ TÀI DANH. CAO MỴ NHÂN
Còn vài ngày nữa là đám tang Nhà Danh hoạ VŨ HỐI , hay Hoạ sĩ lừng danh Vũ Hối, sẽ được tổ chức bên miền đông Hoa Kỳ, rất trang trọng.
Tôi muốn ghi mấy lời về hiện tượng Nhà Danh Hoạ VŨ HỐI để làm … kỷ niệm thôi.
Bởi lẽ xã hội GOOGLE bây giờ có cái gì mà ông Gù đó không trả lời bạn đọc được, cần chi ghi với chép chứ .
Hoạ sĩ VŨ HỐI đơn giản thôi, trường hợp tôi tôn vinh ông lên là Nhà Danh Hoạ năm 1982 ở Saigon, vào một buổi hội thơ đặc biệt tại tư thất ông Trần Trọng Hiếu ở quận 3 thủ đô chế độ cũ VNCH, từ đó danh xưng Nhà Danh Hoạ của ông đã vượt xa thật nhanh .
Hội thơ đó dành cho Hoạ Sĩ VŨ HỐI giới thiệu một bức tranh ,mà có lẽ hầu hết bạn bè văn học nghệ thuật đều hơn một lần được biết .
Bức tranh in hình một thiếu nữ mặc áo dài bông đỏ, quần trắng, chân không, tóc đen thả dài trước ngực trong tư thế ngồi nghiêng, đặc biệt một bàn tay cầm chiếc lược chặn ngang mớ tóc dài, như chia đôi mớ tóc theo chiều hướng bắc nam, có nghĩa chiếc lược là dòng sông BẾN HẢI trên lãnh thổ VIỆT NAM kể từ 20 – 7 – 1954 vậy.
Điều đặc biệt của bức tranh nêu trên , là cô gái ngồi trên chiếc chõng tre trong căn phòng vách nát, qua khung cửa sổ, thấy trời mưa lâm râm , gió nhẹ đủ làm rách mấy tàu lá chuối, cây chuối gầy nghiêng muốn đổ.
Nhóm bạn tập trung hôm ấy gồm giới nữ lưu thuộc Hội Thơ QUỲNH DAO, một hội thơ đặc biệt được thành lập ở miền nam VN năm 1960, do cố Nữ Sĩ CAO NGỌC ANH ( sanh 22 – 12 – 1878, mất 14 – 10 – 1970 ) làm Niên trưởng , mãn phần 91 tuổi.
Thành phần tham dự : Nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội, Vân Nương, Uyển Hương , Tôn nữ Hỷ Khương vv…
Quý vị khách nam : Luật Sư Lê Ngọc Chấn cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng, cựu Đại Sứ VNCH ở Anh và Tunisie, các vị nêu trên đã qua đời, còn tại thế giáo sư Nguyễn Thuỳ hiện ở Pháp, Hoạ sĩ VŨ HỐI, nhân vật tôi đang kể hôm nay , mới vừa mệnh chung ngày 19 – 8 – 2022.
Trên danh nghĩa một Hoạ Sĩ tên tuổi , nhưng ngoài bức vẽ người thiếu nữ chải tóc chia đôi nam bắc trong một hình ảnh nghèo nàn chinh chiến ở quê hương VN ra, thì tôi vì nhiều thứ lý do, không được biết thêm một hoạ phẩm nào nữa.
Chỉ đồng thời được nghe danh ông năm 1962 đã được mời vô Toà Bạch Ốc vẽ chân dung Tổng Thống Mỹ JOHN F KENNEDY, vị Tổng Thống thứ 35 của HOA KỲ.
Bản tánh tôi bấy giờ lại ưa bông lơn, trong vai trò người điều khiển chương trình vui vẻ, bằng vào cớ Hoạ Sĩ đã vẽ chân dung cho TỔNG THỐNG KENNEDY, tôi phong danh NHÀ DANH HOẠ VŨ HỐI từ đó, 1982, cách đây đúng 40 năm.
Nhà Danh Hoạ VŨ HỐI với Thi Đàn Quỳnh Dao của chúng tôi rất thân thiết, không một kỳ hội họp thơ ca nào không có sự hiện diện của ông . Bấy giờ 1982, Hoạ Sĩ VŨ HỐI thường đi chiếc vespa, ông cũng mới 50 tuổi , thuộc giới trẻ trong hàng ngũ thi văn sĩ QUỲNH DAO , quý cụ toàn 60 tuổi trở lên , ngoại trừ chị Tôn Nữ Hỷ Khương và tôi còn chơi vơi theo đàn sáo, thua ông cả giáp.
Nhưng cái điều tôi muốn nhắc lại kỷ niệm hôm nay, là tôi muốn nói tới 2 lãnh vực văn nghệ khác của Nhà Danh Hoạ VŨ HỐI.
Đó là làm thơ và viết thư hoạ .
Về THƠ thì hoạ sĩ Vũ Hối đã có các tác phẩm như ghi trong tiểu sử ông rồi, đa phần bằng hữu thân quen hay nói chuyện thơ với ông, ít ai nhắc đến tranh ảnh do ông vẽ, và chính ông cũng không đề cập đến những cuộc triển lãm nào, có lẽ chúng tôi xa lạ với thế giới hội hoạ, nên cũng không ai đòi ông giới thiệu thêm hoạ phẩm của ông.
Qua phần THƯ HOẠ thì quả là một sinh hoạt sung mãn nhất của ông trong mấy chục năm cuối thế kỷ trước và đầu thế kỷ này.
Hầu như không một tập thơ nào không có phụ bản THƯ HOẠ của Hoạ Sĩ VŨ HỐI . Có quý vị còn được Nhà Danh Hoạ tặng cho 4,5 bức thư hoạ nơi tập thơ của mình .
Điều này cũng không cần giới thiệu thêm, vì đa phần thi sĩ cũ ở niền Nam và nhất là ở hải ngoại này, các thi sĩ đều ít nhiều có dấu tích THƯ PHÁP VŨ HỐI .
Tôi ít được gặp gỡ ông ngoại trừ thời gian ông và chúng tôi chưa xuất ngoại .
Tôi lại là một người hơi kỳ cục là không chịu giữ lại những gì lớn lao chuyện ở xã hội chung quanh.
Thế nên trong mười mấy tập thơ tôi đã xuất bản , không có tập nào mang THƯ PHÁP VŨ HỐI .
Ngay tới nhạc bạn văn thơ đã phổ cho, tôi cũng lười giữ .
Tôi không hề có con dấu riêng tên mình, để mỗi lần tặng sách hay bán sách đóng dấu sau khi ký tên chẳng hạn .
Như vậy thì tôi làm sao có kỷ niệm với Nhà Danh Hoạ VŨ HỐI chứ .
Nhưng vẫn có kỷ niệm với bậc Hoạ Sĩ lừng danh ấy .
Lần đầu tiên ở Saigon, tại một hội thơ do anh chị LÊ THANH ĐOAN QUỲNH tổ chức , Thi sĩ kỳ cựu TRỤ VŨ, cũng từng chơi THƯ HOẠ, nói tôi hãy viết ” tịch xướng ” một bài hay mấy câu thơ sau khi đi tù cải tạo về .
Tôi nghĩ được 2 câu thế này:
Nhìn xuân, thấy được hình ta
Thoát từ cố cựu bước ra tân kỳ …( cmn )
Nhà Danh Hoạ VŨ HỐI đã viết ngay tức khắc 2 câu đó , và nói : ” Thế là đủ với Cao Mỵ Nhân rồi ” .
Vâng tôi nghĩ vậy cũng được rồi .
Hoạ sĩ VŨ HỐI có một vị bạn mà tới chết cũng sẽ là đôi bạn không thể rời nhau, đó là ông PHAN CHỨC , cùng quê, cùng tuổi, nhưng khác nghề .
Hoạ sĩ VŨ HỐI là một nghệ sĩ hết sức phóng túng, tự do.
Còn ông PHAN CHỨC đi lính VNCH, lên tới chức Trung Tá, suốt cuộc đời binh nghiệp, chỉ làm việc ở quê nhà TAM KỲ QUẢNG TÍN , chức vụ sau cùng là Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu Quảng Tín .
Qua Hoa Kỳ theo diện HO, hiện định cư ở tiểu bang UTAH. Ong PHAN CHỨC có thời làm báo NGƯỜI VIỆT UTAH.
Ông bạn này vốn xưa tôi mới ra trường, tôi về đơn vị Trung Đoàn 6 Bộ Binh/ Sư Đoan 2 BB, nên cùng phục vụ ở nam Hải Vân với ông Phan Chức đó.
Khi ông PHAN CHỨC nhận làm báo NGƯỜI VIỆT ở UTAH, đã lập tức mời tôi cộng tác . Và nhà binh thì thiết thực và đơn giản hơn văn nghệ sĩ .
Nên , Ông Phan Chức tự ý đưa một bài thơ gọi là tâm đắc của tôi, cho ông bạn quá thân tình thủa ấu thơ VŨ HỐI , nhờ viết Thư Hoạ.
Nhà Danh Hoạ đã lặng lẽ nghĩ lại câu chuyện thư pháp năm xưa ở VN, chúng tôi đã cùng nghĩ với 2 câu thơ nêu trên , là đã đủ … kỷ niệm Thư Pháp , nên không tiến hành viết thêm làm gì, dù sau này tôi liên tiếp in thơ.
Cho tới lần cuối, mới đây, Thi Sĩ PHAN KHÂM ở miền đông Hoa Kỳ, nhân chuyện tôi xuất bản tập thơ ” CHIM BAY MỎI CÁNH ” , đã tặng tôi 4 câu thơ và nhờ HOẠ SĨ TÀI DANH VŨ HỐI viết Thư Pháp, trang trọng đăng trên Diễn Đàn VĂN BÚT VÙNG ĐBHK, tuyệt đẹp .
Rồi có lẽ cũng là lần viết THƯ PHÁP sau cùng của Nhà Danh Hoạ VŨ HỐI cho Thi Sĩ PHAN KHÂM, mà tôi được hưởng ké trang Thư Hoạ viết Thơ của Thi Sĩ PHAN KHÂM, tặng Tác giả thi tập ” CHIM BAY MỎI CÁNH ” là tôi.
Tôi chạnh nhớ lời nhạc của TRỊNH CÔNG SƠN :
” ĐI VÀ VỀ một nghĩa như nhau ” , tôi cũng tạm mượn câu nói tuy thân quen với mọi người VN, song quả là lý thú, thế nhân thích làm những điều họ thích, không vì một lý do gì, kể cả lý do không gian và thời gian trước mặt trống rỗng.
Có lẽ vạn sự có duyên vô thường, thì trước sau cũng tái ngộ vô thường.
Xin thành kính phân ưu cùng tang quyến Nhà Danh Hoạ VŨ HỐI. Thành kính chúc ông phiêu diêu miền Cực Lạc .
Hawthorne 22 – 8 – 2022
CAO MỴ NHÂN
CHIA SẺ NHỮNG SÁNG TÁC TIẾC THƯƠNG VÀ TƯỞNG NIỆM VĂN THI HỌA SĨ VŨ HỐI TỪ DIỄN ĐÀN BẠN LONG HỒ VĨNH LONG:
Long Hồ Vĩnh Long: Cáo Phó Thư Họa Vũ Hối (longhovinhlong.blogspot.com)Long Hồ Vĩnh Long: Bác Vũ Hối! Một Lần Rồi Thôi – Kim Phượng (longhovinhlong.blogspot.com)
Long Hồ Vĩnh Long: Gia Đình Trần Đại Bản Thương Tiếc Anh Vũ Hối (longhovinhlong.blogspot.com)
Long Hồ Vĩnh Long: Tâm Hương Huyết Lệ Tiễn Người Đi – Luân Tâm (longhovinhlong.blogspot.com)
Long Hồ Vĩnh Long: Lê Tuấn Vĩnh Biệt Vũ Hối (longhovinhlong.blogspot.com)
Long Hồ Vĩnh Long: Cao Mỵ Nhân Thương Tiếc Danh Họa Vũ Hối (longhovinhlong.blogspot.com)
Long Hồ Vĩnh Long: Dương Việt Chỉnh Tiễn Biệt Thi Thư Họa Vũ Hối (longhovinhlong.blogspot.com)
Long Hồ Vĩnh Long: Minh Thúy Thương Tiếc Thư Họạ Vũ Hối (longhovinhlong.blogspot.com)
Long Hồ Vĩnh Long: Mộng Hòa Bình* – Hoạ Sĩ Vũ Hối (longhovinhlong.blogspot.com)
-
Tin Buồn San Jose: Nữ Luật Sư JENNY ĐỖ Qua Đời – Giao Chỉ Vũ Văn Lộc & THƠ Thương Tiếc Jenny Đỗ – Phương Hoa VTLV.
Thân Gửi Quý Bằng Hữu
Giao Chỉ Vũ Văn Lộc
Nữ Luật Sư Jenny Đỗ, San Jose, qua đời hôm thứ năm vừa qua. Xin xem bản thông báo của Hội bạn Huế bên dưới.
Chúng tôi rất đau buồn loan báo cùng các bằng hữu xa gần có biết Jenny ở San Jose. Tôi nói chuyện với anh luật sư Đỗ Quý Dân và được biết Jenny tuy bị ung thư nhưng vẫn còn đang cầm cự từ nhiều năm qua.Cô không ra đi vì ung thư. Đêm trước cô bị tai biến mạch máu não trong lúc ngủ. Gia đình đem vào nhà thương và được tiếp sống bằng các ống nghiệm. Hơi thở và tim rất yếu, nhưng dường như Jenny đã đi rồi.Anh Dân đang công tác Huế vội bay về. Sáng thứ năm các bạn đã loan tin Jenny qua đời nhưng sự thực tim còn đập và vẫn còn thở. Anh Dân ngồi cạnh Jenny hơn 6 tiếng và cho đến giây phút rút các ống nghiệm. Sau đó tim và phổi của Jenny vẫn còn hoạt động rồi yếu dần mới coi như giây phút chót.
Vài viết vài hàng tóm lược các điều chúng tôi biết về Jenny. Một cuộc sống suốt đời chống lại định mệnh. Cô gái lai góp phần mở đường đầu tiên đến Mỹ tìm cha nhưng không bao giờ gặp được ông bố Hoa Kỳ. Tuổi thơ của đứa con lai đau thương sống cạnh ngôi chùa với mùi hương cây Khuynh Diệp. Qua Hoa Kỳ sao mùi hương Khuynh Diệp không giống ở VN. Cô viết tạp ghi ẩn dụ đi tìm Đường Khuynh Diệp. Cũng như các tác giả Nhân Văn đi tìm lá Diêu Bông.
Vượt qua số mệnh trầm luân cô tìm thấy tất cả tại thiên đường Hoa Kỳ. Từ học vấn thời trẻ thơ Sài Gòn “Giải Phóng” trở thành c án sự làm việc cho Santa Clara County. Tại đây anh luật sư trẻ bị đôi mắt cô lai đồng nghiệp giữ chân. Chàng giúp nàng học luật và Jenny thành luật sư Jenny Đỗ. Phần bà mẹ gốc Nam Định di cư sinh con lai tại Vũng Tàu để đứa con lai trở thành Người bạn của Huế nuôi hàng trăm trẻ em của xứ Thừa Thiên. Đứa con lai trở thành nữ hoàng áo dài San Jose tổ chức một ngày huy hoàng tại Fairmont. Cô được cả quốc hội Sacramento tuyên xưng Áo dài Việt Nam có một ngày danh dự. Hoa Kỳ đã dành cho Jenny mọi cơ hội nhưng đồng thời cũng đòi hỏi đứa con gái của chiến tranh phải chiến đấu với kẻ thù của nhân loại. Bệnh Ung Thư. Cô đã cầm cự trong rất nhiều năm và bất phân thắng bại. Nhưng Jenny đã ra đi vì cơn đột biến chẳng liên quan gì đến ung thư. Chết ngay trong giấc ngủ. Vừa nghe tin hàng trăm con cái xứ Huế và cả ban quản trị cũng khóc để tiễn đưa luật sư Dân trở lại Hoa Kỳ. Ở San Jose có ai khóc cho Jenny, người suốt đời đi tìm Đường Khuynh Diệp chim đắm cả tuổi thơ. Người đem áo dài Việt Nam vào Museum of Art tại San Jose. Sau cùng anh Đỗ quý Dân tâm sự: Cháu vốn hoang đàng nhưng phải nói rằng chưa từng gặp ai như Jenny. Cô rất nhiệt thành sống cho người khác. Có khả năng tổ chức phi thường và xã giao xuất sắc. Anh Dân cho biết tang gia giới hạn trong phạm vi gia đình và sẽ có một ngày tưởng niệm dành cho thân hữu. Cũng như gia đình đã làm cho người em là kiến trúc sư Đỗ Thắng.
Sau Thắng Đỗ, San Jose lại mất đi thêm một người tử tế.
Bác Lộc gửi Dân, và Jenny Đỗ phút lâm chung.
Bác có viết gì sai, xin bỏ qua.
Vũ Văn Lộc
Nghi vien Tam va nghi vien Manh SJ City chup hinh voi Jenny vao nhung ngay thanh cong nhat. Jenny noi chuyen voi than huu San Jose tai Viet Museum -
TRANG TƯỞNG NIỆM: Giáo Sư Tiến Sĩ Khoa Học Gia NGUYỄN XUÂN VINH
Tin Buồn:
Giáo Sư,
Khoa Học Gia Không Gian,
Cựu Tư Lệnh Quân Chủng Không Quân VNCH:
Cụ An Phong Sô Nguyễn Xuân Vinh
Vừa được Chúa gọi về, lúc 2 giờ 49 phút chiều Thứ Bảy (Hôm nay!) ngày 23 tháng 7 năm 2022, tại Nam Tiểu Bang California, Hoa Kỳ.
Hưởng Thọ 92 Tuổi.
Đây là một mất mất lớn cho Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại nói riêng và Đất Nước Việt Nam nói chung. Một “nhân tài” đoạt nhiều giải thưởng không gian giá trị quốc tế, mà rất nhiều người trên thế giới biết đến tên Ông.
Vô Cùng Thương Tiếc!
LÊ VĂN HẢI.
BÀI VIẾT VỀ GS NGUYỄN XUÂN VINH CỦA TRƯỞNG BAN BIÊN TẬP VTLV
THÁI PHẠM
Vai-Net-ve-Giao-su-Nguyen-Xuan-Vinh-4
VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC
*
Vô cùng thương tiếc NGUYỄN XUÂN VINH
Chuyến cuối Người bay chỉ một mình
KHOA HỌC GIA, lừng danh trí tuệ
APOLLO, nổi tiếng công trình
TOÀN PHONG văn sĩ, bao thành quả
Tư lệnh Không Quân, lắm nghĩa tình
Giải thưởng Hàn Lâm ngời rực rỡ
Gia tài toán học sáng lung linh
Tri ân rạng mặt dân Nam Quốc
Kính tiễn Cụ về diện Thánh Linh.
*
Thánh Linh Chúa rước bậc tài hoa
Nắng Hạ dường như khóc vỡ oà
Sự nghiệp, năm châu hừng ánh tỏa
Công danh, bốn biển chói quang lòa
Không Gian Kỹ Thuật cùng bay vút
Khoa Học Phi Thuyền giúp tiến xa
Gãy cánh Đại Bàng đau Việt Tộc
XUÂN VINH thanh sử mãi không nhoà
Phương Hoa – July 24, 2022
VINH DANH HỌC- GIẢ NGUYỄN XUÂN VINH (1930-2022)
Thiên tài giã biệt kiếp nhân sinh
Tổ-Quốc Không-Gian giữ vẹn tình
Thông thái, uyên thâm vừa khuất bóng
Hào hoa, phong nhã đã tan hình
Nam Tào mở sổ nhìn thương tiếc
Bắc Đẩu quay lưng muốn hoãn đình
Hãnh diện ngôi sao dòng Lạc-Việt
Vinh Danh Học Giả Nguyễn Xuân Vinh!
DUY ANH – 07/24/2022
***
CÁC BÀI HỌA
Thương Tiếc Giáo Sư Tiến Sĩ NGUYỄN XUÂN VINH
(1930 – 2022)
Thương tiếc Giáo Sư…dạy học sinh
Không Gian Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Vinh
Không Quân Đại Tá từng Tư Lệnh
Quân Lực Phi Đoàn thuở chiến chinh
Công đức Phương Nam nguồn nước Việt
Tinh hoa nòi giống vốn Thiên Đình
Tự hào Tổ quốc nhà khoa học…
Tạ thế thời danh Tiến Sĩ Vinh…!
Mai Xuân Thanh
July 24, 2022
*
GÃY CÁNH SẮT
*
Giáo Sư Toán Học đông môn sinh
Khoa Học Gia : ông Tiến Sĩ Vinh
Tư Lệnh một thời Không Lực mạnh
Nasa ngàn thủa, dấu trường chinh
Apolo 11 còn vang tiếng
Quỹ tích văn chương vẫn nổi đình
Chim sắt nghiêng trời, thôi gãy cánh
Việt Nam danh tiếng Nguyễn Xuân Vinh…
Los Angeles 24 – 7 – 2022
CAO MỴ NHÂN
*
QUẢ THẬT VINH
*
Khoa học gia tiến sỹ Nguyễn Vinh
Xuân thời danh tiếng lắm môn sinh
Không quân Đại tá bao lừng lẫy
Nổi bậc nhân tài chiến quốc chinh
Toán học Nasa Người định hướng
Đường bay quỹ đạo đến cung đình
Đa năng xuất chúng vẻ vang Việt
Con Lạc cháu Hồng quả thật vinh …
Yên Hà
25/7/2022
Sau đây là chút tiểu sử, công nghiệp của người mới qua đời:
Con Người Đa Tài Trên Nhiều Lãnh Vực:
Ông nguyên là Tư lệnh thứ hai của Quân chủng Không quân Việt Nam Cộng hòa. Ông cũng là Giáo sư, Tiến sĩ, Viện sĩ chuyên ngành Kỹ thuật Không gian người Mỹ gốc Việt nổi tiếng trên thế giới. Năm 1962, ông là người Việt Nam đầu tiên và cũng là người đầu tiên ở Đại học Colorado được cấp bằng Tiến sĩ Khoa học Không gian, sau khi ông thực hiện thành công nghiên cứu công trình tính toán quỹ đạo tối ưu cho Phi thuyền do NASA tài trợ. Những lý thuyết của ông đã góp phần quan trọng đưa các Phi thuyền Apollo lên được Mặt trăng thành công, đồng thời được ứng dụng vào việc thu hồi các Phi thuyền con thoi trở về Trái đất an toàn. Ông còn là nhà văn với bút danh Toàn Phong với nhiều tác phẩm nổi tiếng được xuất bản.
Đời Binh nghiệp
Cấp bậc: Đại tá Không Quân VNCH
Phục vụ trong quân ngũ từ năm1951đến năm 1962.
Ông Nguyễn Xuân Vinh (sinh ngày 3 tháng 1 năm 1930), nguyên là sĩ quan Không quân cao cấp của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tá. Xuất thân từ khóa Sĩ quan Trừ bị đầu tiên được Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra ở miền Nam Việt Nam vào đầu thế kỷ 20.
Ông sinh ngày 3 tháng 1 năm 1930 trong một gia đình khá giả tại Yên Bái, miền Bắc Việt Nam, là con trai trưởng. Cha ông là Nguyễn Xuân Nhiên. Mẹ ông là người Nam Định. Ông có nhiều em trai và em gái, tiêu biểu là tiến sĩ toán học Nguyễn Xuân Huy, kỹ sư Nguyễn Xuân Chúc (công tác và làm việc cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), nhà thơ Nguyễn Thị Hoài Thanh… Năm 1950, ông tốt nghiệp Trung học Phổ thông 2 cấp chương trình Pháp tại Hà Nội với văn bằng Tú tài toàn phần (Part II).
Từ khi còn nhỏ ông đã là một người có năng khiếu toán đặc biệt. Ông tham gia viết sách từ rất sớm. Khi còn đang là học sinh, ông đã có sách được xuất bản với cuốn sách giáo khoa Bài tập hình học không gian. Cuốn sách đã trở thành tài liệu tham khảo và học vấn quan trọng thời bấy giờ.
Tháng 9 năm 1951, thi hành lệnh động viên của Quốc trưởng Bảo Đại, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, được theo học tại trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định, khai giảng ngày 1 tháng 10 cùng năm. Ngày 1 tháng 6 năm 1952, tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy và được phái về ngành Công binh. Cuối năm, ông xin chuyển sang ngành Không quân và được đi du học tại Học viện Không quân ở Salon-de-Provence, Pháp (École de l’Air). Đầu năm 1954, ông tốt nghiệp với bằng phi công 2 động cơ và bay phi cụ, đồng thời ông được thăng lên cấp Thiếu úy. Sau đó ông lưu trú và phục vụ chuyên ngành tại Pháp và Maroc. Trong thời gian này ông ghi danh học Đại học và thi đậu bằng Cử nhân toán ở Đại học Aix-Marseille.
Đầu năm 1955, khi Quân đội Pháp chính thức bàn giao cơ sở và trang thiết bị của ngành Không quân lại cho Quân đội Quốc gia, ông được lệnh trở về Việt Nam và được thăng cấp Trung úy, phục vụ trong Bộ tư lệnh Không quân. Cuối năm 1955, ông được thăng cấp Đại úy làm Trưởng phòng Nhân viên trong Bộ Tư lệnh Không quân, Tháng 10 năm 1956, sau khi Thủ tướng Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống của nền Đệ nhất Cộng hòa, ông được thăng cấp Thiếu tá làm Tham mưu phó tại Bộ tư lệnh Không quân. Ngày Quốc khánh 26 tháng 10 năm 1957, ông được thăng cấp Trung tá và được bổ nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng Không quân do Đại tá Trần văn Hổ làm Tư lệnh. Tháng 2 năm 1958 ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Không quân, ngay sau đó được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Ngày 27 tháng 2 năm 1962, hai sĩ quan phi công là Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử điều khiển 2 chiếc Khu trục cơ thả bom Dinh Độc lập, ông bị liên đới trách nhiệm nên Tổng thống Diệm đã cách chức Tư lệnh Không quân của ông. Cùng năm này, ông xin giải ngũ và đi du học ở Hoa Kỳ. Ngay sau đó, Trung tá Huỳnh Hữu Hiền thay thế ông làm Tư lệnh Không quân.
Nhà Nghiên cứu khoa học trong lãnh vực không gian!
Năm 1962, ông đến Hoa Kỳ để bắt đầu sự nghiệp Khoa học của mình khi mới 32 tuổi. Năm 1965, ông là người đầu tiên được cấp bằng Tiến sĩ về Khoa học Không gian tại Đại học Colorado. Ba năm sau, ông được làm giảng sư (Associate Professor) tại Đại học Michigan. Năm 1972, ông được phong hàm giáo sư (Professor) tại Viện Đại học Michigan. Cũng trong năm này ông lấy tiếp bằng Tiến sĩ Quốc gia toán học tại Đại học Sorbonne, Paris, Pháp.
Năm 1982, ông là giáo sư (Chair Professor) của ngành Toán ứng dụng tại Đại học Quốc gia Thanh Hoa (National Tsing Hua University) ở Đài Loan. Hai năm sau, năm 1984, Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh là người Hoa Kỳ thứ ba và là người Châu Á đầu tiên được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc gia Hàng không và Không gian Pháp (Académie Nationale de l’Air et de l’Espace). Đến năm 1986, ông trở thành Viện sĩ chính thức của Viện Hàn lâm Không gian Quốc tế (International Academy of Astronautics).
Trong nhiều năm ông đã được mời tham gia thuyết trình thỉnh giảng tại nhiều Đại học lớn và các Hội nghị Quốc tế nhiều nơi trên Thế giới bao gồm Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Áo, Đức, Ý, Hà Lan, Thụy Sĩ, Na Uy, Thụy Điển, Hungary, Israel, Nhật, Trung Quốc, Đài Loan và Úc.
Năm 1999, ông nghỉ hưu, ông đã được Hội đồng Quản trị (Board of Regents) tại Đại học Michigan phong tặng chức Giáo sư Danh dự ngành Kỹ thuật Không gian (Professor Emeritus of Aerospace Engineering) vì công lao đóng góp cho khoa học và giáo dục.
Gia đình
Thân phụ: Cụ Nguyễn Xuân Nhiên (1904-1950)
Thân mẫu: Cụ Đỗ Thị Thảo (1909-2002) (sinh hạ 11 người con, giáo sư Nguyễn Xuân Vinh là con thứ 2 và là trưởng nam)
Bào tỷ: Nguyễn Thị Bính (đã mất)
Bào đệ: Nguyễn Xuân Chúc (sinh 1932), Nguyễn Xuân Đăng (đã mất), Nguyễn Xuân Quang (đã mất), Nguyễn Xuân Huy (sinh 1944)
Bào muội: Nguyễn Thị Bạch Yến, Nguyễn Thị Hoài Thanh (1936-2020), Nguyễn Thị Kim Oanh, Nguyễn Thị Thanh Nga, Nguyễn Thị Minh Nguyệt (đã mất).
-Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh có vợ và 4 người con, Bà Vinh đã qua đời tại San José, sau đó, Ông dọn xuống Nam Cali, thành hôn với người vợ mới, có tên Phiến Đan. Từ đó Ông định cư tại Nam Cali cho tới ngày qua đời.
Ngoài ra thân phụ ông có người vợ kế là Đỗ Thị Huyền (1920-1998), chính là em ruột của Đỗ Thị Hảo, có với nhau 4 người con: Nguyễn Thị Băng Tâm, Nguyễn Thị Vân Khanh, Nguyễn Thị Sinh và Nguyễn Chí Bảo.
Đời tư
Cha của ông là Nguyễn Xuân Nhiên, liệt sĩ hy sinh năm 1950 thời Chiến tranh Đông Dương.
Em trai là Nguyễn Xuân Chúc, sinh ngày 30 tháng 9 năm 1932 tại Hải Phòng. Ông Chúc là kỹ sư cầu đường, tốt nghiệp Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội. Trái ngược với anh trai Nguyễn Xuân Vinh, ông Nguyễn Xuân Chúc tham gia Việt Minh và công tác trong chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngoài ra người em trai khác là Nguyễn Xuân Huy, sinh năm 1944, hiện đang công tác tại Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Người em gái Nguyễn Thị Hoài Thanh là nhà thơ nổi tiếng, sinh năm 1936, đã mất năm 2020 tại Hải Phòng.
Gần cuối đời, Ông rửa tội, theo đạo Công Giáo.
Ngày 19 tháng 10 năm 2016, ông đã được Đức cha Đa Minh Mai Thanh Lương, Giám mục Công giáo người Việt đầu tiên tại Hoa Kỳ, làm phép Thanh Tẩy gia nhập Đạo Công giáo tại Nhà thờ Saint Bonaventure Church ở Huntington Beach, California. Ông lấy Tên Thánh là Anphongsô. Ông cũng được lãnh nhận bí tích Thêm Sức do Giám mục Mai Thanh Lương ban trong Thánh lễ với sự hiện diện của gia đình thân quyến và các bạn hữu lâu năm của ông.
Đoạt Các Giải thưởng
Năm 1994: Mechanics and Control of Flight Award presented do American Institute of Aeronautics and Astronautics tặng.
Năm 1996: “Excellence 2000 Award” của Pan Asian American Chamber of Commerce
Năm 2000: Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc tế du hành vũ trụ và Viện Hàn lâm Hàng không và Vũ trụ Quốc gia Pháp. Ông được chọn là một trong những người xuất sắc của Hoa Kỳ Pan Asian American Chamber of Commerce tại Washington, DC.
Năm 2006: “Giải thưởng Dirk Brouwer” về Cơ học Du hành Không gian của Hội Du hành Không gian Hoa Kỳ (American Astronautical Society)
Hội Khuyến Học ở Saint Louis, Missouri, đề ra giải thưởng hàng năm tên là giải thưởng “Truyền thống Nguyễn Xuân Vinh” để khuyến khích học sinh ở địa phương.
Bút Hiệu “Toàn Phong” Nhà Văn nổi tiếng với các tác phẩm Khoa học và Văn học
Tiếng Anh
Tác giả Nguyễn Xuân Vinh đã xuất bản ba cuốn sách và hơn 100 bài báo kỹ thuật trong lĩnh vực toán học, astrodynamics, và tối ưu hóa quỹ đạo (trajectory optimization). Ông Vinh cũng từng là biên tập viên trong khoảng thời gian dài 20 năm cho tạp chí lưu trữ cho Học viện vũ trụ Quốc tế (the archival journal for the International Academy of Astronautics). Giáo sư Vinh nguyên là chủ tịch hội đồng chấm luận án tiến sĩ (chaired the doctoral committees) cho 30 nghiên cứu sinh, nhiều người trong số họ hiện nay đang là giáo sư của các Hiệp hội uy tín của Hoa Kỳ, các trường Đại học các trường học hoặc các hiệp hội nhà khoa học hàng đầu trong ngành công nghiệp hàng không vũ trụ.
Các Công Trình Đóng Góp Cho Lãnh Vực Khoa học
Ông đã viết hàng trăm tiểu luận về toán, động học không gian (Astrodynamics) và tối ưu hóa quỹ đạo (Trajectory optimization). Các sách viết bao gồm:
Hypersonic and Planetary Entry Flight Mechanics. 1980. Vinh, N. X.; Busemann, A.; Culp, R. D. University of Michigan Press.
Optimal Trajectories in Atmospheric Flight 1981. Vinh N. X., Studies in Astronautics 2, Elsevier Scientific Publishing Company, Amsterdam.
Flight Mechanics of High-Performance Aircraft. 1993. Nguyen X. Vinh. Cambridge Aerospace Series. ISBN 052134123X
Văn chương tiếng Việt:
Gương Danh Tướng, 1956.
Đời Phi Công, 1959. Truyện dài, Giải thưởng Văn chương Toàn quốc năm 1961 (Việt Nam Cộng hòa)
Theo Ánh Tinh Cầu, 1991. Truyện ký sự.
Một vì sao, lại vừa “Theo Ánh Tinh Cầu”, vụt tắt! để lại biết bao niềm thương tiếc!
LÊ VĂN HẢI
BÀI VIẾT CỦA NHÀ VĂN GIAO CHỈ VŨ VĂN LỘC
Đời Phi Công tại San Jose 2005
Bài Tạp Văn này viết năm 2005, nhân dịp tác giả Toàn Phong tái bản Đời Phi công tại San Jose. Thứ bẩy ngày 20 tháng 9-2008 cũng tại San Jose phi công Nguyễn Xuân Vinh, tiễn đưa bác gái tức là cô Phượng yêu về nơi yên nghỉ cuối cùng. Ngày hôm nay trong tháng 7 -2022 kỷ niệm di cư 54 các ông bạn tôi từ đại tá Thường, đại tá Ước, đại tá Vinh chẳng còn ai. Tôi không viết chuyện dâu bể 2022 nên gửi bằng hữu câu chuyện cũ. Phải chi mà viết được tuổi 20 ngây ngô thiếu úy vui biết bao nhiêu. Viết về quý ông hay viết về mình. Tôi với trời bơ vơ…
Tuổi hoa niên cùng mặc áo chinh y
Lòng mở rộng giữa dòng đời ấm áp
Chín mươi năm, kiếp người như gió thoảng
Chiều cô đơn về chậm hồn cao niên.
Trân trọng!
Giao Chỉ – San Jose tháng 7-2022
(San Jose 2005) Miền Bắc California lần lượt trải qua những ngày vui đầy những món ăn tinh thần dành cho quý vị cao niên.
Cuối tuần trước, thị xã tráng lệ San Jose mở cửa chào đón phái đoàn cao niên Việt Nam với lá cờ quốc gia bên cạnh quốc kỳ Hiệp Chủng Quốc. Tuần vừa qua là đêm nhạc tiền chiến với các bài ca của nhiều nhạc sĩ một thời đã ra đi nhưng còn để lại những di sản văn hóa tuyệt vời.
Và tuần này đến lượt nhà văn Toàn Phong một thời vang bóng giới thiệu tác phẩm Đời Phi Công tái bản lần thứ Sáu. Trong số các Best Sellers xuất bản tại Sài Gòn từ năm 1960 đến nay, khó có tác phẩm nào mà được in lại đến sáu lần.
Nhân dịp này, chúng tôi xin trình bày những cảm nghĩ và những kỷ niệm của tuổi trẻ, của quân ngũ liên quan đến bằng hữu không quân, chuyện văn chương bay bổng, và những ước mơ thời niên thiếu.
Mùa thu năm 1951, khi chàng thanh niên Nam Định Nguyễn Xuân Vinh nhập ngũ khóa sĩ quan trừ bị thì tôi vẫn còn là cậu học sinh trung học Nguyễn Khuyến, Nam Định. Phải chờ đến 1952 tôi mới lên học Hà Nội.
Nhớ lúc đi vòng bờ hồ Hoàn Kiếm gặp một ông trung úy không quân Việt Nam. Cặp lon vàng trên cầu vai có cánh chim. Trên ngực áo đeo phù hiệu cánh bay của phi công. Mặt mũi trẻ trung, miệng cười như hoa nở. Chàng không đi với một người đẹp mà có ba bốn cô bên cạnh. Cuộc đời không quân vui vẻ vô cùng.
Anh chàng phi công hào hoa như vậy, có vẻ như các người đẹp 36 phố phường muốn chấm ai cũng được. Hình ảnh của anh phi công năm xưa in vào trong đầu tôi như một thần tượng, sẽ chẳng bao giờ quên. Những ước mơ có ngày trở thành Pilot. Chẳng biết anh chàng sĩ quan hào hoa phong nhã đó là ông đại tá Ước bây giờ ở Nam Cali hay ông đại tá Vinh hiện nay ở Bắc Cali.
Tháng 3-1954, tôi có giấy gọi vào Đà Lạt. Dự trù sẽ ra sĩ quan rồi xin chuyển qua không quân cũng chưa muộn. Nghĩ rằng mình vào học trường Liên Quân, sau khóa căn bản rồi qua không quân học nghề bay hay sang hải quân để sau này có ngày làm quan ba tàu thủy. Đời còn dài, không đi đâu mà vội. Nào ngờ, ra trường đổi về tiểu đoàn bộ binh, bị tống xuống tận đáy mũi Cà Mau đóng đồn Cái Nước. Giấc mộng viết văn và bay bổng xẹp dần như bong bóng nước.
Trong đời chúng ta đã từng có biết bao nhiêu mộng ước tuổi thanh xuân. Nhiều giấc mộng không thành sự thực. Hôm nay nhân dịp niên trưởng Nguyễn Xuân Vinh ra mắt Đời Phi Công, cuộc đời của một giấc mơ thành sự thực, tôi xin kể về giấc mơ không thành của riêng mình.
Số là lúc đóng đồn Cái Nước, bên cạnh bộ tư lệnh tiền phương của chiến dịch Tự Do có một sân bay dành cho phi cơ quan sát. Bên kia sông là hàng quán có cô hàng bán cà phê, mấy ông sĩ quan bộ binh vẫn tà tà ghé lại thả lời ong bướm. Chưa anh nào được người đẹp lưu ý.
Một buổi có anh bạn học Nguyễn Khyến của tôi là Pilot Nguyễn Khắc Huề hạ cạnh L-19 ghé vào tán tỉnh. Nhờ bộ đồ bay với cả một khung trời mây trắng yểm trợ, ông Pilot quê Nam Định đã làm cho cô hàng cà phê ngơ ngẩn cả tháng dài. Dường như hai bên lại còn viết cả thư tình.
Mấy anh sĩ quan bộ binh chúng tôi hết sức phiền lòng. Ai nấy đều trù ếm là anh tài xế máy bay sẽ đi mãi không trở về. Không ngờ, lời đùa nhảm đã thành sự thật. Pilot Huề cùng học Nguyễn Khuyến với tôi, đã không tìm thấy xác rơi trong một phi vụ. Nhưng đó là chuyện sau này.
Ngày xưa, vào thời kỳ cuối thập niên 50, những ngày tháng dài ở tiền đồn thuở thanh bình cho phép tôi chìm đắm vào “Cõi Người Ta” của một thần tượng văn học Pháp là Saint Exupéry.
Quả thực nhà văn hào phi công đã viết ra tác phẩm Terre des Hommes cùng một lượt với các danh tác phiên dịch ra Việt ngữ như Hoàng Tử Nhỏ (Le Petit Prince), Bay Đêm (Vol de Nuit), Phi Công Thời Chiến (Pilote de Guerre), Đưa Thư Về Miền Nam (Courrier Sud). Chắc hẳn không phải riêng chúng tôi mà hầu như cả thế hệ thanh niên miền Nam vào đầu thập niên 60 nếu chịu hảnh hưởng văn hóa Pháp đều mê thần tượng là tay phi công mở đường cho cả văn học lẫn phi trình vượt Đại Tây Dương.
Ngay từ năm 1926, Saint Exupery đã trở thành Pilot khai phá các đường bay mới từ Đông sang Tây, Nam Mỹ, Phi Châu. Ông là nhà văn và đồng thời lại là một phi công thời chiến được người Pháp tôn thờ ngang với Victo Hugo về văn chương và nổi danh ngang với Charles de Gaules về chính trị.
Sau này, khi những thanh niên Việt Nam trẻ tuổi vào các trường không quân Pháp học bay thì câu chuyện về chuyến bay cuối cùng của Saint Exupéry đã trở thành huyền thoại lịch sử của nghề bay.
Trước khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt 1945, nhà văn hào phi công đã lái chiếc P-38 của Không Lực Hoa Kỳ trong phi vụ cuối cùng và được ghi là mất tích.
Người Pháp với truyền thống lãng mạn đã lưu truyền giả thuyết máy bay bị hư và phi công đã làm một thao tác ngoạn mục cuối cùng là đâm thẳng đầu xuống biển với một tốc độ thật cao để đi vào huyền sử.
Cũng vào thời kỳ đó, phía mặt trận phương Đông ở Á châu, những phi công còn lại của phi đội Thần Phong Nhật Bản thực hiện chuyến bay cuối cùng về phía mặt trời lặn.
Sau khi Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng, mỗi máy bay của đội Thần Phong đổ nửa bình xăng bay theo đội hình để khi hết xăng sẽ đâm xuống biển. Máy bay của vị tư lệnh Thần Phong đổ đầy bình xăng sẽ còn đủ nhiên liệu bay xa hơn, kéo dài hơn cái chết chậm chạp đợi chờ, trong một chuyến bay cô đơn.
Hãy tưởng tượng các phi công chào nhau lần cuối, nhìn thấy máy bay tư lệnh cô đơn phía trước, xa xa là mặt trời lặn. Cả phi đoàn kẻ trước người sau, đâm đầu xuống biển xanh.
Những Pilot của Thần Phong để lại các thi phẩm tuyệt mệnh trước khi bay vào cõi chết ở chân trời. Các bài thơ hùng tráng được viết trên các giải lụa treo trên ngọn cây hai bên phi đạo.
Từ Âu châu đến Á châu, văn chương của người phi công, văn chương của thế giới bay bổng trong thời chiến vẫn là những tiếng gọi hồn xúc động làm cho cả thế hệ thanh niên phải nghẹn ngào. Đó chính là hoàn cảnh khi tác phẩm Đời Phi Công của Toàn Phong ra đời tại Sài Gòn năm 1960.
Vào thời kỳ đó, vị đại tá tư lệnh không quân Việt Nam 28 tuổi đôi khi còn đến các trường dạy toán và giảng Kiều ở Sài Gòn. Hình bóng của một sĩ quan dường như văn võ toàn tài làm cho thanh niên ai cũng đều muốn vào không quân và thiếu nữ ai cũng muốn trở thành cô Phượng.
“Dấu chàng theo lớp mây đưa,
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.”
Tác phẩm Đời Phi Công là các đoản văn dưới hình thức những lá thư của người chiến binh gửi về cho người yêu ở quê nhà. Bắt đầu kể về chuyến đi Pháp học nghề bay. Các giây phút huấn luyện, các ngày thao dượt, tốt nghiệp và tiếp theo là các sinh hoạt quân ngũ kể cho em gái hậu phương.
Vào thời đó, những lá thư bình dị và chân thực của tác giả đã làm rung động độc giả miền Nam. Phát hành năm 1960 thì năm sau, 1961 được giải thưởng văn chương toàn quốc, vị tư lệnh không quân trở thành nhà văn có tác phẩm danh tiếng nhất.
Rất tiếc sau đó tác giả đã từ giã quân đội để bước vào khoa học nên không có cơ hội đi xa hơn trên cả hai lãnh vực mà thực sự thập niên 60 chỉ mới bắt đầu.
Cuộc chiến Việt Nam của thập niên 70 sau này mới thực sự là giai đoạn thử lửa với biết bao nhiêu phi công ra đi không hẹn ngày về. Biết bao nhiêu vận tải, thám thính, khu trục và trực thăng. Mỗi con tàu đều là cỗ quan tài bay. Những lần đi thực sự không ai tìm xác rơi.
Thời kỳ 60 là giai đoạn của Pilot thời bình. Việc bay bổng và tình yêu như mây trời lãng đãng. Văn chương và bay bổng mới chỉ là môn thể thao nhẹ nhàng giao duyên với cuộc đời. Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ.
Trong phạm vi văn học, khi những ngày vui của năm 60 đã qua rồi. Văn học của 70 bước qua Giải khăn xô cho Huế, Đêm nghe tiếng đại bác, Mùa hè đỏ lửa, Dựa lưng nỗi chết. Văn chương chữ nghĩa của những năm đất nước đau thương trên chiến trường tồi tệ sau này không còn giây phút nhẹ nhàng như thư gửi cho cô Phượng xinh đẹp, hiền lành, không biết uống cà phê.
Những cô em gái hậu phương sau cô Phượng đã trở thành góa phụ qua các địa danh quen thuộc như Bình Giả, Pleime, Chu Pao, Tân Cảnh. Biết bao nhiêu người yêu của Pilot đã đội khăn tang để cho vị tư lệnh sau cùng phải sáng tác một tác phẩm tràn ngập đắng cay mang tựa đề là Chết Non. Trong đó ông viết toàn chuyện tang gia nửa đường đứt gánh của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa.
Tác giả là trung tướng Trần Văn Minh, vị tư lệnh cuối cùng của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, từng chỉ huy cả ngàn phi cơ Việt Nam nhưng sau cùng đã phải quá giang tàu bay Mỹ trong chuyến bay vội vã lúc tan hàng.
“Cho hay muôn sự tại trời.”
Tất cả cũng là do định mệnh an bài.
“Bắt phong trần phải phong trần.
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.”
Tháng 5-2005, gia đình tôi có dịp đến chơi nhà đại tá Vũ Văn Ước. Nhìn tấm hình ông phi công mặc đồ bay. Xem hình ông không quân thời kỳ lấy vợ Hà Nội. Thấy mặt quen quen. Dường như hơn 50 năm về trước, lúc tôi còn đi học ông đã là trung úy tàu bay. Pilot Vũ Văn Ước đẹp trai, ăn nói duyên dáng, đàn bà con gái hàng Ngang, hàng Đào ông đều quen hết. Còn bà chị ngồi đây có phải là người đẹp Hà Nội ngày xưa” Có phải là bà tư lệnh giữa chốn ba quân thuở trước” Sao bây giờ bà hiền như thế” Chị Ước ngày nay ngồi trên xe lăn, nhưng vẫn mãi mãi là người đẹp Hà Nội của Vũ Văn Ước.
Ngày xưa chị Ước có một người anh là Phạm Văn Thường, bỏ nhà tha hương từ nhỏ. Ông đi Tây làm lính viễn chinh. Rồi trở về Sài Gòn đeo lon đại tá QLVNCH. Khi Pilot Ước lấy cô em đem vào Tân Sơn Nhất thì ông anh Phạm Văn Thường ở Tổng Tham Mưu. Đôi khi hai ông đại tá không quân và bộ binh bắt tay nhau mà không hề biết là có liên hệ gia đình gần gũi như thế. Anh trai thì tưởng cô em còn ở lại Hà Nội. Cô em thì tưởng anh trai mất xác bên Tây.
Sau 30 tháng 4 gia đình ông Ước chạy qua Westminster. Ông Phạm Văn Thường kẹt lại đi tù cải tạo. Rồi ông vượt biên qua làm chúa đảo Bidong. Rồi ông cũng qua Westminster. Ở cùng một thành phố suốt bao năm mà anh em không biết nhau.
Khi ông Thường chết, gần như tứ cố vô thân. Chúng tôi đi xuống miền Nam tổ chức đám tang. Ma chay xong đăng báo rềng rang. Ông Pilot Vũ Văn ước đọc báo thấy tên Phạm Văn Thường sao giống tên họ của vợ tức là người yêu bé nhỏ Hà Nội. Hỏi thăm ông Giao Chỉ mới té ra đây chính là ông anh lưu lạc giang hồ. Thất lạc bao nhiêu năm cho đến chết vẫn chưa gặp nhau. Dù rằng trước 75 cùng ở Sài Gòn. Sau 75 cùng ở Westminster.
Chúng tôi tuy ít tuổi hơn ông Pilot đại tá Ước, nhưng lại là bạn của ông anh vợ đã qua đời. Bà Ước sai ông chồng đãi ăn đâu ra đấy. Chị Ước bị đau, tay chân hạn chế. Ông Ước chứng tỏ là một tay tề gia xuất sắc nhất của Không Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Công việc nội trợ một tay ông đảm đang nếu kể ra có thể làm tất cả các đấng cao niên của tập thể quân đội mất tinh thần.
Vũ Văn Ước cũng là một tay văn học và bay bổng rất có giá. Ông là phi công thời chiến thứ thiệt. Chỉ vì bay nhiều quá nên dù có làm tư lệnh nhưng cứ gần lên tướng thì lại được cho đi làm tư lệnh chỗ khác. Không quân nổi tiếng hào hoa nên thường có nhiều cuộc tình duyên ngoài vòng trật tự. Nhưng đó không phải là Vũ Văn Ước lúc về chiều. Và giọng ca vàng Vũ Văn Ước nếu không lên tư lệnh thì đã có thể sang ngang để song ca với Sĩ Phú.
Và người thứ nhì có điểm rất cao là không quân Nguyễn Xuân Vinh. Con người may mắn một đời, ước mơ gì thì trời cho thứ đó. Ông muốn là tư lệnh tàu bay thì ông lên ghế lãnh đạo không quân. Ông muốn làm giáo sư thì thế giới dành cho ông ghế hàn lâm toán học. Ông muốn yêu cô Phượng suốt đời thì ông bà sẽ làm lễ mừng 50 năm.
Ông cũng có một cô em gái là thi sĩ nổi danh ở Hải Phòng. Cô em vất vả một đời vì có ông anh là tư lệnh không quân “Ngụy.” Anh em còn sống cả nhưng chưa bao giờ gặp lại nhau. Có thể không bao giờ.
Hôm thứ Bảy vừa qua, chúng tôi đi dự đám cưới con bác sĩ Nguyễn Hoàng Hải. Ông bác sĩ quân y của chiến trường quân khu I xếp anh em chúng tôi ngồi một bàn. Ngay cạnh bàn của trung tướng tư lệnh Hoàng Xuân Lãm.
Tình cờ bàn của chúng tôi lại có đến 4 gia đình gốc Nam Định. Ông bác sĩ Quý Đài xuất thân Nam Định. Bác sĩ Ngọc Khôi là dân Bến Thóc. Còn tôi nhà ở Phố Hàng Rượu. Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh của chúng tôi cũng khai là dân Nam Định. Ông hãnh diện đọc lại cả tên tổng, tên làng, tên xóm.
Trong giây phút rung động, người thanh niên Nam Định đã từng một thời ngang dọc, đã từng theo ánh tinh cầu của đời phi công. Đã mang danh vọng số 1 của Không Quân Việt Nam, trải qua các bục thuyết trình của bao nhiêu giảng đường đại học, ngồi bên đám bạn già nhắc lại các danh hiệu làng quê xóm cũ. Bên cạnh ông vẫn là cô Phượng của Hà Nội ngày xưa. Trên chuyến bay đêm của phi cơ quân sự. Trên các chuyến đi thuyết trình dạy học bằng của phi cơ dân sự, trước sau 50 năm vẫn chỉ có một cô Phượng của tình yêu chung thủy.
Bà Nguyễn Xuân Vinh hiện đau yếu đi lại rất khó khăn. Và chính ông Vinh cũng đã bị tuổi già theo đuổi. Nhưng ông vẫn chăm sóc nâng đỡ cho bà từng mỗi giây phút. Khi ngồi xuống, lúc đứng lên. Giữa tiệc cưới ồn ào nhộn nhịp, hai ông bà ngồi yên lặng. Lâu lâu một vài học trò hay thân hữu ghé bên cạnh hỏi thăm.
Khi nhạc khiêu vũ của tiệc cưới bắt đầu, ông bà kiếu từ ra về. Vẫn đi bên nhau với những bước chân ngắn và chậm.
Ông bà cùng đi ra khỏi tiệc vui. Đi về chân trời thật xa với “Cõi Người Ta” trong văn chương và bay bổng.
Với Nguyễn Xuân Vinh, một thanh niên quê Nam Định, 75 tuổi, bao nhiêu khoa bảng chức tước rồi thì cũng chỉ là phù vân.
“Với mây che trên đầu và nắng trên vai.” Ông Vinh và bà Phượng đi bộ quanh khu Village ở Evergreen, San Jose. Ông bà đi từng bước rất chậm, và 50 năm mãi mãi bên nhau.
Những người như Vũ Văn Ước và Nguyễn Xuân Vinh, ai bảo là không quân không chung thủy. Còn những anh chàng lãng từ không quân khác, dù có bay bốn phương trời thì sau cùng cũng sẽ về đi bộ với người yêu cũ. Nếu phải đẩy xe lăn thì cuộc tình lại càng đằm thắm.
Giờ đây, bà ngồi cho tôi đẩy hay tôi đẩy, bà ngồi. Nếu thật sang thì hai ta đi hai xe cơ giới bấm nút loại F5-E, có Radar dẫn đường chỉ lối.
Giao Chỉ – San Jose
BÀI VIẾT CỦA NỮ KÝ GIẢ KIỀU MỸ DUYÊN
Văn Nghệ: “Gởi gió cho mây ngàn bay!” đến Tác giả “Đời Phi Công” vừa qua đời!
“Gởi gió cho mây ngàn bay!” đến với Tác giả “Đời Phi Công” (Giải nhất thơ văn toàn quốc năm 1961)
Đó là Nhà văn Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh vừa xếp cánh! Hồn bay cao, hòa tan vào bầu trời Quê Mẹ! Với hàng trăm người phi công VNCH đã tan xác như tro, như bụi, như mây, như gió, trong thời chinh chiến, cho bầu trời Quê Hương, mây thêm trắng, trời thêm xanh!
*Tác phẩm “Đời Phi Công” là niềm cảm hứng, chất xúc tác chính cho hàng ngàn những người trai, thập niên 60, 70, đi tìm lý tưởng phục vụ Quê Hương trong thời chinh chiến. Những “người hùng” không gian này, đã trấn giữ bầu trời Quê Hương miền Nam an toàn trên 20 năm.
*Hình ảnh người phi công hào hùng, hào hoa, độc đáo, đưới đất có một cô bé hậu phương tên “Phượng” luôn luôn theo dõi những chuyến bay, ngả nghiêng theo cánh chim sắt, để chàng trút những tâm sự vui buồn đời bay bổng. Hình ảnh mơ mộng này, để những chàng trai thời chiến, chấp nhận “đi không ai tìm xác rơi!” hay “một phút huy hoàng rồi chợp tắt, còn hơn le lói suốt năm canh!” Trở thành là một trong các Quân Binh Chủng VNCH, có số sĩ quan hy sinh nhiều nhất!
Đó là hình ảnh đẹp huyền thoại của “Đời phi công!” Nhưng thực tế, hình ảnh người phi công và người yêu bé nhỏ tên Phượng, trong cuộc chiến, đã không đẹp như trong thơ văn. Nhuộm rất nhiều nước mắt thương đau.
Xin mời thưởng thức một truyện ngắn, để thấy Đời phi công, đã kéo theo những nàng nữ sinh ngây thơ trót yêu những người Lính không gian ra sao. Một trong những mảnh đời tan tác trong thời chiến, dù đã ngưng bom đạn qua gần nửa thế kỷ!
Người Góa Phụ Trẻ!
(Cảnh đời của hàng ngàn thiếu nữ VNCH, yêu những người Lính Không Quân trong thời chinh chiến!)
Ngày ấy…! Tôi lén thương anh, bởi vì cặp mắt sáng quắc, khuôn mặt chữ điền rắn rỏi, mái tóc bồng bềnh như mây, tiếng hát lúc mạnh như sấm chớp, lúc nhẹ nhàng như gió thoảng, theo tiếng đàn guita, là trưởng ban văn nghệ của trường Trung học, mà chúng tôi đã cùng học chung lớp.
Anh có lần tâm sự, Quê Hương mình đang mù mịt khói lửa chiến chinh, ăn học không yên, chắc học xong bậc trung học, anh sẽ nhập ngũ tòng chinh như các chàng trai khác, làm tròn nhiệm vụ người trai trong thời chiến.
Tôi hỏi: “Anh có ý chọn Quân Binh Chủng nào để phục vụ chưa?”
Anh trả lời: “Anh đã đọc qua tác phẩm “Đời Phi Công” của Tác giả Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh, đây chính là hình ảnh lý tưởng, mà anh chọn để phục vụ đất nước!”
Yêu chàng, tôi tò mò kiếm tác phẩm này để đọc, và trở thành nhân vật “Phượng” lúc nào không hay!
Hàng đêm nhìn mây trời, theo bước chân chàng, thực hiện “Một chuyến bay đêm!” thật thú vị.
“….Giữa lòng trời khuya muôn ánh sao hiền,
Người trai đi viết câu chuyện một chuyến bay đêm.
Cánh bằng nhẹ mơn trên làn gió,
Đời ngây thơ xưa lại nhớ lúc mình còn thơ.
Nhìn trời cao mà reo, mà mơ ước như diều
Để níu áo hằng nga, ngồi bên dẫy ngân hà.
Giờ sống giữa lưng trời,
Đôi khi nhớ chuyện đời mỉm cười thôi…”
(Tác giả : Song Ngọc & Hoài Linh)
Rời ghế học học đường xong lớp 12, như quyết định, anh lên Đà Lạt vào trường Võ Bị Quốc Gia, và giống như niềm mơ ước, anh được nhận vào Quân chủng Không Quân, sau khi mất cả hàng tuần khám sức khỏe. Những năm cuối, anh được chuyển qua Trung Tâm Huấn Luyện KQ Nha Trang, để thi Anh văn, khám lại sức khỏe, sửa soạn đi Mỹ học bay, đeo đuổi lý tưởng mà anh luôn tâm sự cùng tôi, khi sân trường, dưới bóng cây Phượng, khi chỉ còn hai đứa!
Sau khi anh nhập ngũ, thì tôi cũng trở thành cô giáo, dạy ở một trường trung học lớn ở Sài Gòn. Chúng tôi thường xuyên trao cho nhau những lời hẹn ước, qua bao lá thư yêu thương nồng ấm, “gởi gió cho mây ngàn bay!” Theo dõi chân chàng từng bước, để trở thành một phi công. Yêu thú vờn mây, cưỡi gió từ khi nào!
“…Ðây áo bay màu xanh xanh như tình ái
thắt lại khăn ấm chính em đan
khi gió quay cuồng sau cánh bay
con tàu thét gầm cho tim ngất ngây
phi đạo chạy dài anh cất cánh bay lên.
Ngả nghiêng cánh chim
con tàu sẽ rời, rời xa thành phố rồi
mây giăng thật thấp
mây đan lụa trắng
mây pha màu nắng.
Vượt cao vút cao
mây trời kết thành một vùng tuyết trắng ngần
tuyết ơi xin nhuộm
trắng trong tâm hồn em gái nhỏ tôi thương…”(Tuyết Trắng – Trần Thiện Thanh)
Sau khi anh về nước, thời gian này, là thời gian sung sướng hạnh phúc nhất, của 2 đứa chúng tôi.
30 ngày phép! Chúng tôi rong chơi khắp miền đất nước! Lợi dụng thời gian quý báu này, tôi với chàng, làm đám cưới, trở thành đôi vợ chồng trẻ. Bạn bè người thân ai cũng khen: “xứng đôi vừa lứa!”
Cuối cùng chàng nhận được lịnh, phục vụ ở phi trường Nha Trang.
Lấy chồng thì phải theo chồng, “biết ra sao ngày sau!” Tôi là cô gái trâm anh, được gia đình cưng chiều, quen sống nhiều tiện nghi ở thành phố, số mệnh đưa đẩy, khi mới hơn tuổi đôi mươi đã lấy chồng xa xứ!
Tôi làm quen với xứ lạ, nơi đó, có những dãy núi chập chùng, tạo hình ảnh như một nàng thiếu nữ, nằm xỏa tóc ra biển xanh đợi chờ ai, những bãi cát trắng ngút ngàn, nơi mà ngày đêm luôn có tiếng sóng vỗ rì rào, có những chiếc ghe thuyền luôn ra khơi khi hoàng hôn và về bến khi rạng bình minh mà ông mặt trời chưa thức giấc!
Thú duy nhất, là nghe lời kể cuốn hút, bay theo chàng sau mỗi phi vụ: Ngắm nhìn bầu trời đẹp quê hương khi bình minh vừa ló dạng, cảm giác tống ga. kéo cần lái “vượt cao” khỏi phi đạo, vẫy vùng trong bầu trời mênh mông xanh ngắt, mà tất cả mọi thứ đưới đất kia, thành nhỏ bé như đồ chơi! Tâm hồn mở rộng, mà người dưới đất khó mà có cảm giác này.
Từ ngày tôi về làm vợ, làm dâu nơi xứ biển được hai năm dài. Giấc mơ làm cô giáo, phấn bảng ngây thơ học trò, cũng gác lại, vì phải phụ đời sống mẹ chồng chăm lo gia đình đông con, vì là dâu cả trong nhà!
Những buổi chiều về, nghe hàng dương liễu rì rào, buồn lắm! nhớ ánh đèn đô thị, người thân, bạn bè. Cuộc chiến càng ngày tăng cấp độ cao, đơn vị chàng càng bận rộn yểm trợ hết cuộc hành quân này, đến cuộc hàng quân khác, chưa bao giờ nghe chồng bảo tôi cùng chồng, về thăm gia đình bên vợ, dù đó chỉ là một lời nói an ủi lúc tôi buồn nhớ mẹ! nước mắt đong đầy trên má.
Anh là một phi công thời chiến, ngày đêm trên chiến trận mịt mù khói lửa đạn bom! Thỉnh thoảng về phép đôi ngày thăm gia đình và nhất là dành nhiều thời gian cho tôi!
Và một hôm, trong giấc ngủ đến thật khó khăn dù đã cố vỗ giấc, sao nụ cười với khuôn mặt chữ điền, đôi mắt vẫn hiện rõ trong tâm trí, sao những lời yêu thương khi xưa cứ văng vẳng bên tai suốt năm canh. Cảm giác lo sợ điều gì đó mông lung cứ chạy dài theo sống lưng, áo ướt đẫm mồ hôi dù sương đêm phủ dày, trời còn đang lạnh!
Rồi chuyện đến… đã đến!
Chiều hôm sau, một chiếc xe Jeep mầu xanh KQ, theo sau chiếc xe GMC chở cái quan tài phủ cờ Vàng lên trên, anh lính hỏi thăm nhiều người, rồi lần đến nhà…tôi!
Tôi ngất lịm khi anh lính đã nói đúng tên tuổi, và đưa ra chiếc thẻ bài có sợi dây đeo bằng những hạt nhôm nhỏ kết lại, với chiếc đồng hồ cực mỏng màu vàng, do tôi tặng cho anh. Cái ví nữa, trong có bức hình nhạt nhòa chân dung của tôi! Anh lính thông báo, chiếc phi cơ chiến đấu của chồng tôi đã bị địch bắn rớt! nhưng kiếm được xác, và lượm lại được những vật dụng trên.
Bầu trời như sụp đổ! Tất cả chỉ còn lại là mầu đen! Đen! đen lắm! không nhìn thấy gì cả!
Tôi đã khóc hết nước mắt! sưng vù! Vậy thì một mình tôi đi về quê cũng được, nhưng chồng tôi mãi mãi ở lại trên quê hương của anh ấy! nơi có trời xanh mây trắng mà anh đã chọn! “Đi không ai tìm xác rơi!” có nghĩa thê thảm đến thế này sao? Tình yêu trai gái thật thơ mộng và đẹp đẽ! Tình nghĩa vợ chồng son chưa đơm hoa kết trái của chúng tôi, sao ngắn ngủi và chia ly sớm quá!
Sao anh lại vội vàng buông tay người thương nhanh vậy! Anh hỡi! Anh còn nợ tôi những chuyến bay đêm mà anh kể nữa kia mà! Còn hứa ngày nào theo anh, thưởng thức thú vui trời cao gió lộng này!
Sài Gòn của tôi có xa xôi gì cho cam, cách xa một giờ bay, chỉ vài trăm cây số thôi!
Tôi đã trở thành góa phụ trẻ trở về quê hương khi được sự đồng cảm, gợi ý của mẹ anh! Vì tôi còn quá trẻ, để có cơ hội làm lại cuộc đời. Nhưng tôi sẽ không làm lại đâu.
Thắt vòng khăn tang trắng trên đầu, người ta gọi tôi là “Góa phụ trẻ!”, ba tiếng nghe thật đau lòng, xót sa, thật buồn cho thân phận, duyên số của tôi! Không biết rồi cuộc đời sẽ ra sao? Tương lai sẽ như thế nào?
Tôi sẽ gặp lại gia đình thương yêu của tôi! Tôi sẽ mang theo hình ảnh của anh trong suốt cuộc đời!
Chiều nay, nghe câu hát ru con của chị hàng xóm cận nhà, lòng tôi lại đau đớn dâng lên một nỗi niềm, mà tôi vẫn hằng mong anh hiểu:
Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Trông về quê mẹ chín chiều ruột đau!
Anh ơi! Nếu có kiếp tái sinh, sống lại một lần nữa, em nguyện sẽ cùng anh làm đôi vợ chồng như thuở nào, anh nhé! Nhưng lần này, nhất định phải có một đứa con! Con mình cũng sẽ yêu trời xanh, mây trắng!
Chờ em!…anh nhé!
CÁNH SAO KHOA HỌC ĐÃ RỜI KHỎI BẦU TRỜI – Thương Tiếc Khoa Học Gia Nguyễn Xuân Vinh -PHƯƠNG HOA
https://vietbao.com/a312887/canh-sao-khoa-hoc-da-roi-khoi-bau-troi
BÁC HỌC NGUYỄN XUÂN VINH
*
Tư lịnh không quân nước Việt mình
Anh hùng đại tá Nguyễn Xuân Vinh
Vang danh thế giới không gian học
Nổi tiếng năm châu vũ trụ hình
Đức độ cao ngời đời kính nể
Tài năng xuất chúng đạo quang minh
Người người ngưỡng mộ và khâm phục
Một bậc thiên tài vượt trọng khinh !
M.Đ
NHỮNG SÁNG TÁC VỀ KHOA HỌC GIA NGUYỄN XUÂN VINH Từ Diễn Đàn Bạn Ở Úc Châu:
Lê Thị Kim Oanh: “Chuyện Người Lính Hào Hoa” – Nguyễn Hữu Chánh (lethikimoanh9.blogspot.com)
-
TRANG ĐẶC BIỆT: TƯỞNG NIỆM THI SĨ NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG – CỐ VẤN VTLV
CHÙM THƠ XƯỚNG HỌA TIỄN ĐƯA CỐ VĂN THI SĨ NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG TỪ THI THÂN HỮU VÀ BẠN BÈ CỦA NGƯỜI
THÀNH KÍNH TIỄN ĐƯA
*
Tin buồn đưa tới nhói lòng thay
Một ánh sao vừa mới xé mây
XÓM NÚI THIỀN SƯ đèn tắt ngọn
NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG Bác bút lìa tay
Định phần khó đoán câu còn mất
Cuộc sống vô thường chuyện rủi may
Bằng hữu thiếu người vườn Lý vắng
VĂN THƠ lệ tiễn phút giây này.
Phương Hoa – MAY 22, 2022
*
THƠ HỌA
TIN BUỒN NHẬN ĐƯỢC
Nhận được tin buồn,choáng váng thay
Thiền Sư cưỡi hạc trắng lên mây
Quê xưa rứa nỡ lia xa Huế!
Đất Mỹ răng đành bước thõng tay?
Những tưởng hoa tươi đùa nắng mới
Đâu ngờ gió lạnh tẩm heo may
Đoàn viên giấc mộng còn dang dở
Khắc khoải trường lưu cõi tạm này…
Lý Đức Quỳnh
23/5/2022
*
TIỄN ĐƯA
Bạn báo tin buồn tiếc nuối thay
Dê* vàng gậm cỏ ngút trời mây
Thiền sư những tưởng thân già lão
Xóm núi tài cao bút mát tay
Xướng họa đôi lần tâm khẩu phục
Lỗi lầm thoát khỏi cũng nhờ may
Đình Chương khuất bóng, văn chương nhạt
Thành kính tiễn đưa chút chữ này!
Lộc Bắc
22/5/22
* Ông sanh tháng, năm cùng Quý Mùi
*
KÍNH BÁI TIỄN BIỆT
THI SĨ NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG
Xúc động vô cùng…tin chẳng may
Chạnh lòng thương tiếc ngậm ngùi thay !
Thiền Sư lặng lẽ rời kinh kệ
Xóm Núi âm thầm bỏ gió mây
Đúng bậc tài hoa đà kết bạn
Thật người Đức độ đã liền tay
Góp lời Lạc Việt xin thành kính
Bái biệt phân ưu mấy vận nầy
songquang
20220523
*
KHÉP LẠI
Làng thơ buồn bã tiếc thương thay
Lão tướng rời trần trụ cõi mây
XÓM NÚI THIỀN SƯ thôi chắp bút
NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG Bác đã xuôi tay
Niềm vui xướng hoạ không còn nữa
Nỗi khát bình thơ chẳng gặp may
Thi hứng rộn ràng nay khép lại
VƯỜN THƠ hụt hẫng đón tin này !
PHƯỢNG HỒNG
*
TIỄN BẠN
Chợt nhận tin buồn nhói dạ thay,
Thiền Sư Xóm Núi đã chia tay.
Vần thơ tao nhã theo chân Phật,
Bút pháp thanh cao quyện gió mây.
Tiễn biệt lòng đây lưu luyến đấy,
Nhớ thương tình đó xuyến xao này !
Tám mươi tuổi chẳn lìa nhân thế…
Bạn hỡi trần duyên đã trả đầy !
Liêu Xuyên
*
THÀNH KÍNH
Kẻ ở người đi đau xót thay..!
Lòng như cuộn thắt rối ùn mây
Ngô Đình Chương Bác chào xa bạn
Xóm Núi Thiền Sư biệt vẫy tay
Trời đã vỡ đôi cho đất thảm
Đời thời chia hướng mất cơ may
Vẫn còn xuân đó sao tê tái,
Ai thấu cho chăng cảnh huống này..?
Thái Huy 5/25/22
*
KÍNH VIẾNG CỐ THI SĨ THIỀN SƯ XÓM NÚI Ở BẮC CALIFORNIA
Sét đánh ngang tai, dạ thảm thay…
Tin buồn Xóm Núi xé tan mây…
Thiền Sư tự tại, thơ tàn ngọn
Thi sĩ an nhiên, bút hạ tay
Sắc sắc không kh̀ông dầu nợ rũi
Vô thường tục lụy dẫu duyên may…
Sân hòe đào lý vườn hoa vắng
Bằng hữu chia buồn kính viếng này…
MAI XUÂN THANH – May 25, 2022
*
VĨNH BIỆT THI NHÂN
THIỀN SƯ nay đã vượt trời mây
XÓM NÚI buồn hiu cảnh xót thay
Thi phú vơi nguồn hồn chuyển đạt
Vắng tình xướng họa người truyền tay
Cõi đời buông bỏ chẳng rong ruổi
Vĩnh cữu bình an không mảy may
Thương tiếc đành vương kẻ ở lại
Thành tâm dâng gởi nén hương này…
Hải Rừng
25/5/2022
TIỄN BIỆT THI NHÂN
Vĩnh biệt từ đây một bóng hình
Tin buồn Bác mất nghẹn cầu kinh
Thương người đức độ hoà nhân ái
Quý bậc tài cao sống nghĩa tình
“Xóm Núi “âm thầm rời nhẹ nhõm
“Thiền Sư “lặng lẽ ngủ an bình
Lãng Phong đã hết dòng Chương ngỏ
Bạn hữu đau lòng cảnh tử sinh
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 5/22/2022
*
THƠ HỌA
LỜI TIỄN BUỒN THƠ.
Vẫn thấy đâu đây những ảnh hình
Dâng trà cúng Phật khách Thần Kinh
THIỀN SƯ ngẫm nghĩ hoa vô sắc
XÓM NÚI bâng khuâng đá bạc tình
Lời kệ xa xôi thời biến loạn
Trang thơ kề cận thủa thanh bình
Trọn đời gìn giữ lòng quân tử
Lẽ đạo vô thường cũng hoá sinh…
Hawthorne – 24-5-2022
CAO MỴ NHÂN
*
THIỀN SƯ
Dưới ánh trăng khuya bóng rọi hình
Chuông hòa tiếng mõ vọng lời kinh
Không mong bản ngã thường an lạc
Chỉ nguyện chúng sanh hết tội tình
Đất nước Tiên Rồng xây thịnh vượng
Người dân Lạc Việt sống thanh bình
Thiền Sư tịch lặng bờ tang hải
Lá rụng cho chồi lộc mới sinh…
Lý Đức Quỳnh
25/5/2022
*
TƯỞNG NIỆM CỐ THI SĨ
THIỀN SƯ XÓM NÚI
Hoài niệm thi nhân với tấm hình
Buồn thương vời vợi, đọc bài kinh
Chân phương đạo đức, người chơn chất
Trưởng thượng tài năng, bác thật tình
Xóm Núi xa rời, nơi ảm đạm
Thiền Sư cách biệt, giấc yên bình
Văn Đàn Lạc Việt luôn hồi tưởng
Phục nguyện hương lòng niệm tái sinh…!
Mai Xuân Thanh
May 25, 2022
*
SAO VỘI
Trần gian đã vội ẩn thu hình
Cáo phó loan truyền thấy thất kinh
Chúc Mệ thiên đường lìa thế thái
Mong Chương cõi Phật đoạn nhân tình
Văn Thơ Lạc Việt sầu ly tán
Xóm Núi Thiền Sư sướng thái bình
Hội quán từ nay không gặp gỡ
Mừng người thoát khỏi kiếp ba sinh.
Phương Thúy
*
Tiễn nhà thơ Thiền Sư Xóm Núi
Đăng lên cáo phó lặng nhìn hìnhBiết tiếng danh người sớm kệ kinh
Lính chiến công hàm dâng trọn việc
Không quân nghĩa vụ hiến đầy tình
Sơn hà khổ hận đau thầm sống
Tổ quốc tương bần nhục trót sinh
Tóc trắng phiền buông tầm học đạo
Thiền Sư Xóm Núi ngủ yênbình
Bảo Trâm
TIỄN BIỆT TS NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG
Núi buồn khuất bóng vị Thiền Sư
Vội vã phiêu diêu chẳng tạ từ
Để giọt lệ sầu thêm chất ngất
Cho dòng thi luật trĩu ưu tư
Người đi có xót câu ly biệt
Kẻ ở càng đau khúc sở từ
Hạc lánh mây bay về cõi Phật
Văn đàn se thắt những âm dư.
Huy Vụ 04/06/2022
Kính Điếu Thi Sĩ NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG
*
Sư huynh giã biệt chốn dương trần
Trả lại cho đời những tiết xuân
Xóm Núi không còn nghe tiếng kệ
Thiền sư thôi hết viết thơ thần
Văn Thơ Lạc Việt sầu tang khách
Phong Lãng Diễn Đàn vắng cố nhân
Thành kính phân ưu Ngô đại tộc
Vô cùng bái biệt một chung vần …
CAO MỴ NHÂN
Hawthorne 22 – 5 – 2022
*
Thơ Họa:
ĐẠO ĐỜI RIÊNG CHUNG
Sự nghiệp thơ văn trả nợ trần
Bồ-đề kết chuỗi tám mươi xuân
Thời kinh tịnh khiết hòa chuông mõ
Tấc dạ trung trinh động thánh thần
Thuận pháp vào ra nương cửa Phật
Vui đời họa xướng đón thi nhân
Cội nguồn,ân nghĩa lòng thao thức
Quyện nỗi riêng chung lại dệt vần…
Lý Đức Quỳnh
23/5/2022
*
THÀNH KÍNH TIỄN BIỆT
NHÀ THƠ NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG
Xóm Núi Thiền Sư giã biệt trần
Tám mươi đúng độ đã tròn Xuân
Thi thơ đượm nét như lời kệ
Sắc thái vương thân tựa Thánh Thần
Cõi thế vô thường người mặc khách
Trần gian khó nghĩ kẻ tao nhân
Nhàng lòng một nén xin từ biệt
Thành kính phân ưu góp mấy vần
songquang
22020523
*
ĐÔI LỜI GIÃ BIỆT
1-Giã biệt Ngô Chương bỏ bến trần,
Xuôi về chốn giác hiệp đền xuân.
Thanh nhàn an hưởng vui tâm trí,
Vĩnh phúc hườn minh mẫn tỉnh thần.
Buông hết tám mươi năm khổ bến,
Quy hồi từ bỏ kiếp tha nhân.
Vườn thơ thi sĩ nay buồn vắng,
Vận tái tê xa lẽ bóng vần.
*
2- Ngô Chương vừa bỏ kiếp xa trần,
Tợ hạ nóng cuồng đốt nét xuân.
Thanh thản ra đi từ giả thế,
An nhàn vui hưởng chốn thiên thần.
Bầu đơn rượu Thánh tìm tâm thỏa,
Độc chốn thiền kinh vọng ái nhân.
Xướng họa từ nay đành vắng bóng,
Thơ lơi bằng lệch trắc lung vần.
HỒ NGUYỄN
(23-5-2022)
*
BÁI BIỆT ĐẠI SƯ HUYNH
GIAÓ SƯ THI SĨ NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG
Ngô Đại Huynh vừa biệt cõi trần,
Về miền Cưc Lạc cuối mùa xuân.
Thiền phòng bặt tiếng lời kinh thánh,
Xóm núi còn đâu ngọn bút thần.
Phong cảnh giăng sầu tang mặc khách,
Chiếu thơ ướt lệ tiễn Thi Nhân.
Vô cùng thương tiếc xin an giấc,
Thành kính phân ưu góp mấy vần.
Mỹ Ngọc bái biệt,
May 23/2022.
*
VĨNH BIỆT THIỀN SƯ XÓM NÚI
(GS NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG )
Thầy vừa từ biệt chốn dương trần,
Tiên cảnh vui vầy với gió Xuân
Xóm Núi đìu hiu buồn mõ gọi
Am thiền tịch mịch nhớ chuông ngân
Ngàn thu yên nghỉ theo chân Phật
Cánh hạc thong dong dõi bước Thần
Bạn hữu gần xa xin kính tiễn
Muôn trùng ly cách tiếc vô ngần…
THIÊN LÝ
*
THƯƠNG TIẾC CHÚ NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG
Giã biệt “Thiền Sư“ bỏ cảnh trần
Không còn khỏa bút phóng trời Xuân
Từ bi nhã nhặn tu nương pháp
Bác ái khiêm cung học kính thần
Phú thả màu tươi cùng mặc khách
Thi hoà nét thắm với tao nhân
Văn Thơ Lạc Việt buồn thương tiếc
Nhóm Lãng Phong thôi xướng họa vần
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 5/23/2022
*
KÍNH ĐIẾU
Buông bút thi nhân lánh cõi trần
Quý Mùi trọn hưởng tám mươi xuân
Xưa từng bươn chải cùng tâm dũng
Hiện đã cao bay với sức thần
Xin được cảm thông-đây kẻ sĩ
Nguyện mong chia sẻ-đó thân nhân,
Nỗi đau mất mát trong gia đạo
Kính điếu-phân ưu mượn họa vần.
Thái Huy
5/24/22
*
VẦN THƠ KÍNH VIẾNG
Thì Huynh dứt bỏ nghiệp duyên trần,Cưỡi hạc lên trời…theo gió Xuân
Lão sĩ lánh xa miền đất khách,
Thiền sư tìm đến chốn thiên thần.
Chư Tăng hộ niệm cầu Tam Bảo,
Cửa Phật đón chào tiếp quí nhân.
Vĩnh biệt nhà thơ dòng lệ đổ,
Vô vàn thương tiếc viếng dăm vần.
Ngô Văn Giai (May 23/2022)
VĨNH BIỆT THIỀN SƯ
*
Người đang cưỡi hạc khắp mây trời
Bỏ hết ưu phiền dạ thảnh thơi
Ngọn bút buồn thiu chờ lắm chữ
Vườn thơ ảm đạm ước bao lời
Se niềm nhớ mãi chau vầng nguyệt
Dõi mắt trông hoài nghẹn biển khơi
Một nén trầm hương lòng kính gởi
Thành tâm vọng bái dẫu xa rời!
Như Thu
Thơ Họa:
VÂY TAY CHÀO
Thanh thản thiền sư vút cõi trời,
Phiền đau phủi sạch nhẹ tìm thơi.
Vườn thơ xướng họa im lìm tiếng,
Nhóm bạn luân lưu vắng vẻ lời.
Trắc vận tan xa tìm ánh nguyệt,
Bằng vần dạt bến vọng trùng khơi.
Âm u tiếng mõ kinh cầu nguyện,
Nhớ quá thi nhân bỏ thế rời.
HỒ NGUYỄN
(23-5-2022)
*
TIẾC THƯƠNG
Sinh tử,dễ chi mặc kệ trời!
Vô thường phó thác,chọn nhàn thơi?
Nhân tình bịt mắt tìm an phận
Thế sự bưng tai giữ kín lời
Kẻ trí tường mình nhìn mọi nẻo
Người tài liễu ngộ thấu trùng khơi
Sông dài dự phóng mênh mông biển
Chẳng đủ duyên nên chịu rã rời…
Lý Đức Quỳnh
24/5/2022
*
TIỄN BIỆT
THI NHÂN NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG
Tắt rụng ngôi sao ở cuối trời
Buông lìa cõi tạm bước nhàn thơi
Thi đàn khắc khoải bày run chữ
Bút hội đìu hiu tỏ nghẹn lời
Biển bạc xây hình người khuất hẳn
Trăng vàng tạo cảnh bóng mờ khơi
Hồi chuông “Xóm Núi” thôi ngừng đổ
Mực lạnh “Thiền Sư” đã bỏ rời
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 5/23/2022
*
THƯƠNG TIẾC THIỀN SƯ XÓM NÚI …!
Xóm Núi Thiền Sư…dạo khắp trời
Tay không nhẹ gót được nhàn thơi
Tao nhân chăm chỉ làm bao quyển
Mặc khách siêng năng dệt vạn lời
Thương tiếc sư huynh mưa mắt lệ
Biệt ly bạn hữu gió ngàn khơi…
Thành tâm một nén hương đưa tiễn
Tịnh độ siêu thăng, thể phách rời …
Mai Xuân Thanh
May 23, 2022
*
VĨNH BIỆT THIỀN SƯ
Xóm Núi Thiền Sư đã tới trời,
Niết bàn thảnh thảnh lại thơi thơi.
Thất tình bỏ lại thôi phiền não,
Lục dục còn đâu khỏi kiệm lời.
Niêm luật hết còn làm khó dễ,
Thi từ cũng đã vút ngàn khơi.
Trả về Tứ Đại thân trần thế,
Cực lạc vạn năm mãi chẳng rời !
Đỗ Chiêu Đức
*
VĨNH BIỆT
Họa Vĩnh Biệt Thiền Sư
Thiền sư rời núi để lên trời
Chắc chắn nơi này rất thảnh thơi
Hết hẳn bon chen hầu đạt phúc
Không còn giành giựt để thu lời
An vui cõi tịnh êm chiều sóng
Nhàn tản bờ mê thoảng gió khơi
Thỏa kiếp nhân sinh nhiều hệ lụy
Đây là chính lý hạc di rời…
Thái Huy 5/24/22
THƯƠNG TIẾC
Thương ôi! khách thế dạo ngàn khơi,
Xóm Núi Thiền Sư phú rạng ngời.
Tám chục xuân thời trần nuối tiếc,
Không gian mây xám giọt buồn rơi.
Trăm năm cõi tạm vòng sanh tử,
Không sắc tha nhân vận đổi dời.
Kính nén tâm nhang trầm khói toả…,
Anh linh thanh thản núi non Trời.
Đặng Xuân Linh
24-05-2022
ĐÔI LỜI GIÃ BIỆT
Đôi dòng xin giã biệt thi nhân,
Xóm Núi Thiền Sư khuất bóng dần.
Nhớ thuở vườn thơ vui xướng họa,
Buồn nay vận điệu rẽ chia phân.
Trắc bằng giọng tứ còn văng vẳng,
Câu cú cung vần vẫn thoáng ngân.
Niên kỷ tám mươi buông bỏ thế,
Người đi để lại xót bâng khuâng.
HỒ NGUYỄN (24-5-2022)
*
THƠ HỌA
NỬA ĐƯỜNG ĐƯA QUAN
Mới đó mà nay đã cổ nhân
Thơ bay lãng đãng về xa dần
Buồn nơi Xóm Núi sinh ly cách
Sầu tại Thiền Sư tử biệt phân
Cứ tưởng cuộc đời không cảm luỵ
Nào hay thế sự vẫn vang ngân
Lênh đênh quan giã từ thân quyến
Cuối nẻo chân mây hồn khuất khuâng…
Utah 26 – 5 – 2022
CAO MỴ NHÂN
*
TIỄN THẦY
(họa 4 vần)
Quý mến vô cùng bậc thiện nhân
Thiền Sư Xóm Núi khuất xa dần
Giao hoà thả vận vui xong kiếp
Giải trí ươm hương thỏa mãn phần
Chén nguyệt thi trào câu nhạc rót
Sông hồ phú nhả tiếng đàn ngân
Thầy đi giã biệt trời xuân ấm
Để lại vần thơ vướng khách trần
Minh Thuý Thành Nội
KÍNH TIỄN TIỀN BỐI NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG
Lão hạc bay rồi bỏ cuộc chơi
Đành sao…tiền bối lánh xa đời !
Hồi chuông buổi sớm đang còn vọng
Nhịp mõ ban chiều ngỡ chửa lơi
Xướng họa văn chương bằng hữu quý
Dồi trau chữ nghĩa đệ huynh mời
Ly hương khắc khoải niềm thương nhớ !
Bến Giác mong người sẽ thảnh thơi…
Thanh Song Kim Phú
CA. May/24/2022
*
THƠ HỌA:
SINH TỬ KHÚC
Trời bày sinh tử nhập trò chơi
Phúc lạc đan xen với khổ đời
Những tưởng hương hoa đằm thắm mãi
Đâu ngờ sóng gió vội vàng lơi
Đường xưa cánh hạc sầu mây tán
Lối cũ thơ văn thiếu bạn mời
Đốt nén nhang lòng nghe cuốc gọi
Chúc Người thảnh thảnh được thơi thơi…
Lý Đức Quỳnh
25/5/2022
*
THƯƠNG TIẾC THI SĨ NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG
Người thơ bỗng chốc bỏ quên đờiCõi thế không còn muốn dạo chơi
Khai bút ngày xuân tâm nguyện ý
Họa vần thi tứ bạn vui mời
Tiếng chuông đảnh lễ trầm hương tỏa
Câu kệ gửi lòng thoảng gió lơi
Xóm núi, thôi rời xa chốn cũ
Thiền sư về cõi tịnh tâm thơi.
Lê Mỹ Hoàn 5/25/2022
*
VĨNH BIỆT THIỀN SƯ XÓM NÚI
Tám Mươi bỏ hết nhẹ mình chơi
Thương tiếc sư huynh lánh cõi đời
Gõ mõ khoan thai thường nhật cúng
Tụng kinh phãng phất vẫn chuông lơi
Ngâm nga điêu luyện, tao nhân gọi
Xướng họa trau dồi mặc khách mời
Bát Nhã Con Thuyền đưa Bến Giác
Thiền Sư Xóm Núi được nhàn thơi…!
MAI XUÂN THANH – May 25, 2022
NGƯỜI VỀ CÕI TỊNH YÊN
Thiền Sư Xóm Núi đã qui tiênCưỡi hạc bay về cõi tịnh yên
Áo phất phơ lay theo gió thoảng
Hồn ung dung định với tâm thiền
Văn chương để lại lưu vườn thế
Tư tưởng mang vào nhập cửa thiên
Thắp nén hương trầm xin bái biệt
Tiễn người thanh thản chốn an nhiên
Sông Thu (24/05/2022)*
THƠ HỌA:
*
LÃNG DU
Giã chốn cơ cầu sống chẳng yên
Phất trần,hạc trắng,lãng du tiên
Công danh sóng cuộn ngoài giang hải
Sự nghiệp sương tan trước cửa thiền
Nhẹ cánh vô cư bồng lướt gió
Thênh lòng bất trú vút thăng thiên
Thuận tùy đi đến không ràng buộc
Tựa ánh trăng ngà…thật tự nhiên.
Lý Đức Quỳnh
24/5/2022
*
CHỐN HỒN NHIÊN
Thiền Sư tịnh luyện đã về thiên
Phảng phất mây trôi cõi vĩnh yên
Áo trắng tóc phơ theo gió thoảng
Mày râu đạo mạo bậc cao thiền
Văn thơ một gánh oằn bay bổng
Hoà lẫn không trung đến động tiên
Đến lúc nhân phàm ai cũng thế
Nguyện cầu hưởng phước chốn hồn nhiên…
Yên Hà
24/5/2022
*
ĐƯA TIỄN THIỀN SƯ XÓM NÚI
Cánh hạc nay đà đến cõi tiên
Dương trần rủ bụi hưởng bình yên
Hương sen trí gởi tầm an pháp
Bóng Phật hồn du hướng tĩnh thiền
Văn học trao về nhà tứ chúng
Nhân từ đón rước cửa tam thiên
Tâm thành góp nguyện người siêu thoát
Cực lạc phương trời dạ thản nhiên
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 5/24/2022
*
KÍNH CHÚC THIỀN SƯ
Vĩnh biệt dương trần lẽ tự nhiên!
Khai nguồn bất tử chốn bình yên
Tâm hồn phẩm hạnh ngời sông biển
Chân lý tình yêu rạng bến thiền
Đạo nghĩa hành trang làm vốn liếng
Hoàng tuyền cuộc sống hưởng ân thiên
Vườn thơ mãi nở ngàn lưu luyến!
Kính chúc Thiền Sư nhập cõi tiên…
Đức Hạnh
24 05 2022
*
ĐÔI LỜI DÂNG KÍNH
Bỏ thế Thiền Sư nhập cỏi Tiên,
An nhàn thanh thản tịnh tâm yên.
Xa dần bến đục nơi trần tục,
Nhập cỏi hư vô cận cửa Thiền.
Xướng họa văn thơ hoa nở bục,
Ý xinh nối đức nhập đền thiên.
Nhang trầm xin kính cầu thi hữu,
Tự tại yên bình vui bến nhiên.
HỒ NGUYỄN
(24-5-2022)
VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC THI HỮU NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG (1943-2022)
Một-chín-bốn-ba tuổi Quý Mùi,
“Thiền Sư Xóm Núi” góp thơ vui.
Thi ca xướng hoạ khi chia ngọt,
Văn nghệ giao lưu lúc sẻ bùi.
Viễn xứ lưu vong thời lận đận,
Tha hương tị nạn vận hên xui.
Tro tàn bếp lạnh thương thân phận,
Thung Lũng Hoa Vàng bạn tới lui.
Texas, May 23rd 2022 HỒ CÔNG TÂM—
*
THƠ HỌA
CÕI VĨNH
Cáo phó vừa đăng… tuổi Quý Mùi
Ra đi buông xoá những buồn/vui
Thơ Đường bút hiệu “Thiền Sư… Núi”,
Viết truyện văn phong ngọt lẫn bùi.
Đất Mới diễn đàn chung ý hướng,
Quê Người đóng góp chuyện may/xui
Huynh về Cõi Vĩnh đà an lạc
Xóm Núi từ nay vắng khách lui
Texas, 5/23/2022 – KIỀU MỘNG HÀ
*
THƯƠNG TIẾC THIỀN SƯ XÓM NÚI….!
*
Thiền Sư Xóm Núi tuổi năm Mùi (1943)
Nhắm mắt xuôi tay bỏ cuộc vui?
Đất khách lưu vong từng mặn ngọt
Quê người tị nạn trải chua bùi
Vaccine đủ mũi rồi đi mất…?
Tuổi hạc tám mươi cũng gặp xui
Thắp nén tâm nhang xin tưởng niệm
Siêu thăng Tịnh Độ, bạn bè lui…!
Mai Xuân Thanh May 23, 2022
*
THƠ HỌA (Hồ Công Tâm, tiếp…)
THÊNH THANG CÁNH HẠC
Họa:Vô Cùng Thương Tiếc
“Xóm Núi Thiền Sư’ với tuổi mùi
Lưu vong thơ thận kiếm niềm vui
Nay an phận số tìm thanh tịnh
Hiện lánh nhân sinh hưởng ngọt bùi
Cánh hạc vút bay vào cõi mộng
Hương linh cao thoát khỏi điềm xui
Quả là tốt phúc cho thi sĩ
Chẳng vướng bận chi phải ngó lui.
Thái Huy 5/24/22
*
THI NHÂN NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG
Sinh ra gốc Huế thuộc năm MùiPhúc hậu, tâm từ phản mặt vui
Ý nghĩa vần thơ nhiều lúc đắng
Văn chương điệu phú có khi bùi
Buồn non ước nguyện thay điều mới
Khóc nước mong cầu đổi vận xui
Nhắm mắt bao người thương tiếc trọng
Hiền hoà cọng bạn khó trừ lui
Minh Thuý Thành Nội – Tháng 5/25/2022
*
THƯƠNG TIẾC THIỀN SƯ XÓM NÚI
Có được nhiều may,hưởng tuổi mùi,
Cuối đời ,tâm tịnh,lấy làm vui
Bạn bè thơ phú chia cay đắng,
Thi hữu văn chương xớt ngọt bùi
Quên nỗi sai thời,do nghiệp chướng
Buông niềm lỡ vận bởi duyên xui
Lần lên Xóm Núi,âm thanh lặng
Khói nhạt,hương tàn,bước trở lui!
Thanh Hoà
26/05/2022VĨNH BIỆT THIỀN SƯ XÓM NÚI
*
Thiền sư xóm núi đã đi rồi
Vĩnh biệt nghìn thu vĩnh biệt người
Ông đã về trời xa vắng mãi
Hồng trần cõi mộng người đi thôi.
Từ nay chẳng hẹn bóng phù vân
Chẳng hẹn vần thơ xướng hợp vần
Tiếp nối văn chương ngày hội ngộ
Thế gian tiên cảnh đã xa dần.
Lê Tuấn
THÀNH KÍNH TIỄN BIỆT
Vừa nhận tin buồn báo đến nơi
Văn Thơ Lạc Việt mất thêm người
Một đời bút mực Văn Thi Phú
Bỏ lại trần gian tiếc nhớ thôi
Ly biệt nào ai mong cảnh ấy
Chia tay dạ sót luống bồi hồi
Từ nay cách biệt ôi đành thếThành kính phân ưu lệ ứa rồi
Hoàng Mai Nhất
(24/5/2022)XÓM NÚI THIỀN SƯ BÁC Ở ĐÂU?
Xóm Núi Thiền Sư Bác ở đâu?
Tu trong Am Cỏ mãi ưu sầu
Ở đây kinh kệ hằng tơ tưởng
Tám chục tuổi tròn vội bỏ nhau
*
Sống chốn hoang vu chết tịch u
Hồn thiêng Bác bỏ vượt bay vù
Trên đường viên miễn về An Lạc
Hưởng Hạnh Phúc đầy mãi vạn thu..
Trịnh Cơ kính bái
Thơ Họa:
XUYẾN XAO NIỀM NHỚ
Những buổi kính thiền Xóm Núi đâu ?
Đêm khuya khói trắng tỏa cung sầu
Chuông không tiếng mõ nghe trầm lắng
Xướng họa thơ vần lạc mất nhau
*
Giữa chốn phồn hoa,chọn tịnh u
Tám mươi xuân thoáng tựa tên vù
Vẳng nghe khơi lộng chiều xa nhớ
Khói sóng mơ hồ xao xuyến thu…
Lý Đức Quỳnh
25/5/2022
*
ĐƯỜNG XƯA XÓM NÚI QUYÊN BAY MẤT
Cả cười bạn thiết hỏi sư đâuXóm Núi buồn tênh vạn cổ sầu
Quạ đậu cây sồi, thương khách lỡ
Quay về than tiếc khổ lòng nhau
*
Sư buồn hoa nở sắc mù uKhách lạ hôm xưa thả vụ vù
Bạn thiết có hay lời tiễn lạc
Của người thiên hạ khóc thiên thu…
Utah 26 – 5 – 2022 – CAO MỴ NHÂNTHƠ HỌA (Trịnh Cơ…Tiếp)
*
XÓM NÚI THIỀN SƯ BÁC Ở ĐÂU ?
An bần lạc đạo có sao đâu
Xóm Núi Thiền Sư há lụy sầu…?
Nếp sống thanh cao rời tục lụy
Cao niên tám chục, vẫn thương nhau
*
Am mây ở ẩn cảnh âm u
Trên đỉnh non cao gió thổi vù
Lẻ bóng vân du miền tịnh độ
Mốt mình đắc Đạo cõi thiên thu…
Mai Xuân Thanh – May 26, 2022
*
DẠO BƯỚC NGÀN THU
Mây trời gió núi tận nơi đâuThế sự mang mang nhẹ nỗi sầu
Vĩnh biệt cung đàn thơ một thuở
Trăng lên đỉnh sáng vội lìa nhau
*
Thiền sư viên tịch chốn thâm u
Chiếc lá khuya rơi thoảng chợt vù
Xóm núi cỏ cây dường vẫn đợi
Quanh đây người dạo bước ngàn thu.
Lê Mỹ Hoàn 5/26/2022
*
AM VẮNG
Mây tan Xóm Núi bóng thầy đâu?
Hoa cỏ đường xưa sắc nhạt sầu
Vắng lặng lời kinh đêm huyền tịch
Chuông Chùa ngưng bởi xa nhau
Khung chiều nắng lịm cảnh âm uÉn nhạn trời cao lượn cánh vù
Khuất bóng Thiền Sư về cảnh giới
An bình một cõi đến ngàn thu
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 5/27/2022
Văn Thơ Lạc Việt Vô Cùng Thương tiếc,
Vĩnh Biệt Thi Sĩ Cố Vấn Lão Thành Ngô Đình Chương!
Cách đây gần 2 tuần lễ, có người thân thông báo Thi sĩ Ngô Đình Chương đã qua đời! Định thông báo với Bạn Bè, Thân Hữu ngay Tin Buồn này, nhưng bỗng lưỡng lự, nên chờ Cáo Phó của Gia Đình thì chính thức hơn.
Nay xin được thông báo:
Thi Sĩ Thân Yêu Cố Vấn của Hội chúng ta là:
Thi Sĩ Ngô Đình Chương
Sinh năm 1943 tại Huế.
Đã Tạ thế ngày 8 tháng 5 năm 2022
Tại San Jose, California.
Hưởng Đại Thọ 80 Tuổi.
*
Tang lễ vào Thứ Tư tuần này, ngày 25 tháng 5 năm 2022.
*Quý Anh Chị VTLV muốn đưa tiễn Người Thân của chúng ta, về nơi an nghỉ cuối cùng.
Xin tập họp lúc 11 giờ trưa, Thứ Tư này, 25/5/2022. Tại Nghĩa trang Oakhill, 300 Curtner Ave, San Jose.
Sự có mặt của Chúng Ta, nói lên tình nghĩa với Người Quá Cố, cũng là niềm an ủi với Tang Gia.
*Vòng hoa Phúng Điếu của VTLV, sẽ đến Nhà Quàn trước 9 giờ sáng.
* Một trang Phân Ưu sẽ được đăng trên số Báo TM, ra tuần này.
Vài Nét Về Cố Thi Sĩ:
-Một trong những cây viết “cổ thụ!” lâu năm nhất tại Hải Ngoại. Có mặt trên nhiều diễn đàn Văn Thơ.
-Ngoài thơ, Ông còn là một Nhà Văn với nhiều tác phẩm, bán rất chạy, (hồi đầu thập niên 90) hầu hết do TM xuất bản:
-Bên Lề Cuộc Chiến (truyện)
– Khung Trời Hiu Quạnh (truyện)
-Vàng Son (thơ)
-Bên Trời Mài Kiếm (truyện)
-Kiện Trời (truyện)
-Mèo Con Trong Vườn (truyện)
Trong Giây Phút Tưởng Nhớ, Xin Mời Thưởng Thức Một Vài Bài Thơ Của Cố Thi sĩ:
Xuân Ước Mơ
*
Gặp nhau lần thứ nhất
Tình cảm ấy “Ru Em”
Bầu không khí thân mật
Chúng ta thành bạn quen
Trời cho anh tiếng hát
Tôi chỉ một tấm lòng
Những đứa con Âu Lạc
Trên đất khách phiêu bồng
Anh đúng là nghệ sĩ
Tôi vớ vẩn làm thơ
Nếu chưa là tri kỷ
Cũng chung niềm ước mơ
Quê hương mình trở lại
Những ngày tháng thanh bình
Ấm no và thoải mái
Nhạc và thơ thịnh hành
Những cánh đồng xanh mạ
Những bãi cát trắng dừa
Con người thôi hối hả
Sống thật thà đơn sơ
Anh hát bài “Ru Em”
Đêm Việt Nam yên lặng
Giấc ngủ đẹp hai miền
Sau bao năm thù hận
Ngô Đình Chương
*
Chút Nắng Xuân
Mở cửa hàng hiên chút nắng xuân
Bao hôm mưa bão bệnh trùm chăn
Phù dung ẻo lả bên chòm cúc
Sáo sậu tưng bừng dưới cụm lan
Nước vẫn lửng lơ dòng suối bạc
Hồn đang lãng đãng đám mây vần
Thơ ta nhỏ bé từng viên sỏi
Dốc ấy người ơi nhẹ gót chân
Ngô Đình Chương
*
Tiểu Mão, Chú Mèo Tu
Tàn thu chút nắng đọng ven hiên
Run rẩy mèo hoang ghé tọa thiền
Đôi mắt nguyện cầu dường thoát tục
Bốn chân chắp bái vẻ an nhiên
Lão sư tụng niệm ngồi trầm mặc
Tiểu mão chăm nghe giữ lặng yên
Nhẹ bước theo thầy quanh Xóm Núi
Tu hành người, vật bởi cơ duyên
Ngô Đình CHương
*
Chuyện Một Đêm Trung Thu
*
Bao cánh thiên nga điểm trắng hồ
Bên lầu thủy tạ một Trung thu
Tay hương huyền hoặc chòm dây lụa
Giọng ngọc mê hồn mấy phiếm tơ
Tráng sĩ vung gươm cười bóng nước
Thiền sư múa bút dệt hồn thơ
Vầng trăng vằng vặc màn sương lạnh
Ảo ảnh hay là chuyện cổ xưa?
Ngô Đình Chương
*
Tiếng Kêu Vô Vọng
*
Sao bịt miệng tôi lại bắt giam
Tự do, quyền sống tội gì cam
Ai không phản đối trò tham nhũng
Ai chẳng căm hờn lũ ngoại xâm
Hải đảo biên phòng quà cống hiến
Đặc khu kinh tế đất đem cầm
Ôi Lê Chiêu Thống gương còn đó
Bán nước, ham quyền lú giả câm
Ngô Đình Chương
*
Vòng tay Huế
(vài vần thô thiển tặng người văn chương Hồ Đình Nghiêm, Người Gia Nã Đại gốc Huế)
*
Lưu vong hề…
cúi mặt làm thinh
Gặp nhau hề…
huynh đệ giao tình
Mươi chén chưa say đời Đỗ Phủ
Mấy ngày sao hết chuyện Trang Sinh
Vương vấn hương hoa dài mộng ảo
Phút giây tu dưỡng chút an bình
Xin mời… thí chủ vào am tự
Nhắp chén thiền trà nhớ Đế kinh
Ngô Đình Chương
(Thiền Sư Xóm Núi)
*
Thiếu Nữ Trong Thành Nội
*
Lên kiệu xa hồ kiếp mộc lan
Nhìn lui Thành Nội lệ mi tràn
Bao đêm chăn chiếu con tim đắng
Trăm mối tơ vò hạt ngọc tan
Thân thế vàng son bùn trét lấm
Đài gương năm tháng phấn khô tàn
Biên đình vời vợi tình quê tổ
Võng lọng thêm buồn tước hiệu ban
Ngô Đình Chương
*
Bạo Tàn
*
Sao đem con sáo nhốt trong lồng
Đói khát lâu ngày trụi hết lông
Búa đập mồm thôi kêu được nữa
Liềm cưa cánh mãi vỗ như không
Lắc lư nhúc nhích đâu còn sức
Ú ớ van cầu rõ uổng công
Máu rỉ vết thương mừng chút nước
Chao ôi nhìn cảnh thật đau lòng
Ngô Đình Chương
*
Đổ Lệ
*
Bài thơ đổ lệ Việt Nam ơi
Cộng sản ma vương đội lốt người
Chín đoạn lưỡi bò Tàu cướp đảo
Ba khu kinh tế Trọng thâu lời
Công an, quân độị mau lên tiếng
Trí thức, thanh niên chớ nín hơi
Cách mạng trong, ngoài cùng một nhịp
Biên cương phải giữ dẫu xương phơi
Ngô Đình Chương
*
Hồi Âm
*
Đàn ai thiên lý vọng thiền môn
Xóm Núi dốc lên cỏ lối mòn
Chánh điện hào quang luôn rực sáng
Quanh sân mây gió lúc vui buồn
Hồn thơ lạc nẻo rừng mai trúc
Kinh kệ hồi tâm tiếng mõ chuông
Quá khứ, vị lai trong mỗi niệm
Chung trà sen mạn hướng Hoa Thôn
Ngô Đình Chương
*
Về Quê
*
Về trước làng ta một quý nương
Dáng người thon gọn, tóc pha sương
Áo len, quần lĩnh, giày nhung tía
Mày nguyệt, môi tim, má phấn hường
Cách đứng, cách đi, dân tỉnh thị
Lời ăn, tiếng nói, vẻ văn chương
Gái trai, già trẻ, nhìn nhau hỏi
Phải nữ nhân đây khách lạc đường*
Ngô-Đình Chương
*
Phù Đổng Thiên Vương
*
Vó ngựa ầm ầm từ phương Bắc
Giáo gươm, chiến xa, mũ giáp sắt
Xí xô, xí xà như lang sói
Cướp của, giết người, bắt súc vật
Đàn bà, con nít, khóc thấu trời
Máu chảy, thịt rơi, đỏ mặt đất
Ngô-Đình Chương
Xuân khai bút
Sáng nghe con Vện sủa sau vườn
Đuổi đám gà con chạy hết trơn
Chợt thấy chậu mai hoa đẹp nụ
Mới hay thời tiết nắng vui đường
Đón xuân phố dưới người muôn vẻ
Trẩy lộc chùa bên khách thập phương
Bạn hỏi, ỡm ờ không nhớ tuổi
Năm nầy năm mấy lịch âm, dương?
Ngô-Đình Chương
*
Chuyến Hải Hành
*
Như xác cương thi lấn xuống tàu
Một đi mà chẳng biết về đâu
Mấy ngàn già trẻ ngồi câm hến
Một đám to đầu đứng quỵt râu
Xào xạc mây trời người thút thít
Bập bùng sóng nước ruột đau đau
Lệ mờ bến cũ cơn mê tỉnh
Thưa Mẹ, bao giờ biết gặp nhau
Ngô Đình Chương
*
Tự Trào
(Nhân ngày sinh nhật 9/9/2014)
*
Luẩn quẩn, loanh quanh, bạn chén trà
Lưng còng, gậy trúc, mấy chòm hoa
Sáng mai thức dậy, đau xương cốt
Trưa tối đi nằm, buốt thịt da
Sách đọc nửa trang, buông kính xuống
Cơm nhai vài miếng, tháo hàm ra
Quên quên, nhớ nhớ, cười soi bóng
Tâm Phật, nhưng người quả giống ma
Ngô Đình Chương
*
Chút Kỷ Niệm!
*
Ai mới gặp Ông, lần đầu tiên, lầm chết! Tướng Ông cao to, như dũng sĩ! Nhưng quen lâu rồi, thì không phải vậy, mọi thứ ngược lại!
To như con voi, nhưng hiền khô, tính tình hiền lành dễ mến, ăn nói nhỏ nhẹ, không rượu bia, không thuốc lá, chửi thề! (giống tôi!)
Xong công việc của một Cán Sự Xã Hội, là ra giúp Bà Xã ngay, có Quán Bún Bò Huế, đường Senter, quán sống rất lâu, mà ai ở San Jose cũng đều biết tên.
Ông có một nỗi u uẩn chất chứa trong lòng, vì là con cháu của dòng họ nổi tiếng Ngô Đình, có lẽ vì thế, Ông rất ít nói, cực kỳ tiết kiệm…tiếng cười!
Chúng tôi có duyên, được gặp Ông đầu tiên khi định cư tại San Jose, đầu thập niên 80. Nhà chúng tôi thuê, cạnh nhà ông, chỉ ngăn cách có một hàng rào, lại có cửa thông nhau! Gần đường “Mắt Láo Liên!”
Nên Thi Sĩ với chúng tôi, như người thân trong gia đình, có thức ăn gì ngon, cũng chạy qua biếu nhau. Trong thời gian này, tôi được ăn đồ ăn Huế đến…phát chán!
Ông phụ trách Trang Thơ trên báo chúng tôi, ít ra cũng gần 2 chục năm. Cuối cùng Ông phải từ giã vì…nản quá!
Trước khi ngưng, Ông còn “Khen” mát một câu mà chúng tôi nhớ mãi: “Anh Em chẳng quý chữ nghĩa gì cả, thơ có mấy câu, mà sai cả chục chữ! Bạn bè tôi nói, tôi là Thi Sĩ mà…không biết làm thơ!”
(Thật ra thời đó, làm báo tiếng Việt, đánh máy không có dấu, phải đánh bằng tay! Nên chuyện sai sót rất là thường! Báo phát hành, lúc nào cũng nhận được biết bao lời khiển trách. Như Bánh Mì Thịt Nguội, sau khi bỏ dấu bằng tay, thành Bánh Mì Thịt Người! Phụ Nữ Đảm Đang, sau khi nắn nót bỏ dấu, thành Phụ Nữ Dâm Đãng!…)
Kết
Thật bàng hoàng thương tiếc khi nhận được tin Ông đã rời xa cõi trần gian! Sinh bệnh lão tử, ai cũng phải trải qua, kiếp con người mà. Người đi thì cũng đã đi, nhưng người còn sống thật buồn rầu, ngậm ngùi thương tiếc quá. Chỉ an ủi vào câu: “Chết chỉ là thể xác, người ta coi như còn sống! nếu hình ảnh còn mãi trong tim, những người thân yêu, bạn bè thương nhớ!”
Xin Vĩnh Biệt!
KHÔNG QUÂN LÊ VĂN HẢI
Được tin bác Ngô Đình Chương ra đi gia đình chúng tôi vô cùng xúc động. Từ Việt Nam chúng tôi là hàng xóm của cô
Xuyến Qua Mỹ biết thêm anh Chương lại gặp cô Xuyến là phu nhân của bác Chương
Liên lạc đọc thơ thi sĩ, gặp chị Chương rất Huế là các tiệm Bún bò.
Các cháu nhà tôi thành hôn đều có mặt cô Xuyến với bác Chương
Bây giờ bác đi rồi ai viết thêm vần thơ năm cũ.
Gia đình chúng tôi xin chia buồn cùng cô Xuyến và các cháu, Tiếc thương nhiều lắm
Gia đình Vu van Loc, Vu thi Hong va cac ban cu xa Dong Tien năm xưa.
GIAO CHỈ SAN JOSEPHÚT TIỄN ĐƯA CỐ VĂN THI SĨ NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG
Chân thành gởi lời Cảm Tạ, đến Quý Niên Trưởng Cố Vấn, Quý Anh Chị trong VTLV.
Đã bày tỏ niềm thương tiếc dạt dào, đến Cố Thi Sĩ Cố Vấn Thân Yêu Ngô Đình Chương của chúng ta, trong những giây phút chia ly cuối cùng, cuối đường!
Phái đoàn của VTLV vẫn là phái đoàn đông nhất, có những lời Chia Buồn cảm động, chạm đến tim nhất!
Chắc “thiền sư” giờ ở tận “xóm núi”, nơi “chín núi, chín …suối vàng!” cũng mỉm cười mãn nguyện, về những tình cảm đậm sâu, dành cho Mình, từ các thành viên của Gia đình VTLV!
Xin được gởi tặng đến tất cả Quý Vị, mỗi người một Bông Hồng tươi thắm, thay lời Cám Ơn.
LÊ VĂN HẢI
Tiễn thi sĩ Ngô Đình Chương
Ngày xưa… khoảng hơn 30 năm về trước, lúc ấy các tiệm ăn chưa mọc nhiều. Ngày cuối tuần chúng tôi gồm gia đình bên chồng thường rủ nhau đến quán bún bò ở đường Senter tìm các món Huế nào bánh nậm, bánh bèo, cơm hến… v..v… vì nghe đồn món ăn rất ngon rất Huế, quả là không sai.
Tôi biết cô Ngọc là người đàn bà có nhan sắc, dáng dấp quý phái nhưng qua đây cô bắt tay lanh lẹ, giỏi như bao người Việt chịu khó, chịu làm và business đã bền vững thành công cho đến nay, sau mở thêm chi nhánh khác còn đắt hơn nữa.
Những lần đến tôi thấy người đàn ông cao lớn với mái tóc hơi sói, khuôn mặt hiền lành thường ngồi nơi bàn thâu tiền, thỉnh thoảng khách đông kiêm luôn việc chạy bàn thay công việc cùng cô.
Bẵng thời gian sau này khi tôi gia nhập hội Văn Thơ Lạc Việt, tôi thường nghe trong giới thi văn nhắc nhở tên Chú Chương là thi bá của vùng San Jose, sau biết thêm nữa chú là cố vấn của Văn Thơ Lạc Việt. Sinh hoạt hội Huế thường thấy tên chú trong danh sách ủng hộ $, và vẫn thường nghe ông Kha (cựu Hội Trưởng) nhắc nhở điều đó khi hội họp. Bên Văn Thơ Lạc Việt cũng nghe ông Chinh Nguyên kể nhiều lần “mỗi khi quỹ sắp cạn thì cố vấn Ngô Đình Chương thường tiếp tế $ hoặc những lúc tổ chức việc gì luôn được chú yểm trợ tài chánh. Tôi càng kính nể quý mến chú hơn, chú luôn lặng lẽ âm thầm làm không nói, và cũng ít khi ra ngoài tham dự với đám đông.
Lúc chú sáng tác bài thơ Đường Luật gởi lên diễn đàn, tôi và chị Phương Hoa cũng gan lớn họa lại nhiều lần, từ đó chú thân với chúng tôi và thường gọi chung “hai cô”. Những khi có bài xướng nào chú cũng mời tôi và chị Phương Hoa tham gia góp bút. Lúc đó tôi đang học hỏi bên hội thơ Đường, muốn gởi thơ chú góp họa chung cho vui, và cũng để làm quen vườn thơ chuyên trị về Thất Ngôn Bát Cú. Từ từ chú quen trang chủ Lãng Phong là Lý Đức Quỳnh, một người lịch lãm luôn mở rộng sân chơi đón mời những thi nhân mặc khách đầy sự nâng đỡ và nhiệt tình. Nhìn nhiều bài xướng chú được trang chủ đưa lên diễn đàn mời thi hữu họa, tôi thấy vui theo niềm vui của người có đất dụng võ về thơ Đường.
Thơ chú luôn cô đọng niềm đau mất nước, trăn trở về quê hương trong niềm nhung nhớ. Nhìn khuôn mặt chú đầy vẻ phúc hậu thoát ra nét của người tu tâm thiền tịnh. Sau này thơ của chú phảng phất mùi hương pháp thanh tịnh, buông bỏ mọi tục lụy của thế gian, sớm tối lắng đọng theo lời kinh, tiếng kệ trong khung cảnh thần tiên của xóm núi vang vọng tiếng chuông Chùa, và chú đã lấy biệt hiệu là Thiền Sư Xóm Núi. Những bài thơ nhẹ nhàng đưa dẫn con người ta tìm về bến giác, nơi không có sự ganh ghét, hãm hại của loài người, nơi thức tỉnh tâm hồn dịu vợi hòa sống với cây cỏ hoa lá, chim chóc ca vang giữa chốn thiên nhiên.
Cầm cuốn Tuyển Tập “Sống Với Tâm Nhàn” do cơ sở Văn Thơ Lạc Việt xuất bản năm 2021. Kỷ niệm một thời xướng họa với chú Chương, lòng thấy nao nao cảm giác vừa mất bóng cây cổ thụ rậm mát tỏa dịu dòng chương đầy đạo tâm truyền bá thông điệp của từ bi và bác ái. Từ nay không còn vui chơi xướng họa học hỏi từ chú nữa. Mời các bạn đọc tiêu biểu vài bài thơ xướng của chú Ngô đình Chương cùng thơ họa của Minh Thuý và chị Phương Hoa được trích từ Tuyển Tập.
Bài Xướng
Chiều Đông Trên Đỉnh Trường Lục
Văng vẳng bên đồi tiếng thở than
Chiều đông lành lạnh chốn thanh am
Trùng Dương đã đoạn dây oan trái
Cổ Mộ chưa vơi hận bẽ bàng
Gió nguyện ưu hương rồi tỏa ngát
Rừng thề đạo soái phải cầu van
Nhàn nhân vãng cảnh lưu danh bút:
“Tình thị vô tình, vạn cổ nan!”
Thiền Sư Xóm Núi
Họa
Thiền Sư Xóm Núi
Thiền Sư xa lánh chốn lầm than
Xóm Núi tâm từ tỏa ngút am
Thoát tục thong dong chân trí giả
Buông si thanh thản cánh chim bằng
Non xanh nước biếc vui tu luyện
Thế sự nhân tình mặc thán van
Bát tiết kệ kinh nào ngại khó
Tứ thời chuông mõ chẳng từ nan
Phương Hoa
Họa
Thoát Tục
Êm chiều suối chảy tiếng như than
Núi biếc sương mờ khói quyện am
Đã hết duyên tình rời phố chợ
Thì buông nghiệp kiếp ẩn rừng bàng
Trần ai bám dấu chưa thề bỏ
Cát bụi lìa đời khỏi vái van
Dốc sức khai tâm trì chánh đạo
Tham thiền tịnh độ giải tư nan
Minh Thúy Thành Nội
……………………………………………..
Bài Xướng
Chốn Ẩn Cư
Chiều xuống tàn xuân cảnh ảo hư
Sương mây tám hướng tiếng chuông từ
Lão nhân trầm mặc quỳ chân Phật
Phật Tiểu lơ là cọ bộ lư
Sen súng trắng xanh vừa hé nụ
Thầy trò hôm sớm vẫn công phu
Hạc hồng ríu rít ven bờ suối
Sơ họa vài câu chốn ẩn cư
Thiền Sư Xóm Núi
Họa
Chốn Tịnh Cư
(họa 4 vần)
Khói tỏa giăng mờ giữa cõi hư
Bên sân nắng nhạt biến tan từ
Dâng chưng chánh điện ngời hoa trái
Bật đốt hương đèn sáng bộ lư
Giới định trì kinh rèn đạo hữu
Tu hành điểm hạt luyện thiền sư
Vang đều tiếng mõ hoà câu tụng
Bóng tối ùa về chốn tịnh cư
Minh Thúy Thành Nội
Họa
Độc Cư Tu
Cảnh sắc ngời ngời chẳng huyễn hư
Hồng quang bao phủ chốn am từ
Người tu nhập định tâm không đảo
Kẻ thế tham thiền trí lắc lư
Tại bởi phú cường xoay trưởng giả
Do vì bần khổ chuyển hàn phu
Quyết lòng buông xả quên nhân thế
Đóng cửa dưỡng thần tịnh độc cư
Phương Hoa
Bài Xướng
Cành Mai Dại
Lần nẻo quanh co suối trước am
Sáng nay se lạnh ủ mây lam
Bờ non cây cỏ chim bay đậu
Dòng nước rong rêu đá đứng nằm
Mỗi bước vô tư nhìn suối vật
Hai tay thong thả niệm trong tâm
Đường về ngắt một cành mai dại
Để nhớ quê nhà dịp Tết Xuân
Thiền Sư Xóm Núi
Họa
Tâm Xuân
Vạt nắng chan hoà phủ núi am
Mỉm cười thả bộ ngắm sương lam
Chim ca ríu rít cây cành ẻo
Gió thổi lao xao vạt cỏ nằm
Thanh thản thiền sâu vào biển tuệ
Nhẹ nhàng quán niệm tới bờ tâm
Mai, Đào trổ nụ bừng duyên thắm
Vạn vật tươi màu đón sắc Xuân
Minh Thúy Thành Nội
Họa
Tâm Thiền Quyện Bút
“Thiền Sư Xóm Núi” đã vào am
Tránh cõi hồng trần vướng khói lam
Chắc hẳn đường tu đà dạ ngút
Dường như Phật Học vốn lòng nằm
Vô ưu diện kiến buông trần tục
Bất uý nhìn đời xã thế tâm
Cám cảnh tinh khôi thiền quyện bút
Ngọt ngào vần điệu ngút trời Xuân
Phương Hoa
Bài Xướng
Thu Và Thiền Sư
Sương sớm hương thơ tảng đá cười
Mây vờn cá lượn suối vui chơi
Thời gian vẫn lạnh lùng miên viễn
Cảnh vật đang êm ả tuyệt vời
Sức sãi cuốc cùn duyên bát quả
Trà sen chén rạn lộc tam bôi
Bước đi mỗi niệm sắc không ấy
Ngân hạnh vàng mơ thu nhẹ rơi
Thiền Sư Xóm Núi
Họa
Chiều Êm
Sắc ánh vàng tơ nhẹ nụ cười
Chim vờn bướm lượn nhịp hòa chơi
Mây lùa mọi hướng nào mơ tưởng
Lá rụng muôn phương chẳng mộng vời
Đã hết đêm thu trà giã biệt
Đâu còn giấc hạ rượu ly bôi
“Thiền sư xóm núi” buông niềm tục
Tĩnh lặng tâm hồn nhặt nắng rơi
Minh Thúy Thành Nội
Họa
Sương đẫm hồn thơ biếc nụ cười
Thu vàng cúc đọ ánh vàng chơi
Bóng câu hiên ngoại vừa loang loáng
Dáng trúc vườn trung đã ngút vời
Nhập thất nề chi trà mấy độ
Tham thiền há tiếc rượu dăm bôi
Luận trong nhân thế vòng sanh diệt
Thoắt sáng thoạt chiều hết nắng rơi
Phương Hoa
……………………………………………………….
Bài Xướng
Am Vắng
Chiều hôm am vắng cảnh mây mù
Thấp thoáng gần xa bóng dáng thu
Vạt cúc nở vàng hương nhẹ nhẹ
Hàng thông trở lạnh gió vu vu
Gõ hồi chuông mõ lòng an tịnh
Mời chén trà sen khách lãng du
Thư bút, tranh thơ cùng đạo hữu
Cửa không lòng trống ngọn đèn lu
Thiền Sư Xóm Núi
Họa
Cõi Tịnh
Bụi đất rừng cây cảnh xám mù
Bên ngoài chẳng rõ đã xuân thu?
Hương đàm vị thấm chèo sông nhịp
Pháp giới căn đầy lái biển du
Lối đến ngôi Chùa chim nhảy giỡn
Đường vào ngõ Tự gió hoà ru
Sư già một bóng ngồi yên lặng
Vận dụng tham thiền ngọn bấc lu
Minh Thúy Thành Nội
Họa
Thiền Viện
Thiền viện uy nghi tuyết tỏa mù
Sắc không nào sá chuyện xuân thu
Giúp đời gần với câu kinh kệ
Trợ thế xa dần khúc nhạc Vu
Quả chốn an nhiên nương tịnh độ
Là nơi tự tại bước nhàn du
Trơ gan muôn thuở cùng sương nguyệt
Quang ánh tháp ngà mãi chẳng lu
Phương Hoa
………………………………………………………..
Hôm nay đến Oak Hill Funeral Home & Memorial Park tại 300 Curtner Ave, San Jose.
Rất đông bạn bè thân hữu đến thắp nhang. Tôi nhận thấy có những khuôn mặt quen thuộc đại khái như anh Nguyễn Văn Kha (cựu hội trưởng hội Huế), anh Lê Minh Hải (Tân Hội Trưởng hội Huế), anh Lê Đình Bì giám đốc đài Việt Today, thầy Ngô Châu (dạy đại học Văn Khoa trước 75), nhà thơ Ngọc Bích, phu nhân ông Lê Đình Vọng, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Dũng (phó ban ngoại vụ của cơ sở VTLV, anh Chinh Nguyên (cựu hội trưởng VTLV, anh Lê Văn Hải (Tân Hội Trưởng VTLV và là chủ báo Thằng Mỏ)….Nhà văn Giao Chỉ Vũ Văn Lộc.
Nhìn di ảnh chú Chương khói quyện bay nghi ngút với nét mặt nhân hậu, định luật Sinh Lão Bệnh Tử nào ai tránh khỏi, dẫu hiểu dòng sinh Không Sanh Không Diệt nhưng mấy ai tránh khỏi bùi ngùi thương tiếc người hiền lương, nhà văn nhà thơ nổi danh đã để lại cho đời những tác phẩm bình yên nhẹ nhàng như dòng suối mát tâm linh, làm vơi đi phiền não trong kiếp sống bận rộn nhiều nghiệp chướng này.
Đúng 2 giờ chiều các thầy Chùa Từ Lâm đến làm lễ cầu siêu đưa tiễn, Thầy điều động tổ chức đám tang, cần số người cầm ảnh Phật, trướng liễn, số người cầm hoa quả đem ra nhà Quàn làm lễ lần cuối. Người thân trong gia đình vẫn chưa đủ nên nhờ thêm, tôi được phân công ôm mâm trái cây cùng con gái chú Chương, mọi thứ đều tùy vào duyên…và tôi đã được cái duyên tiễn chú đến giờ phút cuối.
Chú Chương kính mến! MT đã đưa chú đến nơi an nghỉ cuối cùng, được hộ niệm thời kinh cho người mất. Hôm qua dự lễ Phật Đản tại Sài Gòn Kitchen do thầy Thích tánh Tuệ hướng dẫn, MT đã nguyện cầu đọc tên tuổi năm sinh của Chú. Chú mất vào ngày 8 tháng Tư Âm lịch nhằm ngày Đức Phật Đản Sanh, thật thiêng liêng xứng hợp biệt danh Thiền Sư Xóm Núi.
Hai bài thơ cuối cùng MT viết tặng Chú
1/ Tiễn biệt Thi Nhân
Vĩnh biệt từ đây thiếu bóng hìnhTin buồn Bác mất nghẹn cầu kinh
Thương người đức độ hòa nhân ái
Quý bậc tài cao sống nghĩa tình
“Xóm Núi “âm thầm rời nhẹ nhõm
“Thiền Sư “lặng lẽ ngủ an bình
Lãng Phong đã hết dòng Chương ngỏ
Bạn hữu đau lòng cảnh tử sinh
Minh Thúy Thành Nội
2/ Đám Tang Nhà Thơ Ngô Đình Chương
Tiễn biệt thi nhân một đoạn đường
Mi nhoà khói tỏa quyện mùi hương
Người thân lặng lẽ buồn châu rớt
Bạn hữu âm thầm tiếc lệ vương
Đã hết vần thơ dìu bóng hạ
Còn đâu điệu phú nở hoa vườn
Thành tâm niệm Phật đồng vang tiếng
Nối bước quan tài nỗi luyến thương
Minh Thúy Thành Nội
Mùa xuân sắp tàn, nắng hạ đã rực lên. Nhìn ánh nắng chiều tan dần nhường bước bóng hoàng hôn từ từ phủ xuống. Những con chim bay xa cuối chân núi qua khung cửa sổ, ngồi đọc lại thơ Chú, dòng thơ nhẹ như vạt mây trắng đang trôi lãng đãng trên nền trời xanh mát.
Giã biệt Chú Chương…nghìn thu an giấc….
Minh Thúy Thành Nội
25/05/2022
“Tiễn Biệt” Thi sĩ Ngô Đình Chương (KIM THƯ diễn ngâm)
Tôn Nữ Áo Tím Tiễn Biệt (MP3) -
Cao Mỵ Nhân, Hoàng Mai Nhất, Hồng Thuý, Lão Mã Sơn, Lê Tuấn, Minh Thúy, Phương Hoa, Tin Buồn: Phân Ưu, Văn Thơ Lạc việt
MỘT ÁNH SAO Vừa Rời Khỏi Bầu Trời Văn Học Việt – Phương Hoa
Lễ Cầu Siêu cho văn thi sĩ Dương Huệ Anh tại Chùa An Lac. San Jose Một Ánh Sao Vừa Rời Khỏi Bầu Trời Văn Học Việt
*
Người ta nói, cuộc đời là vô thường, có đó rồi mất đó, quả thật không sai. Mới tháng 1 sau Tết Tây 2022, một người còn vui vẻ yêu đời, làm thơ Xuân rộn rã, gửi đi chia sẻ trên các diễn đàn. Vậy mà…ngày 17 Tháng 2, tin từ Văn Thơ Lạc Việt gửi ra: “Văn Thi Sĩ Dương Huệ Anh, tên thật là Phạm Ngọc Tường, một trong những nhà sáng lập Văn Thơ Lạc Việt (VTLV) từ năm 1992, hiện là cố vấn của VTLV, vừa tạ thế, hưởng đại thọ 97 tuổi.”
Tôi thật bất ngờ khi nhận được tin, lòng bàng hoàng tiếc thương khôn tả. Mới hôm nào Bác Dương Huệ Anh gọi nói chuyện với tôi, giọng Bác vẫn còn sang sảng, giòn giã và vui vẻ như một người bình thường không đau yếu. Bác là một người mà tâm tư luôn đau đáu về việc bảo tồn văn hóa của quê hương. Mỗi lần gọi, Bác trao đổi thật nhiều với tôi về những dự định của Bác, về những tác phẩm Bác đang viết dở dang, và về những băn khoăn, lo âu văn hóa và tiếng Việt nguyên thủy của dân mình sẽ bị thay đổi làm cho mất gốc nếu thiếu người gìn giữ.
Điều quan trọng và cảm động nhất, là những lời tâm tình của Bác, rằng Bác rất vui vì thấy Văn Thơ Lạc Việt trải qua suốt ba chục năm thăng trầm, đến giờ này vẫn còn tồn tại và ngày càng phát triển. Bác còn dặn dò tôi, hãy cố gắng phụ giúp cho VTLV thành công hơn nữa “Cô nhớ đừng có bỏ đi đâu nghe!” Và có lần Bác nói:
“Tôi đang góp nhặt thông tin để viết về tiểu sử và những thành quả của các văn thi sĩ Việt Nam khắp nơi, và ngoài những tác giả lão thành, tôi cũng sẽ viết về những người trẻ như cô và cô Minh Thúy; tôi sẽ lấy tiểu sử của cô trong bản thảo ‘TT Thơ Viết Cho Hồn Dân Tộc’ nhé!”
Tôi giật mình, kêu lên:
“Ấy chết! Bác ơi, cháu thuộc vào hàng hậu học, văn thơ còn non nớt lắm, cháu vẫn đang vừa viết vừa học mỗi ngày, đâu có công trạng chi đáng nhớ mà bác đem vào sách cùng với những bậc tiền bối, người ta sẽ cười cho đó ạ.”
“Tôi có cách viết của tôi mà, đừng lo!” Bác cười nói. “Tôi không phải chỉ liệt kê hàng loạt tiểu sử của các tác giả và tác phẩm đâu, người ta sẽ nhàm chán, lần này tôi viết theo kiểu khác!”
Khi tôi kể lại cho người bạn Minh Thúy nghe, “Tụi mình đều đã sắp, hoặc…đụng hàng số bảy
rồi, mà bác Dương Huệ Anh gọi là ‘những người trẻ’ nghe thương bác quá, đúng là bác xem tụi mình như hạng cháu con.” Cô bạn tôi cười, “Là bác nói tụi mình những cây bút trẻ đó, ở đó mà…ham trẻ!”
Những lời của Bác như còn vang vọng đâu đây. Thế mà bây giờ Bác đã vĩnh viễn lìa xa. Bác ra đi để lại một gia tài văn học đáng kể vì sức viết của bác thật bao la, đủ các thể loại, và triền miên như dòng chảy. Ngoài những tác phẩm xuất bản trước 1975 như, “Thơ Xanh”, “Tâm Lý Phụ Nữ Qua Ca Dao Tục Ngữ”, “Huyền Ca, Diễm Ảo tập 1,2” năm 1958… ra, tại Mỹ, Bác đã phát hành tổng cộng dễ cũng gần ba chục tác phẩm, gồm Thơ, Văn, Biên Khảo, Truyện Dài, kể cả CD, như thơ “Tha Hương Mười Tám Năm, Sầu Có Ai.”, “Dịch Và Bói Dịch (sơ giải, 2005)”, “40 Năm Tị Nạn Buồn Vui”, “Ðường Nào Có Hoa Ðào”, “Quê Hương Vĩnh Cửu Tình Yêu”, và nhiều tác phẩm khác, cùng những bản thảo đang dở dang chờ hoàn thiện…
Bác DHA là người đa tài. Ngoài sách truyện và biên khảo ra, Bác có một kho tàng thơ rất phong phú. Thơ của Bác từ ngữ giản đơn dễ hiểu, nhưng rất ngọt ngào và trữ tình. Nhiều người bạn tôi bên Văn Bút nói, “Tuổi bác DHA tuy già nhưng thơ và tâm hồn bác luôn luôn trẻ.”
Tình cờ giở ra tập thơ “QUÊ HƯƠNG Vĩnh Cửu TÌNH YÊU” xuất bản năm 1992, một trong nhiều tập thơ, truyện, sách biên khảo, mà Bác DHA đã tặng, tôi gặp những lời thơ thật thiết tha:
“Tháng Bẩy, mưa Ngâu, lệ ngập trời,
Sầu dâng bốn bể, lạnh ngàn khơi!
Mưa đừng mưa nữa, lòng thêm khổ,
Để trái tim băng ấm mặt trời!” (Tháng Bẩy, Mưa Ngâu – DHA – tr. 35)
Là một trong những nhà sáng lập VTLV, Bác luôn trân trọng những cuộc thi Văn Thơ tổ chức hàng năm của VTLV. Trong “Thiên Niên Kỷ Mới, Độc Hành, Ta Vui” xuất bản năm 2004, Bác đã đưa vào thơ việc này:
“Mười năm, Lạc Việt dựng đàn thơ
Mong giúp người, chau chuốt tiếng tơ
Thi tuyển hàng năm, dăm, bẩy tập
Xuân Thu mỗi số mấy trăm tờ…” (Tớ Thầy Cùng…Chủ Hội – DHA tr.95)
Gần đây, cuối 2021 đầu Năm Mới 2022, những câu thơ mượt mà, yêu đời, yêu người, bừng sức sống của một người sắp kề cận bách niên như Bác đã làm cho nhiều văn thi sĩ trong các diễn đàn, như VTLV, Cô Gái Việt, và Văn Bút VN khen ngợi:
“… Cuối năm, có lắm tin vui,
Xa, gần… mừng Lễ Chúa Trời Giáng Sinh!
Chúc nhau sức khỏe, tâm bình,
Gieo nhân, hái quả…nở nghìn, trăm hoa….
Thêm vui, bạn quí, *phương xa,
Dù cao tuổi, vẫn nhớ ta…gọi mừng!
Blog còn sinh hoạt bình thường,
Thơ, văn… góp chút…có, còn hơn không !” (Bài “Năm Cũ, Năm Mới, Vui…Buồn” – DHA – 03/01/22)
Và mới nhất, Bác DHA đã sáng tác bài thơ Xuân thật rộn rã yêu đời, có ai ngờ chỉ sau hơn tháng Bác đã ra đi?
“Lại một mùa Xuân đến, bạn ơi,
Trăm hoa đẹp nở để hòa vui…
Tương tranh, cuộc sống từ vô thủy,
Quên nỗi buồn, qua những nụ cười !” (Mùa Xuân – Cầu Nguyện – Dương Huệ Anh – 22/01/2022)
Là một người thành công trong văn học, nổi tiếng về văn thơ, nhưng tính tình Bác Dương Huệ Anh rất khiêm nhượng, hiền từ, và thân thiện với mọi người, kể cả những hậu bối như tôi. Bác, vị cố vấn rất có uy tín của VTLV, một trong những vị giám khảo của các cuộc thi thơ văn hàng năm của VTLV – mà tôi cũng từng là một thí sinh đã may mắn giật được giải đầu, hồi năm 2016 – và là người được rất nhiều văn thi sĩ nổi danh kính trọng, thường viết về Bác và các tác phẩm của Bác, như cố nhà văn Hồ Trường An, cố thi sĩ Du Tử Lê, nhà biên khảo Diệu Tần, nhà văn Đỗ Bình, Paris, v.v…Vậy mà khi tôi tặng Bác 3 TT truyện ngắn, “Yêu Nhau Mấy Núi”, Thằng Nước Mắm”, và “Chung Một ước Mơ”, thì Bác đã đọc rất kỹ càng. Đọc xong Bác gọi tôi và cho những lời khen cùng những lời góp ý, và những lời ủng hộ khuyên bảo quý giá của Bác đã giúp cho tôi lên tinh thần nhiều lắm. Thế là tôi bắt đầu …tới luôn, chuẩn bị cho 2 tuyển tập thơ “Viết Cho Hồn Dân Tộc” và “Vung Rải Niềm Vui” cũng như TT Truyện Ngắn “Chắp Cánh.”
Đến tháng 11 năm 2021, tôi hoàn thành tập thơ “Viết Cho Hồn Dân Tộc” và mạo muội nhờ bác Dương Huệ Anh viết giúp Lời TỰA. Tôi nói sơ sơ, chỉ nhờ…cầu may thôi, vì biết Bác đang bận cho những quyển sách của Bác, và cùng vì thấy sức khỏe Bác dạo ấy có phần hơi sút giảm nên tôi ngại đâu dám ép. Không ngờ Bác đã mau mắn nhận lời, kêu tôi gửi bản thảo liền qua cho bác. Thương làm sao, những câu nói đầy khuyến khích của bác khi đọc tập bản thảo tôi gửi, quý làm sao, những câu chữ đánh máy với các dấu chấm phảy kỹ càng, và cảm động làm sao, mỗi khi Bác đọc bài thơ nào ưng ý thì gọi ngay cho tôi để nói vài lời khen ngợi. “Thơ cô rất có hồn và kỷ thuật thì rất vững vàng, khá lắm!” Chỉ một câu của Bác thôi, mà tôi đã hạnh phúc vô cùng.
Viết đến đây tôi như chựng lại, cảm thấy ân hận và buồn thật buồn, vì nghĩ mình còn nợ Bác DHA một món nợ ân tình khó trả, mà từ hôm nghe tin Bác mất nó cứ miên man vương vấn trong lòng. Tôi đã in xong “TT Thơ Viết Cho Hồn Dân Tộc” từ cuối năm 2021. Nhưng vì tình trạng Covid vẫn chưa ổn định, rồi thì Tết đến lu bu, tôi lại lười đi bưu điện để gửi sách tặng cho Bác, mà lần lựa đợi đến lúc VTLV có cuộc họp đầu năm sẽ đem sách tặng cho Bác luôn. Bây giờ thì không còn cơ hội cho Bác thấy Tập Thơ và đọc những lời TỰA rất trang trọng của Bác nữa rồi.
Từ hôm đó đến nay, bao nhiều lần tôi định viết chút gì về bác, để tiễn đưa vị tiền bối hiền hòa mà tôi kính quý. Nhưng mỗi lần mở máy ra, rồi nhìn mấy thùng sách đựng những tập thơ còn trinh nguyên nhà xuất bản gửi tới chưa mở ra, tôi lại nhớ tới Bác, lòng man mác buồn, ý tứ bị lảng xao, chữ nghĩa bay đi đâu mất hết.
Cho đến chiều hôm qua. Tôi đi sắp xếp lại tủ sách, để trống chỗ cho một số tập thơ mới và cất vào quyển sách của người bạn văn H.Q. từ Đức Quốc gửi tặng. Bất ngờ khi tôi cầm lên quyển sách “Chân Dung & Giá Trị Truyện Kiều” Bác DHA tặng tôi năm ngoái, thì từ trong đó rơi ra cái thẻ “Business card” mà Bác đã kẹp vào khi tặng sách cho tôi.
Đây là những chữ trong note của Bác DHA, xin chép lại dưới đây cho dễ đọc:
5/15/2021
Thân mến tặng N.T Phương Hoa, người bạn trẻ, “có tâm, lại có tài”.
Đáng quí lắm!
Có quyển bàn về Truyện Kiều, nếu có dịp, xin giới thiệu vài lời (in ra chưa RM.
Cám ơn cô PH.
D.h.Anh
Tôi đọc cái note Bác ghi mà lòng xúc động vô vàn, rưng rưng nước mắt, tự trách mình sao quá vô ý, vô tâm đến mức quên luôn những điều mà Bác đã nói khi tặng sách cho tôi. Bác muốn giới thiệu quyển sách “Chân Dung & Giá Trị Truyện Kiều” này ra cộng đồng mà bận quá, rồi công việc đẩy đưa, nên Bác chưa có dịp. Khi đó tôi cũng có hứa là sẽ cố gắng viết chút gì để giới thiệu sách của Bác với bà con, và chờ khi hết dịch Covid sẽ bàn tính với VTLV để tổ chức RMS cho Bác. Vậy mà tôi quên luôn! Nếu hôm nay không gặp cái note này, có lẽ tôi “gánh” cái thất hứa với Bác suốt đời mà không hề hay biết. Tôi thầm xin lỗi Bác và tự hứa sẽ đọc thật kỹ để viết giới thiệu quyển sách này cho Bác trong một ngày gần đây.
Dù chỉ thiếu vài năm nữa thôi Bác Dương Huệ Anh sẽ lên bách tuế, kể ra Bác vẫn thọ hơn rất nhiều người, nhưng sự ra đi của Bác vẫn để lại tiếc thương cho giới văn học và đồng hương, cộng đồng Việt ở Hoa Kỳ, và khắp trên thế giới. Ban Biên Tập VTLV có mở riêng một “Trang Tưởng Niệm Văn Thi Sĩ Dương Huệ Anh” trên trang nhà, và mấy tuần qua chúng tôi đã nhận được rất nhiều thơ, văn, lời thương tiếc, hình ảnh chia buồn, liên tục gửi về cho trang này để phổ biến đi khắp nơi. Cho thấy tình thương mến của cộng đồng với Bác DHA nhiều đến mức nào.
Để đáp lại tấm lòng của Bác DHA đối với những gì Bác đã làm cho VTLV, anh Chủ Tịch Lê Văn Hải cũng đã xin một buổi lễ tụng kinh cầu siêu cho Bác tại chùa An Lạc, San Jose, CA vào ngày 25 tháng 2, 2022 vừa qua, với đông đảo đồng hương và thành viên VTLV tham dự. Sau buổi lễ, Sư Bà và anh Hải lên phát biểu để tưởng nhớ và vinh danh văn thi sĩ Dương Huệ Anh, và sau đó nhiều người lên nhắc nhở về Bác, hát, ngâm thơ, đọc thơ thương tiếc Bác thật là cảm động. Anh Lê Văn Hải còn đại diện Thi Văn Đàn VTLV đăng báo phân ưu cùng gia đình Bác Dương Huệ Anh trên báo trong vùng Bắc Cali.
Để tiễn đưa người bạn thân DHA lên đường, nhạc sĩ kỳ cựu Lynh Phương đã sáng tác bản nhạc “Niệm Khúc Cuối” và ông tự mình hát, làm YouTube rồi gửi đến cho VTLV phổ biến. Nhìn dáng người nhạc sĩ lớn tuổi đứng hát với điệu bộ buồn hiu và giọng hát nghẹn ngào, cộng thêm bài hát rất hay, rất cảm động khiến người xem phải rưng rưng nước mắt.
Link bài hát ở đây: https://www.youtube.com/watch?v=Nql8WojHeBM
Những văn thi sĩ từ xa, có hai vị Chủ Tịch của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại Cung Thị Lan, và Văn Bút VNHN Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, nhà văn Hồng Thủy, cũng nhanh chóng gửi những lời chia buồn thật chân tình tới VTLV cho Trang Tưởng Niệm.
“Anh Ba DƯƠNG HUỆ ANH của chúng ta đã bỏ chúng ta đi rồi….Chúng ta đã mất một người anh đáng kính, hiền hòa. VBVĐBHK và VBHN đã mất một Thi Sĩ kỳ cựu tài đức song toàn.” Nhà văn Hồng Thủy đã viết, và chị còn đại diện Văn Bút VNHN VĐBKH từ miền Đông gửi nhờ VTLV đăng báo phân ưu cùng gia đình văn thi sĩ Dương Huệ Anh trên báo Việt Ngữ Bắc Cali.
Nhà văn Đỗ Bình từ Paris, Pháp Quốc, có một bài khá dài viết về văn thi sĩ DHA đăng trên Trang Tưởng Niệm, xin trích vài câu:
“Nơi phương trời Mỹ, nhà thơ Dương Huệ Anh đã bước vào tuổi xế chiều, ở đây có những nỗi buồn tha hương luôn ẩn trong tâm hồn người xa xứ, đó cũng là chất liệu, nguồn cảm hứng cho thi nhân. Dù mang nỗi sầu tha hương nhưng nhà thơ vẫn yêu đời nên hồn thơ lại dâng trào nguồn cảm xúc, ông đã sáng tác theo dòng cảm xúc và sáng tác rất mạnh với nhiều đề tài khác nhau. Nhờ kiến thức sâu rộng tác giả đã có những sáng tác giá trị về lãnh vực thi ca, văn chương và biên khảo….” (NHÀ VĂN HÓA DƯƠNG HUỆ ANH – PARIS, MẠN ĐÀM VĂN HỌC&NGHỆ THUẬT – Đỗ Bình)
Trang Tưởng Niệm này cũng có bài viết của Thi sĩ Dương Viết, xin được trích:
“….Nhờ buổi ra mắt sách này, tôi mới biết nhà thơ Dương Huệ Anh…..ông đã là công chức, là
cán bộ ngành ngoại giao, Đông Y Sĩ, viết biên khảo về nhiều vấn đề như đạo giáo, văn chương, viết văn, chuyên viên địa ốc… Thảo nào nhà văn Diệu Tần coi ông Dương Huệ Anh là một người đa năng đa tài chẳng khác gì văn sĩ Ernest Hemingway”(Một Vài Kỷ Niệm Với Nhà Thơ Dương Huệ Anh- DVĐ)
Nhà thơ Lê Tuấn, Ban Truyền Thông VTLV thì gửi những dòng thơ tha thiết:
“Có một vì sao chợt tắt
Muôn ngàn vì sao cúi mặt xót thương
Tiễn đưa về cõi vô thường
Thi nhân tao nhã vấn vương một thời.”
Thi sĩ Minh Thúy cũng nức nở:
“Màu Xuân rực rỡ chưa tan
Mùa Xuân đã khóc vội vàng tiễn đưa
Mắt mờ như bám hạt mưa
Rơi dòng ký ức mộng xưa trở về”
Và nữ sĩ Cao Mỵ Nhân, người bạn thơ thâm niên cùng nhà thơ DHA cũng thương cảm trách khẽ:
“Cụ bảo rằng không bỏ bóng Xuân
Sao hôm nay lại biệt dương trần
Xưa từng xướng hoạ lời chân thiện
Giờ đã phiêu linh cõi thánh thần”
Nhà thơ Nguyễn Huy Khôi từ nơi nửa vòng trái đất cũng tiếc thương vị thi sĩ tiền bối:
“Tiền bối ly từ,… dạ nhói đau!
Tinh hoa văn nghiệp quyện hương ngào!
Khôn cầm tương ngộ đôi lời giã
Chẳng kịp tri ân một tiếng chào!”
Thi sĩ Hoàng Mai Nhất của VTLV thì tỏ rõ nét đau thương trong thơ:
“Nhói đau tin đến thật thình lình
Bác Huệ Anh về chốn lặng thinh
Cách biệt từ nay thôi chẳng gặp
Chia ly xa hẳn hết tâm tình”
Nghệ sĩ ngâm thơ Khánh Hà (Thu Quyên) kính cẩn:
“Bây giờ thưa Bác Dương Huệ Anh
Bác đã vì THƠ gửi cái TÌNH
Bác biết tuổi đời đang chạng vạng
Bác mong người trẻ có BÌNH MINH”
Phương Hoa đã nghẹn ngào:
“Cố Vấn Thi Đàn đi chẳng giã
Huệ Anh thi sĩ biệt không chào
Bao năm tại thế ôi thương quý!
Chớp mắt về Trời thật tiếc sao!”
Văn thi sĩ Phương Thúy,Trang Chủ Diễn Đàn Cô Gái Việt cũng đã viết cho Trang Tưởng Niệm, “Tuy chưa được hân hạnh gặp Thi sĩ Dương Huệ Anh lúc sinh tiền, nhưng có lòng mến phục người đã tự nguyện vác cái ngà voi khổng lồ, sáng lập nên Cơ sở VTLV từ năm 1992.”
Và còn… rất nhiều, rất nhiều, văn thi sĩ của các diễn đàn thơ văn khắp gửi thư về cho VTLV đăng vào Trang Tưởng Niệm những lời văn, lời thơ, lời viết tận đáy lòng, bày tỏ sự tiếc thương vô bờ một nhà văn, nhà thơ, nhà văn hóa Việt Nam rất thành công nơi hải ngoại.
Xin mời quý vị ghé vào VTLV để xem: https://vantholacviet.com/thanh-kinh-phan-uu/
Sau cùng, văn thi sĩ Dương Huệ Anh đã rời bỏ thế gian, nhưng tinh thần yêu văn thơ và bảo tồn tiếng Việt cùng vô số tác phẩm giá trị để đời của Bác sẽ mãi mãi còn lưu lại trong giới văn học Việt Nam cho đến ngàn sau.
Hôm nay, ngày 9 tháng 3, 2022, là ngày gia đình đưa linh cữu Bác về miền vĩnh cửu.
*
Kính hương linh bác Dương Huệ Anh,
Cháu vì ở xa không thể có mặt trong buổi hẹn cùng các thành viên VTLV để chia tay Bác lần cuối, nên cháu có bài viết này để tiễn bác lên đường, mong Bác hoan hỉ cho.
THÀNH KÍNH NGUYỆN CẦU HƯƠNG LINH BÁC DƯƠNG HUỆ ANH SỚM VỀ MIỀN CỰC LẠC
Phương Hoa – Ban Biên Tập Thi Văn Đàn VTLV
-
TIN BUỒN: Vĩnh Biệt “Em Gái Hậu Phương” Dạ Lan! Lê Văn Hải
Vĩnh Biệt “Em Gái Hậu Phương” Dạ Lan!
Huyền Thoại “Người Đẹp” Trong Tim Cả Triệu Người Lính VNCH!
Tiếc Thương Giọng Nói ngọt ngào “Em Gái Hậu Phương” Dạ Lan 2 (Hồng Phương Lan) Xướng Ngôn Viên của Đài Phát Thanh Quân Đội VNCH, vừa mới ngừng tiếng nói!
Chút Quen Biết:
Tôi hân hạnh được biết Chị Phương Lan, (giọng nói Dạ Lan trên đài) khi tôi vừa mới lớn, khoảng năm đệ ngũ, đệ tam. Vì nhà tôi là hàng xóm, bên cạnh nhà Thiếu tá Cường, Tiểu đoàn 5 Chiến Tranh Chính Trị. Tôi chơi với Vượng, Hiển, là 2 con trai của TT. Chiều nào thu thanh từ đài Phát Thanh Quân Đội về, cả đoàn nghệ sĩ, thường ghé nhà TT Cường, nghỉ ngơi, vui chơi, ăn nhậu, ca hát.
Dù mới lớn, tối nào tôi cũng đón nghe chương trình phát thanh Dạ Lan. Ôi những lời tâm tình tha thiết, gởi những người trai đang ngoài trận chiến, mịt mù khói lửa. Những đoản văn mơ mộng giới thiệu những nhạc phẩm “tình ca thời chinh chiến”, kèm theo lời tặng đến các chiến sĩ đủ mọi Quân Binh Chủng, rất nồng ấm yêu thương. Chỉ một lần nghe, là nhớ mãi!
Được dịp gặp phía ngoài, tôi hơi chút ngạc nhiên, vì Chị trông không giống như những bức chân dung, mà đã phát cho các Anh Chiến Sĩ. Giọng nói phía ngoài, không ngọt ngào bằng, như khi nghe qua làn sóng phát thanh.
Khi tôi vào quân ngũ, cho đến ngày mất nước. Thì chưa một lần tôi nghe lại chương trình Dạ Lan cả. Trước nhất tôi không có Radio, thứ hai, trai tráng còn nhiều mục chơi khác sôi nổi hơn nhiều, hơn là ngồi trước cái Radio, thả hồn theo mây gió!
Hôm nay, nghe Chị qua đời, lòng thấy bồi hồi thương tiếc quá, biết Chị trên đất Mỹ này đã lâu, sao tôi đã không kiếm cách liên lạc, hỏi thăm.
Bản tính con người là thế, cứ để đến khi mất, mới thấy tiếc nuối.
Huyền Thoại 2 Dạ Lan, 1 Tiếng nói!
Nhiều người không biết, có 2 Dạ Lan, cùng một “Tiếng nói của những em gái hậu phương!”
Đầu thập niên 1960, ở miền Nam Việt Nam chưa có vô tuyến truyền hình, phải đến năm 1966, mới thành lập đài truyền hình ở Saigon. Thời điểm này, người ta chủ yếu đón chờ thông tin từ 2 đài phát thanh chính, đó là Đài Tiếng Nói Việt Nam và Đài Phát Thanh Quân Đội. Thường là sau bữa cơm chiều, rất nhiều người “ghiền”, nhất là các anh chiến sĩ xa xôi, canh mở Radio, để nghe Dạ Lan “Em gái hậu phương” tâm tình và giới thiệu những bài nhạc mới.
Dạ Lan 1
Dạ Lan là chương trình của Đài Phát Thanh Quân Đội thời kỳ 1964 đến1975. Nhằm an ủi và nâng cao tinh thần binh sĩ, trong đó lấy âm nhạc làm phương tiện chính. Chương trình bắt đầu được phát sóng năm 1964 và xướng ngôn viên là cô gái xưng tên là Dạ Lan. Chương trình phát thanh này được phát mỗi đêm trên làn sóng dành riêng cho quân đội, có công suất rất mạnh, có thể nghe từ Bến Hải, đến Cà Mau, nghĩa là khắp dải đất miền Nam.
Trong hồi ký của nhà văn Văn Quang, kể về quá trình hình thành chương trình Dạ Lan như sau:
“Vào khoảng đầu thập niên 1960, Đại tá Trần Ngọc Huyến là người có sáng kiến tạo ra Chương trình Dạ Lan trên Đài Phát Thanh Quân Đội. Ngay sau khi ra mắt, chương trình này được hầu hết quân nhân yêu thích. Dần dần trở thành chương trình được mến mộ nhất của đài.
Nhưng hơn một năm sau, vì lý do riêng, nữ xướng ngôn viên Xuân Lan xin nghỉ việc, dọn về Đà Lạt. Đài Phát thanh Quân Đội bèn chọn một nữ xướng ngôn viên khác, có giọng nói y hệt Xuân Lan, khiến thính giả không thể phân biệt được, đâu là người mới đâu là người cũ. (Đài cũng cố tình cho người nghe hiểu lầm như thế, nên đã không có một lời đính chính.) Người tiếp tục chương trình Dạ Lan, cũng do một sự tình cờ, lại vẫn có tên thật là Lan, Hồng Phương Lan.
Dạ Lan 2
Hai tiếng Dạ Lan có thể hiểu đó là một loại “hương thơm quyến rũ về đêm.” Cũng có một sự trùng hợp, tên 2 nữ xướng ngôn viên cùng có tên là Lan. Xuân Lan hay Phương Lan, nên có thể hiểu là một tên chung và cũng là tên riêng.
Chị Phương Lan làm việc tại Đài phát thanh Quân Đội cho đến phút của Sài Gòn năm 1975. Như thế, thời gian Chị làm xướng ngôn viên Chương trình Dạ Lan khoảng 6 đến 7 năm.
Chương trình Dạ Lan được phát thanh từ 7 giờ đến 9 giờ tối mỗi ngày, bắt đầu bằng lời giới thiệu ngọt ngào:
“Đây là chương trình Dạ Lan, tiếng nói của những người em gái hậu phương, gửi những anh trai tiền tuyến”
Xướng ngôn viên của chương trình, là giọng nói một cô gái Bắc ngọt ngào. Ngoài những thông tin thời sự, phần hấp dẫn nhất của chương trình, là phần nhạc và phần thư tín.
Nhưng đối với những “anh trai tiền tuyến”, họ chỉ cần nghe được giọng Dạ Lan hàng đêm, nên cô xướng ngôn viên nghiễm nhiên là “linh hồn” của chương trình. Là đại diện của những người em gái hậu phương, hàng đêm nhỏ to tâm tình cùng các anh lính khắp miền đất nước. Trở thành “Người Tình Trong Mộng” của biết bao nhiêu chàng trai thế hệ.
Chương trình không ngờ thành công vượt bậc. Thư từ các chiến sĩ, nhất là từ các vùng đất xa. Thể theo lời yêu cầu, nên Cô Hoàng Xuân Lan được cho phép đi chụp hình in thành (carte postale) ảnh để trong bóp, để gửi tặng anh em chiến sĩ ngưỡng mộ. Bức ảnh được in trên bìa báo Xuân Chiến Sĩ Cộng Hòa năm 1965, do nhà nhiếp ảnh nổi tiếng Nguyễn Kỳ ở Saigon chụp vào thập niên 60.
Một số hình chụp cô Xuân Lan, “em gái hậu phương Dạ Lan” cũng được ấn hành, để gởi tặng đến các chiến sĩ tiền đồn. Nhiều anh còn phóng lớn treo ngoài vọng gác!
Tuy vậy nhân vật số 2 “em gái hậu phương Dạ Lan” thì chưa bao giờ xuất hiện trên truyền hình, báo chí hay sinh hoạt văn nghệ ngoài đời. Mà chỉ duy nhất qua làn sóng điện, vì ngoài đời nhan sắc cô không có gì gọi là “nghiêng nước, nghiêng thành” gì cả.
Nhưng Cô cũng nhận được không ít thư từ tỏ tình với cô, của các “anh trai tiền tuyến” Nhiều anh tiền tuyến đi phép về Sài Gòn, có tìm đến Đài phát thanh Quân Đội, nhưng không bao giờ gặp được Dạ Lan bằng xương bằng thịt.
Dạ Lan 2, Không Phải Là Người Bắc, Mà Là Người Trung, Muôn đời vẫn là … “Người Tình Không Chân Dung!”
Thực ra Hồng Phương Lan (Dạ Lan 2) là người Huế, nhưng lạ, là lại có giọng Bắc chính hiệu. Cô làm ở đài phát thanh quân đội từ những năm 1957 đến 58, trước cả Xuân Lan. Không ai biết mặt và biết tên Dạ Lan cả. Nên tên Dạ Lan có thể là bất cứ người nào. Vì vậy Dạ Lan được xem là người đẹp “huyền thoại”, ai muốn tưởng tượng Dạ Lan là ai, như thế nào cũng được.
Sau 75, thương nhớ đến chương trình Dạ Lan, nhiều người lại thắc mắc về xuất thân của Dạ Lan và số phận của 2 cô ra sao. Nhờ đó, các thính giả sau này mới biết được có 2 cô Lan, và sau đó, người ta đã liên lạc được với cả 2 cô.
Qua sự thăm hỏi của nhiều người, cuối cùng người ta được biết, cô Hoàng Xuân Lan (Dạ Lan 1) hiện đang sống ở Saigon và cô Hồng Phương Lan (Dạ Lan 2) đang định cư tại S.Carolina, và cho đến giờ này, lạ là trong thư từ và cả email giao thiệp cả hai cô, đều ký tên mình là Dạ Lan.
Kết
Dù 2 cô là ai, không quan trọng, nhưng giọng nói êm ái đầy tình thương tình mến Dạ Lan, vẫn sống mãi trong tim, hàng triệu những người Trai, một thời khoác bộ Quân Phục, cầm súng gìn giữ Quê Hương Miền Nam tự do, no ấm trên 20 năm. Dù cuộc chiến đã qua gần nửa thế Kỷ, giọng nói “cô em gái hậu phương” ngọt ngào có tên Dạ Lan vẫn thổn thức mãi trong tim những người Lính VNCH!
Kiếp người, rồi cuối cùng, cũng phải chia tay! “Những người muôn năm cũ, hồn…ở đâu bây giờ!”
(LVHải tổng hợp, như một nén hương, dâng người đã khuất!)
-
TRANG TƯỞNG NIỆM – VĂN SĨ VĂN QUANG – Lê Văn Hải & THƠ Đưa Tiễn – Của Phương Hoa
THÀNH KÍNH TIỄN ĐƯA VĂN SĨ
VĂN QUANG
*
VĂN QUANG từ giã bút nghiên rồi
Mất một nhân tài thương tiếc ôi!
“Trời Tím” đẫm buồn, mây quyện gió
Tầng xanh nghẹn tiếc, lệ pha lời
“Tơ Lòng” đà dứt, tâm an lạc
“Cuồng Vọng” không còn, ý thảnh thơi
Kính tiễn thăng thiêng miền Cực Lạc
Người đi tác phẩm mãi lưu đời.
*
Phương Hoa – MAR 16th 2022
Hôm Nay: Nhà Văn Văn Quang Vừa Tử Giã Chúng Ta!
Lại Thêm Một Vị Sao Trên Bầu Trời Văn Nghệ Miền Nam Vừa Vụt Tắt!
Nhà Văn Văn Quang Vừa Từ Giã Chúng Ta!
Lê Văn Hải
Tin Buồn Tháng 3!
Tin từ một thân hữu cho hay, Nhà văn Văn Quang, đã qua đời lúc 10 giờ 20 phút, ngày hôm nay! Thứ Ba, 15 tháng 3 năm 2022, tại tư gia, đường Nguyễn Thiện Thuật, thành phố Sài Gòn, Hưởng thọ 90 tuổi.
Tuy Nhà văn Văn Quang ở Sài Gòn từ sau ngày mất nước, nhưng những bài viết của Ông, xuất hiện thường xuyên trên khắp các báo chí Hải ngoại, từ cuối thập niên 90, cho tới khoảng năm 2017. Cuối cùng với bài viết, giã từ bạn đọc, sau bài này, Ông “gác bút” vì không còn sức mang “nắng mưa Sài Gòn” đến với “những người muôn năm cũ!”
Ông được coi như “tai mắt” tường trình mọi biến chuyển, thay đổi về thành phố thương yêu, của một thời “Sài Gòn, đẹp lắm, Sài Gòn ơi!” trước 75.
Ông là nhà văn duy nhất ở trong nước, mà lại có tình thân thiết nhất với rất nhiều người đọc tiếng Việt bên kia vòng trái đất.
Sự ra đi của Ông, làm biết bao người thương nhớ, nuối tiếc! một Nhà văn thân yêu của Miền Nam.
Nhà Văn Văn Quang Và Tôi
Trước 75, tôi chỉ là người Lính, với cấp bậc vào hàng “củ lũ nhí” nhất, thì làm sao có cơ hội quen biết đến hàng sĩ quan cấp tá, lại mang chức Giám Đốc Đài Phát Thanh Quân Đội như Ông.
Nhưng tôi đã đọc rất nhiều tác phẩm của Ông, văn ông nhẹ nhàng, trong sáng, đầy tính nhân bản. Mang nỗi u uẩn, đau thương người dân, người trai, khi đất nước trong thời chinh chiến.
Khi tác phẩm Chân Trời Tím dựng thành phim, do Đạo diễn Quốc Phong và Liên Ảnh sản xuất. Tôi đã là những người đầu tiên, đứng xếp hàng trước rạp Văn Hoa Dakao để chờ xem. Thổn thức với Hùng Cường, Kim Vui của mối tình trong cuộc chiến. Lòng quặn thắt với Nhạc phẩm Nửa Hồn Thương Đau, sáng tác của Trần Thiện Thanh, dành riêng cho phim này, qua tiếng hát vút cao của Thái Thanh.
Sau Tháng Tư Đen tan tác,
Khoảng cuối thập niên 90, lúc đó tôi đã giữ một tờ tuần báo, một cây viết của tờ báo, cũng là nhân viên tòa soạn, bút hiệu “Điền Tuấn” Cũng là người bạn thân thiết với Nhà văn Văn Quang, đã đưa ra một đề nghị với tôi:
-“Có một nhóm văn nghệ sĩ ở Sài Gòn, vừa mới từ cải tạo về, muốn viết bài cho tờ báo mình, để có chút tiền cà phê, cà pháo, anh em có cơ hội gặp mặt cho vui”
Tôi đồng ý ngay, chỉ thắc mắc:
-“Nhưng trả tiền nhuận bút bằng cách nào? Có ảnh hưởng gì đến người trong nước không?”
-“Dừng lo, chúng tôi có đường dây!”
Từ đó, tờ báo tôi, xuất hiện rất nhiều bài báo, từ những cây viết trong nước, nhưng nhiều nhất, vẫn là những bài của Nhà văn Văn Quang!
Thời gian này, người Việt Hải ngoại, mang thân phận của một kẻ lưu đầy, chưa bang giao, nên nghĩ vĩnh viễn không có đường về quê hương! Những bài viết kể chuyện nắng mưa Sài Gòn, nơi chôn bao nỗi nhớ, là những bài “ăn khách” nhất của tờ báo.
Khi Nhà văn Tô Ngọc qua Mỹ, Ông đến tòa soạn ngay ngày hôm sau, thông báo với tôi: “Anh em gởi lời cám ơn, “bịch thuốc bổ,” gởi về mỗi tháng, để Anh em mới có cơ hội gặp nhau vui lắm, chưa kể giúp được những trường hợp khó nghèo!”
Tôi rất vui mừng, không ngờ chuyện nhỏ, mà có kết quả quá vui, thật to lớn như thế! Từ đó, tôi có cơ hội thăm hỏi Ông qua thư từ.
Sau này, mừng cho Nhà văn Văn Quang, vì đã cộng tác với rất nhiều tờ báo của Hải ngoại. Có vẻ từ đó, đời sống Ông cũng dễ thở hơn chăng.
Vài Dòng Tiểu Sử”
Nhà văn Văn Quang tên thật là Nguyễn Quang Tuyến, sinh năm 1932 tại Thái Bình.
Năm 1953, ông gia nhập Quân Đội Quốc Gia, phục vụ trong nhiều đơn vị tác chiến tại miền Bắc trước hiệp định Geneve năm 1954.
Từ năm 1957, Văn Quang chuyển sang ngành Tâm lý chiến, với nhiệm vụ Trưởng phòng Báo chí Quân Đội thuộc Cục Tâm lý chiến, Tổng cục Chiến tranh Chính trị QLVNCH. Cũng là Trưởng ban biên tập của các tờ báo Quân Đội VNCH.
Tác phẩm đầu tay của Văn Quang là “Tiếng Tơ Lòng” được đăng trên nhật báo Thanh Dân, Hà Nội. Cuối năm 1953, tác phẩm thứ nhì ra đời, là tập truyện ngắn Thùy Dương Trang, do Lạc Việt xuất bản tại Sài Gòn năm 1957.
Từ đó cho đến 30 Tháng Tư 1975, Văn Quang cộng tác thường xuyên với rất nhiều nhật báo, tuần báo, tạp chí tại Sài Gòn.
Văn Quang có hơn 28 tác phẩm được xuất bản. Các tác phẩm của ông hầu hết là truyện dài, trong số có những tác phẩm, gây được nhiều tiếng vang như: “Nét Môi Cuồng Vọng”, “Nguyệt Áo Đỏ”, “Người yêu Của Lính” Ông đã có bốn tác phẩm được chuyển thành phim: “Ngàn Năm Mây Bay”, “Chân Trời Tím”, “Đời Chưa Trang Điểm”, “Tiếng Hát Học Trò”.
Sau 75, Ông trải qua 13 năm rưỡi đi tù cải tạo. Khi ra tù, Văn Quang trở về Sài Gòn, sau đó từ chối ra đi theo diện HO, quyết định tiếp tục ở lại Việt Nam, Nhà văn duy nhất cộng tác với rất nhiều báo chí Việt ngữ tại hải ngoại.
Trong bài chia tay với độc giả, với tâm tình thật cảm động: “Hơn 60 năm cầm bút, tôi không có gì đáng tự hào, bởi chỉ như người Lính khi ra trận, không biết mình đã bắn được bao nhiêu viên đạn! Tất cả chỉ vì ba lời thề “TỔ QUỐC – DANH DỰ- TRÁCH NHIỆM!”
Thương tiếc Nhà Văn thân thương vừa rời bỏ chúng ta, xin mời cùng thưởng thức một bài Tạp Ghi của Ông, như nén hương tưởng nhớ, để “nhắm mắt cho tôi tìm!” thấy… Ông!
CÁI MUỖNG
Văn Quang
I.
Tôi không nhớ rõ năm đó là năm thứ mấy chúng tôi “học tập cải tạo”, chỉ biết rằng đã có những người “quen” với những ngày tháng cực khổ, dài lê thê trong những căn nhà giam được “xây dựng” bằng đủ thứ kiểu giữa những vùng rừng núi âm u. Ở Sơn La thì “trại” được làm trên những nhà tù từ thời xa xưa, chỉ còn lại những cái nền nhà lỗ chỗ, người ta dựng vách đất trộn rơm, mái lợp bằng các kiểu lá rừng, miễn sao che kín được khung trời.
Nơi này xưa kia, Pháp dùng để giam giữ tù chính trị, rồi một thời gian sau, VN giam những người tù Thái Lan và trong chiến tranh đã có khi người ta dùng làm “công binh xưởng” chế tạo lựu đạn. Vì thế nên thỉnh thoảng chúng tôi nhặt được một cái vỏ lựu đạn ở đâu đó quanh khu vực này. Ở Vĩnh Phú thì nhà tranh vách đất, ngoại trừ một khu người ta gọi là khu “biệt kích” gồm vài căn nhà “xây dựng kiên cố” bằng gạch lợp tôn xi măng. Chúng tôi “được học tập cải tạo” trong dãy nhà này. Cũng nghe người ta nói lại
là khu này trước kia dùng để giam giữ những người lính biệt kích đã từng nhảy dù ra Bắc rồi bị bắt giam ở những khu đặc biệt đó. Muốn vào khu này phải qua hai lần cổng có tường gạch bao quanh. Nhưng có lẽ khi giam giữ biệt kích thì khác, còn khi chúng tôi “được giam” ở đây có vẻ như “cởi mở” hơn vì những cánh cổng thường không đóng bao giờ. Họ để cho chúng tôi đi lao động hàng ngày cho khỏi phải mở ra mở vào.
Cuộc sống dù cực khổ đến đâu, sống mãi rồi người ta cũng phải quen. Nhịp sống hàng ngày cứ thế trôi đi dù là trong đói rét, thiếu thốn và trong những cấm đoán vô cùng khe khắt. Nhà tù nào chẳng thế, nó có những quy luật và quy định riêng. Những ngày đầu người ta cấm luôn cả trà, cà phê, thậm chí cấm cả đeo kính cận. Nhưng sau này nới dần, những thứ như thế không bị cấm nữa. Chỉ còn những thứ đã thành “luật” thì luôn bị cấm và cấm ở bất cứ đâu. Cấm “mua bán đổi chác linh tinh”, cấm dùng thức ăn lâu ngày bằng bột, cấm tỏi và cấm tất cả những dụng cụ sinh hoạt bằng sắt như dao, kéo, muỗng nĩa… Tuy vậy có anh tù nào lại ngây thơ ngoan ngoãn đến nỗi tuân theo hoàn toàn những quy định ấy. Mua bán đổi chác linh tinh vẫn cứ diễn ra, dao kéo vẫn cứ được lén lút xử dụng hàng ngày nhưng đó là những thứ đã được “cải biên” thành dao kéo mini nhỏ nhắn cho dễ cất giấu. Nó là những vật dụng cần thiết cho đời sống hàng ngày, dù có bị bắt thì cũng chỉ bị tịch thu chứ không đến nỗi bị cùm một hoặc hai chân –tùy theo tội– đưa vào “thiên lao” tức là thứ phòng giam đặc biệt trong trại tù.
II.
Ngày qua ngày, cái “không khí êm ả” của trại giam trở nên phẳng lặng nhưng dĩ nhiên là không thể nào nói rằng đó là thứ “an tâm, hồ hởi phấn khởi” mà bất kỳ anh “trại viên” nào cũng cứ phải viết khi phải làm những “bản kiểm điểm”, mặc dù kể cả người viết và người đọc đều chẳng ai tin.
Nhưng cái không khí ấy đôi khi bỗng nhiên bị xáo trộn. Vào một buổi sáng tinh mơ, khi chúng tôi đang ngồi ở cái sân đất giữa trại, chuẩn bị gọi tên từng đội đi lao động để “một ngày lại vinh quang như mọi ngày” thì bỗng đâu toán lính gác trại tù sồng sộc chạy vào. Họ chạy rầm rập như ra trận, súng ống chĩa về phía “quân thù”, mặt mũi “khẩn trương” rõ rệt. Họ sộc thẳng vào phòng giam trống hốc cứ làm như có địch ẩn nấp đâu trong đó.
Chúng tôi ngẩn ngơ đứng nhìn, không hiểu họ giở trò gì. Có những khuôn mặt lo lắng, một nỗi lo bâng quơ. Chuyển trại hay có một ai đó trốn trại? Chưa biết. Toán lính lục tung hết mọi thứ đồ đạc ít ỏi mà mỗi người tù có được trong gói hành trang của riêng mình. Sau đó chừng nửa giờ, một vài gói đồ bị tịch thu được vác lên “phòng thi đua”. Lúc đó thì chúng tôi mới hiểu rằng đó chỉ là một kiểu khám phòng để tìm ra những thứ đồ “quốc cấm” của trại đã quy định.
Thật ra, đó cũng là cái cung cách mà ở những “trại cải tạo” thường dùng để khuấy động cái không khí trầm lặng dễ phát sinh ra những “tiêu cực”. Bởi trong cái sự yên bình của một trại giam, người tù có thể liên kết với nhau làm một chuyện gì đó như tổ chức trốn trại hoặc có thể có những vụ xúi giục “tuyệt thực”, bàn bạc chống đối… Và nếu nói đến sự chống đối thì có hàng trăm thứ để có thể chống đối được. Thí dụ sự ăn đói, sự đối xử bất công, sự oan ức vô lý, sự trù dập của một vài anh “quản giáo”, sự hỗn hào của mấy anh lính võ trang. Chuyện gì cũng có thể chống đối được. Vì thế thỉnh thoảng họ phải làm cho cái không khí đó mất hẳn cái vẻ trầm lặng để chứng tỏ lúc nào họ cũng đề phòng, lúc nào họ cũng “đề cao cảnh giác”, lúc nào họ cũng sẵn sàng đối phó với mọi “mưu đồ”.
Các anh tù đừng có tưởng bở, chẳng bao giờ yên đâu. Cứ sau mỗi lần như thế, chắc chắn thế nào họ chẳng vớ được một anh nào đó giấu những thứ vớ vẩn như dao kéo, thư từ, sách vở tiếng nước ngoài, tiền bạc, đồ dùng ngoài quy định. Tất nhiên sẽ có những cuộc “kiểm điểm, phê bình” mà chúng tôi gọi là những “buổi tối ngồi đồng” để từ đó hy vọng lòi ra một vài cái “tội”. Đội nào khôn ngoan thì cứ ngồi im, ai “phê” thì cứ mặc, còn cãi là còn “ngồi đồng”. Đi làm suốt một ngày mệt mỏi đến thở không ra, tối về còn ngồi đồng, còn “phê bình” còn “kiểm thảo” thì chịu sao nổi. Nay “làm chưa xong” thì mai lại ngồi tiếp, ngồi cho đến khi nào tìm ra tội mới thôi. Tội nặng, tội nhẹ tùy theo tình hình của từng thời điểm.
Thời điểm “căng” thì vào nhà kỷ luật đặc biệt nằm “treo một chân”, thời điểm nhẹ nhàng thì cảnh cáo, ghi tội vào biên bản. Và họ sẽ có những biện pháp an toàn như chuyển đổi năm bẩy anh từ đội này sang đội khác để phòng tránh những chuyện thông đồng, những tổ chức, những phe nhóm có thể gây nguy hại đến an ninh của trại tù.
Chung quy đó chỉ là một cách đào xới tung cái tinh thần “tưởng rằng yên ổn” của mấy anh “trại viên” còn tỏ ra cứng đầu, còn có mưu toan lôi kéo người này người kia vào trong phe mình để từ đó có những yêu sách hoặc toan tính bất lợi cho trại tù. Quả là mỗi lần như thế trại tù cũng rối tung lên và làm cho những anh yếu bóng vía thường phải sống dựa vào tinh thần bè bạn càng thêm rụt rè, chẳng biết tin vào ai được nữa. Nhưng riết rồi trò gì cũng thành quen và đối với một số người “chẳng có gì để mất” thì họ trơ như đá, muốn làm gì thì làm, chỉ có cái thân tù đói này thôi, sống cũng được mà chết cũng chẳng sao.
Có lẽ tôi cũng đã học tập được cái tinh thần ấy của những anh bạn trẻ, bởi tôi cũng chẳng có gì để mất. Vợ con nhà cửa đều đã mất tất cả rồi, chẳng có gì phải lo. Đôi khi tôi sống tưng tưng, ông anh rể ở Sàigòn gửi cho cái gì thì nhận cái nấy. Và một sự thật không thể quên là nếu không có ông anh rể tốt bụng đó thì tôi cũng đã trở thành một thứ “caritas” như một số anh em ở trong trại tù rồi. Tức là những người chẳng có ai thăm nuôi.
Những bà vợ đau khổ với những gia đình đói rách lầm than, họ lo cho chính họ còn không xong thì lấy gì đi “thăm nuôi” người ở trong tù mà lại tù ở tuốt tận miền Bắc xa tít mù tắp. Thậm chí có người còn vui mừng khi thấy vợ mình bước đi bước nữa với một anh nào đó đưa các con ra được nước ngoài. Tôi nói thế để chứng minh rằng không nên trách cứ bất kỳ một ai trong hoàn cảnh cay nghiệt này. Theo tôi thì những anh “mồ côi” không ai thăm nuôi trong trại tù mới chính là những anh hưởng trọn vẹn được cái “thú đau thương”.
III.
Trở lại chuyện buổi sáng tinh mơ, khi toán lính chạy sồng sộc vào trại. Đó là một buổi sáng cuối mùa đông, trước Tết âm lịch chừng vài ngày. Đây cũng là biện pháp an ninh thông thường của các trại tù trước những ngày lễ tết lớn. Tôi thảnh thơi theo đội đi làm ở ngoài đồng. Tôi vẫn cứ yên trí rằng chẳng có gì để mất, chẳng có gì quan trọng.
Vào mùa đông cái thứ quan trọng nhất chỉ là rau. Mùa này thiếu rau đến… khô quắt cả dạ dày, rau muống bầu bí không trồng được, chỉ còn rau cải và trồng cải thì lâu ăn và năng suất không cao, cho nên có được tí rau là hạnh phúc nhất. Tôi ngồi lê la trước mấy luống su hào, đó là thứ “thực phẩm cao cấp” nhất trong khu vườn rau của toàn đội. Những củ su hào bắt đầu to hơn nắm tay nằm tròn trĩnh dưới những tàu lá xanh mượt mà, tôi trông coi chúng vì cái công sức tôi bỏ ra hơn một tháng trời. Tôi coi chúng cũng như một tác phẩm nào đó mà tôi đã từng viết ra, ở đây không có gì để coi như tác phẩm thì coi nó là tác phẩm vậy, để có cái mà thú vị và để có cái mà quên đi những thứ quanh mình.
Cứ như thế tôi tha hồ đặt tên từng luống su hào, có khi là một cái tên nghe có vẻ “lả lướt” như tôi đã gặp ở phòng trà tiệm khiêu vũ, có khi là một cái tên rất dung tục. Âu cũng là một trò “nghịch ngầm” giữa vùng rừng núi âm u, hầu như không có mặt trời mùa đông này. Nhưng tôi biết rằng trò chơi của tôi sẽ phải chấm dứt trong một hai ngày nữa. Bởi Tết đã đến, dù 12 luống su hào còn non chưa đến ngày “thu hoạch” nhưng cần thức ăn trong ba ngày Tết nên họ sẽ nhổ. Nếu tù không ăn thì cai tù ăn, chứ không đời nào họ chịu để đến mùa xuân. Nhưng vui chơi được giờ nào hay giờ ấy trong cuộc sống phù du này.
Buổi trưa về đến trại, trong khi bạn bè xung quanh đang xôn xao, kẻ bị tịch thu cái này, người bị mất cái kia thì tôi vẫn nhởn nhơ vì tôi chẳng có gì để mất. Tôi xách tô đi lấy cơm, gọi là phần cơm, nhưng thật ra chỉ có đúng một bát bo bo tương đối khá đầy đặn. Tôi ăn thì tạm lưng lửng, nhưng những người bạn tôi thì không bao giờ đủ. Họ thường nói “Vừa ăn xong mà vẫn cứ tưởng như mình chưa ăn”. Cái đói cứ lửng lơ mãi ngày này qua ngày khác, thế mới là khó chịu. Có những ông bạn tôi ăn theo cái kiểu câu dầm, tức là lấy cái muỗng tre nhỏ xíu, hoặc một cái gì đó lớn hơn cái đầu đũa, múc từng muỗng ăn rả rích suốt ngày để có cảm tưởng lúc nào cũng được ăn, nó làm lu mờ cái cảm giác đói, đó là cách tự đánh lừa mình.
Tôi cũng “ăn dè hà tiện” nhưng tôi ăn bằng muỗng. Cái muỗng rất đặc biệt bằng inox hẳn hoi, có chạm trổ tinh vi và luôn được chùi rửa sáng bóng. Nhưng sáng nay, được chia hai củ khoai lang ăn sáng nên tôi để cái muỗng ở nhà. Tôi thường cất nó vào trong chiếc lon Guigoz – một loại vỏ hộp sữa được chế biến thành đồ dùng rất thông dụng và nhiều lợi ích của hầu hết những anh tù, nó có thể dùng “trăm công ngàn việc” từ đựng các loại thức ăn, thức uống đến đun nấu, câu móc, đựng mắm muối, chứa đồ để dành, tắm rửa đánh răng, rửa mặt. Nhưng hôm nay thì cái muỗng biến mất, tất nhiên là nó đã bị tịch thu trong buổi khám xét trại sáng nay.
Đây là thứ “gia bảo” tôi đã cất giấu nó suốt mấy năm nay chưa hề lơi lỏng. Nó luôn nằm sát bên tôi, lúc đi lao động cũng như khi nằm ngủ. Có thể ví như cái nạng của một anh què, cái gậy của ông lão chín mươi, một thứ đã thành thói quen bám vào cuộc sống.
Sau một buổi trưa mưu toan tính kế, chiều hôm đó tôi quyết định đến gặp Dực, anh chàng trưởng ban thi đua của trại. Dực cũng chỉ là một “trại viên”, nhưng trước đây anh ta là cán bộ, “thoái hóa tiêu cực” sao đó nên bị đi tù. Những anh cán bộ và quân nhân trong trại tù thường được gọi là “phạm binh phạm cán” tức là tội phạm thuộc binh sĩ hoặc cán bộ cũ. Họ có một chế độ đãi ngộ riêng và thường được dùng vào trong các công việc cần đến sự tin cậy của giám thị.
Bữa khai lý lịch, thấy tôi khai là dân huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, Dực liền hỏi quê quán và nhận là người cùng quê. Một lần Dực dẫn chúng tôi đi lấy quần áo ngoài trại chính, qua khoảng đồi núi quanh co, anh ta chỉ tay lên mảng cây cối thưa thớt, nói với tôi rằng “cậu huyện Nhụ nằm ở đó”.
Tôi hỏi anh có họ hàng thế nào với ông Huyện Nhụ, anh ta nói là cháu gọi ông Nhụ bằng cậu, nhưng gia đình cụ Nhụ vào Nam còn gia đình anh vốn là nông dân nên ở lại miền Bắc.
Cụ Nguyễn Mạnh Nhụ trước năm 75 làm chánh án ở tòa án Sài Gòn và tôi nghe nói là cũng có họ hàng với gia đình tôi, nhưng là họ xa. Cụ làm tri huyện từ khi còn rất trẻ. Sau này tôi có gặp cụ vài lần. Tôi kể cho Dực nghe đôi ba chuyện về cuộc sống của cụ huyện Nhụ khi còn ở Sài Gòn. Sau này đi “cải tạo” cụ mất ở trại này. Dực nói là trước khi cụ chết, cụ chỉ thèm được ăn một cái bánh dò. Dực nhắn người nhà ở Thái Bình khi đi thăm nuôi thì ghé qua Hà Nội mua lên vài cái, nhưng khi bánh dò mang lên thì cụ mất rồi.
Từ đó, đối với tôi, Dực có phần dễ chịu hơn. Nhưng dĩ nhiên cái khoảng cách giữa một bên là “ngụy” một bên là “cán” thì khó mà san lấp được…
Nhưng hôm nay thì tôi cần đến hắn. Suốt buổi trưa tôi không gặp được Dực. Cho đến hai hôm sau, khi trại đã xôn xao chuẩn bị cho những ngày Tết tôi mới gặp được Dực. Trong khi đó tôi dò hỏi mấy tay làm văn hóa xem những thứ bị tịch thu còn để trong phòng thi đua không. Họ nói còn để trong kho lẫn lộn với những thứ đồ dùng khác. Tôi mang cho Dực một ít thuốc đau dạ dày của ông anh tôi gửi vào. Rất may cho tôi là hắn cũng bị đau dạ dày. Mà cái thứ thuốc trị bệnh dạ dày ở miền Bắc hồi đó chỉ là tí mật ong trộn với nghệ nên không công hiệu. Tôi có thứ thuốc “cao cấp” hơn là Maalox, uống vào là cơn đau dịu xuống ngay. Thuốc Mỹ đàng hoàng, người ta ghét Mỹ nhưng thuốc của nó tốt thì cứ thích, có sao đâu.
Tôi gạ chuyện để xin lại cái muỗng. Dực trợn mắt:
– “Anh làm cái gì mà cần cái muỗng đến thế? Bây giờ để trong kho, chui vào đấy mà trực trại nó biết thì tôi vào nhà đá.”
Tôi nằn nì:
– “Đấy là đồ gia bảo của tôi đấy. Anh biết không, tôi mất nhiều thứ lắm, một cái bằng lái xe ba dấu, một cuốn tự điển.Nhưng tôi không cần, chỉ cần cái muỗng thôi.”
Dực nhìn tôi nghi ngại:
– “Hay là mày giấu tiền trong đó?”
Dực hơn tôi hai tuổi nên hắn có gọi tôi bằng mày tôi cũng không tự ái, mà dù hắn có kém tôi vài ba tuổi mà lúc đó gọi tôi bằng mày tôi cũng cho qua luôn.
– “Cái muỗng đặc và nhỏ như thế làm sao giấu tiền được?”
Dực nửa đùa nửa thật:
– “Bọn mày thì lắm trò lắm, cái gì chúng mày chẳng làm được. Chưa biết chừng mày giấu cả cái máy quay phim trong đó cũng nên. Tao nghe nói mày có sách làm phim phải không?”
– “Đúng, nhưng là tôi viết truyện rồi người ta lấy làm phim chứ tôi biết cái cóc khô gì.”
– “Vậy sao mày chỉ đòi lấy cái muỗng, mày mua chuộc tao bằng hai vỉ thuốc đau dạ dầy, không bõ. Khéo không chết cả đám. Tao không chơi.”
Tôi thất bại, nhưng vẫn không chịu bỏ cuộc. Chiều hôm đó, Dực lại được lệnh phải làm một cái phòng đọc sách vào dịp Tết. Tôi đang loay hoay dán mấy cành hoa đào lên tấm phông trên hội trường thì Dực kéo tôi xuống. Nó bảo tôi đi khuân sách trên thư viện về hội trường, kê bàn ghế, trang trí thành khu đọc sách báo trong ba ngày Tết cho ra vẻ “có văn hóa”. Nhưng nếu coi thư viện thì không được ăn tết ở phòng mà phải ngồi trực ở hội trường. Tôi nhận lời ngay dù biết rằng sẽ mất cái thú dự những ngày Tết với anh em trong phòng và mất cái thú ngồi đánh mạt chược bằng những con bài gỗ do chúng tôi tự làm lấy.
Thế là tôi lại có dịp lân la nói chuyện với Dực về cái muỗng của tôi. Dực vẫn nghi ngờ rằng tôi có cái gì giấu trong đó. Tôi đành kể cho Dực nghe:
– “Buổi sáng hôm tôi phải đi “học tập cải tạo”, vợ tôi chuẩn bị một số đồ dùng hàng ngày đưa vào túi xách. Đứa con gái của tôi, khi đó mới hơn ba tuổi, thấy mẹ nó bỏ vào túi xách nào là quần áo, khăn mặt, thuốc men… nó đang ăn sáng, cũng bỏ vào xách tay của tôi cái muỗng nó đang ăn và dặn: “con cho bố mượn, khi nào bố về, phải trả lại cho con đấy”.
Tôi ôm con gái gật đầu hứa khi về bố sẽ trả. Nhưng quả thật tôi vẫn nghĩ chẳng bao giờ tôi trả lại được cho nó. Lần chia tay này có thể là vĩnh viễn… Chúng tôi ngậm ngùi chia tay, không thể hẹn được ngày về vì có biết ngày nào về đâu mà hẹn!
Thế là từ đó, cái muỗng theo tôi suốt trong những bữa ăn, suốt trong những giấc ngủ. Hình ảnh con gái và gia đình tôi hiện lên qua cái muỗng đó. Tôi vẫn đánh lừa tôi rằng tôi đang được ăn bên con gái, bên những người thân. Dù tôi biết rất rõ sự lừa dối ấy là một niềm ước vọng không bao giờ thành hiện thực, nhưng vậy mà đôi lúc tôi cũng thấy ấm lòng.
Nghe câu chuyện ấy, Dực tỏ ra chần chừ, nhưng hắn vỗ vai tôi:
– “Thôi được, nếu đã là như thế thì tôi giúp cậu. Tối nay, khi ngồi coi phòng đọc sách, tôi sẽ giữ phần bánh chưng lại cho cậu, tôi sẽ gọi cậu xuống phòng thi đua cho cậu ngồi ăn ở đó, trong khi tôi gọi ban thi đua lên phòng hội thì tôi giả vờ để quên chìa khóa kho. Cậu mở cửa vào lấy, có gì thì cậu chịu trách nhiệm. Nó mà vớ được thì ‘kỷ luật’ suốt cái Tết này đấy, chưa biết chừng suốt mùa xuân.”
Chẳng còn cách nào khác, tôi đành làm theo cách “ăn trộm” này. Tối đó tôi mở khóa mò vào gian nhà kho. Ánh điện từ nhà ngoài hắt vào, vừa đủ soi sáng cái đống hầm bà làng đủ thứ đồ dùng lặt vặt vừa bị thu mấy hôm trước. Tôi sục ngay vào cái đống linh tinh đó, quả là những anh bạn tù của tôi có lắm trò chơi thật.
Thôi thì đủ thứ, cái điếu cày được làm bằng những ống hỏa châu hoặc những cáng băng ca được cắt ngắn, chạm trổ rồng phượng, khắc gọt rất tinh vi. Những cái trâm cài đầu, những cái lược cho con gái hay cho người yêu, làm bằng nhôm được khắc những cái tên “Hồng Hoa, Bích Phượng, Thúy Hường…” nghe nao cả lòng. Những con dao nhỏ xíu, những cái muỗng gò bằng tôn cũng có hoa lá cành xinh xắn. Tất cả những cái gì bằng sắt đều nằm gọn ở đó.
Sách vở tiếng Anh tiếng Pháp và đủ thứ giấy tờ lộn xộn. Cái mà tôi kiếm được trước tiên lại là cái bằng lái xe của tôi. Tôi không dại gì mà không đút vào túi, dù chẳng biết để làm gì. Tôi lại hì hục lục tiếp, vừa hồi hộp vừa phải thật nhanh tay, tôi đâm ra lính quýnh. Dù chỉ một tiếng động nhỏ cũng khiến tôi giật mình. Cái muỗng của tôi vẫn chưa tìm thấy. Ruột nóng như lửa đốt, tôi bới tung hết cả cái đống ấy và đâm hốt hoảng nếu cái muỗng không còn ở đó nữa. Nhưng may quá, cái muỗng kia rồi, nó nằm dưới cuốn sách dày cộm của “thằng chết tiệt” nào đó. Nó chỉ thò ra có mỗi cái đuôi, tôi cũng nhận ra nó ngay. Lúc đó tôi có cảm tưởng như “con có ở xa hàng cây số thì bố cũng cứ nhận ra con như thường”.
Tôi vồ lấy nó như sợ bị người ta giật mất. Tôi nhìn cái hoa văn chạy dọc theo cán muỗng mà tôi đã quá thân thuộc như chính cái nét mặt con gái tôi khi nó “nhí nhảnh” đưa cái muỗng vào trong túi xách. Nó vẫn cứ tưởng là một chuyện vui, bố đi chơi rồi mai bố về. Ừ thì vui. Tôi cười trong nụ cười mếu máo của mẹ nó và trong nụ cười hồn nhiên của nó. Không hiểu sao trong lúc gay cấn như thế mà hình ảnh xưa lại hiện lên rất nhanh như một ánh chớp. Tôi vọt ra khỏi phòng khóa cửa lại, biến nhanh vào bóng tối trên con đường về “khu biệt kích”. Thoát nạn! Cái Tết ấy tôi lại được vui chơi với cái muỗng của tôi, dù tôi đã phải hy sinh suốt ba ngày, trong khi mọi người được nghỉ ngơi thì tôi cứ phải quanh quẩn trong cái “phòng đọc sách” chẳng có ma nào thèm ngó đến ấy.
Những dịp nghỉ ngơi như thế cũng hiếm hoi như chuyện được ăn một bữa cơm đúng là cơm chứ không phải khoai sắn hay bo bo. Nhưng quả là tôi thấy hạnh phúc dù ngồi thui thủi một mình. Tôi có cái muỗng rồi, còn cần gì vui chơi nữa. Đó chính là mùa xuân của tôi.
Nhưng không phải đó là một lần duy nhất tôi phải “cứu lấy” cái vật gia bảo của mình. Hai lần sau cũng tương tự, cũng bị tịch thu rồi cứu lại được cứ như sắp ra pháp trường rồi lại được cứu. Chỉ tiếc rằng người cứu tôi không phải là người bạn đồng minh đã từng chiến đấu với các đồng ngũ của tôi trong những năm qua, người đồng minh đó đã “gan dạ” cuốn cờ chạy nhanh và chạy xa quá rồi. Thôi thì tôi tự cứu lấy cái muỗng của tôi vậy.
Một lần khác, tôi lội qua con suối sau cơn mưa lớn. Chỗ chúng tôi làm phải đi qua một con suối, gọi là suối lạnh. Bình thường nó cạn, dòng nước trong vắt dịu dàng trôi lờ lững trên những tảng đá xanh. Chúng tôi thường dùng nơi này làm bến tắm. Nhưng cứ có một cơn mưa lớn là nước từ những triền đồi vây quanh bốn hướng ào ạt đổ xuống, chỉ cần nửa giờ sau là con suối trở nên hung hãn, nước chảy cuồn cuộn và mang theo những cành cây, những khúc gỗ lao băng băng. Chúng tôi phải gấp rút lội qua con suối trở về trước khi con suối trở thành hung dữ. Sang gần tới bờ bên kia, tôi loạng chọang làm đổ cái túi đồ đựng những thứ lặt vặt trong đó có cái muỗng. Ở đây tôi thuộc từng khe đá nên tôi không ngần ngại nhoài người xuống mò. Anh bạn nhảy dù, la lên:
– “Bộ ông điên sao?”
Tôi điên thật, hy vọng mình mò được. Nhưng nước chảy xiết quá tôi lại thua. Anh bạn nhảy dù trẻ, què một tay vì bị thương ngoài chiến trường, rất hiểu tôi nên anh đi xa hơn một chút và khom người xuống, thò một tay ra cái khe hòn đá là tìm được lại cho tôi được cái muỗng. Đôi mắt anh rất tinh, anh mỉm cười:
– “Tôi biết ông mất cái gì rồi.”
IV.
Chuyện trớ trêu là hơn 12 năm sau, tôi đã trở về, nhưng chưa trả lại cái muỗng cho con tôi được vì mẹ con nó đã vượt biên, định cư ở nước ngoài. Hơn hai mươi năm, tôi chưa hề gặp lại con gái tôi. Tính đến năm nay là 27 năm, con gái tôi đã 30 tuổi. Ngày 29 tháng 9-2002 vừa qua, cháu đã lập gia đình ở Miami Florida.
Nhận được thiệp báo tin, tôi không biết mình vui hay buồn. Hình như không phải là vui hay buồn mà là một thứ cảm giác kỳ lạ cứ lơ lơ lửng lửng lẫn lộn. Chú thím nó và các anh chị nó ở Mỹ đều hẹn nhau đi dự đám cưới. Tôi thì không, chẳng hẹn hò được điều gì cả và chẳng làm được cái gì cả. Tôi có cảm giác như mình thừa. Rất may là trước ngày đám cưới, cô chú nó về Sàigòn, chính tay tôi gửi được tấm thiệp mừng con gái. Tôi gửi theo cái muỗng trả lại cho con gái tôi như lời hứa 27 năm về trước. Vật đó có thể thay cho sự có mặt của tôi không? Tôi không biết. Nhưng tôi chỉ nghĩ rằng gửi cho cháu để cháu hiểu rằng lúc nào tôi cũng coi như cháu còn nhỏ lắm, như mới hôm qua hai bố con còn ở bên nhau. Tôi đi chơi đâu đó và hôm nay trở về. Nhưng cháu đã đi xa và tôi còn ở lại Sàigòn, nơi nó đã sinh ra. Cháu sẽ nghĩ gì, tôi không biết.
Nhưng vài hôm sau thì có một điều tôi biết rất rõ là từ khi cái muỗng được gửi đi, tôi cảm thấy trống trải như mất mát một cái gì, xa vắng một cái gì thân thiết hàng ngày ở bên mình. Tôi cho rằng nó cũng giống như cái cảm giác của những ông bố bà mẹ khi cho con gái mình đi lấy chồng xa. Nỗi buồn lâng lâng bay chập chờn khắp nơi. Nhưng đó chính là sợi dây vô hình nối liền mãi mãi tình thương yêu dù ở bất kỳ nơi nào trên hành tinh này. Cuối cùng người ta chỉ còn lại cái tình. Cái tình ấy dù gửi đi tới đâu cũng vẫn còn lại, đôi khi lại mạnh mẽ và sâu sắc hơn, chỉ khi nào người ta tự đánh mất nó thì nó mới mất mãi mãi. Tôi chắc chẳng ai dại gì làm mất cái thứ báu vật đó trên đời không gì có thể so sánh được.
Lẽ ra chuyện này tôi đã viết ngay từ tháng 9/2002 nhân dịp cháu lập gia đình. Nhưng tôi ngồi mãi trước computer, không gõ được chữ nào, đầu óc lung tung. Dường như khi cảm xúc quá đầy, người ta không thể làm gì được ngoài việc cứ để cho nó tuôn trào lênh láng như ngồi dưới cơn mưa. Không nghĩ ngợi gì cả, không làm gì cả, cứ ngửa mặt lên cho mưa đầy mặt, thế thôi! Đúng là chuyện của người thì nhanh mà chuyện của mình thì nghẹn. Mãi đến hôm nay tôi mới ghi lại được những dòng chữ này, nhưng tôi cho rằng chẳng bao giờ muộn vì nó là thứ chuyện của cả một đời hay là của muôn đời.
Văn Quang
-
TRANG TƯỞNG NIỆM: LS Cựu CỐ VẤN VTLV GIUSE NGUYỄN VĂN THÀNH
Đã thực hiện như ý Nhà Tang yêu cầu.
Đăng 2 trang, trên Tuần Báo Thằng Mõ số này. (Cáo Phó và Phân Ưu)
Riêng Hải sẽ thông báo tin buồn này, đến Quý Bạn Bè Thân Hữu của Luật Sư Nguyễn Thành tại San José.
Trong thập niên 80, 90, rất nhiều người quen biết Ông.
Đã đến giờ, Anh Em chúng mình đang nhận được Tin Buồn liên tiếp, hiếm lắm mới có Tin Vui!
Ai cũng có vé trong túi, chỉ chờ tầu tiến vào sân ga, bước lên…là đi!…luôn!
LÊ VĂN HẢI
-
Vài Nét Về Nhiếp Ảnh Gia Lê Đức Tế Vừa Bay Xa! – Lê Văn Hải
Vài Nét Về Nhiếp Ảnh Gia Lê Đức Tế Vừa Bay Xa! – Lê Văn Hải
Vài Nét Về Nhiếp Ảnh Gia Lê Đức Tế Vừa Bay Xa!
Nhiều người công nhận, Ông là một trong những Nhiếp Ảnh Gia, có những hình chụp đẹp nhất Việt Nam!
Khó kiếm có ai có thể so sánh. Ông đã đoạt được rất nhiều bằng khen, từ các hội ảnh quốc tế. Trước 75, Ông là công chức của Bộ Y Tế Xã Hội. Định cư tại Hoa kỳ, từ năm 1991. Rất thân thiết với VTLV. Có sinh hoạt gì, hay tặng hình để bán đấu giá gây quỹ. Hội trưởng Hội Nhiếp Ảnh Trúc Viên, San José.<!>
Cầm máy ảnh lão luyện, đầy kinh nghiệm, lâu đời trước 75.
Thành viên trong các hội ảnh nổi tiếng thế giới như: PSA, VNPS, RPS, FIAP…
Ông sinh năm 1938, tại Bình Khê, Bình Định. Qua đời ngày 18 tháng 2 năm 2022. Hưởng Thọ 83 Tuổi. Pháp danh Vạn Thường.
Sự ra đi của Ông, là một mất mát lớn của bộ môn nghệ thuật Nhiếp Ảnh, khá mới mẻ, so với những bộ môn nghệ thuật khác, của VN.
Vô Cùng Thương Tiếc!
LVHải
(Sau đây là một vài tác phẩm nhiếp ảnh của Ông)THƠ ĐỀ ẢNH – MINH THÚY:
Cảm Ảnh Đề Thơ
Dáng lụa khung chiều nắng nhẹ tơ
Nương đồi bóng núi tạo nguồn thơ
Hoàng hôn phủ xuống trâu vừa kéo
Bóng mẹ gánh triêng gióng nẻo mờ
Áo tím thu về nón lá cheBa cô duyên dáng bước chung kề
Thướt tha tà áo bay trong gió
Họ nói điều gì …chớp ảnh mê
Đẹp đóa hoa Sen nở nhuỵ vàngXanh hồ lá bọc nét đài trang
Cánh hồng tinh khiết màu thanh nhã
Niềm tục vừa buông ngắm nhẹ nhàng
Nghệ sĩ ruổi rong khắp nẻo đườngRung đầy cảm giác bóng quê hương
Cao nguyên thiếu nữ ôm gùi lá
Đôi hạc cánh chào thật dễ thương
Nhiếp ảnh tầm thu nhặt hạ ghiềnHồn lơ lửng đắm cảnh thiên nhiên
Lạc tàn ánh mắt say thi ảnh
Nghệ thuật ghi tràn phút tịnh yên
Tác phẩm đam mê tặng lại đờiNgười về các bụi được nhàn thơi
Vườn xuân lối mộng lưu niềm thỏa
Nhiếp Ảnh Gia Lê Đức Tế rời
Minh Thuý Thành Nội -Tháng 3/2/2022
Kính cầu nguyện hương linh nhiếp ảnh gia Lê Đức Tế sớm được siêu sanh tịnh độ .
-
TIN BUỒN: Tác Giả Tuyển Tập “Như Một Lời Chia Tay!” Nhà Văn Huy Phương Vừa Tạ Thế – Phân Ưu: LÊN VĂN HẢI – PHƯƠNG HOA – NGUYỄN HUY KHÔI – LIÊU XUYÊN – MINH THÚY – CAO MỴ NHÂN
THƠ HỌA Bài “THÀNH KÍNH TIỄN ĐƯA NHÀ VĂN HUY PHƯƠNG” Của Phương Hoa từ quý “Đường thi sĩ”:
LINH THI
Phụng bái hương hồn Nhà văn Huy Phương!
Xa rồi,… mà nghĩa chẳng hề xa
Bóng hạc ảo mờ nhẹ cánh sa!...
Lòng nặng ưu tư hồn Tổ Quốc
Dạ vương trắc ẩn đất Quê Nhà.
Thi ngôn thưởng…ngát hương huê diệu
Văn bút soi…ngời ánh nguyệt ngà…
Cốt cách đậm hồn trang,…hữu xạ
Ly từ!…lệ ngọc ấm sân ga!
27-20-2022
Nguyễn Huy Khôi
TIỄN HUY PHƯƠNG
Lòng buồn nghe bạn đã rời xa,
Lìa chốn văn chương giọt lệ sa.
Viết lách bao năm đành bỏ sách,
Dãi dẫu thân thế biệt quê nhà.
Tha hương đời phải lìa quân ngũ,
Đất khách lời nêu mộng ngọc ngà.
Đáng tiếc non sông còn thống khổ…
Huy Phương kìa hỡi… cuối sân ga!
Liêu Xuyên
THƯƠNG TIẾC NHÀ VĂN
Tin buồn nghệ sĩ đã rời xa
Ngưỡng mộ bao người lặng lệ sa
Nắng đẹp mùa Xuân sao bỏ sách
Hoa xinh lá nụ lại buông nhà
Mầm chương thả nghĩa lời châu báu
Điệu phú vung tay ý ngọc ngà
Quý mến Huy Phương cầu tịnh độ
Văn Đàn Lạc Việt tiễn sân ga
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 2/26/2022
DÒNG THƠ TIỄN BIỆT
Xin Thay Lời kính điếu Nhà Văn HUY PHƯƠNG.
Chia tay từ buổi lưu vong xa
Chốn bụi hồng xưa đổ lệ sa
Tình lính văn phong thường nổi sóng
Hồn quê thơ loạn vẫn thương nhà
Tạp ghi đầy ắp sầu tay trắng
Điểm báo tràn thêm mỏi bút ngà
Lạc Việt đệ huynh chào chiến hữu
Đau buồn bái biệt cuối sân ga …
Utah 27 – 2 – 2022
CAO MỴ NHÂN
Kỷ Niệm Một Tấm Hình
Biết ông bệnh đã lâu, nhưng khi nghe tin ông mất lòng thấy bồi hồi tiếc nuối một nhà văn, một nhân tài đã ra đi. Lục tấm hình năm nào ông lên San Jose ra mắt sách 2 tập “ Nước Non Ngàn Dặm “ và Quê Hương Khuất Bóng“, ông xã tôi nhìn tựa đề đã bị lôi cuốn liền, ông cũng có thì giờ nói chuyện về quê hương với chồng tôi , và tôi đã chớp tấm hình lưu niệm.
Hôm đó có chị Kim Thư ngâm bài thơ cũng như hát bài nhạc của ông, ngoài ra có ca sĩ Ngọc Lan là học trò cũ của ông phụ diễn phần văn nghệ.
Những bài viết ngắn của ông tôi thường đọc từ các diễn đàn văn thơ chuyển vòng, rất thích những bài ông viết tả những ngôi Chùa ngày xưa nơi quê nhà. Văn của ông để lại đời, còn ông đã ra đi giữa mùa Xuân đầy nắng ấm. Đôi dòng từ biệt. Cuộc gặp gỡ nay chỉ còn là kỷ niệm.
Thành kính chia buồn cùng tang quyến. Nguyện cầu hương hồn ông sớm về cõi tịnh độ.
Minh Thuý Thành Nội
Tiễn Biệt Nhà Văn Huy Phương
Tiễn Biệt ông nằm mộ nghỉ ngơi“Nước non ngàn dặm“ khóc tình đời
Văn chương suối chảy dài hàm tích
Tác phẩm lời bay rộng tuyệt vời
Cách trở sông nguồn mơ trọn vẹn
Xa lìa lá cội mộng đầy vơi
“Quê hương khuất bóng“ hoài say tưởng
Mãn kiếp mong cầu ngủ thảnh thơi
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 2/26/2022
Tác Giả Tuyển Tập “Như Một Lời Chia Tay!” Nhà Văn Huy Phương, Đã Thực Sự Nói Lời Vĩnh Biệt Với Tất Cả Chúng Ta!
*Nhà văn Huy Phương, cây viết có sức sáng tác bền bỉ, tên tuổi nổi nang, được biết nhất tại Hải ngoại.
*Giờ chia tay!
Nhà văn Huy Phương, tên thật là Lê Nghiêm Kính, pháp danh Thiện Bảo. Sinh năm 1937, tại Huế. Vừa qua đời lúc 4 giờ chiều Thứ Sáu, (ngày hôm qua) 25 Tháng 2, năm 2022. Hưởng thọ 86 tuổi. Tại nhà riêng ở thành phố Anaheim, Nam California.
Bà Phan Thị Điệp, hiền thê của nhà văn vừa mất, đã xác nhận và xin gởi lời thông báo đến với tất cả Quý đồng nghiệp, bạn bè, người thân xa gần.
*Hơn 2 năm trời chiến đấu với bịnh ung thư thực quản!
Một người bạn vừa thăm ông, vào những ngày gần cuối đời nhận xét: Vẫn với mái tóc rậm đặc, bạc trắng phau phau, nhà văn Huy Phương lộ nét cực kỳ yếu sức thấy rõ, vì sau gần hai năm ròng rã, chống chọi với căn bệnh ung thư thực quản quái ác. Người gầy khô, còn da bọc xương, mệt mỏi. Nhưng ở ông vẫn toát ra một thái độ an nhiên tự tại, sẵn sàng đón nhận tất cả, bình thản, kể cả cái chết!
Ông tâm sự: “Hồi Tháng Tám, 2020, một hôm đang ăn, tôi bị nghẹn cổ và khó chịu trong người, rồi bỗng dưng ói mửa thốc tháo thực phẩm ra ngoài. Đi soi bao tử, không thấy gì hết. Mừng lắm! Không ngờ sau đó, thì người ta phát giác ra là, tôi bị ung thư thực quản thời kỳ cuối!”
Từ cuối Tháng Ba, năm 2021, bịnh viện chê! không có thuốc chữa! Ông được chuyển sang quy chế “hospice tại gia” Ông đã rời bệnh viện, về tĩnh dưỡng cuối đời tại nhà, của người con gái út ở Anaheim.
*Những lời trăn trối cuối cùng
-Hỏi ông có điều gì trăn trối? Ông không trả lời, mà vói tay lấy tập thơ “Chúc Thư Của Một Người Lính Chết Già” của chính mình. Lật ra bài “Chúc Thư,” chỉ vào đoạn:
“Khi tôi chết ván hòm xin đậy nắp
Có vui chi nhìn người lính chết già
Hổ thẹn đã không tròn ơn nước
Tiễn tôi chi, thêm phí một vòng hoa!
Hãy quên tôi, người lính già lưu lạc!”
-Hỏi, có ước vọng gì sau khi chết? Ông tâm sự, còn có một trăn trở cho thế hệ tương lai, nghĩ mãi mà chưa làm được gì.
Điều ông muốn dặn dò là, thế hệ trẻ gốc Việt, là phải cố giữ gìn ngôn ngữ Việt. “Phải bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Đây là nhiệm vụ của người lớn chúng ta, những người Việt hải ngoại. Vì tiếng Việt trong nước, đã trở thành một ‘cái gì’ què cụt, rất dị hợm, đọc là muốn ói rồi!” Ông xác định: “Mất tiếng Việt là mất văn hóa Việt.” Không chú ý công tác văn hóa, văn học này, chỉ vài chục năm nữa, cả người trong nước, lẫn Hải ngoại, đều ngơ ngác hỏi “Việt Nam tôi đâu?”
*Niềm vui lớn nhất trong đời?
-Hỏi Ông có niềm vui nào lớn trong đời? Ông nói: “Trong lúc làm chương trình ‘Huynh Đệ Chi Binh,’ tình cờ tôi liên lạc được những người, có thông tin chính xác về hai ngôi mộ tập thể, có chôn xác rất nhiều Cựu quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại Việt Nam. Một tại ở Bình Dương, Sài Gòn và một ở Thuận An, Huế. Nhờ đó, tôi giúp được khá nhiều gia đình, để vợ tìm được chồng, để mẹ tìm được con, bà tìm được cháu. Họ viết thư cám ơn tôi tưng bừng! …khói lửa! Không ngờ đó là một hạnh phúc lớn nhất, đối với đời của tôi.”
*Chút tiểu sử Nhà Văn Huy Phương
Trước 75
Nhà văn Huy Phương, tên thật là Nguyễn Huy Phương, sinh ngày 4.10.1927. Quê gốc ở xã Nghi Lộc, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
Sinh trưởng trong một gia đình nho học đỗ đạt, Huy Phương được theo học từ nhỏ và đã học hết toàn ban tú tài (cũ trước 72)
Ông bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng ít lâu, trong phong trào Tổng khởi nghĩa ở Huế (1945).
Tốt nghiệp Khóa 16 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức và Khóa Sĩ Quan Thông Tin Báo Chí tại Hoa Kỳ.
Biên tập viên báo chí đài Phát Thanh Quân Đội. Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến và Chỉnh Huấn, Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
Ngòi viết Huy Phương là cây viết rất sớm. Năm 15 tuổi (1952), ông đã có thơ và tuỳ bút đăng trên Tuần Báo Ðời Mới tại Sàigòn, do Chủ Nhiệm là Ông Trần Văn Ân chủ trương.
Ra Hải ngoại
Ông qua đến Mỹ, từ năm 1990. Sau 7 năm tù cải tạo.
Đã cộng tác với báo Người Việt, Hệ Thống Saigon Nhỏ và Báo Trẻ, Thời Báo (Canada). Đài Phát thanh Việt Nam (Oklahoma) và Đài truyền hình SBTN tại Hoa Kỳ. Thằng Mõ (San Jose)
Ông sở trường, mà mọi người đọc quen thuộc với Ông, với thể loại tạp ghi. Viết về sinh hoạt, đời sống và tâm tình của người Việt trên đất Mỹ. Nhận xét sâu sắc, văn không bóng bẩy, nhưng rất hấp dẫn, chen chút dí dỏm.
Tác Phẩm:
– Mắt Đêm Dài (thơ) năm 1960
– Mây Trắng Đồn Xa (truyện) năm 1966
– Chúc Thư Của Một Người Lính Chết Già (thơ)
– Nước Mỹ Lạnh Lùng
– Đi Lấy Chồng Xa
– Ấm Lạnh Quê Người
– Hạnh Phúc Xót Xa
– Sóng Vỗ Bèo Trôi
– Nước Non Nghìn Dặm
– Quê Hương Khuất Bóng
– Quê Nhà – Quê Người
– Tuyển Tập 80 Huy Phương – Ga Cuối Đường Tàu
– Tuyển Tập Huy Phương “Như Một Lời Chia Tay”.
*Rất nhiều người không biết, Ông còn là một thi sĩ!
Huy Phương ngoài tài viết, còn làm Thơ! Thơ Ông mang nỗi niềm bâng khuâng mang mác, thao thức, trăn trở. Qua Thơ của Huy Phương, người đọc bỗng thấy trái tim mình còn sống! chưa chết! đang đập! Vì còn thấy tình cảm ấm áp nào đó, vẫn len lén chen vào trong tim.
Xin mời thưởng thức 2 bài thơ của Ông:
Dạ Thưa Thầy Thầy Còn Nhớ Em Không?
Quê Hương xưa từ những ngày chinh chiến
Thầy trò ta vội từ giã ngôi trường
Thầy từ đây đã rời xa bục giảng
Trò làm thân chiến sĩ của mười phương!
Rồi Thầy Trò cùng chung màu áo trận
Đời chiến binh ai ngỡ buổi tương phùng!
Từ thế nghiêm trò dơ tay chào kính:
“Dạ thưa Thầy, Thầy còn nhớ em không?”.
Gặp vận nước buổi rã rời tan nát
Thân tù đày nơi nước đục rừng thiêng
Bó nứa nặng trên đường qua suối cạn
“Dạ thưa Thầy, Thầy còn nhớ em không?”
Giờ lận đận ở quê người phiêu bạt
Tóc bạc phơ ngày tháng nặng lưng còng
Buổi hội ngộ nghe muốn trào nước mắt
“Dạ thưa Thầy còn nhớ em không?”
Sau đây một bài thơ “đặc trưng” Huế của Huy Phương, ai đọc mà không cảm động, ai đọc mà không nao nao trong lòng! Hướng về Quê Hương có Sông Hương Núi Ngự, đong đầy nước mắt.
Nhớ Huế
Mùa này nước Hương Giang có mặn
Muối đại dương có thấm vào sông?
Từ ngày anh đoạn tình bỏ Huế
Nguồn xa đã lạc mấy trăm dòng!
Mùa này Huế còn mưa tầm tã
Thương quê xưa vẫn nỗi đói nghèo
Anh ở nơi này vùng nắng ấm
Vẫn nhớ hoài đời Mẹ gieo neo.
Mùa này quê có còn bão lụt
Chén cơm em còn độn sắn khoai?
Trên tiệc rượu người con xa xứ
Men nồng nào lẫn nước mắt cay.
Mùa này Huế có còn phượng đỏ
Tiếng ve nào gọi nỗi buồn xa
Nơi này cả một trời hoa tím
Nhớ em xưa tiếng guốc học trò.
Mùa này Huế có còn áo trắng
Em hiện thân làm bướm tan trường
Thương ngày tháng một thời niên thiếu
Huế bây giờ – Huế đã mù sương!
Huế của tôi giờ đâu còn nữa
Cảnh vô hồn khuất nẻo người xưa
Hồn cổ tích Hoàng Thành hoang phế
Tiếng chim khuya gọi bóng trăng mờ…
Lời kết
Hầu như ai cũng đều công nhận, Huy Phương thuộc những cây bút nổi trội, có giá nhất hải ngoại. Được như thế, vì Ông có tâm huyết với nghề viết. Thêm đức tính cần mẫn, tận tụy, nghiêm túc, đầy trách nhiệm. Đặc biệt là luôn cố gắng tìm tòi để tự vượt lên chính mình, trong hoàn cảnh mới, tự đổi mới học hỏi, để có thể hòa nhập và đóng góp lớn cho nền văn học hải ngoại nói riêng và dân tộc Việt nói chung.
Ông được người đọc và đồng bào quý mến, qua hình ảnh một nhà văn, nhà báo, một chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã từng ở tù, dù bên thua trận chiến, mà vẫn hiên ngang, không làm mất danh dự của người Lính VNCH.
Ông mất đi, là một mất mát lớn đối với giới Văn Nghệ Sĩ, Truyền Thông, Báo Chí và Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại. Một cây bút nhiều thiện chí xây dựng, có trái tim thương yêu Việt Nam, hầu như không biết đả phá.
Người như Ông làm sao chết được! Hình bóng Ông, lời văn Ông, vẫn còn sống mãi trong các tác phẩm để lại, chưa kể trong tim với những người yêu mến, một nhân cách rất đáng ngưỡng mộ. Trong đó từ lâu đã… có tôi!
Anh Phương ơi, “Anh, Anh không chết đâu Anh!”
LVHải (tổng hợp)
TÂM TÌNH TIỄN ĐƯA NHÀ VĂN HUY PHƯƠNG CỦA THI SĨ HOÀNG MAI NHẤT, VTLV:
Nghe tin nhà Văn, nhà Báo Huy Phương vừa tạ thế, Hoàng Mai Nhất thật sự bất ngờ vì cứ nghi rằng sẽ có một dịp thuận lợi nào đó qua Nam Cali sẽ đến thăm anh. Thế mà…không ngờ:
NHỚ ANH
“Thôi thế từ nay anh đã đi
Để lại trong tôi nỗi bùi ngùi
Thương nhớ chỉ còn trên trang giấy
Đọc lại như thấy anh còn đây…”
Hoàng Mai Nhất
Tôi biết nhà Văn, nhà Báo Huy Phương cũng do một duyên may tình cờ. Số là thế này, vào một buổi chiều Chủ Nhật, 5/4/2009; nhà Văn, nhà Báo Huy Phương qua TP Seattle, TB WA để ra mắt tác phẩm “NHÌN XUỐNG CUỘC ĐỜI” của ông (nếu tôi nhớ không lầm thì do nhà thơ nữ Trần Mộng Tú và Thân Hữu tổ chức).
Tôi vội vàng đến tham dự. Khách đến dự khá dông, đặc biệt trong số này có một nhóm Nữ ôm những bó hoa; thì ra đó là những học tò ngày xưa của ông, mang hoa đến để kính tặng vị Thầy ngày xưa của mình (Bây giờ làm sao tìm lại được những hình ảnh đẹp trân quý như thế này khi “Đất Nước” mất vào tay bạo quyền csVN).
Khi ông lên nói đôi lời về những gì gởi gấm trong tác phẩm này. Tôi một tên cắc ké, chập chửng làm thơ với tính cách bất đắc dĩ; đã bồi hồi rung động viết vài câu thơ múa rìu qua mắt thợ, lại còn cả gan lên đọc tặng ông ngay lúc đó và đã in trong Thi tập đầu tay “CHÚT ĐỜI CÒN LẠI TRONG THƠ” của tôi ̣(ra mắt ngày 25/7/2021 ở TP Seattle, TB.WA).
* Viết tặng nhà Văn, nhà Báo Huy Phương tại buổi ra mắt sách “NHÌN XUỐNG CUỘC ĐỜI” ở TP. Seattle, TB. WA vào chiều Chủ Nhật 5/4/2009.
NHÌN XUỐNG CUỘC ĐỜI
Hoa nắng xôn xao chiều Chủ Nhật
Đồng hương, chiến hữu tụ về đây
Gặp gỡ Huy Phương…” đời nhìn xuống” *
Để lòng ấm lại mỗi mùa Đông
Xứ người trời lạnh _ mưa giăng mắc
Hoài bão một thời vẫn nặng mang
Quê hương còn dẫu trong tăm tối
Dân Chủ _ Tự Do sắp đến rồi
Cuộc đời nhìn xuống Huy Phương nhỉ
Nụ cười lại nở trên môi tươi
Hoàng Mai Nhất
* “đời nhìn xuống”: tên tác phẩm Tạp Ghi của tác giả Huy Phương, vừa mới ra mắt ở Seattle, WA.
Tất cả những điều viết nêu trên, thật sự không là gì hết, cái chính ở đây là sự ngưỡng mộ, kính phục mà tôi cần học hỏi nơi ông: “một nhân cách lớn, đầy đạo đức, không xem thường khinh dễ ai hết ”, cho dù đó là một Hậu Sinh không tiếng tăm, không hề quen biết.
Cho nên: khi về Cali rồi, ông vẫn gọi phone qua cảm ơn bài thơ tôi đã làm tặng ông lúc đó và xin lỗi vì bận quá nên không nói gì với tôi được hết.
Bây giờ nghe tin ông mất, lòng buồn vô hạn; biết nói gì hơn ngoài viết đôi dòng giải bày niềm tiếc thương, tưởng nhớ đến ông như một nén hương lòng kính tiễn đưa ông, cầu chúc Niên Trưởng Huy Phương Thiện Bảo mau sớm về cỏi Niết Bàn.
Hoàng Mai Nhất THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
(Viết tại TP. Seattle, TB Washington ngày 27/2/2022)
KÍNH TIỄN BIỆT
(nhà Văn, nhà Báo Huy Phương)
Kính tiễn đưa,
một vị thầy đáng kính trọng
một nhà Báo, một nhà Văn
một đàng anh, một Niên Trưởng
dâng mãnh đời trọn tấm lòng
dùng ngòi bút khơi mầm sống
khuyên tuổi trẻ chớ quên nguồn
cùng giữ gìn ngôn ngữ Việt:
Dẫu rằng Sóng Vỗ Bèo Trôi *
Trải thân Ấm Lạnh Quê Người
Ra đi Nước Non Nghìn Dặm
Sống cảnh Quê Nhà – Quê Người
Để rồi Hạnh Phúc Xót Xa
Khi mà Quê Hương Khuất Bóng
Giống như Đi Lấy Chồng Xa
Ở nơi Nước Mỹ Lạnh Lùng
Đành thôi dõi Mắt Đêm Dài
Gởi về Mây Trắng Đồn Xa
Lá Chúc Thư Của Một Người Lính Chết Già
Cười vui Cuộc Đời Nhìn Xuống
Đi hết Ga Cuối Đường Tàu
Tựa Như Một Lời Chia Tay
của một người viết “Tạp Ghi”
nơi xứ người để lại
cho cháu con mai này
giữ gìn Văn Hóa Việt.
Hoàng Mai Nhất
(Viết tại TP. Seattle, TB Washington ngày 27/2/2022)
*Những câu chữ in đậm là tên các tác phẩm của nhà Văn, nhà Báo Huy Phương đã sáng tác và xuất bản.
Được tin Thầy rời cõi tạm, tôi thật sự xúc động, cho dù biết “ngày ấy“ thế nào rồi cũng đến. Tôi không có dịp tiếp xúc nhiều với Thầy. Cho dù những buổi ra mắt sách của Thầy ở San Jose, tôi đều tham dự đầy đủ với vai trò một ca sĩ . Tôi hát những bài về quê hương và những bài nhạc phổ thơ của Thầy do nhạc sĩ Đào Nguyên biên soạn.
Tôi biết Thầy bằng trái tim ngưỡng mộ một Nhà Văn, một tên tuổi nồi tiếng. Một ngòi bút “tạp ghi” gần gũi, thân thương…
Thầy biết tôi dưới cái nhìn của một ca sĩ bình thường.
Thế nhưng vào một hôm, qua sự giới thiệu của một Huynh Trưởng gia đình Phật Tử, tôi đã được hân hạnh gặp Thầy. Duyên lành đang đến với tôi khi tôi chuẩn bị giới thiệu một cuốn sách có tựa là Dòng Chảy. Và Dòng Chảy đã biến tôi -một ca sĩ bình thường- thành một con người khác thường. Một Nhà Văn dưới mắt Thầy “… Tôn Nữ Áo Tím là một người kể chuyện tỉ tê, chừng mực, với văn phong trong sáng, cẩn trọng. Tác giả đi sát với tâm lý của nhân vật cùng giới tính, đã đưa chúng ta cùng với nhân vật đi khắp ba miền đất nước..” [Nguyên Phương]. Xin cám ơn Thầy.
Được tin Thầy bị ung thư, tôi bất ngờ và rất tiếc. Tôi liên lạc với các bạn trong nhóm Quốc Học Đồng Khánh, ns Đào Nguyên (cháu) để kiếm chứng thông tin. Tôi tâm nguyện nhứt định phải đến thăm Thầy một lần cuối. Thế rồi tôi đã được như ý.
Vẫn mái tóc trắng dày, đầy sức sống. Nhưng Thầy đã rất yếu trong bộ pyjama màu nâu lạt. Chiếc gậy trong tay, Thầy bước ra cẩn thận, chậm chạp. Ánh mắt vẫn sáng suốt. Thầy vẫn nhớ tôi. Thầy không nói chuyện được nhiều, chỉ Cô Điệp là vợ Thầy, giúp khi chúng tôi hỏi thăm về tình hình sức khỏe của Thầy. Tôi vốn ít nói, nhưng bỗng nhiên hôm đó tôi nói rất nhiều. Tôi muốn gợi nhớ cho Thầy về những lần lên San Jose giới thiệu sách. Thầy chỉ gật đầu không nói. Thầy mệt! Vâng, tôi thật xót xa khi nhìn Thầy đang chuẩn bị rời chuyến tàu chót của trạm ga cuối cùng. Thầy ơi!
Cho dù chưa một lần học với Thầy, nhưng tôi rất trân trọng con người ấy- một nhà văn-một nhà thơ- được nhiều người thương mến. Những lần giới thiệu sách ở San Jose- Bắc Cali, tôi chưa bao giờ bỏ qua. Lần giới thiệu tác phẩm “Ga Cuối Đường Tàu”, tôi man mác một nỗi buồn giấu kín. “Huy Phương ơi, xin ông đừng vội xuống tàu”, kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa đã thốt lên như thế. Nhưng cuộc đời có cho phép ai rong ruổi mãi đâu. Có chuyến tàu nào không đến sân ga cuối cùng. Con tàu đưa Thầy đang kéo còi chuẩn bị vào ga. Thầy đang sống với những khoảnh khắc đối diện với bờ vực tử-sinh. Thầy ơi! Một câu nói mọi người ai cũng biết “Khi ta sinh ra, mọi người cười, ta khóc. Khi ta ra đi, mọi người khóc, ta cười “. Vâng, mọi người sẽ nhỏ những giọt nước mắt thắp sáng một tên tuổi HUY PHƯƠNG-Lê Nghiêm Kính
… “Khi tôi chết, ván hòm xin đậy nắp/ Có vui chi nhìn người lính chết già/ Hổ thẹn đã không tròn ơn nước/ Tiễn tôi chi, thêm phí một vòng hoa…..” [Chúc Thư-Huy Phương]
Bên cạnh cuộc đời của Thầy không thể thiếu một bóng hồng rất đẹp. Cô Phan Điệp. Một người vợ thật tươi vui, nhã nhặn. Cô gọi Thầy là Anh Bính. Cô nói: “Khi viết văn, anh là Huy Phương. Trong khai sinh tên là Nghiêm Kính. Còn với Điệp, anh là anh Bính….” Rất dễ thương
Bây giờ Thầy đã yên nghỉ. Thầy đã thật sự rời chúng ta. Một nén nhang, xin được góp lời cầu nguyện hương linh Thầy sớm về cõi Phật.
Vĩnh biệt Thầy, Huy Phương-Lê Nghiêm KinhTÔI BIẾT THẾ NÀO ANH CŨNG VỀ … (Phan Nhật Nam)
Tôi biết thế nào anh cũng về…
Lần Huy Phương đi chuyến tàu cuối một mình..
25 Tháng 2, 2022
Tôi biết thế nào anh cũng về (1)
Không bây chừ thì dăm bữa nữa
Cuộc đoạn trường nầy mấy ai lần lỡ
Ga cuối đường tàu không phải chờ lâu (2)
Bước chậm rãi, dạng hình thấp thoáng
Nắng chiều hôm đỗ bóng xuống sân ga
Khô gió chướng thổi xòa tóc rối
Lạnh lùng thấm hiểu một-mình-ta
Hiểu lẻ tử/sinh- Hiểu kỳ còn/mất
Một lần “mất nước” tưởng nằm mơ
Đêm chợt thức.. áo tù đầm ươn ướt
Hóa ra ta bật khóc tự bao giờ?!
Sáng sớm điểm danh, tù xuất trại
Nhìn quẩn quanh chẳng biết ai với ai?
Người bạn kia nghe quen tiếng nói
Đói lạ lùng sạm mặt, tái màu da!
Chiều về nhìn bóng núi săm sắp
Hỏi rằng sống được đến ngày mai?
Đêm nằm nhóp nhép môi khô nhạt
Tưởng miếng cơm, nhớ bữa ngọt ngào
Cố gõ lấy đầu như gỏ cửa (3)
Mà sao cửa đóng chặt then gài
Nhìn xuống giếng chợt thấy.. Ôi kinh hãi
Trắng phau phau bợt nhạt mái tóc mai
Mười năm khổ thân tù xa xứ
Trở về phố cũ nhìn không ra
Thơ Hạ Tri Chương hóa không đủ
Đi về đâu? Nào “đồng bào ta”?
Nhà cũ không còn. Cửa đóng chặt
Hỏi, thưa không một tiếng trả lời
Muốn ngữa mặt kêu với trời khẩn cấp
Có hay không.. Một phận, nghiệp cho người?
Vợ rày rạn tả tơi vùng kinh tế mới
Con đâu rồi.. Thân gởi chốn biển khơi
Ôi bé bỏng một thời cha bế ẵm
Trôi về đâu lớp lớp sóng gào đau
Cắn chặt răng, cố nhập thân xứ lạ
Chắc nắm tay, lại khởi cuộc từ đầu
Chiều tan sở, tuổi gìà, xe đời cũ
Giữa giòng người nêm chặt.. Exit về đâu?
Anh cố viết như đã từng gắng sống
Viết những gì.. Và gắng sống..
Vì sao?
Đất Mỹ – Không khứng cho “Người Thất Trận” (4)
Quê nhà nào – Chỉ Hạnh Phúc Xót Xa! (5)
Vẽ hộ anh em một Chân Dung ngơ ngác (6)
Viết giùm chiến binh Bản Di Chúc đắng cay (7)
Còn được bao nhiêu Người Muôn Năm Cũ (8)
Đủ hơi tàn về họp mặt Tháng Tư? (9)
Thôi nhé Huy Phương..
Dẫu sao cũng còn một nơi mong trở lại
Ngôi trường xưa đầm thấm vọng Lời Thầy
Lớp học lắng im, bóng cây bàng mát rượi
Bên giòng Sông Đá rạn giọt Mồ Hôi (10)
Nơi trường ấy, Thầy dạy Người Tử Tế
Hãy Yêu Thương – Hãy Chân Thật trăm bề
Nên tôi biết…
Thế nào Anh cũng về chốn ấy,
Trên chuyến tàu cuối cuộc nhớ Thầy Lê!
Ghi chú:
#(1;3;4;5;6;7;8;9): Những đầu sách và bài viết của Huy Phương
#(3): Thơ Tô Thùy Yên
#(10): Sông Thạch Hãn; Trường Nguyễn Hoàng, Quảng Trị – Nơi Huy Phương/Thầy Lê Nghiêm Kính dạy lớp học đầu đời trước khi nhập ngũ Khóa 16 Thủ Đức, 1964
Nhớ Ngày 25 Tháng 2, 2022
Cùng Ngày Mạ mất, Bà Phương Dung, (1922- 25 Tháng 2, 1961)
Phan Nhật Nam
-
**Cập Nhật Lần 8: TRANG TƯỞNG NIỆM & THÀNH KÍNH PHÂN ƯU: Văn Thi Sĩ DƯƠNG HUỆ ANH, Cố Vấn Của VTLV & Thành Viên Văn Bút VNHN & Văn Bút Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, Vừa Tạ Thế.
Tôi xin mạn phép thay mặt Ban Truyền Thông Văn Thơ Lạc Việt. Thực hiện Cáo Phó Văn Thi Sĩ Dương Huệ Anh. Để kính thông báo cùng quý vị.
Một chút lòng thành kính dâng lên tiền bối Văn Thi Sĩ Dương Huệ Anh. Cúi xin Trời Phật đón nhận hương linh cụ ông Dương Huê Anh Sớm yên nghỉ trên cõi Niết Bàn.
Thành Kính Phân Ưu
Lê Tuấn
Lời Mời tham dự:
Chiều Tụng Kinh Cầu Siêu Cho Thi Sĩ Tiền Bối Dương Huệ Anh, Sáng Lập Và Cố Vấn Văn Thơ Lạc Việt.
Tại Chùa An Lạc, Lúc 6 Giờ 30 Chiều, Thứ Sáu Tuần Này! Ngày 25 Tháng 2 Năm 2022.
Thưa Quý Niên Trưởng và Quý Anh Chị Em,
Ngày 17 tháng 2/2022 vừa qua, VTLV của chúng ta mất đi một người “Anh Cả” thương yêu, dễ mến, cũng là Vị Sáng Lập và Cố Vấn của Hội.
Đó là Văn Thi Sĩ Dương Huệ Anh. Tên thật là Phạm Ngọc Tường. Mất tại san Jose. Hưởng đại thọ 97 tuổi.
“Nghĩa tử là nghĩa tận” Trong niềm tri ân tưởng nhớ. Hải đã mạo muội thay mặt VTLV, đứng ra xin Sư Bà một Buổi Tụng Kinh Cầu Siêu, cho Hương Linh Thi Sĩ Quá Cố đầy tình thương, tình mến của chúng ta, chóng được siêu thoát.
Lúc 6 giờ 30 chiều, Thứ Sáu tuần này, ngày 25 tháng 2 năm 2022. Tại Chùa An Lạc. Số 1647 E. San Fernando St, San Jose Ca 95116.
Mong Quý Niên Trưởng, Quý Anh Chị Em, bớt chút thời giờ, tham dự đông đủ, buổi Cầu Kinh đặc biệt này. Cùng nhau Hợp lực, thắp nén nhang tưởng nhớ, tụng chung câu kinh, hy vọng Hương Linh người Anh Cả của chúng ta, cũng ấm lòng, thanh thản về Cõi Cực Lạc.
Xong buổi cầu kinh, nhà Chùa có thiết đãi ly trà nóng và tô bún chay.
Rất Hân Hạnh và Trân Trọng Kính Mời.
Lê Văn Hải
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
Tin buồn đưa đến quả lòng đau
LẠC VIỆT VĂN THƠ quá nghẹn ngào
CỐ VẤN thi đàn đi chẳng giã
HUỆ ANH thi sĩ biệt không chào
Bao năm tại thế ôi thương quý!
Chớp mắt về Trời thật tiếc sao!
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU CÙNG QUYẾN THUỘC
Chúc người cõi Phật bước nhanh vào
Thay mặt
Ban Biên Tập Văn Thơ Lạc Việt
Phương Hoa – FEB 19th 2022
**
TÂM THI
(Họa 4 vận cùng Phương Hoa)
Tiền bối ly từ,… dạ nhói đau!
Tinh hoa văn nghiệp quyện hương ngào!
Khôn cầm tương ngộ đôi lời giã
Chẳng kịp tri ân một tiếng chào!
Thư nhã ngao du hòa cảnh sắc
Thanh nhàn phiêu ngoạn giỡn trăng sao!
Rượu bầu,thơ túi tràn phong lãng…
Nhân nghĩa lưu thơm mãi nhiệm mầu.
21-2-2022 Nguyễn Huy Khôi
**
KÍNH TIỄN BIỆT
Nhói đau tin đến thật thình lìnhBác Huệ Anh về chốn lặng thinh
Cách biệt từ nay thôi chẳng gặp
Chia ly xa hẳn hết tâm tình
Cuộc đời là thế đành như thế
Phân ngả đôi bờ chuyện tử sinh
Lạc Việt Thơ Văn đồng tiễn biệt
Tiếc thương Tiền Bối kính nghiêng mình
Hoàng Mai Nhất (Seattle, WA, 20/2/2022)
CHIA BUỒN TỪ VĂN BÚT VIỆT NAM HẢI NGOẠI VÙNG ĐÔNG BẮC HOA KỲ & VĂN BÚT VIỆT NAM HẢI NGOẠI:
Hồng Thủy (Chủ Tịch VBVNHN VĐBHK) xin thông báo một tin rất đau buồn cho tất cả chúng ta và VBVNHNVĐBHK nói riêng, VBVNHN nói chung:
Anh BA DƯƠNG HUỆ ANH của chúng ta đã bỏ chúng ta đi rồi (HT được Nhà Văn CHINH NGUYÊN của VTLV thông báo). Chưa biết nguyên nhân anh ra đi nhanh chóng, đột ngột như vậy. HT SẼ XIN THÔNG BÁO KHI ĐƯỢC BIẾT THÊM CHI TIẾT. Chúng ta đã mất một người anh đáng kính, hiền hòa. VBVĐBHK và VBHN đã mất một Thi Sĩ kỳ cưu tài đức song toàn. Xin tất cả các anh chị cùng cầu nguyện cho ông anh đáng kính, đáng quí của chúng ta được siêu thoát về miền vĩnh cửu.
Thân mến
Hồng Thủy
*****
VĂN THI SĨ LÊ TUẤN (VTLV &VBVNHN VĐBHK):
Nhận được tin Văn Thi Sĩ tiền bồi Dương Huệ Anh đã xa rời chúng ta, ông lặng lẽ ra đi vào ngày 17 tháng 2 năm 2022. Khi câu thơ của ông còn văng vẳng đề lại, như một lời tiên tri về sự ra đi của chính mình.
“Thoáng rồi…đã cuối tháng Hai.
Nắng, mưa cũng hết, buồn vui… có còn?”
Dương Huệ Anh.
Tôi nhớ lại mới đây VTLV tổ chức mừng sinh nhật Thi Sĩ Dương Huệ Anh còn viết bài thơ chúc mừng
…Tháng ngày như ngựa chạy, tên bay,
Chín chục hơn, bừng tỉnh giấc say…
Bè bạn vắng dần, tình vẫn nặng,
Cháu con đầy đó, số còn may?
Già rồi yếu, thịt kiêng. mong đậu,
Vui lại buồn, đàn họa thiếu gì dây…
Sinh nhật, chúc nhau thêm tuổi thọ
Hòa Bình thế giới, nối vòng tay…
“Thương yêu, Tha thứ”, theo lời Chúa,
Hỉ, Xả, Từ, Bi…nhớ đức Thầy…
Tinh Độ: Ta Bà trong hiện hữu,
Nỗi đau đòi, nhẹ bớt, mong thay!!!
Dương Huệ Anh
Đó chỉ là những vần thơ trao đổi gần đây nhất mà ông đã post trên email, đủ thấy được tấm lòng của thi nhân đối với anh chị em trong nhóm VTLV. Tôi đã viết tặng ông 4 câu thơ.
Dương Huệ Anh
Ông già chín chục tuổi xuân
Vẫn còn nặng nợ nhân quần làm thơ
Cõi lòng trải rộng đôi bờ
Văn Thơ Lạc Việt, dựng cờ vinh quy
Lê Tuấn
Kính tặng. Tiền bối nhà thơ Dương Huê Anh
Vậy mà ông đã lặng lẽ cưỡi hạc bay theo mây trắng về trời, bỏ lại trần gian những tác phẩm văn chương, những vần thơ hay, bỏ lại niềm thương nhớ, tiếc thương một nhân tài.
Nhà tôi ở gần nhà ông, có lần tôi ghé thăm, tặng ông vài quyển sách, ông có nhờ tôi xem giúp computer của ông bị trở ngại, thú thật là cái computer của ông quá cũ và rất chậm, nếu đụng vào thì sẽ thay đổi hết trật tự vốn có trong máy mà ông đã quen sử dụng, thôi thì tôi đành bó tay. Tôi rất kính phục ông, mặc dù tuổi đời đã cao nhưng lúc nào ông cũng muốn học hỏi thêm.
Gần đây nhất là trung tuần tháng 1 năm nay 2022. Ông gọi phone cho tôi và khoe, có đứa cháu cho ông một cái computer cũ, nhưng mới với ông, ông ngỏ ý nhờ tôi hướng dẫn cách layout book. Ông muốn tự mình hoàn tất một tác phẩm, mà không cần nhờ ai. Thú thật là tôi cũng rất bận và tôi biết sức khỏe của ông không cho phép ông ngồi lâu và hơn nữa người già thì hay quên, rất khó layout một quyển sách.
Đây cũng là lần cuối cùng tôi thưa chuyện với ông qua điện thoại. Thôi thì viết tặng ông bài thơ ngắn. Ngày ông cưỡi hạc về trời cũng là ngày Nguyên Tiêu, trăng rằm vẫn còn hiện diện.
Trời sai hạc xuống theo mây trắng
Trăng sáng Nguyên Tiêu soi bóng cây
Tử sinh trong cõi vô hình ấy
Hương hồn thi sĩ ở quanh đây.
Lê Tuấn
Bây giờ tôi phải viết một bài thơ lục bát, để kính tặng một Văn Thi Sĩ đáng kính trong diễn đàn Văn Thơ Lạc Việt.***
Dương Huệ Anh Vì Sao Vừa Chợt Tắt
Có một vì sao chợt tắt
Muôn ngàn vì sao cúi mặt xót thương
Tiễn đưa về cõi vô thường
Thi nhân tao nhã vấn vương một thời.
Câu thơ thay cả vạn lời
Gửi theo mây gió, cuối trời tiễn đưa
Mắt buồn đọng ướt cơn mưa
Khơi dòng ký ức ngày xưa trở về.
Dương Huệ Anh vọng lời thề
Nhìn về cố quốc, bộn bề núi sông
Tha phương một khối tình không
Bảo tồn tiếng Việt, điểm hồng văn chương.
Lịch sử có lật từng chương
Thì xin cắm một nén hương lòng thành
Gửi thi sĩ Dương Huệ Anh
Niết bàn, nơi chốn vãng sanh yên bình.
Lê Tuấn
Thành Kính phân ưu
Thi sĩ Dương Huệ Anh***
Nguyễn Diệm + Bích Liên, Phó Chủ Tịch & Điều Hành Website VBVNHN VDDBHK xin thành kính phân ưu cùng tang quyến. Đời sống này vô thường quá!
Xin Vĩnh Biệt Bác Dương Huệ Anh!VĨNH BIỆT BÁC DƯƠNG HUỆ ANH
Buồn ơi ! nhận được hung tinChủ tịch khả kính buông mình rời xa
Trải qua Sinh, Lão, Bệnh già
Thi nhân yên nghỉ mộ tà dương sâu
Văn Thơ Lạc Việt bước đầu
Là cây cổ thụ che lâu vững vàng
Màu Xuân rực rỡ chưa tan
Mùa Xuân đã khóc vội vàng tiễn đưa
Mắt mờ như bám hạt mưa
Rơi dòng ký ức mộng xưa trở về
Dương Huệ Anh đảm muôn bề
Một thời gánh vác hẹn thề non sông
Tha phương gầy dựng bỏ công
Giữ gìn tiếng Việt gom lồng văn chương
Hội viên quy tụ bốn phương
Phú thi trải rộng yêu thương một nhà
Bóng thời gian khó níu là
Mái đầu sương bạc dần dà nghỉ ngơi
Thơ Xuân bác gởi mấy lời
Bài thơ để lại người rời thế gian
Lãng du hưởng gió mây ngàn
Âm dương cách biệt muôn vàn vấn vương
Trang đời ghi lại những chương
Góp chung lời nguyện nén hương lòng thành
Cầu về Tịnh Độ vãn sanh
Phương Tây Cực Lạc Huệ Anh hưởng đầy
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 2/19/2022
Thư Khanh cũng xin cầu cho Hương Linh Thi Sĩ Dương Huệ Anh mau được về Nơi Cõi an Lành.
SANH GIÀ BỆNH TỬ
Trẻ Già ai cũng đến lần thôi
Kẻ trước sau mãi thế rồi
Luật Trời muôn thuở âu là thế
Cầu xin Thi Sĩ được Về Trời
THƯ KHANH – 2/19/ 2022
Thành Kính Phân Ưu Cùng Tang Quyến
Nguyện cầu Hương Linh nhà văn Dương Huệ Anh sớm về Cõi Phật
Lê Thị Nhị – VBVNHN
Thành kính chia buồn cùng tang quyến thi sĩ Dương Huệ Anh.
Xin hiệp lời cầu nguyện hương linh bác Dương Huệ Anh yên nghỉ chốn vĩnh hằng.
Ngọc Thúy – VBVNHN VĐBHK
Thành Kính Phân Ưu với gia đình nhà thơ Dương Huệ Anh.
Nguyện hương linh thanh thản
Nguyện ra đi an nhàn
Nguyện vong hồn siêu thoát
Nơi cõi trời thênh thang.
Nguyễn thị Thêm
**
Thưa quý anh chị,
Buồn quá, anh Ba là người khiêm nhường tế nhị.
Trong tuyển tập VB anh đã nhắc đến nhiều người trong chúng ta đấy ạ.
Sao Khuê
Tôi sững sờ và hết sức đau buồn nhận được hung tin nầy.
Tôi rất ngưỡng mộ thi hữu Dương Huệ Anh.
Tôi xin chia buồn cùng tang quyến
Và cầu chúc hương linh người quá cố được an vui miền Cực Lạc.
Trần Công /Lão Mã Sơn
Em cảm ơn chị Hồng thuỷ báo cho biết.
Em thật là bàng hoàng với tin buồn này.
Cũng may là tuy em chưa gặp anh Ba VB VĐNHK, nhưng em thường đăng tác phẩm anh Ba trên trang VietPEN.
Em biết anh đọc và vui nên hay gửi tác phẩm cho em đăng.
Chỉ có chút an ủi này để nguôi ngoai thôi.
Cung Thị Lan (Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại)
**
Thật là bất ngờ vì trong thơ từ qua lại chưa từng thấy anh Ba than phiền về sức khỏe.
Xin thành kính chia buồn cùng gia đình anh Ba trước sự mất mát to lớn này.
Nguyện cầu vong linh anh Ba, Dương Huệ Anh sớm tiêu diêu miền cực lạc.
Thành Kính Phân Ưu,
Dương Vũ
Cám ơn chị Hồng Thủy
Nhìn hình chân dung anh Ba trông anh rất hiền, dễ mến…
Chưa được gặp mặt anh mà anh đã vội ra đi…
Những câu thơ của anh thật dễ thương, sâu lắng…
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU CÙNG GIA QUYẾNCẦU XIN LINH HỒN ANH DƯƠNG HUỆ ANH SỚM ĐƯỢC VỀ MIỀN CỰC LẠC
𝓽hái 𝓷ữ 𝓵anĐược tin buồn
Anh Ba Dương Huệ Anh vừa mới bỏ mọi người ra đi rất đột ngột,
thật là tiếc thương.
Xin thành kính chia buồn cùng gia đình anh Ba,
nguyện cầu hương linh anh Ba được tiêu diêu nơi cõi Vĩnh Hằng.
Mỹ Hoàn
Tin rất buồn Thi Sĩ DƯƠNG HUỆ ANH đã mệnh chung hôm nay 19 -2 – 2022 tại Thung Lũng Hoa Vàng San Jose.
Xin kính lời phân ưu cùng tang quyến Nhà Thơ lão thành.
Cầu nguyện hương linh cụ sớm Phiêu diêu miền Vĩnh Cửu.
Kính bái.
Cao Mỵ Nhân.
THƠ ĐIẾU THI SĨ DƯƠNG HUỆ ANH.Cụ bảo rằng không bỏ bóng xuân
Sao hôm nay lại biệt dương trần
Xưa từng xướng hoạ lời chân thiện
Giờ đã phiêu linh cõi thánh thần
Hội ngộ văn đàn từ sáng lập
Chia ly thi hữu chẳng gieo vần
Vô cùng thương tiếc Dương Thi Sĩ
Hoa “Huệ Anh Đường” nở vạn năm …
Los Angeles 19 – 2 – 2022
CAO MỴ NHÂN
*
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
Tin buồn đưa đến quả lòng đau
VĂN BÚT VÙNG ĐÔNG BẮC nghẹn ngào
Thi bối đi rồi, đi chẳng giã
HUỆ ANH đã biệt, biệt không chào
Mấy trăng nhập hội thân nhiều lắm!
Chớp mắt về Trời tiếc xiết bao!
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU CÙNG QUYẾN THUỘC
Chúc người cõi Phật bước nhanh vào
Phương Hoa – FEB 19th 2022
Thật là bất ngờ và đau buồn!
Thuy Messegee
*
Vô cùng ngạc nhiên hay tin thi sĩ Dương Huệ Anh mãi mãi ra đi về chốn vĩnh hằng.
Xin chia buồn với tang quyến và đại gia đình Văn Bút Hải Ngoại, Văn Thơ Lac Việt.
Cầu nguyện hương linh nhà thơ Dương Huệ Anh được an nhàn nơi cõi phúc
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
Ngọc Hạnh
*
* Xin Chân Thành Kính Nguyện Cầu Linh Hồn Lão Tiền Bối
Thi Sĩ Đa Tài Hoa Thật Cao Quý DƯƠNG HUỆ ANH Sớm Được Siêu Thoát Về Cõi Vĩnh Hằng*
*Xin Chân Thành Kính Phân Ưu Cùng Tang Quyến*
**Xin Chân Thành Kính Bái
LuânTâm
*
Chị Hồng Thủy kính mến.
Em cám ơn chị báo tin, em thật sự bàng hoàng khi biết anh Ba đã ra đi.
Tuy em chưa biết anh Dương Huệ Anh, nhưng em cũng được hân hạnh đăng bài của anh.
Em vô cùng thương tiếc, xin hiệp lời cầu nguyện cho Hương Linh anh Dương Huệ Anh sớm yên nghỉ nơi miền Cực Lạc.
Thành kính phân ưu cùng gia đình và tang quyến trong nỗi đau mất mát này.
Kính nguyện.
KIM OANH
*
Xin được thành kính phân ưu cùng tang quyến của nhà thơ Dương Huệ Anh và hội VBVNVĐBHK
Nguyện cầu hương linh người quá cố được thanh thản nơi miên viễn.
Thành kính phân ưu
Nguyễn hữu Mỹ Nga
*
Cháu xin chân thành được chia buồn với gia quyến chú Dương Huệ Anh
và cầu nguyện cho hương linh chú sớm yên nghỉ nơi vùng Cực Lạc
Trân trọngKim Vũ
Tin Rất Buồn!
Dù biết Thi Sĩ Lão Thành Dương Huệ Anh đã có tuổi và thời gian sau này, sức khỏe không được khả quan cho lắm. Nhưng tin Ông qua đời, vẫn là tin bất ngờ, bàng hoàng đau xót với tất cả Anh Chi Em trong VTLV.
Thi Sĩ Đương Huệ Anh, là Thành Viên Sáng Lập Văn Thơ Lạc Việt từ năm 1992. Với nhiều Thi Sĩ khác, như có Cụ Hà Thượng Nhân, Hoàng Anh Tuấn….Tên gọi ban đầu là Thi Đàn Lạc Việt, sau đổi thành Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt.
Tính tình hiền lành, dễ mến, sống chan hòa tình nghĩa với mọi người.
Cả đời say mê với chữ nghĩa văn thơ. Đã có những tác phẩm xuất bản trước 75. Cây viết Dương Huệ Anh, là một văn nghệ sĩ đa năng, có mặt trong nhiều bộ môn: Thơ, Văn, Nghiên Cứu, Nhạc, Truyện, Ký. Ông được biết là một người có số lượng thơ sáng tác rất nhiều ở Hải ngoại.
Sau đây một chút tiểu sử của: Thi Sĩ DƯƠNG HUỆ ANH & TÁC PHẨM
Bút hiệu khác: Y Lương, Triều Ðông, Thái Uyển, Huyền Sương.
Sinh quán: Hải Phòng, Bắc Việt Nam .
Nghề nghiệp: Trước 1975: Công chức hành chính.
Sau 1975: Công, tư chức, các ngành xã hội, kinh doanh, bảo hiểm, tài trợ và địa ốc, khảo cứu Ðông Y.
Tác phẩm đã xuất bản.
Trước 75:
-Thơ Xanh
-Tâm Lý Phụ Nữ Qua Ca Dao Tục Ngữ
Tại Mỹ:
– Huyền Ca, Diễm Ảnh
– Quê Hương Vĩnh Cửu Tình Yêu
– Ðường Nào Có Hoa Ðào
-Tha Hương Mười Tám Năm, Sầu Có Ai.
– Ðông Y Lược Giải
-Những Cánh Thư Hồng
-Thơ Việt Hải Ngoại
-Thiên Niên Kỷ Mới
– DVD 12 Bến Nước
-Chân Dung & Giá Trị Truyện
-Những Bước Đường Đã Qua
-40 Năm Tị Nạn Buồn Vui
Một Vài Bài Thơ của Thĩ Sĩ Dương Huệ Anh
CỨ VUI
Lửa nóng Sa Bà, ta cứ vui,
Lên voi, xuống chó, gắng yêu đời!
Bởi ta có cái người không có,
Sức mạnh, Bi tâm, những nụ cười!
Tuổi trẻ, xe lăn, ngồi, chẳng thiếu,
Bạn già, chống gậy, cũng thường thôi!
Phi Châu, dân đói, vô cùng khổ,
Bệnh quỉ, Sida, cả triệu người!
Do Thái, Muslim thù khó giải,
Thánh Thần, rồi Chúa cũng buông xuôi!
Năm châu quấy động*, niềm tin mất,
Bởi quá tham, điên đảo cuộc chơi!
* Khủng hoảng tiền tệ, ngân hàng, địa ốc.
20/01/09
LẠI GIÁNG SINH
Ngày tháng trôi mau, lại Giáng Sinh,
Trời mưa, trời gió, lạnh run mình.
Tám mươi hơn, tuổi, thơ còn mặn,
Sáu chục tròn, cân, bạn dám khinh?
37 năm, buồn thân tị nạn,
Tháng mươi lần, dạo bước* điêu linh!
Ngày ba bữa, giữ cho bền sức,
Đêm mấy phen đi…khổ thật tình!
Răng cửa lung lay, chừng muốn rụng,
Tóc trần trụi lùi, ngó mà kinh!
Ngáp dài, thích ngủ quay trên thảm,
Quên hết, ưu tư với bất bình!!
* Đi bộ
24/12/12
CUỐI NĂM MƯA GIÓ
Cuối năm mưa, gió, lạnh ê da,
Trời vẫn âm u, dễ chán a!
Uốn cái lưng còng, lo chống đỡ,
Thẳng đôi chân sậy, gắng xông pha!
Mắt mờ, sớm, tối lên thăm mạng (net),
Tai lãng, – con, em…- khó tặng quà!
Ba bữa rau dưa, mong giữ sức,
Một lòng tu tập, khởi từ ta!
Vui trong hiện hữu, quên năm tháng,
Tịnh độ không gần, cũng chẳng xa!
29/12/12
THẾ LÀ LẠI HẾT NĂM
Thế là lại hết năm Tây,*
2012- Lạnh. Gió ngày, mưa đêm…
Chiến tranh, khủng bố, triền miên,
Thày tu ngậm máu, Đức Tin xuống đường!
Phi Châu, dân đói thảm thương,
Vô lương, tài phiệt một phường lưu manh,
Gian thương nào nghĩ nhân tình,
Đầu cơ, lũng đoạn, Giàu, thành giàu thêm!
Độc tài ngoan cố, giữ quyền,
Tự do, hạnh phúc hão huyền, dân mơ!
Xứ này, Mỹ, thích tự do,
Tha hồ mua súng, tha hồ giết nhau!
Trẻ thơ vô tội, ngờ đâu,
Chết trong lớp học,
thêm sầu Giáng Sinh!
31/12/12
LÂU NGÀY, GẶP BẠN
Lâu ngày, gặp bạn, mừng a,
Hỏi thăm địa chỉ?
– Hơi xa!
– Ngại gì!
Thôi cho số điện thoại đi,
Khi nào rảnh ghé…
nhâm nhi …chuyện đời…
Tay ghi hàng số, miệng cười,
“Quan Âm Thiền Viện” ít người biết, anh!
Nhớ thêm đạo hiệu Tâm Minh,
Vào Google Search cũng nhanh, mấy hồi!
… Hai lần phone, – chẳng trả lời,
Cuối tuần, xe phóng…tìm hoài, thấy đâu?!
Quan Âm Bồ Tát, khẩn cầu,
Ngất ngư, lội bộ, trước, sau, hỏi đường…
Bỗng…xa thoáng bóng áo vàng,
Ai đưa lối,
Hẳn đạo tràng không xa!
…Cờ bay, vui cõi Ta Bà
Tháng 4, mồng 8, Phật Đà đản sinh…
18/5/2013
ĐI BỘ
Về chiều, thả bộ, khỏe mà vui,
Thêm được nhìn phong cảnh đất trời.
Sẵn dịp, ghé mua hàng hạ giá,
SafeWay, SaveMart…nửa giờ thôi !
Nắng vàng, gió mát dịu hồn ta,
Thoáng…đến đầu đường Berryessa…
Chợt nhớ Hà, Hàn, Búi… mấy bạn
Quế Đào, Liên Bích…ở đâu xa?*
Thiên Đường, lạc cảnh mấy tầng cao,
Thanh tịnh, thơm hương suối, động đào…
Ngọc nữ, tiên đồng trì nguyện độ
Muôn loài, ngạ quỉ sớm tiêu dao…
Ta Bà tranh chiến, lửa tràn lan,
Đường Lưỡi Bò, Trung quốc nhận càn…
Irak, Afgan…còn tử đạo,
Đối đầu nguyên tử, Bắc, Nam Hàn…
Phi Châu nghèo đói cũng can qua,
Do Thái, Iran dữ lắm mà!
Dân Chủ, Độc Tài sao hợp tác?
Cường quyền, – nhược tiểu – dễ gì tha?!
* Hà Thượng Nhân, Hàn Nhân, Đào Thanh Quế, Nguyễn Bích Liên đã khuất.
13/6/2013
Sự ra đi của Thi Sĩ Dương Huệ Anh là một mất mát lớn với VTLV. Hình ảnh Ông sẽ sống mãi trong tim những Bạn Bè thương mến.
Nguyện cầu Hương Linh Người Thi Sĩ Quá Cố vui hưởng cõi Vĩnh Hằng.
Thành Kính Phân Ưu.
Lê Văn Hải
THAY LỜI PHÂN ƯU
Phụng kính hương linh Thi Nhân Dương Huệ Anh!
*
Thi đàn Lạc Việt tiễn thi nhân
TÀI đức toàn song ấm phước phần!
“Diễm ảnh”…* trường tồn cùng vạn lộc
“Huyền ca”…* còn mãi với muôn xuân.
“Lưng còng, chân sậy”…** tiềm tuệ trí
“Tai lãng, mắt mờ”…** rạn tấm thân!?
Chữ thắm “Thơ Xanh”…* tràn mẫn cảm
Lợi danh nhẹ tễnh cõi dương trần!?
21-2-2022
Nguyễn Huy Khôi
* Tiêu đề các tác phẩm của trưởng thượng Dương Huệ Anh.
** Chữ dùng của TT Dương Huệ Anh.
Nghe tin nhà thơ lão thành Dương Huệ Anh vừa qua đời, chúng tôi, Trần Sung Phước thuộc đám con cháu của bác,
Xin thành kính phân ưu cùng gia quyến của bác và nhóm Văn Thơ Lạc Việt.
SỰ ra đi của Bác là một mất mát lớn của Văn thơ hải ngoại.
Luôn tiện xin ban tổ chức cho chúng tôi biết ngày và giờ mất của bác để chúng tôi tụng kinh cầu siêu cho bác theo nghi lễ Phật giáo.
XIn cám ơn và gủi lời chúc bình an , mạnh khỏe cả thể chất và tinh thần, sáng tác mạnh đến toàn ban.
KÍnh,
Trần Sung PhướcPhan Lang rất xúc động khi nhận được tin bất ngờ thi sĩ Dương Huệ Anh đã từ giã chúng ta về miền miên viễn.
Tuy chưa một lần được gặp mặt nhưng PL rất quý trọng và ngưỡng mộ tư cách cũng như tài thi phú của anh trên các văn đàn. Xin cám ơn Ns Lynh Phương đã sáng tác và trình bày ca khúc Niệm Khúc Cuối thật tuyệt vời, nghe mà lòng bồi hồi, cảm xúc dâng đầy. PL cũng xin cám ơn quý văn thi sĩ Phương Hoa, Hồng Thúy, Cao Mỵ Nhân, Kiều Mỹ Duyên, Lê Tuấn… đã cho thưởng thức những áng thơ, văn tưởng niệm cố thi sĩ Dương Huệ Anh.
Rất tiếc PL ở xa không thể về tham dự Buổi Tụng Kinh Cầu Siêu cho nhà thơ lão thành, nguyện cầu hương linh người quá cố sớm được siêu sinh tịnh độ. Xin cám ơn anh Hải đã đứng ra tổ chức bổi cầu siêu ý nghĩa này.
Kính chúc sức khỏe và bình an đến với tất cả quý anh chị VTLV.Kính mến,
Phạm PhanLang
Phương Thúy (Trang Chủ Diễn Đàn Cô gái Việt) xin phân ưu với gia đình cố Thi sĩ Dương Huệ Anh và VTLV.
Tuy chưa được hân hạnh gặp Thi sĩ lúc sinh tiền nhưng đã có lòng mến phục người đã tự nguyện vác cái ngà voi khổng lồ, sáng lập nên Cơ sở VTLV từ năm 1992.
Rất thương tiếc Thi sĩ, người có kiến thức, có tâm, và có tầm nhìn xa cho tương lai chữ Quốc ngữ.
Kính bái vong hổn Thi sĩ!
Phương Thúy
SYDNEY – AUSTRALIA – 24.2.2022
XIN CHÂN THÀNH CẢM TẠ ĐÃ CHO BIẾT BUỔI TỤNG KINH CẦU SIÊU CHO THI SĨ TIỀN BỐI DƯƠNG HUỆ ANH.
TỪ NƠI XA XÔI NÀY, TÔI KHÔNG THỂ THAM DỰ ĐƯỢC, CHỈ XIN DÂNG LỜI CẦU NGUYỆN CHO HƯƠNG LINH THI SĨ TIẾN BỐI SIÊU THOÁT VÀO CÕI VĨNH HẰNG
VÀ XIN CHIA BUỒN CÙNG TANG QUYẾN VÀ QUÝ THÂN HỮU VTLV
HOÀNG PHONG LINH – SYDNEY.
Duong-Hue-Anh-Tieu-Su-2
NHÀ VĂN HÓA DƯƠNG HUỆ ANH – PARIS, MẠN ĐÀM VĂN HỌC&NGHỆ THUẬT – Đỗ Bình
Để tưởng niệm một nghệ sĩ lão thành, một nhà văn hóa vừa bỏ trần gian về cõi vĩnh hằng, tôi xin trích một đoạn văn của cố Nhà văn Hồ trường An viết đôi dòng cảm nhận về nhà thơ Dương huệ Anh : « Năm 2003, tức là năm thứ ba của tân thiên kỷ, mảnh vườn hồng của Dương Huệ Anh là một cõi ngự uyển thịnh phóng rất nhiều bông hoa. Với 291 bài thơ được sáng tác đều đặn và cần mẫn trong vòng 12 tháng, tiên sinh có thể dùng làm một hiến lễ mùa thơ rất đẹp, rất đáng trân quý cho khách yêu thơ. Ở hải ngoại, những thi nhân có mạch sáng tác dòi dào nhất phải kể: Tuệ Nga, Cao Mỵ Nhân, Huệ Thu, Sương Mai, Ngô Minh Hằng, Hà Huyền Chi, Dương Huệ Anh, Du Tử Lê, Phương Triều… Có lẽ tiên sinh đứng hàng đầu về lượng. Còn về phẩm thì mỗi người có một sở trường riêng, một nét độc đáo riêng.<!> Tuy nhiên, Dương Huệ Anh vẫn là một tiếng thơ thời thế . Nếu ngày xưa, qua tiếng thơ thời thế, thi hào Victor Hugo đã được giới yêu thi ca tặng cho ông ta là L’écho du siècle (tiếng đồng vọng của thế kỷ). Vậy thì hôm nay, trên thi đàn(Việt Nam) ở hải ngoại, Dương Huệ Anh cũng có thể nhận lãnh cái danh dự ấy lắm chứ.»(Hồ Trường An-Paris, 04/02/2004)
Xin kể lại một câu chuyện văn học ở Paris mà ngày đó nhà thơ Dương Huệ Anh đã được các bằng hữu trong giới văn nghệ đón tiếp rất trân trọng và chân tình do Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris tổ chức trong đó có buổi Thảo luận về văn học & nghệ thuật giới thiệu Tác phẩm và Tác giả.Tác giả Dương Huệ Anh rất đa tài, nhưng tôi quen gọi ông là Nhà Thơ. Từ ngàn xưa người đời vẫn quan niệm:«Nhà thơ là một danh hiệu cao quý cho người làm thơ, khi mà thơ ca của người đó phục vụ cho chân, thiện, mỹ, cho ánh sáng xua tan bóng tối, cho lương tâm, trí tuệ và tiến bộ cũng như hạnh phúc của con người. »Nhà thơ Dương Huệ Anh sáng tác từ lúc còn trẻ, thuở ấy hồn thơ ông lai láng và xanh mướt, thơm ngát như hoa xuân. Nhưng vì những tác động ngoại cảnh, những biến động thăng trần của thời thế đã ảnh hưởng đến đời sống và sự sáng tác của ông, làm hụt hẫng nguồn cảm hứng, từ đó duyên tình thơ bị ông bỏ rơi vào quên lãng! Đến khi ra hải ngoại, sự đời đã lắng, ông không còn lo việc mưu sinh thì hồn thơ ẩn sâu trong tâm hồn thi nhân bỗng trỗi dậy dạt dào. Nhà thơ đã tìm lại được nguồn cảm hứng sáng tác vì biết mình vẫn còn nặng nợ với duyên thơ tình bạn mà bấy lâu đã hờ hững với nàng thơ. Thơ là nguồn sống của thi nhân nào có phụ người, chỉ có thi nhân đã bỏ thơ không còn đam mê Chân Thiện Mỹ, thiết tha với ý nghĩa cuộc sống thì nguồn thơ sẽ tàn úa và hồn thơ cũng bay mất! Thời gian như mây bay, gió thoảng, tâm hồn và suy nghĩ của thi nhân cũng như con nước chảy trên dòng sông và trôi theo dòng thời gian nên có nhiều thay đổi.
Cũng một vầng trăng huyền ảo, cảm súc của thi sĩ lúc trẻ nhìn trăng khác với tuổi xế chiều, nhà thơ không cảm thấy sự mơ màng ảo mộng trong ánh trăng, không còn đắm say thả hồn bay theo mây gió tìm hình tướng độ khuyết tròn của vần trăng, mà chỉ nhìn thấy màu kỷ niệm và bóng thời gian. Nơi phương trời Mỹ, nhà thơ Dương Huệ Anh đã bước vào tuổi xế chiều, ở đây có những nỗi buồn tha hương luôn ẩn trong tâm hồn người xa xứ, đó cũng là chất liệu, nguồn cảm hứng cho thi nhân. Dù mang nỗi sầu tha hương nhưng nhà thơ vẫn yêu đời nên hồn thơ lại dâng trào nguồn cảm xúc, ông đã sáng tác theo dòng cảm xúc và sáng tác rất mạnh với nhiều đề tài khác nhau. Nhờ kiến thức sâu rộng tác giả đã có những sáng tác giá trị về lãnh vực thi ca, văn chương và biên khảo. Tuy nhiên chất thơ đã không còn hồn nhiên màu sắc xanh hồng, óng ả như hoa mùa xuân thuở đôi mươi, cho dù hình ảnh trong ngôn ngữ thơ có mới hơn, cấu trúc thơ vẫn giữ những niêm luật mang tính luân lý đầy triết lý nhân sinh và tôn giáo. Thơ của ông hay và sâu sắc như những nhánh lúa hạt vàng, ngoài mùi hương thơm của lúa, giá trị thực tế của gạo là thực phẩm rất cần thiết để nuôi sống con người, lúa còn mang ý nghĩa cao cả hơn là sự hy vọng, nguồn sống.Xin sơ lược về tiểu sử và tác phẩm của ông: Nhà thơ Dương Huệ Anh, tên thật : Trần Quang Tương, sinh quán: Hải Phòng.Bút hiệu khác: Triều Đông , Thụy Cầm. Thái Uyển, Y Lương.Nghề nghiệp trước 1975, Công Chức.
Sáng lập và là chủ tịch Thi Đàn Lạc Việt miền Bắc Cali.năm 1992 .Năm 1993 thành lập thêm Cơ Sở Văn Học Nghệ Thuật. (đóng góp cho văn học về phương diện thơ đã xuất được 8 tập).
Tác Phẩm:Thơ Xanh.(1955). Biên khảo:Tâm Lý Phụ Nữ Qua Phong Dao. Năm 1958 Huyền Ca, Diễm Ảo tập 1,2. Năm 1991(Mỹ): Quê Hương Vĩnh Cửu Tình Yêu ; Đường Nào Có Hoa Đào; Tha Hương 18 Năm Sầu Có Ai ? Đông Y Lược Giải (tập 1) ;1994 Thơ Dương Huệ Anh, Tổng Tập I (gồm 6 thi tập), Những Khúc Buồn Vui, (Thơ Nhạc) ;1998, Những Cánh Thư Hồng 1,2: Truyện dài ; Thơ Việt Hải Ngoại, Một Góc Nhìn (2001) ; Thơ Việt Thế Kỷ 20(1) ; 2002 Ba Mươi Năm, Ngàn Kỷ Niệm (Thơ Nhạc) 2004 ; Độc Hành Ta Vui (Thơ, 2004) ; Dịch Và Bói Dịch(sơ giải, 2005). Tìm Hiểu Về Phật Giáo, Những Vần Thơ Đạo 2006, DVD Thương Về 12 Bến Nước (Thơ, Nhạc).»
Tao Ngộ Thi Nhân
Năm 1998 tôi hân hạnh được hội Thơ ở Sacramento mời sang để nói chuyện về đề tài Tính Nhạc Trong Thơ do các nhà thơ Nguyễn Phúc Sông Hương, Nhà thơ Hoàng Thanh và nhà thơ Như Hoa Lê Quang Sinh tổ chức. Ngày đó quy tụ nhiều nhà thơ ở khắp nơi đến tham dự, trong số người đến có nhà thơ Dương Huệ Anh, Nhà thơ Hà Thượng Nhân, Nhà thơ Diên Nghị, Nhà thơ Song Nhị, Nhà thơ Lê Nguyễn, Nhà thơ Vũ Hối, Nhà thơ Phan khâm, Nhà thơ Hà Trung Yên, Nhà thơ Mạc Phương Đình, Nhà thơ Hà Ly Mạc, Nh à th ơ Huệ Thu, Nhà thơ Yên Bình, Nhà thơ Nguyễn Phan Ngọc An, Nhà thơ Sương Mai, Nhà văn Nhật Thịnh, Nhà văn Khuê Dung, GS, Trần Kiêm Đoàn, Nhà báo Tô Ngọc, Nhà báo Đỗ Hữu… thời gian này tôi còn được các hội đoàn sinh hoạt văn hóa ở San Jose như Văn Bút Bắc Cali, Cơ Sở Thi Văn Cội Nguồn, Thi Đàn Lạc Việt cùng một số bằng hữu văn nghệ đã tiếp đón trao đổi văn nghệ rất chân tình…
Đến năm 2005 tôi sang Bắc Cali giới thiệu cuốn biên khảo Thơ: Khung Trời Hướng Vọng của GS, Nhà thơ Nguyễn Thùy và cuốn Dạy Con của GS Trần Minh Xuân ở Sacramento do các Hội đoàn ở đó tổ chức, trong số người tham dự vẫn có nhà thơ Dương Huệ Anh đến từ San Jose…. Sau đó tôi và giáo sư Nguyễn Thùy được Hội Văn Bút ở Nam Cali mời nói chuyện về đề tài văn học, do nhà thơ Nguyễn Duy Trại tổ chức. Ở đây tôi cũng thấy có sự tham dự của nhà thơ Dương Huệ Anh, Học giả, BS Nguyễn Hy Vọng, Nhà biên khảo Mạc Đông Pha, nhà thơ Thái Tú Hạp và phu nhân nhà thơ Ái Cầm…
Sự hiện diện của nhà thơ Dương Huệ Anh trong những buổi sinh hoạt văn học nghệ thuật mà tôi tham dự làm tôi khích lệ và xúc động, đối với một hậu bối như tôi quả là một món quà chân tình cao đẹp mà ông dành tặng tôi. Sau này trong số tác phẩm biên khảo, thơ văn của ông, thơ của tôi được ông đưua vào sách. Khi ông sang thăm Paris, chúng tôi đã tổ chức nhiều nơi để đón tiếp ông và đưa ông đi gặp những khuôn mặt văn hóa đặc biệt ở Paris. Ông đã đi thăm thăm nữ sĩnh Minh Châu và xem tranh của Bà. Ông được mời đến xưởng vẽ và tượng điêu khắc của nữ điêu khắc gia Anh Trần, ở đây có một phòng hội tiếp tân, ông đã gặp gỡ nhiều người bạn măn xưa rời Hải Phòng, Hà Nội qua Pháp du học từ thập niên 40, 50, tất cả mọi người hiện diện hôm đó đều trân trọng ông. Họ chia nhau mời ông và đưa ông đi thăm những di tích lịch sử và thắng cảnh đẹp ở Paris.
Trong cuốn sách: Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Hải Ngoại sẽ ra mắt vào năm 2022, các anh chị trong ban biên tập đưa Tiểu Sử của ôngvào sách để vinh danh một Nhà văn Hóa. Họ chọn ông Không phải ông đã sáng tác nhiều thơ, ra nhiều tác phẩm, mà vì những việc làm tận tụy của ông đối với việc bảo tồn văn hóa ở hải ngoại trong thời gian ông sinh hoạt trong Thi Đàn Lạc Việt.Để minh họa con người của ông, tôi xin trích lời tâm tình ông viết trong cuốn:Dương Huệ Anh ThơThơ…& Những Giao Cảm Ngọc Ngà » ( trang 3,4,5)
« Thơ! Thơ! LạiThơ!Gần một năm trước,- còn thiếu vài ngày !- vào dịp ra mắt tuyển tập » 50 Năm Thơ &Người Thơ » ở địa phương, một số thân hữu đùa hỏi: « Thế nào ông còn định sáng tác nữa hay không ? », vì theo niên kỷ đã thấy quá tuổi cổ lai hy rồi.Câu trả lời thành thật là: Cũng tùy (theo sức khỏe) thôi!Kể từ ngày tập tành theo bước các đàn anh trong Nhóm Tự Lực Văn Đoàn, Tiểu Thuyết Thứ Bảy…cóp, dán (copy, paste) từng câu, từng chữ thành vần điệu….để khoe với các bạn khác phái, cũng đã hơn nửa thế kỷ. Thơ mình làm ra có lẽ cũng khá nhiều, – riêng thời gian từ thập niên 1990 đến nay đã được vài ngàn bài, có một số nghe tạm được, nhưng tựu trung vẫn nghĩ là mình nói chưa hết những điều muốn nói, viết chưa đủ những lời cần viết. Ấy chỉ vì chuyện Đời bao la quá , phức táp quá, như là vô thủy vô chung! Nghĩ sâu thì có phải là vũ trụ, nhân sinh…luôn biến động, vô thường?Hồi tưởng lại, những ngôi sao trong làng thơ thập niên 1940 là: Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên…rồi là Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng…Bên cạnh, là những Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân, J. Leiba, Lưu trọng Lư, Bích Khê…Câu chuyện TTKH sau này mới được làm nóng lại, chứ thời gian ấy chưa ai lưu ý mấy đền nhữgng vần thơ « Hoa Ti Gôn ».Số người làm thơ những năm thập niên 1940-1950 chỉ tính hàng trăm, chú không Đông đảo như hiện thời. Tập Thi nhân Việt Nam của hai ông Hoài Thanh, Hoài Chân ấn hành năm 1941, chọn lựa không chặt chẽ lắm mà cũng gom được 40 nhà thơ ba miền Trung, Nam, Bắc.So với hiện thời, số người làm thơ có thể lên đến hàng vạn, báo nào, tạp chí, đặc san nào cũng có một số bài thơ mới…hiện tượng này đáng mừng hay chăng,là tùy quan điểm nhận xét của từng bạn đọc ; người viết không tiện nêu ra ý kiến riêng. Mới đầu, người viết lấy cảm hứng từ những mối tình trong trắng, hồn nhiên của tuổi học trò: từ cô Thái/Thủy họ Bùi (sau là ca sĩ đài Phát thanh Việt nam-Hà Nội), qua Nam Hải (Tây Thi) (con một đại thương gia ở cảng Hải Phòng)…sau đến những nàng thôn nữ bạn, học trò còn đôi tám…Dù ở đâu hay thời điểm nào, rung cảm chính trong thơ mình cũng bắt nguồn từ những hình ảnh người nữ thuộc mọi giai tầng, khởi đi từ tâm, dựa vào triết lý Đại Bi của Phật giáo. Bên cạnh nó là những trăn trở, góp ý thực tiễn tìm một giải pháp diệt khổ: chấp nhận hiện hữu, biến khổ thành vui…Từ đôi mươi, trong thời kháng Pháp cũng như khi trưởng thành, đi làm để mưu sinh, soạn giả đã gặp nhiều mối duyên kỳ ngọ nhưng đa số dang dở – và tất cả đã được ghi lại trong tập Thơ Xanh ( 1955) và Huyền Ca Diễm Ảnh1, 2 (1991). Rất tiếc đa số những sáng tác trong loạn ly, khói lửa đã bị thất lạc, tiêu hủy qua nhiều cuộc di cư, tị nạn, lưu vong, chính biến… Có vài tác giả thắc mắc về sự vắng mặt của tác giả trên văn đàn suốt thời gián dài, – từ 1955-1991- như cCo Mỵ Nhân, Hà Huyền Chi… lý do đơn giản của «vấn đề » là trong suốt thời gian ấy, soạn giả đã phải vận dụng «nội lực và tinh thần, liên tục, kiên trì phấn đấu để sinh tồn, xây dựng hạnh phúc cho một gia đình đông con nhỏ, và luôn gặp những biến thiên trọng đại, bất ngờ.
Kể từ thập niên 1990, tương đối rảnh rỗi, – sau khi bày nhỏ, nói chung đã an cư lạc nghiệp soạn giả mới nghĩ đến việc sắp xếp lại và in ấn những sáng tác trong mất chục năm qua: Năm 1992 pjhoổ biến thi tập » Quê Hương, Vĩnh Cửu Tình Yêu », năm 1993 trình lành hai tập «Đường Nào Có Hoa Đào» và « Tha hương, Mười Tám Năm, Sầu Có Ai ?»Đây cũng là thời gian soạn giả, cũng vài văn thi hữu- đứng ra vận động Thi Đàn Lạc Việt, và sau đó là Hội Trao Đổi Văn Học Nghệ Thuật, để tập hợp những nhà văn, thơ yêu mến và muốn góp phần nhỏ mọn bảo tồn văn hóa nước nhà. Hơn mười năm hoạt động, cơ sở đã tổ chức được hai cuộc Thi Thơ toàn quốc, có gần 150 nhà thơ tham dự trong những năm 1994 và 1996.Mặt khác, cơ sở đã ấn hành được 5 Tuyển tập Một Phía Trời Thơ 1,2,3,4,5 ; hai tiuển tập 4 Biển Thơ Chung Nối Nhịp Cầu ;3 tuyển tập Thơ Văn Xuân Thu 1,2,3 (chưa kể mấy số tam nguyệt san Xuân Thu), với nội dung thuần túy văn nghệ.
Năm 1997 cơ sở bát đầu chuyển hướng đi vào phần vụ nghiên cứu, biên khảo, xuất bản: tổ chức nhiều buổi nói chuyện trao đổi về thơ văn như Ca Dao Việt Nam, Viết truyện ngắn, Ngâm Thơ, Mệnh Số học, Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương, Thiền, Nhạc.. và năm 2000 tổ chức Ngày Kỷ niệm Thi hào Nguyễn Du, khá thành công.Giữ năm 1997 soạn giả cho ra mắt Tổng tập I Thơ Dương Huệ Anh gờm 6 thi tập: Thương Cả Trăm Hoa ; Gót Ngọc Quan Âm ; Tho Xanh ( tái bản)….. »
Câu Chuyện Sinh Hoạt Văn Hóa:
Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris là một hội được thành lập từ luật 1901. Mục đích nhằm Bảo tồn và phát huy Văn Hóa Việt Nam ở hải ngoại. Điều lệ của hội rất đơn giản vì nặng tính thân hữu, k hông gò bó người tham gia và cũng không ràng buộc người khi rời CLB. Đa số hội viên thuộc giới trí thức văn thi sĩ, mà trong đó có những thành viên Ba Lê Thi Xã. Nhà thơ Phương Du BS Nguyễn Bá Hậu phát biểu về Ba Lê Thi Xã:
«Ba Lê Thi Xã, một hội thơ có khuynh huớng Đường Thi do hai cố thi sĩ Hương Bình GS Cao Văn Chiểu và Hàm Thạch GS Nguyễn Xuân Nhẫn sáng lập. Thời gian sau, Nữ sĩ Minh Châu GS Thái Hạc Oanh cùng với nhà thơ Phương Du là những cột trụ của Ba Lê Thi Xã. Hội quy tụ nhiều trí thức khoa bảng, như giáo su đại học, bác sĩ, luật gia, học giả, dịch giả…vv…nhưng có tâm hồn thơ, nên có nhiều nguời đã thành danh trong làng thơ truớc 75 và hiện nay. Thời gian trôi đi, nhiều nguời trong nhóm đã khuất như: nhà thơ Đào Trọng Đủ, nhà thơ Hương Bình Cao Văn Chiểu, nhà thơ Hàm Thạch Nguyễn Xuân Nhẫn, nhà thơ Bằng Vân Trần Văn Bảng, nhà thơ Đàn Đức Nhân, nhà thơ Huỳnh Khắc Dụng, nhà thơ Luong Giang Phạm Trọng Nhân, nhà thơ Phuợng Linh Đỗ Quang Trị, nhà thơ Nguyễn Thuờng Xuân, nhà thơ Việt Hoài, nữ sĩ Liên Trang Phạm Thị Ngoạn (Ái nữ cụ Phạm Quỳnh), nữ sĩ Thanh Liên. Những nguời còn sống như: Nhà thơ Song Thái Phạm Công Huyền (ngoài cửu tuần), nữ sĩ Minh Châu Thái Hạc Oanh, nữ sĩ Quỳnh Liên Công Tằng Tôn Nữ Quỳnh Liên, nữ sĩ Phạm Thị Nhung, nhà thơ Vân Uyên Nguyễn Văn Ái, nhà thơ Khuê Trai Vũ Quốc Thúc, nhà thơ Phuong Du Nguyễn Bá Hậu, nhà thơ Huong Giang Thái Văn Kiểm, nhà thơ Hoài Việt Nguyễn Văn Hướng, nhà thơ Hồ Trọng Khôi, nhà thơ Đỗ Bình …vv… Nhà thơ Đỗ Bình là nguời trẻ tuổi nhất đã bỏ ra nhều công sức giúp ích rất đắc lực cho Ba Lê Thi Xã quy tụ những nhà văn nhà thơ hải ngoại».(Những nhà thơ đã tạ thế: Nhà thơ Hồ Trọng Khôi, Nhà thơ Song Thái Phạm Công Huyền, hưởng thọ 101 tuổi. Nhà thơ Khuê Trai Vũ Quốc Thúc, hưởng thọ 101 tuổi. Nhà thơ Vân Uyên Nguyễn Văn Ái, hưởng thọ 95 tuổi. Nhà thơ Phương Du Nguyễn Bá Hậu, hưởng thọ 95 tuổi. Nhà thơ Hương Giang Thái Văn Kiểm, hưởng thọ 93 tuổi.)
Nhà Thơ Dương Huệ Anh Gặp gỡ Bằng Hữu Paris:
Vào ngày 25 03 2003, một buổi sinh hoạt văn học nghệ những người hiện diện: Nhà thơ Dương Huệ Anh từ miền Cali nắng ấm đến Paris, nhà văn Hồ Trường An từ Troyes lên, nhà văn Võ Đức Trung từ Lille đến, cùng các văn thi hũu Paris: Học giả Võ Thu Tịnh, nhà thần học Nguyễn Tấn Phước, nhà thơ Vân Uyên GS Nguyễn Văn Ái, nhà thơ Phương Du BS Nguyễn Bá Hậu, GS Phạm Đình Liên, GS Nguyễn Thị Minh Cầm, Nữ sĩ Minh Châu GS Thái Hạc Oanh, nữ sĩ Quỳnh Liên, nhà thơ nữ Thụy Khanh, nhà thơ nữ Hà Lan Phương, nhà văn Trần Đại Sỹ, nhạc sĩ Xuân Lôi, nhạc sĩ, GS Lê Mộng Nguyên, nhạc sĩ Trịnh Hưng, nhạc sĩ Trong Lễ ,họa sĩ René, Họa sĩ Nguyễn Đức Tăng, nhà báo, GS Nguyễn Bảo Hưng, nhà báo Song Nguyễn GS Nguyễn Ngọc Chân, Nữ điêu khắc gia Đặng Vũ Anh Trần, nữ điêu khắc gia Vương Thu Thủy, đạo diễn Trần Song Thu, dịch giả Liều Phong, BS Thân Trọng Kỳ, BS Nguyễn Bá Linh, Nhà thơ Đỗ Bình, nghệ sĩ Linh Chi, Nghệ sĩ Thúy Hằng….VV……..
Mở đầu chương trình, Nhà thơ Đỗ Bình giới thiệu vài nét về nhà thơ Dương Huệ Anh:«Cụ Dương Huệ Anh là một con người đa tài. Ông tốt nghiệp trường Đại Học Quốc Gia Hành Chánh và là cựu công chức cao cấp của Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Vì tâm hồn đa cảm ông thích thơ văn, âm nhạc và nghiên cứu văn học hơn là sự phấn đấu tiến thân trong sự nghiệp quan trường. Ông là Nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo, nhà soạn nhạc. Từng là cựu Chủ tịch Thi Đàn Lạc Việt ở San Jose, miền Bắc Cali nơi quy tụ rất nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng mà chúng ta đã từng đón tiếp những vị đó khi sang thăm Paris, như nhà thơ Yên Bình, nhà thơ nữ Nguyễn Phan Ngọc An, nhà thơ nữ Hoàng Xuyên Anh, nhà thơ nữ Ngọc Bích, nhà thơ nữ Sương Mai. Trong thi đàn Lạc Việt có những vị liên lạc trao đổi thơ với chúng ta như Nữ sĩ Trùng Quang ,(Hội thơ Trúc Liên, Quỳnh Dao ), nữ sĩ Đinh Thị Việt Liên( Hội thơ Thi Lâm Hợp Thái,Thi Đàn Quỳnh Dao 1962 – 1975), thi sĩ Hà Thượng Nhân, thi sĩ Trình Xuyên , thi sĩ Hàn Nhân… .
Nhà thơ Dương Huệ Anh:
“ Kính thưa qúy vị, cảm ơn qúy vị đã không quản thì giờ, đường xa cho chúng tôi gặp mặt ngày hôm nay. Thú thật, đối với qúy vị về văn thơ tôi là người đi sau mặc dầu tuổi tác thì có thể nhiều hơn một số người. Tôi xin đề nghị xin đừng gọi chữ cụ nghe nó già quá mà chính tôi cũng không muốn già, vì già khó làm thơ lắm không còn thơ thẩn được ! Do đó xin đề nghị mình cứ coi nhau như văn thi hữu anh em nó sảng khoái tự do hơn. Xin phép được giới thiệu về sinh hoạt của chúng tôi:Thi Đàn Lạc Việt được thành lập năm 1992 với hình thức hết sức khiêm tốn khởi đi từ nhóm thơ, chủ trương: Bảo tồn và phát huy văn học nghệ thuật VN ở hải ngoại. Qua 1993 thành lập thành Thi Đàn bên cạnh đó chúng tôi thành lập thêm Cơ Sở Văn Học Nghệ Thuật vì quan miệm rằng thơ phải có bộ môn diễn ngâm đi theo dù rằng tự thơ nó có nhạc rồi nhưng để chuyên chở đi xa cần có bộ môn nhạc. Mặc dù có những hạn chế về sức khỏe, phương tiện nhưng chúng tôi cũng cố gắng đóng góp cho văn học về phương diện thơ cơ sở đã xuất được 8 tập, trung bình mỗi năm là một tuyển tập. Ngoài ra chúng tôi còn xuất bản một tuyển tập văn Xuân Thu không định kỳ, khi nào có tiền thì chúng tôi ra. Đây là một tuyển tập được chăm sóc kỹ, nhưng sau khi ra được hai số phải đổi thành tam cá nguyệt nhưng cũng không liên tục vì nhiều khó khăn tài chánh. Sự tự lực của chúng tôi không đủ nuôi dưỡng tuyển tập, do đó cuối cùng đành phải ra định kỳ vài năm ra một bản !Nói về phương diện cá nhân thì có nhiều anh chị em có nhiều sáng tác rất đáng kể. Xin cho phép tôi được trình bày những đóng góp của cá nhân : Năm 1955 in tác phẩm Thơ Xanh rồi ngưng dù vẫn sáng tác, mãi đến năm 1990 bắt đầu lại và đã xuất bản khoảng 10 tập thơ. Sau những thi tập đó tôi sản xuất khá nhiều nên gom 4,5 tập vào nhau. Vì thế năm 1997 in 6 tập vào nhau lấy tên Tổng Tập 1 gồm 6 thi tập: Gót Ngọc Quan Âm Lấm Bụi Trần ,(thơ đạo), Thương Cả Trăm Hoa, Hai Mươi Năm Lưu Vong, Ba Mươi Năm trước, Thơ Hồng.”
Nhà thơ Vân Uyên, GS Nguyễn Văn Ái bỗng hỏi:“ Bao giờ thì có thơ Tím ?”Nhà thơ, nhà văn Dương Huệ Anh:“ Sắp có rồi, tôi chỉ không có thơ màu đỏ thôi, trong tương lai chúng tôi sẽ có đủ các thứ màu.”Dương Huệ Anh nói tiếp:“Sau đó tôi chuyển sang văn vì ai cũng khuyên là thơ nhiều quá rồi không có ai đọc đâu!”Hồ Trường An:“Ai Nói Vậy? ”Dương Huệ Anh:“ Một nữ sĩ ở Cali nói với tôi: Ông in Thơ dày quá không ai đọc!”Dương Huệ Anh:“Tôi in thế này tước hết để cho tôi đáp ứng được phần tài chánh của tôi. Sau đó tôi chuển qua văn, Truyện ký thì đúng hơn vì dựa vào chuyện có phần tôi trong đó. Tôi tôi đặt tên là Những Cánh Thư Hồng dày khoảng 500 trang. Như qúy vị đã biết biển văn học nó mênh mông lắm nên tôi chuyển sang giới thiệu tác giả giới thiệu các nhà thơ khoảng 100 nhà thơ in năm 2001”Đỗ Bình:“Xin các bậc trưởng thượng cho biết, thế nào là một tác phẩm hay, tác phẩm đó dựa theo tiêu chuẩn nào để đánh giá ?”Dương Huệ Anh:“Nói là giới thiệu tác giả, tôi không làm công việc phê bình mà chỉ viết theo lối tản mạn về văn học, bởi vì nói ngbiêm túc quá ít người đọc, mà có lẽ mìnhcũng không đủ sức chưa đủ thì giờ chưa đủ khả năng nên tôi chọn thể loại này. Nhưng khi ra sách cũng có nhiều người phê bình lắm vì họ cho rằng đây là một biên khảo văn học. Anh em không hiểu, lhông đọc kỹ lời trần tình của mình ban đầu! Nên họ cho là biên khảo văn học có lẽ đối với họ là đứng , nhưng đối với tác giả hơi oan vì mình không chủ trương như vậy mà chỉ là tản mạn văn học!”GS Lê Mộng Nguyên:“Cuốn phê bình văn học Thi Nhân VN của Hoài Thanh Hoài Chân chẳng hạn ? ”Nhà thơ Dương Huệ Anh:“Vâng, đúng thế. Chúng tôi rất thành thật xin qúy vị chỉ giáo, tôi nghĩ rằng mình không thể biết hết được dù mình sống tới trăm tuổi. Xin qúy vị chỉ những khuyết điểm chúng tôi xin sẵn sàng thụ lãnh. Xong cuốn này anh em phê bình dữ lắm nhưng cũng có nhiều người khem và vài người ta không tán thành ! Sau cái này chúng tôi nghỉ và chuyển qua một cái khác, tôi hơi tham vọng mà cái tham vọng đó không phải là cái xấu không đáng kết án, nó không phải là cái tội. Tôi nghĩ có nhiều khía cạnh quá cái nào mình cũng muốn đi sâu vào xem mới biết mới hiểu được. Sau đó tôi viết cuốn : Vài Nhà Thơ Việt Thế Kỷ Hai Mươi, trong tập chúng tôi viết không phân biệt trong nước ngoài nước, Bắc Nam, tuy nhiên mình phải tránh những gì gây xúc động với độc giả. Nhưng khi đem in gặp nhiều khó khăn vì phải tự lực cánh sinh ! Tôi xin phép được dừng ở đây nếi qúy vị có muốn sáng tỏ điều gì tôi xin thưa . xin cảm ơn qúy vị.”Đỗ Bình:“Theo tôi, viết về những tâm hồn phụng sự cái đẹp của người nào đó đã lao tâm lao trí trên con đường văn học nghệ thuật là việc làm đáng khen. Trong lãnh vực phê bình văn học ở hải ngoại hiện nay còn hiếm vì rất ít người chịu dấn thân làm công việc này, người am tường văn học thì già yếu, dần dần ra đi; còn lớp trẻ dù có bằng cấp cao nhưng lại am tường văn hóa xứ người! Do đó người làm công việc phê bình rất qúy vì nhờ họ đã khám phá ra những điều ẩn chứa trong tác phẩm để giới thiệu đến công chúng những chân dung của những người sáng tác. Đánh giá một tác phẩm tùy theo trình độ của người đọc và còn phải đợi thời gian, nhưng hiện tại vẫn cần những người điểm sách, giới thiệu khái quát về nội dung lẫn hình thức để giúp bạn đọc đi vào trọng tâm đỡ mất thời gian.”Và sau đây tôi xin trân trọng giới thiệu đến qúy vị nhà văn Hồ Trường An : Tác giả gần 50 đầu sách về trường thiên tiểu thuyết, tiểu thuyết,và biên khảo, phê bình.”
Nhà văn Hồ Trường An:“Thưa các bậc niên trưởng, và qúy văn hữu:Tôi làm văn nghệ tùy vào cảm hứng vui đâu chuốc đó chứ không nhất định cái gì, nếu cảm thấy hứng là làm. Cần phê bình là phê bình, khi tôi viết về biên khảo không phải là viết toàn sự nghiệp văn học của tác giả nào, mà viết từng cuốn chứ không dám ôm đồm. Nếu có cảm hứng làm thơ thì làm những bài thơ Đường, vui đâu chuốc đó. Tôi có một đức tính: Nếu ai khen thì cũng mừng, còn ai chê thì cũng rán chịu trận chứ không một lời nào đính chính trên báo hết. Bởi càng đính chính thì càng làm cho người ta làm dữ !…. Do đó ai chê tôi thì chê ; ai khen thì mừng tôi không có một phản ứng, thật ra tôi không có buồn, mình làm một món ngon người này ăn thì khen người kia ăn thì chê, kẻ thích mì người thích hủ tíu, còn có người ăn mì ăn hủ tíu nhiều quá lại thích ăn bún riêu. Qúy vị đã đọc qua cuốn biên khảo Thập Thúy Tầm Phương thì cuốn biên khảo thứ tư Tôi đang viết cuốn:Tập Diễn Ngưng Huy trong đó có hai người hiện diện ở đây là anh Võ Đức trung và chị Thụy Khanh: Tôi xin giải thích cái tựa sách: Tập: kết tập, Diễm là đẹp, Ngưng là ngưng lại, Huy là ánh sáng, ánh sáng ngưng đọnglại tôi rút ra từ Hồng Lâu Mộng chứ không phải do tôi đặt. Tóm lại tôi không có chủ trương gì lớn lao, tôi không có tham vọng. Xin dứt lời.”
Đỗ Bình giới thiệu vài nét về nhà văn Võ Đức Trung: “Tác giả nhiều tập truyện, biên khảo. Là một người khiêm tốn giữ được phẩm chất của một cựu giáo chức. Là người chủ xướng thực hiện cuốn Một Phần Tư Thế Kỷ Thi Ca VN Hải Ngoại gồm những bài thơ đắc ý của nhiều tác giả có chung một hoàn cảnh ly hương trong số các nhà thơ hải ngoại. Thời gian chúng tôi chuẩn bị cho thi tập mất 2 năm, khi đua ra thảo luận tại nhà tôi lúc đó gồm: Nữ sĩ Nguyễn Thị Vinh, nhà văn Nguyễn Hũu Nhật, nhà văn Võ Đức Trung và tôi, trong thảo luận thì được biết cái Tựa sách này đã được các nhà thơ Diên Nghị, Song Nhị , Duy Năng ở Cali đã chọn từ lâu và sắp in, họ muốn thực hiện một tập văn học ghi dấu một giai đoạn đời 25 năm xa xứ. Sau đó tôi đã liên lạc với các nhà thơ trên để giải thích sự việc của chúng tôi và đề nghị họ chọn một cái tựa khác. Khoảng một tuần sau họ trả lời là đồng ý, và đã chọn cái tựa khác cho tuyển tập là : Lưu Dân Thi Thoại, hay25 Năm Bút Luận do Cội Nguồn xuất bản.Nhà văn Võ Đức Trung phát biểu:“ Nhận được phôn của anh Đỗ Bình mời tôi nghĩ là lên Paris họp bạn văn nghệ như mọi khi, nhưng khi xem lại thư mời tôi thấy quan trọng quá nên lấy làm ái ngại ! Tôi ở tỉnh lẻ, thỉnh thoảng mới về Paris sinh hoạt sợ phát biểu sẽ trở ngại , hơn nữa như anh Đỗ Bình và Hồ Trường An biết; tôi viết văn về đồng quê mộc mạc nếu có gì sơ xuất mong các anh chị thứ lỗi cho. Tôi xin tâm tình tại sao tôi lại có ý định thực hiện cuốn Một PhầnTtưThế Kkỷ Thi Ca Hải Ngoại. Kể từ sau biến cố năm 1975 mọi người ồ ạt bỏ nước ra đi, dòng thi ca lúc đầu gần như tan tác, cho đến đầu thập niên 80 thì khởi sắc vì số ít nhà thơ vượt thoát ra ngoài được đã bắt đầu viết, hồn thơ còn nhiều tâm tư cảm xúc, nhưng đến cuối thập niên 80 thì bắt đầu có chiều hướng đi xuống vì đa số phải hội nhập với cuộc sống mới! May mắn thay là qua thập niên 90 có một số nhà thơ trong diện anh em H.O khi vừa đặt chân đến ơi định cư họ đã cầm bút lại, dòng thi ca lại dâng cao qua những bài thơ tố cáo sự đàn áp và nhà tù trongchế độ CS, chúng tôi muốn bảo tồn và lưu trữ những sự kiện đó qua thi ca nhưng khi bắt tay vào thực hiện mới biết muôn vàn khó khăn! Chúng tôi tiếp xúc 350 tác giả nhưng phải chọn lựa như thế nào khi cuốn sách chuẩn bị in chỉ giới thiệu có 24 tác giả mà không kêu sự đóng góp ? Cuốn 1 đã phát hành vào tháng 2 vừa rồi, chúng tôi nhận được thư, điện thư, và phôn đến chúc mừng và khích lệ, điều đó là một món quà tinh thần đối với chúng tôi trong công việc bảo tồn văn hóa VN nơi xứ người.”
Nhà thơ Đỗ Bình phát biểu:«Có một nữ sĩ bảo nên thận trọng khi đề cập đến lãnh vực tế nhị tác phẩm và tác giả. Nếu bài giới thiệu không đưa ra những điểm mạnh, độc đáo, thì bài viết đó chỉ là bài khen nhau có tính tâng bốc mà không phải là bài nhận xét, phê bình văn học nghệ thuật! Theo tôi, viết về một người nào, là viết về những tâm hồn của người đó đã bỏ bao tâm trí phụng sự Chân Thiên Mỹ trên con đường văn học nghệ thuật. Đó là việc làm đáng khen, mặc dù đánh giá một tác phẩm rất khó !Sự nhận xét còn tùy theo trình độ, khuynh hướng cảm quan của mỗi người viết, hơn nữa trình độ người đọc hôm nay rất cao. Tuy nhiên thời gian sẽ là thước đo, gạn lọc những điều không phải nghệ thuật, để chỉ còn lại chân gía trị đích thực của một tác phẩm đọng lại trong lòng người.. Nhưng dầu sao, bộ môn văn học & nghệ thuật luôn cần những người giới thiệu khái quát về nội dung lẫn hình thức một tác phẩm để giúp bạn đọc đi vào trọng tâm đỡ mất thời gian.”
Nữ sĩ Minh Châu Thái Hạc Oanh trước năm 1975 là giáo sư trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn, Bà còn là một họa sĩ có tranh triển lãm quốc tế. Tác giả nhiều thi tập và biên khảo:Nữ sĩ Minh Châu:« Có người bảo viết để khen nhau là tâng bốc mà không phải là phê bình văn học nghệ thuật ?»
Đỗ Bình:“Từ bao lâu nay người ta tranh cãi về những chuẩn mực trong văn học nghệ thuật giữa cái hay và cái dở. Trong khi đó thích hay không thích chỉ là chủ quan của người đọc. Tôi thấy hôm nay người làm thơ ngày càng nhiều, đó là điều đáng mừng vì tâm hồn thơ sẽ giúp cho đời thêm hoa, bớt đi sự cay đắng. Nhưng tiếc thay có những bài thơ đạt được cả tứ thơ lẫn cấu trúc thì không nổi tiếng, nhưng có bài chẳng phải là thơ lại được quảng cáo rầm rộ !”
Nữ sĩ Minh Châu:“Tại sao không phải là thơ, văn xuôi khác thơ ở điểm nào?”Đỗ Bình:“Một bài viết cẩu thả, viết cho lấy có, chỉ dựa vào thể tự do để gọi là “thơ” thì chưa chắc đã là một bài thơ, và cũng không thể gọi là văn xuôi? Thơ hiện đại và tự do rất gần gũi với văn xuôi, nhưng làm một bài thơ tự do, hay một bài thơ hiện đại rất khó ! Nhưng khi đã thành thơ thì bài đó sẽ đặc sắc và độc đáo. Theo tôi, một bài thơ hay phải bao gồm mỹ học và ý thơ.”Nhà báo, GS Nguyễn Bảo Hưng:“Văn xuôi là ngôn ngữ thực dụng của kinh nghiệm diễn giải bằng lý trí để mô tả hoặc giải thích một sự vật hay một ý niệm, thơ là một cảm xúc của tâm hồn được diễn tả bằng nghệ thuật.”
Trong lãnh vực phê bình văn học& nghệ thuật ở hải ngoại hiện nay còn hiếm những nhà lý luận phê bình văn học& nghệ thuật, vì rất ít người chịu dấn thân làm công việc này, người am tường văn học thì già yếu, dần dần ra đi; còn lớp trẻ dù có kiến thức rộng, bằng cấp cao nhưng lại am tường văn hóa xứ người! Do đó người làm công việc phê bình rất qúy vì nhờ họ đã khám phá ra những điều ẩn chứa trong tác phẩm để giới thiệu đến công chúng những chân dung của những người sáng tác. Đối với những nhà phê bình văn học, chức năng của họ là khám phá những cái hay cái đẹp và độc đáo trong tác phẩm. Nếu nhà phê bình không khách quan và đi ngoài các khuynh hướng chính trị, tôn giáo thì lời phê đó rất ảnh hưởng cho một tác giả và tác phẩm. Nhà phê bình Văn học với tinh thần khách quan lúc nhận xét một tác phẩm luôn đi tìm để khai phá cái hay, cái đẹp, cái sâu sắc của tác phẩm cùng cái sâu thẳm nơi tâm hồn tác giả, không phải để làm vừa lòng tác giả mà cốt để người đương thời cùng lịch sử văn học sau nầy thẩm định được nếp sống, nếp nghĩ của một thời. Do đó, người làm công viêc phê bình ít nhiều đều chịu trách nhiệm với lịch sử sau nầy. Vì thế, nhà phê bình văn học đứng đắn không khen hão, không chê bừa, không tâng bốc, cũng không cố tình hạ giá tác phẩm cùng tác giả do chủ quan của mình hay do tình cảm thân sơ, yêu ghét đối với tác giả. Công việc phê bình không là công việc dễ dàng vì có nhiều tác phẩm cùng tác giả vô cùng sâu sắc mà đọc không kỹ, khó tìm ra cái đẹp, cái nội dung sâu sắc đó. Do đó, người làm công việc phê bình luôn phải thận trọng, nghiền ngẫm, khám phá ra những nét đẹp ẩn tàng nơi tác phẩm vì đây không phải là công việc làm chơi, làm lấy có mà phải chịu trách nhiệm với lịch sử Văn học, Nghệ thuật. Thường thì tác giả nào cũng muốn được khen, được đề cao giá trị tác phẩm mình mà không để ý đến trách nhiệm lịch sử của nhà phê bình đối với Văn học, Nghệ thuật nên hoặc hân hoan với những lời khen «bốc đồng», vội vã hoặc buồn trách nhà phê bình không «tán dương» tác phẩm mình. Nhà phê bình còn có trách nhiệm khác nữa là khuyến khích, gây tin tưởng cho những tài năng ngày càng được phong phú để có những tác phẩm hay đẹp hơn trước. Khá nhiều trường hợp một tác giả lúc đầu chỉ sáng tác đôi tác phẩm bình thường nhưng do các nhà phê bình đúng đắn mà có được những sáng tác phẩm trổi vượt hơn trước rất nhiều. Vì chính những phê bình dù khen hay chê đã khiến tác giả chăm chút tác phẩm mình, học hỏi, đào sâu tâm thức và nghệ thuật để từ đó có những trước tác nổi bật so với trước. Dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa những nhà lý luận, phê bình dù có kiến thức uyên thâm, lý luận sắc bén, khám phá được cái hay cái đẹp, cái độc đáo trong tác phẩm nhưng lệch đường lối của đảng cũng không dám viết ra; mà chỉ dám viết những điều đảng đã chỉ đạo cho phép! Đối với những tác giả ngoài đảng, có những tác phẩm phản ánh xã hội mang tính phê phán, gây bất lợi cho đảng sẽ bị các «nhà văn hóa đảng» làm nhiệm vụ nhà phê bình, cực lực lên án trù dập tác giả và tác phẩm. Họ tìm những điểm tiêu cực, hoặc những điểm sơ xuất trong tác phẩm rồi phê phán gay gắt, nhằm hướng dẫn dư luận hiểu theo quan niệm của họ. Kết quả là số phận các văn nghệ sĩ cùng tác phẩm của họ bị ghép tội phản động ! Điển hình là vụ án thời Nhân Văn Giai Phẩm, và vụ Văn Hóa Đồi Trụy, thời kỳ sau năm 1975.
Nhạc sĩ Trịnh Hưng, tác giả những nhạc phẩm nổi tiếng một thời: Lối Về Xóm Nhỏ, Tôi Yêu…. :“Thưa Các Bậc trưởng thượng và qúy Anh Chị, cách nay vài tháng chúng ta có làm buổi Kỷ niệm 65 năm sinh hoạt văn học nghệ thuật của nhạc sĩ Xuân Lôi và cũng mừng lễ thượng thọ 85 tuổi để vinh danh người nghệ sĩ lão thành. Hôm đó thật đông, đầy đủ các khuôn mặt văn nghệ sĩ, điều đó nói lên được cái tình nghệ sĩ là chúng ta biết thương yêu và trân trọng nhau thì có khác nào những bài viết khen.”
Nhạc sĩ Xuân Lôi:(giải thưởng Quốc Gia với những ca khúc Tiếng Hát Quê Hương, Bài Hát Của Người Tự Do 1960 ở Miền Nam. Ca khúc nổi tiếng Nhạt nắng: “ xin chào các qúy vị tôi xin độc tấu Hạ Uy Cầm nhạc phẩm Xa Quê Hương điệu valse lente nhạc của Xuân Tiên, lời Đan Thọ viết ngày 28 05 1956.”
GS TS âm nhạc Quỳnh Hạnh (GS trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Sài gòn. Huy chuơng vàng Giải nhất giải Văn Học Nghệ Thuật toàn quốc do Phủ tổng thống VNCH trao tặng, Sài gòn 1974):“ Âm nhạc, ngoài sự thưởng ngoạn ra còn có giá tri về khoa học. Đó là Musicothérapie hay Phương Pháp Trị Bệnh Bằng Âm Nhạc. Thực vậy, bô môn trị bệnh này có từ thời Hy lạp cổ xưa, phối hợp với trị bệnh bằng suối nước nóng, mục đích làm êm dịu thần kinh và xua đuổi đi những sự lo âu, phiền nảo… Ở Châu Á cũng có cụ Khổng Phu Tử có nói trong Lễ Nhạc : Nhạc là để giáo hóa lòng người…Ngày nay qua những bài thuyết trình tại Đại Hoc Sorbonne, Đai Học Y Khoa de Paris, các Phân khoa Tâm Lý Học cũng gây được chú ý của người nghe, nhất là giới trẻ quá nhiều lo âu trong cuộc sống hằng ngày và củng để xả Stress..”
Nhà văn Trần Đại Sỹ, tác giả nhiều bộ trường thiên tiểu thuyết Dã Sử :“thật là một hân hạnh cho tôi được gặp qúy vị, nhất là một người tôi biết rằng hôm nay tôi sẽ gặp, là người mà tôi mắc nợ ngay từ lúc tôi học 6ième mà bây giờ tôi được đến để trả nợ đó là ông Lê Mộng Nguyên. Thưa qúy vị lúc đầu tiên tôi học nhạc là thày Hùng Lân đã đem bản Trăng Mờ Bên Suối dạy tôi. Hễ cứ nói đến ông Lê Mộng Nguyên dù ông có làm cả ngàn bản nhạc thì tôi cũng chỉ biết có Trăng Mờ Bên Suối. Hôm nay tôi có chút quà văn nghệ xin tặng lại hai bộ cuối cùng tiuểu thuyết lịch sử là bộ Nam Quốc Sơn Hà thuật lại chiến công Lý Thường Kiệt đánh sang Tống, Anh Hùng Đông A Dựng Cờ Bình Mông tức là giai đoạn 1đánh quân Mông Cổ lần thứ nhất, còn đánh Mông Cổ lần thứ hai chưa in xin tặng giáo sư.”
GS Lê Mộng Nguyên:“Xin cảm ơn anh Trần Đại Sỹ , tôi rất cxảm động không nói gì được.”
Nhà văn Võ Đức Trung:“ Riêng về anh Lê Mộng Nguyên cái bài Trăng Mờ Bên Suối hay quá hay! Nói thiệt anh, cho dù anh có làm hằng trăm bài khác hay như vậy cũng không rung động được tôi nữa, là bởi vì bài Trăng Mờ Bên Suối khi tôi nghe lên là tôi nhớ đến thuở còn trẻ của tôi khi đi ngang nhũng dòng suối có nước chảy róc rách có những tảng đá tôi băng qua, lại thêm những vần trăng ở quê hương không thể nào quên được những thứ đó nó ngấm vào tâm hồn của tôi nên nghe bài hát có thể chảy nước mắt. ”Vài Nét Về Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên:Lê Mộng Nguyên sinh ngày 5 tháng 5 năm 1930, tại Phú Xuân, Huế. Lê Mộng Nguyên dùng tên thật cho hầu hết các sáng tác, đôi khi ông dùng một bút danh khác là Yên Hà hoặc Lan Đào. Ông là con trai áp út của một gia đình nho giáo, điền chủ ở tỉnh Thừa Thiên. Cha ông tên Lê Viết Mưu, mẹ là bà Hồ Thị Ngô. Ông bà có bảy người con, trong đó Lê Mộng Hoàng, anh của Lê Mộng Nguyên là một đạo diễn điện ảnh nổi tiếng.Lúc nhỏ, Lê Mộng Nguyên bắt đầu đi học ở trường làng Phú Xuân, rồi vào học trường Tiểu học (École Primaire) Chaigneau ở Huế. Sau đó ông thi tuyển vào trường trung học Khải Định và là một trong ba người đỗ đầu, được Chính phủ cấp học bổng. Ông học ở đó từ 1943 đến khi thi Tú tài năm 1950. Lê Mộng Nguyên làm thơ, nhạc và viết văn từ thuở nhỏ, lúc 9 tuổi khởi sự làm thơ và có nhiều bài được đăng trong nội san của trường trung học Khải Định với bút danh Yên Hà.Năm 15 tuổi, trong một cuộc thi Văn chương Học sinh trường Trung học, ông viết một bài về Phan Đình Phùng và đạt giải thưởng Hoàng Đế Bảo Đại, năm đó ông cũng sáng tác ca khúc đầu tay “Xuân Tươi” (dưới bút hiệu Lan Đào), được báo ‘’Quốc Gia’’ đăng trong ‘’Đặc San Mùa Xuân’’.
Năm 18 tuổi Lê Mộng Nguyên đã được cấp thẻ nhà báo, cộng tác cùng nhiều tờ báo khi đó: Phật Giáo Văn Tập, Quốc Gia, Việt Nam Tân Báo, Đường Mới. Năm 1950, sau khi tốt nghiệp Tú tài toàn phần tại Việt Nam, Lê Mộng Nguyên sang Pháp du học, được ông Nguyễn Khoa Nam bảo lãnh tại Paris[1]. Ban đầu ông muốn theo học hòa âm tại Trường âm nhạc Paris nhưng sau đó bỏ ý định, quay sang học luật tại Khoa luật và Khoa học Kinh tế Đại học Paris 1 Panthéon Sorbonne (Faculté de Droit et de Sciences Economiques).Năm 1954, Lê Mộng Nguyên tốt nghiệp Cử nhânLuật. Từ năm 1955 tới năm 1958, ông được mời làm tùy viên kinh tế và xã hội cạnh Tòa đại sứ Việt Nam tại Paris (Attaché économique et social près l’Ambassade du Vietnam à Paris) dưới quyền của đại sứ Việt Nam Phạm Duy Khiêm. Sau đó ông quay lại trường đại học và thi đậu cuộc thi để được hành nghề luật sư. Năm 1962, ông đậu Tiến sĩ quốc gia (Doctorat d’État) với ba bằng cao học về Droit public, Droit privé và Sciences Politiques. Sau khi thôi hành nghề luật sư, năm 1967, Lê Mộng Nguyên dạy luật Hiến pháp (Droit constitutionnel) và Khoa học Chính trị (Sciences politiques) tại trường Đại học thành phố Besançon, miền Đông nước Pháp. Năm 1985 ông quay lại Paris và giảng dạy tại Đại học Paris 8 Saint Denis đến khi về hưu năm 1997. Trong thời gian đó, ông cũng sáng tác nhiều ca khúc, nhưng không phổ biến. Tuy ít tham gia vào sinh hoạt của cộng đồng người Việt tại Pháp, nhưng ông cũng đã ký tên ủng hộ việc cứu trợ nạn thuyền nhânvượt biển. Sau khi về hưu, ông cộng tác với vài báo chí Việt tại hải ngoại, trong đó có nguyệt san Nghệ Thuật của nhạc sĩ Lê Dinh và Hồn Việt của ký giả Vương Huyền.Lê Mộng Nguyên thành hôn với Nicole Moulin, một phụ nữ người Pháp vào ngày 8 tháng 1 năm 1959. Trước đó hai năm, họ gặp nhau sau một cuộc biểu tình tại quận La Tinh Paris. Hai người không có con. Ông cũng chưa từng về lại Việt Nam từ khi đi du học năm 1950.Ngày 5 tháng 12 năm 1997, Lê Mộng Nguyên được bầu vào Hàn lâm Viện Khoa học Hải ngoại (Académie des Sciences d’Outre-Mer) của Pháp, thay thế cho Cựu Hoàng Bảo Đại. Người được bầu vào Hàn Lâm Viện này phải có những tác phẩm được xuất bản, những công trình nghiên cứu đáp ứng đường lối của hàn lâm viện trong công cuộc phát triển văn hóa, khoa học, kinh tế, kỹ thuật hay nhân loại của những quốc gia hải ngoại trong khối Pháp. Lê Mộng Nguyên là người Pháp gốc Việt đầu tiên được bầu làm hội viên chánh thức (membre titulaire), có thể được bầu làm chủ tịch Hàn Lâm Viện này và có quyền bầu để chọn người vào làm hội viên. Trước đó, đã có một số người Việt làm hội viên liên lạc (membre correspondant) như Phạm Quỳnh, Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Tiến Lãng; hội viên cộng tác (membre associé) Thái Văn Kiểm. Cựu Hoàng Bảo Đại cũng là hội viên chánh thức tự do (membre titulaire libre), có nghĩa là hội viên thực thụ không thuộc ban (section) nào cả nhưng có quyền bỏ phiếu hay tranh cử bất cứ chức vụ nào của Hàn Lâm Viện.
Nhà văn Trần Đại Sỹ:“Tôi xin trả nợ nguời đàn anh nhưng cũng ít gặp, tôi qúy ông lắm đó là ông GS,BS Nguyễn Văn Ái, đây là bộ Giảng Huấn Khoa Tình Dục bằng Y Học Trung Quốc (sexologie médicale Chinoise) bây giờ tôi viết sang tiếng việt, bản tiếng Tây thì chưa xong, bản tiếng Anh và Trung Hoa thì ra rồi. Đây gồm 3 quyển, thưa qúy vị: “Người ta cứ bảo sách “dâm thư”, nhưng đây là sách giáo khoa, xin tặng đàn anh, đáng lẽ tôi phải tặng ông Phương Du BS Nguyễn Bá Hậu nhưng ông Phương Du tu rồi sắp sửa thành linh mục đến nơi rồi. Thưa qúy vị mục đích của sách này là làm sao giữ được sức khỏe tăng tiến tuổi thọ, nhiệm vụ nó quan trọng như vậy, xin kính biếu đàn anh.”…..
Ở Pháp không nhiều nhà văn Việt Nam, nhưng lại có 3 nhà văn sáng tác trong hoàn cảnh đặc biệt rất khó khăn khi cầm bút, nhưng một đời yêu văn chương nên vẫn miệt mài viết. Người thứ nhất là: Cố Nhà văn An Khê, tên thật là Nguyễn Bính Thinh sinh 01.09.1923 tại làng Tân An, tỉnh Sa Đéc ; nhưng trưởng thành ở Rạch Giá Kiên Giang). Ông là một cây bút lâu năm trong nghề, gia nhập vào làng báo VN từ đầu năm 1950 cho đến ngày 30. 04. 1975, với các bút hiệu : Nguyễn Bính Long viết về gián điệp, Trương Thanh Vân viết về trinh thám. Năm 1952 ông vào quân đội và năm 1954 ông bị thương ở đèo An Khê hỏng cánh tay mặt. Từ đó ông lấy bút hiệu An Khê và gõ máy một tay để viết tiểu thuyết Dã Sử VN. Ông viết rất khỏe, viết tiểu thuyết đăng các báo hàng ngày cho các nhựt báo ở thủ đô. Năm 1966 ông là chủ nhiệm nhụt báo Miền Tây, là tờ báo đầu tiên của vùng. Sau biến cố năm Mậu Thân tờ báo đình bản. Trước năm 1975 ông cộng tác với các tạp chí : Đời Mới, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Tiếng Chuông, Buổi sáng, Công Nhân, Dân Tiến, Vận Hội mới, Tin Sớm, Tia Sáng, Quyết Tiến, Thời Báo, Cấp Tiến, Dân Chúng, Dân Nguyện, Tiến,… Đã viết khoảng 250 quyển tiểu thuyết, và đã in thành sách ở VN được 22 bộ. Ra hải ngoại vì tuổi tác và sức khỏe kém, nhất là cánh tay bị đau nhức nên ông chỉ viết được ít truyện ngắn cộng tác với một số báo ở hải ngoại như : Làng Văn, Tiểu Thuyết Nguyệt San, Văn Nghệ Tiền Phong, Viên Giác Ái Hữu và Ngày Mai. Năm 1993 Cơ sở Làng Văn (Canada) có giúp ông hoàn thành tác phẩm cuối đời cuốn hồi ký ngắn : Từ Khám Lớn Đến Côn Đảo.
Người thứ nhì là Cố nhà văn Duyên Anh phải viết bằng tay trái sau khi bị tai nạn! Nhà văn Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo…Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Di cư vào Nam năm 1954, ông từng làm đủ nghề : dạy kèm, dạy nhạc..vv. Năm 1960, được sự nâng đỡ tận tình của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn chương và nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng Côn, Thằng Vũ, Con Thúy…. ở thể loại lãng mạn đầy hoài niệm về thời kỳ ấu thơ tại quê hương miền Bắc. Sau đó ông trở thành một ký giả, chủ bút, chủ báo, giám đốcnhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như: Xây Dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc…Những tác hẩm của Duyên Anh trước năm 1975 thường mang tính hiện thục xã hội, diễn tả những mảnh đời sống trong một góc khuất ở những con hẻm, những ngõ cùng nơi đô thị. Ngoài ra, ông cũng viết nhiều truyện ngắn và truyện dài cho thiếu nhi. Sau biến cố 30 tháng 4, 1975, cùng với Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Phan Nhật Nam, Thanh Tâm Tuyền…vv. Duyên Anh bị liệt danh là một trong 10 nghệ sĩ nêu danh là “Những Tên Biệt Kích của Chủ Nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn Hóa – Tư Tưởng” và tác phẩm bị cấm lưu hành. Duyên Anh bị bắt đi tù cải tạo Trong Chiến dịch bắt văn nghệ sĩ miền Nam tháng 4, 1976 của nhà cầm quyền CS ban hành, Duyên Anh cùng chung số phận với các văn nghệ sĩ khác đều bị bắt vào tù . Ông được ra tù tháng 11 năm 1981, sau đó ông vượt biên. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại mang tính phê phán chế độ độc tài CS VN, sách ông được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như Đồi FanTa, Một Người Nga ở Sài Gòn. Thời gian này, ông còn làm thơ và soạn nhạc. Năm 1985, ông bắt đầu cộng tác với tờ Ngày Nay và trở thành một trong những cây bút trụ cột của báo này. Ngày 6 tháng 2 năm 1997, ông mất vì bệnh xơ gan tại Paris, Pháp, để lại hơn 100 tác phẩm.Người thứ ba là Nhà văn Hồ Trường An : Tác giả 80 đầu sách về trường thiên tiểu thuyết, tiểu thuyết,và biên khảo, phê bình. HồTrường An tên thật là Nguyễn Viết Quang, sinh năm 1938 ở Vĩnh Long. Tốt nghiệp khóa 26 trường Sĩ Quan Thủ Đức. Phục vụ tại Ban Thông Tin Báo Chí Quân Đoàn 2&3 cho tới tháng 4 năm 1975. Ông gia nhập làng báo từ thời còn là sinh viên trường Dược qua ngòi bút phóng viên kịch trường từ giũa thế kỷ trước. Thuở đó ông đã làm thơ nhưng khi vào quân đội ông chuyên về báo chí. Sau năm 1975 ra hải ngoại ông cộng tác với nhiều tạp chí, từng làm Tổng Thơ Ký các tập san Quê Mẹ, tập san Làng Văn. Sau khi rời Paris về cư ngụ ở tỉnh Troyes năm 1982, ông đã dành thì giờ chuyên về tiểu thuyết. Văn phong của ông mang chất miệt vườn Miền Nam, sâu sắc, thắm đầy tình người và tự quê hương.Từ cuốn truyện dài Phấn Bướm ấn hành 1986 đến nay ông đã xuất bản được gần 80 tác phẩm thuộc nhiều thể loại gồm 22 truyện dài, 12 tập truyện ngắn, 22 tập biên khảo và 2 tập thơ : Thiên Đường Tìm Lại (2002), và Vườn Cau quê Ngoại (2003). N ăm 2009 ông bị tai biến mạch máu não nặng, toàn thân bất động, lúc đầu không nói được, và trí nhớ cũng quên! Sau một thời gian điều trị trí nhớ của ông được khôi phục và đã dần dần nói được dù rất khó khăn. Chưa lúc nào nhà văn Hồ trường An ham sống hơn lúc này, vì ông còn thiết tha đến văn chương, nặng nợ chữ nghĩa, vì có những mộng ước hoàn thành ! Do đó ông đã cố tập luyện để khắc phục bệnh tật, nhờ quá yêu văn học nghị lực đã giúp ông vượt qua những khó khăn để thực hiện được hai tác phẩm biên khảo chỉ gõ máy bằng một ngón tay, đó là cuốn Núi cao Vực Thẩm, viết về 9 vóc dáng văn học VN của Thế Kỷ 20, và cuốn : Ảnh Trường Kịch Giới, ký ức về điện ảnh VN. Mới đây chúng tôi đến thăm nhà văn Hồ Trường An. Anh Hồ Trường An vừa in xong thêm một tác phẩm thể loại phê bình văn học : «Trên Nẻo Đường Nắng Tới » Gío Văn xuất bản 2013, hiện nay anh có 60 tác phẩm. Mặc dù tuổi đã cao lại bệnh tật và ăn chay trường nên ốm hơn trước, nhưng tinh thần của anh rất sáng suốt. Anh ngồi trên xe lăn trước mặt lúc nào cũng là computeur, anh cặm cụi viết sách, như muốn chạy đua với thời gian. Anh gõ máy bằng một ngón tay còn xử dụng được , thế mà cũng thực hiện được 4 tác phẩm kể từ khi bị đột qụy. Mỗi cuốn khoảng 500 trang, thật là phi thường.
Ông giã từ cõi đời một cách đột ngột ngày 27 tháng 1 năm 2020 tại thành phố Troyes để thả hồn vào một giấc ngủ say. Ông đã rũ bỏ những buồn phiền nhân thế, những nỗi buồn nhớ quê mà suốt đời lưu vong ông chưa một lần trở lại. Giã từ chiếc xe lăn theo áng mây bồng bềnh bay về cõi miên viễn.
Đỗ BìnhParis 24 tháng 2 năm 2022
MẠC PHƯƠNG ĐÌNH:
Vào buổi chiều tối hôm qua, Thứ Sáu 25/2/2021, Lễ Cầu Siêu cho ông Dương Huệ Anh, một văn thi sĩ kỳ cựu của Văn học Hải ngoại vừa qua đời trong tuần trước tại tư gia thuộc thành phố San Jose, đã được tổ chức tại chùa An Lạc, toạ lạc trên đường San Fernando, San Jose CA 95133, với sự hiện diện tham dự của một số thành viên trong Hôi Văn thơ Lạc Việt- một cơ sở Văn học do chính ông Dương Huệ Anh sáng lập trước đây vài mươi năm – cùng một số thân hữu.
Sau đây là một vài hình ảnh chúng tôi đã ghi lại, xin được gửi đến Quý Vi, cùng Các Bạn Xa Gần như thay một lời Phân ưu đến Tang quyến,mà Quý Bạn chưa kịp chia xẻ