VTLV THÀNH KÍNH CHIA BUỒN CÙNG NHẠC SĨ THIÊN PHƯƠNG VÀ GIA ĐÌNH
**
****
***
LỜI CHIA BUỒN
**
Kính gửi: Nhạc sĩ Thiên Phương cùng toàn thể Tang Quyến,
Chúng tôi, toàn thể Anh Chị Em trong Văn Thơ Lạc Việt, vô cùng bàng hoàng và thương tiếc, khi hay tin ái nữ yêu dấu của Nhạc sĩ – Cô Thérèse Võ Tố Nữ – đã sớm lìa xa cõi tạm, trở về trong vòng tay Thiên Chúa.
Trong giây phút tang thương này, chúng tôi xin gửi đến Nhạc sĩ và toàn thể gia đình lời chia buồn sâu sa và chân thành nhất. Mất mát một người con gái hiền thảo, ở tuổi đời còn khá trẻ, là nỗi đau không gì bù đắp được. Chúng tôi xin được chia sẻ cùng gia đình niềm đau ấy, và nguyện xin Thiên Chúa đầy lòng thương xót, sớm đưa linh hồn Thérèse Võ Tố Nữ về hưởng Nhan Thánh Ngài, trong cõi bình an vĩnh cửu.
Xin Chúa cũng ban thêm ơn nâng đỡ và sức mạnh tinh thần cho Nhạc sĩ Thiên Phương, cùng tang quyến, để vượt qua nỗi đau thương mất mát quá lớn lao này.
Với tất cả tình thân, như người trong gia đình và lòng cảm thông sâu xa, Chúng tôi nguyện cầu và luôn ở bên cạnh gia đình trong giây phút khôn nguôi thương nhớ này.
Thành Kính Phân Ưu Văn Thơ Lạc Việt
**
***
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
(Xướng)
*
VĂN THƠ đồng cảm bạn chung tàu
LẠC VIỆT chia buồn – sớt khổ đau
TỐ NỮ ly trần xa tục lụy
THIÊN PHƯƠNG tại thế giữ thương sầu
Vì chưng cạnh Mẹ con từ ái
Nên được về bên Chúa nhiệm mầu
Lá úa vàng đưa – thu khóc nghẹn
Therese – hươngtiễn quyệnkinhcầu.
Phương Hoa – VTLV
CÁC BÀI HỌA Bài “THÀNH KÍNH PHÂN ƯU” Chia Buồn Cùng Chị Nhạc Sĩ Thiên Phương và Gia Đình.
XIN PHÂN ƯU CÙNG TANG QUYẾN GIA ĐÌNH NHẠC SĨ THIÊN PHƠNG.
CÚI XIN THIÊN CHÚA ĐÓN NHẬN HƯƠNG LINH THERESE VÕ TỐ NỮ
1974-2025. HƯỞNG DƯƠNG 51 TUỔI.
GIA ĐÌNH LÊ TUẤN XIN CHIA BUỒN CÙNG GIA ĐÌNH NHẠC SĨ THIÊN PHƯƠNG.
LÊ TUẤN
**
Tưởng Niệm Thérèse Võ Tố Nữ
Một cánh hoa rơi giữa cuộc đời, Hương còn thơm ngát, đã ngậm ngùi Mới năm mươi mốt xuân dừng bước, Nửa chừng nhân thế, vội bước lùi.
San Jose chiều thu buồn lắm Bạn bè thân quyến khóc lệ nhòa. Tố Nữ nay về miền vĩnh phúc, Ngủ yên bên Chúa, giấc an hòa.
Tháng năm Quảng Tín trời trong trẻo, Ấu thơ nồng ấm tiếng mẹ cha.
Đường đời thật ngắn buồn ly biệt Tình thương để lại bao xót xa.
Người đi thanh thoát như mây trắng, Hồn bay về cõi sáng thiên thu. Xin cầu nguyện, lời kinh thắp sáng, Tố Nữ, trong tay Chúa nhân từ.
Tế Luân
Tưởng niệm Therese Võ Tố Nữ
Xin chia buồn cùng gia đình nhạc sĩ Thiên Phương
***
Ban Văn Nghệ VTLV xin Thành Kính chia
buồn với chị Thiên Phương. Thúy Nga
** Được tin buồn Võ Tố Nữ vĩnh viễn ra đi
Xin chia buồn với nhạc sĩ Thiên Phương va tang quyến
Cầu mong linh hồn Võ Tố Nữ được bình an nơi nước Chúa
Thành Thật Chia Buồn
Ngoc Hạnh
*Hồng ThủyXin thành thật chia buồn cùng NS
THIÊN PHƯƠNG cùng TANG QUYẾN.
Xin CHÚA và Mẹ MARIA đưa linh hồn THERESE TỐ NỮ về nước Thiên Đàng.
Hồng Thủy (Văn Bút VNHN Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ)
***
THÀNH THẬT CHIA BUỒN CÙNG ANHCHI NHẠC SĨ THIÊN PHƯƠNG VÀ TANG QUYẾN
NGUYỆN XIN LINH HỒN EM THÉRÈ
SE TỐ NỮ SỚM ĐƯỢC HƯỞNG NHAN THÁNH CHÚA
𝓽𝓷𝓵-thailan/phannữlan
***
MỘT NÉN HUONG TRẦM TIỄN ĐƯA EM THERESE VO SỚM VỀ NƯỚC CHÚA
XIN CHIA BUỒN CÙNG GIA ĐÌNH NS / THIÊN PHƯƠNG
TUYẾT PHAN
*****
Tuyết Nhung Xin chia buồn cùng Chị Thiên Phương
và gia đình Trong sự mất mát quá lớn lao này! XinChúa an ủi gia đìnhvà CHÁU TERESA Tố Nữ sớm hưởng nhan thánh Chúa
Tuyết Nhung
VTLV – TRANG ĐẶC BIỆT THÀNH KÍNH PHÂN ƯU Cùng Hội Trưởng LÊ VĂN HẢI và Phu Nhân KIỀU MY: KÍNH NGUYỆN CẦU CHO LINH HỒN CỤ BÀ MARIA PHAN THỊ THÊM Sớm Được Hưởng Nhan THÁNH CHÚA.
**
KÍNH BÁO TIN BUỒN VÀ LỜI CÁO PHÓ
Trong niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, và trong nỗi đau thương mất mát, không gì có thể diễn tả được…
Tôi xin bàng hoàng, nghẹn ngào báo tin buồn, đến quý thân bằng quyến thuộc, quý bằng hữu, thân hữu xa gần,
Thân mẫu của tôi là:
Bà Maria PHẠM THỊ THÊM,
Đã được Chúa gọi về nhà Cha trên trời,
Hôm qua! Lúc 8 giờ 30 tối, Chủ Nhật, ngày 24 tháng 8 năm 2025 Dương lịch, tức ngày mồng 2 tháng 7 năm Ất Tỵ, âm lịch.
Tại thành phố San Jose, tiểu bang California, Hoa Kỳ.
Hưởng thọ 94 tuổi.
Hiện linh cữu được quàn tại: Oak hill Memorial Park. 300 Curtner Ave, San Jose, CA 92125.
(Chương trình tang lễ, xin được thông báo sau.)
Chút về người mẹ thương yêu của tôi:
Mẹ tôi – người phụ nữ Việt Nam chân quê, bình dị, không một chút chữ nghĩa cao xa, cả một đời chỉ biết sống vì chồng, vì con. Vậy mà số phận nghiệt ngã không buông tha. Năm 1954, Mẹ dắt díu đàn con thơ di cư từ Bắc vào Nam, rồi tảo tần nuôi đàn con khôn lớn trong 20 năm, chiến tranh khốc liệt, luôn sống trong nỗi phập phồng đợi chờ tin dữ, khi đứa con trai, bắt đầu gia nhập cuộc chiến!
Sau biến cố 1975, những nỗi đau Mẹ sợ hãi ngày nào trở thành hiện thực: hai đứa con vĩnh viễn chìm vào lòng đại dương mênh mông, trên đường vượt biển tìm tự do! Nhưng ơn Chúa nhiệm mầu, cuối đời, Mẹ cũng được theo đàn con đến đất Mỹ, sum họp gia đình nơi xứ lạ quê người. Nhưng chưa được bao lâu, lại dính vào căn bịnh lạc trí nhớ hành hạ, cho đến khi qua đời!
Mẹ tôi cả đời chẳng làm gì nên tội, chỉ biết làm mẹ, vậy mà cả cuộc đời lận đận, long đong vì chiến tranh, chia ly, vì thời cuộc. Nhưng Mẹ không đơn độc – bởi phía sau Mẹ là hình bóng của hàng trăm ngàn người mẹ Việt Nam, trong cuộc chiến– đều chịu thương, chịu khó, chịu đựng và hy sinh đến tận cùng, cho chồng, cho con, cho cháu, cho tương lai.
Với tất cả lòng yêu mến, thương nhớ và tiếc thương vô hạn, tôi xin ngậm ngùi, thông báo tin đau buồn nhất đời mình này.
Trưởng nam: Lê Văn Hải
Xin quý thân bằng, quyến thuộc, bằng hữu xa gần, hiệp ý cầu nguyện cho linh hồn mẹ tôi, là Maria sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa.
Xin cảm tạ và thành kính khấp báo.
Điện thoại liên lạc tang gia: (408) 802-5045
**
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
VĂN THƠ LẠC VIỆT nhận tin buồn
Hội Trưởng vườn nhà đẫm lệ tuôn
LÊ HẢI Mẫu Từ vừa tạ thế
MARIA Cụ PHẠM mới về nguồn
Lòng đau chia cắt – đau oằn oại
Dạ xoắn ly từ – xoắn héo hon
Kính tiễn Người lên miền Đất Chúa
Nguyện cầu tang quyến bớt sầu thương.
*
Sầu thương mong giảm, gắng kham lời
Dẫu biết vì con ME một đời
Đất nước chia đôi, miền Bắc bỏ
Quê hương gãy khúc, phía Nam dời
Sinh thành nghĩa cả dường sông núi
Dưỡng dục tình sâu tựa biển trời
Nhưng lẽ vô thường nào tránh khỏi
Mong đừng bi lụy, lệ buồn vơi…
Phương Hoa – VTLV, AUG 26, 2025
**
THƠ HỌA CHIA BUỒN
**
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
Tin Thân mẫu Nhà Truyền Thông Văn Thi sĩ LÊ VĂN HẢI
mới được Chúa gọi về Trời, Xin chia buồn cùng ông bà LÊ VĂN HẢI và tang quyến.
Bài họa thơ để thay lời kính điếu .
CMN
TIỄN CỤ MARIA PHẠM VỀ TRỜI.
(Hoạ thơ chia buồn của Phương Hoa)
Kính Chúa yêu người vẫn thậm buồn
Mẹ đi cõi phúc lệ trầm tuôn
Ngàn trông nhan Thánh, mơ về cội
Vạn nhớ đàn con phước hưởng nguồn
Lạy đấng Ba ngôi ơn cứu chuộc
Van câu nhân thế nỗi buồn chôn
Hắt hiu Cha Cả thiên đường mở
Đón cụ Maria Phạm xót thương
*
Tin hãi từ xa tới nghẹn lời
Mẫu thân Lê Hải vừa qua đời
Trưởng tôn quý tử sầu bi thảm
Lạc Việt Văn Thơ viết tạm dời
Dào dạt tình cha tràn sóng biển
Chan hòa nghĩa mẹ ngập mây trời
Hồn bay về cõi thiên tiên ấy
Ơn Chúa đời đời chẳng thể vơi …
Rancho Palos Verdes 26 – 8 – 2025
CAO MỴ NHÂN
*
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
Biết được hung tin quá đổi buồn!
Mong rằng Anh Chị nén dòng tuôn!
Thung dung Bà Cụ xa rời nẻo
Nhẹ nhõm hương linh rảo đến nguồn
Nẫu dạ u sầu – len dạ cháu
Tím hồn thảm thiết – quyện hồn con
Thiên đàng rộng mở vòng tay ấm
Lạy Chúa yêu Người hãy đoái thương!
Xót Mẫu từ ly khiến quặn lời!
Hoài yêu kính Mẹ dẫu bao đời
Gia đình tiếc nuối nào lay chuyển
Bạn hữu thương yêu khó đổi dời
Hướng dẫn dâu hiền so tợ núi
Khuyên răn trẻ dại sánh như trời
Giờ xin kính cẩn thành tâm bái
Tang quyến thôi buồn, nỗi chóng vơi…
Như Thu
08/26/2025
*
VĂN THƠ CHIA BUỒN
**
Phương Thúy và nhóm CGV thành kính chia buồn cùng anh Lê Văn Hải và tang quyến.
Cầu xin Chúa và Đức Mẹ cứu rỗi linh hồn cụ Maria Phạm Thị Thêm.
Phương Thúy
**
Kính chia buồn đến anh Hải & chị My cùng tang quyến . Xin hiệp cầu linh hồn Maria Phan Thị Thêm sớm hưởng nhan thánh Chúa .
Minh Thúy và Lộc Lê
Mẹ Đã Đi Rồi
( Kính tặng anh Hải & chị My)
Mẹ bỏ con đi, giã biệt đời
Đau buồn thấm dạ lệ tràn rơi
Nghẹn ngào quặn thắt thương Từ Mẫu
Muốn nói môi run khóa nghẹn lời
*
Vất vả “năm tư“ bỏ ruộng nhà
Đôi bờ đất nước nghẹn chia xa
Vào Nam tần tảo nuôi con lớn
Thấp thỏm chiến tranh nối tiếp đà
*
Dưỡng dục công lao tựa biển trời
Mẹ từng chịu đựng khổ nào vơi
Là nguồn hạnh phúc đàn con tựa
Bóng mát còn đâu, mẹ tuyệt vời
*
Giờ cuối luyến lưu cạnh mẹ hiền
Người về bên Chúa ngủ bình yên
Tuổi bền “chín bốn” mùa ơn thọ
Phạm Thị Thêm đà được mãn viên
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 8/26225
**
**
KINH CHIỀU TIỄN BIỆT
San Joe (Jose) bảng lảng xám mây chiều
Chợt vẳng bi thương tiếng hạc kêu
Tách khỏi gian trần trong buốt xót
Xa rời ruột thịt giữa thương yêu
Chung lời khấn nguyện cùng thân quyến
Góp ý van xin với Chúa Dêu(*)
Tha thứ lỗi lầm cho cụ Phạm
Mary sớm hưởng phúc thiên triều.
(*) Tiếng xưa, Jesus
Thái Huy 8/26/25
**
Xin chia buồn cùng Anh Lê Văn Hải và tang quyến. Nguyện cầu hương linh Cụ Maria sớm về cõi Vĩnh Hằng
Kính
Mặc Khách _ Van Lau và Gia Đình
**
YÊN SƠNTHÀNH KÍNH PHÂN ƯU VỚI KQ LÊ VĂN HẢI VÀ ĐỊAI GIA ĐÌNH TANG QUYẾN.
Thành kính chia buồn đến anh Lê Văn Hải và tang quyến.
Xin hiệp ý cầu nguyện cho Linh Hồn Maria Phan Thị Thêm sớm được hưởng nhan Thánh Chúa.
Sương Lam
Gia Đình tôi thành kính chia buồn cùng Anh Lê Văn Hải và Tang Quyến Nguyện xin Lòng Chúa Thương Xót , sự Cầu Bầu của Mẹ Maria ,Thánh Cả Giuse sớm đón nhận Bà Maria PHẠM THỊ THÊM Hưởng Nhan Thánh Chúa
Quốc Việt
888*****
Anh Lê Văn Hải thân mến,
Như Thu cùng gia đình xin gởi lời chia buồn khi hay tin Cụ Bà Maria Phạm Thị Thêm đã được Chúa gọi về, xin nguyện cầu linh hồn Cụ Bà sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa.
Mong Anh Chị Lê Văn Hải luôn nhiều sức khỏe, bình an và chóng vượt qua nỗi đau này.
Thành kính phân ưu cùng gia đình.
Như Thu
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU Nhận tin buồn, thành thật phân ưu cùng Anh Chị LÊ VĂN HẢI và TANG QUYẾNXin góp lời cầu nguyện Linh Hồn Cụ Bà MARIA PHẠM THỊ THÊM Sớm được HƯỞNG NHAN THÁNH CHUÁ. Khánh Thọ & Đỗ Dung
**
Xin chia buồn với anh Lê Văn Hải.
Nguyện cầu xin Chúa thương đưa Linh hồn Cụ Bà Maria sớm hưởng Nhan Thánh Chúa.
Thành kính phân ưu,
Văn Duy Tùng
***
Được tin buồn thân mẫu anh Lê Văn Hải được Chúa gọi về
Xin chia buồn với anh Hải và tang quyến
Cầu nguyên linh hồn Cụ Bà Maria Nguyễn Thi Thêm được an lạc chốn Thiên Đàng
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
Ngoc Hạnh
***
Xin chia buồn cùng anh Lê Văn Hải và nguyện cầu cho hương linh của bác sớm được trở về nơi nước Thiên Đàng của Chúa.
Donry Nguyễn Dình Chiến
**
Thành Kính Chia Buồn Cùng Anh Lê Văn Hải Và Tang Quyến Về Sự Mất Mát Quá Lớn LaoKhi Người Mẹ Thân Yêu Đã Bỏ Con Cháu Để Ra Đi Điều Chắc Chắn: Cụ Bà Maria PHẠM THỊ THÊM Sẽ Được Chúa Cho Đến Cùng Ngài Trong Vòng Tay Yêu Thương Trên Nước Thiên Đàng
Phong Châu Texas
**
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
Xin chia buồn cùng anh chị Lê Văn Hải và gia đình
PHÚC LƯU
***
Ngọc HuyềnEm cũng xin góp nén tâm nhang đến linh hồn cụ bà Maria Phạm Thị Thêm, cầu mong linh hồn bà sớm về cõi vĩnh hằng an yên.
Xin chia buồn cùng gia đình anh Lê Văn Hải, cầu chúc anh và gia đình vượt qua nỗi đau mất mát to lớn này ạ.
Ngọc Huyền và gia đình
**
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU!
Nguyen Xin Linh hon Maria duoc huong nhan Chua!
Vo cung thuong tiec!!!
Xin chia buon cung anh Le Van Hai va quy quyen!
Dong Loi
***
SQ nhận được tin hiền mẫu của chủ tịch VTLV Lê văn Hải là cụ bà Maria Phạm Thị Thêm đã được Chúa gọi về vào ngày 24 tháng 8 năm 2025 tại San Jose – Cali HK hưởng thượng thọ 94 tuổi.
Gia đình Song Quang xin góp lời cầu nguyện đến hương linh Bà sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa
Và cũng xin chia buồn đến gia đình Chủ tịch VTLV .
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
SongQuang VÀ GIA ĐÌNH
**
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU CÙNG ANH CHỊ LÊ VĂN HẢI
VÀ TANG QUYẾN. NGUYỆN XIN LINH HỒN CỤ BÀ MARIA PHẠM THỊ THÊM ĐƯỢC VỀ NƯỚC CHÚA HƯỞNG PHÚC ĐỜI ĐỜI
𝓽𝓷𝓵- phannữlan
**
**
Tina Phạm xin chia buồn anh Lê Văn Hải và gia đình
Nguyện xin Thiên Chúa đưa linh hồn Maria mau về hưởng nhan thánh Chúa. Amen
Tina Phạm
***
Anh Lê Văn Hải quí mến,
Xin hiệp ý cầu nguyện cho linh hồn Maria sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Xin mời anh chị Lê Văn Hải và tất cả các anh chị cùng cầu nguyện với tôi qua những nhạc phẩm:
01.MẸ ƠI | Thơ: Thánh Giáo Hoàng Phaolô II | Nhạc: Phạm Đức Huyến | Ca sĩ: Diệu Hiền
02.Nhớ Mẹ | Phạm Đức Huyến – Ca sĩ Thanh Hoài
03.Thương Cha – Phạm Đức Huyến | Nguyễn Hồng Ân
04.Mẹ Hiền |Phạm Đức Huyến | Ca sĩ: Thùy Dương
05.Mẹ Ơi Con Nhớ Mẹ – Tuấn Lê + Phạm Đức Huyến | Cs.Nguyễn Hồng Ân
VTLV TRANG ĐẶC BIỆT TƯỞNG NIỆM CHIẾN SĨ VÕ ĐẠI TÔN/HOÀNG PHONG LINH.
VTLV KHÓC VÕ ĐẠI TÔN/HOÀNG PHONG LINH
VĂN THƠ LẠC VIỆT rất đau buồn
Kính tiễn anh hùng VÕ ĐẠI TÔN
Suốt cả một đời yêu Tổ Quốc
Và tròn hết kiếp giữ quê hương
Giờ trong bệnh viện còn thơ gửi
Phút cuối dương trần vẫn phát ngôn
“Nhớ nước thương nhà” – nhờ Lạc Việt
Lưu giùm sáng tác PHONG LINH – TÔN
*
PHONG LINH – TÔN, chiến sĩ kiêu hùng
Đất nước hòa bình trách nhiệm chung
Chàng bước dấn thân vào chết chóc
Người đi chiến đấu với gông cùm
Tuổi già sức tận kêu lời chính
Phận lão thân tàn vắt máu trung
Nhắn gửi hậu nhân gìn Tổ Quốc
ĐẠI TÔN quả đúng bậc anh hùng!
Văn Thơ Lạc Việt – Kính Viếng – MAY 25/2025
**
Tưởng Nhớ Nhà Tranh Đấu cho Tự do Võ Đại Tôn *
Một đời yêu Tổ Quốc, Trọn kiếp giữ quê hương. Dấn thân vào trận tuyến, Không quản chốn nhiễu nhương.
*
Chống chủ nghĩa vay mượn Vượt khổ để tìm đường Tuổi già vẫn gắng gượng Đối Cộng chẳng hề nương
*
Giữa phút giây vô thường Viết vần thơ.tưởng tượng “Nhớ nước, nhà tình thương” Gửi vào vườn văn học
*
Hoàng Phong Linh thi sĩ, Bút thép quá gan lì Gió lộng hồn thi vị Lửa cháy chí nam nhi!
*
Anh hùng danh đích thị Truyền lửa Việt quang huy Sử xanh mãi còn ghi, Võ Đại Tôn bất nhị !!!
Nguyễn Hồng Dũng
**
Tiễn Chú Võ Đại Tôn
* Con yêu Tổ Quốc đã xa rời Võ Đại Tôn giờ được nghỉ ngơi Sứ mệnh ươm nòi dù xác bỏ Vai trò giữ nước dẫu xương rơi Anh hùng tiếng đẹp lưu nhân thế Dũng sĩ danh thơm để cuộc đời Chiến hữu Cộng Hoà an thỏa mộng Chèo thuyền Bát Nhã trí nhàn chơi
Minh Thúy Thành Nội Tháng 5/23/2025
**
TIỄN ÔNG VÕ ĐẠI TÔN
*
Chiều rơi mây vắng lặng, Tiễn người về cõi xa. Lòng chan hòa lệ trắng, Nén hương gửi phương xa.
*
Một đời son sắt chí, Đấu tranh chẳng ngại ngần. Mười năm nơi lao lý, Tâm vẫn giữ chân tâm.
*
Ngục tù không khuất phục, Dẫu bóng tối bủa vây. Lời thơ còn lay động, Mẹ Việt vẫn nơi đây.
*
Cánh chim trời đã khuất, Tổ quốc mãi ghi công. Người đi như trăng lặng, Sáng mãi giữa lòng dân.
*
Xin nguyện mười phương Phật, Tiếp dẫn bậc anh hùng. Về nơi miền Cực Lạc, Thoát khổ, được an dung.
*
PhamPhanLang
25/5/2025
**
NƯỚC TRÔI MỒ MẸ
Con quỳ bên ni dòng sông Bên tê mồ Mẹ ! Trời ơi, nước ngập tràn đồng Từng khúc xương trôi đau lòng con trẻ. Con mang trong người thịt xương của Mẹ Chừ trông nước lụt dâng về Con còn bên ni, Mẹ mất bên tê, Sóng bao la vỗ, bốn bề Mẹ mô ?
* Ngày xưa Mẹ chết, con khóc mắt khô, Chừ xương Mẹ trôi, hồn con nước lụt. Nước dâng ngùn ngụt Cuốn mái tranh nghèo. Sóng cuộn mang theo Ngày vàng bên Mẹ.
* Con nhớ ngày xưa tiếng con thỏ thẻ Đòi đi theo Mẹ nhóm buổi chợ làng. Mẹ dắt tay con qua xóm, hoa vàng Nở tươi bờ dậu. Con kêu : – “Mẹ ơi, tưởng đàn bướm đậu” Mẹ cười, bóp chặt tay con.
* Con nhớ những lối đường mòn Trâu bò qua lại. Buổi chiều đơn sơ, lũy tre nằm ôm nắng quái,
*
Con đùa với bóng cau nghiêng. Mẹ la : – “Coi chừng tối ngủ không yên, Giật mình con khóc, bà Tiên bả buồn…”.
*
Con nhớ những mùa mưa tuôn Gió đông kéo về lạnh buốt. Trong lòng Mẹ, con nằm co rút, Mẹ chuyền hơi ấm tình thương Con mê giấc ngủ đêm trường, Mẹ vui.
* Con nhớ dòng sông êm xuôi Trôi về Phố Hội. Giặt áo bên con Mẹ ngồi mỗi tối, Con nhìn cá đớp trăng sao. Mỗi lần sao chuyển ngôi cao Con đưa ngực nhỏ, sao vào hồn thơ. Nhìn con, mắt Mẹ đầy mơ Con đòi Mẹ cõng, hờ ơ… Mẹ hò.
* Chừ con về : nước lũ, sóng to Xoáy cửa, phăng nhà, Xốc trôi mồ Mẹ ! Xương theo dòng sông ngày xưa ra bể Vì chưng lòng Mẹ : đại dương ! Mẹ sống lầm than cho con tình thương Chừ Mẹ chết đi, mồ trôi nước lụt. Con quỳ bên ni, linh hồn tê buốt
Mần răng mà về bên tê chừ, Mẹ ôi !
* Quê hương nước ngập tận trời Hồn con khóc suốt một đời không nguôi!…
Hoàng Phong Linh
*
FLOOD DRIFTED MOM’S GRAVE
I knelt on this of the river side,
Mom’s grave was on the other over the tide!
Alas! Water being submerging all the field to destroy,
Each piece of bone floated in the flood pained this boy.
I have got in my body some Mom’s bone and blood.
Now having to watch the surging flood,
I was still alive here, Mom already dead over there!
The surf was immense, but were you anywhere?
In the past You passed away I cried with eyes dry,
Now Your bones were drifting, my soul the rising high.
The water upheaved batch after batch
Sweeping away the poor thatch;
It also swirled away
By-Mom’s-side so golden each day.
I remembered the time when I supplicated
To follow you to the village market, I duplicated;
You took my hand leading me to the hamlet thence
The yellow flowers bloomed freshly along the fence;
I exclaimed, “Mom, they’re butterflies in a dreamland.”
Mom smiled squeezing my hand.
I remembered the pathways
Buffaloes and cows came and went always.
One afternoon, the bamboo rows, the sun running low,
I played with the slant areca shadow,
Mom lectured me, “Mind your sleep could not be eased,
Startled you’d cry and the Fairy would be displeased.”
I remembered the rainy seasons when
The winter winds came back so cold wherein
Encircled in your arms I lay cowering,
You conveyed your warmth of love towering
For my sleep to get sound, you satisfied in your profound.
I remembered the smooth river to cool down
Flowing to the renowned Hội An Town;
You washed the clothes each evening without variations,
I watched the fish snap the moon and constellations;
Each time a star moved to a higher location
I thrust out my chest so it enters my childish inspiration.
Beholding me your eyes seemed dreaming in the sky;
I wanted to be carried on your back, you did with a lullaby.
At present I had returned: torrential waters, huge waves
Swirled doors, whirled homes, swiped caves;
The flood swept away my Mom’s grave! How to crave!
Mom’s bones made the old stream-drifts-to-sea motion
Because your heart itself is the ocean!
You lived a miserable life to give me your love,
Now you had died; I was kneeling as a mourning-dove
On this side; your grave drifted; my nippy soul died.
THEO TIN TỪ VIỆT BÁO, CALIFORNIA: Nhà hoạt động dân chủ Võ Đại Tôn (1935-2025) vừa mất lúc 22:00 giờ ngày Thứ Sáu 23/05/2025 (giờ Úc) tại bệnh viện Bankstown (NSW), hương tho 90 tuổi, theo tin từ nhà báo Gia Du. Ông Võ Đại Tôn cũng nổi tiếng trong lĩnh vực văn học: ông là nhà thơ Hoàng Phong Linh, đã in nhiều tập thơ trước và sau 1975. . Ông Võ Đại Tôn sinh năm 1935 tại Quảng Nam, là sĩ quan cấp tá trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã từng được biệt phái ngoại ngạch sang nhiều công vụ dân chính tại miền Nam trước 1975 (Phụ Tá Tổng Trưởng Bộ Thông Tin, Giám Đốc Công Tác Bộ Chiêu Hồi năm 1970). . Ông Võ Đại Tôn đã vượt biển đến định cư tại Úc Châu năm 1976 và trở về lại quê hương để tham gia Kháng Chiến Phục Quốc (qua đường rừng Thái-Lào) nhưng đã bị sa cơ vào tháng 10/1981, tại biên giới Lào Việt. Vì cương quyết giữ vững lập trường không đầu hàng Cộng Sản trong cuộc họp báo quốc tế ngày 13.7.1982 tại Hà Nội, ông Võ Đại Tôn đã bị Cộng Sản Việt Nam biệt giam hơn 10 năm tại trại tù Thanh Liệt (B-14), ngoại thành Hà Nội. . Nhà nước CSVN phải trả tự do cho ông nhờ áp lực của Quốc Tế và trở lại Úc Châu ngày 20.12.1991. Từ đó, ông liên tục dấn thân phục vụ Lý Tưởng Tự Do Dân Chủ cho quốc gia Việt Nam, công tác khắp nơi trên thế giới, với cương vị là Tổng Ủy Viên Điều Hợp Trung Ương của tổ chức đấu tranh Liên Minh Quang Phục Việt Nam.
Ngoài các hoạt động đấu tranh chống Cộng Sản, ông Võ Đại Tôn còn là một nhà thơ nổi tiếng về các đề tài Quê Hương Dân Tộc, với bút hiệu Hoàng Phong Linh và là một họa sỹ. Một trong những bài thơ của ông đã được phổ nhạc là bài “Mẹ Việt Nam ơi, chúng con vẫn còn đây”, phổ biến khắp nơi tại hải ngoại từ mấy chục năm qua. Các tác phẩm văn-thơ của ông Võ Đại Tôn trước 1975 là: Hoa Tim, Đêm Trắng, Cánh Chim Bằng, Đăng Trình, Hồn Ca. . Các tác phẩm văn hay thợ sau 1975 là: -Lời Viết Cho Quê Hương. (Năm 1979 tại Hoa Kỳ) – Đoản Khúc Người Ra Đi. (Năm 1986 tại Úc Châu) – Hồi ký lao tù Tắm Máu Đen – Tập Thơ Tiếng Chim Bên Dòng Thác CHAMPY (Năm 1992 tại Úc Châu và năm 2000 tái bản tại Hoa Kỳ) – Tập truyện Chim Bắc Cành Nam (2002) – Tuyển Tập Thơ-Văn Đấu Tranh “Tổ Quốc – Hành Trình 30 năm” (Úc Châu 2005). .
VĂN THƠ LẠC VIỆT – TRANG ĐẶC BIỆT Vĩnh Biệt Anh CHINH NGUYÊN.
LỜI CẢM ƠN TỪ CHỊ TRƯƠNG MỸ THANH – HIỀN THÊ ANH CHINH NGUYÊN
==
===
LÀ ANH CHINH NGUYÊN
Là anh_Lạc Việt của văn thơ
Hội trưởng năm dài đạt ước mơ
Bóng mát che chung thuyền tỵ nạn
Là anh_tâm huyết bỏ hằng giờ
*
Là anh_tuổi trẻ chọn con đường
Không phận bay mờ những tối sương
Dâng hiến đời trai cho lý tưởng
Chim bằng chiến hữu giữ quê hương
*
Là anh_văn hóa kết trao đời
Ngôn Việt lưu vong giữ sáng ngời
In sách tiếng Anh lời Việt dịch
Lưu truyền tuổi trẻ quyết không ngơi
*
Là anh_dốc lực hiến dâng mình
Hải ngại quê người đạt hiển vinh
Tiền bối từng thời luôn kính nể
Văn Thơ Lạc Việt sống bao tình
Là anh_như nắng đẹp mây hồng
Góp sức lo toan việc cộng đồng
Thi phú văn chương tràn suối chảy
Câu vần khỏa bút nhớ non sông
*
Là anh_buột gió những chiều vàng
Hạ trắng thu về dệt vẽ trang
Gối nguyệt thì thầm trao mộng ước
Thi cài bút vẫy mặc thời gian
*
Là anh luôn mãi tốt bao điều
Sức khỏe an lành hội mến yêu
Tửu phú Chinh Nguyên hồn nghệ sĩ
Bên Thanh-vợ tốt quý thương nhiều.
MTTN
25/01/2025
VĂN THƠ LẠC VIỆT TIỄN CHINH NGUYÊN
Thơ Phương Hoa
Chiều SAN JOSE mưa đổ Khóc một vì sao rơi Hoa Vàng Miền Thung Lũng Tiễn CHINH NGUYÊN nghẹn lời
* Từ quê hương chao đảo Biết bao điều nhiễu nhương Xứ người lòng anh vững Trái tim anh quật cường
* Tình yêu ngôn ngữ Mẹ
Văn Hoá của ông cha Hết lòng đem lan tỏa
Tiếng nước Nam ngọc ngà
* Nhiều thập niên anh giữ
LẠC VIỆT ngời VĂN THƠ Giai nhân cùng tài tử
Niềm vui rộn bến bờ…
* Năm châu và bốn bể
Anh kết nối tình thương Như vì sao sáng chói
khắp nơi nơi tỏ tường
* Đến thăm anh lần cuối
Tấm thân gầy mong manh Nghe lời cầu ĐỨC MẸ
Giọt lệ tràn mắt anh
* Từng một thời bảo vệ Tổ Quốc và Không gian CHINH NGUYÊN giờ vĩnh biệt Ôi đớn đau ngập tràn…
* Bài ca xin đưa tiễn Nốt nhạc buồn bâng khuâng Quyện hồi chuông Chúa đợi Rước anh đến Thiên Đường …
Phan Hà xin tiễn biệt anh Chinh Nguyên thân thương của VTLV
CHINH NGUYÊN LẠC VIỆT ĐÃ RA ĐI
Một trời tiếc nuối vì anh ấy
Sẽ bao phủ trôi toàn mây xám
Anh chị em ta cùng ngấn lệ
Tiễn đưa anh một đoạn đường ngắn
Để trọn tình anh với chúng em
Mai sau này đâu còn anh nữa
Cùng họa cùng ca Lạc Việt ta
Hoàng Sa kính bút
TIỄN ANH CHINH NGUYÊN
Đã biết trước nhân sinh là cõi tạm
Nhưng rất buồn nhận tin bạn ra đi
Phương trời xa còn biết nói năng chi
Xin ghi vội vài dòng thơ tưởng niệm
*
Bè dễ có, bạn tâm đầu khó kiếm
Nên đau lòng nghe tin dữ hôm nay
Khói không vương vào sao mắt lại cay
Ngó về phương đó chập chờn sương khói
*
Nén hương lòng thay cho lời muốn nói
Chinh Nguyên ơi! Thôi vĩnh biệt từ đây
Biết sẽ không lâu cũng có một ngày
Mình gặp lại nhau bên kia cõi sống
*
Bạn biết rồi trần gian là cõi mộng
Chúc bạn an vui bên Chúa nhân từ
YÊN SƠN
ĐỜI ĐÓNG LẠI … ́(LA BOUCLE EST BOUCLEE)
Đời đóng lại , lúc hồn ta lìa thế Chắc thoảng vui khi đậy nắp quan tài Vào chốn lạ, chẳng còn mầu dâu bể Và cõi lòng, giải tỏa tiếng bi ai …
Có phải chăng, phút giờ ta nhắm mắt Bỏ gian trần, bỏ ngàn nỗi truân chuyên Đời tục lụy, thoát từ, thôi vướng mắc Thản linh hồn, vĩnh cửu chốn thiên tiên…
Huu-Thien Paul Pham
*******
Lời Chia Buồn Của Nhà Văn Hồng Thủy –
Chủ Tịch Văn Bút ViệtNam Hải Ngoại Vùng ĐôngBắc Hoa Kỳ:
Được tin rất buồn:
Anh CHINH NGUYÊN đã vĩnh viễn ra đi. Xin chân thành chia buồn cùng chị THANH và toàn thể tangquyến. Xin CHÚA và MẸ MARIA đón anh về nước Thiên Đàng. Ở quá xa xôi không đưa tiễn anh được, xinchị THANH tha lỗi. Mình không bao giờ quên được sự đón tiếp nồng hậu của anh chị và các anh chị trong VTLV khi mình qua SAN JOSE.
Hồng Thủy (MARYLAND )
Lời Phân Ưu của văn thi sĩ Yên Sơn:
Nhận tin trễ – vì nhà có nhiều khách phương xa đến thăm Houston-Kingwood từ 19/3 đến hôm nay vừa tiễn vị khách cuối cùng – bạn Chinh Nguyên đã rời bỏ anh chị em chúng ta. Xin thành kính chia buồn cùng chị Thanh và gia đình tang quyến. Chúng tôi xin được cùng ACE chung lời cầu nguyện cho cầu linh hồn anh KQ nhà mình được đời đời an vui bên Chúa nhân từ; chúc Chị và tang quyến sớm vượt qua sự mất mát lớn lao trong đời.
Vô cùng thương tiếc Chinh Nguyên
Đã biết trước nhân sinh là cõi tạm
Nhưng rất buồn nhận tin bạn ra đi
Phương trời xa còn biết nói năng chi
Xin ghi vội vài dòng thơ tưởng niệm Bè dễ có, bạn tâm đầu khó kiếm
Nên đau lòng nghe tin dữ hôm nay
Khói không vương vào sao mắt lại cay
Ngó về phương đó chập chờn sương khói Nén hương lòng thay cho lời muốn nói
Chinh Nguyên ơi! Thôi vĩnh biệt từ đây
Biết sẽ không lâu cũng có một ngày
Mình gặp lại nhau bên kia cõi sống Bạn biết rồi trần gian là cõi mộng
Chúc bạn an vui bên Chúa nhân từ
Thân kính,
Yên Sơn & Ngọc Bích
Lời Chia Buồn Của Văn Thi Sĩ Phạm Phan Lang:
Phan Lang rất xót xa được tin anh Chinh Nguyên đã ra đi vĩnh viễn.
Xin thành kính chia buồn cùng chị Thanh & tang quyến và Thi Đàn VTLV.
Cầu nguyện cho linh hồn anh Chinh Nguyên sớm được hưởnh Nhan Thánh Chúa.
Mong chị Thanh cố nén đau buồn và giữ gìn sức khỏe để lo hậu sự cho anh.
Thành kính phân ưu,
Phạm Phan Lang
Lời Phân Ưu Của Nữ Dịch Giả Thái Lan:
Biết rằng ngày này sẽ đến, nhưng vẫn không khỏi nghẹn ngào… Anh Chinh Nguyên với sự giúp đỡ của chị Thanh đã cống hiến cho cộng đồng thật nhiều công sức của anh chị- Xin kính ơn anh chị-
Mong anh được đón nhận vào Nước Thiên Đàng, nơi không có đau khổ, chỉ có tình yêu và hạnh phúc vô tận. Xin Chúa ban cho chị Thanh và tang quyến sự kiên nhẫn, sức mạnh và niềm hy vọng để vượt qua thời gian đau buồn và mất mát này-
Thành kính phân ưu𝓽𝓷𝓵-thailan/phannữlan
Lời Chia Buồn Của văn thi Sĩ Thủy Lâm Synh:
Được tin nhà thơ Chinh Nguyên đã được về chầu Chúa ngày 8 tháng 4 năm 2025. Xa xôi lắm, chúng tôi không thể đích thân đưa tiễn. Đây nén hương lòng cung tiễn anh về với đấng vô cùng. Thành thật chia buồn cùng tang quyến – Đặc biệt bà quả phụ Chinh Nguyên và nhóm chủ trương Văn Thơ Lạc Việt.
Rất thương tiếc.
Thủy Lâm Synh
CHIẾN SĨ VÕ ĐẠI TÔN: SYDNEY 09.4.25 – CHÂN THÀNH CHIA BUỒN CÙNG TANG QUYẾN VÀ QUÝ THI-VĂN HỮU LẠC VIỆT.
Tin Buồn:
“Gia Đình”, cũng là Thi Đàn Văn Thơ Lạc Việt, xin báo tin buồn đến: Quý Niên Trưởng Cố Vấn, Quý Anh Chị Em Thành Viên, Quý Văn Thi Hữu, Quý Bạn Bè Thân Hữu bốn phương.
Sau thời gian dài, trên nửa năm, chống chọi với căn bịnh ung thư tuyến tụy, Vị Cựu Chủ Tịch thân yêu, đáng kính của chúng tôi là:
Nhà Thơ, Nhà Văn:
Giuse Chinh Nguyên
Vừa được Chúa gọi về:
Lúc 3 giờ sáng, ngày hôm nay! Thứ Ba, ngày 8 tháng 4 năm 2025
Tại bịnh viện Kaiser, San Jose, California, Hoa Kỳ.
Hưởng Thọ 82 Tuổi.
Đây là “Đại Tang” với VTLV, một vị Chủ Tịch nhiều khả năng, nhiệt huyết, tính tình hiền hòa, ai cũng thương, cũng mến. Trên 13 năm nắm giữ, điều động, trong mục đích “bảo tồn và phát huy Tiếng Việt” đã đưa Hội trở thành, một trong những Hội, năng động, hữu hiệu nhất, hoạt động trong mục đích này! nhất tại Miền Bắc Cali nói riêng và tại Hải Ngoại nói chung!
Sự ra đi của Ông, là một mất mát lớn với VTLV, không ai, không gì, có thể thay thế, bù đắp!
(Cáo Phó và chương trình Tang Lễ xin được thông báo sau.)
Quý Vị có thể gởi lời Chia Buồn đến Phu Nhân của Người Quá Cố là Chị Thanh (408) 348-0103
Vô Cùng Thương Tiếc, xin thông báo.
Tiễn Đưa Văn Thi sĩ CHINH NGUYÊN (Minh Thúy Thành Nội)
Vui lòng click vào hình để đọc
TIỄN BIỆT ANH
Tiễn biệt Chinh Nguyên luyến nhớ vương Rời xa chữ nghĩa bỏ lên đường Nỗi đau tiếc nuối người thân thuộc Xót dạ tâm tình Lạc Việt thương Xin Chúa ở trên ân sũng phước Để anh được đến cõi Thiên Phương Cuộc đời cống hiến bao công sức Gát bút an tâm thỏa mộng nhườn
Hoàng Mai Nhất 4/13/2025
Giới Thiệu Chút Hoạt Động,Cảm Nghĩ Về Cơ Sở “Văn Thơ Lạc Việt”
MINH THÚY
Vui lòng click vào hình để đọc
====
KÍNH GỬI đến gia đình anh Chinh Nguyên:
Anh Chinh Nguyên không mất đi mà do anh đã làm tròn nhiệm do Thiên Chúa vgiao phó cho anh ở Trần Gian. Anh Chinh Nguyện đã vác trọn con đường Thánh Giá của anh,và nay anh được Thiên Chúa gọi về và với tài nghệ của anh, tôi tin là anh sẽ được giao phó nhiệm vụ khác, có thể ở Trần Gian này, hay nới nào khác trong không trùng Vũ Trụ, anh ấy sẽ đem Hương Hoa Văn Thơ Lạc Việt trãi thêm Hương Hoa trong vùng Đất Mới.
Bảo Trâm
Tiễn Anh – Chinh Nguyên
Anh đi, nhẹ bước giữa trời,
Tháng Tư sao lại nghẹn lời chia ly!
Năm mươi năm dấu quốc kỳ,
Anh rời nhân thế, sớm quỳ bên Cha.
San Jose chiều gió nghiêng tà,
Văn chương thổn thức, lệ nhòa bài thơ.
Văn Thơ Lạc Việt ước mơ,
Giọng anh chan chứa, ấm bờ thi ca.
Anh đi, ngọn lửa chưa nhòa,
Chúng em giữ lấy, truyền qua hậu đời.
Trần gian cõi tạm đến chơi,
Tám mươi năm chẵn, sáng ngời tài hoa.
Nụ cười anh, dáng hiền hòa,
Thành viên thương mến, bạn già tiếc thương.
Chén trà, khúc hát nghê thường,
Còn vương kỷ niệm ngát hương chữ tình.
Anh về bên cõi yên bình,
Hưởng nhan Thánh Chúa lời kinh “Kính Mừng”
Văn Thơ lạc Việt chẳng ngừng,
Tiếp nối sự nghiệp tôn xưng Lạc Hồng.
Tiễn biệt anh “sắc tức không”
Thơ anh quyện giữa mênh mông ta bà!
Điếu Văn Tưởng Niệm Nhà Thơ Chinh Nguyên
Kính thưa quý vị,
Hôm nay, ngày 4 tháng 5 năm 2025, đúng 50 năm kể từ ngày Quốc Hận lại là ngày ly biệt phân kỳ. Văn Thơ Lạc Việt tụ hội nơi đây để tiễn biệt một người thân, một người bạn văn chương tri kỷ, một thi sĩ tài hoa, Nhà Thơ Chinh Nguyên, một người từng là chủ tịch của nhóm chúng ta đến 13 năm tại vị trưởng nhóm văn đàn, giờ đây anh lặng lẽ rời xa
cõi tạm vào ngày 8 tháng Tư năm 2025 tại San Jose, California.
Nhà Thơ Chinh Nguyên không chỉ là một nhà văn, truyền thông, quay film mà còn là một người gìn giữ và phát huy văn hóa Việt Nam nơi hải ngoại. Với ba nhiệm kỳ làm Chủ tịch Văn Thơ Lạc Việt, anh đã không ngừng nỗ lực kết nối những tâm hồn yêu văn chương, âm nhạc và nghệ thuật, tạo nên một cộng đồng gắn bó, đầy nhiệt huyết và sáng tạo.
Anh luôn hiện diện với nụ cười hiền hậu, ánh mắt ấm áp và tấm lòng rộng mở. Sự hòa nhã và chân thành của anh đã khiến mọi người xung quanh cảm thấy được an ủi và khích lệ. Anh là người bạn, người anh mà ai cũng quý mến, là ngọn lửa âm thầm thắp sáng niềm tin và hy vọng cho thế hệ tiếp nối.
Sự ra đi của anh để lại một khoảng trống lớn trong lòng Văn Thơ Lạc Việt. Nhưng chúng ta tin rằng, anh đã an lành trở về với Chúa, nơi không còn tranh chấp, thị phi, bởi ở đó chỉ có ánh sáng và tình yêu thương vĩnh cửu.
Anh Chinh Nguyên kính mến,
Anh an lòng về bên chân Chúa. Văn Thơ Lạc Việt, những thành viên cũ mới còn ở lại trần gian, xin hứa sẽ tiếp tục con đường anh đã bước, mãi giữ gìn và phát huy ngọn lửa
văn hóa mà anh đã thắp sáng để rồi giờ đây những thành viên còn lại sẽ truyền ngọn lửa ấy cho thế hệ mai sau, với niềm tin rằng, bằng văn hóa và nghệ thuật, chúng ta có thể mang lại niềm tin nhân bản và sự an bình cho dân tộc Việt Nam.
Vĩnh biệt anh – Nhà thơ Chinh Nguyên.
Nguyễn Hồng Dũng
ReplyForwardAdd reaction
VTLV THÀNH KÍNH PHÂN ƯU: Cụ Ông TRẦN ĐÀO
Cáo Phó và Chương Trình Tang Lễ (Thứ Sáu, Thứ Bảy Tuần Này!)Chút Lời Tiễn Biệt Niên Trưởng Trần Đào. Trong Tình Gia Đình Là Ba Vợ, Trong Tình Lính, Là…Chiến Hữu!
(Trong giây phút Phủ Cờ, vào lúc 5 giờ chiều, Thứ Sáu tuần này! ngày 10 tháng 5, năm 2024, tại Oak Hill. Do Lực Lượng Sĩ Quan Thủ Đức Bắc Cali đảm trách.)
-Có lẽ, khó có ai có một Ông Cha Vợ, đặc biệt như tôi cả. Chỉ có Trời thương mới có, con người thì khó có thể sắp đặt.
*Một Chút Về Tôi
Từ nhỏ, tôi đã khám phá bản tính “Nghệ sĩ…lăn lóc gió sương!” trong máu của tôi. Chỉ thích chơi, không thích học, hay chịu khó, chăm chỉ làm lụng như người khác gì cả.
Lên lớp Ba, tôi đã có khả năng “cúp cua”, không đến lớp học, đi chơi, cả tháng trời, mà không ai biết!
Từ trung học trở đi, học thì luôn luôn đứng chót, nhưng môn nào, dính dáng đến chơi, thì lại được bầu làm Trưởng Nhóm! như thực hiện bích báo, tạp chí, cắm trại, tất niên…vv…Vào quân đội cũng thế, khóa tôi đã tặng cho tôi biệt danh là “H.Phè”
Sau 75, là Thuyền Nhân đến Mỹ, tính tình “hại bạn, cà chớn” này, vẫn không thay đổi, làm hết hãng này, đến hãng kia, thay đổi cả gần 10 hãng! Vì không chịu nổi phải đóng khung thời giờ, nguyên tắc bó buộc của một công nhân.
Đành kiếm cách mở thương mại, tự mình làm chủ, thích hợp với bản tính hơn.
Nhưng hoàn toàn sai lầm, với bản tính “lè phè” như thế, làm gì cũng…thất bại!…thê thảm!
Bản tính cà chớn, cà chua như thế, nên không bao giờ có ý nghĩ lập gia đình cả, thân mình chưa lo xong, kéo chi thêm người khác, chung khổ! ai chịu!
*Duyên Nợ Tới!
Cuối thập niên 90, vừa thất bại trong một dịch vụ thương mại làm ăn khá lớn, nợ nần ngập đầu! trong giây phút chán nản, được gặp lại người bạn thân lâu năm khuyên: “Già cái đầu, trên 40 rồi, nên lập gia đình đi, có thể đổi số thì sao!”
Chán quá, đồng ý liền! nhưng kiếm ở đâu? Lúc đó người bạn mới mách bảo: “Tôi vừa bảo lãnh gia đình Ông Cậu, qua Mỹ diện HO, có 6 đứa con gái, nhưng 3 đứa đầu có gia đình, nên không đi theo được, chỉ mang được theo 3 đứa. Đến làm quen đi, nhỡ may có duyên nợ thì sao!”
*Gặp Người Cha Vợ Đặc Biệt!
Trong giây phút chán mớ đời, kiếm mục vui, ai ngờ thành vợ chồng thiệt! Có lẽ mọi việc mau lẹ, tốt đẹp là nhờ Ông cha vợ tương lai của tôi. Không có tuần nào, Ông không mời tới nhà ăn cơm, rồi đi cà phê hỏi thăm, có ý định tiến tới chưa? Lái cái gì mà…chậm rì!
Tôi có tâm sự “bản tính tôi như thế, khó mà thay đổi!” Thích hợp không khí sinh hoạt xã hội, hơn là đời sống gia đình!
Nhưng Ông hứa chắc chắn, không cần thay đổi gì cả, vẫn thích hợp như thường! Tình Chiến Hữu Cư An Tư Nguy mà! (Ông và tôi tuy khác thời gian, nhưng cùng học trong quân trường Thủ Đức) Ông còn tâm sự, đám con rể, đứa nào cũng là dân sự, chỉ có tôi là gốc Lính, nên thấy là hợp liền! OK đi, để cùng…chung lưng chiến đấu!
*Vừa Là Tình Cha Vợ, Vừa Là Tình Chiến Hữu.
Mới đầu tôi không tin lời hứa lắm, chắc chỉ muốn đẩy con gái ra khỏi nhà thôi, nhưng sống càng lâu, mới thấy trên cả những gì tôi mong đợi! Ông đúng là mẫu người Lính đậm tình “Huynh đệ chi binh. Vì dân mà chiến đấu, vì nước (là tôi!) mà hy sinh!”
Đầu tiên Ông về sống với tôi, từ chối chương trình thuê nhà cho người có lợi tức thấp. Vì Ông mà tôi thành người chồng, người cha khá thiếu trách nhiệm, chuyện gì của tôi, Ông cũng nhảy ra lãnh nhận, tôi có 2 đứa con nhỏ, cả thời gian từ tiểu học, đến trung học, đều do Ông đưa đón. Gần 30 năm, chưa bao giờ tôi phải vào bếp, nấu cơm, rửa chén cả, giặt giũ quần áo cũng thế! Ông luôn luôn khuyến khích người trong nhà: “Giúp nó, để nó có thời giờ ra giúp xã hội!” Thật ra giúp xã hội thì ít, nhậu nhẹt, cà phê cà pháo với bạn hữu thì nhiều!
*Cả Đời Là Người Lính “Âm Thầm Không Tên Tuổi!”
Tính Ông hiền lành, ít nói, nhưng tình cảm thì lại đậm sâu, chân tình ít ai có.
Nhóm tù An Điền Tiên Lãnh của Ông, đã giúp tôi tổ chức Đại Nhạc Hội “Tôi Không Quên Anh Người Thương Phế Binh VNCH” ngoài trời, khu Grand Century Mall, vào cuối thập 90, rất là thành công. (Trước các chương trình Cám Ơn Anh, của Bà Hạnh Nhơn, Trúc Hồ), thu được trên 120 ngàn, (thời điểm đó lớn lắm) giúp các Hội TPB đang hoạt động.
Từ đó Nhóm Tù này, còn có Chú Liên, phụ trách mục “Mỗi tuần một hồ sơ giúp TPB” trên báo TM, kéo dài gần 20 năm nay. Đây là công việc cần thiện chí bền bỉ, rất tốn thời giờ. Nhận được hồ sơ, coi lại, liên lạc với VN, đúng sự thật, viết lại, đánh máy, rồi mới cho đăng báo. Tính ra hàng ngàn hồ sơ TPB đã được độc giả, quý ân nhân giúp đỡ trực tiếp! Nhiều hồ sơ thông báo đã đủ, nhường cho các anh em khác!
*Xin Nhận Cái Chào Tiễn Biệt!
Biết nói gì đây! Với Người Cha Vợ, Người Niên Trưởng, Chiến Hữu mà tôi thương mến. Mà tôi lại có cơ hội sống kề cận. Cả đời chỉ cố làm tròn bổn phận Người Lính, cho dù đã tan hàng! gần…nửa thế kỷ!
Khi Ông còn tại ngũ, nhiều lần bị thương trên chiến trường, mảnh đạn vẫn còn ghim trong đầu, bác sĩ bảo, cứ để yên như thế, giải phẫu, có thể nguy hiểm đến tính mạng!
Dù đủ điều kiện giải ngũ, nhưng Ông vẫn xin biệt phái qua Chiến Dịch Phượng Hoàng, tìm kiếm, tiêu diệt cơ sở hạ tầng của địch.
Chính vì thế, sau 75, được dán nhãn hiệu “an ninh, tình báo” cực kỳ nguy hiểm, CS giam trên hàng chục năm trong ngục tù cải tạo, đánh đập đến lạc trí nhớ, thả ra, không còn có khả năng làm việc như người bình thường!
Nhưng vẫn lấy hết sức mình còn lại, lo cho các Đồng Đội, Thương Phế Binh, một thời đã chiến đấu bên nhau, cho đến hơi thở cuối cùng! Còn chọn ra đi, đúng vào…Tháng Tư Đen!
*Lời Khẩn Cầu
Xin Mẹ Việt Nam nhận thân xác này, Người Lính tên Trần Đào, đã được gói trọn trong Lá Quốc Kỳ Ba Sọc Đỏ, đứa con của Mẹ, dù cố gắng hết sức, đã vẫn không làm tròn bổn phận, gìn giữ Quê Hương Đất Mẹ Miền Nam!
Tất cả mất hết, bên “thua cuộc chiến” mà! chỉ còn tấm lòng trung trinh dâng Mẹ! Nhưng con tim còn nguyên vẹn, tình yêu thương Đồng Đội và Quê Hương!
Kính xin Mẹ VN nhận cho!
San Jose, ngày 7 tháng 5 năm 2024
Người Lính LVHải
TRANG PHÂN ƯU Và Hình Ảnh Thăm Viếng Tang Lễ Cháu CALVIN LIÊN TRỊNH Của Văn Thơ Lạc Việt & THƯ CẢM TẠ Từ Gia Đình PHƯƠNG HOA.
Nhà thơ Minh Thúy ngâm mấy bài thơ đưa tiễn
CHIA BUỒN TỪ CÁC VĂN THI BẰNG HỮU
XIN CHIA BUỒN CÙNG CHỊ PHƯƠNG HOA
Đau đớn tột cùng nỗi mất con
Chân thành gởi Chị…gọi “Chia buồn”
Làm sao sẻ được niềm tang tóc
Thấu lẽ “vô thường”…lệ vẫn tuôn !
Lý Đức Quỳnh
*
THÀNH KÍNH CHIA BUỒN CÙNG CHỊ PHƯƠNG HOA VÀ GIA ĐÌNH.
Thân kính, Hải Rừng.
*
Sông Thu xin chân thành chia buồn cùng Phương Hoa và gia quyến. Nguyện cầu hương linh cháu sớm siêu thoát, an vui nơi cõi vĩnh hằng. Mong Phương Hoa giữ được tinh thần và sức khỏe, sớm vượt qua nỗi đau này.
ST
*
Lan kính chia buồn cùng Cô Phương Hoa và gia quyến! Cầu linh hồn em sớm về miền cực lạc! chúc Cô sớm vượt qua nỗi đau buồn tử biệt! Cầu mong Cô giữ an tinh thần và sức khỏe!
Lan kính!
*
LỜI BUỒN CHIA SẺ VỚI PHƯƠNG HOA.
Giấc vô thường, giấc xót thương
Giấc oan khiên, giấc đoạn trường cho thơ
Giấc trôi kiếp nạn vật vờ
Để đời nay mẹ con chờ mai sau
Hoa xuân sao lại héo sầu
Vô cùng thương tiếc dòng châu chia buồn
Người đi thanh thản tâm hồn
Cầu xin kẻ ở tự tồn an nhiên …
Rancho Palos Verdes 4 – 3 – 2024
CAO MỴ NHÂN
*
Tỏ Lòng Thương Tiếc…!
Vô thường cháu ra đi thương tiếc
Mà đau lòng vĩnh biệt con thơ
Nguyện cầu cựu vị trông chờ
Tái sinh hội ngộ như mơ giữa đời…
Yêu con trẻ bâng khuâng lặng lẽ
Mãi xót thương mẹ trẻ đau lòng
Nhang trầm lan tỏa cầu mong
Siêu thăng tịnh độ đợi trông an lành…
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
cùng Phương Hoa và tang gia hiếu quyến
Nay kính
Mai Xuân Thanh
Bay Area March 05,2024
*
Trân trọng gởi lời chia buồn đến chị Phương Hoa .
TIỄN BIỆT
Vô thường được mất thắt lòng đau
Ly biệt con yêu lệ thảm sầu
Trân trọng phân ưu lời chuyển đến
Siêu thăng tịnh độ cõi trời cao
Hưng Quốc
*
Xin chia sẻ nỗi đau đớn tột cùng của chị PHƯƠNG HOA trước sự phân ly vĩnh biệt của đứa con yêu dấu. Chúc hương hồn cháu phiêu diêu trong cõi Vĩnh Hằng.
Xin thành kính phân ưu.
Kính
MAi Lộc
*
CHIA BUỒN CÙNG PHƯƠNG HOA
Xin chị Phương Hoa giảm bớt buồn,
Thân tình chia sẻ nỗi đau thương.
Con đi để lại sầu chan chứa,
Mẹ sống ôm tràn nhớ lệ vương.
Trần thế phủi tay sang kiếp khác,
Gia đình tan nát ngợp nhang hương.
Cầu xin Phật độ hồn Liên Trịnh,
Thoát xác an nhàn tịnh phúc phương.
*
Lời nguyện trọn lòng yêu mến thương!
HỒ NGUYỄN
(08-3-2024)
*
Thưa quý anh chị và các bạn,
PH đã đọc hết những lời phân ưu, những bài thơ chia buồn rất cảm động của các anh chị, đọc mà nước mắt cứ tuôn rơi… nhưng vì mới vừa xong tang lễ cháu, PH còn mệt và đuối sức quá nên chưa thể viết cảm ơn riêng cho từng người, mong quý anh chị các bạn cảm thông mà thứ lỗi cho PH.
TÌNH THƯƠNG
(Thay Lời Cảm Ơn các anh chị các bạn)
Tình thương xoa dịu nỗi buồn
Tình thơ cảm xúc lệ tuôn ngập lòng
Tình người hơn cả đợi mong
Tình thi nhân ấy cũng đồng tâm giao
Tình bạn bè đẹp xiết bao!
Tình trao nhau để ngọt ngào thiên thu
Tình đời vốn kiếp phù du
Tình bao la khiến mây mù xóa tan…
Phương Hoa
Một lần nữa P. Hoa xin kính lời cảm ơn tất cả.
*
Hồng Vân đọc tin đã muộn, xin thành thật chia buồn cùng chị P H và gđ, nguyện vong linh người sớm Siêu thoát về miền cực lạc.
*
Xin chia buồn với Phương Hoa qua bài họa YÊU( bài xướng TÌNH THƯƠNG của Phương Hoa)
YÊU
Yêu thương chia sẻ vui buồn,
Yêu người xa chốn mà luôn gần lòng
Yêu nhau xao xuyến ngóng mong
Yêu tha thiết lắm chữ “đồng” hảo giao
Yêu nhiều ngàn dặm là bao!
Yêu dù củc lụn vẫn ngào ngạt thu
Yêu ai mải bước lãng du,
Yêu trời trong khiến sương mù loãng tan!!
Thanh Hoà.
*
Duy Anh thành tâm chia buồn cùng chị Phương Hoa:
TIỄN BIỆT CON
Tết thật buồn…ôi lạnh tím trời
Lá vàng khóc tiễn lá xanh rơi!
Vô thường, nẽo tử nào qua khỏi
Bất định, đường sinh mãi chuyển khơi.
Thế sự xuôi tay lìa gánh nhọc
Trần đời nhắm mắt trút bầu vơi.
Vãn sanh phần thưởng cho người thiện
Cõi Phật con về chốn thảnh thơi!
DUY ANH
03/07/2024
*
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Yên Hà xin chia buồn với vợ chồng Hiền Muội trước sự mất mác quá lớn này.
VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC THI HỮU NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG (1943-2022)
Một-chín-bốn-ba tuổi Quý Mùi,
“Thiền Sư Xóm Núi” góp thơ vui.
Thi ca xướng hoạ khi chia ngọt,
Văn nghệ giao lưu lúc sẻ bùi.
Viễn xứ lưu vong thời lận đận,
Tha hương tị nạn vận hên xui.
Tro tàn bếp lạnh thương thân phận,
Thung Lũng Hoa Vàng bạn tới lui.
Texas, May 23rd 2022 HỒ CÔNG TÂM—
*
THƠ HỌA
CÕI VĨNH
Cáo phó vừa đăng… tuổi Quý Mùi
Ra đi buông xoá những buồn/vui
Thơ Đường bút hiệu “Thiền Sư… Núi”,
Viết truyện văn phong ngọt lẫn bùi.
Đất Mới diễn đàn chung ý hướng,
Quê Người đóng góp chuyện may/xui
Huynh về Cõi Vĩnh đà an lạc
Xóm Núi từ nay vắng khách lui
Texas, 5/23/2022 – KIỀU MỘNG HÀ
*
THƯƠNG TIẾC THIỀN SƯ XÓM NÚI….!
*
Thiền Sư Xóm Núi tuổi năm Mùi (1943)
Nhắm mắt xuôi tay bỏ cuộc vui?
Đất khách lưu vong từng mặn ngọt
Quê người tị nạn trải chua bùi
Vaccine đủ mũi rồi đi mất…?
Tuổi hạc tám mươi cũng gặp xui
Thắp nén tâm nhang xin tưởng niệm
Siêu thăng Tịnh Độ, bạn bè lui…!
Mai Xuân Thanh May 23, 2022
*
THƠ HỌA (Hồ Công Tâm, tiếp…)
THÊNH THANG CÁNH HẠC
Họa:Vô Cùng Thương Tiếc
“Xóm Núi Thiền Sư’ với tuổi mùi
Lưu vong thơ thận kiếm niềm vui
Nay an phận số tìm thanh tịnh
Hiện lánh nhân sinh hưởng ngọt bùi
Cánh hạc vút bay vào cõi mộng
Hương linh cao thoát khỏi điềm xui
Quả là tốt phúc cho thi sĩ
Chẳng vướng bận chi phải ngó lui.
Thái Huy 5/24/22
*
THI NHÂN NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG
Sinh ra gốc Huế thuộc năm Mùi
Phúc hậu, tâm từ phản mặt vui
Ý nghĩa vần thơ nhiều lúc đắng
Văn chương điệu phú có khi bùi
Buồn non ước nguyện thay điều mới
Khóc nước mong cầu đổi vận xui
Nhắm mắt bao người thương tiếc trọng
Hiền hoà cọng bạn khó trừ lui
Minh Thuý Thành Nội – Tháng 5/25/2022
*
THƯƠNG TIẾC THIỀN SƯ XÓM NÚI
Có được nhiều may,hưởng tuổi mùi,
Cuối đời ,tâm tịnh,lấy làm vui
Bạn bè thơ phú chia cay đắng,
Thi hữu văn chương xớt ngọt bùi
Quên nỗi sai thời,do nghiệp chướng
Buông niềm lỡ vận bởi duyên xui
Lần lên Xóm Núi,âm thanh lặng
Khói nhạt,hương tàn,bước trở lui!
Thanh Hoà 26/05/2022
VĨNH BIỆT THIỀN SƯ XÓM NÚI
*
Thiền sư xóm núi đã đi rồi
Vĩnh biệt nghìn thu vĩnh biệt người
Ông đã về trời xa vắng mãi
Hồng trần cõi mộng người đi thôi.
Từ nay chẳng hẹn bóng phù vân
Chẳng hẹn vần thơ xướng hợp vần
Tiếp nối văn chương ngày hội ngộ
Thế gian tiên cảnh đã xa dần.
Lê Tuấn
THÀNH KÍNH TIỄN BIỆT
Vừa nhận tin buồn báo đến nơi
Văn Thơ Lạc Việt mất thêm người
Một đời bút mực Văn Thi Phú
Bỏ lại trần gian tiếc nhớ thôi
Ly biệt nào ai mong cảnh ấy
Chia tay dạ sót luống bồi hồi
Từ nay cách biệt ôi đành thế
Thành kính phân ưu lệ ứa rồi
Hoàng Mai Nhất (24/5/2022)
XÓM NÚI THIỀN SƯ BÁC Ở ĐÂU?
Xóm Núi Thiền Sư Bác ở đâu?
Tu trong Am Cỏ mãi ưu sầu
Ở đây kinh kệ hằng tơ tưởng
Tám chục tuổi tròn vội bỏ nhau
*
Sống chốn hoang vu chết tịch u
Hồn thiêng Bác bỏ vượt bay vù
Trên đường viên miễn về An Lạc
Hưởng Hạnh Phúc đầy mãi vạn thu..
Trịnh Cơ kính bái
Thơ Họa:
XUYẾN XAO NIỀM NHỚ
Những buổi kính thiền Xóm Núi đâu ?
Đêm khuya khói trắng tỏa cung sầu
Chuông không tiếng mõ nghe trầm lắng
Xướng họa thơ vần lạc mất nhau
*
Giữa chốn phồn hoa,chọn tịnh u
Tám mươi xuân thoáng tựa tên vù
Vẳng nghe khơi lộng chiều xa nhớ
Khói sóng mơ hồ xao xuyến thu…
Lý Đức Quỳnh
25/5/2022
*
ĐƯỜNG XƯA XÓM NÚI QUYÊN BAY MẤT
Cả cười bạn thiết hỏi sư đâu
Xóm Núi buồn tênh vạn cổ sầu
Quạ đậu cây sồi, thương khách lỡ
Quay về than tiếc khổ lòng nhau
* Sư buồn hoa nở sắc mù u
Khách lạ hôm xưa thả vụ vù
Bạn thiết có hay lời tiễn lạc
Của người thiên hạ khóc thiên thu…
Utah 26 – 5 – 2022 – CAO MỴ NHÂN
THƠ HỌA (Trịnh Cơ…Tiếp)
*
XÓM NÚI THIỀN SƯ BÁC Ở ĐÂU ?
An bần lạc đạo có sao đâu
Xóm Núi Thiền Sư há lụy sầu…?
Nếp sống thanh cao rời tục lụy
Cao niên tám chục, vẫn thương nhau
*
Am mây ở ẩn cảnh âm u
Trên đỉnh non cao gió thổi vù
Lẻ bóng vân du miền tịnh độ
Mốt mình đắc Đạo cõi thiên thu…
Mai Xuân Thanh – May 26, 2022
*
DẠO BƯỚC NGÀN THU
Mây trời gió núi tận nơi đâu
Thế sự mang mang nhẹ nỗi sầu
Vĩnh biệt cung đàn thơ một thuở
Trăng lên đỉnh sáng vội lìa nhau
*
Thiền sư viên tịch chốn thâm u
Chiếc lá khuya rơi thoảng chợt vù
Xóm núi cỏ cây dường vẫn đợi
Quanh đây người dạo bước ngàn thu.
Lê Mỹ Hoàn 5/26/2022
*
AM VẮNG
Mây tan Xóm Núi bóng thầy đâu?
Hoa cỏ đường xưa sắc nhạt sầu
Vắng lặng lời kinh đêm huyền tịch
Chuông Chùa ngưng bởi xa nhau
Khung chiều nắng lịm cảnh âm u
Én nhạn trời cao lượn cánh vù
Khuất bóng Thiền Sư về cảnh giới
An bình một cõi đến ngàn thu
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 5/27/2022
Văn Thơ Lạc Việt Vô Cùng Thương tiếc,
Vĩnh Biệt Thi Sĩ Cố Vấn Lão Thành Ngô Đình Chương!
Cách đây gần 2 tuần lễ, có người thân thông báo Thi sĩ Ngô Đình Chương đã qua đời! Định thông báo với Bạn Bè, Thân Hữu ngay Tin Buồn này, nhưng bỗng lưỡng lự, nên chờ Cáo Phó của Gia Đình thì chính thức hơn.
Nay xin được thông báo:
Thi Sĩ Thân Yêu Cố Vấn của Hội chúng ta là:
Thi Sĩ Ngô Đình Chương
Sinh năm 1943 tại Huế.
Đã Tạ thế ngày 8 tháng 5 năm 2022
Tại San Jose, California.
Hưởng Đại Thọ 80 Tuổi.
*
Tang lễ vào Thứ Tư tuần này, ngày 25 tháng 5 năm 2022.
*Quý Anh Chị VTLV muốn đưa tiễn Người Thân của chúng ta, về nơi an nghỉ cuối cùng.
Xin tập họp lúc 11 giờ trưa, Thứ Tư này, 25/5/2022. Tại Nghĩa trang Oakhill, 300 Curtner Ave, San Jose.
Sự có mặt của Chúng Ta, nói lên tình nghĩa với Người Quá Cố, cũng là niềm an ủi với Tang Gia.
*Vòng hoa Phúng Điếu của VTLV, sẽ đến Nhà Quàn trước 9 giờ sáng.
* Một trang Phân Ưu sẽ được đăng trên số Báo TM, ra tuần này.
Vài Nét Về Cố Thi Sĩ:
-Một trong những cây viết “cổ thụ!” lâu năm nhất tại Hải Ngoại. Có mặt trên nhiều diễn đàn Văn Thơ.
-Ngoài thơ, Ông còn là một Nhà Văn với nhiều tác phẩm, bán rất chạy, (hồi đầu thập niên 90) hầu hết do TM xuất bản:
-Bên Lề Cuộc Chiến (truyện)
– Khung Trời Hiu Quạnh (truyện)
-Vàng Son (thơ)
-Bên Trời Mài Kiếm (truyện)
-Kiện Trời (truyện)
-Mèo Con Trong Vườn (truyện)
Trong Giây Phút Tưởng Nhớ, Xin Mời Thưởng Thức Một Vài Bài Thơ Của Cố Thi sĩ:
Xuân Ước Mơ
*
Gặp nhau lần thứ nhất
Tình cảm ấy “Ru Em”
Bầu không khí thân mật
Chúng ta thành bạn quen
Trời cho anh tiếng hát
Tôi chỉ một tấm lòng
Những đứa con Âu Lạc
Trên đất khách phiêu bồng
Anh đúng là nghệ sĩ
Tôi vớ vẩn làm thơ
Nếu chưa là tri kỷ
Cũng chung niềm ước mơ
Quê hương mình trở lại
Những ngày tháng thanh bình
Ấm no và thoải mái
Nhạc và thơ thịnh hành
Những cánh đồng xanh mạ
Những bãi cát trắng dừa
Con người thôi hối hả
Sống thật thà đơn sơ
Anh hát bài “Ru Em”
Đêm Việt Nam yên lặng
Giấc ngủ đẹp hai miền
Sau bao năm thù hận
Ngô Đình Chương
*
Chút Nắng Xuân
Mở cửa hàng hiên chút nắng xuân
Bao hôm mưa bão bệnh trùm chăn
Phù dung ẻo lả bên chòm cúc
Sáo sậu tưng bừng dưới cụm lan
Nước vẫn lửng lơ dòng suối bạc
Hồn đang lãng đãng đám mây vần
Thơ ta nhỏ bé từng viên sỏi
Dốc ấy người ơi nhẹ gót chân
Ngô Đình Chương
*
Tiểu Mão, Chú Mèo Tu
Tàn thu chút nắng đọng ven hiên
Run rẩy mèo hoang ghé tọa thiền
Đôi mắt nguyện cầu dường thoát tục
Bốn chân chắp bái vẻ an nhiên
Lão sư tụng niệm ngồi trầm mặc
Tiểu mão chăm nghe giữ lặng yên
Nhẹ bước theo thầy quanh Xóm Núi
Tu hành người, vật bởi cơ duyên
Ngô Đình CHương
*
Chuyện Một Đêm Trung Thu
*
Bao cánh thiên nga điểm trắng hồ
Bên lầu thủy tạ một Trung thu
Tay hương huyền hoặc chòm dây lụa
Giọng ngọc mê hồn mấy phiếm tơ
Tráng sĩ vung gươm cười bóng nước
Thiền sư múa bút dệt hồn thơ
Vầng trăng vằng vặc màn sương lạnh
Ảo ảnh hay là chuyện cổ xưa?
Ngô Đình Chương
*
Tiếng Kêu Vô Vọng
*
Sao bịt miệng tôi lại bắt giam
Tự do, quyền sống tội gì cam
Ai không phản đối trò tham nhũng
Ai chẳng căm hờn lũ ngoại xâm
Hải đảo biên phòng quà cống hiến
Đặc khu kinh tế đất đem cầm
Ôi Lê Chiêu Thống gương còn đó
Bán nước, ham quyền lú giả câm
Ngô Đình Chương
*
Vòng tay Huế
(vài vần thô thiển tặng người văn chương Hồ Đình Nghiêm, Người Gia Nã Đại gốc Huế)
*
Lưu vong hề…
cúi mặt làm thinh
Gặp nhau hề…
huynh đệ giao tình
Mươi chén chưa say đời Đỗ Phủ
Mấy ngày sao hết chuyện Trang Sinh
Vương vấn hương hoa dài mộng ảo
Phút giây tu dưỡng chút an bình
Xin mời… thí chủ vào am tự
Nhắp chén thiền trà nhớ Đế kinh
Ngô Đình Chương
(Thiền Sư Xóm Núi)
*
Thiếu Nữ Trong Thành Nội
*
Lên kiệu xa hồ kiếp mộc lan
Nhìn lui Thành Nội lệ mi tràn
Bao đêm chăn chiếu con tim đắng
Trăm mối tơ vò hạt ngọc tan
Thân thế vàng son bùn trét lấm
Đài gương năm tháng phấn khô tàn
Biên đình vời vợi tình quê tổ
Võng lọng thêm buồn tước hiệu ban
Ngô Đình Chương
*
Bạo Tàn
*
Sao đem con sáo nhốt trong lồng
Đói khát lâu ngày trụi hết lông
Búa đập mồm thôi kêu được nữa
Liềm cưa cánh mãi vỗ như không
Lắc lư nhúc nhích đâu còn sức
Ú ớ van cầu rõ uổng công
Máu rỉ vết thương mừng chút nước
Chao ôi nhìn cảnh thật đau lòng
Ngô Đình Chương
*
Đổ Lệ
*
Bài thơ đổ lệ Việt Nam ơi
Cộng sản ma vương đội lốt người
Chín đoạn lưỡi bò Tàu cướp đảo
Ba khu kinh tế Trọng thâu lời
Công an, quân độị mau lên tiếng
Trí thức, thanh niên chớ nín hơi
Cách mạng trong, ngoài cùng một nhịp
Biên cương phải giữ dẫu xương phơi
Ngô Đình Chương
*
Hồi Âm
*
Đàn ai thiên lý vọng thiền môn
Xóm Núi dốc lên cỏ lối mòn
Chánh điện hào quang luôn rực sáng
Quanh sân mây gió lúc vui buồn
Hồn thơ lạc nẻo rừng mai trúc
Kinh kệ hồi tâm tiếng mõ chuông
Quá khứ, vị lai trong mỗi niệm
Chung trà sen mạn hướng Hoa Thôn
Ngô Đình Chương
*
Về Quê
*
Về trước làng ta một quý nương
Dáng người thon gọn, tóc pha sương
Áo len, quần lĩnh, giày nhung tía
Mày nguyệt, môi tim, má phấn hường
Cách đứng, cách đi, dân tỉnh thị
Lời ăn, tiếng nói, vẻ văn chương
Gái trai, già trẻ, nhìn nhau hỏi
Phải nữ nhân đây khách lạc đường*
Ngô-Đình Chương
*
Phù Đổng Thiên Vương
*
Vó ngựa ầm ầm từ phương Bắc
Giáo gươm, chiến xa, mũ giáp sắt
Xí xô, xí xà như lang sói
Cướp của, giết người, bắt súc vật
Đàn bà, con nít, khóc thấu trời
Máu chảy, thịt rơi, đỏ mặt đất
Ngô-Đình Chương
Xuân khai bút
Sáng nghe con Vện sủa sau vườn
Đuổi đám gà con chạy hết trơn
Chợt thấy chậu mai hoa đẹp nụ
Mới hay thời tiết nắng vui đường
Đón xuân phố dưới người muôn vẻ
Trẩy lộc chùa bên khách thập phương
Bạn hỏi, ỡm ờ không nhớ tuổi
Năm nầy năm mấy lịch âm, dương?
Ngô-Đình Chương
*
Chuyến Hải Hành
*
Như xác cương thi lấn xuống tàu
Một đi mà chẳng biết về đâu
Mấy ngàn già trẻ ngồi câm hến
Một đám to đầu đứng quỵt râu
Xào xạc mây trời người thút thít
Bập bùng sóng nước ruột đau đau
Lệ mờ bến cũ cơn mê tỉnh
Thưa Mẹ, bao giờ biết gặp nhau
Ngô Đình Chương
*
Tự Trào
(Nhân ngày sinh nhật 9/9/2014)
*
Luẩn quẩn, loanh quanh, bạn chén trà
Lưng còng, gậy trúc, mấy chòm hoa
Sáng mai thức dậy, đau xương cốt
Trưa tối đi nằm, buốt thịt da
Sách đọc nửa trang, buông kính xuống
Cơm nhai vài miếng, tháo hàm ra
Quên quên, nhớ nhớ, cười soi bóng
Tâm Phật, nhưng người quả giống ma
Ngô Đình Chương
*
Chút Kỷ Niệm!
*
Ai mới gặp Ông, lần đầu tiên, lầm chết! Tướng Ông cao to, như dũng sĩ! Nhưng quen lâu rồi, thì không phải vậy, mọi thứ ngược lại!
To như con voi, nhưng hiền khô, tính tình hiền lành dễ mến, ăn nói nhỏ nhẹ, không rượu bia, không thuốc lá, chửi thề! (giống tôi!)
Xong công việc của một Cán Sự Xã Hội, là ra giúp Bà Xã ngay, có Quán Bún Bò Huế, đường Senter, quán sống rất lâu, mà ai ở San Jose cũng đều biết tên.
Ông có một nỗi u uẩn chất chứa trong lòng, vì là con cháu của dòng họ nổi tiếng Ngô Đình, có lẽ vì thế, Ông rất ít nói, cực kỳ tiết kiệm…tiếng cười!
Chúng tôi có duyên, được gặp Ông đầu tiên khi định cư tại San Jose, đầu thập niên 80. Nhà chúng tôi thuê, cạnh nhà ông, chỉ ngăn cách có một hàng rào, lại có cửa thông nhau! Gần đường “Mắt Láo Liên!”
Nên Thi Sĩ với chúng tôi, như người thân trong gia đình, có thức ăn gì ngon, cũng chạy qua biếu nhau. Trong thời gian này, tôi được ăn đồ ăn Huế đến…phát chán!
Ông phụ trách Trang Thơ trên báo chúng tôi, ít ra cũng gần 2 chục năm. Cuối cùng Ông phải từ giã vì…nản quá!
Trước khi ngưng, Ông còn “Khen” mát một câu mà chúng tôi nhớ mãi: “Anh Em chẳng quý chữ nghĩa gì cả, thơ có mấy câu, mà sai cả chục chữ! Bạn bè tôi nói, tôi là Thi Sĩ mà…không biết làm thơ!”
(Thật ra thời đó, làm báo tiếng Việt, đánh máy không có dấu, phải đánh bằng tay! Nên chuyện sai sót rất là thường! Báo phát hành, lúc nào cũng nhận được biết bao lời khiển trách. Như Bánh Mì Thịt Nguội, sau khi bỏ dấu bằng tay, thành Bánh Mì Thịt Người! Phụ Nữ Đảm Đang, sau khi nắn nót bỏ dấu, thành Phụ Nữ Dâm Đãng!…)
Kết
Thật bàng hoàng thương tiếc khi nhận được tin Ông đã rời xa cõi trần gian! Sinh bệnh lão tử, ai cũng phải trải qua, kiếp con người mà. Người đi thì cũng đã đi, nhưng người còn sống thật buồn rầu, ngậm ngùi thương tiếc quá. Chỉ an ủi vào câu: “Chết chỉ là thể xác, người ta coi như còn sống! nếu hình ảnh còn mãi trong tim, những người thân yêu, bạn bè thương nhớ!”
Xin Vĩnh Biệt!
KHÔNG QUÂN LÊ VĂN HẢI
Được tin bác Ngô Đình Chương ra đi gia đình chúng tôi vô cùng xúc động. Từ Việt Nam chúng tôi là hàng xóm của cô Xuyến Qua Mỹ biết thêm anh Chương lại gặp cô Xuyến là phu nhân của bác Chương Liên lạc đọc thơ thi sĩ, gặp chị Chương rất Huế là các tiệm Bún bò. Các cháu nhà tôi thành hôn đều có mặt cô Xuyến với bác Chương Bây giờ bác đi rồi ai viết thêm vần thơ năm cũ. Gia đình chúng tôi xin chia buồn cùng cô Xuyến và các cháu, Tiếc thương nhiều lắm Gia đình Vu van Loc, Vu thi Hong va cac ban cu xa Dong Tien năm xưa. GIAO CHỈ SAN JOSE
PHÚT TIỄN ĐƯA CỐ VĂN THI SĨ NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG
Chân thành gởi lời Cảm Tạ, đến Quý Niên Trưởng Cố Vấn, Quý Anh Chị trong VTLV.
Đã bày tỏ niềm thương tiếc dạt dào, đến Cố Thi Sĩ Cố Vấn Thân Yêu Ngô Đình Chương của chúng ta, trong những giây phút chia ly cuối cùng, cuối đường!
Phái đoàn của VTLV vẫn là phái đoàn đông nhất, có những lời Chia Buồn cảm động, chạm đến tim nhất!
Chắc “thiền sư” giờ ở tận “xóm núi”, nơi “chín núi, chín …suối vàng!” cũng mỉm cười mãn nguyện, về những tình cảm đậm sâu, dành cho Mình, từ các thành viên của Gia đình VTLV!
Xin được gởi tặng đến tất cả Quý Vị, mỗi người một Bông Hồng tươi thắm, thay lời Cám Ơn.
LÊ VĂN HẢI
Tiễn thi sĩ Ngô Đình Chương
Ngày xưa… khoảng hơn 30 năm về trước, lúc ấy các tiệm ăn chưa mọc nhiều. Ngày cuối tuần chúng tôi gồm gia đình bên chồng thường rủ nhau đến quán bún bò ở đường Senter tìm các món Huế nào bánh nậm, bánh bèo, cơm hến… v..v… vì nghe đồn món ăn rất ngon rất Huế, quả là không sai.
Tôi biết cô Ngọc là người đàn bà có nhan sắc, dáng dấp quý phái nhưng qua đây cô bắt tay lanh lẹ, giỏi như bao người Việt chịu khó, chịu làm và business đã bền vững thành công cho đến nay, sau mở thêm chi nhánh khác còn đắt hơn nữa.
Những lần đến tôi thấy người đàn ông cao lớn với mái tóc hơi sói, khuôn mặt hiền lành thường ngồi nơi bàn thâu tiền, thỉnh thoảng khách đông kiêm luôn việc chạy bàn thay công việc cùng cô.
Bẵng thời gian sau này khi tôi gia nhập hội Văn Thơ Lạc Việt, tôi thường nghe trong giới thi văn nhắc nhở tên Chú Chương là thi bá của vùng San Jose, sau biết thêm nữa chú là cố vấn của Văn Thơ Lạc Việt. Sinh hoạt hội Huế thường thấy tên chú trong danh sách ủng hộ $, và vẫn thường nghe ông Kha (cựu Hội Trưởng) nhắc nhở điều đó khi hội họp. Bên Văn Thơ Lạc Việt cũng nghe ông Chinh Nguyên kể nhiều lần “mỗi khi quỹ sắp cạn thì cố vấn Ngô Đình Chương thường tiếp tế $ hoặc những lúc tổ chức việc gì luôn được chú yểm trợ tài chánh. Tôi càng kính nể quý mến chú hơn, chú luôn lặng lẽ âm thầm làm không nói, và cũng ít khi ra ngoài tham dự với đám đông.
Lúc chú sáng tác bài thơ Đường Luật gởi lên diễn đàn, tôi và chị Phương Hoa cũng gan lớn họa lại nhiều lần, từ đó chú thân với chúng tôi và thường gọi chung “hai cô”. Những khi có bài xướng nào chú cũng mời tôi và chị Phương Hoa tham gia góp bút. Lúc đó tôi đang học hỏi bên hội thơ Đường, muốn gởi thơ chú góp họa chung cho vui, và cũng để làm quen vườn thơ chuyên trị về Thất Ngôn Bát Cú. Từ từ chú quen trang chủ Lãng Phong là Lý Đức Quỳnh, một người lịch lãm luôn mở rộng sân chơi đón mời những thi nhân mặc khách đầy sự nâng đỡ và nhiệt tình. Nhìn nhiều bài xướng chú được trang chủ đưa lên diễn đàn mời thi hữu họa, tôi thấy vui theo niềm vui của người có đất dụng võ về thơ Đường.
Thơ chú luôn cô đọng niềm đau mất nước, trăn trở về quê hương trong niềm nhung nhớ. Nhìn khuôn mặt chú đầy vẻ phúc hậu thoát ra nét của người tu tâm thiền tịnh. Sau này thơ của chú phảng phất mùi hương pháp thanh tịnh, buông bỏ mọi tục lụy của thế gian, sớm tối lắng đọng theo lời kinh, tiếng kệ trong khung cảnh thần tiên của xóm núi vang vọng tiếng chuông Chùa, và chú đã lấy biệt hiệu là Thiền Sư Xóm Núi. Những bài thơ nhẹ nhàng đưa dẫn con người ta tìm về bến giác, nơi không có sự ganh ghét, hãm hại của loài người, nơi thức tỉnh tâm hồn dịu vợi hòa sống với cây cỏ hoa lá, chim chóc ca vang giữa chốn thiên nhiên.
Cầm cuốn Tuyển Tập “Sống Với Tâm Nhàn” do cơ sở Văn Thơ Lạc Việt xuất bản năm 2021. Kỷ niệm một thời xướng họa với chú Chương, lòng thấy nao nao cảm giác vừa mất bóng cây cổ thụ rậm mát tỏa dịu dòng chương đầy đạo tâm truyền bá thông điệp của từ bi và bác ái. Từ nay không còn vui chơi xướng họa học hỏi từ chú nữa. Mời các bạn đọc tiêu biểu vài bài thơ xướng của chú Ngô đình Chương cùng thơ họa của Minh Thuý và chị Phương Hoa được trích từ Tuyển Tập.
Bài Xướng
Chiều Đông Trên Đỉnh Trường Lục
Văng vẳng bên đồi tiếng thở than
Chiều đông lành lạnh chốn thanh am
Trùng Dương đã đoạn dây oan trái
Cổ Mộ chưa vơi hận bẽ bàng
Gió nguyện ưu hương rồi tỏa ngát
Rừng thề đạo soái phải cầu van
Nhàn nhân vãng cảnh lưu danh bút:
“Tình thị vô tình, vạn cổ nan!”
Thiền Sư Xóm Núi
Họa
Thiền Sư Xóm Núi
Thiền Sư xa lánh chốn lầm than
Xóm Núi tâm từ tỏa ngút am
Thoát tục thong dong chân trí giả
Buông si thanh thản cánh chim bằng
Non xanh nước biếc vui tu luyện
Thế sự nhân tình mặc thán van
Bát tiết kệ kinh nào ngại khó
Tứ thời chuông mõ chẳng từ nan
Phương Hoa
Họa
Thoát Tục
Êm chiều suối chảy tiếng như than
Núi biếc sương mờ khói quyện am
Đã hết duyên tình rời phố chợ
Thì buông nghiệp kiếp ẩn rừng bàng
Trần ai bám dấu chưa thề bỏ
Cát bụi lìa đời khỏi vái van
Dốc sức khai tâm trì chánh đạo
Tham thiền tịnh độ giải tư nan
Minh Thúy Thành Nội
……………………………………………..
Bài Xướng
Chốn Ẩn Cư
Chiều xuống tàn xuân cảnh ảo hư
Sương mây tám hướng tiếng chuông từ
Lão nhân trầm mặc quỳ chân Phật
Phật Tiểu lơ là cọ bộ lư
Sen súng trắng xanh vừa hé nụ
Thầy trò hôm sớm vẫn công phu
Hạc hồng ríu rít ven bờ suối
Sơ họa vài câu chốn ẩn cư
Thiền Sư Xóm Núi
Họa
Chốn Tịnh Cư
(họa 4 vần)
Khói tỏa giăng mờ giữa cõi hư
Bên sân nắng nhạt biến tan từ
Dâng chưng chánh điện ngời hoa trái
Bật đốt hương đèn sáng bộ lư
Giới định trì kinh rèn đạo hữu
Tu hành điểm hạt luyện thiền sư
Vang đều tiếng mõ hoà câu tụng
Bóng tối ùa về chốn tịnh cư
Minh Thúy Thành Nội
Họa
Độc Cư Tu
Cảnh sắc ngời ngời chẳng huyễn hư
Hồng quang bao phủ chốn am từ
Người tu nhập định tâm không đảo
Kẻ thế tham thiền trí lắc lư
Tại bởi phú cường xoay trưởng giả
Do vì bần khổ chuyển hàn phu
Quyết lòng buông xả quên nhân thế
Đóng cửa dưỡng thần tịnh độc cư
Phương Hoa
Bài Xướng
Cành Mai Dại
Lần nẻo quanh co suối trước am
Sáng nay se lạnh ủ mây lam
Bờ non cây cỏ chim bay đậu
Dòng nước rong rêu đá đứng nằm
Mỗi bước vô tư nhìn suối vật
Hai tay thong thả niệm trong tâm
Đường về ngắt một cành mai dại
Để nhớ quê nhà dịp Tết Xuân
Thiền Sư Xóm Núi
Họa
Tâm Xuân
Vạt nắng chan hoà phủ núi am
Mỉm cười thả bộ ngắm sương lam
Chim ca ríu rít cây cành ẻo
Gió thổi lao xao vạt cỏ nằm
Thanh thản thiền sâu vào biển tuệ
Nhẹ nhàng quán niệm tới bờ tâm
Mai, Đào trổ nụ bừng duyên thắm
Vạn vật tươi màu đón sắc Xuân
Minh Thúy Thành Nội
Họa
Tâm Thiền Quyện Bút
“Thiền Sư Xóm Núi” đã vào am
Tránh cõi hồng trần vướng khói lam
Chắc hẳn đường tu đà dạ ngút
Dường như Phật Học vốn lòng nằm
Vô ưu diện kiến buông trần tục
Bất uý nhìn đời xã thế tâm
Cám cảnh tinh khôi thiền quyện bút
Ngọt ngào vần điệu ngút trời Xuân
Phương Hoa
Bài Xướng
Thu Và Thiền Sư
Sương sớm hương thơ tảng đá cười
Mây vờn cá lượn suối vui chơi
Thời gian vẫn lạnh lùng miên viễn
Cảnh vật đang êm ả tuyệt vời
Sức sãi cuốc cùn duyên bát quả
Trà sen chén rạn lộc tam bôi
Bước đi mỗi niệm sắc không ấy
Ngân hạnh vàng mơ thu nhẹ rơi
Thiền Sư Xóm Núi
Họa
Chiều Êm
Sắc ánh vàng tơ nhẹ nụ cười
Chim vờn bướm lượn nhịp hòa chơi
Mây lùa mọi hướng nào mơ tưởng
Lá rụng muôn phương chẳng mộng vời
Đã hết đêm thu trà giã biệt
Đâu còn giấc hạ rượu ly bôi
“Thiền sư xóm núi” buông niềm tục
Tĩnh lặng tâm hồn nhặt nắng rơi
Minh Thúy Thành Nội
Họa
Sương đẫm hồn thơ biếc nụ cười
Thu vàng cúc đọ ánh vàng chơi
Bóng câu hiên ngoại vừa loang loáng
Dáng trúc vườn trung đã ngút vời
Nhập thất nề chi trà mấy độ
Tham thiền há tiếc rượu dăm bôi
Luận trong nhân thế vòng sanh diệt
Thoắt sáng thoạt chiều hết nắng rơi
Phương Hoa
……………………………………………………….
Bài Xướng
Am Vắng
Chiều hôm am vắng cảnh mây mù
Thấp thoáng gần xa bóng dáng thu
Vạt cúc nở vàng hương nhẹ nhẹ
Hàng thông trở lạnh gió vu vu
Gõ hồi chuông mõ lòng an tịnh
Mời chén trà sen khách lãng du
Thư bút, tranh thơ cùng đạo hữu
Cửa không lòng trống ngọn đèn lu
Thiền Sư Xóm Núi
Họa
Cõi Tịnh
Bụi đất rừng cây cảnh xám mù
Bên ngoài chẳng rõ đã xuân thu?
Hương đàm vị thấm chèo sông nhịp
Pháp giới căn đầy lái biển du
Lối đến ngôi Chùa chim nhảy giỡn
Đường vào ngõ Tự gió hoà ru
Sư già một bóng ngồi yên lặng
Vận dụng tham thiền ngọn bấc lu
Minh Thúy Thành Nội
Họa
Thiền Viện
Thiền viện uy nghi tuyết tỏa mù
Sắc không nào sá chuyện xuân thu
Giúp đời gần với câu kinh kệ
Trợ thế xa dần khúc nhạc Vu
Quả chốn an nhiên nương tịnh độ
Là nơi tự tại bước nhàn du
Trơ gan muôn thuở cùng sương nguyệt
Quang ánh tháp ngà mãi chẳng lu
Phương Hoa
………………………………………………………..
Hôm nay đến Oak Hill Funeral Home & Memorial Park tại 300 Curtner Ave, San Jose.
Rất đông bạn bè thân hữu đến thắp nhang. Tôi nhận thấy có những khuôn mặt quen thuộc đại khái như anh Nguyễn Văn Kha (cựu hội trưởng hội Huế), anh Lê Minh Hải (Tân Hội Trưởng hội Huế), anh Lê Đình Bì giám đốc đài Việt Today, thầy Ngô Châu (dạy đại học Văn Khoa trước 75), nhà thơ Ngọc Bích, phu nhân ông Lê Đình Vọng, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Dũng (phó ban ngoại vụ của cơ sở VTLV, anh Chinh Nguyên (cựu hội trưởng VTLV, anh Lê Văn Hải (Tân Hội Trưởng VTLV và là chủ báo Thằng Mỏ)….Nhà văn Giao Chỉ Vũ Văn Lộc.
Nhìn di ảnh chú Chương khói quyện bay nghi ngút với nét mặt nhân hậu, định luật Sinh Lão Bệnh Tử nào ai tránh khỏi, dẫu hiểu dòng sinh Không Sanh Không Diệt nhưng mấy ai tránh khỏi bùi ngùi thương tiếc người hiền lương, nhà văn nhà thơ nổi danh đã để lại cho đời những tác phẩm bình yên nhẹ nhàng như dòng suối mát tâm linh, làm vơi đi phiền não trong kiếp sống bận rộn nhiều nghiệp chướng này.
Đúng 2 giờ chiều các thầy Chùa Từ Lâm đến làm lễ cầu siêu đưa tiễn, Thầy điều động tổ chức đám tang, cần số người cầm ảnh Phật, trướng liễn, số người cầm hoa quả đem ra nhà Quàn làm lễ lần cuối. Người thân trong gia đình vẫn chưa đủ nên nhờ thêm, tôi được phân công ôm mâm trái cây cùng con gái chú Chương, mọi thứ đều tùy vào duyên…và tôi đã được cái duyên tiễn chú đến giờ phút cuối.
Chú Chương kính mến! MT đã đưa chú đến nơi an nghỉ cuối cùng, được hộ niệm thời kinh cho người mất. Hôm qua dự lễ Phật Đản tại Sài Gòn Kitchen do thầy Thích tánh Tuệ hướng dẫn, MT đã nguyện cầu đọc tên tuổi năm sinh của Chú. Chú mất vào ngày 8 tháng Tư Âm lịch nhằm ngày Đức Phật Đản Sanh, thật thiêng liêng xứng hợp biệt danh Thiền Sư Xóm Núi.
Hai bài thơ cuối cùng MT viết tặng Chú
1/ Tiễn biệt Thi Nhân
Vĩnh biệt từ đây thiếu bóng hình
Tin buồn Bác mất nghẹn cầu kinh
Thương người đức độ hòa nhân ái
Quý bậc tài cao sống nghĩa tình
“Xóm Núi “âm thầm rời nhẹ nhõm
“Thiền Sư “lặng lẽ ngủ an bình
Lãng Phong đã hết dòng Chương ngỏ
Bạn hữu đau lòng cảnh tử sinh
Minh Thúy Thành Nội
2/ Đám Tang Nhà Thơ Ngô Đình Chương
Tiễn biệt thi nhân một đoạn đường
Mi nhoà khói tỏa quyện mùi hương
Người thân lặng lẽ buồn châu rớt
Bạn hữu âm thầm tiếc lệ vương
Đã hết vần thơ dìu bóng hạ
Còn đâu điệu phú nở hoa vườn
Thành tâm niệm Phật đồng vang tiếng
Nối bước quan tài nỗi luyến thương
Minh Thúy Thành Nội
Mùa xuân sắp tàn, nắng hạ đã rực lên. Nhìn ánh nắng chiều tan dần nhường bước bóng hoàng hôn từ từ phủ xuống. Những con chim bay xa cuối chân núi qua khung cửa sổ, ngồi đọc lại thơ Chú, dòng thơ nhẹ như vạt mây trắng đang trôi lãng đãng trên nền trời xanh mát.
Giã biệt Chú Chương…nghìn thu an giấc….
Minh Thúy Thành Nội
25/05/2022
“Tiễn Biệt” Thi sĩ Ngô Đình Chương (KIM THƯ diễn ngâm)
Tôn Nữ Áo Tím
Tiễn Biệt (MP3)
MỘT ÁNH SAO Vừa Rời Khỏi Bầu Trời Văn Học Việt – Phương Hoa
Lễ Cầu Siêu cho văn thi sĩ Dương Huệ Anh tại Chùa An Lac. San Jose
Một Ánh Sao Vừa Rời Khỏi Bầu Trời Văn Học Việt
*
Người ta nói, cuộc đời là vô thường, có đó rồi mất đó, quả thật không sai. Mới tháng 1 sau Tết Tây 2022, một người còn vui vẻ yêu đời, làm thơ Xuân rộn rã, gửi đi chia sẻ trên các diễn đàn. Vậy mà…ngày 17 Tháng 2, tin từ Văn Thơ Lạc Việt gửi ra: “Văn Thi Sĩ Dương Huệ Anh, tên thật là Phạm Ngọc Tường, một trong những nhà sáng lập Văn Thơ Lạc Việt (VTLV) từ năm 1992, hiện là cố vấn của VTLV, vừa tạ thế, hưởng đại thọ 97 tuổi.”
Tôi thật bất ngờ khi nhận được tin, lòng bàng hoàng tiếc thương khôn tả. Mới hôm nào Bác Dương Huệ Anh gọi nói chuyện với tôi, giọng Bác vẫn còn sang sảng, giòn giã và vui vẻ như một người bình thường không đau yếu. Bác là một người mà tâm tư luôn đau đáu về việc bảo tồn văn hóa của quê hương. Mỗi lần gọi, Bác trao đổi thật nhiều với tôi về những dự định của Bác, về những tác phẩm Bác đang viết dở dang, và về những băn khoăn, lo âu văn hóa và tiếng Việt nguyên thủy của dân mình sẽ bị thay đổi làm cho mất gốc nếu thiếu người gìn giữ.
Điều quan trọng và cảm động nhất, là những lời tâm tình của Bác, rằng Bác rất vui vì thấy Văn Thơ Lạc Việt trải qua suốt ba chục năm thăng trầm, đến giờ này vẫn còn tồn tại và ngày càng phát triển. Bác còn dặn dò tôi, hãy cố gắng phụ giúp cho VTLV thành công hơn nữa “Cô nhớ đừng có bỏ đi đâu nghe!” Và có lần Bác nói:
“Tôi đang góp nhặt thông tin để viết về tiểu sử và những thành quả của các văn thi sĩ Việt Nam khắp nơi, và ngoài những tác giả lão thành, tôi cũng sẽ viết về những người trẻ như cô và cô Minh Thúy; tôi sẽ lấy tiểu sử của cô trong bản thảo ‘TT Thơ Viết Cho Hồn Dân Tộc’ nhé!”
Tôi giật mình, kêu lên:
“Ấy chết! Bác ơi, cháu thuộc vào hàng hậu học, văn thơ còn non nớt lắm, cháu vẫn đang vừa viết vừa học mỗi ngày, đâu có công trạng chi đáng nhớ mà bác đem vào sách cùng với những bậc tiền bối, người ta sẽ cười cho đó ạ.”
“Tôi có cách viết của tôi mà, đừng lo!” Bác cười nói. “Tôi không phải chỉ liệt kê hàng loạt tiểu sử của các tác giả và tác phẩm đâu, người ta sẽ nhàm chán, lần này tôi viết theo kiểu khác!”
Khi tôi kể lại cho người bạn Minh Thúy nghe, “Tụi mình đều đã sắp, hoặc…đụng hàng số bảy
rồi, mà bác Dương Huệ Anh gọi là ‘những người trẻ’ nghe thương bác quá, đúng là bác xem tụi mình như hạng cháu con.” Cô bạn tôi cười, “Là bác nói tụi mình những cây bút trẻ đó, ở đó mà…ham trẻ!”
Những lời của Bác như còn vang vọng đâu đây. Thế mà bây giờ Bác đã vĩnh viễn lìa xa. Bác ra đi để lại một gia tài văn học đáng kể vì sức viết của bác thật bao la, đủ các thể loại, và triền miên như dòng chảy. Ngoài những tác phẩm xuất bản trước 1975 như, “Thơ Xanh”, “Tâm Lý Phụ Nữ Qua Ca Dao Tục Ngữ”, “Huyền Ca, Diễm Ảo tập 1,2” năm 1958… ra, tại Mỹ, Bác đã phát hành tổng cộng dễ cũng gần ba chục tác phẩm, gồm Thơ, Văn, Biên Khảo, Truyện Dài, kể cả CD, như thơ “Tha Hương Mười Tám Năm, Sầu Có Ai.”, “Dịch Và Bói Dịch (sơ giải, 2005)”, “40 Năm Tị Nạn Buồn Vui”, “Ðường Nào Có Hoa Ðào”, “Quê Hương Vĩnh Cửu Tình Yêu”, và nhiều tác phẩm khác, cùng những bản thảo đang dở dang chờ hoàn thiện…
Bác DHA là người đa tài. Ngoài sách truyện và biên khảo ra, Bác có một kho tàng thơ rất phong phú. Thơ của Bác từ ngữ giản đơn dễ hiểu, nhưng rất ngọt ngào và trữ tình. Nhiều người bạn tôi bên Văn Bút nói, “Tuổi bác DHA tuy già nhưng thơ và tâm hồn bác luôn luôn trẻ.”
Tình cờ giở ra tập thơ “QUÊ HƯƠNG Vĩnh Cửu TÌNH YÊU” xuất bản năm 1992, một trong nhiều tập thơ, truyện, sách biên khảo, mà Bác DHA đã tặng, tôi gặp những lời thơ thật thiết tha:
“Tháng Bẩy, mưa Ngâu, lệ ngập trời,
Sầu dâng bốn bể, lạnh ngàn khơi!
Mưa đừng mưa nữa, lòng thêm khổ,
Để trái tim băng ấm mặt trời!” (Tháng Bẩy, Mưa Ngâu – DHA – tr. 35)
Là một trong những nhà sáng lập VTLV, Bác luôn trân trọng những cuộc thi Văn Thơ tổ chức hàng năm của VTLV. Trong “Thiên Niên Kỷ Mới, Độc Hành, Ta Vui” xuất bản năm 2004, Bác đã đưa vào thơ việc này:
“Mười năm, Lạc Việt dựng đàn thơ
Mong giúp người, chau chuốt tiếng tơ
Thi tuyển hàng năm, dăm, bẩy tập
Xuân Thu mỗi số mấy trăm tờ…” (Tớ Thầy Cùng…Chủ Hội – DHA tr.95)
Gần đây, cuối 2021 đầu Năm Mới 2022, những câu thơ mượt mà, yêu đời, yêu người, bừng sức sống của một người sắp kề cận bách niên như Bác đã làm cho nhiều văn thi sĩ trong các diễn đàn, như VTLV, Cô Gái Việt, và Văn Bút VN khen ngợi:
“… Cuối năm, có lắm tin vui,
Xa, gần… mừng Lễ Chúa Trời Giáng Sinh!
Chúc nhau sức khỏe, tâm bình,
Gieo nhân, hái quả…nở nghìn, trăm hoa….
Thêm vui, bạn quí, *phương xa,
Dù cao tuổi, vẫn nhớ ta…gọi mừng!
Blog còn sinh hoạt bình thường,
Thơ, văn… góp chút…có, còn hơn không !” (Bài “Năm Cũ, Năm Mới, Vui…Buồn” – DHA – 03/01/22)
Và mới nhất, Bác DHA đã sáng tác bài thơ Xuân thật rộn rã yêu đời, có ai ngờ chỉ sau hơn tháng Bác đã ra đi?
“Lại một mùa Xuân đến, bạn ơi,
Trăm hoa đẹp nở để hòa vui…
Tương tranh, cuộc sống từ vô thủy,
Quên nỗi buồn, qua những nụ cười !” (Mùa Xuân – Cầu Nguyện – Dương Huệ Anh – 22/01/2022)
Là một người thành công trong văn học, nổi tiếng về văn thơ, nhưng tính tình Bác Dương Huệ Anh rất khiêm nhượng, hiền từ, và thân thiện với mọi người, kể cả những hậu bối như tôi. Bác, vị cố vấn rất có uy tín của VTLV, một trong những vị giám khảo của các cuộc thi thơ văn hàng năm của VTLV – mà tôi cũng từng là một thí sinh đã may mắn giật được giải đầu, hồi năm 2016 – và là người được rất nhiều văn thi sĩ nổi danh kính trọng, thường viết về Bác và các tác phẩm của Bác, như cố nhà văn Hồ Trường An, cố thi sĩ Du Tử Lê, nhà biên khảo Diệu Tần, nhà văn Đỗ Bình, Paris, v.v…Vậy mà khi tôi tặng Bác 3 TT truyện ngắn, “Yêu Nhau Mấy Núi”, Thằng Nước Mắm”, và “Chung Một ước Mơ”, thì Bác đã đọc rất kỹ càng. Đọc xong Bác gọi tôi và cho những lời khen cùng những lời góp ý, và những lời ủng hộ khuyên bảo quý giá của Bác đã giúp cho tôi lên tinh thần nhiều lắm. Thế là tôi bắt đầu …tới luôn, chuẩn bị cho 2 tuyển tập thơ “Viết Cho Hồn Dân Tộc” và “Vung Rải Niềm Vui” cũng như TT Truyện Ngắn “Chắp Cánh.”
Đến tháng 11 năm 2021, tôi hoàn thành tập thơ “Viết Cho Hồn Dân Tộc” và mạo muội nhờ bác Dương Huệ Anh viết giúp Lời TỰA. Tôi nói sơ sơ, chỉ nhờ…cầu may thôi, vì biết Bác đang bận cho những quyển sách của Bác, và cùng vì thấy sức khỏe Bác dạo ấy có phần hơi sút giảm nên tôi ngại đâu dám ép. Không ngờ Bác đã mau mắn nhận lời, kêu tôi gửi bản thảo liền qua cho bác. Thương làm sao, những câu nói đầy khuyến khích của bác khi đọc tập bản thảo tôi gửi, quý làm sao, những câu chữ đánh máy với các dấu chấm phảy kỹ càng, và cảm động làm sao, mỗi khi Bác đọc bài thơ nào ưng ý thì gọi ngay cho tôi để nói vài lời khen ngợi. “Thơ cô rất có hồn và kỷ thuật thì rất vững vàng, khá lắm!” Chỉ một câu của Bác thôi, mà tôi đã hạnh phúc vô cùng.
Viết đến đây tôi như chựng lại, cảm thấy ân hận và buồn thật buồn, vì nghĩ mình còn nợ Bác DHA một món nợ ân tình khó trả, mà từ hôm nghe tin Bác mất nó cứ miên man vương vấn trong lòng. Tôi đã in xong “TT Thơ Viết Cho Hồn Dân Tộc” từ cuối năm 2021. Nhưng vì tình trạng Covid vẫn chưa ổn định, rồi thì Tết đến lu bu, tôi lại lười đi bưu điện để gửi sách tặng cho Bác, mà lần lựa đợi đến lúc VTLV có cuộc họp đầu năm sẽ đem sách tặng cho Bác luôn. Bây giờ thì không còn cơ hội cho Bác thấy Tập Thơ và đọc những lời TỰA rất trang trọng của Bác nữa rồi.
Từ hôm đó đến nay, bao nhiều lần tôi định viết chút gì về bác, để tiễn đưa vị tiền bối hiền hòa mà tôi kính quý. Nhưng mỗi lần mở máy ra, rồi nhìn mấy thùng sách đựng những tập thơ còn trinh nguyên nhà xuất bản gửi tới chưa mở ra, tôi lại nhớ tới Bác, lòng man mác buồn, ý tứ bị lảng xao, chữ nghĩa bay đi đâu mất hết.
Cho đến chiều hôm qua. Tôi đi sắp xếp lại tủ sách, để trống chỗ cho một số tập thơ mới và cất vào quyển sách của người bạn văn H.Q. từ Đức Quốc gửi tặng. Bất ngờ khi tôi cầm lên quyển sách “Chân Dung & Giá Trị Truyện Kiều” Bác DHA tặng tôi năm ngoái, thì từ trong đó rơi ra cái thẻ “Business card” mà Bác đã kẹp vào khi tặng sách cho tôi.
Đây là những chữ trong note của Bác DHA, xin chép lại dưới đây cho dễ đọc:
5/15/2021
Thân mến tặng N.T Phương Hoa, người bạn trẻ, “có tâm, lại có tài”.
Đáng quí lắm!
Có quyển bàn về Truyện Kiều, nếu có dịp, xin giới thiệu vài lời (in ra chưa RM.
Cám ơn cô PH.
D.h.Anh
Tôi đọc cái note Bác ghi mà lòng xúc động vô vàn, rưng rưng nước mắt, tự trách mình sao quá vô ý, vô tâm đến mức quên luôn những điều mà Bác đã nói khi tặng sách cho tôi. Bác muốn giới thiệu quyển sách “Chân Dung & Giá Trị Truyện Kiều” này ra cộng đồng mà bận quá, rồi công việc đẩy đưa, nên Bác chưa có dịp. Khi đó tôi cũng có hứa là sẽ cố gắng viết chút gì để giới thiệu sách của Bác với bà con, và chờ khi hết dịch Covid sẽ bàn tính với VTLV để tổ chức RMS cho Bác. Vậy mà tôi quên luôn! Nếu hôm nay không gặp cái note này, có lẽ tôi “gánh” cái thất hứa với Bác suốt đời mà không hề hay biết. Tôi thầm xin lỗi Bác và tự hứa sẽ đọc thật kỹ để viết giới thiệu quyển sách này cho Bác trong một ngày gần đây.
Dù chỉ thiếu vài năm nữa thôi Bác Dương Huệ Anh sẽ lên bách tuế, kể ra Bác vẫn thọ hơn rất nhiều người, nhưng sự ra đi của Bác vẫn để lại tiếc thương cho giới văn học và đồng hương, cộng đồng Việt ở Hoa Kỳ, và khắp trên thế giới. Ban Biên Tập VTLV có mở riêng một “Trang Tưởng Niệm Văn Thi Sĩ Dương Huệ Anh” trên trang nhà, và mấy tuần qua chúng tôi đã nhận được rất nhiều thơ, văn, lời thương tiếc, hình ảnh chia buồn, liên tục gửi về cho trang này để phổ biến đi khắp nơi. Cho thấy tình thương mến của cộng đồng với Bác DHA nhiều đến mức nào.
Để đáp lại tấm lòng của Bác DHA đối với những gì Bác đã làm cho VTLV, anh Chủ Tịch Lê Văn Hải cũng đã xin một buổi lễ tụng kinh cầu siêu cho Bác tại chùa An Lạc, San Jose, CA vào ngày 25 tháng 2, 2022 vừa qua, với đông đảo đồng hương và thành viên VTLV tham dự. Sau buổi lễ, Sư Bà và anh Hải lên phát biểu để tưởng nhớ và vinh danh văn thi sĩ Dương Huệ Anh, và sau đó nhiều người lên nhắc nhở về Bác, hát, ngâm thơ, đọc thơ thương tiếc Bác thật là cảm động. Anh Lê Văn Hải còn đại diện Thi Văn Đàn VTLV đăng báo phân ưu cùng gia đình Bác Dương Huệ Anh trên báo trong vùng Bắc Cali.
Để tiễn đưa người bạn thân DHA lên đường, nhạc sĩ kỳ cựu Lynh Phương đã sáng tác bản nhạc “Niệm Khúc Cuối” và ông tự mình hát, làm YouTube rồi gửi đến cho VTLV phổ biến. Nhìn dáng người nhạc sĩ lớn tuổi đứng hát với điệu bộ buồn hiu và giọng hát nghẹn ngào, cộng thêm bài hát rất hay, rất cảm động khiến người xem phải rưng rưng nước mắt.
Link bài hát ở đây: https://www.youtube.com/watch?v=Nql8WojHeBM
Những văn thi sĩ từ xa, có hai vị Chủ Tịch của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại Cung Thị Lan, và Văn Bút VNHN Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, nhà văn Hồng Thủy, cũng nhanh chóng gửi những lời chia buồn thật chân tình tới VTLV cho Trang Tưởng Niệm.
“Anh Ba DƯƠNG HUỆ ANH của chúng ta đã bỏ chúng ta đi rồi….Chúng ta đã mất một người anh đáng kính, hiền hòa. VBVĐBHK và VBHN đã mất một Thi Sĩ kỳ cựu tài đức song toàn.” Nhà văn Hồng Thủy đã viết, và chị còn đại diện Văn Bút VNHN VĐBKH từ miền Đông gửi nhờ VTLV đăng báo phân ưu cùng gia đình văn thi sĩ Dương Huệ Anh trên báo Việt Ngữ Bắc Cali.
Nhà văn Đỗ Bình từ Paris, Pháp Quốc, có một bài khá dài viết về văn thi sĩ DHA đăng trên Trang Tưởng Niệm, xin trích vài câu:
“Nơi phương trời Mỹ, nhà thơ Dương Huệ Anh đã bước vào tuổi xế chiều, ở đây có những nỗi buồn tha hương luôn ẩn trong tâm hồn người xa xứ, đó cũng là chất liệu, nguồn cảm hứng cho thi nhân. Dù mang nỗi sầu tha hương nhưng nhà thơ vẫn yêu đời nên hồn thơ lại dâng trào nguồn cảm xúc, ông đã sáng tác theo dòng cảm xúc và sáng tác rất mạnh với nhiều đề tài khác nhau. Nhờ kiến thức sâu rộng tác giả đã có những sáng tác giá trị về lãnh vực thi ca, văn chương và biên khảo….” (NHÀ VĂN HÓA DƯƠNG HUỆ ANH – PARIS, MẠN ĐÀM VĂN HỌC&NGHỆ THUẬT – Đỗ Bình)
Trang Tưởng Niệm này cũng có bài viết của Thi sĩ Dương Viết, xin được trích:
“….Nhờ buổi ra mắt sách này, tôi mới biết nhà thơ Dương Huệ Anh…..ông đã là công chức, là
cán bộ ngành ngoại giao, Đông Y Sĩ, viết biên khảo về nhiều vấn đề như đạo giáo, văn chương, viết văn, chuyên viên địa ốc… Thảo nào nhà văn Diệu Tần coi ông Dương Huệ Anh là một người đa năng đa tài chẳng khác gì văn sĩ Ernest Hemingway”(Một Vài Kỷ Niệm Với Nhà Thơ Dương Huệ Anh- DVĐ)
Nhà thơ Lê Tuấn, Ban Truyền Thông VTLV thì gửi những dòng thơ tha thiết:
“Có một vì sao chợt tắt
Muôn ngàn vì sao cúi mặt xót thương
Tiễn đưa về cõi vô thường
Thi nhân tao nhã vấn vương một thời.”
Thi sĩ Minh Thúy cũng nức nở:
“Màu Xuân rực rỡ chưa tan
Mùa Xuân đã khóc vội vàng tiễn đưa
Mắt mờ như bám hạt mưa
Rơi dòng ký ức mộng xưa trở về”
Và nữ sĩ Cao Mỵ Nhân, người bạn thơ thâm niên cùng nhà thơ DHA cũng thương cảm trách khẽ:
“Cụ bảo rằng không bỏ bóng Xuân
Sao hôm nay lại biệt dương trần
Xưa từng xướng hoạ lời chân thiện
Giờ đã phiêu linh cõi thánh thần”
Nhà thơ Nguyễn Huy Khôi từ nơi nửa vòng trái đất cũng tiếc thương vị thi sĩ tiền bối:
“Tiền bối ly từ,… dạ nhói đau!
Tinh hoa văn nghiệp quyện hương ngào!
Khôn cầm tương ngộ đôi lời giã
Chẳng kịp tri ân một tiếng chào!”
Thi sĩ Hoàng Mai Nhất của VTLV thì tỏ rõ nét đau thương trong thơ:
“Nhói đau tin đến thật thình lình
Bác Huệ Anh về chốn lặng thinh
Cách biệt từ nay thôi chẳng gặp
Chia ly xa hẳn hết tâm tình”
Nghệ sĩ ngâm thơ Khánh Hà (Thu Quyên) kính cẩn:
“Bây giờ thưa Bác Dương Huệ Anh
Bác đã vì THƠ gửi cái TÌNH
Bác biết tuổi đời đang chạng vạng
Bác mong người trẻ có BÌNH MINH”
Phương Hoa đã nghẹn ngào:
“Cố Vấn Thi Đàn đi chẳng giã
Huệ Anh thi sĩ biệt không chào
Bao năm tại thế ôi thương quý!
Chớp mắt về Trời thật tiếc sao!”
Văn thi sĩ Phương Thúy,Trang Chủ Diễn Đàn Cô Gái Việt cũng đã viết cho Trang Tưởng Niệm, “Tuy chưa được hân hạnh gặp Thi sĩ Dương Huệ Anh lúc sinh tiền, nhưng có lòng mến phục người đã tự nguyện vác cái ngà voi khổng lồ, sáng lập nên Cơ sở VTLV từ năm 1992.”
Và còn… rất nhiều, rất nhiều, văn thi sĩ của các diễn đàn thơ văn khắp gửi thư về cho VTLV đăng vào Trang Tưởng Niệm những lời văn, lời thơ, lời viết tận đáy lòng, bày tỏ sự tiếc thương vô bờ một nhà văn, nhà thơ, nhà văn hóa Việt Nam rất thành công nơi hải ngoại.
Xin mời quý vị ghé vào VTLV để xem: https://vantholacviet.com/thanh-kinh-phan-uu/
Sau cùng, văn thi sĩ Dương Huệ Anh đã rời bỏ thế gian, nhưng tinh thần yêu văn thơ và bảo tồn tiếng Việt cùng vô số tác phẩm giá trị để đời của Bác sẽ mãi mãi còn lưu lại trong giới văn học Việt Nam cho đến ngàn sau.
Hôm nay, ngày 9 tháng 3, 2022, là ngày gia đình đưa linh cữu Bác về miền vĩnh cửu.
*
Kính hương linh bác Dương Huệ Anh,
Cháu vì ở xa không thể có mặt trong buổi hẹn cùng các thành viên VTLV để chia tay Bác lần cuối, nên cháu có bài viết này để tiễn bác lên đường, mong Bác hoan hỉ cho.
THÀNH KÍNH NGUYỆN CẦU HƯƠNG LINH BÁC DƯƠNG HUỆ ANH SỚM VỀ MIỀN CỰC LẠC
Phương Hoa – Ban Biên Tập Thi Văn Đàn VTLV
TIN BUỒN: Vĩnh Biệt “Em Gái Hậu Phương” Dạ Lan! Lê Văn Hải
Vĩnh Biệt “Em Gái Hậu Phương” Dạ Lan!
Huyền Thoại “Người Đẹp” Trong Tim Cả Triệu Người Lính VNCH!
Tiếc Thương Giọng Nói ngọt ngào “Em Gái Hậu Phương” Dạ Lan 2 (Hồng Phương Lan) Xướng Ngôn Viên của Đài Phát Thanh Quân Đội VNCH, vừa mới ngừng tiếng nói!
Chút Quen Biết:
Tôi hân hạnh được biết Chị Phương Lan, (giọng nói Dạ Lan trên đài) khi tôi vừa mới lớn, khoảng năm đệ ngũ, đệ tam. Vì nhà tôi là hàng xóm, bên cạnh nhà Thiếu tá Cường, Tiểu đoàn 5 Chiến Tranh Chính Trị. Tôi chơi với Vượng, Hiển, là 2 con trai của TT. Chiều nào thu thanh từ đài Phát Thanh Quân Đội về, cả đoàn nghệ sĩ, thường ghé nhà TT Cường, nghỉ ngơi, vui chơi, ăn nhậu, ca hát.
Dù mới lớn, tối nào tôi cũng đón nghe chương trình phát thanh Dạ Lan. Ôi những lời tâm tình tha thiết, gởi những người trai đang ngoài trận chiến, mịt mù khói lửa. Những đoản văn mơ mộng giới thiệu những nhạc phẩm “tình ca thời chinh chiến”, kèm theo lời tặng đến các chiến sĩ đủ mọi Quân Binh Chủng, rất nồng ấm yêu thương. Chỉ một lần nghe, là nhớ mãi!
Được dịp gặp phía ngoài, tôi hơi chút ngạc nhiên, vì Chị trông không giống như những bức chân dung, mà đã phát cho các Anh Chiến Sĩ. Giọng nói phía ngoài, không ngọt ngào bằng, như khi nghe qua làn sóng phát thanh.
Khi tôi vào quân ngũ, cho đến ngày mất nước. Thì chưa một lần tôi nghe lại chương trình Dạ Lan cả. Trước nhất tôi không có Radio, thứ hai, trai tráng còn nhiều mục chơi khác sôi nổi hơn nhiều, hơn là ngồi trước cái Radio, thả hồn theo mây gió!
Hôm nay, nghe Chị qua đời, lòng thấy bồi hồi thương tiếc quá, biết Chị trên đất Mỹ này đã lâu, sao tôi đã không kiếm cách liên lạc, hỏi thăm.
Bản tính con người là thế, cứ để đến khi mất, mới thấy tiếc nuối.
Huyền Thoại 2 Dạ Lan, 1 Tiếng nói!
Nhiều người không biết, có 2 Dạ Lan, cùng một “Tiếng nói của những em gái hậu phương!”
Đầu thập niên 1960, ở miền Nam Việt Nam chưa có vô tuyến truyền hình, phải đến năm 1966, mới thành lập đài truyền hình ở Saigon. Thời điểm này, người ta chủ yếu đón chờ thông tin từ 2 đài phát thanh chính, đó là Đài Tiếng Nói Việt Nam và Đài Phát Thanh Quân Đội. Thường là sau bữa cơm chiều, rất nhiều người “ghiền”, nhất là các anh chiến sĩ xa xôi, canh mở Radio, để nghe Dạ Lan “Em gái hậu phương” tâm tình và giới thiệu những bài nhạc mới.
Dạ Lan 1
Dạ Lan là chương trình của Đài Phát Thanh Quân Đội thời kỳ 1964 đến1975. Nhằm an ủi và nâng cao tinh thần binh sĩ, trong đó lấy âm nhạc làm phương tiện chính. Chương trình bắt đầu được phát sóng năm 1964 và xướng ngôn viên là cô gái xưng tên là Dạ Lan. Chương trình phát thanh này được phát mỗi đêm trên làn sóng dành riêng cho quân đội, có công suất rất mạnh, có thể nghe từ Bến Hải, đến Cà Mau, nghĩa là khắp dải đất miền Nam.
Trong hồi ký của nhà văn Văn Quang, kể về quá trình hình thành chương trình Dạ Lan như sau:
“Vào khoảng đầu thập niên 1960, Đại tá Trần Ngọc Huyến là người có sáng kiến tạo ra Chương trình Dạ Lan trên Đài Phát Thanh Quân Đội. Ngay sau khi ra mắt, chương trình này được hầu hết quân nhân yêu thích. Dần dần trở thành chương trình được mến mộ nhất của đài.
Nhưng hơn một năm sau, vì lý do riêng, nữ xướng ngôn viên Xuân Lan xin nghỉ việc, dọn về Đà Lạt. Đài Phát thanh Quân Đội bèn chọn một nữ xướng ngôn viên khác, có giọng nói y hệt Xuân Lan, khiến thính giả không thể phân biệt được, đâu là người mới đâu là người cũ. (Đài cũng cố tình cho người nghe hiểu lầm như thế, nên đã không có một lời đính chính.) Người tiếp tục chương trình Dạ Lan, cũng do một sự tình cờ, lại vẫn có tên thật là Lan, Hồng Phương Lan.
Dạ Lan 2
Hai tiếng Dạ Lan có thể hiểu đó là một loại “hương thơm quyến rũ về đêm.” Cũng có một sự trùng hợp, tên 2 nữ xướng ngôn viên cùng có tên là Lan. Xuân Lan hay Phương Lan, nên có thể hiểu là một tên chung và cũng là tên riêng.
Chị Phương Lan làm việc tại Đài phát thanh Quân Đội cho đến phút của Sài Gòn năm 1975. Như thế, thời gian Chị làm xướng ngôn viên Chương trình Dạ Lan khoảng 6 đến 7 năm.
Chương trình Dạ Lan được phát thanh từ 7 giờ đến 9 giờ tối mỗi ngày, bắt đầu bằng lời giới thiệu ngọt ngào:
“Đây là chương trình Dạ Lan, tiếng nói của những người em gái hậu phương, gửi những anh trai tiền tuyến”
Xướng ngôn viên của chương trình, là giọng nói một cô gái Bắc ngọt ngào. Ngoài những thông tin thời sự, phần hấp dẫn nhất của chương trình, là phần nhạc và phần thư tín.
Nhưng đối với những “anh trai tiền tuyến”, họ chỉ cần nghe được giọng Dạ Lan hàng đêm, nên cô xướng ngôn viên nghiễm nhiên là “linh hồn” của chương trình. Là đại diện của những người em gái hậu phương, hàng đêm nhỏ to tâm tình cùng các anh lính khắp miền đất nước. Trở thành “Người Tình Trong Mộng” của biết bao nhiêu chàng trai thế hệ.
Chương trình không ngờ thành công vượt bậc. Thư từ các chiến sĩ, nhất là từ các vùng đất xa. Thể theo lời yêu cầu, nên Cô Hoàng Xuân Lan được cho phép đi chụp hình in thành (carte postale) ảnh để trong bóp, để gửi tặng anh em chiến sĩ ngưỡng mộ. Bức ảnh được in trên bìa báo Xuân Chiến Sĩ Cộng Hòa năm 1965, do nhà nhiếp ảnh nổi tiếng Nguyễn Kỳ ở Saigon chụp vào thập niên 60.
Một số hình chụp cô Xuân Lan, “em gái hậu phương Dạ Lan” cũng được ấn hành, để gởi tặng đến các chiến sĩ tiền đồn. Nhiều anh còn phóng lớn treo ngoài vọng gác!
Tuy vậy nhân vật số 2 “em gái hậu phương Dạ Lan” thì chưa bao giờ xuất hiện trên truyền hình, báo chí hay sinh hoạt văn nghệ ngoài đời. Mà chỉ duy nhất qua làn sóng điện, vì ngoài đời nhan sắc cô không có gì gọi là “nghiêng nước, nghiêng thành” gì cả.
Nhưng Cô cũng nhận được không ít thư từ tỏ tình với cô, của các “anh trai tiền tuyến” Nhiều anh tiền tuyến đi phép về Sài Gòn, có tìm đến Đài phát thanh Quân Đội, nhưng không bao giờ gặp được Dạ Lan bằng xương bằng thịt.
Dạ Lan 2, Không Phải Là Người Bắc, Mà Là Người Trung, Muôn đời vẫn là … “Người Tình Không Chân Dung!”
Thực ra Hồng Phương Lan (Dạ Lan 2) là người Huế, nhưng lạ, là lại có giọng Bắc chính hiệu. Cô làm ở đài phát thanh quân đội từ những năm 1957 đến 58, trước cả Xuân Lan. Không ai biết mặt và biết tên Dạ Lan cả. Nên tên Dạ Lan có thể là bất cứ người nào. Vì vậy Dạ Lan được xem là người đẹp “huyền thoại”, ai muốn tưởng tượng Dạ Lan là ai, như thế nào cũng được.
Sau 75, thương nhớ đến chương trình Dạ Lan, nhiều người lại thắc mắc về xuất thân của Dạ Lan và số phận của 2 cô ra sao. Nhờ đó, các thính giả sau này mới biết được có 2 cô Lan, và sau đó, người ta đã liên lạc được với cả 2 cô.
Qua sự thăm hỏi của nhiều người, cuối cùng người ta được biết, cô Hoàng Xuân Lan (Dạ Lan 1) hiện đang sống ở Saigon và cô Hồng Phương Lan (Dạ Lan 2) đang định cư tại S.Carolina, và cho đến giờ này, lạ là trong thư từ và cả email giao thiệp cả hai cô, đều ký tên mình là Dạ Lan.
Kết
Dù 2 cô là ai, không quan trọng, nhưng giọng nói êm ái đầy tình thương tình mến Dạ Lan, vẫn sống mãi trong tim, hàng triệu những người Trai, một thời khoác bộ Quân Phục, cầm súng gìn giữ Quê Hương Miền Nam tự do, no ấm trên 20 năm. Dù cuộc chiến đã qua gần nửa thế Kỷ, giọng nói “cô em gái hậu phương” ngọt ngào có tên Dạ Lan vẫn thổn thức mãi trong tim những người Lính VNCH!
Kiếp người, rồi cuối cùng, cũng phải chia tay! “Những người muôn năm cũ, hồn…ở đâu bây giờ!”
(LVHải tổng hợp, như một nén hương, dâng người đã khuất!)
TRANG TƯỞNG NIỆM – VĂN SĨ VĂN QUANG – Lê Văn Hải & THƠ Đưa Tiễn – Của Phương Hoa
THÀNH KÍNH TIỄN ĐƯA VĂN SĨ
VĂN QUANG
*
VĂN QUANG từ giã bút nghiên rồi
Mất một nhân tài thương tiếc ôi!
“Trời Tím” đẫm buồn, mây quyện gió
Tầng xanh nghẹn tiếc, lệ pha lời
“Tơ Lòng” đà dứt, tâm an lạc
“Cuồng Vọng” không còn, ý thảnh thơi
Kính tiễn thăng thiêng miền Cực Lạc
Người đi tác phẩm mãi lưu đời.
*
Phương Hoa – MAR 16th 2022
Hôm Nay: Nhà Văn Văn Quang Vừa Tử Giã Chúng Ta!
Lại Thêm Một Vị Sao Trên Bầu Trời Văn Nghệ Miền Nam Vừa Vụt Tắt!
Nhà Văn Văn Quang Vừa Từ Giã Chúng Ta!
Lê Văn Hải
Tin Buồn Tháng 3!
Tin từ một thân hữu cho hay, Nhà văn Văn Quang, đã qua đời lúc 10 giờ 20 phút, ngày hôm nay! Thứ Ba, 15 tháng 3 năm 2022, tại tư gia, đường Nguyễn Thiện Thuật, thành phố Sài Gòn, Hưởng thọ 90 tuổi.
Tuy Nhà văn Văn Quang ở Sài Gòn từ sau ngày mất nước, nhưng những bài viết của Ông, xuất hiện thường xuyên trên khắp các báo chí Hải ngoại, từ cuối thập niên 90, cho tới khoảng năm 2017. Cuối cùng với bài viết, giã từ bạn đọc, sau bài này, Ông “gác bút” vì không còn sức mang “nắng mưa Sài Gòn” đến với “những người muôn năm cũ!”
Ông được coi như “tai mắt” tường trình mọi biến chuyển, thay đổi về thành phố thương yêu, của một thời “Sài Gòn, đẹp lắm, Sài Gòn ơi!” trước 75.
Ông là nhà văn duy nhất ở trong nước, mà lại có tình thân thiết nhất với rất nhiều người đọc tiếng Việt bên kia vòng trái đất.
Sự ra đi của Ông, làm biết bao người thương nhớ, nuối tiếc! một Nhà văn thân yêu của Miền Nam.
Nhà Văn Văn Quang Và Tôi
Trước 75, tôi chỉ là người Lính, với cấp bậc vào hàng “củ lũ nhí” nhất, thì làm sao có cơ hội quen biết đến hàng sĩ quan cấp tá, lại mang chức Giám Đốc Đài Phát Thanh Quân Đội như Ông.
Nhưng tôi đã đọc rất nhiều tác phẩm của Ông, văn ông nhẹ nhàng, trong sáng, đầy tính nhân bản. Mang nỗi u uẩn, đau thương người dân, người trai, khi đất nước trong thời chinh chiến.
Khi tác phẩm Chân Trời Tím dựng thành phim, do Đạo diễn Quốc Phong và Liên Ảnh sản xuất. Tôi đã là những người đầu tiên, đứng xếp hàng trước rạp Văn Hoa Dakao để chờ xem. Thổn thức với Hùng Cường, Kim Vui của mối tình trong cuộc chiến. Lòng quặn thắt với Nhạc phẩm Nửa Hồn Thương Đau, sáng tác của Trần Thiện Thanh, dành riêng cho phim này, qua tiếng hát vút cao của Thái Thanh.
Sau Tháng Tư Đen tan tác,
Khoảng cuối thập niên 90, lúc đó tôi đã giữ một tờ tuần báo, một cây viết của tờ báo, cũng là nhân viên tòa soạn, bút hiệu “Điền Tuấn” Cũng là người bạn thân thiết với Nhà văn Văn Quang, đã đưa ra một đề nghị với tôi:
-“Có một nhóm văn nghệ sĩ ở Sài Gòn, vừa mới từ cải tạo về, muốn viết bài cho tờ báo mình, để có chút tiền cà phê, cà pháo, anh em có cơ hội gặp mặt cho vui”
Tôi đồng ý ngay, chỉ thắc mắc:
-“Nhưng trả tiền nhuận bút bằng cách nào? Có ảnh hưởng gì đến người trong nước không?”
-“Dừng lo, chúng tôi có đường dây!”
Từ đó, tờ báo tôi, xuất hiện rất nhiều bài báo, từ những cây viết trong nước, nhưng nhiều nhất, vẫn là những bài của Nhà văn Văn Quang!
Thời gian này, người Việt Hải ngoại, mang thân phận của một kẻ lưu đầy, chưa bang giao, nên nghĩ vĩnh viễn không có đường về quê hương! Những bài viết kể chuyện nắng mưa Sài Gòn, nơi chôn bao nỗi nhớ, là những bài “ăn khách” nhất của tờ báo.
Khi Nhà văn Tô Ngọc qua Mỹ, Ông đến tòa soạn ngay ngày hôm sau, thông báo với tôi: “Anh em gởi lời cám ơn, “bịch thuốc bổ,” gởi về mỗi tháng, để Anh em mới có cơ hội gặp nhau vui lắm, chưa kể giúp được những trường hợp khó nghèo!”
Tôi rất vui mừng, không ngờ chuyện nhỏ, mà có kết quả quá vui, thật to lớn như thế! Từ đó, tôi có cơ hội thăm hỏi Ông qua thư từ.
Sau này, mừng cho Nhà văn Văn Quang, vì đã cộng tác với rất nhiều tờ báo của Hải ngoại. Có vẻ từ đó, đời sống Ông cũng dễ thở hơn chăng.
Vài Dòng Tiểu Sử”
Nhà văn Văn Quang tên thật là Nguyễn Quang Tuyến, sinh năm 1932 tại Thái Bình.
Năm 1953, ông gia nhập Quân Đội Quốc Gia, phục vụ trong nhiều đơn vị tác chiến tại miền Bắc trước hiệp định Geneve năm 1954.
Từ năm 1957, Văn Quang chuyển sang ngành Tâm lý chiến, với nhiệm vụ Trưởng phòng Báo chí Quân Đội thuộc Cục Tâm lý chiến, Tổng cục Chiến tranh Chính trị QLVNCH. Cũng là Trưởng ban biên tập của các tờ báo Quân Đội VNCH.
Tác phẩm đầu tay của Văn Quang là “Tiếng Tơ Lòng” được đăng trên nhật báo Thanh Dân, Hà Nội. Cuối năm 1953, tác phẩm thứ nhì ra đời, là tập truyện ngắn Thùy Dương Trang, do Lạc Việt xuất bản tại Sài Gòn năm 1957.
Từ đó cho đến 30 Tháng Tư 1975, Văn Quang cộng tác thường xuyên với rất nhiều nhật báo, tuần báo, tạp chí tại Sài Gòn.
Văn Quang có hơn 28 tác phẩm được xuất bản. Các tác phẩm của ông hầu hết là truyện dài, trong số có những tác phẩm, gây được nhiều tiếng vang như: “Nét Môi Cuồng Vọng”, “Nguyệt Áo Đỏ”, “Người yêu Của Lính” Ông đã có bốn tác phẩm được chuyển thành phim: “Ngàn Năm Mây Bay”, “Chân Trời Tím”, “Đời Chưa Trang Điểm”, “Tiếng Hát Học Trò”.
Sau 75, Ông trải qua 13 năm rưỡi đi tù cải tạo. Khi ra tù, Văn Quang trở về Sài Gòn, sau đó từ chối ra đi theo diện HO, quyết định tiếp tục ở lại Việt Nam, Nhà văn duy nhất cộng tác với rất nhiều báo chí Việt ngữ tại hải ngoại.
Trong bài chia tay với độc giả, với tâm tình thật cảm động: “Hơn 60 năm cầm bút, tôi không có gì đáng tự hào, bởi chỉ như người Lính khi ra trận, không biết mình đã bắn được bao nhiêu viên đạn! Tất cả chỉ vì ba lời thề “TỔ QUỐC – DANH DỰ- TRÁCH NHIỆM!”
Thương tiếc Nhà Văn thân thương vừa rời bỏ chúng ta, xin mời cùng thưởng thức một bài Tạp Ghi của Ông, như nén hương tưởng nhớ, để “nhắm mắt cho tôi tìm!” thấy… Ông!
CÁI MUỖNG
Văn Quang
I.
Tôi không nhớ rõ năm đó là năm thứ mấy chúng tôi “học tập cải tạo”, chỉ biết rằng đã có những người “quen” với những ngày tháng cực khổ, dài lê thê trong những căn nhà giam được “xây dựng” bằng đủ thứ kiểu giữa những vùng rừng núi âm u. Ở Sơn La thì “trại” được làm trên những nhà tù từ thời xa xưa, chỉ còn lại những cái nền nhà lỗ chỗ, người ta dựng vách đất trộn rơm, mái lợp bằng các kiểu lá rừng, miễn sao che kín được khung trời.
Nơi này xưa kia, Pháp dùng để giam giữ tù chính trị, rồi một thời gian sau, VN giam những người tù Thái Lan và trong chiến tranh đã có khi người ta dùng làm “công binh xưởng” chế tạo lựu đạn. Vì thế nên thỉnh thoảng chúng tôi nhặt được một cái vỏ lựu đạn ở đâu đó quanh khu vực này. Ở Vĩnh Phú thì nhà tranh vách đất, ngoại trừ một khu người ta gọi là khu “biệt kích” gồm vài căn nhà “xây dựng kiên cố” bằng gạch lợp tôn xi măng. Chúng tôi “được học tập cải tạo” trong dãy nhà này. Cũng nghe người ta nói lại
là khu này trước kia dùng để giam giữ những người lính biệt kích đã từng nhảy dù ra Bắc rồi bị bắt giam ở những khu đặc biệt đó. Muốn vào khu này phải qua hai lần cổng có tường gạch bao quanh. Nhưng có lẽ khi giam giữ biệt kích thì khác, còn khi chúng tôi “được giam” ở đây có vẻ như “cởi mở” hơn vì những cánh cổng thường không đóng bao giờ. Họ để cho chúng tôi đi lao động hàng ngày cho khỏi phải mở ra mở vào.
Cuộc sống dù cực khổ đến đâu, sống mãi rồi người ta cũng phải quen. Nhịp sống hàng ngày cứ thế trôi đi dù là trong đói rét, thiếu thốn và trong những cấm đoán vô cùng khe khắt. Nhà tù nào chẳng thế, nó có những quy luật và quy định riêng. Những ngày đầu người ta cấm luôn cả trà, cà phê, thậm chí cấm cả đeo kính cận. Nhưng sau này nới dần, những thứ như thế không bị cấm nữa. Chỉ còn những thứ đã thành “luật” thì luôn bị cấm và cấm ở bất cứ đâu. Cấm “mua bán đổi chác linh tinh”, cấm dùng thức ăn lâu ngày bằng bột, cấm tỏi và cấm tất cả những dụng cụ sinh hoạt bằng sắt như dao, kéo, muỗng nĩa… Tuy vậy có anh tù nào lại ngây thơ ngoan ngoãn đến nỗi tuân theo hoàn toàn những quy định ấy. Mua bán đổi chác linh tinh vẫn cứ diễn ra, dao kéo vẫn cứ được lén lút xử dụng hàng ngày nhưng đó là những thứ đã được “cải biên” thành dao kéo mini nhỏ nhắn cho dễ cất giấu. Nó là những vật dụng cần thiết cho đời sống hàng ngày, dù có bị bắt thì cũng chỉ bị tịch thu chứ không đến nỗi bị cùm một hoặc hai chân –tùy theo tội– đưa vào “thiên lao” tức là thứ phòng giam đặc biệt trong trại tù.
II.
Ngày qua ngày, cái “không khí êm ả” của trại giam trở nên phẳng lặng nhưng dĩ nhiên là không thể nào nói rằng đó là thứ “an tâm, hồ hởi phấn khởi” mà bất kỳ anh “trại viên” nào cũng cứ phải viết khi phải làm những “bản kiểm điểm”, mặc dù kể cả người viết và người đọc đều chẳng ai tin.
Nhưng cái không khí ấy đôi khi bỗng nhiên bị xáo trộn. Vào một buổi sáng tinh mơ, khi chúng tôi đang ngồi ở cái sân đất giữa trại, chuẩn bị gọi tên từng đội đi lao động để “một ngày lại vinh quang như mọi ngày” thì bỗng đâu toán lính gác trại tù sồng sộc chạy vào. Họ chạy rầm rập như ra trận, súng ống chĩa về phía “quân thù”, mặt mũi “khẩn trương” rõ rệt. Họ sộc thẳng vào phòng giam trống hốc cứ làm như có địch ẩn nấp đâu trong đó.
Chúng tôi ngẩn ngơ đứng nhìn, không hiểu họ giở trò gì. Có những khuôn mặt lo lắng, một nỗi lo bâng quơ. Chuyển trại hay có một ai đó trốn trại? Chưa biết. Toán lính lục tung hết mọi thứ đồ đạc ít ỏi mà mỗi người tù có được trong gói hành trang của riêng mình. Sau đó chừng nửa giờ, một vài gói đồ bị tịch thu được vác lên “phòng thi đua”. Lúc đó thì chúng tôi mới hiểu rằng đó chỉ là một kiểu khám phòng để tìm ra những thứ đồ “quốc cấm” của trại đã quy định.
Thật ra, đó cũng là cái cung cách mà ở những “trại cải tạo” thường dùng để khuấy động cái không khí trầm lặng dễ phát sinh ra những “tiêu cực”. Bởi trong cái sự yên bình của một trại giam, người tù có thể liên kết với nhau làm một chuyện gì đó như tổ chức trốn trại hoặc có thể có những vụ xúi giục “tuyệt thực”, bàn bạc chống đối… Và nếu nói đến sự chống đối thì có hàng trăm thứ để có thể chống đối được. Thí dụ sự ăn đói, sự đối xử bất công, sự oan ức vô lý, sự trù dập của một vài anh “quản giáo”, sự hỗn hào của mấy anh lính võ trang. Chuyện gì cũng có thể chống đối được. Vì thế thỉnh thoảng họ phải làm cho cái không khí đó mất hẳn cái vẻ trầm lặng để chứng tỏ lúc nào họ cũng đề phòng, lúc nào họ cũng “đề cao cảnh giác”, lúc nào họ cũng sẵn sàng đối phó với mọi “mưu đồ”.
Các anh tù đừng có tưởng bở, chẳng bao giờ yên đâu. Cứ sau mỗi lần như thế, chắc chắn thế nào họ chẳng vớ được một anh nào đó giấu những thứ vớ vẩn như dao kéo, thư từ, sách vở tiếng nước ngoài, tiền bạc, đồ dùng ngoài quy định. Tất nhiên sẽ có những cuộc “kiểm điểm, phê bình” mà chúng tôi gọi là những “buổi tối ngồi đồng” để từ đó hy vọng lòi ra một vài cái “tội”. Đội nào khôn ngoan thì cứ ngồi im, ai “phê” thì cứ mặc, còn cãi là còn “ngồi đồng”. Đi làm suốt một ngày mệt mỏi đến thở không ra, tối về còn ngồi đồng, còn “phê bình” còn “kiểm thảo” thì chịu sao nổi. Nay “làm chưa xong” thì mai lại ngồi tiếp, ngồi cho đến khi nào tìm ra tội mới thôi. Tội nặng, tội nhẹ tùy theo tình hình của từng thời điểm.
Thời điểm “căng” thì vào nhà kỷ luật đặc biệt nằm “treo một chân”, thời điểm nhẹ nhàng thì cảnh cáo, ghi tội vào biên bản. Và họ sẽ có những biện pháp an toàn như chuyển đổi năm bẩy anh từ đội này sang đội khác để phòng tránh những chuyện thông đồng, những tổ chức, những phe nhóm có thể gây nguy hại đến an ninh của trại tù.
Chung quy đó chỉ là một cách đào xới tung cái tinh thần “tưởng rằng yên ổn” của mấy anh “trại viên” còn tỏ ra cứng đầu, còn có mưu toan lôi kéo người này người kia vào trong phe mình để từ đó có những yêu sách hoặc toan tính bất lợi cho trại tù. Quả là mỗi lần như thế trại tù cũng rối tung lên và làm cho những anh yếu bóng vía thường phải sống dựa vào tinh thần bè bạn càng thêm rụt rè, chẳng biết tin vào ai được nữa. Nhưng riết rồi trò gì cũng thành quen và đối với một số người “chẳng có gì để mất” thì họ trơ như đá, muốn làm gì thì làm, chỉ có cái thân tù đói này thôi, sống cũng được mà chết cũng chẳng sao.
Có lẽ tôi cũng đã học tập được cái tinh thần ấy của những anh bạn trẻ, bởi tôi cũng chẳng có gì để mất. Vợ con nhà cửa đều đã mất tất cả rồi, chẳng có gì phải lo. Đôi khi tôi sống tưng tưng, ông anh rể ở Sàigòn gửi cho cái gì thì nhận cái nấy. Và một sự thật không thể quên là nếu không có ông anh rể tốt bụng đó thì tôi cũng đã trở thành một thứ “caritas” như một số anh em ở trong trại tù rồi. Tức là những người chẳng có ai thăm nuôi.
Những bà vợ đau khổ với những gia đình đói rách lầm than, họ lo cho chính họ còn không xong thì lấy gì đi “thăm nuôi” người ở trong tù mà lại tù ở tuốt tận miền Bắc xa tít mù tắp. Thậm chí có người còn vui mừng khi thấy vợ mình bước đi bước nữa với một anh nào đó đưa các con ra được nước ngoài. Tôi nói thế để chứng minh rằng không nên trách cứ bất kỳ một ai trong hoàn cảnh cay nghiệt này. Theo tôi thì những anh “mồ côi” không ai thăm nuôi trong trại tù mới chính là những anh hưởng trọn vẹn được cái “thú đau thương”.
III.
Trở lại chuyện buổi sáng tinh mơ, khi toán lính chạy sồng sộc vào trại. Đó là một buổi sáng cuối mùa đông, trước Tết âm lịch chừng vài ngày. Đây cũng là biện pháp an ninh thông thường của các trại tù trước những ngày lễ tết lớn. Tôi thảnh thơi theo đội đi làm ở ngoài đồng. Tôi vẫn cứ yên trí rằng chẳng có gì để mất, chẳng có gì quan trọng.
Vào mùa đông cái thứ quan trọng nhất chỉ là rau. Mùa này thiếu rau đến… khô quắt cả dạ dày, rau muống bầu bí không trồng được, chỉ còn rau cải và trồng cải thì lâu ăn và năng suất không cao, cho nên có được tí rau là hạnh phúc nhất. Tôi ngồi lê la trước mấy luống su hào, đó là thứ “thực phẩm cao cấp” nhất trong khu vườn rau của toàn đội. Những củ su hào bắt đầu to hơn nắm tay nằm tròn trĩnh dưới những tàu lá xanh mượt mà, tôi trông coi chúng vì cái công sức tôi bỏ ra hơn một tháng trời. Tôi coi chúng cũng như một tác phẩm nào đó mà tôi đã từng viết ra, ở đây không có gì để coi như tác phẩm thì coi nó là tác phẩm vậy, để có cái mà thú vị và để có cái mà quên đi những thứ quanh mình.
Cứ như thế tôi tha hồ đặt tên từng luống su hào, có khi là một cái tên nghe có vẻ “lả lướt” như tôi đã gặp ở phòng trà tiệm khiêu vũ, có khi là một cái tên rất dung tục. Âu cũng là một trò “nghịch ngầm” giữa vùng rừng núi âm u, hầu như không có mặt trời mùa đông này. Nhưng tôi biết rằng trò chơi của tôi sẽ phải chấm dứt trong một hai ngày nữa. Bởi Tết đã đến, dù 12 luống su hào còn non chưa đến ngày “thu hoạch” nhưng cần thức ăn trong ba ngày Tết nên họ sẽ nhổ. Nếu tù không ăn thì cai tù ăn, chứ không đời nào họ chịu để đến mùa xuân. Nhưng vui chơi được giờ nào hay giờ ấy trong cuộc sống phù du này.
Buổi trưa về đến trại, trong khi bạn bè xung quanh đang xôn xao, kẻ bị tịch thu cái này, người bị mất cái kia thì tôi vẫn nhởn nhơ vì tôi chẳng có gì để mất. Tôi xách tô đi lấy cơm, gọi là phần cơm, nhưng thật ra chỉ có đúng một bát bo bo tương đối khá đầy đặn. Tôi ăn thì tạm lưng lửng, nhưng những người bạn tôi thì không bao giờ đủ. Họ thường nói “Vừa ăn xong mà vẫn cứ tưởng như mình chưa ăn”. Cái đói cứ lửng lơ mãi ngày này qua ngày khác, thế mới là khó chịu. Có những ông bạn tôi ăn theo cái kiểu câu dầm, tức là lấy cái muỗng tre nhỏ xíu, hoặc một cái gì đó lớn hơn cái đầu đũa, múc từng muỗng ăn rả rích suốt ngày để có cảm tưởng lúc nào cũng được ăn, nó làm lu mờ cái cảm giác đói, đó là cách tự đánh lừa mình.
Tôi cũng “ăn dè hà tiện” nhưng tôi ăn bằng muỗng. Cái muỗng rất đặc biệt bằng inox hẳn hoi, có chạm trổ tinh vi và luôn được chùi rửa sáng bóng. Nhưng sáng nay, được chia hai củ khoai lang ăn sáng nên tôi để cái muỗng ở nhà. Tôi thường cất nó vào trong chiếc lon Guigoz – một loại vỏ hộp sữa được chế biến thành đồ dùng rất thông dụng và nhiều lợi ích của hầu hết những anh tù, nó có thể dùng “trăm công ngàn việc” từ đựng các loại thức ăn, thức uống đến đun nấu, câu móc, đựng mắm muối, chứa đồ để dành, tắm rửa đánh răng, rửa mặt. Nhưng hôm nay thì cái muỗng biến mất, tất nhiên là nó đã bị tịch thu trong buổi khám xét trại sáng nay.
Đây là thứ “gia bảo” tôi đã cất giấu nó suốt mấy năm nay chưa hề lơi lỏng. Nó luôn nằm sát bên tôi, lúc đi lao động cũng như khi nằm ngủ. Có thể ví như cái nạng của một anh què, cái gậy của ông lão chín mươi, một thứ đã thành thói quen bám vào cuộc sống.
Sau một buổi trưa mưu toan tính kế, chiều hôm đó tôi quyết định đến gặp Dực, anh chàng trưởng ban thi đua của trại. Dực cũng chỉ là một “trại viên”, nhưng trước đây anh ta là cán bộ, “thoái hóa tiêu cực” sao đó nên bị đi tù. Những anh cán bộ và quân nhân trong trại tù thường được gọi là “phạm binh phạm cán” tức là tội phạm thuộc binh sĩ hoặc cán bộ cũ. Họ có một chế độ đãi ngộ riêng và thường được dùng vào trong các công việc cần đến sự tin cậy của giám thị.
Bữa khai lý lịch, thấy tôi khai là dân huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, Dực liền hỏi quê quán và nhận là người cùng quê. Một lần Dực dẫn chúng tôi đi lấy quần áo ngoài trại chính, qua khoảng đồi núi quanh co, anh ta chỉ tay lên mảng cây cối thưa thớt, nói với tôi rằng “cậu huyện Nhụ nằm ở đó”.
Tôi hỏi anh có họ hàng thế nào với ông Huyện Nhụ, anh ta nói là cháu gọi ông Nhụ bằng cậu, nhưng gia đình cụ Nhụ vào Nam còn gia đình anh vốn là nông dân nên ở lại miền Bắc.
Cụ Nguyễn Mạnh Nhụ trước năm 75 làm chánh án ở tòa án Sài Gòn và tôi nghe nói là cũng có họ hàng với gia đình tôi, nhưng là họ xa. Cụ làm tri huyện từ khi còn rất trẻ. Sau này tôi có gặp cụ vài lần. Tôi kể cho Dực nghe đôi ba chuyện về cuộc sống của cụ huyện Nhụ khi còn ở Sài Gòn. Sau này đi “cải tạo” cụ mất ở trại này. Dực nói là trước khi cụ chết, cụ chỉ thèm được ăn một cái bánh dò. Dực nhắn người nhà ở Thái Bình khi đi thăm nuôi thì ghé qua Hà Nội mua lên vài cái, nhưng khi bánh dò mang lên thì cụ mất rồi.
Từ đó, đối với tôi, Dực có phần dễ chịu hơn. Nhưng dĩ nhiên cái khoảng cách giữa một bên là “ngụy” một bên là “cán” thì khó mà san lấp được…
Nhưng hôm nay thì tôi cần đến hắn. Suốt buổi trưa tôi không gặp được Dực. Cho đến hai hôm sau, khi trại đã xôn xao chuẩn bị cho những ngày Tết tôi mới gặp được Dực. Trong khi đó tôi dò hỏi mấy tay làm văn hóa xem những thứ bị tịch thu còn để trong phòng thi đua không. Họ nói còn để trong kho lẫn lộn với những thứ đồ dùng khác. Tôi mang cho Dực một ít thuốc đau dạ dày của ông anh tôi gửi vào. Rất may cho tôi là hắn cũng bị đau dạ dày. Mà cái thứ thuốc trị bệnh dạ dày ở miền Bắc hồi đó chỉ là tí mật ong trộn với nghệ nên không công hiệu. Tôi có thứ thuốc “cao cấp” hơn là Maalox, uống vào là cơn đau dịu xuống ngay. Thuốc Mỹ đàng hoàng, người ta ghét Mỹ nhưng thuốc của nó tốt thì cứ thích, có sao đâu.
Tôi gạ chuyện để xin lại cái muỗng. Dực trợn mắt:
– “Anh làm cái gì mà cần cái muỗng đến thế? Bây giờ để trong kho, chui vào đấy mà trực trại nó biết thì tôi vào nhà đá.”
Tôi nằn nì:
– “Đấy là đồ gia bảo của tôi đấy. Anh biết không, tôi mất nhiều thứ lắm, một cái bằng lái xe ba dấu, một cuốn tự điển.Nhưng tôi không cần, chỉ cần cái muỗng thôi.”
Dực nhìn tôi nghi ngại:
– “Hay là mày giấu tiền trong đó?”
Dực hơn tôi hai tuổi nên hắn có gọi tôi bằng mày tôi cũng không tự ái, mà dù hắn có kém tôi vài ba tuổi mà lúc đó gọi tôi bằng mày tôi cũng cho qua luôn.
– “Cái muỗng đặc và nhỏ như thế làm sao giấu tiền được?”
Dực nửa đùa nửa thật:
– “Bọn mày thì lắm trò lắm, cái gì chúng mày chẳng làm được. Chưa biết chừng mày giấu cả cái máy quay phim trong đó cũng nên. Tao nghe nói mày có sách làm phim phải không?”
– “Đúng, nhưng là tôi viết truyện rồi người ta lấy làm phim chứ tôi biết cái cóc khô gì.”
– “Vậy sao mày chỉ đòi lấy cái muỗng, mày mua chuộc tao bằng hai vỉ thuốc đau dạ dầy, không bõ. Khéo không chết cả đám. Tao không chơi.”
Tôi thất bại, nhưng vẫn không chịu bỏ cuộc. Chiều hôm đó, Dực lại được lệnh phải làm một cái phòng đọc sách vào dịp Tết. Tôi đang loay hoay dán mấy cành hoa đào lên tấm phông trên hội trường thì Dực kéo tôi xuống. Nó bảo tôi đi khuân sách trên thư viện về hội trường, kê bàn ghế, trang trí thành khu đọc sách báo trong ba ngày Tết cho ra vẻ “có văn hóa”. Nhưng nếu coi thư viện thì không được ăn tết ở phòng mà phải ngồi trực ở hội trường. Tôi nhận lời ngay dù biết rằng sẽ mất cái thú dự những ngày Tết với anh em trong phòng và mất cái thú ngồi đánh mạt chược bằng những con bài gỗ do chúng tôi tự làm lấy.
Thế là tôi lại có dịp lân la nói chuyện với Dực về cái muỗng của tôi. Dực vẫn nghi ngờ rằng tôi có cái gì giấu trong đó. Tôi đành kể cho Dực nghe:
– “Buổi sáng hôm tôi phải đi “học tập cải tạo”, vợ tôi chuẩn bị một số đồ dùng hàng ngày đưa vào túi xách. Đứa con gái của tôi, khi đó mới hơn ba tuổi, thấy mẹ nó bỏ vào túi xách nào là quần áo, khăn mặt, thuốc men… nó đang ăn sáng, cũng bỏ vào xách tay của tôi cái muỗng nó đang ăn và dặn: “con cho bố mượn, khi nào bố về, phải trả lại cho con đấy”.
Tôi ôm con gái gật đầu hứa khi về bố sẽ trả. Nhưng quả thật tôi vẫn nghĩ chẳng bao giờ tôi trả lại được cho nó. Lần chia tay này có thể là vĩnh viễn… Chúng tôi ngậm ngùi chia tay, không thể hẹn được ngày về vì có biết ngày nào về đâu mà hẹn!
Thế là từ đó, cái muỗng theo tôi suốt trong những bữa ăn, suốt trong những giấc ngủ. Hình ảnh con gái và gia đình tôi hiện lên qua cái muỗng đó. Tôi vẫn đánh lừa tôi rằng tôi đang được ăn bên con gái, bên những người thân. Dù tôi biết rất rõ sự lừa dối ấy là một niềm ước vọng không bao giờ thành hiện thực, nhưng vậy mà đôi lúc tôi cũng thấy ấm lòng.
Nghe câu chuyện ấy, Dực tỏ ra chần chừ, nhưng hắn vỗ vai tôi:
– “Thôi được, nếu đã là như thế thì tôi giúp cậu. Tối nay, khi ngồi coi phòng đọc sách, tôi sẽ giữ phần bánh chưng lại cho cậu, tôi sẽ gọi cậu xuống phòng thi đua cho cậu ngồi ăn ở đó, trong khi tôi gọi ban thi đua lên phòng hội thì tôi giả vờ để quên chìa khóa kho. Cậu mở cửa vào lấy, có gì thì cậu chịu trách nhiệm. Nó mà vớ được thì ‘kỷ luật’ suốt cái Tết này đấy, chưa biết chừng suốt mùa xuân.”
Chẳng còn cách nào khác, tôi đành làm theo cách “ăn trộm” này. Tối đó tôi mở khóa mò vào gian nhà kho. Ánh điện từ nhà ngoài hắt vào, vừa đủ soi sáng cái đống hầm bà làng đủ thứ đồ dùng lặt vặt vừa bị thu mấy hôm trước. Tôi sục ngay vào cái đống linh tinh đó, quả là những anh bạn tù của tôi có lắm trò chơi thật.
Thôi thì đủ thứ, cái điếu cày được làm bằng những ống hỏa châu hoặc những cáng băng ca được cắt ngắn, chạm trổ rồng phượng, khắc gọt rất tinh vi. Những cái trâm cài đầu, những cái lược cho con gái hay cho người yêu, làm bằng nhôm được khắc những cái tên “Hồng Hoa, Bích Phượng, Thúy Hường…” nghe nao cả lòng. Những con dao nhỏ xíu, những cái muỗng gò bằng tôn cũng có hoa lá cành xinh xắn. Tất cả những cái gì bằng sắt đều nằm gọn ở đó.
Sách vở tiếng Anh tiếng Pháp và đủ thứ giấy tờ lộn xộn. Cái mà tôi kiếm được trước tiên lại là cái bằng lái xe của tôi. Tôi không dại gì mà không đút vào túi, dù chẳng biết để làm gì. Tôi lại hì hục lục tiếp, vừa hồi hộp vừa phải thật nhanh tay, tôi đâm ra lính quýnh. Dù chỉ một tiếng động nhỏ cũng khiến tôi giật mình. Cái muỗng của tôi vẫn chưa tìm thấy. Ruột nóng như lửa đốt, tôi bới tung hết cả cái đống ấy và đâm hốt hoảng nếu cái muỗng không còn ở đó nữa. Nhưng may quá, cái muỗng kia rồi, nó nằm dưới cuốn sách dày cộm của “thằng chết tiệt” nào đó. Nó chỉ thò ra có mỗi cái đuôi, tôi cũng nhận ra nó ngay. Lúc đó tôi có cảm tưởng như “con có ở xa hàng cây số thì bố cũng cứ nhận ra con như thường”.
Tôi vồ lấy nó như sợ bị người ta giật mất. Tôi nhìn cái hoa văn chạy dọc theo cán muỗng mà tôi đã quá thân thuộc như chính cái nét mặt con gái tôi khi nó “nhí nhảnh” đưa cái muỗng vào trong túi xách. Nó vẫn cứ tưởng là một chuyện vui, bố đi chơi rồi mai bố về. Ừ thì vui. Tôi cười trong nụ cười mếu máo của mẹ nó và trong nụ cười hồn nhiên của nó. Không hiểu sao trong lúc gay cấn như thế mà hình ảnh xưa lại hiện lên rất nhanh như một ánh chớp. Tôi vọt ra khỏi phòng khóa cửa lại, biến nhanh vào bóng tối trên con đường về “khu biệt kích”. Thoát nạn! Cái Tết ấy tôi lại được vui chơi với cái muỗng của tôi, dù tôi đã phải hy sinh suốt ba ngày, trong khi mọi người được nghỉ ngơi thì tôi cứ phải quanh quẩn trong cái “phòng đọc sách” chẳng có ma nào thèm ngó đến ấy.
Những dịp nghỉ ngơi như thế cũng hiếm hoi như chuyện được ăn một bữa cơm đúng là cơm chứ không phải khoai sắn hay bo bo. Nhưng quả là tôi thấy hạnh phúc dù ngồi thui thủi một mình. Tôi có cái muỗng rồi, còn cần gì vui chơi nữa. Đó chính là mùa xuân của tôi.
Nhưng không phải đó là một lần duy nhất tôi phải “cứu lấy” cái vật gia bảo của mình. Hai lần sau cũng tương tự, cũng bị tịch thu rồi cứu lại được cứ như sắp ra pháp trường rồi lại được cứu. Chỉ tiếc rằng người cứu tôi không phải là người bạn đồng minh đã từng chiến đấu với các đồng ngũ của tôi trong những năm qua, người đồng minh đó đã “gan dạ” cuốn cờ chạy nhanh và chạy xa quá rồi. Thôi thì tôi tự cứu lấy cái muỗng của tôi vậy.
Một lần khác, tôi lội qua con suối sau cơn mưa lớn. Chỗ chúng tôi làm phải đi qua một con suối, gọi là suối lạnh. Bình thường nó cạn, dòng nước trong vắt dịu dàng trôi lờ lững trên những tảng đá xanh. Chúng tôi thường dùng nơi này làm bến tắm. Nhưng cứ có một cơn mưa lớn là nước từ những triền đồi vây quanh bốn hướng ào ạt đổ xuống, chỉ cần nửa giờ sau là con suối trở nên hung hãn, nước chảy cuồn cuộn và mang theo những cành cây, những khúc gỗ lao băng băng. Chúng tôi phải gấp rút lội qua con suối trở về trước khi con suối trở thành hung dữ. Sang gần tới bờ bên kia, tôi loạng chọang làm đổ cái túi đồ đựng những thứ lặt vặt trong đó có cái muỗng. Ở đây tôi thuộc từng khe đá nên tôi không ngần ngại nhoài người xuống mò. Anh bạn nhảy dù, la lên:
– “Bộ ông điên sao?”
Tôi điên thật, hy vọng mình mò được. Nhưng nước chảy xiết quá tôi lại thua. Anh bạn nhảy dù trẻ, què một tay vì bị thương ngoài chiến trường, rất hiểu tôi nên anh đi xa hơn một chút và khom người xuống, thò một tay ra cái khe hòn đá là tìm được lại cho tôi được cái muỗng. Đôi mắt anh rất tinh, anh mỉm cười:
– “Tôi biết ông mất cái gì rồi.”
IV.
Chuyện trớ trêu là hơn 12 năm sau, tôi đã trở về, nhưng chưa trả lại cái muỗng cho con tôi được vì mẹ con nó đã vượt biên, định cư ở nước ngoài. Hơn hai mươi năm, tôi chưa hề gặp lại con gái tôi. Tính đến năm nay là 27 năm, con gái tôi đã 30 tuổi. Ngày 29 tháng 9-2002 vừa qua, cháu đã lập gia đình ở Miami Florida.
Nhận được thiệp báo tin, tôi không biết mình vui hay buồn. Hình như không phải là vui hay buồn mà là một thứ cảm giác kỳ lạ cứ lơ lơ lửng lửng lẫn lộn. Chú thím nó và các anh chị nó ở Mỹ đều hẹn nhau đi dự đám cưới. Tôi thì không, chẳng hẹn hò được điều gì cả và chẳng làm được cái gì cả. Tôi có cảm giác như mình thừa. Rất may là trước ngày đám cưới, cô chú nó về Sàigòn, chính tay tôi gửi được tấm thiệp mừng con gái. Tôi gửi theo cái muỗng trả lại cho con gái tôi như lời hứa 27 năm về trước. Vật đó có thể thay cho sự có mặt của tôi không? Tôi không biết. Nhưng tôi chỉ nghĩ rằng gửi cho cháu để cháu hiểu rằng lúc nào tôi cũng coi như cháu còn nhỏ lắm, như mới hôm qua hai bố con còn ở bên nhau. Tôi đi chơi đâu đó và hôm nay trở về. Nhưng cháu đã đi xa và tôi còn ở lại Sàigòn, nơi nó đã sinh ra. Cháu sẽ nghĩ gì, tôi không biết.
Nhưng vài hôm sau thì có một điều tôi biết rất rõ là từ khi cái muỗng được gửi đi, tôi cảm thấy trống trải như mất mát một cái gì, xa vắng một cái gì thân thiết hàng ngày ở bên mình. Tôi cho rằng nó cũng giống như cái cảm giác của những ông bố bà mẹ khi cho con gái mình đi lấy chồng xa. Nỗi buồn lâng lâng bay chập chờn khắp nơi. Nhưng đó chính là sợi dây vô hình nối liền mãi mãi tình thương yêu dù ở bất kỳ nơi nào trên hành tinh này. Cuối cùng người ta chỉ còn lại cái tình. Cái tình ấy dù gửi đi tới đâu cũng vẫn còn lại, đôi khi lại mạnh mẽ và sâu sắc hơn, chỉ khi nào người ta tự đánh mất nó thì nó mới mất mãi mãi. Tôi chắc chẳng ai dại gì làm mất cái thứ báu vật đó trên đời không gì có thể so sánh được.
Lẽ ra chuyện này tôi đã viết ngay từ tháng 9/2002 nhân dịp cháu lập gia đình. Nhưng tôi ngồi mãi trước computer, không gõ được chữ nào, đầu óc lung tung. Dường như khi cảm xúc quá đầy, người ta không thể làm gì được ngoài việc cứ để cho nó tuôn trào lênh láng như ngồi dưới cơn mưa. Không nghĩ ngợi gì cả, không làm gì cả, cứ ngửa mặt lên cho mưa đầy mặt, thế thôi! Đúng là chuyện của người thì nhanh mà chuyện của mình thì nghẹn. Mãi đến hôm nay tôi mới ghi lại được những dòng chữ này, nhưng tôi cho rằng chẳng bao giờ muộn vì nó là thứ chuyện của cả một đời hay là của muôn đời.
Văn Quang
TRANG TƯỞNG NIỆM: LS Cựu CỐ VẤN VTLV GIUSE NGUYỄN VĂN THÀNH
Đã thực hiện như ý Nhà Tang yêu cầu.
Đăng 2 trang, trên Tuần Báo Thằng Mõ số này. (Cáo Phó và Phân Ưu)
Riêng Hải sẽ thông báo tin buồn này, đến Quý Bạn Bè Thân Hữu của Luật Sư Nguyễn Thành tại San José.
Trong thập niên 80, 90, rất nhiều người quen biết Ông.
Đã đến giờ, Anh Em chúng mình đang nhận được Tin Buồn liên tiếp, hiếm lắm mới có Tin Vui!
Ai cũng có vé trong túi, chỉ chờ tầu tiến vào sân ga, bước lên…là đi!…luôn!
LÊ VĂN HẢI
Vài Nét Về Nhiếp Ảnh Gia Lê Đức Tế Vừa Bay Xa! – Lê Văn Hải
Vài Nét Về Nhiếp Ảnh Gia Lê Đức Tế Vừa Bay Xa! – Lê Văn Hải
Vài Nét Về Nhiếp Ảnh Gia Lê Đức Tế Vừa Bay Xa!
Nhiều người công nhận, Ông là một trong những Nhiếp Ảnh Gia, có những hình chụp đẹp nhất Việt Nam!
Khó kiếm có ai có thể so sánh. Ông đã đoạt được rất nhiều bằng khen, từ các hội ảnh quốc tế. Trước 75, Ông là công chức của Bộ Y Tế Xã Hội. Định cư tại Hoa kỳ, từ năm 1991. Rất thân thiết với VTLV. Có sinh hoạt gì, hay tặng hình để bán đấu giá gây quỹ. Hội trưởng Hội Nhiếp Ảnh Trúc Viên, San José.<!> Cầm máy ảnh lão luyện, đầy kinh nghiệm, lâu đời trước 75. Thành viên trong các hội ảnh nổi tiếng thế giới như: PSA, VNPS, RPS, FIAP… Ông sinh năm 1938, tại Bình Khê, Bình Định. Qua đời ngày 18 tháng 2 năm 2022. Hưởng Thọ 83 Tuổi. Pháp danh Vạn Thường. Sự ra đi của Ông, là một mất mát lớn của bộ môn nghệ thuật Nhiếp Ảnh, khá mới mẻ, so với những bộ môn nghệ thuật khác, của VN. Vô Cùng Thương Tiếc! LVHải (Sau đây là một vài tác phẩm nhiếp ảnh của Ông)
THƠ ĐỀ ẢNH – MINH THÚY:
Cảm Ảnh Đề Thơ
Dáng lụa khung chiều nắng nhẹ tơ
Nương đồi bóng núi tạo nguồn thơ
Hoàng hôn phủ xuống trâu vừa kéo
Bóng mẹ gánh triêng gióng nẻo mờ
Áo tím thu về nón lá che
Ba cô duyên dáng bước chung kề
Thướt tha tà áo bay trong gió
Họ nói điều gì …chớp ảnh mê
Đẹp đóa hoa Sen nở nhuỵ vàng
Xanh hồ lá bọc nét đài trang
Cánh hồng tinh khiết màu thanh nhã
Niềm tục vừa buông ngắm nhẹ nhàng
Nghệ sĩ ruổi rong khắp nẻo đường
Rung đầy cảm giác bóng quê hương
Cao nguyên thiếu nữ ôm gùi lá
Đôi hạc cánh chào thật dễ thương
Nhiếp ảnh tầm thu nhặt hạ ghiền
Hồn lơ lửng đắm cảnh thiên nhiên
Lạc tàn ánh mắt say thi ảnh
Nghệ thuật ghi tràn phút tịnh yên
Tác phẩm đam mê tặng lại đời
Người về các bụi được nhàn thơi
Vườn xuân lối mộng lưu niềm thỏa
Nhiếp Ảnh Gia Lê Đức Tế rời
Minh Thuý Thành Nội -Tháng 3/2/2022
Kính cầu nguyện hương linh nhiếp ảnh gia Lê Đức Tế sớm được siêu sanh tịnh độ .
TIN BUỒN: Tác Giả Tuyển Tập “Như Một Lời Chia Tay!” Nhà Văn Huy Phương Vừa Tạ Thế – Phân Ưu: LÊN VĂN HẢI – PHƯƠNG HOA – NGUYỄN HUY KHÔI – LIÊU XUYÊN – MINH THÚY – CAO MỴ NHÂN
THƠ HỌA Bài “THÀNH KÍNH TIỄN ĐƯA NHÀ VĂN HUY PHƯƠNG” Của Phương Hoatừ quý “Đường thi sĩ”:
LINH THI
Phụng bái hương hồn Nhà văn Huy Phương!
Xa rồi,… mà nghĩa chẳng hề xa
Bóng hạc ảo mờ nhẹ cánh sa!...
Lòng nặng ưu tư hồn Tổ Quốc
Dạ vương trắc ẩn đất Quê Nhà.
Thi ngôn thưởng…ngát hương huê diệu
Văn bút soi…ngời ánh nguyệt ngà…
Cốt cách đậm hồn trang,…hữu xạ
Ly từ!…lệ ngọc ấm sân ga!
27-20-2022
Nguyễn Huy Khôi
TIỄN HUY PHƯƠNG
Lòng buồn nghe bạn đã rời xa,
Lìa chốn văn chương giọt lệ sa.
Viết lách bao năm đành bỏ sách,
Dãi dẫu thân thế biệt quê nhà.
Tha hương đời phải lìa quân ngũ,
Đất khách lời nêu mộng ngọc ngà.
Đáng tiếc non sông còn thống khổ…
Huy Phương kìa hỡi… cuối sân ga!
Liêu Xuyên
THƯƠNG TIẾC NHÀ VĂN
Tin buồn nghệ sĩ đã rời xa
Ngưỡng mộ bao người lặng lệ sa
Nắng đẹp mùa Xuân sao bỏ sách
Hoa xinh lá nụ lại buông nhà
Mầm chương thả nghĩa lời châu báu
Điệu phú vung tay ý ngọc ngà
Quý mến Huy Phương cầu tịnh độ
Văn Đàn Lạc Việt tiễn sân ga
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 2/26/2022
DÒNG THƠ TIỄN BIỆT
Xin Thay Lời kính điếu Nhà Văn HUY PHƯƠNG.
Chia tay từ buổi lưu vong xa
Chốn bụi hồng xưa đổ lệ sa
Tình lính văn phong thường nổi sóng
Hồn quê thơ loạn vẫn thương nhà
Tạp ghi đầy ắp sầu tay trắng
Điểm báo tràn thêm mỏi bút ngà
Lạc Việt đệ huynh chào chiến hữu
Đau buồn bái biệt cuối sân ga …
Utah 27 – 2 – 2022
CAO MỴ NHÂN
Kỷ Niệm Một Tấm Hình
Biết ông bệnh đã lâu, nhưng khi nghe tin ông mất lòng thấy bồi hồi tiếc nuối một nhà văn, một nhân tài đã ra đi. Lục tấm hình năm nào ông lên San Jose ra mắt sách 2 tập “ Nước Non Ngàn Dặm “ và Quê Hương Khuất Bóng“, ông xã tôi nhìn tựa đề đã bị lôi cuốn liền, ông cũng có thì giờ nói chuyện về quê hương với chồng tôi , và tôi đã chớp tấm hình lưu niệm.
Hôm đó có chị Kim Thư ngâm bài thơ cũng như hát bài nhạc của ông, ngoài ra có ca sĩ Ngọc Lan là học trò cũ của ông phụ diễn phần văn nghệ.
Những bài viết ngắn của ông tôi thường đọc từ các diễn đàn văn thơ chuyển vòng, rất thích những bài ông viết tả những ngôi Chùa ngày xưa nơi quê nhà. Văn của ông để lại đời, còn ông đã ra đi giữa mùa Xuân đầy nắng ấm. Đôi dòng từ biệt. Cuộc gặp gỡ nay chỉ còn là kỷ niệm.
Thành kính chia buồn cùng tang quyến. Nguyện cầu hương hồn ông sớm về cõi tịnh độ.
Minh Thuý Thành Nội
Tiễn Biệt Nhà Văn Huy Phương
Tiễn Biệt ông nằm mộ nghỉ ngơi
“Nước non ngàn dặm“ khóc tình đời
Văn chương suối chảy dài hàm tích
Tác phẩm lời bay rộng tuyệt vời
Cách trở sông nguồn mơ trọn vẹn
Xa lìa lá cội mộng đầy vơi
“Quê hương khuất bóng“ hoài say tưởng
Mãn kiếp mong cầu ngủ thảnh thơi
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 2/26/2022
Tác Giả Tuyển Tập “Như Một Lời Chia Tay!” Nhà Văn Huy Phương, Đã Thực Sự Nói Lời Vĩnh Biệt Với Tất Cả Chúng Ta!
*Nhà văn Huy Phương, cây viết có sức sáng tác bền bỉ, tên tuổi nổi nang, được biết nhất tại Hải ngoại.
*Giờ chia tay!
Nhà văn Huy Phương, tên thật là Lê Nghiêm Kính, pháp danh Thiện Bảo. Sinh năm 1937, tại Huế. Vừa qua đời lúc 4 giờ chiều Thứ Sáu, (ngày hôm qua) 25 Tháng 2, năm 2022. Hưởng thọ 86 tuổi. Tại nhà riêng ở thành phố Anaheim, Nam California.
Bà Phan Thị Điệp, hiền thê của nhà văn vừa mất, đã xác nhận và xin gởi lời thông báo đến với tất cả Quý đồng nghiệp, bạn bè, người thân xa gần.
*Hơn 2 năm trời chiến đấu với bịnh ung thư thực quản!
Một người bạn vừa thăm ông, vào những ngày gần cuối đời nhận xét: Vẫn với mái tóc rậm đặc, bạc trắng phau phau, nhà văn Huy Phương lộ nét cực kỳ yếu sức thấy rõ, vì sau gần hai năm ròng rã, chống chọi với căn bệnh ung thư thực quản quái ác. Người gầy khô, còn da bọc xương, mệt mỏi. Nhưng ở ông vẫn toát ra một thái độ an nhiên tự tại, sẵn sàng đón nhận tất cả, bình thản, kể cả cái chết!
Ông tâm sự: “Hồi Tháng Tám, 2020, một hôm đang ăn, tôi bị nghẹn cổ và khó chịu trong người, rồi bỗng dưng ói mửa thốc tháo thực phẩm ra ngoài. Đi soi bao tử, không thấy gì hết. Mừng lắm! Không ngờ sau đó, thì người ta phát giác ra là, tôi bị ung thư thực quản thời kỳ cuối!”
Từ cuối Tháng Ba, năm 2021, bịnh viện chê! không có thuốc chữa! Ông được chuyển sang quy chế “hospice tại gia” Ông đã rời bệnh viện, về tĩnh dưỡng cuối đời tại nhà, của người con gái út ở Anaheim.
*Những lời trăn trối cuối cùng
-Hỏi ông có điều gì trăn trối? Ông không trả lời, mà vói tay lấy tập thơ “Chúc Thư Của Một Người Lính Chết Già” của chính mình. Lật ra bài “Chúc Thư,” chỉ vào đoạn:
“Khi tôi chết ván hòm xin đậy nắp
Có vui chi nhìn người lính chết già
Hổ thẹn đã không tròn ơn nước
Tiễn tôi chi, thêm phí một vòng hoa!
Hãy quên tôi, người lính già lưu lạc!”
-Hỏi, có ước vọng gì sau khi chết? Ông tâm sự, còn có một trăn trở cho thế hệ tương lai, nghĩ mãi mà chưa làm được gì.
Điều ông muốn dặn dò là, thế hệ trẻ gốc Việt, là phải cố giữ gìn ngôn ngữ Việt. “Phải bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Đây là nhiệm vụ của người lớn chúng ta, những người Việt hải ngoại. Vì tiếng Việt trong nước, đã trở thành một ‘cái gì’ què cụt, rất dị hợm, đọc là muốn ói rồi!” Ông xác định: “Mất tiếng Việt là mất văn hóa Việt.” Không chú ý công tác văn hóa, văn học này, chỉ vài chục năm nữa, cả người trong nước, lẫn Hải ngoại, đều ngơ ngác hỏi “Việt Nam tôi đâu?”
*Niềm vui lớn nhất trong đời?
-Hỏi Ông có niềm vui nào lớn trong đời? Ông nói: “Trong lúc làm chương trình ‘Huynh Đệ Chi Binh,’ tình cờ tôi liên lạc được những người, có thông tin chính xác về hai ngôi mộ tập thể, có chôn xác rất nhiều Cựu quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại Việt Nam. Một tại ở Bình Dương, Sài Gòn và một ở Thuận An, Huế. Nhờ đó, tôi giúp được khá nhiều gia đình, để vợ tìm được chồng, để mẹ tìm được con, bà tìm được cháu. Họ viết thư cám ơn tôi tưng bừng! …khói lửa! Không ngờ đó là một hạnh phúc lớn nhất, đối với đời của tôi.”
*Chút tiểu sử Nhà Văn Huy Phương
Trước 75
Nhà văn Huy Phương, tên thật là Nguyễn Huy Phương, sinh ngày 4.10.1927. Quê gốc ở xã Nghi Lộc, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
Sinh trưởng trong một gia đình nho học đỗ đạt, Huy Phương được theo học từ nhỏ và đã học hết toàn ban tú tài (cũ trước 72)
Ông bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng ít lâu, trong phong trào Tổng khởi nghĩa ở Huế (1945).
Tốt nghiệp Khóa 16 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức và Khóa Sĩ Quan Thông Tin Báo Chí tại Hoa Kỳ.
Biên tập viên báo chí đài Phát Thanh Quân Đội. Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến và Chỉnh Huấn, Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
Ngòi viết Huy Phương là cây viết rất sớm. Năm 15 tuổi (1952), ông đã có thơ và tuỳ bút đăng trên Tuần Báo Ðời Mới tại Sàigòn, do Chủ Nhiệm là Ông Trần Văn Ân chủ trương.
Ra Hải ngoại
Ông qua đến Mỹ, từ năm 1990. Sau 7 năm tù cải tạo.
Đã cộng tác với báo Người Việt, Hệ Thống Saigon Nhỏ và Báo Trẻ, Thời Báo (Canada). Đài Phát thanh Việt Nam (Oklahoma) và Đài truyền hình SBTN tại Hoa Kỳ. Thằng Mõ (San Jose)
Ông sở trường, mà mọi người đọc quen thuộc với Ông, với thể loại tạp ghi. Viết về sinh hoạt, đời sống và tâm tình của người Việt trên đất Mỹ. Nhận xét sâu sắc, văn không bóng bẩy, nhưng rất hấp dẫn, chen chút dí dỏm.
Tác Phẩm:
– Mắt Đêm Dài (thơ) năm 1960
– Mây Trắng Đồn Xa (truyện) năm 1966
– Chúc Thư Của Một Người Lính Chết Già (thơ)
– Nước Mỹ Lạnh Lùng
– Đi Lấy Chồng Xa
– Ấm Lạnh Quê Người
– Hạnh Phúc Xót Xa
– Sóng Vỗ Bèo Trôi
– Nước Non Nghìn Dặm
– Quê Hương Khuất Bóng
– Quê Nhà – Quê Người
– Tuyển Tập 80 Huy Phương – Ga Cuối Đường Tàu
– Tuyển Tập Huy Phương “Như Một Lời Chia Tay”.
*Rất nhiều người không biết, Ông còn là một thi sĩ!
Huy Phương ngoài tài viết, còn làm Thơ! Thơ Ông mang nỗi niềm bâng khuâng mang mác, thao thức, trăn trở. Qua Thơ của Huy Phương, người đọc bỗng thấy trái tim mình còn sống! chưa chết! đang đập! Vì còn thấy tình cảm ấm áp nào đó, vẫn len lén chen vào trong tim.
Xin mời thưởng thức 2 bài thơ của Ông:
Dạ Thưa Thầy Thầy Còn Nhớ Em Không?
Quê Hương xưa từ những ngày chinh chiến
Thầy trò ta vội từ giã ngôi trường
Thầy từ đây đã rời xa bục giảng
Trò làm thân chiến sĩ của mười phương!
Rồi Thầy Trò cùng chung màu áo trận
Đời chiến binh ai ngỡ buổi tương phùng!
Từ thế nghiêm trò dơ tay chào kính:
“Dạ thưa Thầy, Thầy còn nhớ em không?”.
Gặp vận nước buổi rã rời tan nát
Thân tù đày nơi nước đục rừng thiêng
Bó nứa nặng trên đường qua suối cạn
“Dạ thưa Thầy, Thầy còn nhớ em không?”
Giờ lận đận ở quê người phiêu bạt
Tóc bạc phơ ngày tháng nặng lưng còng
Buổi hội ngộ nghe muốn trào nước mắt
“Dạ thưa Thầy còn nhớ em không?”
Sau đây một bài thơ “đặc trưng” Huế của Huy Phương, ai đọc mà không cảm động, ai đọc mà không nao nao trong lòng! Hướng về Quê Hương có Sông Hương Núi Ngự, đong đầy nước mắt.
Nhớ Huế
Mùa này nước Hương Giang có mặn
Muối đại dương có thấm vào sông?
Từ ngày anh đoạn tình bỏ Huế
Nguồn xa đã lạc mấy trăm dòng!
Mùa này Huế còn mưa tầm tã
Thương quê xưa vẫn nỗi đói nghèo
Anh ở nơi này vùng nắng ấm
Vẫn nhớ hoài đời Mẹ gieo neo.
Mùa này quê có còn bão lụt
Chén cơm em còn độn sắn khoai?
Trên tiệc rượu người con xa xứ
Men nồng nào lẫn nước mắt cay.
Mùa này Huế có còn phượng đỏ
Tiếng ve nào gọi nỗi buồn xa
Nơi này cả một trời hoa tím
Nhớ em xưa tiếng guốc học trò.
Mùa này Huế có còn áo trắng
Em hiện thân làm bướm tan trường
Thương ngày tháng một thời niên thiếu
Huế bây giờ – Huế đã mù sương!
Huế của tôi giờ đâu còn nữa
Cảnh vô hồn khuất nẻo người xưa
Hồn cổ tích Hoàng Thành hoang phế
Tiếng chim khuya gọi bóng trăng mờ…
Lời kết
Hầu như ai cũng đều công nhận, Huy Phương thuộc những cây bút nổi trội, có giá nhất hải ngoại. Được như thế, vì Ông có tâm huyết với nghề viết. Thêm đức tính cần mẫn, tận tụy, nghiêm túc, đầy trách nhiệm. Đặc biệt là luôn cố gắng tìm tòi để tự vượt lên chính mình, trong hoàn cảnh mới, tự đổi mới học hỏi, để có thể hòa nhập và đóng góp lớn cho nền văn học hải ngoại nói riêng và dân tộc Việt nói chung.
Ông được người đọc và đồng bào quý mến, qua hình ảnh một nhà văn, nhà báo, một chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã từng ở tù, dù bên thua trận chiến, mà vẫn hiên ngang, không làm mất danh dự của người Lính VNCH.
Ông mất đi, là một mất mát lớn đối với giới Văn Nghệ Sĩ, Truyền Thông, Báo Chí và Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại. Một cây bút nhiều thiện chí xây dựng, có trái tim thương yêu Việt Nam, hầu như không biết đả phá.
Người như Ông làm sao chết được! Hình bóng Ông, lời văn Ông, vẫn còn sống mãi trong các tác phẩm để lại, chưa kể trong tim với những người yêu mến, một nhân cách rất đáng ngưỡng mộ. Trong đó từ lâu đã… có tôi!
Anh Phương ơi, “Anh, Anh không chết đâu Anh!”
LVHải (tổng hợp)
TÂM TÌNH TIỄN ĐƯA NHÀ VĂN HUY PHƯƠNG CỦA THI SĨ HOÀNG MAI NHẤT, VTLV:
Nghe tin nhà Văn, nhà Báo Huy Phương vừa tạ thế, Hoàng Mai Nhất thật sự bất ngờ vì cứ nghi rằng sẽ có một dịp thuận lợi nào đó qua Nam Cali sẽ đến thăm anh. Thế mà…không ngờ:
NHỚ ANH
“Thôi thế từ nay anh đã đi
Để lại trong tôi nỗi bùi ngùi
Thương nhớ chỉ còn trên trang giấy
Đọc lại như thấy anh còn đây…”
Hoàng Mai Nhất
Tôi biết nhà Văn, nhà Báo Huy Phương cũng do một duyên may tình cờ. Số là thế này, vào một buổi chiều Chủ Nhật, 5/4/2009; nhà Văn, nhà Báo Huy Phương qua TP Seattle, TB WA để ra mắt tác phẩm “NHÌN XUỐNG CUỘC ĐỜI” của ông (nếu tôi nhớ không lầm thì do nhà thơ nữ Trần Mộng Tú và Thân Hữu tổ chức).
Tôi vội vàng đến tham dự. Khách đến dự khá dông, đặc biệt trong số này có một nhóm Nữ ôm những bó hoa; thì ra đó là những học tò ngày xưa của ông, mang hoa đến để kính tặng vị Thầy ngày xưa của mình (Bây giờ làm sao tìm lại được những hình ảnh đẹp trân quý như thế này khi “Đất Nước” mất vào tay bạo quyền csVN).
Khi ông lên nói đôi lời về những gì gởi gấm trong tác phẩm này. Tôi một tên cắc ké, chập chửng làm thơ với tính cách bất đắc dĩ; đã bồi hồi rung động viết vài câu thơ múa rìu qua mắt thợ, lại còn cả gan lên đọc tặng ông ngay lúc đó và đã in trong Thi tập đầu tay “CHÚT ĐỜI CÒN LẠI TRONG THƠ” của tôi ̣(ra mắt ngày 25/7/2021 ở TP Seattle, TB.WA).
* Viết tặng nhà Văn, nhà Báo Huy Phương tại buổi ra mắt sách “NHÌN XUỐNG CUỘC ĐỜI” ở TP. Seattle, TB. WA vào chiều Chủ Nhật 5/4/2009.
NHÌN XUỐNG CUỘC ĐỜI
Hoa nắng xôn xao chiều Chủ Nhật
Đồng hương, chiến hữu tụ về đây
Gặp gỡ Huy Phương…” đời nhìn xuống” *
Để lòng ấm lại mỗi mùa Đông
Xứ người trời lạnh _ mưa giăng mắc
Hoài bão một thời vẫn nặng mang
Quê hương còn dẫu trong tăm tối
Dân Chủ _ Tự Do sắp đến rồi
Cuộc đời nhìn xuống Huy Phương nhỉ
Nụ cười lại nở trên môi tươi
Hoàng Mai Nhất
* “đời nhìn xuống”: tên tác phẩm Tạp Ghi của tác giả Huy Phương, vừa mới ra mắt ở Seattle, WA.
Tất cả những điều viết nêu trên, thật sự không là gì hết, cái chính ở đây là sự ngưỡng mộ, kính phục mà tôi cần học hỏi nơi ông: “một nhân cách lớn, đầy đạo đức, không xem thường khinh dễ ai hết ”, cho dù đó là một Hậu Sinh không tiếng tăm, không hề quen biết.
Cho nên: khi về Cali rồi, ông vẫn gọi phone qua cảm ơn bài thơ tôi đã làm tặng ông lúc đó và xin lỗi vì bận quá nên không nói gì với tôi được hết.
Bây giờ nghe tin ông mất, lòng buồn vô hạn; biết nói gì hơn ngoài viết đôi dòng giải bày niềm tiếc thương, tưởng nhớ đến ông như một nén hương lòng kính tiễn đưa ông, cầu chúc Niên Trưởng Huy Phương Thiện Bảo mau sớm về cỏi Niết Bàn.
Hoàng Mai Nhất THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
(Viết tại TP. Seattle, TB Washington ngày 27/2/2022)
KÍNH TIỄN BIỆT
(nhà Văn, nhà Báo Huy Phương)
Kính tiễn đưa,
một vị thầy đáng kính trọng
một nhà Báo, một nhà Văn
một đàng anh, một Niên Trưởng
dâng mãnh đời trọn tấm lòng
dùng ngòi bút khơi mầm sống
khuyên tuổi trẻ chớ quên nguồn
cùng giữ gìn ngôn ngữ Việt:
Dẫu rằng Sóng Vỗ Bèo Trôi *
Trải thân Ấm Lạnh Quê Người
Ra đi Nước Non Nghìn Dặm
Sống cảnh Quê Nhà – Quê Người
Để rồi Hạnh Phúc Xót Xa
Khi mà Quê Hương Khuất Bóng
Giống như Đi Lấy Chồng Xa
Ở nơi Nước Mỹ Lạnh Lùng
Đành thôi dõi Mắt Đêm Dài
Gởi về Mây Trắng Đồn Xa
Lá Chúc Thư Của Một Người Lính Chết Già
Cười vui Cuộc Đời Nhìn Xuống
Đi hết Ga Cuối Đường Tàu
Tựa Như Một Lời Chia Tay
của một người viết “Tạp Ghi”
nơi xứ người để lại
cho cháu con mai này
giữ gìn Văn Hóa Việt.
Hoàng Mai Nhất
(Viết tại TP. Seattle, TB Washington ngày 27/2/2022)
*Những câu chữ in đậm là tên các tác phẩm của nhà Văn, nhà Báo Huy Phương đã sáng tác và xuất bản.
Được tin Thầy rời cõi tạm, tôi thật sự xúc động, cho dù biết “ngày ấy“ thế nào rồi cũng đến. Tôi không có dịp tiếp xúc nhiều với Thầy. Cho dù những buổi ra mắt sách của Thầy ở San Jose, tôi đều tham dự đầy đủ với vai trò một ca sĩ . Tôi hát những bài về quê hương và những bài nhạc phổ thơ của Thầy do nhạc sĩ Đào Nguyên biên soạn. Tôi biết Thầy bằng trái tim ngưỡng mộ một Nhà Văn, một tên tuổi nồi tiếng. Một ngòi bút “tạp ghi” gần gũi, thân thương… Thầy biết tôi dưới cái nhìn của một ca sĩ bình thường. Thế nhưng vào một hôm, qua sự giới thiệu của một Huynh Trưởng gia đình Phật Tử, tôi đã được hân hạnh gặp Thầy. Duyên lành đang đến với tôi khi tôi chuẩn bị giới thiệu một cuốn sách có tựa là Dòng Chảy. Và Dòng Chảy đã biến tôi -một ca sĩ bình thường- thành một con người khác thường. Một Nhà Văn dưới mắt Thầy “… Tôn Nữ Áo Tím là một người kể chuyện tỉ tê, chừng mực, với văn phong trong sáng, cẩn trọng. Tác giả đi sát với tâm lý của nhân vật cùng giới tính, đã đưa chúng ta cùng với nhân vật đi khắp ba miền đất nước..” [Nguyên Phương]. Xin cám ơn Thầy. Được tin Thầy bị ung thư, tôi bất ngờ và rất tiếc. Tôi liên lạc với các bạn trong nhóm Quốc Học Đồng Khánh, ns Đào Nguyên (cháu) để kiếm chứng thông tin. Tôi tâm nguyện nhứt định phải đến thăm Thầy một lần cuối. Thế rồi tôi đã được như ý. Vẫn mái tóc trắng dày, đầy sức sống. Nhưng Thầy đã rất yếu trong bộ pyjama màu nâu lạt. Chiếc gậy trong tay, Thầy bước ra cẩn thận, chậm chạp. Ánh mắt vẫn sáng suốt. Thầy vẫn nhớ tôi. Thầy không nói chuyện được nhiều, chỉ Cô Điệp là vợ Thầy, giúp khi chúng tôi hỏi thăm về tình hình sức khỏe của Thầy. Tôi vốn ít nói, nhưng bỗng nhiên hôm đó tôi nói rất nhiều. Tôi muốn gợi nhớ cho Thầy về những lần lên San Jose giới thiệu sách. Thầy chỉ gật đầu không nói. Thầy mệt! Vâng, tôi thật xót xa khi nhìn Thầy đang chuẩn bị rời chuyến tàu chót của trạm ga cuối cùng. Thầy ơi! Cho dù chưa một lần học với Thầy, nhưng tôi rất trân trọng con người ấy- một nhà văn-một nhà thơ- được nhiều người thương mến. Những lần giới thiệu sách ở San Jose- Bắc Cali, tôi chưa bao giờ bỏ qua. Lần giới thiệu tác phẩm “Ga Cuối Đường Tàu”, tôi man mác một nỗi buồn giấu kín. “Huy Phương ơi, xin ông đừng vội xuống tàu”, kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa đã thốt lên như thế. Nhưng cuộc đời có cho phép ai rong ruổi mãi đâu. Có chuyến tàu nào không đến sân ga cuối cùng. Con tàu đưa Thầy đang kéo còi chuẩn bị vào ga. Thầy đang sống với những khoảnh khắc đối diện với bờ vực tử-sinh. Thầy ơi! Một câu nói mọi người ai cũng biết “Khi ta sinh ra, mọi người cười, ta khóc. Khi ta ra đi, mọi người khóc, ta cười “. Vâng, mọi người sẽ nhỏ những giọt nước mắt thắp sáng một tên tuổi HUY PHƯƠNG-Lê Nghiêm Kính … “Khi tôi chết, ván hòm xin đậy nắp/ Có vui chi nhìn người lính chết già/ Hổ thẹn đã không tròn ơn nước/ Tiễn tôi chi, thêm phí một vòng hoa…..” [Chúc Thư-Huy Phương] Bên cạnh cuộc đời của Thầy không thể thiếu một bóng hồng rất đẹp. Cô Phan Điệp. Một người vợ thật tươi vui, nhã nhặn. Cô gọi Thầy là Anh Bính. Cô nói: “Khi viết văn, anh là Huy Phương. Trong khai sinh tên là Nghiêm Kính. Còn với Điệp, anh là anh Bính….” Rất dễ thương Bây giờ Thầy đã yên nghỉ. Thầy đã thật sự rời chúng ta. Một nén nhang, xin được góp lời cầu nguyện hương linh Thầy sớm về cõi Phật. Vĩnh biệt Thầy, Huy Phương-Lê Nghiêm Kinh
TÔI BIẾT THẾ NÀO ANH CŨNG VỀ … (Phan Nhật Nam)
Tôi biết thế nào anh cũng về…
Lần Huy Phương đi chuyến tàu cuối một mình..
25 Tháng 2, 2022
Tôi biết thế nào anh cũng về (1)
Không bây chừ thì dăm bữa nữa
Cuộc đoạn trường nầy mấy ai lần lỡ
Ga cuối đường tàu không phải chờ lâu (2)
Bước chậm rãi, dạng hình thấp thoáng
Nắng chiều hôm đỗ bóng xuống sân ga
Khô gió chướng thổi xòa tóc rối
Lạnh lùng thấm hiểu một-mình-ta
Hiểu lẻ tử/sinh- Hiểu kỳ còn/mất
Một lần “mất nước” tưởng nằm mơ
Đêm chợt thức.. áo tù đầm ươn ướt
Hóa ra ta bật khóc tự bao giờ?!
Sáng sớm điểm danh, tù xuất trại
Nhìn quẩn quanh chẳng biết ai với ai?
Người bạn kia nghe quen tiếng nói
Đói lạ lùng sạm mặt, tái màu da!
Chiều về nhìn bóng núi săm sắp
Hỏi rằng sống được đến ngày mai?
Đêm nằm nhóp nhép môi khô nhạt
Tưởng miếng cơm, nhớ bữa ngọt ngào
Cố gõ lấy đầu như gỏ cửa (3)
Mà sao cửa đóng chặt then gài
Nhìn xuống giếng chợt thấy.. Ôi kinh hãi
Trắng phau phau bợt nhạt mái tóc mai
Mười năm khổ thân tù xa xứ
Trở về phố cũ nhìn không ra
Thơ Hạ Tri Chương hóa không đủ
Đi về đâu? Nào “đồng bào ta”?
Nhà cũ không còn. Cửa đóng chặt
Hỏi, thưa không một tiếng trả lời
Muốn ngữa mặt kêu với trời khẩn cấp
Có hay không.. Một phận, nghiệp cho người?
Vợ rày rạn tả tơi vùng kinh tế mới
Con đâu rồi.. Thân gởi chốn biển khơi
Ôi bé bỏng một thời cha bế ẵm
Trôi về đâu lớp lớp sóng gào đau
Cắn chặt răng, cố nhập thân xứ lạ
Chắc nắm tay, lại khởi cuộc từ đầu
Chiều tan sở, tuổi gìà, xe đời cũ
Giữa giòng người nêm chặt.. Exit về đâu?
Anh cố viết như đã từng gắng sống
Viết những gì.. Và gắng sống..
Vì sao?
Đất Mỹ – Không khứng cho “Người Thất Trận” (4)
Quê nhà nào – Chỉ Hạnh Phúc Xót Xa! (5)
Vẽ hộ anh em một Chân Dung ngơ ngác (6)
Viết giùm chiến binh Bản Di Chúc đắng cay (7)
Còn được bao nhiêu Người Muôn Năm Cũ (8)
Đủ hơi tàn về họp mặt Tháng Tư? (9)
Thôi nhé Huy Phương..
Dẫu sao cũng còn một nơi mong trở lại
Ngôi trường xưa đầm thấm vọng Lời Thầy
Lớp học lắng im, bóng cây bàng mát rượi
Bên giòng Sông Đá rạn giọt Mồ Hôi (10)
Nơi trường ấy, Thầy dạy Người Tử Tế
Hãy Yêu Thương – Hãy Chân Thật trăm bề
Nên tôi biết…
Thế nào Anh cũng về chốn ấy,
Trên chuyến tàu cuối cuộc nhớ Thầy Lê!
Ghi chú:
#(1;3;4;5;6;7;8;9): Những đầu sách và bài viết của Huy Phương
#(3): Thơ Tô Thùy Yên
#(10): Sông Thạch Hãn; Trường Nguyễn Hoàng, Quảng Trị – Nơi Huy Phương/Thầy Lê Nghiêm Kính dạy lớp học đầu đời trước khi nhập ngũ Khóa 16 Thủ Đức, 1964
Nhớ Ngày 25 Tháng 2, 2022
Cùng Ngày Mạ mất, Bà Phương Dung, (1922- 25 Tháng 2, 1961)
Phan Nhật Nam
**Cập Nhật Lần 8: TRANG TƯỞNG NIỆM & THÀNH KÍNH PHÂN ƯU: Văn Thi Sĩ DƯƠNG HUỆ ANH, Cố Vấn Của VTLV & Thành Viên Văn Bút VNHN & Văn Bút Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, Vừa Tạ Thế.
Tôi xin mạn phép thay mặt Ban Truyền Thông Văn Thơ Lạc Việt. Thực hiện Cáo Phó Văn Thi Sĩ Dương Huệ Anh. Để kính thông báo cùng quý vị.
Một chút lòng thành kính dâng lên tiền bối Văn Thi Sĩ Dương Huệ Anh. Cúi xin Trời Phật đón nhận hương linh cụ ông Dương Huê Anh Sớm yên nghỉ trên cõi Niết Bàn.
Thành Kính Phân Ưu
Lê Tuấn
Lời Mời tham dự:
Chiều Tụng Kinh Cầu Siêu Cho Thi Sĩ Tiền Bối Dương Huệ Anh, Sáng Lập Và Cố Vấn Văn Thơ Lạc Việt.
Tại Chùa An Lạc, Lúc 6 Giờ 30 Chiều, Thứ Sáu Tuần Này! Ngày 25 Tháng 2 Năm 2022.
Thưa Quý Niên Trưởng và Quý Anh Chị Em,
Ngày 17 tháng 2/2022 vừa qua, VTLV của chúng ta mất đi một người “Anh Cả” thương yêu, dễ mến, cũng là Vị Sáng Lập và Cố Vấn của Hội.
Đó là Văn Thi Sĩ Dương Huệ Anh. Tên thật là Phạm Ngọc Tường. Mất tại san Jose. Hưởng đại thọ 97 tuổi.
“Nghĩa tử là nghĩa tận” Trong niềm tri ân tưởng nhớ. Hải đã mạo muội thay mặt VTLV, đứng ra xin Sư Bà một Buổi Tụng Kinh Cầu Siêu, cho Hương Linh Thi Sĩ Quá Cố đầy tình thương, tình mến của chúng ta, chóng được siêu thoát.
Lúc 6 giờ 30 chiều, Thứ Sáu tuần này, ngày 25 tháng 2 năm 2022. Tại Chùa An Lạc. Số 1647 E. San Fernando St, San Jose Ca 95116.
Mong Quý Niên Trưởng, Quý Anh Chị Em, bớt chút thời giờ, tham dự đông đủ, buổi Cầu Kinh đặc biệt này. Cùng nhau Hợp lực, thắp nén nhang tưởng nhớ, tụng chung câu kinh, hy vọng Hương Linh người Anh Cả của chúng ta, cũng ấm lòng, thanh thản về Cõi Cực Lạc.
Xong buổi cầu kinh, nhà Chùa có thiết đãi ly trà nóng và tô bún chay.
Rất Hân Hạnh và Trân Trọng Kính Mời.
Lê Văn Hải
https://www.youtube.com/watch?v=Nql8WojHeBM
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
Tin buồn đưa đến quả lòng đau
LẠC VIỆT VĂN THƠ quá nghẹn ngào
CỐ VẤN thi đàn đi chẳng giã
HUỆ ANH thi sĩ biệt không chào
Bao năm tại thế ôi thương quý!
Chớp mắt về Trời thật tiếc sao!
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU CÙNG QUYẾN THUỘC
Chúc người cõi Phật bước nhanh vào
Thay mặt
Ban Biên Tập Văn Thơ Lạc Việt
Phương Hoa – FEB 19th 2022
**
TÂM THI
(Họa 4 vậncùng Phương Hoa)
Tiền bối ly từ,… dạ nhói đau!
Tinh hoa văn nghiệp quyện hương ngào!
Khôn cầm tương ngộ đôi lời giã
Chẳng kịp tri ân một tiếng chào!
Thư nhã ngao du hòa cảnh sắc
Thanh nhàn phiêu ngoạn giỡn trăng sao!
Rượu bầu,thơ túi tràn phong lãng…
Nhân nghĩa lưu thơm mãi nhiệm mầu.
21-2-2022 Nguyễn Huy Khôi
**
KÍNH TIỄN BIỆT
Nhói đau tin đến thật thình lình
Bác Huệ Anh về chốn lặng thinh
Cách biệt từ nay thôi chẳng gặp
Chia ly xa hẳn hết tâm tình
Cuộc đời là thế đành như thế
Phân ngả đôi bờ chuyện tử sinh
Lạc Việt Thơ Văn đồng tiễn biệt
Tiếc thương Tiền Bối kính nghiêng mình
Hoàng Mai Nhất (Seattle, WA, 20/2/2022)
CHIA BUỒN TỪ VĂN BÚT VIỆT NAM HẢI NGOẠI VÙNG ĐÔNG BẮC HOA KỲ & VĂN BÚT VIỆT NAM HẢI NGOẠI:
Hồng Thủy (Chủ Tịch VBVNHN VĐBHK) xin thông báo một tin rất đau buồn cho tất cả chúng ta và VBVNHNVĐBHK nói riêng, VBVNHN nói chung:
Anh BA DƯƠNG HUỆ ANH của chúng ta đã bỏ chúng ta đi rồi (HT được Nhà Văn CHINH NGUYÊN của VTLV thông báo). Chưa biết nguyên nhân anh ra đi nhanh chóng, đột ngột như vậy. HT SẼ XIN THÔNG BÁO KHI ĐƯỢC BIẾT THÊM CHI TIẾT. Chúng ta đã mất một người anh đáng kính, hiền hòa. VBVĐBHK và VBHN đã mất một Thi Sĩ kỳ cưu tài đức song toàn. Xin tất cả các anh chị cùng cầu nguyện cho ông anh đáng kính, đáng quí của chúng ta được siêu thoát về miền vĩnh cửu.
Thân mến
Hồng Thủy
*****
VĂN THI SĨ LÊ TUẤN (VTLV &VBVNHN VĐBHK):
Nhận được tin Văn Thi Sĩ tiền bồi Dương Huệ Anh đã xa rời chúng ta, ông lặng lẽ ra đi vào ngày 17 tháng 2 năm 2022. Khi câu thơ của ông còn văng vẳng đề lại, như một lời tiên tri về sự ra đi của chính mình. “Thoáng rồi…đã cuối tháng Hai. Nắng, mưa cũng hết, buồn vui… có còn?” Dương Huệ Anh.
Tôi nhớ lại mới đây VTLV tổ chức mừng sinh nhật Thi Sĩ Dương Huệ Anh còn viết bài thơ chúc mừng …Tháng ngày như ngựa chạy, tên bay, Chín chục hơn, bừng tỉnh giấc say… Bè bạn vắng dần, tình vẫn nặng, Cháu con đầy đó, số còn may? Già rồi yếu, thịt kiêng. mong đậu, Vui lại buồn, đàn họa thiếu gì dây… Sinh nhật, chúc nhau thêm tuổi thọ Hòa Bình thế giới, nối vòng tay… “Thương yêu, Tha thứ”, theo lời Chúa, Hỉ, Xả, Từ, Bi…nhớ đức Thầy… Tinh Độ: Ta Bà trong hiện hữu, Nỗi đau đòi, nhẹ bớt, mong thay!!! Dương Huệ Anh Đó chỉ là những vần thơ trao đổi gần đây nhất mà ông đã post trên email, đủ thấy được tấm lòng của thi nhân đối với anh chị em trong nhóm VTLV. Tôi đã viết tặng ông 4 câu thơ. Dương Huệ Anh Ông già chín chục tuổi xuân Vẫn còn nặng nợ nhân quần làm thơ Cõi lòng trải rộng đôi bờ Văn Thơ Lạc Việt, dựng cờ vinh quy Lê Tuấn Kính tặng. Tiền bối nhà thơ Dương Huê Anh
Vậy mà ông đã lặng lẽ cưỡi hạc bay theo mây trắng về trời, bỏ lại trần gian những tác phẩm văn chương, những vần thơ hay, bỏ lại niềm thương nhớ, tiếc thương một nhân tài. Nhà tôi ở gần nhà ông, có lần tôi ghé thăm, tặng ông vài quyển sách, ông có nhờ tôi xem giúp computer của ông bị trở ngại, thú thật là cái computer của ông quá cũ và rất chậm, nếu đụng vào thì sẽ thay đổi hết trật tự vốn có trong máy mà ông đã quen sử dụng, thôi thì tôi đành bó tay. Tôi rất kính phục ông, mặc dù tuổi đời đã cao nhưng lúc nào ông cũng muốn học hỏi thêm. Gần đây nhất là trung tuần tháng 1 năm nay 2022. Ông gọi phone cho tôi và khoe, có đứa cháu cho ông một cái computer cũ, nhưng mới với ông, ông ngỏ ý nhờ tôi hướng dẫn cách layout book. Ông muốn tự mình hoàn tất một tác phẩm, mà không cần nhờ ai. Thú thật là tôi cũng rất bận và tôi biết sức khỏe của ông không cho phép ông ngồi lâu và hơn nữa người già thì hay quên, rất khó layout một quyển sách. Đây cũng là lần cuối cùng tôi thưa chuyện với ông qua điện thoại. Thôi thì viết tặng ông bài thơ ngắn. Ngày ông cưỡi hạc về trời cũng là ngày Nguyên Tiêu, trăng rằm vẫn còn hiện diện.
Trời sai hạc xuống theo mây trắng Trăng sáng Nguyên Tiêu soi bóng cây Tử sinh trong cõi vô hình ấy Hương hồn thi sĩ ở quanh đây. Lê Tuấn
Bây giờ tôi phải viết một bài thơ lục bát, để kính tặng một Văn Thi Sĩ đáng kính trong diễn đàn Văn Thơ Lạc Việt.
***
Dương Huệ Anh Vì Sao Vừa Chợt Tắt
Có một vì sao chợt tắt Muôn ngàn vì sao cúi mặt xót thương Tiễn đưa về cõi vô thường Thi nhân tao nhã vấn vương một thời.
Câu thơ thay cả vạn lời Gửi theo mây gió, cuối trời tiễn đưa Mắt buồn đọng ướt cơn mưa Khơi dòng ký ức ngày xưa trở về. Dương Huệ Anh vọng lời thề Nhìn về cố quốc, bộn bề núi sông Tha phương một khối tình không Bảo tồn tiếng Việt, điểm hồng văn chương.
Lịch sử có lật từng chương Thì xin cắm một nén hương lòng thành Gửi thi sĩ Dương Huệ Anh Niết bàn, nơi chốn vãng sanh yên bình.
Lê Tuấn Thành Kính phân ưu Thi sĩ Dương Huệ Anh
***
Nguyễn Diệm + Bích Liên, Phó Chủ Tịch & Điều Hành Website VBVNHN VDDBHK xin thành kính phân ưu cùng tang quyến. Đời sống này vô thường quá! Xin Vĩnh Biệt Bác Dương Huệ Anh!
VĨNH BIỆT BÁC DƯƠNG HUỆ ANH
Buồn ơi ! nhận được hung tin
Chủ tịch khả kính buông mình rời xa
Trải qua Sinh, Lão, Bệnh già
Thi nhân yên nghỉ mộ tà dương sâu
Văn Thơ Lạc Việt bước đầu
Là cây cổ thụ che lâu vững vàng
Màu Xuân rực rỡ chưa tan
Mùa Xuân đã khóc vội vàng tiễn đưa
Mắt mờ như bám hạt mưa
Rơi dòng ký ức mộng xưa trở về
Dương Huệ Anh đảm muôn bề
Một thời gánh vác hẹn thề non sông
Tha phương gầy dựng bỏ công
Giữ gìn tiếng Việt gom lồng văn chương
Hội viên quy tụ bốn phương
Phú thi trải rộng yêu thương một nhà
Bóng thời gian khó níu là
Mái đầu sương bạc dần dà nghỉ ngơi
Thơ Xuân bác gởi mấy lời
Bài thơ để lại người rời thế gian
Lãng du hưởng gió mây ngàn
Âm dương cách biệt muôn vàn vấn vương
Trang đời ghi lại những chương
Góp chung lời nguyện nén hương lòng thành
Cầu về Tịnh Độ vãn sanh
Phương Tây Cực Lạc Huệ Anh hưởng đầy
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 2/19/2022
Thư Khanh cũng xin cầu cho Hương Linh Thi Sĩ Dương Huệ Anh mau được về Nơi Cõi an Lành.
SANH GIÀ BỆNH TỬ
Trẻ Già ai cũng đến lần thôi
Kẻ trước sau mãi thế rồi
Luật Trời muôn thuở âu là thế
Cầu xin Thi Sĩ được Về Trời
THƯ KHANH – 2/19/ 2022
Thành Kính Phân Ưu Cùng Tang Quyến
Nguyện cầu Hương Linh nhà văn Dương Huệ Anh sớm về Cõi Phật
Lê Thị Nhị – VBVNHN
Thành kính chia buồn cùng tang quyến thi sĩ Dương Huệ Anh.
Xin hiệp lời cầu nguyện hương linh bác Dương Huệ Anh yên nghỉ chốn vĩnh hằng.
Ngọc Thúy – VBVNHN VĐBHK
Thành Kính Phân Ưu với gia đình nhà thơ Dương Huệ Anh.
Nguyện hương linh thanh thản
Nguyện ra đi an nhàn
Nguyện vong hồn siêu thoát
Nơi cõi trời thênh thang.
Nguyễn thị Thêm
**
Thưa quý anh chị,
Buồn quá, anh Ba là người khiêm nhường tế nhị.
Trong tuyển tập VB anh đã nhắc đến nhiều người trong chúng ta đấy ạ.
Sao Khuê
Tôi sững sờ và hết sức đau buồn nhận được hung tin nầy.
Tôi rất ngưỡng mộ thi hữu Dương Huệ Anh.
Tôi xin chia buồn cùng tang quyến
Và cầu chúc hương linh người quá cố được an vui miền Cực Lạc.
Trần Công /Lão Mã Sơn
Em cảm ơn chị Hồng thuỷ báo cho biết.
Em thật là bàng hoàng với tin buồn này.
Cũng may là tuy em chưa gặp anh Ba VB VĐNHK, nhưng em thường đăng tác phẩm anh Ba trên trang VietPEN.
Em biết anh đọc và vui nên hay gửi tác phẩm cho em đăng.
Chỉ có chút an ủi này để nguôi ngoai thôi.
Cung Thị Lan (Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại)
**
Thật là bất ngờ vì trong thơ từ qua lại chưa từng thấy anh Ba than phiền về sức khỏe.
Xin thành kính chia buồn cùng gia đình anh Ba trước sự mất mát to lớn này.
Nguyện cầu vong linh anh Ba, Dương Huệ Anh sớm tiêu diêu miền cực lạc.
Thành Kính Phân Ưu,
Dương Vũ
Cám ơn chị Hồng Thủy
Nhìn hình chân dung anh Ba trông anh rất hiền, dễ mến…
Chưa được gặp mặt anh mà anh đã vội ra đi…
Những câu thơ của anh thật dễ thương, sâu lắng… THÀNH KÍNH PHÂN ƯU CÙNG GIA QUYẾNCẦU XIN LINH HỒN ANH DƯƠNG HUỆ ANH SỚM ĐƯỢC VỀ MIỀN CỰC LẠC 𝓽hái 𝓷ữ 𝓵an
Được tin buồn
Anh Ba Dương Huệ Anh vừa mới bỏ mọi người ra đi rất đột ngột,
thật là tiếc thương.
Xin thành kính chia buồn cùng gia đình anh Ba,
nguyện cầu hương linh anh Ba được tiêu diêu nơi cõi Vĩnh Hằng.
Mỹ Hoàn
Tin rất buồn Thi Sĩ DƯƠNG HUỆ ANH đã mệnh chung hôm nay 19 -2 – 2022 tại Thung Lũng Hoa Vàng San Jose.
Xin kính lời phân ưu cùng tang quyến Nhà Thơ lão thành.
Cầu nguyện hương linh cụ sớm Phiêu diêu miền Vĩnh Cửu.
Kính bái.
Cao Mỵ Nhân.
THƠ ĐIẾU THI SĨ DƯƠNG HUỆ ANH.
Cụ bảo rằng không bỏ bóng xuân
Sao hôm nay lại biệt dương trần
Xưa từng xướng hoạ lời chân thiện
Giờ đã phiêu linh cõi thánh thần
Hội ngộ văn đàn từ sáng lập
Chia ly thi hữu chẳng gieo vần
Vô cùng thương tiếc Dương Thi Sĩ
Hoa “Huệ Anh Đường” nở vạn năm …
Los Angeles 19 – 2 – 2022
CAO MỴ NHÂN
*
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
Tin buồn đưa đến quả lòng đau
VĂN BÚT VÙNG ĐÔNG BẮC nghẹn ngào
Thi bối đi rồi, đi chẳng giã
HUỆ ANH đã biệt, biệt không chào
Mấy trăng nhập hội thân nhiều lắm!
Chớp mắt về Trời tiếc xiết bao!
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU CÙNG QUYẾN THUỘC
Chúc người cõi Phật bước nhanh vào
Phương Hoa – FEB 19th 2022
Thật là bất ngờ và đau buồn!
Thuy Messegee
*
Vô cùng ngạc nhiên hay tin thi sĩ Dương Huệ Anh mãi mãi ra đi về chốn vĩnh hằng.
Xin chia buồn với tang quyến và đại gia đình Văn Bút Hải Ngoại, Văn Thơ Lac Việt.
Cầu nguyện hương linh nhà thơ Dương Huệ Anh được an nhàn nơi cõi phúc
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
Ngọc Hạnh
*
* Xin Chân Thành Kính Nguyện Cầu Linh Hồn Lão Tiền Bối
Thi Sĩ Đa Tài Hoa Thật Cao Quý DƯƠNG HUỆ ANH Sớm Được Siêu Thoát Về Cõi Vĩnh Hằng*
*Xin Chân Thành Kính Phân Ưu Cùng Tang Quyến*
**Xin Chân Thành Kính Bái
LuânTâm
*
Chị Hồng Thủy kính mến.
Em cám ơn chị báo tin, em thật sự bàng hoàng khi biết anh Ba đã ra đi.
Tuy em chưa biết anh Dương Huệ Anh, nhưng em cũng được hân hạnh đăng bài của anh.
Em vô cùng thương tiếc, xin hiệp lời cầu nguyện cho Hương Linh anh Dương Huệ Anh sớm yên nghỉ nơi miền Cực Lạc.
Thành kính phân ưu cùng gia đình và tang quyến trong nỗi đau mất mát này.
Kính nguyện.
KIM OANH
*
Xin được thành kính phân ưu cùng tang quyến của nhà thơ Dương Huệ Anh và hội VBVNVĐBHK
Nguyện cầu hương linh người quá cố được thanh thản nơi miên viễn.
Thành kính phân ưu
Nguyễn hữu Mỹ Nga
*
Cháu xin chân thành được chia buồn với gia quyến chú Dương Huệ Anh
và cầu nguyện cho hương linh chú sớm yên nghỉ nơi vùng Cực Lạc
Trân trọng
Kim Vũ
Tin Rất Buồn!
Dù biết Thi Sĩ Lão Thành Dương Huệ Anh đã có tuổi và thời gian sau này, sức khỏe không được khả quan cho lắm. Nhưng tin Ông qua đời, vẫn là tin bất ngờ, bàng hoàng đau xót với tất cả Anh Chi Em trong VTLV.
Thi Sĩ Đương Huệ Anh, là Thành Viên Sáng Lập Văn Thơ Lạc Việt từ năm 1992. Với nhiều Thi Sĩ khác, như có Cụ Hà Thượng Nhân, Hoàng Anh Tuấn….Tên gọi ban đầu là Thi Đàn Lạc Việt, sau đổi thành Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt.
Tính tình hiền lành, dễ mến, sống chan hòa tình nghĩa với mọi người.
Cả đời say mê với chữ nghĩa văn thơ. Đã có những tác phẩm xuất bản trước 75. Cây viết Dương Huệ Anh, là một văn nghệ sĩ đa năng, có mặt trong nhiều bộ môn: Thơ, Văn, Nghiên Cứu, Nhạc, Truyện, Ký. Ông được biết là một người có số lượng thơ sáng tác rất nhiều ở Hải ngoại.
Sau đây một chút tiểu sử của: Thi Sĩ DƯƠNG HUỆ ANH & TÁC PHẨM
Bút hiệu khác: Y Lương, Triều Ðông, Thái Uyển, Huyền Sương.
Sinh quán: Hải Phòng, Bắc Việt Nam .
Nghề nghiệp: Trước 1975: Công chức hành chính.
Sau 1975: Công, tư chức, các ngành xã hội, kinh doanh, bảo hiểm, tài trợ và địa ốc, khảo cứu Ðông Y.
Tác phẩm đã xuất bản.
Trước 75:
-Thơ Xanh
-Tâm Lý Phụ Nữ Qua Ca Dao Tục Ngữ
Tại Mỹ:
– Huyền Ca, Diễm Ảnh
– Quê Hương Vĩnh Cửu Tình Yêu
– Ðường Nào Có Hoa Ðào
-Tha Hương Mười Tám Năm, Sầu Có Ai.
– Ðông Y Lược Giải
-Những Cánh Thư Hồng
-Thơ Việt Hải Ngoại
-Thiên Niên Kỷ Mới
– DVD 12 Bến Nước
-Chân Dung & Giá Trị Truyện
-Những Bước Đường Đã Qua
-40 Năm Tị Nạn Buồn Vui
Một Vài Bài Thơ của Thĩ Sĩ Dương Huệ Anh
CỨ VUI
Lửa nóng Sa Bà, ta cứ vui,
Lên voi, xuống chó, gắng yêu đời!
Bởi ta có cái người không có,
Sức mạnh, Bi tâm, những nụ cười!
Tuổi trẻ, xe lăn, ngồi, chẳng thiếu,
Bạn già, chống gậy, cũng thường thôi!
Phi Châu, dân đói, vô cùng khổ,
Bệnh quỉ, Sida, cả triệu người!
Do Thái, Muslim thù khó giải,
Thánh Thần, rồi Chúa cũng buông xuôi!
Năm châu quấy động*, niềm tin mất,
Bởi quá tham, điên đảo cuộc chơi!
* Khủng hoảng tiền tệ, ngân hàng, địa ốc.
20/01/09
LẠI GIÁNG SINH
Ngày tháng trôi mau, lại Giáng Sinh,
Trời mưa, trời gió, lạnh run mình.
Tám mươi hơn, tuổi, thơ còn mặn,
Sáu chục tròn, cân, bạn dám khinh?
37 năm, buồn thân tị nạn,
Tháng mươi lần, dạo bước* điêu linh!
Ngày ba bữa, giữ cho bền sức,
Đêm mấy phen đi…khổ thật tình!
Răng cửa lung lay, chừng muốn rụng,
Tóc trần trụi lùi, ngó mà kinh!
Ngáp dài, thích ngủ quay trên thảm,
Quên hết, ưu tư với bất bình!!
* Đi bộ
24/12/12
CUỐI NĂM MƯA GIÓ
Cuối năm mưa, gió, lạnh ê da,
Trời vẫn âm u, dễ chán a!
Uốn cái lưng còng, lo chống đỡ,
Thẳng đôi chân sậy, gắng xông pha!
Mắt mờ, sớm, tối lên thăm mạng (net),
Tai lãng, – con, em…- khó tặng quà!
Ba bữa rau dưa, mong giữ sức,
Một lòng tu tập, khởi từ ta!
Vui trong hiện hữu, quên năm tháng,
Tịnh độ không gần, cũng chẳng xa!
29/12/12
THẾ LÀ LẠI HẾT NĂM
Thế là lại hết năm Tây,*
2012- Lạnh. Gió ngày, mưa đêm…
Chiến tranh, khủng bố, triền miên,
Thày tu ngậm máu, Đức Tin xuống đường!
Phi Châu, dân đói thảm thương,
Vô lương, tài phiệt một phường lưu manh,
Gian thương nào nghĩ nhân tình,
Đầu cơ, lũng đoạn, Giàu, thành giàu thêm!
Độc tài ngoan cố, giữ quyền,
Tự do, hạnh phúc hão huyền, dân mơ!
Xứ này, Mỹ, thích tự do,
Tha hồ mua súng, tha hồ giết nhau!
Trẻ thơ vô tội, ngờ đâu,
Chết trong lớp học,
thêm sầu Giáng Sinh!
31/12/12
LÂU NGÀY, GẶP BẠN
Lâu ngày, gặp bạn, mừng a,
Hỏi thăm địa chỉ?
– Hơi xa!
– Ngại gì!
Thôi cho số điện thoại đi,
Khi nào rảnh ghé…
nhâm nhi …chuyện đời…
Tay ghi hàng số, miệng cười,
“Quan Âm Thiền Viện” ít người biết, anh!
Nhớ thêm đạo hiệu Tâm Minh,
Vào Google Search cũng nhanh, mấy hồi!
… Hai lần phone, – chẳng trả lời,
Cuối tuần, xe phóng…tìm hoài, thấy đâu?!
Quan Âm Bồ Tát, khẩn cầu,
Ngất ngư, lội bộ, trước, sau, hỏi đường…
Bỗng…xa thoáng bóng áo vàng,
Ai đưa lối,
Hẳn đạo tràng không xa!
…Cờ bay, vui cõi Ta Bà
Tháng 4, mồng 8, Phật Đà đản sinh…
18/5/2013
ĐI BỘ
Về chiều, thả bộ, khỏe mà vui,
Thêm được nhìn phong cảnh đất trời.
Sẵn dịp, ghé mua hàng hạ giá,
SafeWay, SaveMart…nửa giờ thôi !
Nắng vàng, gió mát dịu hồn ta,
Thoáng…đến đầu đường Berryessa…
Chợt nhớ Hà, Hàn, Búi… mấy bạn
Quế Đào, Liên Bích…ở đâu xa?*
Thiên Đường, lạc cảnh mấy tầng cao,
Thanh tịnh, thơm hương suối, động đào…
Ngọc nữ, tiên đồng trì nguyện độ
Muôn loài, ngạ quỉ sớm tiêu dao…
Ta Bà tranh chiến, lửa tràn lan,
Đường Lưỡi Bò, Trung quốc nhận càn…
Irak, Afgan…còn tử đạo,
Đối đầu nguyên tử, Bắc, Nam Hàn…
Phi Châu nghèo đói cũng can qua,
Do Thái, Iran dữ lắm mà!
Dân Chủ, Độc Tài sao hợp tác?
Cường quyền, – nhược tiểu – dễ gì tha?!
* Hà Thượng Nhân, Hàn Nhân, Đào Thanh Quế, Nguyễn Bích Liên đã khuất.
13/6/2013
Sự ra đi của Thi Sĩ Dương Huệ Anh là một mất mát lớn với VTLV. Hình ảnh Ông sẽ sống mãi trong tim những Bạn Bè thương mến.
Nguyện cầu Hương Linh Người Thi Sĩ Quá Cố vui hưởng cõi Vĩnh Hằng.
Thành Kính Phân Ưu.
Lê Văn Hải
THAY LỜI PHÂN ƯU
Phụng kính hương linh Thi Nhân Dương Huệ Anh!
*
Thi đàn Lạc Việt tiễn thi nhân
TÀI đức toàn song ấm phước phần!
“Diễm ảnh”…* trường tồn cùng vạn lộc
“Huyền ca”…* còn mãi với muôn xuân.
“Lưng còng, chân sậy”…** tiềm tuệ trí
“Tai lãng, mắt mờ”…** rạn tấm thân!?
Chữ thắm “Thơ Xanh”…* tràn mẫn cảm
Lợi danh nhẹ tễnh cõi dương trần!?
21-2-2022
Nguyễn Huy Khôi
* Tiêu đề các tác phẩm của trưởng thượng Dương Huệ Anh.
** Chữ dùng của TT Dương Huệ Anh.
Nghe tin nhà thơ lão thành Dương Huệ Anh vừa qua đời, chúng tôi, Trần Sung Phước thuộc đám con cháu của bác,
Xin thành kính phân ưu cùng gia quyến của bác và nhóm Văn Thơ Lạc Việt.
SỰ ra đi của Bác là một mất mát lớn của Văn thơ hải ngoại.
Luôn tiện xin ban tổ chức cho chúng tôi biết ngày và giờ mất của bác để chúng tôi tụng kinh cầu siêu cho bác theo nghi lễ Phật giáo.
XIn cám ơn và gủi lời chúc bình an , mạnh khỏe cả thể chất và tinh thần, sáng tác mạnh đến toàn ban.
KÍnh,
Trần Sung Phước
Phan Lang rất xúc động khi nhận được tin bất ngờ thi sĩ Dương Huệ Anh đã từ giã chúng ta về miền miên viễn.
Tuy chưa một lần được gặp mặt nhưng PL rất quý trọng và ngưỡng mộ tư cách cũng như tài thi phú của anh trên các văn đàn. Xin cám ơn Ns Lynh Phương đã sáng tác và trình bày ca khúc Niệm Khúc Cuối thật tuyệt vời, nghe mà lòng bồi hồi, cảm xúc dâng đầy. PL cũng xin cám ơn quý văn thi sĩ Phương Hoa, Hồng Thúy, Cao Mỵ Nhân, Kiều Mỹ Duyên, Lê Tuấn… đã cho thưởng thức những áng thơ, văn tưởng niệm cố thi sĩ Dương Huệ Anh.
Rất tiếc PL ở xa không thể về tham dự Buổi Tụng Kinh Cầu Siêu cho nhà thơ lão thành, nguyện cầu hương linh người quá cố sớm được siêu sinh tịnh độ. Xin cám ơn anh Hải đã đứng ra tổ chức bổi cầu siêu ý nghĩa này.
Kính chúc sức khỏe và bình an đến với tất cả quý anh chị VTLV.Kính mến,
Phạm PhanLang
Phương Thúy (Trang Chủ Diễn Đàn Cô gái Việt) xin phân ưu với gia đình cố Thi sĩ Dương Huệ Anh và VTLV.
Tuy chưa được hân hạnh gặp Thi sĩ lúc sinh tiền nhưng đã có lòng mến phục người đã tự nguyện vác cái ngà voi khổng lồ, sáng lập nên Cơ sở VTLV từ năm 1992.
Rất thương tiếc Thi sĩ, người có kiến thức, có tâm, và có tầm nhìn xa cho tương lai chữ Quốc ngữ.
Kính bái vong hổn Thi sĩ!
Phương Thúy
SYDNEY – AUSTRALIA – 24.2.2022
XIN CHÂN THÀNH CẢM TẠ ĐÃ CHO BIẾT BUỔI TỤNG KINH CẦU SIÊU CHO THI SĨ TIỀN BỐI DƯƠNG HUỆ ANH.
TỪ NƠI XA XÔI NÀY, TÔI KHÔNG THỂ THAM DỰ ĐƯỢC, CHỈ XIN DÂNG LỜI CẦU NGUYỆN CHO HƯƠNG LINH THI SĨ TIẾN BỐI SIÊU THOÁT VÀO CÕI VĨNH HẰNG
VÀ XIN CHIA BUỒN CÙNG TANG QUYẾN VÀ QUÝ THÂN HỮU VTLV
HOÀNG PHONG LINH – SYDNEY.
https://www.youtube.com/watch?v=Nql8WojHeBM
NHÀ VĂN HÓA DƯƠNG HUỆ ANH – PARIS, MẠN ĐÀM VĂN HỌC&NGHỆ THUẬT – Đỗ Bình
Để tưởng niệm một nghệ sĩ lão thành, một nhà văn hóa vừa bỏ trần gian về cõi vĩnh hằng, tôi xin trích một đoạn văn của cố Nhà văn Hồ trường An viết đôi dòng cảm nhận về nhà thơ Dương huệ Anh : « Năm 2003, tức là năm thứ ba của tân thiên kỷ, mảnh vườn hồng của Dương Huệ Anh là một cõi ngự uyển thịnh phóng rất nhiều bông hoa. Với 291 bài thơ được sáng tác đều đặn và cần mẫn trong vòng 12 tháng, tiên sinh có thể dùng làm một hiến lễ mùa thơ rất đẹp, rất đáng trân quý cho khách yêu thơ. Ở hải ngoại, những thi nhân có mạch sáng tác dòi dào nhất phải kể: Tuệ Nga, Cao Mỵ Nhân, Huệ Thu, Sương Mai, Ngô Minh Hằng, Hà Huyền Chi, Dương Huệ Anh, Du Tử Lê, Phương Triều… Có lẽ tiên sinh đứng hàng đầu về lượng. Còn về phẩm thì mỗi người có một sở trường riêng, một nét độc đáo riêng.<!> Tuy nhiên, Dương Huệ Anh vẫn là một tiếng thơ thời thế . Nếu ngày xưa, qua tiếng thơ thời thế, thi hào Victor Hugo đã được giới yêu thi ca tặng cho ông ta là L’écho du siècle (tiếng đồng vọng của thế kỷ). Vậy thì hôm nay, trên thi đàn(Việt Nam) ở hải ngoại, Dương Huệ Anh cũng có thể nhận lãnh cái danh dự ấy lắm chứ.»(Hồ Trường An-Paris, 04/02/2004)
Xin kể lại một câu chuyện văn học ở Paris mà ngày đó nhà thơ Dương Huệ Anh đã được các bằng hữu trong giới văn nghệ đón tiếp rất trân trọng và chân tình do Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris tổ chức trong đó có buổi Thảo luận về văn học & nghệ thuật giới thiệu Tác phẩm và Tác giả.Tác giả Dương Huệ Anh rất đa tài, nhưng tôi quen gọi ông là Nhà Thơ. Từ ngàn xưa người đời vẫn quan niệm:«Nhà thơ là một danh hiệu cao quý cho người làm thơ, khi mà thơ ca của người đó phục vụ cho chân, thiện, mỹ, cho ánh sáng xua tan bóng tối, cho lương tâm, trí tuệ và tiến bộ cũng như hạnh phúc của con người. »Nhà thơ Dương Huệ Anh sáng tác từ lúc còn trẻ, thuở ấy hồn thơ ông lai láng và xanh mướt, thơm ngát như hoa xuân. Nhưng vì những tác động ngoại cảnh, những biến động thăng trần của thời thế đã ảnh hưởng đến đời sống và sự sáng tác của ông, làm hụt hẫng nguồn cảm hứng, từ đó duyên tình thơ bị ông bỏ rơi vào quên lãng! Đến khi ra hải ngoại, sự đời đã lắng, ông không còn lo việc mưu sinh thì hồn thơ ẩn sâu trong tâm hồn thi nhân bỗng trỗi dậy dạt dào. Nhà thơ đã tìm lại được nguồn cảm hứng sáng tác vì biết mình vẫn còn nặng nợ với duyên thơ tình bạn mà bấy lâu đã hờ hững với nàng thơ. Thơ là nguồn sống của thi nhân nào có phụ người, chỉ có thi nhân đã bỏ thơ không còn đam mê Chân Thiện Mỹ, thiết tha với ý nghĩa cuộc sống thì nguồn thơ sẽ tàn úa và hồn thơ cũng bay mất! Thời gian như mây bay, gió thoảng, tâm hồn và suy nghĩ của thi nhân cũng như con nước chảy trên dòng sông và trôi theo dòng thời gian nên có nhiều thay đổi.
Cũng một vầng trăng huyền ảo, cảm súc của thi sĩ lúc trẻ nhìn trăng khác với tuổi xế chiều, nhà thơ không cảm thấy sự mơ màng ảo mộng trong ánh trăng, không còn đắm say thả hồn bay theo mây gió tìm hình tướng độ khuyết tròn của vần trăng, mà chỉ nhìn thấy màu kỷ niệm và bóng thời gian. Nơi phương trời Mỹ, nhà thơ Dương Huệ Anh đã bước vào tuổi xế chiều, ở đây có những nỗi buồn tha hương luôn ẩn trong tâm hồn người xa xứ, đó cũng là chất liệu, nguồn cảm hứng cho thi nhân. Dù mang nỗi sầu tha hương nhưng nhà thơ vẫn yêu đời nên hồn thơ lại dâng trào nguồn cảm xúc, ông đã sáng tác theo dòng cảm xúc và sáng tác rất mạnh với nhiều đề tài khác nhau. Nhờ kiến thức sâu rộng tác giả đã có những sáng tác giá trị về lãnh vực thi ca, văn chương và biên khảo. Tuy nhiên chất thơ đã không còn hồn nhiên màu sắc xanh hồng, óng ả như hoa mùa xuân thuở đôi mươi, cho dù hình ảnh trong ngôn ngữ thơ có mới hơn, cấu trúc thơ vẫn giữ những niêm luật mang tính luân lý đầy triết lý nhân sinh và tôn giáo. Thơ của ông hay và sâu sắc như những nhánh lúa hạt vàng, ngoài mùi hương thơm của lúa, giá trị thực tế của gạo là thực phẩm rất cần thiết để nuôi sống con người, lúa còn mang ý nghĩa cao cả hơn là sự hy vọng, nguồn sống.
Xin sơ lược về tiểu sử và tác phẩm của ông: Nhà thơ Dương Huệ Anh, tên thật : Trần Quang Tương, sinh quán: Hải Phòng.Bút hiệu khác: Triều Đông , Thụy Cầm. Thái Uyển, Y Lương.Nghề nghiệp trước 1975, Công Chức. Sáng lập và là chủ tịch Thi Đàn Lạc Việt miền Bắc Cali.năm 1992 .Năm 1993 thành lập thêm Cơ Sở Văn Học Nghệ Thuật. (đóng góp cho văn học về phương diện thơ đã xuất được 8 tập).
Tác Phẩm:Thơ Xanh.(1955). Biên khảo:Tâm Lý Phụ Nữ Qua Phong Dao. Năm 1958 Huyền Ca, Diễm Ảo tập 1,2. Năm 1991(Mỹ): Quê Hương Vĩnh Cửu Tình Yêu ; Đường Nào Có Hoa Đào; Tha Hương 18 Năm Sầu Có Ai ? Đông Y Lược Giải (tập 1) ;1994 Thơ Dương Huệ Anh, Tổng Tập I (gồm 6 thi tập), Những Khúc Buồn Vui, (Thơ Nhạc) ;1998, Những Cánh Thư Hồng 1,2: Truyện dài ; Thơ Việt Hải Ngoại, Một Góc Nhìn (2001) ; Thơ Việt Thế Kỷ 20(1) ; 2002 Ba Mươi Năm, Ngàn Kỷ Niệm (Thơ Nhạc) 2004 ; Độc Hành Ta Vui (Thơ, 2004) ; Dịch Và Bói Dịch(sơ giải, 2005). Tìm Hiểu Về Phật Giáo, Những Vần Thơ Đạo 2006, DVD Thương Về 12 Bến Nước (Thơ, Nhạc).»
Tao Ngộ Thi Nhân Năm 1998 tôi hân hạnh được hội Thơ ở Sacramento mời sang để nói chuyện về đề tài Tính Nhạc Trong Thơ do các nhà thơ Nguyễn Phúc Sông Hương, Nhà thơ Hoàng Thanh và nhà thơ Như Hoa Lê Quang Sinh tổ chức. Ngày đó quy tụ nhiều nhà thơ ở khắp nơi đến tham dự, trong số người đến có nhà thơ Dương Huệ Anh, Nhà thơ Hà Thượng Nhân, Nhà thơ Diên Nghị, Nhà thơ Song Nhị, Nhà thơ Lê Nguyễn, Nhà thơ Vũ Hối, Nhà thơ Phan khâm, Nhà thơ Hà Trung Yên, Nhà thơ Mạc Phương Đình, Nhà thơ Hà Ly Mạc, Nh à th ơ Huệ Thu, Nhà thơ Yên Bình, Nhà thơ Nguyễn Phan Ngọc An, Nhà thơ Sương Mai, Nhà văn Nhật Thịnh, Nhà văn Khuê Dung, GS, Trần Kiêm Đoàn, Nhà báo Tô Ngọc, Nhà báo Đỗ Hữu… thời gian này tôi còn được các hội đoàn sinh hoạt văn hóa ở San Jose như Văn Bút Bắc Cali, Cơ Sở Thi Văn Cội Nguồn, Thi Đàn Lạc Việt cùng một số bằng hữu văn nghệ đã tiếp đón trao đổi văn nghệ rất chân tình… Đến năm 2005 tôi sang Bắc Cali giới thiệu cuốn biên khảo Thơ: Khung Trời Hướng Vọng của GS, Nhà thơ Nguyễn Thùy và cuốn Dạy Con của GS Trần Minh Xuân ở Sacramento do các Hội đoàn ở đó tổ chức, trong số người tham dự vẫn có nhà thơ Dương Huệ Anh đến từ San Jose…. Sau đó tôi và giáo sư Nguyễn Thùy được Hội Văn Bút ở Nam Cali mời nói chuyện về đề tài văn học, do nhà thơ Nguyễn Duy Trại tổ chức. Ở đây tôi cũng thấy có sự tham dự của nhà thơ Dương Huệ Anh, Học giả, BS Nguyễn Hy Vọng, Nhà biên khảo Mạc Đông Pha, nhà thơ Thái Tú Hạp và phu nhân nhà thơ Ái Cầm…
Sự hiện diện của nhà thơ Dương Huệ Anh trong những buổi sinh hoạt văn học nghệ thuật mà tôi tham dự làm tôi khích lệ và xúc động, đối với một hậu bối như tôi quả là một món quà chân tình cao đẹp mà ông dành tặng tôi. Sau này trong số tác phẩm biên khảo, thơ văn của ông, thơ của tôi được ông đưua vào sách. Khi ông sang thăm Paris, chúng tôi đã tổ chức nhiều nơi để đón tiếp ông và đưa ông đi gặp những khuôn mặt văn hóa đặc biệt ở Paris. Ông đã đi thăm thăm nữ sĩnh Minh Châu và xem tranh của Bà. Ông được mời đến xưởng vẽ và tượng điêu khắc của nữ điêu khắc gia Anh Trần, ở đây có một phòng hội tiếp tân, ông đã gặp gỡ nhiều người bạn măn xưa rời Hải Phòng, Hà Nội qua Pháp du học từ thập niên 40, 50, tất cả mọi người hiện diện hôm đó đều trân trọng ông. Họ chia nhau mời ông và đưa ông đi thăm những di tích lịch sử và thắng cảnh đẹp ở Paris.
Trong cuốn sách: Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Hải Ngoại sẽ ra mắt vào năm 2022, các anh chị trong ban biên tập đưa Tiểu Sử của ôngvào sách để vinh danh một Nhà văn Hóa. Họ chọn ông Không phải ông đã sáng tác nhiều thơ, ra nhiều tác phẩm, mà vì những việc làm tận tụy của ông đối với việc bảo tồn văn hóa ở hải ngoại trong thời gian ông sinh hoạt trong Thi Đàn Lạc Việt.Để minh họa con người của ông, tôi xin trích lời tâm tình ông viết trong cuốn:Dương Huệ Anh ThơThơ…& Những Giao Cảm Ngọc Ngà » ( trang 3,4,5)
« Thơ! Thơ! LạiThơ!Gần một năm trước,- còn thiếu vài ngày !- vào dịp ra mắt tuyển tập » 50 Năm Thơ &Người Thơ » ở địa phương, một số thân hữu đùa hỏi: « Thế nào ông còn định sáng tác nữa hay không ? », vì theo niên kỷ đã thấy quá tuổi cổ lai hy rồi.Câu trả lời thành thật là: Cũng tùy (theo sức khỏe) thôi!Kể từ ngày tập tành theo bước các đàn anh trong Nhóm Tự Lực Văn Đoàn, Tiểu Thuyết Thứ Bảy…cóp, dán (copy, paste) từng câu, từng chữ thành vần điệu….để khoe với các bạn khác phái, cũng đã hơn nửa thế kỷ. Thơ mình làm ra có lẽ cũng khá nhiều, – riêng thời gian từ thập niên 1990 đến nay đã được vài ngàn bài, có một số nghe tạm được, nhưng tựu trung vẫn nghĩ là mình nói chưa hết những điều muốn nói, viết chưa đủ những lời cần viết. Ấy chỉ vì chuyện Đời bao la quá , phức táp quá, như là vô thủy vô chung! Nghĩ sâu thì có phải là vũ trụ, nhân sinh…luôn biến động, vô thường?Hồi tưởng lại, những ngôi sao trong làng thơ thập niên 1940 là: Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên…rồi là Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng…Bên cạnh, là những Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân, J. Leiba, Lưu trọng Lư, Bích Khê…Câu chuyện TTKH sau này mới được làm nóng lại, chứ thời gian ấy chưa ai lưu ý mấy đền nhữgng vần thơ « Hoa Ti Gôn ».Số người làm thơ những năm thập niên 1940-1950 chỉ tính hàng trăm, chú không Đông đảo như hiện thời. Tập Thi nhân Việt Nam của hai ông Hoài Thanh, Hoài Chân ấn hành năm 1941, chọn lựa không chặt chẽ lắm mà cũng gom được 40 nhà thơ ba miền Trung, Nam, Bắc.So với hiện thời, số người làm thơ có thể lên đến hàng vạn, báo nào, tạp chí, đặc san nào cũng có một số bài thơ mới…hiện tượng này đáng mừng hay chăng,là tùy quan điểm nhận xét của từng bạn đọc ; người viết không tiện nêu ra ý kiến riêng. Mới đầu, người viết lấy cảm hứng từ những mối tình trong trắng, hồn nhiên của tuổi học trò: từ cô Thái/Thủy họ Bùi (sau là ca sĩ đài Phát thanh Việt nam-Hà Nội), qua Nam Hải (Tây Thi) (con một đại thương gia ở cảng Hải Phòng)…sau đến những nàng thôn nữ bạn, học trò còn đôi tám…Dù ở đâu hay thời điểm nào, rung cảm chính trong thơ mình cũng bắt nguồn từ những hình ảnh người nữ thuộc mọi giai tầng, khởi đi từ tâm, dựa vào triết lý Đại Bi của Phật giáo. Bên cạnh nó là những trăn trở, góp ý thực tiễn tìm một giải pháp diệt khổ: chấp nhận hiện hữu, biến khổ thành vui…Từ đôi mươi, trong thời kháng Pháp cũng như khi trưởng thành, đi làm để mưu sinh, soạn giả đã gặp nhiều mối duyên kỳ ngọ nhưng đa số dang dở – và tất cả đã được ghi lại trong tập Thơ Xanh ( 1955) và Huyền Ca Diễm Ảnh1, 2 (1991). Rất tiếc đa số những sáng tác trong loạn ly, khói lửa đã bị thất lạc, tiêu hủy qua nhiều cuộc di cư, tị nạn, lưu vong, chính biến… Có vài tác giả thắc mắc về sự vắng mặt của tác giả trên văn đàn suốt thời gián dài, – từ 1955-1991- như cCo Mỵ Nhân, Hà Huyền Chi… lý do đơn giản của «vấn đề » là trong suốt thời gian ấy, soạn giả đã phải vận dụng «nội lực và tinh thần, liên tục, kiên trì phấn đấu để sinh tồn, xây dựng hạnh phúc cho một gia đình đông con nhỏ, và luôn gặp những biến thiên trọng đại, bất ngờ.
Kể từ thập niên 1990, tương đối rảnh rỗi, – sau khi bày nhỏ, nói chung đã an cư lạc nghiệp soạn giả mới nghĩ đến việc sắp xếp lại và in ấn những sáng tác trong mất chục năm qua: Năm 1992 pjhoổ biến thi tập » Quê Hương, Vĩnh Cửu Tình Yêu », năm 1993 trình lành hai tập «Đường Nào Có Hoa Đào» và « Tha hương, Mười Tám Năm, Sầu Có Ai ?»Đây cũng là thời gian soạn giả, cũng vài văn thi hữu- đứng ra vận động Thi Đàn Lạc Việt, và sau đó là Hội Trao Đổi Văn Học Nghệ Thuật, để tập hợp những nhà văn, thơ yêu mến và muốn góp phần nhỏ mọn bảo tồn văn hóa nước nhà. Hơn mười năm hoạt động, cơ sở đã tổ chức được hai cuộc Thi Thơ toàn quốc, có gần 150 nhà thơ tham dự trong những năm 1994 và 1996.Mặt khác, cơ sở đã ấn hành được 5 Tuyển tập Một Phía Trời Thơ 1,2,3,4,5 ; hai tiuển tập 4 Biển Thơ Chung Nối Nhịp Cầu ;3 tuyển tập Thơ Văn Xuân Thu 1,2,3 (chưa kể mấy số tam nguyệt san Xuân Thu), với nội dung thuần túy văn nghệ.
Năm 1997 cơ sở bát đầu chuyển hướng đi vào phần vụ nghiên cứu, biên khảo, xuất bản: tổ chức nhiều buổi nói chuyện trao đổi về thơ văn như Ca Dao Việt Nam, Viết truyện ngắn, Ngâm Thơ, Mệnh Số học, Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương, Thiền, Nhạc.. và năm 2000 tổ chức Ngày Kỷ niệm Thi hào Nguyễn Du, khá thành công.Giữ năm 1997 soạn giả cho ra mắt Tổng tập I Thơ Dương Huệ Anh gờm 6 thi tập: Thương Cả Trăm Hoa ; Gót Ngọc Quan Âm ; Tho Xanh ( tái bản)….. » Câu Chuyện Sinh Hoạt Văn Hóa: Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris là một hội được thành lập từ luật 1901. Mục đích nhằm Bảo tồn và phát huy Văn Hóa Việt Nam ở hải ngoại. Điều lệ của hội rất đơn giản vì nặng tính thân hữu, k hông gò bó người tham gia và cũng không ràng buộc người khi rời CLB. Đa số hội viên thuộc giới trí thức văn thi sĩ, mà trong đó có những thành viên Ba Lê Thi Xã. Nhà thơ Phương Du BS Nguyễn Bá Hậu phát biểu về Ba Lê Thi Xã:
«Ba Lê Thi Xã, một hội thơ có khuynh huớng Đường Thi do hai cố thi sĩ Hương Bình GS Cao Văn Chiểu và Hàm Thạch GS Nguyễn Xuân Nhẫn sáng lập. Thời gian sau, Nữ sĩ Minh Châu GS Thái Hạc Oanh cùng với nhà thơ Phương Du là những cột trụ của Ba Lê Thi Xã. Hội quy tụ nhiều trí thức khoa bảng, như giáo su đại học, bác sĩ, luật gia, học giả, dịch giả…vv…nhưng có tâm hồn thơ, nên có nhiều nguời đã thành danh trong làng thơ truớc 75 và hiện nay. Thời gian trôi đi, nhiều nguời trong nhóm đã khuất như: nhà thơ Đào Trọng Đủ, nhà thơ Hương Bình Cao Văn Chiểu, nhà thơ Hàm Thạch Nguyễn Xuân Nhẫn, nhà thơ Bằng Vân Trần Văn Bảng, nhà thơ Đàn Đức Nhân, nhà thơ Huỳnh Khắc Dụng, nhà thơ Luong Giang Phạm Trọng Nhân, nhà thơ Phuợng Linh Đỗ Quang Trị, nhà thơ Nguyễn Thuờng Xuân, nhà thơ Việt Hoài, nữ sĩ Liên Trang Phạm Thị Ngoạn (Ái nữ cụ Phạm Quỳnh), nữ sĩ Thanh Liên. Những nguời còn sống như: Nhà thơ Song Thái Phạm Công Huyền (ngoài cửu tuần), nữ sĩ Minh Châu Thái Hạc Oanh, nữ sĩ Quỳnh Liên Công Tằng Tôn Nữ Quỳnh Liên, nữ sĩ Phạm Thị Nhung, nhà thơ Vân Uyên Nguyễn Văn Ái, nhà thơ Khuê Trai Vũ Quốc Thúc, nhà thơ Phuong Du Nguyễn Bá Hậu, nhà thơ Huong Giang Thái Văn Kiểm, nhà thơ Hoài Việt Nguyễn Văn Hướng, nhà thơ Hồ Trọng Khôi, nhà thơ Đỗ Bình …vv… Nhà thơ Đỗ Bình là nguời trẻ tuổi nhất đã bỏ ra nhều công sức giúp ích rất đắc lực cho Ba Lê Thi Xã quy tụ những nhà văn nhà thơ hải ngoại».(Những nhà thơ đã tạ thế: Nhà thơ Hồ Trọng Khôi, Nhà thơ Song Thái Phạm Công Huyền, hưởng thọ 101 tuổi. Nhà thơ Khuê Trai Vũ Quốc Thúc, hưởng thọ 101 tuổi. Nhà thơ Vân Uyên Nguyễn Văn Ái, hưởng thọ 95 tuổi. Nhà thơ Phương Du Nguyễn Bá Hậu, hưởng thọ 95 tuổi. Nhà thơ Hương Giang Thái Văn Kiểm, hưởng thọ 93 tuổi.)
Nhà Thơ Dương Huệ Anh Gặp gỡ Bằng Hữu Paris: Vào ngày 25 03 2003, một buổi sinh hoạt văn học nghệ những người hiện diện: Nhà thơ Dương Huệ Anh từ miền Cali nắng ấm đến Paris, nhà văn Hồ Trường An từ Troyes lên, nhà văn Võ Đức Trung từ Lille đến, cùng các văn thi hũu Paris: Học giả Võ Thu Tịnh, nhà thần học Nguyễn Tấn Phước, nhà thơ Vân Uyên GS Nguyễn Văn Ái, nhà thơ Phương Du BS Nguyễn Bá Hậu, GS Phạm Đình Liên, GS Nguyễn Thị Minh Cầm, Nữ sĩ Minh Châu GS Thái Hạc Oanh, nữ sĩ Quỳnh Liên, nhà thơ nữ Thụy Khanh, nhà thơ nữ Hà Lan Phương, nhà văn Trần Đại Sỹ, nhạc sĩ Xuân Lôi, nhạc sĩ, GS Lê Mộng Nguyên, nhạc sĩ Trịnh Hưng, nhạc sĩ Trong Lễ ,họa sĩ René, Họa sĩ Nguyễn Đức Tăng, nhà báo, GS Nguyễn Bảo Hưng, nhà báo Song Nguyễn GS Nguyễn Ngọc Chân, Nữ điêu khắc gia Đặng Vũ Anh Trần, nữ điêu khắc gia Vương Thu Thủy, đạo diễn Trần Song Thu, dịch giả Liều Phong, BS Thân Trọng Kỳ, BS Nguyễn Bá Linh, Nhà thơ Đỗ Bình, nghệ sĩ Linh Chi, Nghệ sĩ Thúy Hằng….VV……..
Mở đầu chương trình, Nhà thơ Đỗ Bình giới thiệu vài nét về nhà thơ Dương Huệ Anh:«Cụ Dương Huệ Anh là một con người đa tài. Ông tốt nghiệp trường Đại Học Quốc Gia Hành Chánh và là cựu công chức cao cấp của Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Vì tâm hồn đa cảm ông thích thơ văn, âm nhạc và nghiên cứu văn học hơn là sự phấn đấu tiến thân trong sự nghiệp quan trường. Ông là Nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo, nhà soạn nhạc. Từng là cựu Chủ tịch Thi Đàn Lạc Việt ở San Jose, miền Bắc Cali nơi quy tụ rất nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng mà chúng ta đã từng đón tiếp những vị đó khi sang thăm Paris, như nhà thơ Yên Bình, nhà thơ nữ Nguyễn Phan Ngọc An, nhà thơ nữ Hoàng Xuyên Anh, nhà thơ nữ Ngọc Bích, nhà thơ nữ Sương Mai. Trong thi đàn Lạc Việt có những vị liên lạc trao đổi thơ với chúng ta như Nữ sĩ Trùng Quang ,(Hội thơ Trúc Liên, Quỳnh Dao ), nữ sĩ Đinh Thị Việt Liên( Hội thơ Thi Lâm Hợp Thái,Thi Đàn Quỳnh Dao 1962 – 1975), thi sĩ Hà Thượng Nhân, thi sĩ Trình Xuyên , thi sĩ Hàn Nhân… .
Nhà thơ Dương Huệ Anh: “ Kính thưa qúy vị, cảm ơn qúy vị đã không quản thì giờ, đường xa cho chúng tôi gặp mặt ngày hôm nay. Thú thật, đối với qúy vị về văn thơ tôi là người đi sau mặc dầu tuổi tác thì có thể nhiều hơn một số người. Tôi xin đề nghị xin đừng gọi chữ cụ nghe nó già quá mà chính tôi cũng không muốn già, vì già khó làm thơ lắm không còn thơ thẩn được ! Do đó xin đề nghị mình cứ coi nhau như văn thi hữu anh em nó sảng khoái tự do hơn. Xin phép được giới thiệu về sinh hoạt của chúng tôi:Thi Đàn Lạc Việt được thành lập năm 1992 với hình thức hết sức khiêm tốn khởi đi từ nhóm thơ, chủ trương: Bảo tồn và phát huy văn học nghệ thuật VN ở hải ngoại. Qua 1993 thành lập thành Thi Đàn bên cạnh đó chúng tôi thành lập thêm Cơ Sở Văn Học Nghệ Thuật vì quan miệm rằng thơ phải có bộ môn diễn ngâm đi theo dù rằng tự thơ nó có nhạc rồi nhưng để chuyên chở đi xa cần có bộ môn nhạc. Mặc dù có những hạn chế về sức khỏe, phương tiện nhưng chúng tôi cũng cố gắng đóng góp cho văn học về phương diện thơ cơ sở đã xuất được 8 tập, trung bình mỗi năm là một tuyển tập. Ngoài ra chúng tôi còn xuất bản một tuyển tập văn Xuân Thu không định kỳ, khi nào có tiền thì chúng tôi ra. Đây là một tuyển tập được chăm sóc kỹ, nhưng sau khi ra được hai số phải đổi thành tam cá nguyệt nhưng cũng không liên tục vì nhiều khó khăn tài chánh. Sự tự lực của chúng tôi không đủ nuôi dưỡng tuyển tập, do đó cuối cùng đành phải ra định kỳ vài năm ra một bản !Nói về phương diện cá nhân thì có nhiều anh chị em có nhiều sáng tác rất đáng kể. Xin cho phép tôi được trình bày những đóng góp của cá nhân : Năm 1955 in tác phẩm Thơ Xanh rồi ngưng dù vẫn sáng tác, mãi đến năm 1990 bắt đầu lại và đã xuất bản khoảng 10 tập thơ. Sau những thi tập đó tôi sản xuất khá nhiều nên gom 4,5 tập vào nhau. Vì thế năm 1997 in 6 tập vào nhau lấy tên Tổng Tập 1 gồm 6 thi tập: Gót Ngọc Quan Âm Lấm Bụi Trần ,(thơ đạo), Thương Cả Trăm Hoa, Hai Mươi Năm Lưu Vong, Ba Mươi Năm trước, Thơ Hồng.”
Nhà thơ Vân Uyên, GS Nguyễn Văn Ái bỗng hỏi:“ Bao giờ thì có thơ Tím ?”Nhà thơ, nhà văn Dương Huệ Anh:“ Sắp có rồi, tôi chỉ không có thơ màu đỏ thôi, trong tương lai chúng tôi sẽ có đủ các thứ màu.”Dương Huệ Anh nói tiếp:“Sau đó tôi chuyển sang văn vì ai cũng khuyên là thơ nhiều quá rồi không có ai đọc đâu!”Hồ Trường An:“Ai Nói Vậy? ”Dương Huệ Anh:“ Một nữ sĩ ở Cali nói với tôi: Ông in Thơ dày quá không ai đọc!”Dương Huệ Anh:“Tôi in thế này tước hết để cho tôi đáp ứng được phần tài chánh của tôi. Sau đó tôi chuển qua văn, Truyện ký thì đúng hơn vì dựa vào chuyện có phần tôi trong đó. Tôi tôi đặt tên là Những Cánh Thư Hồng dày khoảng 500 trang. Như qúy vị đã biết biển văn học nó mênh mông lắm nên tôi chuyển sang giới thiệu tác giả giới thiệu các nhà thơ khoảng 100 nhà thơ in năm 2001”Đỗ Bình:“Xin các bậc trưởng thượng cho biết, thế nào là một tác phẩm hay, tác phẩm đó dựa theo tiêu chuẩn nào để đánh giá ?”Dương Huệ Anh:“Nói là giới thiệu tác giả, tôi không làm công việc phê bình mà chỉ viết theo lối tản mạn về văn học, bởi vì nói ngbiêm túc quá ít người đọc, mà có lẽ mìnhcũng không đủ sức chưa đủ thì giờ chưa đủ khả năng nên tôi chọn thể loại này. Nhưng khi ra sách cũng có nhiều người phê bình lắm vì họ cho rằng đây là một biên khảo văn học. Anh em không hiểu, lhông đọc kỹ lời trần tình của mình ban đầu! Nên họ cho là biên khảo văn học có lẽ đối với họ là đứng , nhưng đối với tác giả hơi oan vì mình không chủ trương như vậy mà chỉ là tản mạn văn học!”GS Lê Mộng Nguyên:“Cuốn phê bình văn học Thi Nhân VN của Hoài Thanh Hoài Chân chẳng hạn ? ”Nhà thơ Dương Huệ Anh:“Vâng, đúng thế. Chúng tôi rất thành thật xin qúy vị chỉ giáo, tôi nghĩ rằng mình không thể biết hết được dù mình sống tới trăm tuổi. Xin qúy vị chỉ những khuyết điểm chúng tôi xin sẵn sàng thụ lãnh. Xong cuốn này anh em phê bình dữ lắm nhưng cũng có nhiều người khem và vài người ta không tán thành ! Sau cái này chúng tôi nghỉ và chuyển qua một cái khác, tôi hơi tham vọng mà cái tham vọng đó không phải là cái xấu không đáng kết án, nó không phải là cái tội. Tôi nghĩ có nhiều khía cạnh quá cái nào mình cũng muốn đi sâu vào xem mới biết mới hiểu được. Sau đó tôi viết cuốn : Vài Nhà Thơ Việt Thế Kỷ Hai Mươi, trong tập chúng tôi viết không phân biệt trong nước ngoài nước, Bắc Nam, tuy nhiên mình phải tránh những gì gây xúc động với độc giả. Nhưng khi đem in gặp nhiều khó khăn vì phải tự lực cánh sinh ! Tôi xin phép được dừng ở đây nếi qúy vị có muốn sáng tỏ điều gì tôi xin thưa . xin cảm ơn qúy vị.”Đỗ Bình:“Theo tôi, viết về những tâm hồn phụng sự cái đẹp của người nào đó đã lao tâm lao trí trên con đường văn học nghệ thuật là việc làm đáng khen. Trong lãnh vực phê bình văn học ở hải ngoại hiện nay còn hiếm vì rất ít người chịu dấn thân làm công việc này, người am tường văn học thì già yếu, dần dần ra đi; còn lớp trẻ dù có bằng cấp cao nhưng lại am tường văn hóa xứ người! Do đó người làm công việc phê bình rất qúy vì nhờ họ đã khám phá ra những điều ẩn chứa trong tác phẩm để giới thiệu đến công chúng những chân dung của những người sáng tác. Đánh giá một tác phẩm tùy theo trình độ của người đọc và còn phải đợi thời gian, nhưng hiện tại vẫn cần những người điểm sách, giới thiệu khái quát về nội dung lẫn hình thức để giúp bạn đọc đi vào trọng tâm đỡ mất thời gian.”Và sau đây tôi xin trân trọng giới thiệu đến qúy vị nhà văn Hồ Trường An : Tác giả gần 50 đầu sách về trường thiên tiểu thuyết, tiểu thuyết,và biên khảo, phê bình.”
Nhà văn Hồ Trường An:“Thưa các bậc niên trưởng, và qúy văn hữu:Tôi làm văn nghệ tùy vào cảm hứng vui đâu chuốc đó chứ không nhất định cái gì, nếu cảm thấy hứng là làm. Cần phê bình là phê bình, khi tôi viết về biên khảo không phải là viết toàn sự nghiệp văn học của tác giả nào, mà viết từng cuốn chứ không dám ôm đồm. Nếu có cảm hứng làm thơ thì làm những bài thơ Đường, vui đâu chuốc đó. Tôi có một đức tính: Nếu ai khen thì cũng mừng, còn ai chê thì cũng rán chịu trận chứ không một lời nào đính chính trên báo hết. Bởi càng đính chính thì càng làm cho người ta làm dữ !…. Do đó ai chê tôi thì chê ; ai khen thì mừng tôi không có một phản ứng, thật ra tôi không có buồn, mình làm một món ngon người này ăn thì khen người kia ăn thì chê, kẻ thích mì người thích hủ tíu, còn có người ăn mì ăn hủ tíu nhiều quá lại thích ăn bún riêu. Qúy vị đã đọc qua cuốn biên khảo Thập Thúy Tầm Phương thì cuốn biên khảo thứ tư Tôi đang viết cuốn:Tập Diễn Ngưng Huy trong đó có hai người hiện diện ở đây là anh Võ Đức trung và chị Thụy Khanh: Tôi xin giải thích cái tựa sách: Tập: kết tập, Diễm là đẹp, Ngưng là ngưng lại, Huy là ánh sáng, ánh sáng ngưng đọnglại tôi rút ra từ Hồng Lâu Mộng chứ không phải do tôi đặt. Tóm lại tôi không có chủ trương gì lớn lao, tôi không có tham vọng. Xin dứt lời.”
Đỗ Bình giới thiệu vài nét về nhà văn Võ Đức Trung: “Tác giả nhiều tập truyện, biên khảo. Là một người khiêm tốn giữ được phẩm chất của một cựu giáo chức. Là người chủ xướng thực hiện cuốn Một Phần Tư Thế Kỷ Thi Ca VN Hải Ngoại gồm những bài thơ đắc ý của nhiều tác giả có chung một hoàn cảnh ly hương trong số các nhà thơ hải ngoại. Thời gian chúng tôi chuẩn bị cho thi tập mất 2 năm, khi đua ra thảo luận tại nhà tôi lúc đó gồm: Nữ sĩ Nguyễn Thị Vinh, nhà văn Nguyễn Hũu Nhật, nhà văn Võ Đức Trung và tôi, trong thảo luận thì được biết cái Tựa sách này đã được các nhà thơ Diên Nghị, Song Nhị , Duy Năng ở Cali đã chọn từ lâu và sắp in, họ muốn thực hiện một tập văn học ghi dấu một giai đoạn đời 25 năm xa xứ. Sau đó tôi đã liên lạc với các nhà thơ trên để giải thích sự việc của chúng tôi và đề nghị họ chọn một cái tựa khác. Khoảng một tuần sau họ trả lời là đồng ý, và đã chọn cái tựa khác cho tuyển tập là : Lưu Dân Thi Thoại, hay25 Năm Bút Luận do Cội Nguồn xuất bản.Nhà văn Võ Đức Trung phát biểu:“ Nhận được phôn của anh Đỗ Bình mời tôi nghĩ là lên Paris họp bạn văn nghệ như mọi khi, nhưng khi xem lại thư mời tôi thấy quan trọng quá nên lấy làm ái ngại ! Tôi ở tỉnh lẻ, thỉnh thoảng mới về Paris sinh hoạt sợ phát biểu sẽ trở ngại , hơn nữa như anh Đỗ Bình và Hồ Trường An biết; tôi viết văn về đồng quê mộc mạc nếu có gì sơ xuất mong các anh chị thứ lỗi cho. Tôi xin tâm tình tại sao tôi lại có ý định thực hiện cuốn Một PhầnTtưThế Kkỷ Thi Ca Hải Ngoại. Kể từ sau biến cố năm 1975 mọi người ồ ạt bỏ nước ra đi, dòng thi ca lúc đầu gần như tan tác, cho đến đầu thập niên 80 thì khởi sắc vì số ít nhà thơ vượt thoát ra ngoài được đã bắt đầu viết, hồn thơ còn nhiều tâm tư cảm xúc, nhưng đến cuối thập niên 80 thì bắt đầu có chiều hướng đi xuống vì đa số phải hội nhập với cuộc sống mới! May mắn thay là qua thập niên 90 có một số nhà thơ trong diện anh em H.O khi vừa đặt chân đến ơi định cư họ đã cầm bút lại, dòng thi ca lại dâng cao qua những bài thơ tố cáo sự đàn áp và nhà tù trongchế độ CS, chúng tôi muốn bảo tồn và lưu trữ những sự kiện đó qua thi ca nhưng khi bắt tay vào thực hiện mới biết muôn vàn khó khăn! Chúng tôi tiếp xúc 350 tác giả nhưng phải chọn lựa như thế nào khi cuốn sách chuẩn bị in chỉ giới thiệu có 24 tác giả mà không kêu sự đóng góp ? Cuốn 1 đã phát hành vào tháng 2 vừa rồi, chúng tôi nhận được thư, điện thư, và phôn đến chúc mừng và khích lệ, điều đó là một món quà tinh thần đối với chúng tôi trong công việc bảo tồn văn hóa VN nơi xứ người.”
Nhà thơ Đỗ Bình phát biểu:«Có một nữ sĩ bảo nên thận trọng khi đề cập đến lãnh vực tế nhị tác phẩm và tác giả. Nếu bài giới thiệu không đưa ra những điểm mạnh, độc đáo, thì bài viết đó chỉ là bài khen nhau có tính tâng bốc mà không phải là bài nhận xét, phê bình văn học nghệ thuật! Theo tôi, viết về một người nào, là viết về những tâm hồn của người đó đã bỏ bao tâm trí phụng sự Chân Thiên Mỹ trên con đường văn học nghệ thuật. Đó là việc làm đáng khen, mặc dù đánh giá một tác phẩm rất khó !Sự nhận xét còn tùy theo trình độ, khuynh hướng cảm quan của mỗi người viết, hơn nữa trình độ người đọc hôm nay rất cao. Tuy nhiên thời gian sẽ là thước đo, gạn lọc những điều không phải nghệ thuật, để chỉ còn lại chân gía trị đích thực của một tác phẩm đọng lại trong lòng người.. Nhưng dầu sao, bộ môn văn học & nghệ thuật luôn cần những người giới thiệu khái quát về nội dung lẫn hình thức một tác phẩm để giúp bạn đọc đi vào trọng tâm đỡ mất thời gian.”
Nữ sĩ Minh Châu Thái Hạc Oanh trước năm 1975 là giáo sư trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn, Bà còn là một họa sĩ có tranh triển lãm quốc tế. Tác giả nhiều thi tập và biên khảo:Nữ sĩ Minh Châu:« Có người bảo viết để khen nhau là tâng bốc mà không phải là phê bình văn học nghệ thuật ?»
Đỗ Bình:“Từ bao lâu nay người ta tranh cãi về những chuẩn mực trong văn học nghệ thuật giữa cái hay và cái dở. Trong khi đó thích hay không thích chỉ là chủ quan của người đọc. Tôi thấy hôm nay người làm thơ ngày càng nhiều, đó là điều đáng mừng vì tâm hồn thơ sẽ giúp cho đời thêm hoa, bớt đi sự cay đắng. Nhưng tiếc thay có những bài thơ đạt được cả tứ thơ lẫn cấu trúc thì không nổi tiếng, nhưng có bài chẳng phải là thơ lại được quảng cáo rầm rộ !”
Nữ sĩ Minh Châu:“Tại sao không phải là thơ, văn xuôi khác thơ ở điểm nào?”Đỗ Bình:“Một bài viết cẩu thả, viết cho lấy có, chỉ dựa vào thể tự do để gọi là “thơ” thì chưa chắc đã là một bài thơ, và cũng không thể gọi là văn xuôi? Thơ hiện đại và tự do rất gần gũi với văn xuôi, nhưng làm một bài thơ tự do, hay một bài thơ hiện đại rất khó ! Nhưng khi đã thành thơ thì bài đó sẽ đặc sắc và độc đáo. Theo tôi, một bài thơ hay phải bao gồm mỹ học và ý thơ.”Nhà báo, GS Nguyễn Bảo Hưng:“Văn xuôi là ngôn ngữ thực dụng của kinh nghiệm diễn giải bằng lý trí để mô tả hoặc giải thích một sự vật hay một ý niệm, thơ là một cảm xúc của tâm hồn được diễn tả bằng nghệ thuật.”
Trong lãnh vực phê bình văn học& nghệ thuật ở hải ngoại hiện nay còn hiếm những nhà lý luận phê bình văn học& nghệ thuật, vì rất ít người chịu dấn thân làm công việc này, người am tường văn học thì già yếu, dần dần ra đi; còn lớp trẻ dù có kiến thức rộng, bằng cấp cao nhưng lại am tường văn hóa xứ người! Do đó người làm công việc phê bình rất qúy vì nhờ họ đã khám phá ra những điều ẩn chứa trong tác phẩm để giới thiệu đến công chúng những chân dung của những người sáng tác. Đối với những nhà phê bình văn học, chức năng của họ là khám phá những cái hay cái đẹp và độc đáo trong tác phẩm. Nếu nhà phê bình không khách quan và đi ngoài các khuynh hướng chính trị, tôn giáo thì lời phê đó rất ảnh hưởng cho một tác giả và tác phẩm. Nhà phê bình Văn học với tinh thần khách quan lúc nhận xét một tác phẩm luôn đi tìm để khai phá cái hay, cái đẹp, cái sâu sắc của tác phẩm cùng cái sâu thẳm nơi tâm hồn tác giả, không phải để làm vừa lòng tác giả mà cốt để người đương thời cùng lịch sử văn học sau nầy thẩm định được nếp sống, nếp nghĩ của một thời. Do đó, người làm công viêc phê bình ít nhiều đều chịu trách nhiệm với lịch sử sau nầy. Vì thế, nhà phê bình văn học đứng đắn không khen hão, không chê bừa, không tâng bốc, cũng không cố tình hạ giá tác phẩm cùng tác giả do chủ quan của mình hay do tình cảm thân sơ, yêu ghét đối với tác giả. Công việc phê bình không là công việc dễ dàng vì có nhiều tác phẩm cùng tác giả vô cùng sâu sắc mà đọc không kỹ, khó tìm ra cái đẹp, cái nội dung sâu sắc đó. Do đó, người làm công việc phê bình luôn phải thận trọng, nghiền ngẫm, khám phá ra những nét đẹp ẩn tàng nơi tác phẩm vì đây không phải là công việc làm chơi, làm lấy có mà phải chịu trách nhiệm với lịch sử Văn học, Nghệ thuật. Thường thì tác giả nào cũng muốn được khen, được đề cao giá trị tác phẩm mình mà không để ý đến trách nhiệm lịch sử của nhà phê bình đối với Văn học, Nghệ thuật nên hoặc hân hoan với những lời khen «bốc đồng», vội vã hoặc buồn trách nhà phê bình không «tán dương» tác phẩm mình. Nhà phê bình còn có trách nhiệm khác nữa là khuyến khích, gây tin tưởng cho những tài năng ngày càng được phong phú để có những tác phẩm hay đẹp hơn trước. Khá nhiều trường hợp một tác giả lúc đầu chỉ sáng tác đôi tác phẩm bình thường nhưng do các nhà phê bình đúng đắn mà có được những sáng tác phẩm trổi vượt hơn trước rất nhiều. Vì chính những phê bình dù khen hay chê đã khiến tác giả chăm chút tác phẩm mình, học hỏi, đào sâu tâm thức và nghệ thuật để từ đó có những trước tác nổi bật so với trước. Dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa những nhà lý luận, phê bình dù có kiến thức uyên thâm, lý luận sắc bén, khám phá được cái hay cái đẹp, cái độc đáo trong tác phẩm nhưng lệch đường lối của đảng cũng không dám viết ra; mà chỉ dám viết những điều đảng đã chỉ đạo cho phép! Đối với những tác giả ngoài đảng, có những tác phẩm phản ánh xã hội mang tính phê phán, gây bất lợi cho đảng sẽ bị các «nhà văn hóa đảng» làm nhiệm vụ nhà phê bình, cực lực lên án trù dập tác giả và tác phẩm. Họ tìm những điểm tiêu cực, hoặc những điểm sơ xuất trong tác phẩm rồi phê phán gay gắt, nhằm hướng dẫn dư luận hiểu theo quan niệm của họ. Kết quả là số phận các văn nghệ sĩ cùng tác phẩm của họ bị ghép tội phản động ! Điển hình là vụ án thời Nhân Văn Giai Phẩm, và vụ Văn Hóa Đồi Trụy, thời kỳ sau năm 1975.
Nhạc sĩ Trịnh Hưng, tác giả những nhạc phẩm nổi tiếng một thời: Lối Về Xóm Nhỏ, Tôi Yêu…. :“Thưa Các Bậc trưởng thượng và qúy Anh Chị, cách nay vài tháng chúng ta có làm buổi Kỷ niệm 65 năm sinh hoạt văn học nghệ thuật của nhạc sĩ Xuân Lôi và cũng mừng lễ thượng thọ 85 tuổi để vinh danh người nghệ sĩ lão thành. Hôm đó thật đông, đầy đủ các khuôn mặt văn nghệ sĩ, điều đó nói lên được cái tình nghệ sĩ là chúng ta biết thương yêu và trân trọng nhau thì có khác nào những bài viết khen.”
Nhạc sĩ Xuân Lôi:(giải thưởng Quốc Gia với những ca khúc Tiếng Hát Quê Hương, Bài Hát Của Người Tự Do 1960 ở Miền Nam. Ca khúc nổi tiếng Nhạt nắng: “ xin chào các qúy vị tôi xin độc tấu Hạ Uy Cầm nhạc phẩm Xa Quê Hương điệu valse lente nhạc của Xuân Tiên, lời Đan Thọ viết ngày 28 05 1956.”
GS TS âm nhạc Quỳnh Hạnh (GS trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Sài gòn. Huy chuơng vàng Giải nhất giải Văn Học Nghệ Thuật toàn quốc do Phủ tổng thống VNCH trao tặng, Sài gòn 1974):“ Âm nhạc, ngoài sự thưởng ngoạn ra còn có giá tri về khoa học. Đó là Musicothérapie hay Phương Pháp Trị Bệnh Bằng Âm Nhạc. Thực vậy, bô môn trị bệnh này có từ thời Hy lạp cổ xưa, phối hợp với trị bệnh bằng suối nước nóng, mục đích làm êm dịu thần kinh và xua đuổi đi những sự lo âu, phiền nảo… Ở Châu Á cũng có cụ Khổng Phu Tử có nói trong Lễ Nhạc : Nhạc là để giáo hóa lòng người…Ngày nay qua những bài thuyết trình tại Đại Hoc Sorbonne, Đai Học Y Khoa de Paris, các Phân khoa Tâm Lý Học cũng gây được chú ý của người nghe, nhất là giới trẻ quá nhiều lo âu trong cuộc sống hằng ngày và củng để xả Stress..”
Nhà văn Trần Đại Sỹ, tác giả nhiều bộ trường thiên tiểu thuyết Dã Sử :“thật là một hân hạnh cho tôi được gặp qúy vị, nhất là một người tôi biết rằng hôm nay tôi sẽ gặp, là người mà tôi mắc nợ ngay từ lúc tôi học 6ième mà bây giờ tôi được đến để trả nợ đó là ông Lê Mộng Nguyên. Thưa qúy vị lúc đầu tiên tôi học nhạc là thày Hùng Lân đã đem bản Trăng Mờ Bên Suối dạy tôi. Hễ cứ nói đến ông Lê Mộng Nguyên dù ông có làm cả ngàn bản nhạc thì tôi cũng chỉ biết có Trăng Mờ Bên Suối. Hôm nay tôi có chút quà văn nghệ xin tặng lại hai bộ cuối cùng tiuểu thuyết lịch sử là bộ Nam Quốc Sơn Hà thuật lại chiến công Lý Thường Kiệt đánh sang Tống, Anh Hùng Đông A Dựng Cờ Bình Mông tức là giai đoạn 1đánh quân Mông Cổ lần thứ nhất, còn đánh Mông Cổ lần thứ hai chưa in xin tặng giáo sư.”
GS Lê Mộng Nguyên:“Xin cảm ơn anh Trần Đại Sỹ , tôi rất cxảm động không nói gì được.”
Nhà văn Võ Đức Trung:
“ Riêng về anh Lê Mộng Nguyên cái bài Trăng Mờ Bên Suối hay quá hay! Nói thiệt anh, cho dù anh có làm hằng trăm bài khác hay như vậy cũng không rung động được tôi nữa, là bởi vì bài Trăng Mờ Bên Suối khi tôi nghe lên là tôi nhớ đến thuở còn trẻ của tôi khi đi ngang nhũng dòng suối có nước chảy róc rách có những tảng đá tôi băng qua, lại thêm những vần trăng ở quê hương không thể nào quên được những thứ đó nó ngấm vào tâm hồn của tôi nên nghe bài hát có thể chảy nước mắt. ”Vài Nét Về Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên:Lê Mộng Nguyên sinh ngày 5 tháng 5 năm 1930, tại Phú Xuân, Huế. Lê Mộng Nguyên dùng tên thật cho hầu hết các sáng tác, đôi khi ông dùng một bút danh khác là Yên Hà hoặc Lan Đào. Ông là con trai áp út của một gia đình nho giáo, điền chủ ở tỉnh Thừa Thiên. Cha ông tên Lê Viết Mưu, mẹ là bà Hồ Thị Ngô. Ông bà có bảy người con, trong đó Lê Mộng Hoàng, anh của Lê Mộng Nguyên là một đạo diễn điện ảnh nổi tiếng.Lúc nhỏ, Lê Mộng Nguyên bắt đầu đi học ở trường làng Phú Xuân, rồi vào học trường Tiểu học (École Primaire) Chaigneau ở Huế. Sau đó ông thi tuyển vào trường trung học Khải Định và là một trong ba người đỗ đầu, được Chính phủ cấp học bổng. Ông học ở đó từ 1943 đến khi thi Tú tài năm 1950. Lê Mộng Nguyên làm thơ, nhạc và viết văn từ thuở nhỏ, lúc 9 tuổi khởi sự làm thơ và có nhiều bài được đăng trong nội san của trường trung học Khải Định với bút danh Yên Hà.Năm 15 tuổi, trong một cuộc thi Văn chương Học sinh trường Trung học, ông viết một bài về Phan Đình Phùng và đạt giải thưởng Hoàng Đế Bảo Đại, năm đó ông cũng sáng tác ca khúc đầu tay “Xuân Tươi” (dưới bút hiệu Lan Đào), được báo ‘’Quốc Gia’’ đăng trong ‘’Đặc San Mùa Xuân’’.
Năm 18 tuổi Lê Mộng Nguyên đã được cấp thẻ nhà báo, cộng tác cùng nhiều tờ báo khi đó: Phật Giáo Văn Tập, Quốc Gia, Việt Nam Tân Báo, Đường Mới. Năm 1950, sau khi tốt nghiệp Tú tài toàn phần tại Việt Nam, Lê Mộng Nguyên sang Pháp du học, được ông Nguyễn Khoa Nam bảo lãnh tại Paris[1]. Ban đầu ông muốn theo học hòa âm tại Trường âm nhạc Paris nhưng sau đó bỏ ý định, quay sang học luật tại Khoa luật và Khoa học Kinh tế Đại học Paris 1 Panthéon Sorbonne (Faculté de Droit et de Sciences Economiques).Năm 1954, Lê Mộng Nguyên tốt nghiệp Cử nhânLuật. Từ năm 1955 tới năm 1958, ông được mời làm tùy viên kinh tế và xã hội cạnh Tòa đại sứ Việt Nam tại Paris (Attaché économique et social près l’Ambassade du Vietnam à Paris) dưới quyền của đại sứ Việt Nam Phạm Duy Khiêm. Sau đó ông quay lại trường đại học và thi đậu cuộc thi để được hành nghề luật sư. Năm 1962, ông đậu Tiến sĩ quốc gia (Doctorat d’État) với ba bằng cao học về Droit public, Droit privé và Sciences Politiques. Sau khi thôi hành nghề luật sư, năm 1967, Lê Mộng Nguyên dạy luật Hiến pháp (Droit constitutionnel) và Khoa học Chính trị (Sciences politiques) tại trường Đại học thành phố Besançon, miền Đông nước Pháp. Năm 1985 ông quay lại Paris và giảng dạy tại Đại học Paris 8 Saint Denis đến khi về hưu năm 1997. Trong thời gian đó, ông cũng sáng tác nhiều ca khúc, nhưng không phổ biến. Tuy ít tham gia vào sinh hoạt của cộng đồng người Việt tại Pháp, nhưng ông cũng đã ký tên ủng hộ việc cứu trợ nạn thuyền nhânvượt biển. Sau khi về hưu, ông cộng tác với vài báo chí Việt tại hải ngoại, trong đó có nguyệt san Nghệ Thuật của nhạc sĩ Lê Dinh và Hồn Việt của ký giả Vương Huyền.Lê Mộng Nguyên thành hôn với Nicole Moulin, một phụ nữ người Pháp vào ngày 8 tháng 1 năm 1959. Trước đó hai năm, họ gặp nhau sau một cuộc biểu tình tại quận La Tinh Paris. Hai người không có con. Ông cũng chưa từng về lại Việt Nam từ khi đi du học năm 1950.Ngày 5 tháng 12 năm 1997, Lê Mộng Nguyên được bầu vào Hàn lâm Viện Khoa học Hải ngoại (Académie des Sciences d’Outre-Mer) của Pháp, thay thế cho Cựu Hoàng Bảo Đại. Người được bầu vào Hàn Lâm Viện này phải có những tác phẩm được xuất bản, những công trình nghiên cứu đáp ứng đường lối của hàn lâm viện trong công cuộc phát triển văn hóa, khoa học, kinh tế, kỹ thuật hay nhân loại của những quốc gia hải ngoại trong khối Pháp. Lê Mộng Nguyên là người Pháp gốc Việt đầu tiên được bầu làm hội viên chánh thức (membre titulaire), có thể được bầu làm chủ tịch Hàn Lâm Viện này và có quyền bầu để chọn người vào làm hội viên. Trước đó, đã có một số người Việt làm hội viên liên lạc (membre correspondant) như Phạm Quỳnh, Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Tiến Lãng; hội viên cộng tác (membre associé) Thái Văn Kiểm. Cựu Hoàng Bảo Đại cũng là hội viên chánh thức tự do (membre titulaire libre), có nghĩa là hội viên thực thụ không thuộc ban (section) nào cả nhưng có quyền bỏ phiếu hay tranh cử bất cứ chức vụ nào của Hàn Lâm Viện. Nhà văn Trần Đại Sỹ:“Tôi xin trả nợ nguời đàn anh nhưng cũng ít gặp, tôi qúy ông lắm đó là ông GS,BS Nguyễn Văn Ái, đây là bộ Giảng Huấn Khoa Tình Dục bằng Y Học Trung Quốc (sexologie médicale Chinoise) bây giờ tôi viết sang tiếng việt, bản tiếng Tây thì chưa xong, bản tiếng Anh và Trung Hoa thì ra rồi. Đây gồm 3 quyển, thưa qúy vị: “Người ta cứ bảo sách “dâm thư”, nhưng đây là sách giáo khoa, xin tặng đàn anh, đáng lẽ tôi phải tặng ông Phương Du BS Nguyễn Bá Hậu nhưng ông Phương Du tu rồi sắp sửa thành linh mục đến nơi rồi. Thưa qúy vị mục đích của sách này là làm sao giữ được sức khỏe tăng tiến tuổi thọ, nhiệm vụ nó quan trọng như vậy, xin kính biếu đàn anh.”…..
Ở Pháp không nhiều nhà văn Việt Nam, nhưng lại có 3 nhà văn sáng tác trong hoàn cảnh đặc biệt rất khó khăn khi cầm bút, nhưng một đời yêu văn chương nên vẫn miệt mài viết. Người thứ nhất là: Cố Nhà văn An Khê, tên thật là Nguyễn Bính Thinh sinh 01.09.1923 tại làng Tân An, tỉnh Sa Đéc ; nhưng trưởng thành ở Rạch Giá Kiên Giang). Ông là một cây bút lâu năm trong nghề, gia nhập vào làng báo VN từ đầu năm 1950 cho đến ngày 30. 04. 1975, với các bút hiệu : Nguyễn Bính Long viết về gián điệp, Trương Thanh Vân viết về trinh thám. Năm 1952 ông vào quân đội và năm 1954 ông bị thương ở đèo An Khê hỏng cánh tay mặt. Từ đó ông lấy bút hiệu An Khê và gõ máy một tay để viết tiểu thuyết Dã Sử VN. Ông viết rất khỏe, viết tiểu thuyết đăng các báo hàng ngày cho các nhựt báo ở thủ đô. Năm 1966 ông là chủ nhiệm nhụt báo Miền Tây, là tờ báo đầu tiên của vùng. Sau biến cố năm Mậu Thân tờ báo đình bản. Trước năm 1975 ông cộng tác với các tạp chí : Đời Mới, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Tiếng Chuông, Buổi sáng, Công Nhân, Dân Tiến, Vận Hội mới, Tin Sớm, Tia Sáng, Quyết Tiến, Thời Báo, Cấp Tiến, Dân Chúng, Dân Nguyện, Tiến,… Đã viết khoảng 250 quyển tiểu thuyết, và đã in thành sách ở VN được 22 bộ. Ra hải ngoại vì tuổi tác và sức khỏe kém, nhất là cánh tay bị đau nhức nên ông chỉ viết được ít truyện ngắn cộng tác với một số báo ở hải ngoại như : Làng Văn, Tiểu Thuyết Nguyệt San, Văn Nghệ Tiền Phong, Viên Giác Ái Hữu và Ngày Mai. Năm 1993 Cơ sở Làng Văn (Canada) có giúp ông hoàn thành tác phẩm cuối đời cuốn hồi ký ngắn : Từ Khám Lớn Đến Côn Đảo.
Người thứ nhì là Cố nhà văn Duyên Anh phải viết bằng tay trái sau khi bị tai nạn! Nhà văn Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo…Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Di cư vào Nam năm 1954, ông từng làm đủ nghề : dạy kèm, dạy nhạc..vv. Năm 1960, được sự nâng đỡ tận tình của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn chương và nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng Côn, Thằng Vũ, Con Thúy…. ở thể loại lãng mạn đầy hoài niệm về thời kỳ ấu thơ tại quê hương miền Bắc. Sau đó ông trở thành một ký giả, chủ bút, chủ báo, giám đốcnhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như: Xây Dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc…Những tác hẩm của Duyên Anh trước năm 1975 thường mang tính hiện thục xã hội, diễn tả những mảnh đời sống trong một góc khuất ở những con hẻm, những ngõ cùng nơi đô thị. Ngoài ra, ông cũng viết nhiều truyện ngắn và truyện dài cho thiếu nhi. Sau biến cố 30 tháng 4, 1975, cùng với Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Phan Nhật Nam, Thanh Tâm Tuyền…vv. Duyên Anh bị liệt danh là một trong 10 nghệ sĩ nêu danh là “Những Tên Biệt Kích của Chủ Nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn Hóa – Tư Tưởng” và tác phẩm bị cấm lưu hành. Duyên Anh bị bắt đi tù cải tạo Trong Chiến dịch bắt văn nghệ sĩ miền Nam tháng 4, 1976 của nhà cầm quyền CS ban hành, Duyên Anh cùng chung số phận với các văn nghệ sĩ khác đều bị bắt vào tù . Ông được ra tù tháng 11 năm 1981, sau đó ông vượt biên. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại mang tính phê phán chế độ độc tài CS VN, sách ông được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như Đồi FanTa, Một Người Nga ở Sài Gòn. Thời gian này, ông còn làm thơ và soạn nhạc. Năm 1985, ông bắt đầu cộng tác với tờ Ngày Nay và trở thành một trong những cây bút trụ cột của báo này. Ngày 6 tháng 2 năm 1997, ông mất vì bệnh xơ gan tại Paris, Pháp, để lại hơn 100 tác phẩm.Người thứ ba là Nhà văn Hồ Trường An : Tác giả 80 đầu sách về trường thiên tiểu thuyết, tiểu thuyết,và biên khảo, phê bình. HồTrường An tên thật là Nguyễn Viết Quang, sinh năm 1938 ở Vĩnh Long. Tốt nghiệp khóa 26 trường Sĩ Quan Thủ Đức. Phục vụ tại Ban Thông Tin Báo Chí Quân Đoàn 2&3 cho tới tháng 4 năm 1975. Ông gia nhập làng báo từ thời còn là sinh viên trường Dược qua ngòi bút phóng viên kịch trường từ giũa thế kỷ trước. Thuở đó ông đã làm thơ nhưng khi vào quân đội ông chuyên về báo chí. Sau năm 1975 ra hải ngoại ông cộng tác với nhiều tạp chí, từng làm Tổng Thơ Ký các tập san Quê Mẹ, tập san Làng Văn. Sau khi rời Paris về cư ngụ ở tỉnh Troyes năm 1982, ông đã dành thì giờ chuyên về tiểu thuyết. Văn phong của ông mang chất miệt vườn Miền Nam, sâu sắc, thắm đầy tình người và tự quê hương.
Từ cuốn truyện dài Phấn Bướm ấn hành 1986 đến nay ông đã xuất bản được gần 80 tác phẩm thuộc nhiều thể loại gồm 22 truyện dài, 12 tập truyện ngắn, 22 tập biên khảo và 2 tập thơ : Thiên Đường Tìm Lại (2002), và Vườn Cau quê Ngoại (2003). N ăm 2009 ông bị tai biến mạch máu não nặng, toàn thân bất động, lúc đầu không nói được, và trí nhớ cũng quên! Sau một thời gian điều trị trí nhớ của ông được khôi phục và đã dần dần nói được dù rất khó khăn. Chưa lúc nào nhà văn Hồ trường An ham sống hơn lúc này, vì ông còn thiết tha đến văn chương, nặng nợ chữ nghĩa, vì có những mộng ước hoàn thành ! Do đó ông đã cố tập luyện để khắc phục bệnh tật, nhờ quá yêu văn học nghị lực đã giúp ông vượt qua những khó khăn để thực hiện được hai tác phẩm biên khảo chỉ gõ máy bằng một ngón tay, đó là cuốn Núi cao Vực Thẩm, viết về 9 vóc dáng văn học VN của Thế Kỷ 20, và cuốn : Ảnh Trường Kịch Giới, ký ức về điện ảnh VN. Mới đây chúng tôi đến thăm nhà văn Hồ Trường An. Anh Hồ Trường An vừa in xong thêm một tác phẩm thể loại phê bình văn học : «Trên Nẻo Đường Nắng Tới » Gío Văn xuất bản 2013, hiện nay anh có 60 tác phẩm. Mặc dù tuổi đã cao lại bệnh tật và ăn chay trường nên ốm hơn trước, nhưng tinh thần của anh rất sáng suốt. Anh ngồi trên xe lăn trước mặt lúc nào cũng là computeur, anh cặm cụi viết sách, như muốn chạy đua với thời gian. Anh gõ máy bằng một ngón tay còn xử dụng được , thế mà cũng thực hiện được 4 tác phẩm kể từ khi bị đột qụy. Mỗi cuốn khoảng 500 trang, thật là phi thường.
Ông giã từ cõi đời một cách đột ngột ngày 27 tháng 1 năm 2020 tại thành phố Troyes để thả hồn vào một giấc ngủ say. Ông đã rũ bỏ những buồn phiền nhân thế, những nỗi buồn nhớ quê mà suốt đời lưu vong ông chưa một lần trở lại. Giã từ chiếc xe lăn theo áng mây bồng bềnh bay về cõi miên viễn.
Đỗ BìnhParis 24 tháng 2 năm 2022
MẠC PHƯƠNG ĐÌNH:
Vào buổi chiều tối hôm qua, Thứ Sáu 25/2/2021, Lễ Cầu Siêu cho ông Dương Huệ Anh, một văn thi sĩ kỳ cựu của Văn học Hải ngoại vừa qua đời trong tuần trước tại tư gia thuộc thành phố San Jose, đã được tổ chức tại chùa An Lạc, toạ lạc trên đường San Fernando, San Jose CA 95133, với sự hiện diện tham dự của một số thành viên trong Hôi Văn thơ Lạc Việt- một cơ sở Văn học do chính ông Dương Huệ Anh sáng lập trước đây vài mươi năm – cùng một số thân hữu. Sau đây là một vài hình ảnh chúng tôi đã ghi lại, xin được gửi đến Quý Vi, cùng Các Bạn Xa Gần như thay một lời Phân ưu đến Tang quyến,mà Quý Bạn chưa kịp chia xẻ
LỜI TRI ÂN CỦA NGHỆ SĨ KHÁNH HÀ:
Trước tiên tôi xin có lời cảm ơn đến hai người bạn trong văn nghệ lâu đời. Đó là thi sĩ Song linh và nhạc sĩ Lynh Phương đã báo tin cho tôi biết về sự ra đi của thi sĩ lão thành Dương Huệ Anh là người sáng lập Thi Văn Đàn Lạc Việt bây giờ là Văn Thơ Lạc Việt và tôi cũng xin chân thành cảm ơn ông Lê Văn Hải đã tổ chức buổi lễ cầu siêu cho bác Dương Huệ Anh tại chùa An Lạc để tôi có dịp góp lời cầu nguyện và chia buồn cùng tang quyến.
Sự ra đi của bác là sự mất mát lớn lao của thi đàn, là con chim đầu đàn trong giới văn học thi văn. Một buổi lễ trang nghiêm với đông đảo thi văn hữu và người thân yêu của Bác, những lời đọc kinh cầu nguyện vang lên trong chánh điện nghe ngậm ngồi thương tiếc. Đặc biệt trong buổi lễ này ông Lê Văn Hải người Chủ Tịch tiếp nối của Thi Đàn đã phát biểu lời cảm tưởng thương tiếc và hát bài “Kiếp Nhân Sinh” của ông rất cảm động, ông nói lý thuyết của Phật Giáo về sự hợp tâm hợp lực cầu nguyện của nhiều người, cầu siêu thoát cho người mất cũng sẽ được năng lượng hỗ trợ nghe kinh mà tĩnh tâm sáng suốt niệm Phật, hồn người mất sẽ đi theo về cảnh giới tốt hơn qua nghiệp lực của mình. Tôi rất kính nể ông Lê Văn Hải không phân biệt tôn giáo, ông là người Công Giáo mà hiểu thâm thúy về thuyết giáo của Đạo Phật như người Phật Tử thuần thành vậy. Nhờ đến đây tôi được gặp lại các anh bạn Phạm Thái quen biết ngay ngày xưa đã hàng mấy chục năm không gặp và gặp các anh Luynh Phương, Nguyên Phương, Thi Cầm, Mạc Phương Đình, v.v… những người bạn lâu năm không gặp vì nạn dịch Covid.
Và cũng nhờ đến đây tôi mới biết Thi Văn Đàn Lạc Việt đã đổi mới, những cuộc tổ chức cộng đồng như ra mắt sách, trao giải thưởng hằng năm, những buổi họp văn nghệ, và tổ chức sinh nhật tập thể cho các anh chị em trong đoàn, ông Chủ Tịch Lê Văn Hải rất có tâm và vô cùng xứng đáng trong chức vụ của mình.
Hai thành viên trong ban biên tập Phương Hoa, Phạm Thái rất năng nổ, sốt sắng trong việc in ấn, và đăng tải bài vở rất nhanh, trình bày đẹp. Nhiều năm về trước Bác Dương Huệ Anh lúc ông còn là Chủ Tịch Thi Văn Đàn Lạc Việt cũng đã nhiều lần tâm sự, “Bác rất mong lớp trẻ tiếp tay để sự nghiệp thơ văn được mãi mãi trường tồn, bác rất cần sự giúp sức của giới trẻ trong công việc in ấn…” Giờ đây chắc bác vô cùng mãn nguyện, tâm thanh thản ra đi một cách rất bình yên, thơ thới, nhẹ nhàng.
Lời sau cùng con kính nguyện cầu hương hồn Bác Dương Huệ Anh sớm được siêu sinh về nơi cõi Phật và xin kính chia buồn cùng tang quyến, cũng không quên chúc mừng ông Chủ Tịch và các thành viên trong Văn Thơ Lạc Việt.
Xin kính chúc sức khỏe an khang đến mọi người, các thi văn hữu xa gần, các nghệ sĩ, và các độc giả luôn an bình hạnh phúc.
Khánh Hà JS.
Thành Kính Tiễn Đưa: Cụ TRƯƠNG ĐÌNH SỬU – Lê Văn Hải & Phương Hoa
Tin Buồn.
Nhóm Mõ Nhân Ái (Homeless) xin thông báo tin buồn:
Cụ Trương Đình Sửu
Thành viên danh dự của Nhóm (trên 10 năm)
Vừa qua đời vào lúc 7 giờ 30 tối, Chủ Nhật ngày 29 tháng 8 năm 2021, vừa qua. Tại San José.
Cụ là những Bô Lão được rất nhiều người thương mến. Tính tình từ tốn ôn hòa, đầy nhiệt tâm. Hoạt động cộng đồng năng nổ tại Bắc Cali, khoảng từ 1980 đến năm 2000.
Gần cuối đời, hay ra thăm hỏi, tặng quà, giúp đỡ Khách Không Nhà (Homeless)
Hưởng Thọ 97 Tuổi! (3 năm nữa tròn 100!)
Chương trình Tang Lễ, xin được thông báo sau.
Vô Cùng Thương Tiếc.
Lê Văn Hải
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU – Lê Văn Hải & Thơ Phân Ưu: Phương Hoa + Minh Thúy
Vài Nét Về Cố Thi Sĩ Nhất Tuấn.
Đây là khuôn mặt lớn của Văn học Miền Nam. Tên tuổi hầu như trước 75, ai cũng biết. Một trong những Thi sĩ có nhiều bài thơ được các Nhạc sĩ nổi tiếng phổ nhạc nhiều nhất. Như nhạc phẩm “Con Quỳ Lạy Chúa Trên Trời” của Phạm Duy, “Hoa Học Trò” của Đan Thọ, “Chủ Nhật Này Trẫm Nhớ Ái Khanh Không?” Của Trần Thiện Thanh…vv…
Ông sinh ở Nam Định, năm 1954, di cư vào Nam.
Gia nhập Quân Đội, tốt nghiệp trường Võ Bị Đà Lạt. 2 chức vụ nhiều người biết nhất là: Giám Đốc Đài Phát Thanh Quân Đội và Giám Đốc Việt Nam Thông Tấn Xã.
Tên tuổi Ông gắn liền qua những tập thơ: -Truyện Chúng Mình (1956) -Đời Lính (1965) -Tuyển tập thơ “Truyện Chúng Mình” (từ năm 1956 đến năm 2008)
Đêm qua, bầu trời văn nghệ hải ngoại, lại mất đi một ngôi sao sáng!
Lê Văn Hải
CHIA BUỒN Văn Thi Sĩ NGUYỄN TRUNG DŨNG Đã Ra Đi – Lê Văn Hải – Lê Tuấn – Thư Khanh – Phương Hoa – Hoàng Mai Nhất
Đôi nét về Nhà văn, Nhà thơ Nguyễn Trung Dũng. Ông sinh tại Phú Thọ, làng Yên Mẫn, tỉnh Bắc Ninh. Trước 1954 sinh sống tại Hà Nội, sau đó di cư vào Nam. Học trường Chu Văn An và là một Sỹ quan QLVNCH. Những tác phẩm đã xuất bản tại Sài Gòn trước 75: -Trong Thành Phố (1966) -Ngoài Mặt Trận (1966) -Bên Này Sông, Bên Kia Sông (1968) -Vết Đạn Thù (1969) Những tác phẩm đã xuất bản tại Hải Ngoại: – Vết Đạn Thù (Tái bản 2004) -Thù Nước Chưa Xong, Đầu Đã Bạc! (2005) -Đêm Nghe Tiếng Đế Gáy (2006) -Cúc Vàng (Thơ 2011) -Bèo Dạt Mây Trôi (Dự tính xuất bản!) Ngoài ra Ông còn cộng tác với rất nhiều tạp chí, tuần báo, nhật báo, trên nhiều diễn đàn: Văn Uyển, Suối Văn, Tân Văn, Sài Gòn Nhỏ, Việt Nam Nhật Báo, Tuần Báo Thằng Mõ, Văn Thơ Lạc Việt…
LỜI CHIA BUỒN & THƠ XƯỚNG HỌA Tiển Biệt Nhà Thơ Đại Lãn Nguyễn Thượng Dực -Thơ Lê Tuấn, Phương Hoa, Hạnh Thảo, Thư Khanh & Dương Huệ Anh
NHỮNG LỜI PHÂN ƯU TỪ VĂN THƠ LẠC VIỆT:
Lê Tuấn:
Tôi mới vừa nhận được tin buồn từ hội (CVA61). Về sự ra đi của Đại Lãn Nguyễn Thượng Dực. Người anh và cũng là người bạn tù với tôi tại trại tù số 6 Nghệ Tĩnh. Trong tác phẩm Hổi Ký Đội Đập Đá, tôi có viết về Nguyễn Thượng Dực người bạn tù, sống chung một đội tù với tôi tại trại tù số 6 Huyện Thanh Chương Tỉnh Nghệ Tĩnh miền bắc. Quý vị nào biết tin thêm về chương trình tang lễ xin thông báo.
Xin thành kính phân ưu cùng tang quyến.
Cầu xin linh hồn nhà thơ Đại Lãn Nguyễn Thượng Dực
Sớm siêu thoát. An nghỉ trên cõi Niết Bàn.
Thành Kính Phân ưu
Gia đình Lê Tuấn
*
Hội Ái Hữu CHS. CVA. Bắc California:
T H À N H K Í N H P H Â N Ư U
Vô cùng thương tiếc khi nhận được tin
Đồng môn (CVA61).
Ông NGUYỄN – THƯỢNG – DỰC
Pháp danh: Chơn Minh Đạo.
Đã tạ thế ngày 22 tháng 05 năm 2021
Hưởng thọ 79 tuổi.
Toàn thể cựu-học-sinh C.V.A. Bắc California
xin THÀNH KÍNH PHÂN ƯU cùng gia đình
và tang – quyến.
Nguyện cầu hương – linh đồng môn Nguyễn Thượng Dực sớm siêu sanh tịnh- độ về cõi Niết – Bàn.
HỘI ÁI HỮU CHS. CVA. BẮC CALIFORNIA
**
Nguyễn Hồng Dũng:
Hôm nay là Rằm tháng Tư Tân Sửu, Lễ Phật Đản, Phật Lịch 2645. Kính chúc quý văn thi hữu VTLV luôn thân tâm an lạc.
Về sự ra đi của nhà thơ Đại Lãn Nguyễn thượng Dực là một mất mát lớn trong văn đoàn chúng ta, khi nào tang lễ thực hiện xin vị nào biết rõ nên báo trước để chúng ta kính viếng, bây giờ xin cầu nguyện cho Hương Linh Đạo Hữu Chơn Minh Đạo tiêu diêu nơi miền Lạc Cảnh.
Thành kính chia buồn cùng tang quyến và những thân hữu rất thân với người quá cố.
Kính
g/đ Nguyễn Hồng Dũng
*
Lê Văn Hải:
Kính Anh Tuấn,
Chia buồn cùng Anh, vừa mất một người Bạn, nhất là trong những thời gian nghiệt ngã, đau thương trong tù.
Văn Thơ Lạc Việt cũng mất một Thi sĩ thành viên, rất hiền hòa dễ mến, chan hòa tình nghĩa vui buồn với Anh Em.
Khi bình thơ, nhìn ra nhiều khía cạnh, rất độc đáo.
Xin Thi Sĩ Nguyễn Thượng Đực, nhận cái chào vĩnh biệt của Anh Chị Em Văn Thơ Lạc Việt chúng tôi.
Ngàn năm xa cách…bóng trăng trôi!
Lê Văn Hải
*
Minh Thúy:
Mọi người lần lượt ra đi . Kính nguyện cầu hương linh đạo hữu Chơn Minh Đạo sớm được siêu sanh tịnh độ.
Minh Thúy
*
Lê Anh Thượng:
Thật buồn khi hay tin anh Nguyễn Thượng Dực (Cả Dực, người bạn tù vai anh của bọn mình). Trong tù, tôi, Cả Dực và Dương Văn Chương kết nghĩa anh em sinh hoạt chung một tổ; sau dó anh xuống Đội Nhà Bếp và theo biên chế định kỳ của bọn chúng nên tôi với anh Lê Tuấn và Bùi Xuân Đang (hiện ở Pháp) kết thành một tổ sống chết với nhau.
Nay được tin buồn này, không biết nói gì hơn chỉ còn biết gởi lời chia buồn đến gia đình anh và nguyện cầu hương linh anh sớm về cỏi Niết Bàn.
Tôi cũng đã gọi phone thông báo đến các bạn tù Đội Đập Đá Trại 6 Nghệ Tỉnh như các anh: Nguyễn Thanh Vân, Nguyễn Đức Lợi, Sữ Hồng Xuân, Tín, Đằng (Xã Trưởng miền Tây) ở Westminter biết tin buồn này, để cùng cầu nguyện và chia xẻ nỗi đau mất mát này với gia đình anh.
Thành kính Phân Ưu
Gia Đình Lê Anh Thượng (Hoàng Mai Nhất)
Thành Kính Phân Ưu: BÉ KÝ, NỮ HỌA SĨ TIÊU BIỂU, NỔI DANH NHẤT VIỆT NAM VỪA TỪ TRẦN!
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
**
VĂN THƠ đưa tiển một nhân tài
LẠC VIỆT chia buồn, thương tiếc thay
BÉ KÝ một đời danh sáng mãi
Cọ Tiên trọn kiếp tiếng lưu hoài
Phối màu nét trải tranh rồng lượn
Tốc họa bút vờn ảnh phụng bay
Đã hết nợ trần rời thế tục
Chúc người an lạc chốn Thiên Thai
Văn Thơ Lạc Việt
Phương Hoa – May 13th 2021
Bé Ký Khi còn trẻ
Nữ họa sĩ Bé Ký, một tên tuổi gắn liền với nền hội họa của người Việt Nam, được giới hội họa ngoại quốc biết đến nhất, vừa qua đời, vào chiều hôm qua, Thứ Tư, 12 Tháng Năm, tại tư gia ở Westminster, hưởng thọ 83 tuổi.
Tin này được Ông Cung, con trai của họa sĩ Bé Ký xác nhận và thông báo cho các bạn hữu.
Ông Cung kể: “Mẹ mất vào khoảng 2 giờ đến 6 giờ chiều. Tôi về nhà thì thấy bà mất trong lúc ngủ và đang nắm tay ba. Mẹ tôi không chỉ là một người mẹ bình thường, và còn là một họa sĩ rất thành công mà nhiều người đã biết.”
Nữ Họa sĩ Bé Ký, tên thật là Nguyễn Thị Bé, sinh năm 1938 ở Hải Dương, Bắc Việt. Bà mồ côi cha mẹ từ lúc 8 tuổi. Thiếu tình thương, vì vậy, điều đó ảnh hưởng nhiều tác phẩm của bà, đã tạo ra những bức tranh với nội dung tràn đầy tình mẫu tử.
Sau khi di cư, bà sống với cha mẹ nuôi, khi vào miền Nam. Sau đó, tìm lại được cha mẹ ruột sau năm 1975, nhưng tất cả đã qua đời.
Về hội họa, bà tự học vẽ từ nhỏ và được các họa sĩ như Trần Đắc, Trần Văn Thọ và Văn Đen chỉ dẫn.
Bà là nữ họa sĩ có nhiều cuộc triển lãm nhất, chính vì thế mà hội họa thế giới biết về bà nhiều nhất. Từ năm 1957 đến 1975, bà có đến 16 cuộc triển lãm ở Sài Gòn, có tranh bán nhiều nhất! có giá nhất!
Sau khi đến Hoa Kỳ vào năm 1989, bà cùng chồng là họa sĩ Hồ Thành Đức và gia đình sống ở thành phố Westminster, California. Các tác phẩm của bà cũng được trưng bày tại nhiều cuộc triển lãm tại rất nhiều tiểu bang, và còn được trưng bày tại nhiều Học Viện nổi tiếng của Hoa Kỳ.
Sự ra đi của nữ họa sĩ Bé Ký là một mất mát lớn đối với nền hội họa của người Việt Nam, vì bà có rất nhiều tác phẩm cống hiến độc đáo trong lãnh vực này.
Họa sĩ Bé Ký là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên theo con đường hội họa, với nét tốc họa theo đường lối mới, rất đặc biệt. Nét vẽ của bà khó ai có, khó ai bắt chước được. Bà tự học vẽ từ nhỏ, và bắt đầu vẽ tranh từ lúc còn rất trẻ.
Những tác phẩm của họa sĩ Bé Ký rất phóng khoáng, đầy tinh thần, tình tự đáng yêu của dân tộc, thể hiện được nhiều mặt sinh hoạt của xã hội.
Tranh của bà có đề tài rất gần gũi với đời sống, lúc thì
vẽ người bán hàng ngoài đường, thợ hớt tóc, lấy ráy tai, đá gà, đi chợ…nên ai cũng thích. Từ lúc trẻ, bà đã được báo chí Pháp, Âu Châu ca ngợi rất nhiều.
Sự ra đi của bà là mất mát lớn nền hội họa Việt Nam, nhất là đối với phái nữ, vì bà là đại diện tài năng vẽ cho họ trong nhiều năm, trong lãnh vực hội họa thế giới. Cho đến bây giờ vẫn chưa thấy họa sĩ nữ nào thay thế vị trí này được cả.
Văn Thơ Lạc Việt xin gởi lời chia buồn đến Họa sĩ Hồ Thành Đức và Tang Gia. Quý vị vừa mất một người thân, Việt Nam trong lãnh vực hội họa, mất một Họa sĩ tài năng hiến có.
Focus on six candles in foreground.
(Lê Văn Hải Theo NV)
Chia Buồn: Linh Mục Gioan Trần Công Nghị
Chia Buồn
Nhận được tin buồn:
Linh Mục Gioan Trần Công Nghị
(Sáng lập, Giám đốc VietCatholic Network.
Bút hiệu Đồng Nhân và Thiên Ân)
Vừa được Chúa gọi về,
Ngày 22 tháng 4 năm 2021
Tại Garden Grove, California, Hoa Kỳ.
Hưởng Thọ 76 Tuổi.
(55 năm trong chức vụ Linh Mục)
Xin gởi lởi chia buồn đến Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam Hoa Kỳ và Tang Quyến.
Nguyện cầu Chúa chí ái, đón nhận Linh hồn Gioan,
người Môn Đệ yêu dấu của Ngài vào nước Thiên Đàng.
Thành Kính Phân Ưu.
-Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt
-LVHải và Tuần Báo Thằng Mõ.
LM Trần Công Nghị, người sáng lập VietCatholic Network, qua đời
GARDEN GROVE, California (NV) – Linh Mục Trần Công Nghị, giám đốc sáng lập VietCatholic Network, vừa qua đời lúc 11 giờ 30 phút sáng Thứ Năm, 22 Tháng Tư, tại nhà riêng ở Garden Grove, hưởng thọ 76 tuổi, trong đó có 50 năm là linh mục, theo trang web VietCatholic cho biết.
Hồi năm 2017, nhân dịp kỷ niệm 20 năm VietCatholic Network, Linh Mục Trần Công Nghị có chia sẻ với nhật báo Người Việt như sau: “Lúc đầu tôi làm trang web VietCatholic Network vì thích thú thôi, chỉ với kỳ vọng đưa cuốn Kinh Thánh bằng tiếng Việt cho mọi người đọc. Vậy mà thoắt cái đã là 20 năm, kể từ ngày trang web tiên phong và đầu tiên bằng Việt Ngữ trên Internet bắt đầu hoạt động vào ngày Lễ Các Thánh, 1 Tháng Mười Một, 1996.”
“Trong suốt thời gian dài hiện diện, chúng tôi cố gắng mang đến cho giáo dân món ăn tinh thần bổ ích, đó là những tin tức từ Giáo Đô Vatican, từ Giáo Hội Việt Nam, và các sinh hoạt đa diện từ các giáo xứ và cộng đoàn Công Giáo Việt Nam khắp nơi trên thế giới. Để có được như ngày hôm nay, tôi tự mình mò mẫm trong suốt những ngày gian khó. Lúc bấy giờ Internet mới phát triển, nhưng tôi thấy nhu cầu này rất ảnh hưởng, do đó tôi tập tành đưa Tin Mừng của Giáo Hội Công Giáo bằng tiếng Việt lên Internet để phổ biến cho mọi người khắp nơi hiểu sứ điệp như thế nào,” vị linh mục giám đốc chia sẻ tiếp.
Cũng từ năm 2017, VietCatholic Network có thêm chương trình trên YouTube được rất nhiều người xem.
Theo VietCatholic Network, Linh Mục Trần Công Nghị có hai bút hiệu là Đồng Nhân và Thiên Ân, sinh ngày 13 Tháng Ba, 1945 tại tỉnh Ninh Bình, thuộc Giáo Phận Phát Diệm.
Từ năm 1957, linh mục theo học tại Tiểu Chủng Viện Phát Diệm, Phú Nhuận, và Đại Chủng Viện Sài Gòn, trước khi sang Rome, Ý, học tại Đại Học Giáo Hoàng Urbano (Pontifical Urban University) trong bốn năm, từ 1967 đến 1971.
Linh Mục Trần Công Nghị (bìa phải) phát biểu nhân dịp 20 thành lập VietCatholic Network. (Hình: Quốc Dũng/Người Việt)
Từ năm 1971 đến năm 1975, ông học ngành khoa học xã hội tại đại học Fordham University, New York.
Năm 1977, ông quay lại Rome, trở lại đại học cũ và học thêm tại Đại Học Giáo Hoàng Grerogy (Pontifical Gregorian University) để lấy bằng tiến sĩ Thần Học.
Từ năm 1983 đến năm 1984, ông làm giáo sư tại Đại Chủng Viện New Orleans, Louisiana.
Từ năm 1987, ông làm giáo sư Chủng Viện Đức Mẹ Nữ Vương Các Thiên Thần (Our Lady Queen of the Angeles) của Tổng Giáo Phận Los Angeles, cho đến năm 1993.
Khi làn sóng người Việt Nam sang định cư tại Hoa Kỳ sau khi cuộc chiến chấm dứt, ông lần lượt đảm trách các chức vụ tuyên úy trưởng trại tị nạn Fort Chaffee, Arkansas; giám đốc Trung Tâm Mục Vụ Việt Nam, Tổng Giáo Phận New Orleans, Lousiana; giám đốc điều hành Indochinese Center, Washington DC; và giám đốc điều hành Trung Tâm Mục Vụ Đông Nam Á, Tổng Giáo Phận Portland, Oregon.
Ngoài ra, Linh Mục Trần Công Nghị cũng từng là phó chủ tịch Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam Hoa Kỳ, chủ tịch Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam Miền Tây Bắc Hoa Kỳ, giám đốc Dự Án Nghiên Cứu Nhu Cầu Mục Vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ, do Văn Phòng Mục Vụ thuộc Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ tài trợ, có văn phòng tại Orange County, Nam California.
Ngoài ra, tại Tổng Giáo Phận Los Angeles, Linh Mục Trần Công Nghị từng phục vụ các giáo xứ St. Paul of the Cross (La Mirada), St. Finbar (Burbank), St. John Fisher (Rancho Palos Verdes), Our Lady of the Assumption (Claremont), và St. Catherine of Alexandria (Avalon). (Đ.D.)
(Lời Chia Buồn này, cũng sẽ được đăng trên Tuần bào Thằng Mõ số tới)