
Vị gì một miếng trầu cay
Không biết tục Ăn Trầu có từ lúc nào. Nhưng hồi nhỏ tôi thấy Bà Nội tôi lúc nào cũng có khay trầu kè kè bên hông. Lâu lâu bà lại cho một cục vào miệng nhai bõm bẽm. Cục này bà làm trước lúc rảnh rỗi, gồm lá trầu, quét một ít vôi, kèm theo miếng cau. Ba thứ đó kẹp chung lại thành một cái gói nhỏ nhỏ như một cục kẹo.
Anh về têm một trăm miếng trầu cho tinh tuyết,
Bỏ vào hộp thiếc, khay cẩn xà cừ
Để em vòng tay vô thưa với thầy, với mẹ: Gả chừ cho anh (*)
Hồi xưa, đi lễ dạm cưới hỏi Vợ không thể không có khay trầu cau. Gia đình Cô dâu mà chịu thì coi như nhận khay trầu, không nhận thì trả lại.
Hỡi cô mặc áo vá vai
Tay ngắn tay dài đã có chồng chưa?
Anh hỏi thì em xin thưa
Vài ba nơi hỏi nhưng chưa nhận trầu (*)
Em này chảnh, vài ba nơi hỏi đó nhe. Hay là Ba Mẹ đã nhận trầu rồi mà lòng em thì còn để ở đâu đâu?
Con chim xanh đậu cành dâu biếc
Em đi lấy chồng anh tiếc lắm thay
Vị gì một miếng trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra (*)
Em có chồng như chim vào lồng, như cá cắn câu. Hồi đó anh không chịu mang mâm trầu, để giờ ván đóng thuyền rồi thì coi như là xong. Hồi xưa ăn trầu lại có kèm theo một miếng Quế nữa. Không chỉ có bà già mà gái trẻ cũng ăn. Thiệt là lạ.
Đêm qua trăng sáng mập mờ
Em đi gánh nước tình cờ gặp anh
Vào vườn trẩy quả cau xanh
Bổ ra làm sáu trình anh xơi trầu
Trầu này têm những vôi tàu
Ở giữa đệm quế, đôi đầu thơm cay
Mời anh xơi miếng trầu này
Dù mặn dù nhạt, dù cay dù nồng
Dù chẳng nên đạo vợ chồng
Xơi năm ba miếng kẻo lòng nhớ thương (*)
Đàn ông Việt ít ăn trầu cau, sau này thì hình như không còn. Nhưng đàn ông Đài Loan họ vẫn ăn cau, nhất là trong giới bình dân, lao động. Lên xe Taxi, sẽ thấy họ hay nhai bõm bẽm. Những cô gái bán cau ở Đài Bắc ăn mặc rất thiếu vải để câu khách. Không biết cứ tưởng em là gái đứng đường, nhưng lại là gái bán cau.
Đỗ T. Công
(*) ca dao
(*) hình phụ nữ Việt cả 100 năm trước và những cô gái bán cau ở Đài Bắc
