Tác giả và Tác Phẩm

Nam Giao Lê Thiện Bình: NHỮNG GIÁ TRỊ CĂN BẢN CHO XÃ HỘI-CHÍNH TRỊ

NHỮNG GIÁ TRỊ CĂN BẢN CHO XÃ HỘI-CHÍNH TRỊ

 

 Thành Kính Dâng Hương Hồn Ba Mạ! Người đã hy sinh tất cả cho con, ngay đến cái chết cho con được sống, được hiện hữu với đời và với người. Người đã dạy con phải biết “làm người luôn trọng tín nghĩa, trung hiếu, đạo đức nhân bản. Làm một con người luôn đứng thẳng, yêu Đất Nước Đồng Bào cùng Tổ Tiên mình. Biết xã thân vì Nước vì Dân khi Tổ Quốc lâm nguy”.

 

I. DẪN NHẬP

 

    Trước đây, chúng ta đã cùng nhau khảo cứu và chung nhau tìm hiểu về “Thực Chất Những Cuộc Cách Mạng Trong Thế Giới”, để hiểu thế nào là cuộc cách mạng chân chính, đem lại no ấm, hạnh phúc và an thái cho người dân.Và những cuộc cách mạng nào đã đem lại đau khổ và bần cùng hoá người dân.Cũng từ đó người dân hiểu cách mạng như thế nào, để cùng nhau phát động cao trào cách mạng cải đổi chế độ phỉ quyền Hà Nội thối nát hiện nay. Nay qua bài mới “Những Giá Trị Căn Bản Cho Xã Hội-Chính Trị” này, chúng ta lại có dịp cùng nhau tìm hiểu và khảo luận về các ý nghĩa của những giá trị căn bản cụ thể này. Để rồi, người dân hiểu được các quyền căn bản của mình mà tranh đấu, đòi lại cái quyền sống làm người đúng nhân vị, và phẩm chất của mình.Khi người dân đã hiểu họ có những quyền rất cao trọng, ắt mới biết cái giá trị làm người của mình mà nỗ lực đòi lại.Vì có những quyền Thượng Đế ban cho con người ngay từ lúc còn là bào thai nằm trong bụng mẹ. Lý thực, con người đã có cái quyền sống và tự do được sống và mở mắt chào ánh nằng mặt trời cùng vũ trụ huyền diệu, rồi sống tươi nở về thể lý, tinh thần, tâm linh, tâm lý vv.

   Thế nhưng, khổ đau cho người dân Việt trải dài bao thế hệ qua, đã bị một chế độ phi nhân bản, do tập đoàn phỉ quyền Hà Nội chuyên chế độc tài, cùng cái Đảng gian phi Việt cộng nắm quyền. Chúng cai trị dân với chính sách sắt máu bằng súng đạn và cái còng, bằng dây xích và bỏ đói, bằng cưỡng bức lao động và tù đày, rồi khủng bố cùng ám sát và giết người.Vả nữa lòng tham của chúng vô đáy, chúng dùng thêm một chính sách cướp đoạt các tài sản của người dân.Thế đó, một mặt, phỉ quyền Hà Nội bóc lột tài sản của dân, giết chết cùng bóp chết và tướt đoạt đi các quyền căn bản ấy của dân Việt. Mặt khác Hà Nội bưng bít những sự thật của truyền thông và báo chí ngôn luận.Chúng chỉ thông tin một chiều và luôn trái sự thật, hoàn toàn dối trá, lừa đảo và bóp méo trắng trợn các nguồn tin quốc tế cũng như quốc nội. Đơn cử như bài diễn văn nhậm chức của của tổng thống Barack Obama, phỉ quyền Hà Nội đã cố ý đục bỏ, dịch sai ý.

   Vì lẽ đó, chúng tôi sau thời gian dài cố gắng nghiên cứu học hỏi, nên xin viết bài này, không ngoài niềm khao khát và cầu mong thông đạt đến người dân Việt những giá trị nhân quyền, dân quyền căn bản này.Nhất là, để người dân cùng chúng ta chung nhau hiệp lực tranh đấu giải thể cái chế độ phi nhân của phỉ quyền Hà Nội, và đánh sụp cái Đảng gian phi của chúng, đã gây ra bao thảm họa cho người dân và Đất Nước Việt lắm tang thương cùng ngục tối đọa đày.

    Có lẽ trong xã hội Việt Nam từ cổ chí kim, không có một thực trạng nào đau thương và tủi nhục hơn cả của người dân sống dưới chế độ phỉ quyền cộng sản Hà Nội. Một Đất Nước đi đến cùng cực của vật chất lẫn tinh thần.Nhất là các giá trị đạo đức, luân thường, hầu như đã bị Đảng gianViệt cộng phá sản toàn  diện.Từ văn hóa đến chính trị cùng phong tục và mỹ tục của cha ông, dần dần đã bị người cộng sản Việt tiêu trừ. Sự phá sản các giá trị tinh thần, xã hội và chính trị, cũng như xem thường luật pháp và các tài nguyên quốc gia, đã lộ cho chúng ta thấy: một chủ nghĩa cộng sản Việt kém văn hóa và văn minh. Thêm nữa một con người có “tư tưởng u tối” chỉ giỏi đạo văn, và đạo thơ của nguời khác làm của mình, chính là Hồ Chí Minh, Đảng trưởng cái Đảng gian phi của những tên Việt gian cộng sản.Ông là người học vấn chưa bước lên được bậc thềm của ngôi trường trung học.Bản chất là người thiếu học và nhận thức như thế, lại “kém trí tuệ” nên mù quáng chạy theo những lý thuyết không tưởng sai lạc làm hại con người và dân chúng. Điểm đáng nói ở đây là Hồ Chí Minh và cái Đảng gian phi Việt cộng không tôn trọng người dân cũng như các giá trị căn bản thực thi cho người dân.Ông và đàn em của ông chỉ giỏi có một điểm là làm tay sai cho Nga và Tàu cộng thôi. Thật là cảnh đau thương cho Quốc Gia chúng ta, là bị cướp quyền và cai trị bất chính do một lớp người kém văn hóa, kém học thức cùng thiếu hiểu biết phổ quát trong các lãnh vực kinh tế, chính trị-xã hội hay đạo đức luân lý như chúng tôi đã nói trên. Thế nhưng lòng chúng thì quá nhiều tham vọng và độc ác, cứ cố bám víu vào quyền lực, và dưạ lưng, chịu làm nô bộc, tay sai đặc lực cho bọn Rợ Hán Bắc Kinh như những loại “khuyển mã” trong nhà, nên đã đưa đẩy Đất Nước và Dân Tộc Việt đến tận cùng vực thẳm của nghèo đói, phi giá trị luân lý và đạo đức.

    Hiển nhiên, những giá trị căn bản của chính trị và xã hội bị họ chà đạp đến tận cùng gốc rễ một cách trắng trợn. Tủi nhục cho Dân Tộc chúng ta với ngoại bang, là các phần tử cộng sản Hà Nội cướp quyền bất chính trong qúa khứ cũng như hiện thực, chính họ không được đào tạo, không được giáo dục cái tối thiểu hiểu biết của việc làm chính trị. Cũng thế họ không được đào tạo học hỏi và xuất thân từ các trường đại học khoa bảng… Để ít nhất, người cộng sản Việt cũng có thể nhận chân ra những căn bản của luật pháp, nhân quyền, công bằng và tự do cùng độc lập v.v., mà tất cả các cộng đồng chính trị, các quốc gia trên thế giới họ cố gắng thực thi những quyền căn bản này vào đời sống hằng nhật của người dân mình.

    Thực, con người không hẳn là một người thuần tính lý trí, nhưng cũng con người đó, có bản tính tự nhiên hướng về thú tính.Bởi thế, con ngươì cần phải được đào tạo, học hỏi, lắng nghe, khảo sát, tiếp nhận những tinh túy, cái hay của cha ông cũng như của nhân loại, để thăng hóa mình và thăng hóa tha nhân. Cũng thế, con người phải được dạy cho hiểu bổn phận, trách nhiệm của mình đối với cộng đồng quốc gia; cũng như họ biết thừa nhận những sai lỗi của mình và biết cải tiến.Nhất là, những vị chăn dân, làm chính trị càng hiểu rõ bổn phận cùng trách nhiệm của mình hơn đối với cộng đồng dân tộc.

    Do đó, qua bài “Những Giá Trị Căn Bản Cho Xã Hội-Chính Trị”, thì chúng tôi không mong gì hơn, là chúng ta cùng nhau đào sâu ý nghĩa về những giá trị thực tế đó: như là tự do, nhân quyền, công bằng và công minh về hiến pháp, luật pháp của xã hội-chính trị.

 

II. BÌNH AN VÀ CÔNG MINH CHÍNH TRỊ HAY LÀ HIẾN PHÁP VÀ LUẬT PHÁP QUỐC GIA

 

    “Con người, theo bản tính tự nhiên là một hữu thể xã hội-chính trị”, đó là tư tưởng triết học nhận định.Bản tính xã hội chính trị này là dấu chỉ con người nghĩ đến nguyên nhân của nhiều phức tạp cùng đa tạp bất đồng, đó là theo ngành nhân loại học phân tích.Vì thế, con người cần sự hổ tương và giúp đỡ. Con người phải chấp nhận cần đến những giá trị nhân bản, để thông thương và truyền đạt cho nhau sự sống. Cái căn bản cần thiết của sự tương quan xã hội chính trị này (socio-politique) là hiệu lực sống còn của con người và nhân loại. Cũng thế, để con người có được đời sống tươi nở, hầu tạo nên cái nhân vị cho mình, cũng như cái lý do chính đáng để con người thực hiện cùng sáng tạo những công trình khoa học, không những trong lãnh vực xã hội chính trị, mà còn trong nhiều lãnh vực khác là văn hoá, nghệ thuật, triết học và tôn giáo v.v..

    Chúng tôi được biết nghành nhân loại học cũng nghiên cứu nhiều vấn đề như: tình yêu, tính dục, luân lý, thiên tính, bản năng, những nhu cầu chính đáng của trẻ em mới sinh, nhu cầu làm việc và sự chọn lựa việc làm, hoặc dễ dãi khi ra đi v.v. Nhất là, những tiềm năng của ngôn ngữ và lý trí con người.

    Tuy nhiên cái bản tính chính trị là một bản tính bên cạnh bản chất thực của con người (l’essence humaine).Vì bên ngoài những khuynh hướng xã hội và cộng đồng, thì con người cũng có khuynh hướng chống lại xã hội và cộng đồng, nên thường dễ tạo những cuộc xung đột, đánh nhau, chiến tranh hoặc hận thù v.v.

    Đã là con người, thì họ cần sống chung với đồng loại, và liên hệ với tha nhân. Tuy nhiên sự sống chung này, không luôn được che chở do những tiêu chuẩn của các quy luật đề ra. Ngược lại, điều vừa nói đó luôn gặp khó khăn trở ngại bởi những khác biệt: như là ý kiến, màu da, giòng giống, chủng tộc, giai cấp, hay vì những ganh ghét, chống đối, hoặc nữa vì những quyền lợi chính trị, thương mại. Hay nữa, là do những hiếm hoi về tài sản vật chất, tài nguyên quốc gia, vả nữa cũng do những dục vọng muốn chống lại xã hội.Tất cả các điều nói đó tạo nên sự ghen tị, hận thù, tham vọng.Do đó, chúng tôi cảm nghĩ sự sống chung như thế qủa là một hiện thực khó khăn cùng nan giải.

    Thiết nữa chúng tôi thấy sự sống chung luôn bị những con người hành động theo ý muốn tự do, mà họ cho là sự sống tuyệt đối tự do, chính họ là người thường gây rối.Lý ra, những con người này không thể làm cản trở sự chia sẻ và thông phần chính mình cùng một không gian, một mảnh đất sống với đồng loại. Hơn nữa, điều tối thiểu là họ nên ý thức rằng mình không thể làm cản trở sự sống chia sẻ này với tha nhân.Có nghĩa là cho kẻ chia sẻ với họ đó cùng một thời gian và không gian thực, cũng như chớ làm cản trở ảnh hưởng của những người này đối với người khác khi đã sống chung.Vì thế, sự kiện này không chỉ có giá trị cho hoàn cảnh mà những người khác khi đã sống chung, đối lại cũng có giá trị cho người muốn sống chung. Lý do trên chúng tôi nêu ra để ai muốn thiêt tạo đời sống chung, thì chớ nên làm cản trở hay phá ảnh hưởng của người anh em đối với người khác. Nhất là, cho những người theo con đường ý muốn tự do không làm cản trở tư tưởng, đời sống của tha nhân.Bởi việc này có thể đi đến những cuộc xung đột dễ tạo hận thù và chiến tranh triền miên.

    Sau nữa, chúng tôi lưu ý đến các năng tính của con người.Con người ai cũng muốn trục xuất những cuộc xung đột ra khỏi đời sống của mình.Bởi các cuộc xung đột làm trầm trọng thêm đời sống, đôi khi dẫn đến chiến tranh và sự chết như chúng ta đã thấy xảy ra đó đây trên trái đất ta sống.Vì thế sự rủi ro đưa đến các cuộc xung đột, có tính cách phổ quát cho con người theo hai điều kiện sau đây:

    1 Vì nhiều người chia sẻ sống cùng một không gian thực, và

    2. Họ theo đuổi con đường tự do ý muốn (libre arbitrer).

     Chúng tôi được biết có những người đưa ra các biện bác và bác luận chống lại đề nghị trên.Những biện bác cùng bác luận đó là do các tư tưởng gia marxistes như Marcuse hay Macphreson. Tuy nhiên, các điều này không những chỉ có trong thuyết marxisme mà người ta bắt thấy các bác luận này, là chống lại những đề luận rủi ro xung đột của thế giới, của xã hội con người.Song người ta cũng bắt thấy các đề luận như thế do những tư tưởng gia tự do, ví dụ như Hume vá gần chúng ta hơn cả là J. Raws. Theo các tư tưởng gia marxistes và tự do, thì họ bênh vực cho thuyết chỉ có xung đột trong trạng thái (thực cảnh) mà hai điều kiện khác nhau thường hiện hữu như sau:

    a) Nhiều người khác biệt về nhu cầu quyền lợi;

    b) Thực trạng về kinh tế không dồi dào và phong phú.

    Từ đó chúng tôi nghĩ rằng ai bênh vực và ủng hộ ý kiến cho hai điều kiện trên là tất yều, tức là họ chấp nhận một trạng thái xung đột chầm chậm.Họ cũng có lý do thừa nhận rằng trong trường hợp mà các điều kiên trên không xảy ra xung đột, là nhờ vào những quy tắc luật pháp minh xác. Theo lý của họ, để có thể giải quyềt những bất đồng trên, thì có một sự hoà điệu của quyền lợi và sự phong phú tài sản vật chất.Như thế, chúng tôi nghĩ những quy tắc và các giá trị xã hội-chính trị là vô ích chăng (superflues)?

    Thực vậy, ngoại trừ ý kiến cụ thể về hai điều kiện khác nhau là điều tất yếu, thì ý kiến của các tư tưởng gia marxistes hoàn toàn trái ngược với các tư tưởng gia tự do – Theo họ, ở đây là một sự sống chung không có các bổn phận xã hội và chính trị.Có nghĩa là sự giao thông và tác dụng hổ tương (interaction) không hạn chế.Chúng tôi nghĩ thực là một tình trạng vô chánh phủ (anarchie).Bởi một quốc gia không có nhà cấm quyền (un Etat sans aucune autorité politique) là điều ảo tưởng của họ.

    Trái lại những tư tưởng gia marxistes và tự do trên, thì chúng tôi nghĩ hai điều kiện khác nhau này, là không phải tất yếu. Trước hết, theo chúng tôi tưởng thì người ta chỉ có thể giàu có về sự tương quan, và họ không có cái giàu có tuyệt đối vế tài sản (chẳng hạn sau khi phỉ quyền Hà Nội cưỡng chiếm Miền Nam, nhiều người dân Miền Nam và người giàu có đã bị chúng cướp sạch.Hay cuộc khủng hoàng tài chánh của các ngân hàng ở Mỹ vừa qua đã lây lan cả toàn cầu. Nhiều nhà tỷ phú tiền rừng, bạc bể chỉ trong một đêm, sáng ngày mai bi mất hằng tỷ mỹ kim.Người ta ước tính số tiến “đốt đi” trên toàn cầu vào khỏang 35 ngàn tỳ Mỷ kim).Thề nhưng, chúng tôi thấy trong một vài lãnh vực, thì sự giàu có và phong phú không thể có tuyệt đối: đơn cử trong những tác phẩm mỹ thuật có cái độc nhất như bức tranh thời danh La Joconde của đại họa sĩ Léonard de Vinci.Hoặc nữa, như các nhà ẩn tu, các vị ấy có cái nét độc đáo của mình.Con người cũng có những nghề nghiệp thượng đẳng, như các viện trưởng đại học hay các vị thẩm phán của tối cao pháp viện.

    Chúng tôi nhận thấy những tài nguyên đơn giản như là nước, không khí, đất đai và năng lượng sẽ trở nên khan hiếm, tạo lo âu cho thế gíới ngày nay.Ví dụ những liên quan đến các tài nguyên này, có thể tạo nên sự nguy hiểm tranh dành, xung dột, và chiến tranh đánh nhau để chiếm đoạt.Như người ta nói nguồn nuớc là sự sinh tử của dân Do Thái. Thế nên, cuộc chiến tranh đánh nhau của người Do Thái và khối Arabe và Palestin trước đây và bây giờ một phần cũng do sư sinh tử của nguôn nước này. Cũng như vấn đề năng lượng, là dầu hỏa mà người Mỹ qua chánh quyền ông Bush đã bằng bất cứ mọi giá đánh cho gục chánh phủ Sadam Husen.Ông đã bất chấp sự không đồng ý của các đồng minh Pháp, Đức và Liên Hiệp Quốc, cũng như bỏ ngoài tai các lời khuyến can của Đức cố Giáo Hoàng Phao Lô đệ nhị không nên đánh chiếm Irak.. Ông Bush đã ra lệnh cho quân đội Mỹ đánh phủ đầu Sadam Husen, và chiếm cho được Irak, là nơi có các mỏ dầu hài ra tiền cho Mỹ. Chúng ta thấy ngay cả trong hoàn cảnh sung mãn giàu có, kể cả những người có nhiều quyền lợi trong một xã hội, song chúng ta thấy rằng vẫn có thể xảy ra những xung đột, tranh dành khó có thể tránh được.

   Vả nữa, chúng ta có thể khảo sát thêm để nhận ra, không chỉ ở những đứa bé mới có tranh chấp, mà ngay cả những người lớn vẫn có các tranh chấp này. Thêm nữa, các tranh chấp không chỉ vài người, nhóm người, mà ngay các đảng phái và quốc gia, vẫn thường có những xung đột, tranh dành, ẩu đả thường xảy ra.Chẳng hạn như cái Bộ Tà Trị và cái Đảng gian phi Việt cộng của Hà Nội, chúng nó tranh ăn hối lộ, tham nhũng, chúng nó dành nhau cướp đất, cướp tài sản của người dân vv. Lắm lúc tranh ăn, tranh cướp với nhau ăn chia không đều, chúng lại hạ sách cho lệnh thủ tiêu, hay cho xe đụng gây ra các tai nạn chết người.

    Tại sao chúng làm như thế?Bởi lý do họ không có những kiểu mẫu, những quy phạm giống nhau về luân lý và đạo đức chính trị.Hơn thế nữa, ví họ có những nhu cầu và quyền lợi không được thỏa mãn. Vì sự không thảo mãn đó tạo nên cho họ những khát vọng.Và bởi họ có quá nhiều tham vọng và dục vọng, nên họ khao khát chế ngự người khác.Nói tóm lại, những cảnh tranh dành, xung đột là được xây trên các hành vi tự do (theo ý mình, có tính cách chủ quan) cứ nghĩ rằng mình có quyền làm vậy, có tự do hành động như thế v.v..Và nhất là, vì con người sống trong cùng một không gian, một giải đất.Do thế, người ta có thể nói rằng những thực trạng xung đột, đánh nhau là cái liên quan gắn chặt vào đời sống của con người mà họ sống vậy. Bởi thế, mục đích cao cả của tôn giáo và triết học là loại bỏ tình trạng không có một khuôn khổ chính trị, không có những giá trị nhân bản làm mẫu mực cho xã hội và con người.Để rồi nhờ những quy tắc mẫu mực và giá trị nhân bản đó làm phẩm chất tốt đẹp cùng công minh cho cộng đồng loài người để sống chung.

    Thế nên, để loại bỏ điều khinh thi và ngộ nhận, thì sự đề nghị tranh chấp, là không thể được xây dựng trên một hình ảnh của con người bi quan, tụ hội bè phái, khao khát thống trị và tham vọng chế ngự anh em mình. Đề rồi từ đó sinh ra dùng vũ lực thô bạo hoặc những đòn thù độc để mưu hại anh em.Thực ngay cả những con người đã hướng về mưu cầu hạnh phúc cho đồng loại, có thể họ cũng có những cuộc tranh chấp.Song, chúng tôi nghĩ những cuộc tranh chấp này thường liên quan đến điều tốt, điều đẹp, điều thiện và ích lợi cho đồng loại.Vì các vị ấy muốn thực thi những điều công bằng cho tha nhân. Đơn cử như Cha Nguyễn Văn Lý, Đức Tồng Giám Muc Ngô Quang Kiệt, Cha Vũ Khởi Phụng, Hòa Thưọng Thích Quảng Độ, Mục Sư Nguyện Công Chính vv. Do vậy, những cuộc tranh chấp trong chiều hướng xây dựng nhân bản này, thì có một hành động của lý tưởng cao cả để mưu cầu và tạo hạnh phúc cho đồng loại, cho đồng bào hay giáo dân của mình.

    Từ đó, chúng ta hiểu rằng cái quan điểm trên rất là quan trọng, để tránh cho mình khỏi rơi vào trạng thái ích kỷ và quy ngã, quy đảng thái qúa.Có nghĩa là chúng ta không đi vào cuộc tranh chấp, tranh biện giữa các tư tưởng gia cộng sản độc tài hay tự do phóng túng.Qủa thực có biết bao nhiêu lý do mà những người thực tiễn chung sống và chia sẻ cùng một bầu trời, một giòng sông cùng một giải đất vv. Họ thừa nhận ảnh hưởng và quyền lợi của nhau, tôn trọng ảnh hưởng của người này trên các người khác mà không xảy ra những cuộc ẩu đả và xung đột, không tranh đấu giai cấp đến đổ máu, đầu rơi như người cộng sản chủ trương.

    Thực thế, con người không mấy ai muốn diễn tiến xung đốt xảy ra vì những trái ngược và mâu thuẫn đối với quyền lợi của mình.Tuy thế, nhưng chúng tôi thấy qủa là khó tránh những xung đột, bất đồng lắm lúc xảy ra.Chúng ta nhận thấy như các xã hội Tây Phương chúng ta đang sống, những đồng dạng và đồng hạng cùng đồng đẳng của các quy luật và nên tảng giá trị của xã hội chính trị, đôi khi chưa đủ chính thức hóa và hợp pháp hóa, mặc dầu những giá trị nhân bản đó có tính cách phổ quát cho con người. Bởi thế, chúng tôi nghĩ phải có một đề nghị cho việc sống chung bình an được thực hiện do những thể chế, định chế chính trị xã hội tạo nên.Thể chế hoặc định chế đó sẽ hướng về những quy tắc, quy luật, quyền lợi, và chúng có giá trị chung cho mọi người.Và chỉ có sự sống như thế mới bảo đảm việc hòa bình và công minh giữa con người với nhau.

    Vì vậy cái điều kiện cùng nền tảng thiết tạo và bảo vệ bình an cũng như công chính giữa con người với nhau, thì đây là một khuôn khổ cùng quy luật chính trị, hầu làm giảm bớt những cuồng vọng, những tham vọng thống trị của những người mưu cầu chế trị kẻ khác; và trong khi đó cùng một lúc bảo đảm được cho mọi người có sự sống an thái cũng như có được một không gian độc lập cho sự sống riêng tư của mình.Các điều nói này cần được thực hiện theo những nguyên tắc, cũng phải được thực hiện đồng đều cho tất cả mọi người dân, và cho tất cả hoàn cảnh chính đáng của họ.Điều ấy muốn nói người dân chỉ có bình an và hạnh phúc khi tất cả các việc làm chính trị ngay thẳng và công minh.Từ suy tư này, khi luật pháp của một quốc gia hướng về hòa bình và công chính, thì nhờ bình an cùng công chính đó bảo đảm bởi quyền của công chúng, thì được gọi là một hình thái luật lệ và hiến pháp quốc gia. Và một quốc gia như thế, thì luôn được thiết tạo trên những quy thuận hổ tương của mọi người công dân có cùng một nhân phẩm.Hơn nữa, trong một quốc gia có hiến pháp và quyền luật được tôn trọng trong mọi hoàn cảnh: như thể lý, tâm linh, kinh tế, chính trị, văn hóa cùng xã hội v.v., thì quốc gia này theo một nguyên tắc chung và phổ quát.Đó là hướng về sự giới hạn các hành động trái phép, cùng một lúc hướng về việc bảo vệ sự sống chung cùng một không gian, một lãnh thổ, cũng thế cùng một lúc bảo vệ và duy trì sự sống tự do cho các cá nhân và cộng đồng.

    Khi một quốc gia luôn hướng về nền công chính hay các nền tảng căn bản tự do của các công dân, thì được gọi là một quốc gia có Luật Pháp và Hiến Pháp xác thực minh định.Còn các Nuớc cộng sản, tuy có hiến pháp và luật pháp làm ra, nhưng người cộng sản luôn làm trái những điều căn bản mà họ đã đề ra trong hiến pháp. Như Bắc Kinh, Hà Nội, Lào, Bắc Hàn, Cu Ba v.v. thường vi phạm vào luật nhân quyền.Một quốc gia có luật lệ và hiến pháp minh định như thế, thì đây là nền tảng của con người theo quan điểm chính trị-xã hội.Khi tổng thống, thủ tướng, dân biểu, nghị sĩ mà phạm pháp và vi hiến do hiến pháp quốc gia đề ra, cứ chiếu theo luật pháp quốc gia, chúng ta có quyền xử tội và bỏ tù họ. Đẹp thay khi quốc gia có hiến pháp được bảo vệ và tôn trọng, đó chính là thể hiện cái giá trị chính trị-xã hội cốt yếu hơn cả.Các giá trị chính trị- xã hội là những quyền căn bản của con người, mà người ta gọi là Nhân Quyền, Human Rights, Droits De L’Homme.

 

III. NHÂN QUYỀN VÀ NHỮNG QUYỀN CĂN BẢN

  

   Bất cứ Hiến Pháp và Luật Pháp quốc gia nào, tự nhiên luôn đòi hỏi phải có sự thích ứng đối với mọi người dân.Và qua đó thì cấu tạo nên một xã hội chính trị có những nguyên lý quy phạm (principes normatifs, normatives principles) hẳn hoi bằng những điều kiện có tính cách phổ quát.Nhờ những nguyên lý quy phạm này mà người dân chấp nhận một sự hổ tương (cộng đồng), để sống chung đuợc: như là trổ nở của nhiều lãnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật và xã hội, tôn giáo v.v. Nguyên lý quy phạm đó phải thể hiện những điều kiện bình đẳng phổ quát, nó có hiệu nghiệm cho việc sống chung bình an của mọi người, như là cộng đồng và quốc gia. Như thế, chúng ta có thể nói tất cả mọi người dân đều có quyền trên những điều này, có sự độc lập cho mọi hành động cụ thể của cá nhân hay cộng đồng.Đây là những điều kiện căn bản thuộc về người dân và đời sống của họ. Do thế, những căn bản tất yếu phổ quát này được gọi dưới một danh xưng là “Nhân Quyền, Human Rights, Droits De L’Homme”. Nhân quyền được thể hiện bởi những quyền bẩm sinh, những quyền tự nhiên, bất khả di nhượng và bất khả xâm phạm (droits innés, naturels, inaliénables et inviolables).Đó là những quyền tất yếu thuộc về người dân, thuộc con người, làm người lẽ dĩ nhiên phải có cho họ trong một cộng đồng chính trị, trong một quốc gia.Bởi là con người sinh ra và sống thì phải có điều kiện và nhu cầu như thế.Do thế, một quốc gia văn hiến, thì phải thể lộ cho thiên hạ và quốc tế thấy được qua xã hội-chính trị của mình hằng nghiêm chỉnh tôn trọng những điều kiện căn bản tất yếu này cho mọi người dân và cộng đồng quốc gia chúng ta.

   

3.1. MỘT VÀI KIỂU MẪU CỦA LUẬT NHÂN QUYỀN

 

    a) Qủa một điều kiện hiển nhiên: là để con người có tự do và sử dụng tự do đúng nghĩa, đó là sự sống của người dân mà Nhà Nước có bổn phận bảo vệ nhân mạng của họ.Việc lo nghĩ tiên khởi và phận việc trước hết của luật pháp, là bảo vệ sự sống hay an ninh cho người dân. Đó là chống lại các việc bạo hành, chống lại các việc trộm cắp, giết người, hãm hiếp, chống lại việc buôn bán lậu các mặt hàng quốc cấm có tính cách nguy hại đến nền kinh tế quốc gia, chống lại các việc buôn bán ma túy v.v., làm suy thoái xã hội, và tạo nên các tệ đoan xấu bất ổn cho dân.Các điều chúng ta nói đây, thì chế độ phỉ quyền Hà Nội không tôn trọng và bảo vệ cho người dân.Trái lại, họ còn đi hà hiếp người dân : điển hình cụ thể là công an trị của Đảng gian phi Việt cộng mới đây đã chận đánh một thanh niên đến ngất xỉu, dân chúng Gia Kiệm thấy bất bình, nên đã ra tay can thiệp hầu bảo vệ cho anh thanh niên bị công an Nhà Nước hại dân đó đánh. Chỉ có dân cùng khốn bị hà hiếp, bị dập vùi xuống bùn đen, thì thường ra tay nghĩa hiệp bênh vực lẫn nhau và bảo vệ cho anh chị em của mình bị lũ cường quyền bất chánh vô học, phi đạo đức xử dụng “luật rừng” của cái “xã hội chủ nghĩa  cộng sản” ăn hại, làm càng muốn đánh ai thì đánh, muốn giết ai thi giết.Chúng tôi rất cảm phục và hoan hô “tinh thần vị người, vị đồng bào, vì máu mủ” được sinh ra từ một Mẹ Âu Cơ và một Cha Lạc Long Quân. Ước gì các vị chức sắc và lãnh đạo tôn giáo, lãnh đạo tinh thần, đồng lòng hiệp lực với quần chúng như dân chúng Gia Kiệm đây để bênh vực, can thiệp và cứu lấy hằng chục triệu người dân Việt hằng bị ức chế, bị đánh đập, bị bóc lột dưới nhiếu hình thức kinh tế: cướp đất đai, ruộng vườn, nhà cửa, cướp miếng cơm manh áo của dân lành, thì phỉ quyền Hà Nội, bọn công an du côn của chúng hết lộng hành. Hơn nữa, với hào khí liên đới và đoàn kết cùng một quyết tâm đem lại an thái, hạnh phúc cho dân Việt, thì quý vị có thể giải thế được chế độ phi nhân của chúng, hầu cho dân chúng hít thở được không khí công bằng, bình an, tự do, dân chủ và no ấm vv. Qủa thực Đảng gian phi và tập đoàn phỉ quyền Hà Nội của chúng thuộc chủng loại “vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo” mà chúng tôn thờ và bái lạy các ông tổ là Karl Marx, Vladimir llitch Oulianov (Lénine), Mao Tsé-Toung hay Mao Zedong (Mao Trạch Đông).Những tên trùm đồ tể, say máu tàn ác giết hằng chục triệu dân lành vô tôi không gớm tay, thần thánh thấy cũng xót xa cho dân chúng chết oan. Thế đó, các vị cứ để cho những tên học trò côn đồ và “tà thuyết” của chúng hoành hành, cho chúng hiện hữu và cứ mãi làm hại dân và tàn phá Đất Nước hoài như thế này sao? Ai cũng có lần chết, ai cũng một lần nhắm mắt xuôi tay đi về gặp lại ông bà, tổ tiên…Lúc ấy, các vị sẽ ăn nói ra sao với các Đấng Tiền Bối, Anh Hùng, Anh Thư, có công gìn giữ Đất Nước và đánh đuổi các lọai quân xâm lăng. Lúc đó, các vị nói ra sao với Hai Bà Trưng, Bà Triệu Thị Trinh, Vua Lê Đại Hành, Vua Ngô Quyền, Đức Trần Hưng Đạo, Vua Lê Lợi, Vua Nguyễn Huệ, Vua Hàm Nghi, Thành Thái, Ông Hoàng Hoa Thám và Trương Công Định, Cụ Phan Bôi Châu và Phan Châu Trinh, Ông Nguyễn Thái Học, Cụ Ngô Đình Diệm, Đức Hồng Y Trịnh Như Khuê và Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền, Linh Mục Nguyễn Văn Vàng và Trần Học Hiệu,Thiếu Tướng Lê Văn Hưng và Nguyễn Khoa Nam, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ và Trân Văn Hai, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú và Đại Tá Hồ Bá Cẩn, và vô vàn các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà đã nằm xuống, đã có công bảo vệ giang sơn khỏi lũ giặc vô thần, vô tổ quốc, vô gia đinh cho chúng ta được sống và hiện hữu cho đến ngày nay.     

    Chúng tôi xin bàn luận tiếp các nhân quyền căn bản ở trên.Thế nên, là Nhà Nước chính danh phải có các đạo luật: là cấm đánh đập tù nhân trái luật, cấm uy hiếp họ hoặc đày đọa thể lý và tinh thần tù nhân một cách dã man. Như chúng ta thấy ở các xã hội Âu Mỹ văn minh, dân chủ, luôn có các Hội Đoàn tranh đấu bênh vực cho tù nhân: Điển hinh là Amnesty International, Human Rights Watch, là những Hội Đoàn tranh đấu cho nhân quyền nỗi tiếng trên thế giới.Chính họ là những hội đoàn bênh vực cho nhân quyền bất khả xâm phạm này với thể lý và tâm lý của con người.Bởi đây là những luật tất yếu quan hệ đến đồng loại, có cùng một quê hương dân tộc cùng thể hiện làm người như chúng ta.Vả nữa, Luật Pháp Nhà Nước cũng phải ngăn cấm các việc sát nhân và kẻ tự ý giết người, ngăn cấm các việc trộm cướp, hủy hoại thân thể, các việc bạo hành, hiếp dâm, làm gây bất an và rối loạn cho xã hội cùng quốc gia. Luật Pháp Nhà Nước cũng phải bảo vệ và bênh vực cho các việc bắt người trái phép cũng như hành hung tù nhân trái luật có tính cách tư thù. Cũng thế, vì văn hóa và văn minh, Nhà Nước và Luật Pháp phải ngăn cấm các hình phạt dã man và cách thức tra tần tàn bạo.Thực các khoản luật nói đây, chúng ta thấy phỉ quyền Hà Nội và Bộ Tà Trị cùng Đảng gian phi của chúng đã vi phạm trắng trợn các luật nhân quyền chúng ta vừa bàn trên. Mặc dầu Hà Nội đã ký công khai trước bàng dân thiên hạ, và thế giới vào các văn kiện Hiến Chương Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc.Thế nhưng, phỉ quyền Hà Nôi ký vậy mà không phải vậy! Vì bọn phỉ quyền Hà Nội đã ngược đãi, hành hung, bỏ đói, tra tấn dã man, xiềng xích chân tay và cổ các quân nhân cán chính  cuả chế độ Sài Gòn. Sau đó, nhốt họ vào trong các hầm tối đủ mùi hôi xu uế, lại bắt các quân nhân cán chính Miền Nam khổ sai ngày đêm, và đày ải các cha ông, chú bác, cô dì, anh chi em thân yêu cuả chúng ta trong các trại giam tù cực hình nhất trần gian này.Qủa con chó, con mèo khi nhốt chúng vào đó chỉ có con đường chết, thế mà tập đoàn phỉ quyền Hà Nội đã nhốt tù cha ông, chú bác, cô dì, anh chị em chúng ta vào các trại tù ấy từ Nam ra Bắc bao thập niên qua.

   b) Một lẽ tất yếu khác cho việc thực hiện sự tự do, là quyền khả thế sử dụng các tài vật cho chính mình.Điều này có nghĩa là quyền tư hữu của con người.Tư tưởng nhân quyên không nói chính xác như thế nào việc tạo nên của riêng, và những tạo vật nào trở nên quyền tư hữu.Nhưng, theo chúng tôi biết, thì nhân quyền đòi hỏi phải có cái khả thể tạo nên tài sản riêng, và những tài sản đó của người dân phải được Nhà Nước bảo vệ và che chở. Việc ấy muốn nói là việc ăn cướp, cướp đoạt, cướp phá của tư cũng như của công, và sự trưng thu trái phép (l’exporpritation arbtraire) là trái pháp luật.Ở đây chúng ta lại thấy phỉ quyền Hà Nội đã vi phạm luật nhân quyền sơ đẳng nhất, là đã ăn cướp, cướp đoạt của dân chúng Việt Nam dưới chiêu bài là “diệt trừ mại bản, đánh công nông thương”. Từ đó, chúng đã cướp đoạt bao nhiêu tu viện, nhà thờ, đình chùa của các Giáo Hội Công Giáo, Tin Lành, Phật Giáo, Cao Đài, Phật Giáo Hoà Hảo vv, và cướp đi tài sản mồ hôi, nước mắt, chén cơm, manh áo của người dân. Cũng như nhiều hình thức ăn cướp khác có tổ chức quy mô và chính sách cướp đoạt do những nhân viên, cán bộ Nhà Nước và Đảng gian phi của Việt cộng chủ mưu.Điển hình rõ nét là Bọn gian phi Đảng cướp Hà Nội, chúng ngang ngược cướp đất của Tu Viện Thiên An. Nhất là, vụ xôn xao dư luận trong Nước cũng như Quốc Tế, là chúng cướp đoạt Toà Khâm Sứ Hà Nội Và Giáo Xứ Thái Hà, chúng lại xông lên cướp luôn Tu Viện Phao Lô của địa phận Vĩnh Long vv..

    c)  Điều tất yếu nữa, là khi những người làm chính trị đã có chính quyền, thì theo như quy tắc giới hạn cho việc bảo đảm hổ tương của tự do, tất nhiên không cho phép có quyền ưu tiên, ưu đẳng của người làm chính trị.Bởi tư tuởng nhân quyền đòi hỏi phải có sự bình đẳng và công minh với mọi người.Hơn nữa theo tư tưởng nhân quyền, thì tất cả các công dân đều có quyền tham dự vào chính trị và bình đẳng với nhau do luật pháp quy định. Ở đây phỉ quyền Hà Nội và Đảng gian phi của chúng đã dùng cường quyền áp chế không cho người dân trực tiếp tham dự vào cái quyền bầu cử vị nguyên thủ Quốc gia, và không cho người dân lập một đảng phái nào khác ngoài cái Đảng gian phiViệt cộng của chúng.

    Nói một cách khái quát: tư tưởng nhân quyền nói lên tất cả những quyền lợi căn bản của mọi người dân. Các quyền đó, là quyền bảo vệ sinh mạng, quyền khai triển tự do nhân vị, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền tự do báo chí và ngôn luận, quyền thành lập các hội đoàn và hội họp, quyền tự do tôn giáo và quyền tự do lương tâm cùng niềm tin, quyền tư hữu các tài sản, quyền đi lại trong lãnh thổ quốc gia…Và các quyền khác như là tham dự vào đời sống chính trị, có quyền ứng cử hay tranh cử các chức vụ trong chánh quyền một cách tự do, có quyền bỏ phiếu tích cực hoặc thụ động như ý. Thế nhưng trong thực tế đời sống của dân Việt : làm gì có cái quyền bảo vệ sinh mạng? Bởi bọn rợ Hán Trung Cộng bắn chết bao ngư phủ Việt đi đánh cá ngoài khơi, mà phỉ quyền Hà Nội không có một lời phản kháng hay đánh trả để bênh vực dân mình. Dân Việt làm gì có cái quyền khai triển tự do nhân vị của mình như các nước Âu Mỹ. Người dân Việt làm gì có cái quyền bình đẳng biện hộ mình truớc pháp luật? Bằng chứng minh bạch là việc xử án Linh Mục Nguyền Văn Lý, chúng đã trói tay Ngài, rồi một tên du côn sát thủ công an lấy tay bịt miệng ngài, không cho ngài lên tiếng. Hình ảnh phi luật pháp và xử án kiểu mọi rợ này như trở về thời đồ đá, trong các bộ lạc chưa có chữ viết của Pháp Đình phỉ quyền Hà Nội, đã được nhiều tờ báo lớn và nhiều đài truyển hình của ngoại quốc đưa hình ảnh của Linh Mục Lý bị bịt miệng và trói hai tay loan tin ra khắp trên thế giới. Cám ơn sự anh hùng và can đảm phi thường của Linh Mục, để cho bọn phỉ quyền Hà Nội và Đảng gian phi của chúng, lộ cái mặt bản tính thú rừng chưa được thuần hóa. Các tôn giáo ở Việt Nam duới chế độ vô thần của phỉ quyền Hà Nội làm gì có cái quyền tự do tôn giáo? Bằng chứng là chúng đã bắt bớ, bỏ tù bao chức sắc lãnh đạo và các tín hữu, chúng chụp mũ cho các thứ tội rồi bắt các ngài bỏ tù: như Đức Cố Hồng Y Nguyền Văn Thuận, Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Hoà Thượng Thích Quảng Độ, và vô số các Linh Mục, Đại Đức, Mục Sư bị chúng bắt đi bỏ tù. Làm gì có cái quyền tự do tôn giáo? Khi các Giám Mục muốn phong chức Linh Mục cho ai, thì phải xin phép Ban Tôn Giáo của Đảng gian phi Việt Cộng. Đức Thánh Cha muốn bổ nhiệm một vị Giám Mục nào cũng phải bàn hỏi Nhà Nước phỉ quyền Hà Nội.Các nhà báo Việt Nam làm gì có cái quyền tự do ra báo, tự do ngôn luận và viết báo theo lương tâm của mình.Báo là báo của Đảng và nhà báo nào cũng phải chịu sự chỉ đạo của Đảng.Sự thật hiển nhiên là Đảng gian phiViệt cộng đã bóp chết hết các thứ quyền này. Nói tóm lại, người dân Việt được Đảng gian phi Việt cộng muốn rộng rãi ban cho cái quyền tự do tuân lệnh Đảng, nghe lời “các nghị quyết, chỉ thị, sắc lệnh” của Đảng cộng cùng Nhà Nước hại dân, giết dân ban ra.

    Qủa thực những nhân quyền chúng ta vừa kể trên đây, là những giá trị nền tảng cho một cộng đồng chính trị, một quốc gia dân chủ.Nói đúng hơn, những nhân quyền nói này chỉ là những định đề luân lý làm mẫu mực giá trị cho cuộc sống của con người.Theo quan điểm luân lý, thì những nhân quyền này phải được tôn trọng và áp dụng vào bất cứ cộng đồng chính trị và quốc gia nào trên địa cầu chúng ta sống.Cũng thế, tư tưởng nhân quyền đòi hỏi những quyền trên trở nên một yếu tố tích cực trong các cộng đồng chính trị, trong các guồng máy chánh quyền hiện thực.

   Do đó, thực thể chính trị ngày nay tất yếu phải đưa vào nhũng khoản luật nhân quyền, và trở thành định chế hóa hay pháp chế hóa của quốc gia. Nhất là, Đất Nước chúng ta càng đòi hỏi việc thực thi hóa trong thể chế chính trị, và phải áp dụng nó cho tất cả mọi công dân.Từ lúc nhân quyền được xem là một yếu tố tất yếu, thì ngưòi ta gọi là những quyền căn bản (droits fondamentaux, fundamentals laws).Nói cách khác, những nhân quyền và những quyền căn bản là giống nhau, song nhìn về một khía cạnh khác.Vì theo nguyên tắc luân lý, có nghĩa là những quy tắc được chứng minh bởi triết học mà người ta gọi là nhân quyền. Cũng chính những nhân quyền này được gọi là những quyền căn bản, bởi từ lúc các quyền này đuợc quy chế hóa cùng pháp chế hóa và được tôn trọng, thực hành trong nhiều cộng đồng chính trị, trong nhiều quốc gia hôm qua và ngày nay.

    Vì thế, đã là một cộng đồng chính trị, một quốc gia văn hiến, lẽ tất nhiên Nhà Nước nào cũng phải hướng về những quyền căn bản này, để đuợc gọi là Quốc Gia có luật lệ và tôn trọng hiến pháp. Bởi vậy, chúng ta có thể nói triết học chính trị (philosophie politique, political philosophy) yêu cầu quốc gia có luật pháp và quyền luật và nhân quyền minh định.Cũng thế, bổn phận triết học và tôn giáo là can thiệp và ngăn ngừa các chủ nghĩa chuyên chế, độc tài, bạo chúa và cảnh vô chánh phủ. Chúng ta có thể so sánh các nước cộng sản độc tài chuyên chế, các nước quân phiệt rừng rú và các nước theo thể chế dân chủ tự do trong thế giới này, để thấy rõ các việc làm của họ.Cái điểm hệ trọng là các nước theo thể chế dân chủ tự do thường thực thi và tôn trọng nhân quyền cùng dân quyền.Còn các nước cộng sản chuyên chế và quân phiệt rừng rú thì bóp chết và tiêu trừ hết các nhân quyền và dân quyền của người dân.

    Chúng ta thấy trong những thập niên vưa qua, nhất là những năm gần đây hơn, người ta nghĩ rằng các cuộc xung đột và chiến tranh về nền tảng chính trị cùng ý thức hệ, là cuộc xung đột, tranh chấp giữa cộng sản và tư bản, hay giữa sự tự do và chủ thuyết xã hội cộng sản chuyên chế. Và các cuộc xung đột, có khi chiến tranh, là việc tranh đấu với các tay độc tài khát máu, thể chế độc tài sắt thép, bạo chúa tàn ác.Lý do tranh đấu, là bởi vấn đề dân chủ và nhân quyền cũng như vấn đề công bằng xã hội (justice sociale, social justice).

    Vấn đề này ngay cả trong các xã hội tân tiến Âu Mỹ mà nhiều người xem như là mẫu mực lý tưởng, song chúng ta có thể nhận thấy vẫn có sự khiếm khuyết của nền tảng đạo đức và luân lý.Như Tối Cao Pháp Viện và Chánh Phủ của các nước này trong những thập niên qua đã ra đạo luật cho phép phá thai (avortement, abortion) dễ dàng.Từ đó nạn phá thai bừa bãi đã giết chết hằng trăm triệu thai nhi vô tội.Các viện khảo cứu thai nhi trên thế giới, ước tính rằng hằng năm trên thế giới có đến trên 50 triệu thai nhi chết tức tưởi.Riêng Việt Nam ta dưới chế độ phi nhân quyền của Hà Nội, thì nạn phá thai hằng năm lên đến cả triệu em, có những em chỉ 14 hay 15 tuổi. Một tội ác tấy trời, đã cướp đi quyền sống của các thai nhi còn nằm trong bụng mẹ, không thể tự vệ và lên tiếng phản kháng được.Chúng ta ai cũng đếu muốn sống và muốn được sống thọ, không muốn ai đụng đến mình, không muốn mình bị ai xúc phạm hay làm minh bị tổn thương, huống hố nói đến chuyện muốn giết chết mình.Thế thì nhân danh gì?Lấy cái quyền nào mà ban lệnh cho phá thai và ra đạo luật phá thai?Quyền sống là quyền tối thượng, là cái quyền thánh thiêng của các thai nhi được sống và được chào đời như chúng ta, như mọi người. Quyền sống là cái quyền đuợc nhìn thấy ánh sáng mặt trời và vũ trụ xinh dẹp cùng kỳ diệu của các thai nhi.Quyền sống là cái quyền bất khả xâm phạm của các thai nhi.Do thế, không một ai có quyền ban lệnh, cho phép, và tự cho mình cái quyền tự do phá thai.Dữ dằn như con cọp và sư tử nhưng chúng không giết con mình, không ăn thịt hổ con, sư tử con, lại cố sức bảo vệ cho con chúng. Nhưng con người lại đi giết hại con minh còn nằm trong bụng mẹ.Mọi rợ và thú tính hơn súc vật, là lũ mọi Trung Quốc ăn thịt  thai nhi.Thế đó, mới có các hội đoàn ý thức được việc tội ác tầy trời này, cũng như nghe được tiếng khóc âm thầm và uất nghẹn của các thai nhi trước khi dẫy chết trong đau đớn, nên họ mới cổ động và bênh vực chống phá thai đến cùng, anti-abortion campaign, compagne contre l’avortement.Nếu như ngày xưa mẹ của các ông Hồ Cẩm Đào, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng hay Ông Barack Obama mà phá thai, thì làm gì có các ông hiện hữu hôm nay làm đến chức cao quyền thế hỉ?

    Do thế, khi chúng ta ý thức và nhận ra tầm quan trọng và những quan điểm của triết học luân lý (philosophie moral, moral philosophy) bàn về các chủ thuyết cộng sản chuyên chế cùng độc tài quân phiệt và vấn nạn nhân quyền cùng nhân phẩm. Đó là phận vụ đầu tiên của trật tự chính trị mà người ta có thể thử nghiệm vượt qua những cơn khủng hoảng trong các xã hội (thường thấy ở tuổi trẻ không có định hướng và lý tưởng chân thiện mỹ để dấn thân và phục vụ). Thực vậy, chúng ta có thể đòi hỏi chính đáng sự thực hiện hóa những quyền căn bản cốt yếu cho mỗi người dân Việt Nam, và cho toàn thể quốc gia Việt.

    Từ ý nghĩa này, một quốc gia thực sự đúng nghĩa để được gọi là dân chủ văn minh, tiến bộ, thì quốc gia ấy phải thực thi nghiêm chỉnh, hoàn hảo và duy trì bảo vệ những quyền căn bản này cho mọi công dân của mình. Hơn nữa, qua những hành động thực thi hóa nhân quyền và các quyền căn bản này, thì nhờ vào việc thực thi ấy mà trên lãnh vực chính trị quốc ngoại gây đưọc một âm vang và tầm ảnh hưởng nhân tâm cho quốc gia mình.Nhờ qua đó, quốc gia mới mở được các cửa ngõ cho việc giao thương quốc tế trong nhiều lãnh vực văn hóa, thương mại, chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật vv..

    Qủa một thể chế chính trị thể hiện nghiêm chỉnh những quyền căn bản cho mọi người dân, tất những người làm chính trị và cầm quyền phải quan tâm cùng lo lắng đến việc giúp đỡ và tạo những phương tiện, tạo các điêu kiện để nhân quyền được thực thi toàn hảo.Có nghĩa là Nhà Nước quan tâm đến các vần đề giáo dục, nâng cao trình độ dân trí, tạo các điều kiện về kinh tế và xã hội. Đi vào thực tế, Chánh Phủ quan tâm đến chất xám của Quốc Gia, là tạo thêm thời gian đào tạo các chuyên viên cùng các sinh viên trong các nghành nghề khoa học kỹ thuật, kinh tế, y tế, khoa học nhân bản và nghệ thuật, nâng cao đời sống tiện nghi cho dân chúng, đặt lại vần đề quyền lợi trong các ngày nghỉ lễ và nghỉ hè, thời gian tự do, các phúc lợi và huê lợi của người dân , vần đề an sinh và bảo hiểm sức khỏe của người dân v.v. Đáng buốn và tủi hổ thay cho Đất Nước! Những điều chúng ta nói đây, hầu như tập đoàn phỉ quyền Hà Nội và cái Đảng gian phi của chúng chẳng lo nghĩ và chẳng quan tâm đến. Chúng chỉ lo tranh nhau cướp đoạt ruộng vườn, đất đai, tài sản của dân thì hơn người.Chúng ăn chận, ăn bớt các khoảng tiền viện trợ của các Nước bạn giúp cho Việt Nam xây dựng kinh tế và phát triển Đất Nước.Bằng chứng như vấn đề giáo dục, thì chúng cũng có bằng cấp gỉa, là bằng cấp mua bán.Cả cái bằng Thạc Sĩ và Tiến sĩ của chúng tự hào cũng là giả, toàn là bằng mua bán và chaỵ chọt, là bằng hối lộ và hăm dọa.Chủ tịch Nước, Tổng Bí Thư Đảng, Thủ Tướng, một câu tiếng Anh, Tiếng Pháp nói còn ấp a ấp úng như cà lăm. Nhiều cán bô cấp cao, nào khoe rằng hai ba bằng Tiến sĩ, Thạc sĩ, phó Tiến sĩ, thế nhưng một chữ tiếng Anh, tiếng Pháp cắn không ra.Vì vậy làm sao mà Đất Nước phát triển theo kịp đà tiến của nhân loại thời nay? Chúng chỉ tài ba, tháo vát tranh đua ăn hối lộ, thông minh chạy chọt tham nhũng thì hơn người và tài giỏi nhất thế giới. Tài giỏi ăn hối lộ và tham nhũng đến được đoạt giải “quán quân” của dân Nhật, chánh phủ Nhật Bổn và các nhà báo của họ phát cho cái bằng “sơn son mạ vàng” với ba chữ khắc đậm nét : “đồ giòi bọ” .

  Không biết tập đoàn phỉ quyền Hà Nội và cái Đảng gian phi Việt gian của chúng hảnh diện và “nở mày nở mặt” vênh váo ra sao với quần chúng và thiên hạ hỉ? Khi chánh phủ Nhật cấp cho chúng cái mảnh bằng “tiến sĩ giòi bọ”, nhờ xuất chúng về tài phát minh ăn hối lộ và tham nhũng số một của thế giới này. Riêng chúng tôi, những người Việt quốc gia, thì cảm thấy đau không thể tả! Đau như người ta cắt xé tim gan mình vì câu nói có tính cách nhục mạ công khai này trên báo chí, và tầm ảnh hưởng lời nói đò lan rộng trên thương trường quốc tế.Thực như ông bà ta nói “bút sa thì gà chết”.Do đó Chúng tôi xin phân tích ý nghĩa của ba chữ này “đồ giòi bọ”, mà dân Nhật và chánh phủ Nhật Bổn muốn ám chỉ sự khinh bỉ của họ bên trong ba từ ngắn gọn này.Tại sao họ nặng lời với tập đoàn phỉ quyền Hà Nội và cái Đảng gian phi của chúng như thế?Họ bất chấp một thứ ngôn ngữ lịch thiệp của ngoại giao có tính cách quốc tế, để thẳng thừng mắng vào mặt những “đỉnh tối trí tuệ” đồ đệ Hồ Chí Minh như vậy? Lý rằng Chánh phủ Nhật đã quá am hiểu cái lối “lật lòng, gian xảo, lừa bịp, lường gạt, ăn cướp, ăn giựt, vu khống, du côn, thảo khấu, khủng bố” của phỉ quyền Hà Nội.Chúng không hẳn hành động như thế với dân Việt mà cả các Nuớc bạn, trong đó có Nhật Bổn là nạn nhân của phỉ quyền Hà Nội. Đúng rằng Hà Nội chỉ giỏi cướp đoạt, ăn hối lộ, tham nhũng, ăn cướp của dân, của thiên hạ …Vì thế, dân Nhật và chánh phủ Nhật cho rằng phỉ quyền Hà Nội là loại ăn bẩn nhất thiên hạ.Đã sống bẩn và ăn bẩn như thế thì chỉ có loại giòi bọ.Vì chúng sống và kiếm ăn ở nơi các đống phân, bất kể là phân nào, phân trâu bò, gà vịt, hay là nhà xí, cầu tiêu. Mấy chữ ngắn gọn “đồ giòi bọ” đã nói lên bản chất của những tên Việt gian cộng sản.Nói đúng cái cá tính ăn bẩn, sống bẩn của cái tập đoàn phỉ quyền Hà Nội và cái Đảng gian phi của chúng. Mấy chữ ngắn gọn chúng bay là “đồ giòi bọ” như môt thông điệp nhắn gửi các người dân Việt Nam còn nỗi đau của Quốc  Sỉ và Quốc Thể, còn tự trọng, và các bạn quốc tế còn chơi trò “đu giây” với loại “giòi bọ” này, thì nên xa tránh chúng hay hơn là tiêu trừ chúng đi. Bởi để cho loại “giòi bọ” này sống chỉ mất vệ sinh, và có thể phát sinh những bệnh “dịch” chết người.Tốt hơn và vệ sinh hơn cả, là phải diệt trừ cái loại “giòi bọ” sống bẩn, ăn bẩn này như người dân diệt dịch “cúm gà” hầu thiên hạ khỏi lây bệnh va được sống an lành

    Như chúng tôi đã nói các vi phạm nhân quyền cũng như các tội ác của tập đoàn phỉ quyền Hà Nội đối với dân Việt, và các hành động làm mất Quốc Thể và Quốc Sỉ đối với Dân Tộc. Cũng như với bao nhiêu hành động sai trái vô luân, phi đạo đức và vô nhân bản của chúng đã làm cho Đất Nước trở nên nghèo đói, ngu dốt, bất công, tham nhũng, hối lộ.Vì các điêu chúng làm này thành một tình trạng kiệt quệ quốc gia cũng như làm giảm bớt tài năng làm việc và xây dựng cho quốc gia thăng hoá. Do thế, chúng tôi xin các nhà làm chính trị, các nhà tranh đấu cho nhân quyền, cùng các vị lãnh đạo các tôn giáo phải biết tranh đấu để tiêu trừ, loại bỏ hay tìm cách tiêu diệt những cản trở này mới có thể thực thi hóa nhân quyền cùng các quyền căn bản hầu cho quốc gia mới thăng tiến, có thể cất cánh bay cao được.Vì thế, vấn đề luật pháp cũng như quyền lợi của người dân, thì Nhà Nước phải có trách nhiệm, có bổn phận bảo đảm cho người dân có những điều kiện thông thường nói trên, để người dân có thể tạo được một đời sống sung túc, bình an, và trổ nở những năng tính của mình cùng cảm thấy đuợc đời sống hạnh phúc.

    Qủa thực khi người dân tạo được những hoa trái hạnh phúc cho mình tất đẹp biết bao! Có nghĩa từ sự đào tạo và thiết tạo cho đến việc các thể chế chính trị-xã hội cùng nhau tôn trọng dân chúng – Như thế lý do thực hiện các quyền luật xã hội là nhiệm vụ toàn diện của các cộng đồng chính trị cùng nhà cầm quyền, nó tự đòi hỏi mình phải có công tâm và công minh. Điều này cho chúng ta suy ra về sự phát triển của các quốc gia tân thời, các quốc gia có hiến pháp và luật pháp trên đà canh tân, thì không thể có cảnh làm chính trị, nhà cầm quyền mà thường vi phạm luật pháp, chúng ta gọi là công lý của pháp luật (chỉ có tập đoàn giòi bọ của phỉ quyền Hà Nôi mới thường vi phạm luật pháp như cơm bữa).Vì bổn phận  của người cầm quyền và lãnh đạo quốc gia, là thực thi chính trị một cách công minh theo công tâm.Bởi thế, chúng ta biết rằng những quyền lợi xã hội của người dân đã trở nên một phần toàn diện trong lãnh vực cầm quyền chính trị.    

 

 IV. CÔNG BẰNG HAY CÔNG TÂM LÀ ĐỨC TÍNH CỦA NGƯỜI LÀM CHÍNH TRỊ

 

   Qủa khái niệm về công bằng hay công tâm được nói ở đây, là khái niệm công bằng trong ý nghĩa khách quan và mục đích của nó. Có nghĩa công bằng hay công tâm là tư tưởng và tiêu chuẩn tối thượng của các định chế và thể chế, đáng cho chúng ta quan tâm nhất trong xã hội-chính trị. Nhất là, những mục tiêu công bằng, công minh của chính trị thường quan hệ đến lãnh vực quyền luật: như Lập Pháp, Tư Pháp và Hành Pháp.Những công việc của các cơ quan này phải thể hiện công tâm, liêm chính như tư tưởng luật pháp đã đề ra.Ba cái quyền hành tách biệt này, chúng ta thấy phỉ quyền Hà Nội gom lại trong một số người có quyền lực trong “Bộ Tà Trị” của cái Đảng gian phi của chúng. Vả nữa, còn có những quyền luật và giá trị khác đuợc khải lộ cho nền tảng xã hội chính trị, như vấn đế ổn định an ninh, sự hợp lý, sự công hiệu và sự giàu có tài nguyên quốc gia v.v. Nhưng tựu trung, chỉ có công minh chính trị là tiêu chuẩn luân lý cho những lề luật của việc sống chung và xây dựng quốc gia thăng hóa.

    Khác hẳn sự công bằng khách quan, là công bằng như tư tưởng của luật pháp, thì sự công chính trong ý nghĩa chủ quan là một tính chất con người, là sự công bằng như nhân đức.Sự công bằng như nhân đức là tính chất liên quan đến tha nhân. Trái lại, như tình bạn, tình yêu, lòng tốt, thì công bằng và công minh không dựa trên cái dễ cảm, dễ mến, cũng không dựa trên cái tình thương riêng của mình.Cũng thế, công bằng và công minh không chỉ là hành động đúng. Ngược lại, sự công bằng chủ quan đòi hỏi chúng ta thực hành những hành vi chân chính.Chúng ta biết thực hành những hành vi đơn giản đó, vì những hành vi này là chân thật, không trái lương tâm, đạo lý để làm mất công bằng trong xã hội ta sống.Thực thế, chúng ta hiểu rằng khi ta tạo nên những hành vi bất chính, sẽ là điều nguy hại cho xã hội và gây ung thối cho quốc gia: “thượng bất chính thì hạ tất loạn”. Đây là cảnh hiện thực và cụ thể đau khổ của dân chúng Việt và Đất Nước Việt do lớp người thiếu học thức và kém suy luận của phỉ quyền Hà Nội, đã cướp quyển trị nước của dân Việt Nam. Vì thế, họ đã đưa dân tộc đến bờ vực thẳm tồi tệ về phương diện tinh thần, cũng như sự khánh kiệt của quốc gia cùng làm giảm đi các năng lực sáng tạo của người dân Việt.

    Chúng tôi biết ngoài ra cũng có sự công bằng như nhân đức, ví dụ như trường hợp mà người ta không thể nghiệm việc nhầm lẫn hay lường gạt, vì họ có cái may mắn thông minh hơn người khác.Vả lại, cũng có thêm sự công bằng khách quan ngay lúc luật pháp có lỗ hổng, đó là những giới hạn của phán đoán. Hay nữa, chúng ta thấy trong những trường hợp mà sự chấp hành những quy tắc luật pháp có sự bấp bênh, như không được minh bạch và trong sáng lời văn trong các khoản luật của Hiến Pháp cũng như trong các Bộ Luật: Hình Luật, Dân Luật v.v. Cụ thể, trong các Bộ Luật của phỉ quyền Hà Nội không rõ ràng, nói một đàng làm một nẽo tuy tiện theo lệnh của Đảng gian phi muốn.

    Đẹp thay sự công chính như một nhân đức của mọi người dân và giai cấp lãnh đạo chính trị, là hàng rào bảo vệ an toàn rất quan trọng chống lại sự suy vong của Dân Tộc và Quốc Gia.Cũng thế, chúng tôi đề nghị các nhà lãnh đạo và cầm quyền sau này (hậu cộng sản) cần ý thức tránh việc tạo nên những bất công của xã hội, vì có thể đem đến lại tình trạng tham nhũng, mãi lộ, cảnh bạo động và sự suy đồi đạo đức luân lý. Do thế. chớ gì mỗi một người dân dù họ là ai tồng thống, thủ tướng, nghị sĩ, các chức sắc cấp cao của tôn giáo, người dân bình thường,  đều có  bổn phận với sự công bằng và công tâm đối với chính mình và xã hội. Bởi việc thực thi công bằng cho tha nhân, là để bảo toàn cùng giữ gìn sự công chính và ổn định hay bình an cho quốc gia phát triển mọi mặt: như kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hóa nhân văn, nghệ thuật vv.Nhất là quốc gia thăng hóa, đuợc xem là Rồng Việt cất cánh bay cao trong bầu trời xanh của Vũ Trụ bao la này.

   Khác hẳn với sinh vật, con người làm chủ mình là dựa vào những nền tảng, nguyên tắc, định chế của quốc gia có Hiến Pháp và Luật Pháp minh chính.Đây là sự làm chủ được mở rộng, nó đòi hỏi các năng tính của chúng ta thừa nhận những đìều do luật lệ và hiến pháp quy định, cũng đòi hỏi chúng ta suy tư, phán đoán và hành động đúng. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng lắm lúc sự làm chủ mình bị hăm dọa bởi các định chế xã hội và chính trị trong một quyền lực bất chính, phi nhân.Nói đâu xa vời, ngay tại quê hương chúng ta, thì bất công, tham nhũng, hối lộ, cướp đoạt, hà hiếp và bức tử dân xảy ra như cơm bữa, cho dẫu vẫn có Hiến Pháp của Nhà Nước Hà Nội đề ra.Thế nhưng, chúng tôi nghĩ các văn kiện Hiến Pháp và Luật Pháp của phỉ quyền Hà Nội không hơn gì một mớ giấy lộn. Vì tập đoàn Việt gian của chúng không bao gờ tôn trọng những gì miệng chúng nói và tay chúng ký vào đó. Đúng như một ngạn ngữ của người Pháp nói “Vous ne croyez pas ce qu’il dit mais croyez ce qu’il fait, Anh đừng nghe những điều nó nói, nhưng hãy tin việc nó làm”.Có thể từ ý nghĩa câu nói sâu sắc ý vị này mà ông Nguyển Văn Thiệu nói lại câu để đời cho dân Miền Nam còn nhẹ dạ, chơi trò hàng hai, kiểu ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản với Việt gian cộng sản đại ác: “Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà thấy những việc chúng nó làm”. Thế đó, người ta nghĩ rằng không bao giờ trục xuất các sự trái lỗi, gian ác như một căn bệnh trấm kha ăn vào trong xương tủy huyết thống, tim óc của những tên Việt gian cộng sản trong một xã hội chính trị man rợ của phỉ quyền Hà Nội (on ne peut pas jamais exclure la rechute dans une barbarie socio-politique). Thực cảnh đó, chỉ cầu mong có một thể chế mới, bằng sự công chính, công minh như nhân đức của con người mới có thể hoán cải các sự lỗi phạm đó thành một niềm hy vọng sáng sủa hơn. Để rồi từ đó, mở ra một chân trời dân chủ và nhân quyền, dân quyền, tự do cho mọi người dân Quốc Nội, cũng như người Việt Hải ngoại có cơ hội, phương tiện cùng nhau hợp tác để đưa Đất Nước và Dân Tộc đến hùng cường và thịnh vượng như người ta!

   

V. SỰ TỰ DO

 

   Nói đến sự tự do, thì tự do tương đương như là sự quyết định.Ý niệm này đuợc xem là chìa khóa của tư tưởng triết học và đạo đức chính trị (éthico-politique) thời đại.Tự do đây có nghĩa là phủ nhận sự độc lập đối với tất cả cái gì khác với sự quyết định (như tự nhiên, xã hội, chính trị), và xác nhận rằng con người tự chính mình quyết định và hành động theo ý tưởng trong nội dung của hành vi mình quyết định ấy.

   Theo sự học hỏi, chúng tôi được biết nhờ qua lãnh vực văn hoá Hy-La (Gréco-Latin) mà người Pháp, Anh, Mỹ, Đức v.v, đã dùng đến từ ngữ và ý niệm tự do. Do đó ý niệm tự do (liber, libre, free, frei) đã có một dấu chỉ và có ý riêng trong lãnh vực pháp chế xã hội (socio-juridique) đặc thù vào thời ấy.Vào thời xưa đó, họ phân biệt những con người với tư cách là thành phần, hội viên của cộng đồng, qủa loại người đặc biệt này được sống tự do khác hẳn với người nô lệ. Cũng theo xã hội thời ấy, thì những người tự do có được độc lập với một quyền ưu đẳng, họ sống khác hẳn với người ngoại kiều, là những người thuộc các quốc gia bị họ đô hộ và thống trị.Người tự do được nâng đỡ mọi mặt, được bảo vệ do luật pháp đề ra, còn các người nô lệ, thì họ bắt phục dịch và lao động các công việc nặng nhọc, khổ sai.

   Trải qua giòng thời gian và lịch sử, nhờ chịu ảnh hưởng của các trường phái khắc kỷ (stoiciennes), ảnh hưởng của Do Thái giáo và Kitô giáo,cũng như chịu ảnh hưởng của các tư tưởng triết học và những phong trào chính trị thời cận kim…Để từ đó, sự tự do được xem trong một diễn tiến phổ quát  hơn, như là một tất yếu của con người và tất cả các cộng đồng chính trị, quốc gia: “l’homme “libre” est l’homme qui n’est pas esclave ou prisonnier, người “tự do” là người không nô lệ hay tù nhân”.

   Chúng ta rõ ý nghĩa tự do được duy trì cho đến thời đại chúng ta: đầu tiên là những quyền tự do chính trị (les libertés politiques). Có nghĩa các quyền tự do chính trị này là những quyền luật được công nhận qua các văn kiện Hiến Pháp.  Những luật này làm giới hạn quyến hành của chánh phủ: như tự do lương tâm, tự do ngôn luận và báo chí (truyền hình và truyền thanh), tự do hội họp và kết hội hay đảng phái, tự do tôn giáo và niềm tin, tự do buôn bán (ngoại trừ những đồ quốc cấm), tự do niềm tin v.v., được thực hiện ghi rõ trong văn bản Hiến Pháp quốc gia.Còn chánh quyền (government, gouvernement thì thực thi các quyền tự do này theo ý dân, bởi họ là những người đại diện Hành Pháp, Lập Pháp được dân bầu ra. Do thế, chánh quyền là nhũng người đại diện của dân để lo bảo vệ các quyền căn bản và quyền lợi và luật lệ này cho mọi người dân. Còn lại sự tự do phổ quát, thì thể hiện hai kiểu thức sau: như sự quyết định về hành vi mình gọi là sự tự do hành động, và như sự tự do quyết định của ý muốn gọi là ý muốn tự do hay tự do ý chí (liberté d’action et liberté-arbitre).

 

5.1. TỰ DO HÀNH ĐỘNG

 

   Vấn đề của sự tự do này, thì đây là một sự cảm biết do những khả năng của trí tuệ và hành động.Có nghĩa là một không gian luân chuyển trong ý muốn của chúng ta và trong cái ý muốn đó, chúng ta chỉ có thể chọn lựa một sự nào đó chúng ta thích.Sự tự do, nghĩa nói ở đây là tác động (có hiệu lực); nhưng cũng có nghĩa là đừng tác động, hay có thể chúng ta thực hiện điều này hoặc điều nọ, gọi là tự do chọn lựa (liberté de choix).Tự do này có hai trạng huống, hình dạng:

    a) Phần đầu, sự chọn lựa của chúng ta tác động theo trí năng của mình, qua đó bắt đầu khai triển cho ta một diễn trình hay biểu tượng của các đối tượng hay các mục đích về sự hiện hữu của đối tượng ta muốn.Để rồi từ đó, làm sao chúng ta tạo các phương thức đạt đến, và hành động của ta đó không trái ngược với thế giới bên ngoài. Có nghĩa là trí năng chúng ta làm việc đúng theo các biểu tượng về diễn trình đó như dự định và trù định.Vì vậy tự do như thế, có nghĩa là khả năng ước muốn vài việc nào đó, hành động một cách tự nguyện và ý thức của chúng ta.

    b) Phần hai, sự tự do có nghĩa là các khả năng riêng như nói trên, mà những hoàn cảnh chính trị cho phép chúng ta thực hiện điều ta muốn.

    Chúng tôi nghĩ sự tự do hành động không là một năng tính bẩm sinh, nhưng là một tiềm tính tác động để thực hiện, vì điều này không thành đạt tất cả cùng một cấp độ. Một con người càng thêm tự do hơn khi họ có một tự do cá thể hành động. Điều tự do này tùy thuộc vào những điều kiện thể lý, tâm lý, chính trị và kinh tế v.v..Cũng thế, tự do hành động là một ý niệm so sánh: như đứa bé, nguời bệnh, tật nguyền, người nghèo, kẻ yếu nhược có nhiều giới hạn tự do hơn người trưởng thành và lành mạnh hay người giàu có tài sản và kẻ quyền thế.Với một cách khác, người ta có nhiều tự do hơn khi họ có nhiều cảm biết, cảm thấy cho mình, nhờ trí thông minh, nhờ học hỏi và kinh nghiệm. Hay nữa, chúng ta biết rằng có một sự luân chuyển thay đổi của hành động, cũng như chính do quyết tâm cùng súc mạnh và ý chí, thì con người cao cả hơn, như họ có thể chế ngự các đam mê và xúc động của mình: chẳng hạn như các tu sĩ, họ chế ngự được các đam mê trần tục.Cũng thế, các vị từ bỏ những ham muốn của con người như danh vọng, tiền tài, sắc dục v.v., nhất là, biết từ bỏ ý riêng của mình. Qúy ngài là những người đạt tự do hơn ai hết. Thêm nữa, người dân được tự do hơn, khi họ không chịu sự thống trị và áp chế của một thể chế chính trị phi luân lý và đạo đức cùng nhân bản như phỉ quyền Hà Nội hiện nay.

   Thực, một thể chế quốc gia hay cộng đồng chính trị có tự do hành động của mình, là khi cộng đồng và quốc gia đó không bị lệ thuộc hay nợ nần của các quốc gia bạn.Vì thế, cảnh phỉ quyền Hà Nội và Đảng gian phi của chúng đày dân đi lao động khổ dịch ở Nga và các nuớc Đông Âu cộng sản trưóc đây để trả nợ họ viện trợ cho chúng. Còn bây giờ thì phỉ quyền Hà Nội cấu kết với bọn tư bản mọi rợ rừng rú kêu gọi các anh chị em trẻ đi “hợp tác lao động”, nhưng đúng ra lường gạt anh chị em. Vì khi qua bên các Nước Nam Hàn, Đài Loan, Mã Lai vv. Họ bắt các anh chị em làm việc nhiều giờ, những công việc lao dịch nặng nhọc, thậm chí mỗi ngay phải làm đến 14 tiếng, có khi làm đến 16 tiếng đống hồ ngoài trời lạnh cắt da thịt. Đã khổ như thế, các anh chị em bị hai loại nguời bóc lột máu, mồ hôi và nước mắt lao động cuả anh chị em Việt chúng ta: Đó là loại tư bản rừng rú ở Nam Hàn, Đài Loan, Mã Lai vv. Chúng tán tận lương tâm trả những đồng lương rẻ mạt, vắt cạn sức lao động của anh chị em dân Việt chúng ta đến cùng. Khốn nạn hơn nữa, anh chi em bị tập đoàn phỉ quyền Hà Nội và Đảng gian phi của chúng ăn chận, lấy bớt và cướp đi những đồng tiền mồ hôi, sức lao động máu và nước mắt của anh chị em đổ ra. Những đồng tiền đó có thể thêm trong chén cơm của mẹ gia có miếng thịt, và bát cơm của cha có thêm con cá kho. Hay nữa, những đồng tiền đó giúp cha mẹ có thêm được cái áo che thân khi đông về buốt lạnh ở quê nhà! Thêm nữa, những đồng tiền chắt chiu bằng chính mồ hôi, máu và nước mắt của anh chị em, là giúp thêm cảnh cơ cực cho vợ và đàn con nhỏ ở nhà, có được mái nhà che nắng và che mưa.Thiên Hoàng ơi! Xin Ngài ngó xuống xem dân chúngViệt khổ đến tận cùng  cái khổ của kiếp người.Lầm than đến thế là cùng!Địa ngục ở đâu? Ở ngay chính quê hương của chúng con rồi. Chúng con cảm thấy nhục quá, nhục với thiên hạ Năm Châu trong thời đại văn minh này.Vì anh chị em chúng con vẫn còn đi làm lao động như một thứ “nô lệ” thực dân mới bị người ta bóc lột mồ hôi, máu và nước mắt với những đồng lương trả không tương xứng, rồi con bi cướp đoạt đồng lương còm cỏi làm ra đó.Không phải mưa dầm, mưa dề trên Đất Nước Việt qua ngày này tháng nọ, nhưng là máu, nước mắt của ông bà, cha mẹ, cô chú, anh chị em chúng con chảy dầm, chảy dề từng giây phút, từng năm này qua nặm nọ trong lòng không gian Đất Việt chúng con, và lan đến thấm vào con tim con đây!

   Những thực trạng chảy mồ hôi máu và nước mắt máu của dân chúng và anh chị em chúng con thường xảy ra hằng giây, hằng phút mỗi ngày … Thế nhưng, trong lúc đó thì tập đoàn phỉ quyền Hà Nội và cái Đảng gian phi của chúng cứ rêu rao vênh váo tung hô, khuyếch đại và hét to khàn cả cổ rằng “không có gì quý hơn độc lập tự do…Đất Nước ta đã được đổi mới”.Hỡi ôi “độc lập, tự do, đổi mới” theo cái Đảng gian phi Việt cộng và cái Nhà Nước phỉ quyền Hà Nội, nghe sao đắng cay và chua chát quá! Xin phép người đọc, cho chúng tôi thổ lộ đôi lời ở đây.Thực cái ý nghĩa cao cả của tự do và độc lập mà tập đoàn Việt gian cộng sản bởi kém học thức, vì ngu dốt trong sự hiểu biết về việc làm chính trị và cầm quyền. Thế nên, Đất Nước Việt càng ngày càng suy vong, dân chúng lầm than đói khổ trăm bề. Bởi thế, là một quốc gia chính trị thực sự tự do khi mà quốc gia không bị lệ thuộc vào những khoản trả nợ này, hoặc đưa dân minh đi làm thuê, làm mướn, và bị bóc lột lao động như chúng tôi đã nói trên.Nhất là, lãnh thổ của quốc gia phải được tôn trọng tối đa, cũng như chủ quyên quốc gia phải đặt lên trên hết. Đất Nước không bị lệ thuộc hoặc chịu áp lực chính trị hoặc kinh tế bất cứ một quốc gia nào, dù họ là cường quốc, thì lúc ấy Đất Nước mới tự hào là một cộng đồng chính tri, một quốc gia tự do đối với các nước anh em. Trái lại, những người làm chính trị, cầm quyền tạo cho quốc gia vở nợ.Còn đất lành, biển rộng,  quần đảo hái ra tiền lại nhưng không đem dâng cho bọn Rợ Hán Bắc Kinh, hầu được chúng cho cái vinh dự làm nô bộc, tay sai của chúng. Còn đối với dân mình, thì phỉ quyền Hà Nội lại bắt sưu cao thuế nặng, như thế chưa vừa lòng, chúng bày ra cảnh cuớp nhà, cướp đoạt ruộng vườn, tài sản của dân chúng.Cái kiểu làm chính trị và cầm quyền thế này, giống như cha ông chúng ta nói chỉ là phường thảo khấu cướp quyền của dân bất chính, thiếu tư cách và nhân phẩm cầm quyền lãnh đạo quốc gia. 

    Từ đó, một quốc gia chính trị thực sự là tự do, khi Nhà Nước thực thi hiến pháp, luật pháp cho người dân của mình có các quyền tự do mà họ muốn như trong truyền thống tự do của con ngươì đã có trước. Có nghĩa đây là các quyền tự do căn bản như là nhân quyền và dân quyền, dân chủ mà chúng ta đã bàn ở phần trên.Quốc gia nên tránh các luật lệ mâu thuẫn trực tiếp, nhưng cũng phải tránh những luật lệ gián tiếp mâu thuẫn có tính cách hiển nhiên bởi các bình luận thuyết, có nghĩa là chế hóa duy ý luận (manipulation idéologie).

   Thế nên sự tự do thực, là ý niệm của tất cả các tự do của con người, được trình bày tỷ mỹ trong các Hiến Chương về những nền tảng tự do có tính cách quốc tế và chung thể cho nhân loại. Đơn cử: các tự do tư tưởng, báo chí, hội họp, buôn bán làm ăn, tự do đi lại trong nước, ra nước ngoài, tự do tư hữu, tự do tôn giáo và niềm tin v.v. Các sự tự do này phải được Nhà Nước duy trì , tôn trọng và bảo vệ. Là Nhà Nước, thì có bổn phận chống lại những ai xâm phạm hay làm nguy hại đến tự do cuả người dân, đến Đât Nước. Chúng ta thấy thường đến từ các âm mưu đen tối của nhóm người độc tài, hay thủ đoạn của các đảng phái chính trị (như kiểu Miền Nam trước đây, chánh phủ Miền Nam đã bị một số dân biểu, nghị sĩ, các nhà báo vv.thiên cộng hay Việt cộng nằm vùng quấy phá).Vì những quyền tự do nói trên cho phép người dân triển nở các năng tính trong đời sống của mình.Vả lại, họ tự cảm thấy được giải phóng, được sống theo những cảm nghĩ và nguồn thở hay khao khát của mình.Thêm nữa, điều hệ trọng, có thực sự tự do thì ngưòi dân mới đóng góp được tất cả các công trình sáng tạo và năng lực làm việc của mình, hầu xây dựng quốc gia giàu mạnh cùng hưng thịnh.Nói cách khác nữa, một quốc gia chính trị là tự do thật khi họ hướng nội theo thể chế tự do của mình như sau:

   – Một chế độ tự do được biểu thị những đặc tính do những luật pháp phổ quát nhân quyền này, và không bởi những việc làm trái luật.

   – Sự chia quyền (la division du pouvoir), đặc biệt là một pháp quyền độc lập (une juridition indépendante), nghĩa là các thẩm phán và tối cao pháp viện.

    – Một quốc hội được dân bầu một cách dân chủ, có ủy nhiệm do dân và kiểm soát theo dõi chánh quyền.

    – Vấn đề quyền lợi, luật pháp, trong trường hợp có ai vi phạm các nền tảng tự do căn bản, thì Nhà Nước phải chống lại các áp bức đó hoặc chống lại các áp chế của quyền thế.

 

5.2. VẤN ĐỀ TỰ DO CHỌN LỰA

 

   Chúng tôi nghĩ rằng đã là một xã hội sống chung, thì người ta thường có hoặc gây nên những cuộc xung đột tranh chấp với nhau của nhóm này đụng nhóm khác, đảng phái này choảng đảng phái kia vv.Bởi thế, Nhà Nước phải bảo đảm các việc trái phép tranh đấu, gây rối loạn làm mất an ninh chung của mọi người. Miền Nam Nước chúng ta duới hai thời đệ nhất và đệ nhị cộng hòa, đã bị một lớp ngưòi đội lớp tôn giáo phá rồi nền an ninh đánh cộng và diệt cộng của Chánh Phủ quốc gia, thảm trạng là Miền Nam đã rơi vào tay cộng sản của phỉ quyền Hà Nội. Do thế, vì nền an ninh quốc gia, vì sự sống của dân chúng, từ đó luật pháp cần thiết hạn chế sự tự do hành động của mọi người.Chúng tôi nghĩ rằng do quyền lợi của dân tộc, và sự sống của quốc gia, thì khi những nhà lãnh đạo tuyên bố Đất Nước lâm nguy hay có chiền tranh với quân thù. Lúc đó, chánh phủ có quyền ra những đạo luật cấp thời kêu gọi ý thức và lương tâm quần chúng, và đánh động lòng yêu nước của người dân, thì chúng ta phải hạn chế những tự do của mình.Không phải viện cớ vì ý thức lương tâm mà ta không nhập ngũ tòng quân chiến đấu.Những cảnh phản chiền, biểu tình chống chiến tranh lúc quốc gia đang đương đầu với quân thù, tất chỉ làm thêm rối loạn và đưa đẩy quốc gia đến bại trận.Chúng ta đã rõ bài học đắt giá Miền Nam Việt Nam và bài học binh lính Hoa Kỳ chiến đấu bảo vệ bình an cho người dân Miền Nam, thì giờ đây chúng ta ôn lại lịch sử: ai đúng ai sai, câu trả lời quá rõ ràng!Thế nên, tự do không phải một hành động mưu đồ chính trị, hay là thỏa mãn tự ái, hoặc nữa ỷ vào các xã hội dân chủ, để nhờ những cuộc biểu tình tuyệt thực, xuống đường bạo động  hầu nổi danh, mưu lợi cho cá nhân mình.

    Lại nữa, ở đâu người ta hiện diện và ở đâu người ta cũng có thể hành động những điều họ muốn, thì quả là ý muốn tự do ấy rất rộng để xác định bởi những điều kiện về thể lý, về tâm lý xã hội ở quốc gia chúng ta sống.Thực vậy, những đa dạng nói trên đây không thể hoài nghi, và lộ cho chúng ta thấy các câu hỏi về tự do để bàn luận thì thật vô cùng.Nhưng tựu trung lại, vì các điều khoản đã được thừa nhận do luật pháp, cho nên sự tự do theo ý riêng muốn làm gì thì làm không phù hợp cho một xã hội chính trị.Bởi do quyền lợi sống chung, nên tự do theo ý riêng phải bị loài trừ. Ví dụ như buôn bán thuốc phiện, giết người, xâm phạm gia cư cùng tài sản của dân bất hợp pháp, trộm cướp, cướp đoạt của công cũng như của tư vv. Phỉ quyền Hà Nội và cái Đảng gian phi cộng sản của chúng đã trắng trợn vi phạm cái luật xâm phạm vào tài sản của dân như cơm bữa.Đó là lợi dụng chức quyền và thế lực đã cướp bao tài sản mồ hôi nước mắt và máu của ngườì dân làm ra. Phỉ quyền Hà Nội và cái Đảng gian phi Việt công cướp ngày, cướp đêm của dân chúng đói rách ở Việt Nam chưa no thỏa. Chúng lại dạy cho đồ đệ của chúng ra nước ngoài ăn cắp, ăn cướp buôn lậu ở xứ người. Mới đây vào đầu tháng hai này tờ báo Yomiuri Shimbun của Nhật đã xác nhận lời khai của tên Phi công Thủ trưởng Đặng Xuân Hợp kể lại đường giây buôn lậu ở Vietnam Airline với cảnh sát Nhật.Cũng như cảnh sát theo dõi đường giây băng đảng trộm cắp của các du sinh và người Việt hợp tác lao động tai Nhật, chuyên ăn cắp các mặt hàng ở các siêu thị Nhật Bản.

   Như ông bà ta nói “cây nào sinh trái nấy, cây đắng không thể sinh trái ngọt được”.Một Nhà Nước phỉ quyền Hà Nội, và một cái Đảng gian phi Việt cộng, làm gì có cái chuyện sinh ra người lương thiện đuợc.Bản chất của chúng là “đầu trộm, đuôi cướp, là loại giòi bọ” như lời nhân gian thường nghĩ về chúng. Lại nữa, thấy cái “cung điện xa hoa” và những vật trang trí củng trưng bày trong cung điện của tên “Trùm đỏ ” Lê Khả Phiêu sang trọng hơn các nhà của những vị nguyên thủ quốc gia Âu Mỹ này. Cái nhà và mảnh vườn của tên Trùm đỏ Lê Khả Phiêu uớc tính khoảng sáu triệu Mỹ Kim.Là “đầy tớ dân” mà chúng ở những căn nhà qúa sang trọng như thế đó!Một người giúp việc nhà luơng tháng nhiều lắm là một triệu đồng Việt Nam. Vậy tiền đâu tên Trùm đỏ Lê Khả Phiêu có được dinh thự sang trọng như thế? Chỉ có tiền ăn cắp, ăn cướp, hối lộ, tham nhũng, ăn chận, ăn bớt chén cơm mồ hôi của Dân làm ra. Điển hình chỉ là một tên cựu Trùm Đỏ cái Đảng gian phi Việt cộng chuyên cướp của dân.Chúng còn hằng ngàn, hằng vạn tên Trùm lớn Trùm nhỏ Đỏ khác nữa, thì chuyện chúng cướp tài sản của Dân là chuyện sự thật, không phải chúng tôi xuyên tạc. Bởi vậy, Đất Nước không trở thành con Rồng cất cánh bay cao lên được với người ta, làm cho người Việt tự hào, nở mày nở mặt với thiên hạ.Còn người dân nghèo, mãi mãi là mái nhà bị dột nước mưa quanh năm ngày tháng, áo thì mặc vá nhiều mảnh, cơm thì bữa đói, bữa lưng vì những tên sâu Dân hại Nước này đây.

   Do đó, tự do chính trị và tự do ý muốn không vốn tại bằng việc hoàn toàn không xác định, hoàn toàn vô bằng cớ. Nhưng là trong việc xác định thực trạng thứ hai, có nghĩa là trong sự kiện làm ra luật riêng (độc lập), sau khi các khoản luật đó đã đuợc người dân thừa nhận để tạo nên một cộng đống chính trị, một quốc gia chính trị, thì được gọi là “tự do chính trị”; hay tạo nên cho người dân,  thì được gọi là “tự do luân lý”.Có nghĩa là vì an ninh chung của quốc gia, quyền tự do của chúng ta không được xâm phạm vào những quyền tự do của người khác. Đơn cử không được gây ồn ào, tiếng động lớn về đêm, nhất là nơi chúng ta cư ngụ,vì ai cũng cần nghĩ ngơi và ngủ để bồi duỡng thể xác và tâm linh sau một ngày làm việc mệt nhọc.

 

5.3. TỰ DO Ý MUỐN (LE LIBRE-ARBITRE)

 

    Khi nói đến tự do ý muốn, đó là nguyên nhân của khả năng, khởi đầu tự mình, là trạng thái của sự việc. Tự do ý muốn là quyền chọn lựa hay không muốn chọn lựa một việc, một hành động, một sở thích nào đó mà người ta muốn làm, muốn thực hiện. Tự do ý muốn là nguyên khởi của ước muốn của mình – chỉ là như thế-và không là gì khác. Và con người nghĩ rằng lúc họ sử dụng các tự do ấy, là để hướng dẫn các hành động của mình với sự ý thức. Điều đó không có nghĩa là người ta có thể làm cho thỏa mãn các điều kiện tất yếu của mình, như thể chiều theo thực tại cái điều theo ý họ muốn. Qủa những điều kiện hiện hữu này không như là những gì của sự việc tất yếu một cách nhất định. Vì thực con người hiện hữu với những hành động, những tác động qua tương quan truy tưởng, thì họ có thể đặt tên cho hành động đó, họ nghĩ tuởng, nhận ra và thưởng thức các việc làm ấy trong ý nghĩa sáng tạo và các vật sản xuất ra. Hay nữa, họ loại bỏ và làm việc biến đổi những tiến trình giáo dục trị liệu, giáo dục chính trị cùng các vấn đề giáo dục khác. Sự quan hệ truy tưởng này được gọi là lý do thực tiễn (raison pratique) hay ý muốn tự do (volonté libre). Tự do ý muốn không như người ta thường giả thiết, là tư tưởng trong một diễn tiến theo kinh nghiệm,  hoặc là một kinh nghiệm có được, và tự do ấy là một độc lập của thực thể tâm linh (une substance spirituelle indépendante). Trái lại, tự do ý muốn là tiến trinh siêu nghiệm được xem là một tương quan truy tưởng, được biểu lộ trong một cách thức định vị cụ thể. Tự do siêu nghiệm chỉ tích chứa trong ý muốn và ước muốn, tự do siêu nghiệm không đơn giản tất định như ta tưởng. Đầu tiên ý muốn phải bày ra, tích chứa trong một quyết định nguyên khởi của hiểu biết và nhận ra. Ý muốn chỉ hợp với sự hiểu biết này là một hành động tích chứa tự do.Từ thực tế và sự kiện này, thì sự tự do đặt mình (hỏi mình) bởi tiếng vâng và đồng ý trước một sự tự do khác. Bởi khi nhận ra sự tự do ấy cũng là sự tự do ta chọn, ta muốn. Sự tự do có một đặc điểm thông đạt và giao dịch, cũng như có một ý muốn để thông truyền cho ta cùng mọi người. Do đó :

    a) Một hành động là tinh thần tự do hay đạo đức, nếu như hành động tự do đó không tuân phục vào những phương châm chủ quan hay chủ thuyết sai lạc không tưởng (như chủ thuyết Marxisme, Maoisme vv.), nhưng là vào những quy tắc và đạo luật khách quan, những chủ thuyết đạo đúc, nhân bản…

    b) Một cộng đồng con người hay một cộng đồng chính trị quốc gia là tự do, khi mà những quan hệ bên ngoài đời sống xã hội của các phần tử công dân cũng như giai cấp lãnh đạo, cầm quyền, guồng máy Nhà Nước không có hành động những điều phi pháp, phạm pháp, không có cưỡng hiếp luật pháp và hiến pháp như kiều tập đoàn phỉ quyền Hà Nội và cái Đảng gian phi cộng sản của chúng thường làm. Cũng thế không có chuyên chế, chuyên quyền, độc đoán, độc tài, dùng luật rừng với nhau hay với dân chúng như Nhà Nước phỉ quyền Hà Nội hằng luôn làm thế. Trái lại, người dân hay chúng ta hoặc là giai cấp cầm quyền đều hành động bởi một môi sinh luật pháp phổ quát có tính cách nghiêm túc và chính xác, vả nữa cùng tự trọng và tôn trọng nhân vị và nhân quyền và dân quyền.

   Qua đó, thì sự tự do vốn tại bằng một hình thái luật lệ thích hợp với ý niệm của lý do chân chính. Có nghĩa sự tự do theo ý này là sự hổ tương của những hạn chế, và cùng một thời gian bảo đảm chống lại sự vi hiến, phạm pháp, mà mọi người vì ý nghĩa hàm súc của sự tự do hành động, họ có thể gây rối loạn và bất an cho đời sống cộng đồng quốc gia. Do đó, tất cả các luật lệ và luật pháp khi làm ra phải được sự ưng thuận chung của quốc hội là cơ quan lập pháp, hay dân hội theo thể chế dân chủ trực tiếp.Không có kiểu nghị gật, nghị theo, nghị ba phải của Quốc Hội bù nhìn cộng sản Viêt. Họ là nô bộc, công cụ tay sai của Nhà Nước Phỉ Quyền Hà Nội, hằng luôn tuyệt đối làm theo lệnh Đảng gian phi của chúng. Dù biết việc đó là hại Nước, giết Dân, thì chúng vẫn cúi mặt làm theo lệnh.

   Chúng tôi thiết nghĩ, trước hết sự tự do chính trị không vốn tại trong một tối thiểu của các thể chế, và trong tối đa của các tự do con người. Trái lại, sự tự do chính trị là trong việc bình đẳng và hổ tương của các giới hạn, cùng bảo đảm được cái tự do ý muốn. Chúng ta có thể gọi tự do là một hệ thống các luật pháp và quyền lợi, cho phép mọi người dân sử dụng các quyền lợi của sự sống : như quyền tư hữu tài sản, quyền tự do tư tưởng, ngôn luận và báo chí, quyền tự do niềm tin và tôn giáo, quyền tự do buôn bán và đầu tư, quyền tự do lập hội và đảng phái, tự do hội họp và đi lại vv. Hầu như các tự do này không được hiện hữu trong cái thể chế xã hội chủ nghĩa vô loại của phỉ quyền Hà Nội. Tiếp đến là những bổn phận phụ thuộc được công khai tuyên bố dưới dạng thức là luật cấm : như cấm trộm cắp, buôn bán lậu, cấm mua bán thuốc phiện, cấm chạy xe vượt đèn đỏ hay vượt qúa tốc độ, qúa cây số ấn định, cấm giết người và hiếp dâm, cấm đào ngũ, cấm xâm nhập vào nhà dân bất hợp pháp vv.

  Theo nghĩa rộng của tự do thì vô cùng, nhất là trong ý muốn của con người thì không thể tưởng được. Nhưng tựu trung lại, để qụân bình đời sống và ý tưởng, chỉ chính thức là tự do khi chúng ta hành động không làm cản trở hay nguy hại đến tự do của người khác cùng cộng đồng quốc gia. Chẳng hạn như ông Phạm Văn Đồng, Lê Khả Phiêu, Phan Văn Khải, Nông Đức Mạnh Và Nguyền Minh Triết cùng Nguyền Tấn Dũng và tập đoàn Việt gian bán Nước của chúng hiện nay. Đó là chúng đã làm một hành động càn gở nguy hại đến người dân Việt Nam và Đất Nước Việt, là ký giấy cho không và nhượng không cho bọn Rợ Hán Bắc Kinh hai quần đảo Trường Sa Hoàng Sa, Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc và bao đất đai biển cả hái ra tiến của Quốc Gia chúng ta. Đây là một cái tội tầy trời đối với Tố Quốc của phỉ quyền Hà Nội. Nếu chúng ta còn tự hào là ngời Viêt Nam, con cháu Hai Bà Trưng, Vua Ngô Quyền, Đức Trần Hưng Đạo,Vua Lê Lợi, Vua Nguyễn Huệ, thì không thể nào, không thể nào « cúi mặt nhằm mắt lại » bỏ qua chuyện để cho chúng ngang nhiên làm càn như thế này : để rồi Dân Việt chúng ta không còn Đất còn Biển mà ở mà sống. Sơn Hà đã nguy biến, bọn tay sai và bọn quân sư Rợ Hán Trung Cộng đang ở trong Đất Nước thân yêu chúng ta. Chúng đã ăn sâu vào máu huyết xương máu Mẹ Việt Nam rồi. Ngày Mất Nước Việt sẽ không biết khi nào. Do thế, còn Nước Việt là còn ông bà cha mẹ, vợ con con cháu chúng ta, khi mất Nước Việt là chúng ta mất hết. Vì vậy, với sự sống còn của tiền đồ Dân Tộc, của Tổ Quốc chúng ta, chúng ta nhất tâm đống lòng  đứng dậy !Tay trong tay đoàn kết lại, cùng quyết chí, một lòng, một ý để tranh đấu giải thể cái chế độ phỉ quyền Hà Nội bán Đất bán Biển cuả Đất Nước chúng ta, mà Cha Ông  đã có công dựng nên và bảo tồn cho con cháu thừa hưởng. Nhờ đó, người dân Việt chúng ta mới có cơ hội dành lại được những mảnh đất, biển cả và các quần đào chúng ta đã mất. Xin nhớ cho rằng con chim, con cá, cây cỏ, cành hoa đã bao năm sống trong mảnh đất, trong nguồn nước của Đất Việt chúng cũng có hơi ấm tình người của Dân Việt ủ ấp chăm sóc chúng. Nay chúng bị bọn phỉ quyền Hà Nội vô đạo đức, vô tình nghĩa đồng bào và dân tộc, tán tận lương tâm bán chúng cho bọn Rợ Hán Bắc Kinh khát máu hung tàn. Vì thế, làm sao các cây cỏ, con chim, con cá và cành hoa Nước Việt đó không đêm ngày than thở nhỏ lệ mong chúng ta giải thoát cho chúng.

 

VI. TẠM KẾT LUẬN

 

   Chúng ta đã cùng nhau thảo luận một vài tư tưởng cho vấn đề: « Xây Dựng Những Giá Trị Căn Bản Cho Xã Hội-Chính Trị ». Thật sự, bất cứ cộng đồng chính trị xã hội, quốc gia nào ở trên trái đất này, thì các nhà cầm quyền đều phải nghĩ cùng quan tâm đến những quan niệm phổ quát về luân lý đạo đức của Hiến Pháp và Luật Pháp, hy vọng quốc gia ấy mới có được no ấm, bình an, hạnh phúc và thăng hóa. Những luật pháp, hiến pháp hay các sự tự do, việc công tâm, công minh và công bằng cũng chỉ là những luật căn bản, việc tất yếu của điều kiện làm người sống chung trong một cộng đồng quốc gia. Do thế, chúng tôi nghĩ rằng chỉ đưa ra một vài khái niệm đơn thuấn, một vài khắc khoải và suy tư của chúng tôi trong cảnh sống đau khổ, lầm than hiện thực của đống bào Việt, hầu chúng ta hay chinh họ có thể giúp nhau và hổ trợ nhau tự giải cứu lấy mình, lấy gia đình và đống bào mình.Như thế, chúng tôi mong thay những vị làm chính trị, những đảng phái đang tranh đấu, đang nỗ lực mong sớm giải thể chế độ phi nhân và phỉ quyền Hà Nội này, hầu khôi phục lại Đất Nước Việt sau thời hậu cộng sản. Thực chúng tôi mong muốn chúng ta cố gắng tránh cho Đất Nước không còn tái diễn đi vào vết bánh xe của đổ nát nữa. Đủ rồi, vì quá đổ nhiều xương máu, nước mắt, xác chết bởi cái « xã hội chủ nghĩa cộng sản vô loại, không tưởng » do tên đại Việt gian bán Nước Nguyễn Tất Thành, rước cái đại họa của chủ nghĩa tàn sát con người này về bằm nát thân Cha, và đánh nát thân Mẹ Việt Nam cùng con cháu hơn nữa thế kỷ qua.

    Chúng tôi nghĩ rằng hành động thực hiện đạo đức luân lý của chính trị mà chúng ta cùng nhau đã bàn qua, là thể hiện ý chí tự do.Hay đẹp hơn, là phương cách, và qua phương cách đó, thì sự tự do cùng nhân quyền được công nhận và mọi người dân Việt có thể xây dựng lại Đất Nước mình trong yêu thương và nhân bản.

   Đep thay ! Sống, muốn sống, chịu đựng sự sống và hoàn cảnh sống hay đảm nhiệm sự sống cho chính mình và cho người, đó là công việc mà chúng ta cùng nhau cố gắng thực thi. Có nghĩa là chúng ta cố gắng hướng về sự đồng thuận và chấp nhận những rủi ro, những đau thương, những mất mát đã xảy ra và đang xảy ra cùng đang có trên quê hương thân yêu… Thế nhưng, với một lòng kiên trì và quyết tâm, với một ý tưởng cố gắng vươn lên, hầu xây dựng cùng tái thiết lại đời sống của dân Việt, của chúng ta, xây dựng lại Đất Nước và thế hệ con cháu mai hậu có đuợc ngày tươi sáng rạng ngời với Năm Châu, Bốn Bể cùng thiên hạ.

Bởi thế, một con người sống động, một con người linh động, một con người biết đau cái đau của đồng bào mình, biết khổ cái khổ với họ, biết nhục cái nhục Quốc Thể và Quốc Sỉ của Dân Tộc – Và một con người còn có trái tim thịt, còn có huyết thống Việt chảy từ tim lên não, một người biết đứng thẳng, nói thẳng là một người Việt cố gắng biết cho đi cái mình có, đang có, sẽ có, là một bước hướng về điều đẹp, cái chân thật, sự thiện hảo, để tạo một hệ thống kinh tế, luật pháp dân chủ cùng một việc thực thi hóa các giá trị nhân bản cho xã hội-chính trị Việt Nam. Chúng ta có thể mạnh miệng nói mà không sợ sai, là các giá trị đạo đức, luân lý trong một thể chế dân chủ của xã hội đã được chánh quyền nhiều nước Âu Mỹ Á trên thế giới thực hành từ lâu cho Đất Nước và dân chúng họ.Nhờ vậy Đất Nước họ càng ngày càng giàu có, càng hạnh phúc an lạc hơn.  Cũng như nhiều Nước đã phát triển như Nam Hàn, Đài Loan, Tân Gia Ba, đang phát triển như Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương v.v. Họ đã đi theo những tiêu chuẩn đạo đức luân lý chúng ta bàn đó, để xây dựng và phát triển Đất Nước mình thêm giàu có và hưng thịnh. Chính các chánh phủ các nước này đã biết áp dụng các nhân quyền, những căn bản cùng các tự do và công chính, công minh cùng công bằng của  xã hội-chính trị cho ngươi dân mình. Khổ thay, chỉ trừ tập đoàn phỉ quyền Hà Nội cố bám quyền và dựa lưng bọn rợ Hán Trung Cộng, nên vẫn còn ngoan cố không chịu thực hiện cho dân Việt chúng ta các thứ quyền trên, và thiếp lập một chế độ dân chủ, dân quyền và đa đảng.

    Chúng tôi thiết tưởng ý thức luân lý đạo đức và lương tâm ngay thẳng là mong ước của chúng ta, hầu thiết tạo cho Nước Việt Nam có được một thể chế chính trị nhân bản và dân chủ. Đó cũng là sự tranh đấu không mệt mỏi của chúng ta chống lại và tiêu trừ các việc bất công, tham nhũng, hối lộ, cướp đoạt, phi đạo đức, luân lý cùng bán Nước của tập đoàn phỉ quyền Hà Nội, đã soi mòn và tàn phá Đất Nước, và có thể mất Nước. Việc làm chúng ta đó, là hoa trái của một tương quan trao đổi, học hỏi và hổ tương, cũng như thể hiện cho mình và cho quốc gia những giá trị căn bản của xã hội chính trị. Như thế là chúng ta tạo cho nhau sự kính trọng nhân vị, phẩm cách và những quyền lợi của Đất Nước và người dân !

 

                                                                              Nam Giao Lê Thiện Bình 

 

 

NHỮNG SÁCH BÁO THAM KHẢO

 

  Aristôte: « La Politique », éd. Tricot, Paris 1970, et « Ethique A Nicomaque », éd. Tricot, Paris 1972.

  Jean Luc Chabot : « Introduction A La Politique », PUF. Paris 1991. 

  Erich Weil : « Philosophie Politique », Vrin, Paris 1956.

  Charles Maurras : « Mes Idées Politique », Fayard, Paris 1937.

– Claude Lefort  :     « Essais Sur Politique, XIX-XX Siècle », Le Seuil, Paris 1986.

  Bertrand de Jouvenel : « De La Politique Pure », Calmann-Lévy, Paris 1963.

– Georges Burdeau: « Traité De Science Politique, et Démocratie, Essai Synthétique », Neuchâtel, La Baconnière 1956.

   Georges  Burdeau :«La Démocratie », Seuil, Paris 1966. 

   Proudhon : « L’Essence Du Politique », Sirey 1945.

   Julien Freund : « L’Essence Du Politique », Sirey 1965.

   Jean Baechler : « Précis De La Démocratie », Calmann-Lévy, Paris 1994.

   Carl Schmite : « La Notion Du Politique », Flammarion, Paris 1992.

– Otfried Hoffe : « Ethik Und Politik, Grundumolle Und Probleme Der Polotischen Philosophie », Franfurt 1979. 

   Gaston Fessard : « Autorité Et Bien Commun », Aubier, Paris 1945.

   Augustin (Saint) : « De Libre Arbitre ».

   Emmanuel Lévinas : « Éthique Et Infini », Le Livre De Poche, Paris 1990.

  Emmanuel Mounier : « Communisme, Anarchie Et Personnalisme », Seuil, Paris 1965.

   Bergson : « Le Rationalisme Critique », Paris 1935 et : « Donnes Immédiates De La Conscience », éd. PUF.1975.

   Hegel : « Principes De La Philosophie Du Droit ».

   Hobbes : « De Cive ».

 Kant Emmanuel : « Critique De La Raison Pure », Libraire Philosophique, Paris 1983.

   Hume: « Essay Concerning Human Understanding ».

   I. Berlin : “Four Essay On Liberty”, Oxford 1969.

   J. S. Austin: “ If And Can”, Philosophical Papers, Oxford 1971.

   J. Raws: “Theory Of Jutice”, Cambridge-Mass. 1971.

   Lock-Hume-Rousseau : « Social Contract », Oxford University Press, London 1970.

   Kelsen : « Théorie Pure Du Droit », Baconnière 1953.

   Thomas d’Aquin : « Somme Théologique », Cef, Paris 1985.

   J. Starobinsky : « L’Invention De La Liberté », Genève 1965.

   J. Maritain : « Philosophie Morale », Paris 1948.

– M.Secheler : « Le Formalisme En Ethique Et L’Ehique Matérielle Des Valeurs », Gallimard, Paris 1955.

   Platon : « La République », Paris 1966.

  Yves Madiot : « Les Droits De L’Homme », M.A., Paris 1987.

   Bản « Tuyên Ngôn Nhân Quyền Và Dân Quyền, Déclaration Des Droits De L’Homme Et Du Citoyen  » năm 1789.

   Bản  « Tuyên Ngôn Nhân Quyền Girondine » năm 1791.

   Bản « Tuyên Ngôn Nhân Quyền Của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ Déclaration Des Droits De La Virginie »  Ngày 12. 06.1776.

   Bản « Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, Déclaration Universelle Des Droits De L’Homme » Ngày 10.12.1948.

   Bản « Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền », ấn bản đặc biệt của Nguyệt San Dân Việt, Hamburg 1986.

  Bản « Luật Quốc Tế Nhân Quyền » do Giáo Sư Nguyễn Hữu Thống phiên dịch, Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam 1988.

  Đức Giáo Hoàng Phao Lồ Đệ Nhị, Thông Điệp : « Tin Mừng Sự Sống-Evangelicum Vitae », 1995.

   Lữ Giang : « Những Bí Ẩn Đàng Sau Các Cuộc Thánh Chiến Việt Tại Việt Nam », Mekong, California 1994.

   Trần Từ Yên phiên dịch tài liệu CIA : « Thế Lực Chính Trị Của Phật Giáo Ấn Quang  Của USMACV ». Diễn Đàn Chính Trị ngày 26. 01.2009.

   Phạm Trần : « Nhục Nước Hại Dân », Diễn Đàn Chính Trị ngày 20.01.2009.

   Bùi Trần Phong : « Biên Cương », Diễn Đàn Chính Trị ngày 20.01.2009.

   Trần Mộng Vũ : « Đầu Năm Nói Chuyện Đảng Cộng Sản Việt Nam Dâng Đất Cho Trung Cộng », Diễn Đàn Chính Trị ngày 11.01.2009.

    Cao Tú Thanh : «  Đạo Đức Và Suy Thoái Đạo Đức », Sài Gòn Tiếp Thị Tết 2009

   Chuyên Trinh : « Hình Ảnh Tư Gia Tư Bản Đỏ Lê Khả Phiêu », Diễn Đàn Chính Trị, Ngày 05.02.2009.

   Bùi Trung Trực : « Báo Nhật Nói Về Đường Dây Buôn Lậu Ở Vietnam Airlines », Diễn Đàn Chính Trị, Ngày  06.02.2009.        

error: Content is protected !!