TÌNH NGHĨA QUÂN DÂN 62
Vì Tổ Quốc giang sơn, nòi giống,
Ai khước từ cuộc sống ấm êm ??
Ai đi chinh chiến ngày đêm?
Băng rừng, vượt suối càng thêm nhọc nhằn.
Ai quyết vượt khó khăn, gian khổ?
Ai chẳng nề máu đổ, thịt rơi?
Xông pha khói lửa ngút trời,
Dấn thân mưu ích cho đời mai sau.
Nguồn cơn nghĩ lòng đau như cắt,
Sứ mạng chưa hoàn tất mười mươi.
Thảm chưa ? Thương tích đầy người,
Thực là dở khóc, dở cười hỡi ôi!
Chim hồng hộc (1) vượt đồi gẫy cánh,
Tàu chinh nhân (2) lệch bánh từ đây.
Vì ai phải cụt chân tay?
Đau thương, khổ ải chất đầy hai vai.
Chữ Trung, Hiếu phận trai chưa vẹn,
Tình phu thê khôn nén niềm thương.
Bầy con thiếu vắng học đường,
Lấy ai rèn cặp cho thường ngày đêm.
Việc đi đứng càng thêm vất vả,
Mấy ai màng chị ngã, em nâng!!
Bể dâu (3) nổi sóng đất bằng,
Phế binh chìm đắm vĩnh hằng (4) trần ai.
Cơm thường bữa nhánh khoai, củ sắn,
Nước mắt chan đều đặn thay canh.
Áo quần tơi tả một manh,
Đoái hoài ai kẻ thấu tình giúp cho ??
Thuốc trị liệu kim mò đáy biển,
Hái lá rừng chế biến qua loa.
Tiếng kêu vang dội ngân hà, (5)
Năm Châu, bốn Bể sót xa ngậm ngùi.
Ai chiến hữu ngọt bùi hòe quế ?
Có nhớ tình huynh đệ chi binh ?
Nhớ khi lên thác xuống ghềnh ?
Đói no cùng hưởng, lênh đênh chung giường?
Nào ruột thịt đồng hương hải ngoại!!
Còn nhớ câu ăn trái trồng cây?
Phế binh vất vưởng đêm ngày,
Triền miên thống khổ, đọa đầy bấy lâu.
Chung sức góp mớ rau, cái chén,
Của một đồng, công nén quý thay!
Cùng nhau ta nắm vòng tay,
Một ao nước lã khôn thay máu đào.
Ơn Đất Nước chót cao vô lượng,
Nghĩa Đồng Bào vạn trượng khôn đo.
Dù xây chín bậc phù đồ,
Không bằng làm phúc cứu cho một người.
Đó mới thực tính trời nhân đạo,
Đây chính là tối hảo lương tri.
Quê xưa, nước cũ khắc ghi,
Tình Quân, Dân, Chính ai thì nhớ không?
Khi no bụng nem công chẳng hám,
Lúc đói lòng bát cám cũng mê.
Chúng ta hạnh phúc tràn trề,
Là nhờ người giữ làng quê thủa nào !!
Trước là đáp nghĩa đồng bào,
Còn sau uống nước lẽ nào quên sông ??
Ước mong góp gió thành giông,
Quyên tiền làm nghĩa, góp công là tình.
Ơn đền, nghĩa trả thương binh,
Ấy là truyền thống ân tình Quốc Gia. 62
TRƯỜNG GIANG
GHI CHÚ :
(1) CHIM HỒNG HỘC : Một loại chim rất lớn, chim đại bàng đã bị gẫy cánh. Ý nói người lính V.N.C.H. khi giao chiến với Việt Cộng, bị chúng bắn bị thương
(2) TÀU CHINH NHÂN : Tàu chở các chiến binh đi đánh trận bị trật đường rầy. Ý nói người chiến sĩ bị thương tích ngoài mặt trận.
(3) DÂU BỂ : Do chữ Thương hải tang điền, nghĩa là nơi đất phù sa ở bờ biển được sóng bồi lên thành bãi . Dân cư ngụ lân cận đem cành dâu ra trồng để lấy lá nuôi tằm dệt lụa may quần áo. Ý nói việc đời thay đổi.
(4) VĨNH HẰNG : Luôn luônhiện hữu, không bao giờ thay đổi.
(5) NGÂN HÀ : Giải sao ở thượng tầng không gian, có hàng tỷ ngôi sao, thường gọi là giải Ngân Hà.
Họa
Nhớ Người Thương Binh VNCH
1
Non sông gấm vóc con giòng giống
Chẳng thể vì đời sống đẹp êm
Chiến trường gối súng từng đêm
Ngăn thù diệt giặc dù thêm mệt nhằn
2
Còn ai để ý băn khăn khổ
Dẫu phải mồ hôi đổ ướt rơi
Lăn thân lửa đạn rực trời
Hy sinh tuổi trẻ cho đời về sau
3
Than ôi ngẫm dạ đau thầm cắt
Thế sự xoay cờ thắt cuộn mươi
Cảm anh thương phế hư người
Nghẹn ngào đất nước nụ cười tắt ôi
4
Đàn chim vượt biển đồi lay cánh
Tổ ấm đà tan gánh tại đây
Nhìn xem kẻ cụt hai tay
Mưu sinh cơm áo nặng đầy đôi vai
5
Nhìn về tổ quốc trai nào vẹn
Én Nhạn phu thê nén thảm thương
Bầy con giáo dục đứt đường
Đành chôn chữ nghĩa mộng thường giữa đêm
6
Thân di chuyển lại thêm cuồng vả
Lúc khó khăn cùng ngã chẳng nâng
Nghẹn ôi thảm cảnh cầm bằng
Thương binh tủi nhục vết hằn hận ai
7
Từng ngày độn bữa khoai cùng sắn
Lệ nhỏ đầy trôi đặng thế canh
Đêm nằm đắp chiếc chiếu manh
Nhìn quanh đều khổ cũng đành lơ cho
8
Lời than tựa sóng gào ngoài biển
Bệnh hoạn đành xoay biến bóp xoa
Có đau cũng chỉ hít hà
Mười phương bốn bể ngàn xa bùi ngùi
9
Khi xưa bạn hữu chung trà quế
Kỷ niệm huynh cùng đệ chiến binh
Hành quân lội suối băng gềnh
Gian lao nếm đủ lặng tênh trên giường
10
Ra đi nhớ cố hương quê ngoại
Khó thể quên dùng trái nhớ cây
Thương binh lăn lộn từng ngày
Đầu đường xó chợ khốn đầy từ lâu
11
Rao mời vé số hay hàng xén
Chịu nhọc nhằn đè nén tủi thay
Tình thương thể hiện nhanh ngay
Giúp người lính trận không may thải đào
12
Từ bi bác ái cao đầy lượng
Nghĩa nặng dù nghìn trượng khó đo
Còn thương còn nghĩ tiền đồ
Ra tay cứu giúp ban cho bao người
13
Phù du của cải thời hành đạo
Tạo nghiệp lành hoà hảo túc tri
Nêu cao tổ quốc nhớ ghi
Hy sinh tánh mạng bao vì biết không
14
Thời sung túc chẳng ai cần hám
Lúc đắng cay thau cám quý mê
Bên nay cuộc sống dư trề
Có đâu quên được tình quê dạo nào
15
Nghĩ về đất nước ruột bào
Chim bay xa tổ thể nào lướt sông
Gom mây kết nắng tan giông
Cùng nhau hành thiện của công đầy mình
Ơn sâu đáp trả phế binh
Con tim máu chảy nghĩa tình nước non
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 11/7/2020
____________________________________
HỌA
Ghi Dấu Ngày Về (Lê Tuấn)
1
Ngày đánh dấu, ta trở về phố thị
Bỏ lại sau lưng vách đá trại tù
Bước chân ta dẫm nát lối hoang sơ
Từng nhịp bước chuyển rung rừng núi.
2
Đếm năm tháng, tám năm buồn tăm tối
Ta hóa thân, loài vượn giữa núi rừng
Chốn rừng thiêng, mất dấu bóng loài người
Xác thân đó trong hình hài cổ quái.
3
Em thấy ta, mắt tròn xoe kinh hãi
Chân dung người, biệt xứ mới trở về
Tám năm rồi tỏ mặt với nhau đây
Xáo động cả, buồn vui ngày hội ngộ.
4
Người qua lại nhìn ta không thăm hỏi
Bước chân đi, từng cặp mắt e dè
Ta mất dấu, nhìn phố xưa xa lạ
Đời lặng im, sét rỉ đến không ngờ.
5
Và ta thấy thành phố già hơn trước
Cờ máu treo, nhuộm đỏ cả phố phường
Ta xót thương, căm giận lũ hung cuồng
Ta bật khóc, nỗi đau buồn thế sự.
6
Lòng chợt nghe, tin buồn vang khắp xứ
Gió cát vụt bay, che khuất đoạn trường
Ta chẳng buồn nhìn lại bóng quê hương
Những mảnh vụn, treo toàn cờ máu đỏ.
7
Ngày gặp gỡ, trong lòng còn chút mộng
Ta đi tìm người con gái khi xưa
Nàng không đợi, bỏ đi tự bao giờ
Nỗi xót xa, mối tình đầu cũng mất.
8
Ôi nhân thế! Với lưỡi dao thật sắc
Cắt vụn đời người, cắt nát trái tim
Loài ma quỷ, sùng bái những lũ điên
Bán linh hồn, thâm tâm nào vọng động.
9
Ta ngước lên, trời cao buồn muôn thuở
Nhìn lại mình, thân phận đã hư hao
Hoàng hôn đến, mái đầu vương tóc trắng
Ta chẳng buồn, tìm hiểu bởi vì sao.
Lê Tuấn
Nỗi buồn sau tám năm tù cải tạo