Đọc Thơ Hoàng Song Liêm
Kính thưa quí vị,
Giới thiệu một tác phẩm thơ luôn luôn làm tôi bối rối. Bối rối vì người làm thơ nói lên cảm xúc rất riêng tư của mình mà người đọc nhiều khi chỉ thấy thoáng qua, nên có thể không giới thiệu tới cái phần xâu xa của tác gỉa. Khác với chính khách, thi sĩ không đại diện cho đám đông, không nhân danh quần chúng. Người làm thơ chỉ phát biểu cảm xúc của riêng mình, với cảm quan rất cá biệt. Nói như nhà thơ Nguyễn Đức Sơn: “thơ là những gì phức biệt có riêng tôi”. Chính với cái cá biệt đó thi sĩ đã dựng lên một thế giới của riêng mình. Trong thế giới riêng đó thiên nhiên đột nhiên có sức sống, có mầu sắc, có hương vị riêng mà chỉ thi sĩ nghe thấy nhìn thấy ngửi thấy.
Với người không làm thơ buồn vui không liên quan tới mưa nắng. Chẳng hạn trời mưa chỉ nghe tiếng mưa rơi, nhưng nơi một người làm thơ như Huy Cận ông thấy cả sức nặng của bầu trời tạo nên cái buồn của mình:
Đêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn
Ngược lại nơi Xuân Diệu, một tri kỷ của Huy Cận, thì cái buồn nó tới vì thi sĩ thấy trời nhẹ đi:
Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn
Cùng là nỗi buồn mà ngừơi thì thấy vì trời nặng, người thì thấy vì trời nhẹ. Hoàn toàn ngược chiều nhau. Thi sĩ là người đã tái tạo thiên nhiên như vậy. Chính cái cảm xúc khác biệt đó đã làm một người viết thành thi sĩ. Thi sĩ thấy và cảm những điều mà chỉ ông ta thấy và cảm mà người khác không thấy, không cảm.
Nhìn mây bay ta có thể nghĩ tới trời nắng hay sắp mưa, nhìn hoa nở ta thấy mùa xuân đang tới, nhưng ở Lý Bạch mấy trăm năm trước thì:
Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung
Nghĩa là nhìn mây bay ông nhớ tới xiêm áo tha thướt của nàng, nhìn hoa nở ông nhớ tới khuôn mặt diễm lệ của nàng. Những xúc động đó tới từ môt tâm hồn phong phú mà cũng rất riêng tư. Nhà thơ Joseph Brodsky, trong diễn văn nhận giải Nobel Văn Chương năm 1987 viết là: “Nếu nghệ thuật có dạy một cái gì cho nghệ sĩ thì đó chính là cái tính cách riêng tư của cuộc sống con người.” Ông nhận xét là người ta có thể chia sẻ nhiều thứ như bánh mì, chiếc giường, niềm tin nhưng không thể chia một bài thơ.
Chính vì cái rất đỗi tư riêng đó nhận xét về thơ luôn luôn là môt nghi vấn. May thay dù khởi đi từ cảm xúc riêng, bài thơ thành công luôn luôn truyền đạt đuợc tới người đọc cái cảm xúc của tác gỉa để người đọc cùng cảm cái rung động của tác gỉa. Từ một nỗi niềm tư để hòa vào một cái rất chung. Từ một cái riêng lẻ thành một cái rất tập thể.
Chính nhờ thế mà thơ trở thành phổ biến. Nó chuyên chở cái mà nhiều người cảm thấy nhưng không viết ra: tình yêu, nỗi nhớ nhung, mối hoài cảm v…v…. Băn khoăn, yêu vu vơ ở tuổi 20, dào dạt nỗi nhớ quê ở tuổi trưởng thành, ngậm ngùi với những hoài cảm khi xa quê hương. Thơ Hoàng Song Liêm là như vậy. Trong 100 trang thơ, từ những bài làm vào thập niên 50 tới những bài làm gần đây người đọc thấy tràn ngập tình yêu và nỗi nhớ nhung quê hương mà ông muốn truyền tới người đọc.
Rụt rè như:
Đo đắn phong thư gìn giữ mãi
Mong chờ hẹn dịp để trao đưa
Nhưng rồi e ấp tay dè dặt
Tha thiết bao nhiêu bấy hững hờ
Bâng khuâng như:
Hái bông hoa trong một vườn dị thảo
Ngát hương lòng ta gửi tặng riêng em
Em chẳng nhận cả trời sẩu não
Ta trở về ngồi đợi bóng trăng lên
Tập thơ gồm 46 bài tác gỉa sáng tác từ 1952 tới những năm gần đây. Sinh ra trong một đất nước chiến tranh, và chính ông là một sĩ quan đứng trên một chiến tuyến nhưng thơ ông không hề có dấu vết chiến tranh. Học Chu Van An từ 1948 tới 1954, rồi di cư vào Nam ông đồng hóa vào quân đội, làm trưởng ban biên tập cho Nha Chiến Tranh Tâm Lý. Sau đó chuyển sang Không Quân phục vụ trong ngành cơ khí cho tới 1965 mới chuyển sang Tâm Lý Chiến, làm chủ bút cho báo Lý Tưởng của Không Quân.
Từ khi còn đi học ông đã làm thơ đăng báo. Ông cộng tác với báo Tia Sáng, Giác Ngộ, Hồ Gươm, Giang Sơn khi chưa tới 20 và nhiều bài thơ trong tập thơ ra mắt hôm nay ông đã sáng tác vào thời kỳ trên dưới 20 tuổi.
Chất liệu trong thơ của ông ở thời kỳ này là tâm sự của tuổi 20, có tình yêu, có viễn mơ:
Đò ơi Ta một kẻ phiêu linh
Trọn tuổi hoa mơ mộng viễn trình
Ghé bến đây rung chèo dật sóng
Cho cùng theo với kiếp lênh đênh
Cũng như mọi thanh niên cùng lứa tuổi, ông cũng nghĩ tới chiến tranh đang chờ đợi:
Ngày mai khói lửa ngụt sa trường
Thân dấn vào trong lớp súng gươm
Khí uất căm hờn say bóng nguyệt
Quên tình dứt đứt cả tơ vương
Nhưng những xúc động về chiến tranh chỉ thoáng qua, hầu hết thơ trong thời kỳ này là tình yêu.
Hơn một nửa sau tập thơ là nỗi nhớ:
Nhớ thời bạch diện áo thư sinh
Nhớ thủa hàn vi ước mộng lành
Nhớ thủa mắt trong tình mới chớm
Ngẩn ngơ mầu áo, áo ai xanh
Mặc dù có 20 năm quân ngũ, và trưởng thành trong giai đoạn khốc liệt của chiến tranh, thơ Hoàng Song Liêm không hề mang một dấu vết chiến tranh hay hận thù. Thơ của ông không có bom đạn, không có lửa cháy, không có nước mắt. Có lẽ tình yêu chan chứa đã che đi những vết hằn của chiến tranh.
Nếu đọc thơ là để nghiêng tâm hồn mình xuống với kỷ niệm, đề những hoài cảm xôn xao trở về thì phần 2 trong thơ Hoàng Song Liêm đã đưa người đọc tới những hòai cảm đó.
Khi lưu vong mỗi người có một phản ứng khác nhau, có người chua xót, có người ngậm ngùi. Phần lớn là cay đắng vì đã bị bứt khỏi gốc rễ để đối diện với thử thách mới; xót xa vì bị đẩy khỏi thân quen để vật lộn với xa lạ. Thơ vì thế chua cay, bao phủ bởi những day dứt quê hương. Như thơ Cao Tần:
Mai mốt anh về có thằng túm hỏi
Mày qua bên Mỹ học được củ gì
Muốn biết tài nhau đưa ông cây chổi
Nói mày hay ông thượng đẳng culi
Ông rửa bát chì hơn bà nội trợ
Ông quét nhà sạch hơn em bé ngoan
Ngày ngày phóng xe như thằng phải gió
Đêm về nằm vùi nước mắt chứa chan
Nhưng dù với những đắng cay chất ngất, lòng nhung nhớ quê hương vẫn trán đầy đâu đó với những hình ành ngọt ngào:
Em hãy tìm về sau căn nhà cũ
Đứng bên rào mà ngó lại vườn xưa
Em nhớ nhé dưới tàn cây trứng cá
Những trái mọng hồng trong ánh nắng sau mưa
Với Hoàng Song Liêm người đọc không thấy cái cay đắng, cái hận thù của kẻ lưu đầy. Tràn ngập trong thơ ông là cái diụ dàng trong hoài niệm. Buồn đấy nhưng không là cái buồn chua xót, nhớ đấy nhưng không là cái nhớ đắng cay. Đó là những xúc động trước cảnh trí nơi quê người làm trạnh nhớ quê hương đất tổ:
Vầng trăng ai xẻ nửa
Chênh chếch mãi non đoài
Mây trời mây viễn xứ
Lòng ai thương nhớ ai?
Cũng như hầu hết những người xa quê hương trong cái lạnh nơi quê người ông nhớ lại những hình ảnh quê xưa,; nhưng những nhung nhớ đó không hằn học, không chua chát mà nhiều tình người:
Bên ấy mùa này đã lạnh chưa
Sầu nghiêng gối lẻ bóng trăng mờ
Tình xa một nửa tim còn thiếu
Thao thức năm canh giấc mộng chờ
Bên ấy giờ này qúa nửa đêm
Phòng riêng nệm ấm giấc mơ chìm
Hành tinh ai cắt làm hai mảnh
Chiều xế bên này bóng nhớ em
Và cùng với thời gian tăng, lòng tha thiết với quê càng tăng thêm, ta thấy thơ ông bàng bạc những cảm xúc về quê hương:
Ôi quê hương gợi nhớ thủa nào xa
Hong tuổi dại nghe lời ru của mẹ
Bài ca dao thuộc nằm lòng tấm bé
Thương cái cò lặn lội mãi bờ ao
Với tuổi thất thập mà vẫn sáng tác thơ, ông đã cho thấy cái tha thiết với thi ca với văn chương Việt Nam. Thông thường cái mất mát lớn trong văn chương khi xa quê hương là người viết mất đi cái sức sáng tạo mà khi trong còn trong nước rất dồi dào. Chúng ta có thề thấy hiện tương này phổ biến trong rất nhiều giới làm văn hoá Việt Nam. Vẽ không như xưa, viết không như xưa, làm nhạc không như xưa. Như cây trồng đất mới, rất ít bén rễ mới.
Sáng tạo và xuất bản trong điều kiện lưu vong là đã nuôi dưỡng dòng văn học Việt không những cho chúng ta, thế hệ ra đi đầu tiên, mà còn cho những thế hệ mai sau. Nước Nhật có một tục lệ là mỗi năm chọn mười bài thơ hay nhất sáng tác trong nước và ngoài nước để chính tác gỉa đọc thơ cho Nhật Hoàng trong một buổi lễ vào dịp Tết. Nhà văn Võ Phiến có nhắc tới Thi Sĩ Minoru Fujita một người sống lưu lạc ngoài nước Nhật từ nhỏ đã được chon. Đó là một trường hợp rất đặc biệt vì ông ta đã sống xa quê hương rất lâu, trở nên xa lạ với sinh hoạt trong nước. Có môt người tìm được một bài thơ ngắn của ông dịch sang tiếng Anh:
I no longer know
What they are saying
In my native land
But I know the flowers
Smell the same
Tạm phóng dịch: Quê hương cho dù biến đổi, và mình cho dù đã xa lạ với vấn đề của xã hội mới, ngôn ngữ mới, nhưng tôi biết nơi đó hoa vẫn tỏa một mùi thơm cũ, mùi hương đó mãi mãi không thay đổi.
Như vậy chừng nào hoa xưa vẫn tỏa mùi thơm cũ nhà thơ vẫn cảm đươc mùi hương xưa, chừng đó nhà thơ vẫn thấy gần gũi với quê hương, vẫn làm thơ với ngôn ngữ quê hương và vẫn được tán thưởng cho dù sống trong hay ngòai nước.
Xin cám ơn qúi vị.
ĐỌC THƠ HOÀNG SONG LIÊM
HÀ THƯỢNG NHÂN
Hoàng Song Liêm là một trong những con người di tản tương đối thành công. Anh là một Sĩ quan Không Quân cấp Tá. Cộng Sản vào Nam, anh đã sớm đào thoát chạy ra nước ngoài.Anh không bị một ngày tù như phần đông những người bạn cùng trang lứa với anh. Sang đến Hoa Kỳ,anh làm ăn khá giả, con cái tương đối thành công nhưng lời thơ anh vẫn u uất buồn :
Tết lạnh quê người phai sắc áo
Người đi nẻo khuất vẫn chưa về
Nghiêng bầu lại rót mùi cay đắng
Gió lạnh phòng không chẳng liếp che !
Không có liếp nào che cả. Mới biết tấm lòng thương quê nhớ nước mãnh liệt đến chừng nào. Bỏ nước ra đi vì anh không thể sống dưới một chế độ không có Tự do,Dân Chủ.Có tự do, Dân chủ rồi nhưng còn một cái gì đó anh không có. Đó là quê hương. Quê hương không phải chỉ là song,là núi, là mồ mả ông cha,là họ hang, làng mạc. Quê hương lại còn là những làn gió, những ánh trăng, những cơn mưa gió thất thường, những con đường lầy lội, những mái rơm, mái rạ, những con người lầm than, đói khổ. Nó là cuộc đời, là tuổi trẻ của chúng ta. Là tiếng mẹ ru, là mùi thơm hoa cau, hoa bưởi, là đêm khuya tiếng chiếc mo cau rụng ở vườn sau. Ôi quê hương ! Là thứ chúng ta không thể diễn tả bằng lời nhưng nỗi mất mát quê hương vẫn hiện hữu trong chúng ta từng giây, từng phút.
Toàn thể tập thơ không bài nào là không đề cập đến quê hương. Quê hương và tuổi trẻ. Quê hương và thời gian. Càng về già,chúng ta càng quý tuổi trẻ,càng ngậm ngùi vì thời gian qua mau.
Dài tay năm ngón xanh xao
Sầu mây tóc trắng chiêm bao nửa vời.
Dài tay mười ngón tay xuôi,
Sầu đôi hộc mắt, môi cười ngẩn ngơ.
Quẩn quanh năm tháng thừa dư,
Gai chông nhọn hoắt,chân dò dẫm đi.
“Sầu đôi hộc mắt”hai con mắt lõm xuống vì đêm không ngủ được vì sống ở đây không thực sự là sống. Sống ở đây đối với người chỉ còn có nghĩa là tồn tại….
Năm cửa ô xưa băm sáu phố
Xa quê hương, nhất là quê hương ấy lại là Hà Nội thanh lịch thì là sao những người con của Hà Nội có thể quên được năm cửa ô, quên được Hà Nội băm sáu phố phường.
Năm 1954, Mai Thảo bỏ miền Bắc đã viết một cuốn truyện thật hay:” Đêm giã từ Hà Nội”. Hay vì thực, vì chân thành. Nghệ thuật chỉ làm nên những bài thơ, chỉ tâm hồn mới là thi sĩ. Câu nói đó của một thi nhân Pháp viết cách đây hàng thế kỷ mà muôn đời vẫn đúng.
Tôi nhớ mãi đến Hoàng Song Liêm những ngày mới chập chững bước vào đời.Khi ấy,chúng tôi còn là quân nhân trong ngành Tâm Lý Chiến. Liêm thì ngoài 20, còn tôi ngoài 3 chục. Liêm còn độc thân , tôi đã có ba bốn con. Chúng tôi gặp nhau và tự nhiên thấy rất gần gũi, thân thiết với nhau,vì chúng tôi cùng làm thơ và cùng yêu thơ…
Phương Nam mù mịt trời phương Bắc,
Mây trắng giang hồ , mây viễn phưong..
Tôi biết tại sao Liêm lại giao cho tôi viết mấy lời đầu của cuốn sách. Vì Liêm cũng như tôi, chúng tôi thích sự chân thành. Nếu như lối viết của Vũ Hoàng Chưong, của Huy Cận cổ rồi thì làm sao chúng ta còn thưởng thức được Tản Đà, còn thưởng thức được ca dao. Hoá ra cuộc sống của thi ca còn ngắn ngủi hơn cả cuộc sống của con người nữa hay sao ? Mới không phải là tìm ra lối diễn tả kỳ cuc. Mới là cách nhìn sự vật. Nhiều người nhìn mà có thấy gì đâu ? hang nghìn năm trước, Lý Bạch nhìn trăng và nói thế này :
Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc
Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ.
(Người với lên trăng thì không được,
(Nhưng người đi đâu thì trăng theo đó )
Hoặc:
Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt,
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cố nhân.
Người ngày nay không thấy trăng ngày xưa
( Nhưng ) trăng ngày nay vẫn thấy người ngày xưa.
Kiếp sống của con người thật là phù du so với cảnh vật. Lý Bạch chỉ nhìn và diễn tả. Ông không cần biện luận. Cần gì phải biện luận. Chúng ta chỉ đọc cũng đủ thấm thía cho cuộc sống ngắn ngủi của kiếp nhân sinh.
Hoàng Song Liêm năm mươi năm rồi anh mới lại cho tôi đọc thơ . Thơ anh vẫn trẻ như ngày nào. Hình dáng chúng ta không còn như xưa nữa nhưng tinh thần chúng ta nào có gì đổi khác.
Tôi mừng cuộc đời chưa làm tôi mất một người bạn, một người thơ.
HÀ THƯỢNG NHÂN
ÐỌC THI PHẨM CỦA HOÀNG SONG LIÊM,
MỘT NGƯỜI ANH TRONG LÀNG VĂN NGHỆ
Trần Tuấn Kiệt
Có những người văn nghệ đã thành danh từ vài thập niên trước, nhưng vì hoàn cảnh lịch sử, cuộc đời họ đã một thời gian im lặng, hay sinh hoạt văn hóa ở một nơi xa xôi nào mà người trong nước không biết, đó là trường hợp anh Hoàng Song Liêm. Anh vừa cho xuất bản thi phẩm Hoàng Song Liêm, nhà xuất bản Văn Nghệ, đồng thời có riêng một ấn phẩm đặc biệt kèm theo để bạn thơ thưởng thức phần thơ riêng của anh. Tôi vốn thích cái gì riêng biệt không muốn ai đó kiểm duyệt mình nên vội đọc phần này trước.
Thoạt đầu khiến ta chưa dở vội trang thơ trong vì khổ thơ và mẫu bìa vẽ một nàng thơ tuyệt vời màu sắc tươi thắm đậm tình dân tộc. Tôi nghĩ đó là một nét họa của Ðằng Giao. Quả nhiên, khi xem lại thì tranh của Ðằng Giao thật nhưng tôi cứ lớ ngớ tìm hoài không thấy tên họa sĩ, ngoại trừ bức chân dung sắc nét của anh ký tên là Toại 6/29/01 thế thôi. Anh Hoàng Song Liêm tỏ ra rất trân trọng với thơ mình từ việc chọn khổ in thơ, tranh và những trang giấy hoa đẹp vẽ những viền mây bao phủ và làm nền cho thơ bay trên đó.
Tôi xin diễn sơ ngoại cảnh một chút. Tôi từ chỗ cô Nguyễn thị Hàm Anh về, hiện trời mưa như trút, trời đỏ như gạch son, những ngày cuối năm đầy mưa gió lạnh lùng ở Saigon. Cũng chính Hàm Anh trao cho tôi hai bản thơ quý của anh mà từ lâu rồi, tôi chưa thấy ai in thơ đẹp như thế. Tôi ra đóng chặt cửa trên gác lại, mưa ào ạt và sấm động liên hồi. Tôi vốn rất sợ sấm, hồi nhỏ ở quê tôi bị sét đánh hụt một lần, bà ngoại tôi bay chiếc nón lá khi cùng tôi chạy qua cầu sắt Sa Ðéc. Vì thế sau này tôi rất sợ sấm chớp… Ðóng cửa lại, mặc cho mưa gào bên ngoài, trong căn gác vắng tôi ngồi đọc thơ Hoàng Song Liêm.
Ðọc bài “Hoài Vọng” tôi nghe như có một chút gì khắc khoải, u hờn mặc dầu dấu vết thời gian đã đẩy đưa rất nhiều hư ảnh về quá khứ. Ngôn từ Việt, những chữ: đó, nọ, kia, mà… như âm vang của một tiếng đàn cổ reo lên trong thời đại này đem lại rất nhiều hoài cảm thiêng liêng
Lửa của lòng ta nay đã tắt
Thôi nhắc làm chi những lúc xưa
Những chiều mơ mộng rồi hoài vọng
Mà… bóng thời gian đã xóa mờ
Anh nói đến ngọn lửa, dù anh cho là đã tắt nhưng ta cảm thấy nó đang giục nhiều nỗi đời nung nấu trong thâm tâm nhà thơ… dễ gì đã tắt!
Bài “Hẹn” tiếp theo cho thấy một tay thơ đã chín, đã điêu luyện tự bao giờ với nghệ thuật thơ lục bát ngày xưa. Người ta thấy dòng thơ lục bát này đi từ Nguyễn Du, đến Huy Cận, đến Hoàng Trúc Ly, Hoài Khanh… Giòng lưu ly của thơ lục bát đã hòa với giòng sông lớn của thi ca Việt đem đến một tòa hoa gấm bền bỉ và bất tử. Sẽ có những người em tiếp theo đi trên những dòng lục bát sâu xa trường cửu đó mai sau.
Bây giờ hãy đọc:
Mai này… hẹn sẽ về thăm
Ô hay sao vẫn ruột tằm rối tơ?
Biển Ðông vẫn cách đôi bờ
Chân mây đã khuất lối xưa mịt mù
Hạ buồn tóc điểm sương thu
Ðầu non đá dựng bốn mùa miên đông
Mai này… biết có về không
Ðàn mê chợt rớt tiếng đồng lạnh tanh
Mộng thầm, gối mỏng chông chênh
Chân ai bước mỏi nẻo xanh, mai về
Khí thơ êm đềm lạnh đến hư không và miên viễn như một dòng thời gian bất tận khiến ta nhớ đến bài thơ của Lưu Trọng Lư, bài Quay Tơ. Các bạn quý thơ hãy đọc và chia xẻ nỗi ngậm ngùi với Hoàng Song Liêm trong cảnh “tà huân” của cuộc đời! Tuy cảnh tà huân, nhưng anh đã lưu lại cho người đời điệu thơ vừa trữ tình sầu mộng vừa lẫn hương vị siêu hình của luật trời: Sự tuần hoàn của Tạo hóa mà không một ai thoát khỏi kiếp người như thế cả. Tôi cho đấy là một bài thơ tuyệt đẹp, một bài lục bát hiếm hoi trong vườn thơ hiện đại.
Nhưng đâu phải chỉ một nỗi miên man đến chạnh lòng đó. Bài “Tổ quốc xa” đã mang lại một thứ tâm tình viết lịch sử như anh Nguyễn Mạnh Côn, anh Vũ Khắc Khoan độ nào. Nói đến Nguyễn Mạnh Côn tôi mạn phép mở ngoặc một chút về chuyện anh bị bỏ đói khát chết trong trại cải tạo, có người đồn là do Duyên Anh gây ra. Nhưng anh Nguyễn Quốc Ðịnh cũng là bạn văn chương ở chung với Duyên Anh và Nguyễn Mạnh Côn xác định rõ với tôi là việc đó không phải do Duyên Anh tạo ra. Vậy xin ghi vài lời để anh em ngoài cuộc rõ và giải mối oan tình cho Duyên Anh từ lâu nay (?!)
Vẫn niềm hoài cổ,vẫn khắc khoải với nước non – dù tóc đã bạc, gối đã mòn, tâm hồn vẫn còn rất nhiều lửa để hong ấm nỗi niềm nhớ thương về một thời Quốc gia rực rỡ- Thời đại lịch sử đôi khi lúc vơi rồi lại đầy. Lịch sử chân chính bao giờ vẫn tồn tại trong lòng người – Nhà thơ ơi! Không mất đi đâu cả! Cũng như như dòng lục bát của anh vẫn ngân nga trong thời gian đó vậy. Tôi nhớ tới thơ Vũ Hoàng Chuơng.
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Thời đại này, lịch sử trở mặt, lịch sử của bầy ngạ quỷ chỉ muốn ăn thịt đồng bào, nòi giống còn hơn gấp vạn lần thời của nhà thơ họ Vũ khi xưa.
Simon Veil bảo lịch sử có hai bề mặt. Bề mặt đen tối đang bủa vây khắp nơi khiến cho dù nhà thơ Hoàng Song Liêm đã mệt mỏi trên đường đời vẫn buông lời thơ như Bà Huyện Thanh Quan trong ThăngLong Thành Hoài Cổ. Người có ý thức tự do và yêu nước ai có thể thờ ơ được với nước non này. Vì thế mà trong thơ ông, chúng ta còn nghe rõ tiếng hờn uy linh của sông núi, của những chiến trường xưa và chiến binh anh hùng đã một thời trận mạc để bảo vệ đất nước, giang san trước bọn giặc thù. “Màu xanh” tưởng đâu thanh thoát, nhẹ nhàng, trẻ trung vui sướng. Ai ngờ lại ẩn rất nhiều tiếng vọng của non sông một thời.
Trời xanh xanh biển xanh xanh
Ðỉnh núi che nghiêng bóng cờ thành
Phần phật cờ bay mùi khói tỏa
Nghe rền trống trận thuở đao binh
Thoáng nhìn một bài thơ, ai chớ vì cái tựa mà hiểu lầm. Ðạo ẩn ư tiểu hành. Những ngụ ngôn và phản ngôn của thi ca chứa nhiều trong đó. Màu Xanh!
Dầu sao nhà thơ vẫn còn rất nhiều tình cảm mặn nồng của tuổi thanh xuân đầy những mộng tình tha thiết. “Em” của nhà thơ là ai đây? Là người bạn đời chăn gối, tình nhân hay nàng Thơ. Chúng ta không vội phân tích ý nghĩa và ngôn từ, chỉ nên thưởng thức vần thơ êm đềm, châu ngọc của thi nhân. Mời bạn đọc “Viết cho em” và tự thưởng thức lấy cái hương vị diễm tình của thơ.
Hoàng Song Liêm làm thơ cả một đời mà bắt đầu vào thời của Quách Tấn, của Vũ Hoàng Chương, Phạm Hầu. Ðọc thơ ông phải nghĩ tới linh hồn thơ ấy đi qua rất nhiều chặng đường nghệ thuật từ lãng mạn, tượng trưng đến siêu thực, siêu hình bàng bạc khắp ý thơ – từng trải qua rất nhiều nẻo đường lịch sử văn học của dân tộc Việt. Cũng không khỏi nhớ đến những người anh cả là Hà Thượng Nhân, Cao Tiêu… những người bạn như Tô Kiều Ngân còn ở lại VN.
Rồi thấm thoát bóng dương cũng mờ dần, buổi hoàng hôn lại đến và con người thi sĩ vốn hiện hữu giữa trần gian còn để lại gì? Nào những màu thời gian… của Ðoàn Phú Tứ, Nguyễn Xuân Sanh, nào những lớp lang lịch sử xô về đưa tất cả vào thái hư tịch mịch. Nhà thơ nói về thời gian vô thường, những hiện tượng của đời vẫn sinh động đẹp đẽ… và thi nhân thay đổi với Vô Cùng nhưng còn mùa Xuân ấm nồng lại đến. Ðông sẽ tàn và Xuân lại sang như Bùi Giáng viết:
Em bảo rằng đừng tuyệt vọng nghe không
Còn trang thơ thấm lại với trời hồng
Tuy nhiên khi đọc thơ ông ta cũng cảm thấy bồi hồi xao xuyến quá! Niềm xao xuyến làm linh hồn ta cũng cảm thấy khắc khoải như thơ ông. Tiếng thơ đẹp, mẫu đẹp của tiếng thời gian, của một đời người với bao nỗi thất bại của con người thiên thu đi về trong hố thẳm của lịch sử và cuộc đời (như Con Lũ Quanh Ta). Còn một điều quan trọng là sự chân tình trong thơ. Ðọc thơ ông, người ta không thấy có sự làm dáng thi sĩ hay trí thức mà là những tiếng thơ từ tâm tình cao rộng, đầy sự cảm thông đối với con người, với lịch sử và cuộc đời.
Với “Hà Nội, đêm giã từ”, những câu thơ đạt tới một nghệ thuật thi ngữ mênh mông với mối tình xa xôi của kẻ giang hồ viễn xứ.
… Phương Nam mù mịt trời phương Bắc
Mây trắng giang hồ mây viễn phương
Có hình ảnh dấn thân trong cõi cát bụi thời gian của một người chứa đựng nhiều lửa, nhiều nhiệt huyết lúc lên đường
Lục bát Hoàng Song Liêm dàn ra một không gian rộng, tiếng thơ đạt đến sự tự nhiên như những thi tài xưa nay. Ông xử dụng thơ trơn tru, ngọt ngào và đậm tình thu bát ngát. Sự điêu luyện đó còn thể hiện trong rất nhiều vần lục bát trong thơ ông. Hoàng Song Liêm không chỉ có thơ bảy chữ, lục bát, ông còn làm nhiều bài thơ xuôi, thơ sáu chữ, thơ tự do với những kỳ tứ rất lạ…
Cuối cùng đến bài thơ “Rồi ngày tháng qua đi” do Ðỗ Nguyên phổ nhạc. Thơ và nhạc giống như đội bạn tình thường hòa quyện với nhau – trong hai thứ nghệ thuật của cuộc đời-
Những dòng viết trên chỉ là viết cho thi bản riêng biệt của nhà thơ Hoàng Song Liêm. Riêng thi phẩm lớn của ông in rất nhiều thơ hay mà tôi chưa có thời gian đọc vì sức khỏe quá kém sút trong những ngày gần đây. Khi hồi phục lại được, tôi sẽ đọc cẩn thận hơn về một tác phẩm và một đời người làm thơ, sống với thơ thật đẹp của ông.
Trần Tuấn Kiệt
12/2005
THO-SONG-LIEM-HVDS