TRANG VĂN + THƠ: CAO MỴ NHÂN


VĂN – CAO MỴ NHÂN
CHIỀU VÀNG. CAO MỴ NHÂN
Cái thế hệ ” Chiều vàng ” của chúng tôi, đang lần lượt bước qua lằn ranh quá khứ. Tôi chưa kịp nói hết câu mở đầu, rằng ông trở lại với khán thính giả muốn nghe kỹ hơn về trận chiến Hoàng Sa ngày 19 – 1- 1974.
Vị Thiếu tá bộ binh Ban Lãnh Thổ thuộc Phòng 3 Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I/ Quân Khu I, tên bình thường là Phạm Văn Hồng, đã mặc nhiên có tên trong Quân Sử VNCH một cách đương nhiên phải thế.
Cách đây ít năm, một cơ quan truyền thông đã phỏng vấn Thiếu Tá Phạm Văn Hồng, trưởng phái đoàn tù binh VNCH bị quân Trung Cộng đánh chiếm đảo Hoàng Sa bắt, vào giáp tết nguyên đán ngày 19 – 1 – 1974 .
Nhưng trong cuộc phỏng vấn chớp nhoáng ấy còn nhiều hạn chế về thời gian, cả quý vị hỏi lẫn khách trả lời, nhất là Thiếu tá đương sự, còn chưa hết bâng khuâng, căm hận khi nhớ lại tình huống Quân ta bị bắt như có bàn tay ” thế sự ” xếp đặt.
Nên chi cuộc phỏng vấn mới nhất này, của một nhóm có thể là biết tình thế thời sự Hoàng Sa chi tiết hơn.
Tất nhiên, Thiếu tá Phạm Văn Hồng mở rộng tầm nhìn thật chính xác về một Hoàng Sa bị đánh cướp như thế nào .
Trước tiên, tôi lại xin phép quý vị là trong bài viết này, tôi chỉ kể chuyện ” cũ “, nên không phải là điều nhận định như quý vị thường tìm thấy ở các cây bút ” tham luận ” .
Lý do rất dản dị, là Thiếu tá Phạm Văn Hồng với tôi cùng phục vụ tại Bộ Tư Lệnh QĐI/QKI.
Kế tới, sau khi Thiếu tá Hồng và đoàn ta bị Trung Cộng bắt ở ngay Hoàng Sa, nơi ông phải thực hiện chuyến công tác vào trung tuần tháng Jan / 1974, Phòng Xã Hội QĐI/QKI đã đi thăm viếng, yểm trợ tinh thần gia đình ông gồm phu nhân ông và con cái.
Sau cùng, Thiếu tá Phạm Văn Hồng đã từ bên kia bức màn sắt của Trung Cộng trở về VN, cùng với mấy chục bạn tù hiện diện ở trận Hoàng Sa. ..ông đã viết một tập hồi ký, kèm hình ảnh, với tựa đề : ” Người về từ Trung Cộng.”
Ông có nhờ tôi làm sao để phổ biến trong hàng ngũ huynh đệ chi binh bấy giờ, chứ không phải tham vọng muốn làm nhà văn, nhà viết gì cả.
Và chính yếu tố thứ 3 này, hôm nay tôi mạo muội kể lại quý vị lính nghe.
Từ Phòng 3 QĐI/QKI, Thiếu tá Phạm Văn Hồng xuống Phòng Xã hội QĐI/QKI với tập bản thảo được đánh máy ( kiểu thủ công ngày xưa trước 1975 ), có kèm một số hình ảnh mà lúc ở trại tù bên Quảng Châu do ông thu nhặt được.
Thí dụ : Đại trại , đại khánh, kịch văn công vv…
Tôi rất hào hứng, không phải việc làm của Thiếu tá Hồng có ý gì khác, ngoài ý muốn để người dân miền nam hiểu thực tế cái xã hội Trung Cộng như thế nào.
Tôi thoáng nghĩ tới cụ nhà văn danh tiếng, hàng xóm nhà ba tôi ở hẻm đầu tiên cư xá Chu Mạnh Trinh Phú Nhuận.
Cư xá có những quý vị tên tuổi ở xã hội miền nam như: nhạc sĩ Phạm Duy, nhạc sĩ Tuấn Khanh, nhà văn Duyên Anh vv…, và cụ nhà văn Nguyễn Mạnh Côn.
Chính là tôi điếc không sợ súng, tôi viết thư gởi cụ lão thành trong nghề báo chí, văn chương là cụ nhà văn Nguyễn Mạnh Côn nêu trên, coi và cho ý kiến phổ biến sách đó.
Thế là Phạm Văn Hồng hăm hở đi Saigon với mong muốn được in ấn, phát hành cuốn hồi ký : ” Người về từ Trung Cộng” của ông.
Mấy ngày sau, Thiếu tá Phạm Văn Hồng về lại Đà Nẵng, nơi Bộ Tư Lệnh QĐI/QKI đồn trú.
Tất nhiên Thiếu tá Hồng không ôm tập bản thảo đó xuống gặp tôi, ông ta đi tay không, thong thả và cười một cách rất lính, rồi nói : ” Cao Mỵ Nhân ạ, cụ ấy sợ gì chẳng rõ, cụ ấy bảo in ra, phát hành không có lợi …” .
Tôi cắt ngang:” Lợi cái gì chứ, sao lại không có lợi ? “.
Thiếu tá Hồng thốt ngắn gọn : ” Thì thôi, không cần, tôi có muốn làm văn sĩ đâu .”
Sau này tôi mới tiếc , là vì Cục Tâm Lý Chiến có cả một nhà in riêng. Tôi bận rộn và có chút tự ái, không muốn in thơ ở đó, nhưng hồi ký quân sự và chính trị ” Người về từ Trung Cộng ” của Thiếu tá Phạm Văn Hồng, thì tại sao tôi không nhớ ra, là trong huynh đệ chi binh có đủ phương tiện, sao tôi không thân chinh cùng Thiếu tá Phạm Văn Hồng đi gặp vị Cục Trưởng Cục Tâm Lý Chiến, là Đại Tá Hoàng Ngọc Tiếu, tức thi sĩ Cao Tiêu, đại tá sẽ giúp đỡ ngay.
Bởi vì hồi đó, tôi quá thần phục quý vị văn nghệ sĩ dân sự. Tôi đã để lỡ một dịp may cho người bạn cùng đơn vị.
Lẽ ra tôi phải hiểu là Thiếu tá Phạm Văn Hồng có nhiều đặc điểm, một sĩ quan cấp tá xuất thân từ Võ Bị Đà Lạt, một Đại đội trưởng Biệt Kích, đã bị thương trong mặt trận Quảng Trị, rồi mới được về Phòng 3 Quân Đoàn. Lại bị tù bên Trung cộng, vv…
Hôm nay nghe cuộc phỏng vấn mới về trận chiến Hoàng Sa
ngày 19 -1 -1974, thấy Thiếu tá Khoá 20 Võ Bị Đà Lạt vẫn phong độ trong cung cách riêng của quân nhân các cấp Quân Lực VNCH.
Tôi vẫn kính phục ông, như kính phục huynh đệ chi binh khác, và có chút ân hận là không giúp được ông chuyển tải những gì ông thấy ở trong cũng như ở ngoài phạm vi Quân Lực VNCH, nhất là chuyện phải đi tù ở Trung Cộng, quan thày của Cộng sán bắc việt nói riêng và csvn nói chung .
Tôi liên tưởng tới câu nói của bí thư nào đó đảng Cộng Sản Bắc việt xưa: ” Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Nga Tàu ” mà khinh miệt đám người vong bản đó, csvn, từ trong trứng nước cái tư tưởng nô lệ một đại cái bang, tập đoàn bành trướng Bắc Kinh vô thần, vô tổ quốc, vô gia đình …
Thiếu tá Phạm Văn Hồng chắc đã hiểu rằng bây giờ cả Thế giới đã đổi khác, bây giờ có computer, internet…không cần phải ky cóp đánh máy như ông làm cái hồi ký khốn khổ hồi đó nữa…
Thế nên thời nay mọi người đều biết , mọi sự đều được phơi bày nơi truyền thông, báo chí …Những người ở bên kia bức màn sắt, đã đang và sẽ được hiểu biết những gì trên thế giới trong phạm vi sinh hoạt hôm nay…
Những cái mốc lịch sử đã khiến người ta trong hay ngoài cuộc, tự nhiên phải nhớ …để đời.
Tôi được mấy người bạn lính gởi cho cái ” you tube ” giới thiệu cuộc phỏng vấn thiếu tá Phạm Văn Hồng,nhân kỷ niệm cuộc hải chiến Hoàng Sa 19- 1 – 1974.
Nghe lại Thiếu tá Phạm Văn Hồng ở kỳ phỏng vấn này, tôi thấy rõ ràng hơn, đầy đủ hơn, ông quả là một sĩ quan Phòng3 phân tách kỹ, cung cấp đầy đủ những điều mà nếu xem thường sẽ rơi vào khuyết điểm, mặc dù trình bầy sự thật …
Tôi nói với ông là mỗi năm tôi chỉ gặp lại ông vào ngày kỷ niệm trận chiến buồn đó. Và rất tình cờ mỗi lần điện đàm, là một lần nghe ông thông báo một chút về thế hệ ” Chiều vàng” ở Đà Nẵng xưa.
Lần này gặp qua phone, ông thông báo đang thăm người bạn đồng cấp, nguyên là Chánh văn phòng Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn mang số một La Mã mầu đỏ của …tôi.
Người bạn này đang ở giờ thứ 25, Thiếu tá Hoàng Xuân Đạm, thật là buồn, ôi cái thế hệ ” Chiều vàng “, héo hắt những tàn lá mùa thu vàng võ … buồn thiu …lần lượt bay đi mất hút…
CAO MỴ NHÂN
**
ĐÁM MÂY VÀNG. CAO MỴ NHÂN
Buổi sáng ở Denver Colorado, tôi theo gia đình chị Nhàn, nguyên chị là một nữ tiếp viên hàng không, của hãng Hàng Không Việt Nam ( Air Vietnam ) thời đệ nhị Cộng Hoà ( Việt Nam Cộng Hoà ) lên ngọn núi danh tiếng sát ngay thành phố đá đó để ngoạn cảnh.
Trên đỉnh ngọn núi này, có một ” đại hí trường ” có thể chứa hàng chục ngàn tân khách.
Chung quanh đại sảnh trường đó, toàn là vách đá dựng cao ngất, nhưng lòng động lại mái trống, lộ thiên .
Gia đình chị Nhàn đông đủ dâu rể cháu nội ngoại, tất cả đều tỏ ra thân quen với lâu đài hí trường khổng lồ đó .
Nghe tiếng gió từ bốn phương đổ về, chị Nhàn nói với tôi một cách trân trọng lắm : ” Mỵ ạ, nơi đây người ta còn gọi là Chiếc đàn ” Phong cầm gió ” vĩ đại nữa đấy .
Tôi chỉ biết ngưỡng mộ và thán phục thiên nhiên, Đấng Tạo Hoá đã cho nhân thế này bao nhiêu là công trình tuyệt tác.
Đang lúc mọi người trầm trồ khen ngợi vũ đình trường gió mưa sương gió thiên nhiên, tự đến, tự đi tới cái động to lớn mịt mù đó, thì nóc động hửng lên một khung nắng rỡ ràng..
Một đám mây mầu vàng mỡ gà lững thững bay qua, tưởng như tà áo của thiếu nữ nào rơi trên mái động …
Chị Nhàn và tôi đều sững sờ thốt :
” Mây vàng Hà Nội ” .
Tại sao mây Hà Nội mầu vàng ?
Ôi phải rất nhiều lời , hay rất nhiều thì giờ mới giải thích được điều thơ mộng đó, chỉ biết rằng nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh ngày xưa, đã mang mây vàng từ trung nguyên về Hà Nội.
Và gần nhất với tôi thủa là thiếu nữ ở Saigon, đã có một nhà thơ tài tử, Nhị Thu viết cuốn thơ ” Mây Hà Nội ” , năm 1961, cùng lượt với cuốn ” Thơ Mỵ 1961 ” của tôi.
Tất nhiên tôi chỉ nêu ra hình ảnh mây vàng Hà Nội dĩ vãng , nghĩa là trước 20 – 7 – 1954, hay trước khi chúng tôi di cư vào Nam thời sông Bến Hải chia đôi đất nước .
Đám mây vàng lặng lẽ rời khỏi nóc vũ đình trường đá đó, nắng còn ở lại cửa động lộ thiên một thoáng, cả chị Nhàn và tôi đều như có chút buồn phảng phất .
Tôi hỏi chị một cách nhớ nhung rằng :
” Chị ơi, ngày di cư, em ở tuổi vài năm ” teen ” đầu, chị gần gấp đôi tuổi em, thủa đó, chị có may áo dài lụa mầu vàng mơ, và nhất là, chị có may áo ” vest ” mầu mơ chín ở phố Nhà Thờ Hà Nội không ? “
Chị Nhàn cười xa vắng :
” Thế Mỵ. cũng biết tiệm chuyên may áo vest ở phố Hàm Long đó à ? “
Bỗng lòng tôi chùng xuống chi lạ, ba tôi có lần đã cho mấy chị em tôi từ Hải Phòng về Hà Nội để may cho mỗi đứa một áo vest mầu vàng mơ tuỳ theo sở thích, hoặc mơ non, mơ chín, mơ sậm, mơ lạt vv…
Và chính buổi đi may áo dài, áo vest ở hiệu may danh tiếng phố Hàm Long xa xưa ấy, mà tôi nhớ mãi mầu mây thu Hà Nội . Ôi, có thể nói, ngoài mây thu vàng ở cái nơi tôi chỉ thấy đẹp thủa ấu thơ và thiếu niên ra, tôi không còn thấy thêm cái chất Hà Thành thanh lịch trong văn chương tiền chiến nữa .
Thế nhưng hôm nay, tôi muốn nhắc tới một mầu mây Hà Nội rất kinh điển, chính mầu mây vàng lợt thôi, nhẹ nhàng , thơ mộng mà những người đã một thời say đắm nó, mây Hà Nội, như nhà thơ Nhị Thu, hay sau này , khi tôi lớn lên, trưởng thành rồi già đi như bây giờ, sắc mây vàng mỡ gà, vừa rực rỡ, vừa hoang mê, vừa thần thoại, chỉ còn trong cổ tích mất mát thôi.
Ngay tức khắc tôi nhớ tới quý vị sĩ quan Quân Lực VNCH danh tiếng thơ văn lẫy lừng thuộc Cục Tâm Lý Chiến, không thể nào không nhắc tới mây vàng cố đô Thăng Long, là các vị người Bắc di cư năm 1954.
Để rồi tôi ngồi một mình xót xa, bây giờ ” điểm danh lại ” thì số quý vị đó đã không còn trên trái đất : Thi sĩ đại tá Cao Tiêu, Thi sĩ, Hoạ sĩ Tạ Tỵ , Nhà văn Trung tá Hà Thượng Nhân, Nhà văn Trung tá Phan Lạc Phúc, Nhà văn Thiếu tá Đặng Trần Huân, Nhà văn Thiếu tá Phạm Huấn , Thi sĩ Đại uý Du Tử Lê, Thi sĩ Trung uý Thanh Tâm Tuyền .
Thưa , rất nhiều văn nghệ sĩ quân đội, gốc Hà Nội, nhưng ở các đơn vị khác, chẳng hạn Nhà văn Trung tá Duy Lam ở QĐI/ QKI, Nhà thơ Trung tá Cung Trầm Tưởng ở Bộ Tư Lệnh Không Quân VNCH, Nhà thơ Trung tá Hoàng Ngọc Liên ở Binh Chủng Nhảy Dù VNCH.
Hay, Thi sĩ Thiếu tá Tô Thuỳ Yên Trưởng phòng Văn Nghệ Cục Tâm Lý Chiến VNCH, nhưng ,không gốc Hà Nội .
Tôi chỉ đan cử hôm nay về quý vị Sĩ quan QLVNCH gốc Bắc di cư đã mãn phần , và ít nhiều một thời gắn bó tới mầu mây vàng Hà Nội thôi.
Bởi vì quý vị nêu trên đã mang theo sắc mây vàng quá khứ ra đi. Và , thực sự tôi muốn hoài niệm hình ảnh Thi Sĩ đại tá Cao Tiêu cùng phu nhân đã thưởng lãm mầu mây vàng Hà Nội ở Hồ Gươm, trước khi Thi Sĩ Cao Tiêu tức cựu Đại tá Hoàng Ngọc Tiếu nhập ngũ .
Một bức ảnh đen trắng xưa, trên một ghế đá ở bờ hồ Gươm Hà Nội, Thi sĩ và phu nhân ngồi ngắm mây thu lượn quanh thành phố được tiếng là thanh lịch từ các thế kỷ trước .
Buổi tôi hướng dẫn các động tác tập thể dục Dưỡng Sinh cho quý cụ cao niên, bịnh hoạn ở Câu Lạc Bộ Dưỡng Sinh Saigon , sau khi tôi ra tù cải tạo.
Tôi tiếp chuyện một vị rất trưởng thượng quen quen .
Cụ cho tôi coi một bao hình nhỏ, cụ đưa tôi bức hình vừa nêu, cụ hỏi :
” Cô có biết Đại tá Hoàng Ngọc Tiếu không, Thi sĩ đấy …”
Tôi thưa với cụ là Thi sĩ Đại tá Cao Tiêu .
Cụ gật đầu : ” Ông ấy là em ruột tôi ” .
Tôi a lên mừng rỡ , cụ tiếp ” Tôi là Hoàng Mai Đạt ” .
Cụ Hoàng Mai Đạt nghệ sĩ hơn Đại tá Cao Tiêu, cụ vẫn vui vẻ thơ ca ở Câu lạc bộ Dưỡng Sinh trước khi qua Hoa Kỳ sau đó ít lâu .
Lại một câu chuyện về mây thu Hà Nội, cụ Hoàng Mai Đạt kể : ” Tôi biết cô không ở Hà Nội nhiều như chúng tôi, cái thế hệ mà thanh niên của thành phố có nhiều hồ, nhiều hơi thu lành lạnh, những đám mây vàng nhẹ như mối tơ vương sắc vàng rơi lững lờ trên thành phố thơ mộng từ ngõ hẻm ra đại lộ .
Tôi lắc đầu, ” cháu không phải người Hà Nội của các cụ nhìn đâu cũng thấy chút gì vừa thân mật vừa kín đáo . Cháu lớn lên ở Saigon. Khung trời rộng quá, hầu hết mây trắng 4 mùa, nếu mây xám là sắp mưa…đơn giản, mau chóng như những cơn mưa rào, thật nhanh và chưa kịp lạnh cụ ạ .
Thế rồi thì mỗi người mỗi chạy theo cái dòng chảy không riêng lẻ, nên chẳng thấy cô đơn lắm.
Tôi qua Hoa Kỳ theo diện tị nạn, lại càng chẳng bao giờ nhớ cái mùa thu mây vàng như trong văn chương thơ nhạc tiền chiến, hay trước ngày đất nước qua phân .
Tôi cũng không về Bắc sau khi mọi người bảo là ” thống nhất ” . Tôi không nhớ nhung gì hết phần đất bên kia sông Bến Hải, dù tôi rất nhiều lần đứng bên cầu Hiền Lương do công tác xã hội tôi phục vụ trong Quân Lực VNCH, suốt cả chiều dài lãnh thổ từ Bến Hải tới Sa Huỳnh, cận nam Quảng Ngãi .
Cũng có lúc tôi buồn nhìn mây bay, nghe gió thổi ở miền địa đầu giới tuyến, nhưng quả thực, không thấy lại mây mầu vàng mỡ gà mà thuở thiếu niên ba tôi cho về Hà Nội, để may áo vest ở phố Hàm Long, e chỉ còn trong ký ức rất xa xăm.
Và hôm theo gia đình chị Nhàn lên núi nghe gió hú trong đại hí trường, có một làn mây vàng ấm áp nhưng mong manh bay ngang đỉnh động đá khối khổng lồ, lộ thiên năm 1996.
Mầu mây vàng bất ngờ, khiến tôi nhắc đến hằng loạt tên tuổi những nhà thơ văn xuất thân ở Hà Thành thanh lịch, đã một thời hội tụ ở khuôn viên Cục Tâm Lý Chiến VNCH, rồi lưu vong, thả mây thu Hà Nội đi bát ngát, mênh mông…
Quý vị ấy không ai gặp ai nữa, kể cả những đám mây vàng tan loãng, hay đổi mầu trong không gian vô cùng mịt mù ngoài vũ trụ mênh mông…
Hawthorne 10 – 6 – 2021
CAO MỴ NHÂN
**
CHIẾC LÁ PHONG. CAO MỴ NHÂN
” Mùa đã vàng chưa sắc lá thu ?”
Đã sang thu rồi mà mình còn tiếp tục dậy sớm, bởi vì mình muốn gặp anh trong nỗi nhớ nhung tuyệt vời, chỉ khoảnh khắc thời gian âm dương chuyển dịch đó, đêm sắp tan ra và ngày sẽ đưa mặt trời trở lại thế gian này, mình mới quên đi nỗi nhớ.
Anh khuyên mình nên sống vô tư, hồn nhiên theo ý Chúa.
Không. Mình sẽ chẳng bao giờ theo ý Chúa khi mùa thu vàng lá chờ mong, khi anh còn cách biệt mình cả một đại dương thầm kín tình buồn .
Hỡi anh ” Yêu Quí ” ơi, anh có biết hôm nay mình khóc sớm hơn hôm qua, và những hôm qua, mình khóc sớm hơn những hôm kia không?
Anh không thực sự hay giả bộ lơ là với nỗi ” Tình Thu ” của đất trời chung và của mình riêng đâu.
” Tại sao phải lơ là, dù tôi không là thi sĩ, nhưng lòng dạ vẫn mang mang mầu mây biếc ở thành San đấy chứ …”
Thế sao anh không mang mùa thu đến sớm cho mình …buồn .
Ố ô, dại quá Mỵ ơi, dẫu :
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu…
Một cánh lá phong rơi, vàng võ cả không gian, nhân gian đều đón đợi thu về, sao phải buồn thế chứ .
Hỡi anh ” yêu quí “, sao cứ gọi tên anh hoài, anh đang muốn trốn mình trong những vách núi thành San, để đọc lại bài thơ ” Thành San thu biếc ” của người tình lỡ trăm năm, nhưng vĩnh cửu ngàn năm không phai tàn sắc lá …thu vàng .
Ố ô, lại ” Ố ô” , tiếng reo vui của một cuộc tình không bao giờ chấm dứt .
Anh hỏi sao chưa chán mùa thu ư, mà cứ thích nhìn sắc mầu thương nhớ thế, anh sẽ hiện diện nơi thơ như một dấu tích hằn sâu nỗi nhớ nhung, người thơ thường ghi lại trong mỗi bài tình thơ đầy khói sương bao phủ, để chiếc lá vàng kia lẫn vào sắc lá huyền mơ tuyệt vời hư huyễn.
” Mùa đã vàng chưa sắc lá thu ”
Mình đã đến tận Colorado, lên tới Minnesota…chỉ vì hình ảnh những cây phong chan chứa sắc thu vàng, những năm khí núi hơi rừng huyền hoặc tình thơ, không sao xoá nổi mặt trởi ủ rũ nét u sầu .
Mình chưa kể cho anh nghe, vì anh chẳng khi nào thích nghe chuyện hão huyền, còn mình thì lại vô cùng huyễn ảo.
Rằng ngày xưa mới đó, nhưng nay khách văn chương đã trở thành người thiên cổ.
Khi còn học trung học, cô giáo Ninh dạy Việt văn ( xưa còn kêu là Giảng văn ) cho phân tích đoạn văn ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH của cụ NGUYỄN DU, bậc thi hào có lẽ chưa ai thay thế được, đoạn thơ có cảnh rừng phong :
Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm mầu quan san
Dặm hồng bụi cuốn chinh an
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường …
( Đoạn Trường Tân Thanh – Nguyễn Du )
Điều tôi muồn kể quý vị và anh nghe, là cây phong lá vàng trong thơ cụ Nguyễn Du, dấu tích cuộc chia tay, Thúc Sinh và Thuý Kiều, cuộc chia tay tình nghĩa nhất của Thuý Kiều .
Cây phong mà văn chương Trung Hoa phong kiến xưa gọi cây ngô đồng, mọc đầy rẫy ở Hoa Kỳ hiện nay vậy.
Thế thì, khi cây phong rụng chiếc lá vàng đầu tiên, cả thiên hạ đã biết mùa thu đang về .
Khi mới học và đọc :
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu…
Tôi ngập ngừng trước bài viết của vị nào đó về cây ngô đồng là cây ” vông đồng ” có lá gói nem chua ở miền nam.
Tôi còn khờ đến nỗi tưởng chiếc lá ngô của cây bắp vẫn cho trái bắp luộc, bắp nướng như ở Dalat .
Tuy nhiên tôi cũng tự hiểu là chiếc lá ngô bắp dài thoong bao bọc cây bắp đó làm sao rụng được, vì khi muốn bỏ lá bắp ấy , người ta phải tước ra .
Thế thì một ngày kia, không khí Saigon gần Noel, trời cũng se lạnh. Tôi tới Úc Viên thăm Nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội , tôi cũng giả bộ đọc :
” Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu…”
Nữ sĩ Mộng Tuyết hỏi tôi:
Cao Mỵ Nhân biết lá ngô đồng như thế nào chưa ?
Tôi lặng thinh, vì …cả đời tôi đã biết ” cây ngô đồng ” đâu . Nữ sĩ Mộng Tuyết lẳng lặng mở tủ sách nơi phòng khách lớn , bà rút một cuốn sách dày. Đoạn bà mở một trang sách mà Nữ sĩ Mộng Tuyết đã ép mấy chiếc lá phong vàng ở Đài Loan trong dịp Nữ sĩ Mộng Tuyết đi họp Văn Bút Thế Giới năm nào đó, và trao cho tôi, bà nói :
” Để Cao Mỵ Nhân biết lá ngô đồng mùa thu đó nghe ”
Thế rồi thì một phần dân tộc theo đông tiến sau 30 -4 – 1975. Tôi đã tận mắt thấy từng loạt lá ngô đồng rụng như mưa rơi , không còn huyền thoại nữa .
Nhưng với tôi, tôi đến Hoa Kỳ trong mùa lá rụng, và gặp anh trong mùa lá rụng sau này .
Thế ư ? Anh có là Thúc Sinh đâu, và mình càng chẳng phải Thuý Kiều chứ, song tuổi tác đã thu phong lá vàng, nào có cần chi phải thấy một chiếc lá phong bay trước mặt, để thấy mùa thơ mộng nhất trong mỗi năm đã trở về .
Chính mình dẫu có anh hay không, mùa thu đã sẵn trong tâm hồn chứa chan sắc lá …văn chương đó rồi .. .
CAO MỴ NHÂN
**
THƠ – CAO MỴ NHÂN
THẢ NHẸ TIẾNG BUỒN. – CAO MỴ NHÂN
Mỗi lần anh đọc thơ em
Là tình yêu trải đầy thềm nhớ nhung
Tiếng buồn thao thức bên lưng
Khiến anh nhìn lại, bâng khuâng nụ cười
*
Em không thốt được một lời
Tiếng buồn thả nhẹ lên trời,bay cao
Mai đây dẫu ở phương nào
Sau lưng vẫn tiếng thì thào của anh
*
Quan san từ thủa tóc xanh
Đến nay nụ trắng trên cành sương hoa
Thơ em ướt giọt châu sa
Cuộc tình dịu ngọt như là quả non
*
Cần chi lòng dạ sắt son
Trái tương tư vẫn đang còn đong đưa
Tiếng buồn phảng phất hương xưa
Quả non chín đỏ môi chưa hẹn hò …
CAO MỴ NHÂN (HNPD)
29 – 9 – 2024
LÁ THU. CAO MỴ NHÂN
Anh về hái lá thu xanh
Đã phai sắc mộng biến thành huyền mơ
Lá phong vội đổi vàng tơ
Lẫn trong mầu nắng hoang sơ đẹp buồn
Tuổi mình vướng bận hoàng hôn
Thắm hương tri kỷ tâm hồn lãng du
Ngô đồng rụng chiếc lá thu
Bay theo bóng nhỏ mịt mù nhớ thương
Sao thu không thả màn sương
Lại hong ánh lửa cuối đường heo may
Hắt hiu chiếc lá trên tay
Phải bao nhiêu lá mới đầy tình em
Ô hay, lá rụng vàng thêm
Bâng quơ câu hỏi vương thềm thu ơi
Áo thay khi thấy mây trời
Cũng vàng như lá tuyệt vời ý thu …
CAO MỴ NHÂN
***
GỌI THU VÀNG. CAO MỴ NHÂN
Đã đến, đã đi, và đã nhớ
Một thời thu bắc khứ Hoa Kỳ
Lá vàng rực rỡ mầu xa xứ
Chan chứa vàng thu sắc đắm si
*
Lạ quá, có gì mà quyến rũ
Hồn em, không , chỉ có thơ thôi
Thơ ư , tất cả toàn con chữ
Anh ở đâu, em nhớ tuyệt vời
*
Sao không mơ mộng mà thương nhớ
Tại lá vàng theo bướm vàng ư
Cả một trời vàng , mây giống lá
Bay vào vũ trụ , gọi là thu
*
Vậy anh có đến xem thu mãn
Thu thịnh , thu khai, thu vãn buồn
Đang gọi nhau về , vàng lá vãng
Rụng tràn xuống cỏ, đẫm thu chôn…
Los Angeles 25 – 9 – 2021
CAO MỴ NHÂN
**
TƯỞNG MÙA THU. CAO MỴ NHÂN
Hôm đó tưởng mùa thu
Em đưa hết sương mù
Trên tay cho anh giữ
Rồi khóc thầm trong thơ
*
Nhưng anh xua lá vàng
Gọi nắng về chứa chan
Trao em nguồn hy vọng
Giữa chiều buồn mênh mang
*
Em hỏi anh thu chưa
Hình như mây lưa thưa
Chút mông lung hò hẹn
Trên đỉnh núi sắp mưa
*
Khói trắng vờn tóc xanh
Cuộc tình sau mong manh
Không còn chi giữ lại
Cả giọt sương long lanh…
CAO MỴ NHÂN
**
TIẾNG QUỐC KÊU THU. CAO MỴ NHÂN
Thưa anh, mùa thực sự buồn
Mây vừa chở nắng đi luôn không về
Hoàng hoa nở tự trong mê
Tràn ra đường vắng lê thê thu vàng
*
Mấy vần lục bát sang trang
Thơ mang hồn mộng dở dang chuyện mình
Ô hay thời tiết đoan trinh
Trăm năm vẫn một cuộc tình chúng ta
*
Thưa anh, sương khói đang sa
Mầu vương sắc tím quê nhà lối xưa
Này em gió mới lưa thưa
Tóc bay, anh tưởng ta chưa hẹn hò
*
Bên sông bụi trắng mơ hồ
Nước tan sóng vỡ vi lô bạt ngàn
Chẳng còn dấu tích giang san
Cô đơn tiếng quốc gọi đàn hồi quy…
CAO MỴ NHÂN
**
TUỔI VÀO THU. CAO MỴ NHÂN
Tuổi vào thu, hẳn đời tươi mát lắm
Vì nước xanh và mây lặng lờ trôi
Vì khói lam và sương êm ả thôi
Nhưng hoa nở thì vàng chan chứa nắng
*
Hoa nở nhiều, nên càng nhiều cánh bướm
Bướm lượn vòng như đuổi bắt thời gian
Tuổi vào thu, thời gian càng vấn vương
Từng sợi tóc phai dần mầu đấy nhé
*
Ô, có gì phải ưu tư đâu nhỉ
Tuổi vào thu là tuổi đẹp nhất đời
Phải không anh, soi ngắm thử nụ cười
Suy ngẫm thử tháng năm xa bát ngát
*
Anh sẽ thấy những gì viên mãn nhất
Có hay không trong thời điểm này đây
Được hay thua như một thoáng hơi say
Rồi đọng lại tuổi vào thu chất ngất …
CAO MỴ NHÂN
***