Bình luận

L.m. An-rê Đỗ Xuân Quế o.p. : Cánh chung luận là gì?

ÔNG GIÁM MỤC CÁNH CHUNG LUẬN

 

 

                                                                        Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

 

     Giám mục Nguyễn Văn Khảm vốn là một nhân vật nổi tiếng về khoa ăn nói, dân nhà quê như người viết gọi là  lẻo mép, còn bậc trí thức người ta kêu là hùng biện. Một nhà hùng biện làm tới giám mục giáng về vấn đề “Cánh Chung” trong đạo thì nhất định là đúng người, đúng việc rồi chứ có gì mà phải théc méc. Ấy vậy mà sau khi ngài giám mục giảng, con chiên bổn đạo nổi lên nhao nhao phản đối. Sự thể đáng sợ thật, chỉ sợ tội thôi, bởi vì Chúa dậy trong Phúc Âm rằng tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ kia mà. “Họ” ở đây là chỉ các “đấng làm thầy” (tiếng nhà đạo). Dám cãi lại lời đức cha là tội trọng, chết sa hỏa ngục chứ chẳng chơi. Thế nhưng, đọc kỹ lại đoạn Phúc Âm thì mới thấy yên tâm. Chúa khuyên người Do Thái nên nghe lời giảng dậy của các kinh sư khi họ ngồi trên tòa Moyses để giảng lời Chúa, chứ không phải Chúa bảo bổn đạo VN phải nghe lời giảng của giám mục Nguyễn Văn Khảm. Vì rằng, bài giảng của ngài giám mục không dính dáng đến Chúa, mà nói về Marx. Như vậy không những là lạc đề, mà còn đưa đến nhiều nghi ngờ trong con chiên bổn đạo nữa. 

      Ngày lễ kính Chúa Kitô Vua (Christ the King), giám mục Khảm không giảng theo nội dung của ngày lễ, mà lại lái sang vấn đề cánh chung, còn là cánh chung của Karl Marx mới chết, không lạc đề thì còn là gì nữa. Nói thế thật ra cũng chưa đúng hẳn, vì Phúc Âm ngày lễ Chúa Kitô Vua theo thánh sử Mathew có đề cập đến vấn đề Cánh Chung. Nhưng cánh chung ở đây là ngày tận thế, Chúa quang lâm ngự xuống phán xét nhân loại, người lành cũng như kẻ dữ. Cuối cùng Thánh Sử kết luận: Thế là họ (kẻ dữ) ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời. Đấy là giáo lý và là học thuyết về Cánh Chung của người công giáo.  

     Ít nữa trong ngày lễ này, người tông đồ của Chúa như giám mục Khảm phải giảng thuyết làm sao chứng minh cho giáo dân thấy, và để thuyết phục những người chưa tin Chúa, nhất là bọn cộng sản vô thần chung quanh ông rằng, Chúa Giêsu là một vị đế vương. Ngài xứng đáng là vua thật. Hơn nữa còn là một minh quân, một vị hoàng đế rất thương yêu dân, biết lo cho dân, nhưng vấn đề thưởng phạt của Ngài cũng rất mực công bình, không thiên vị ai bao giờ. Con người chết đi bị Ngài xét xử để được luận thưởng hoặc phạt theo những việc làm của họ khi còn tại thế. Đó là sự cánh chung của người công giáo. Cũng nên nói cho bọn cộng sản chung quanh ông hay rằng tuy Chúa là vua, nhưng chúng mày đừng có sợ. Ngài không tranh quyền đoạt vị của chúng mày đâu, bởi vì chính Ngài đã xác nhận trước mặt Tổng Trấn Philatô, đại diện của Hoàng Đế La Mã rằng, nước của Ngài không phải là quốc gia trần tục, mà là Nước Trời. Tài cán và hùng biện như giám mục Nguyễn Văn Khảm mà sao không vẽ ra được một thiên quốc hấp dẫn để chiêu hồi bọn cộng sản. Rằng, Nước Trời là một quốc gia có tự do, và cũng có kỷ cương, chứ không loạn xà ngầu giống như nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa của chúng mày, bởi vì ở đấy có một vị vua anh minh là Chúa Kitô. Ngài lấy đức mà trị dân. Người dân trong nước của Ngài lấy thương yêu bác ái để đối xử với nhau trong tình huynh đệ. Do đó Nước Tròi của Chúa mới là Thiên Đường thực, khác xa cái thiên đàng viển vông của Karl Marx nơi trần thế.  Ở Nước Trời không bao giờ có chuyện ngưòi bóc lột người. Ở đó mới có công bình và công lý thật. Mọi công dân trong Nước Trời của Chúa mới sống đích thực mình vì mọi người và mọi người vì mình. Họ không phải lao động cực nhọc mà vẫn sung mãn và hạnh phúc tràn trề …… 

     Thiếu gì chuyện để diễn giảng về vương quyền và lòng nhân hậu của Vua Giêsu ông giám mục không nói tới, mà lại nói về vấn đề Cánh Chung của Karl Marx, thế mới là trật duộc và sinh chuyện. Cánh Chung là gì thì lời giải thích và thí dụ ông giám mục đưa dẫn chứng cũng lại sai bét luôn. Theo từ điển Thiều Chửu, Cánh có nghĩa là trọn vẹn, sau rốt. Thí dụ như: hữu chí cánh thành nghĩa là có chí sau cùng nhất định sẽ thành công. Hoặc, cứu cánh nghĩa là xét đến cùng của sự việc. Còn chữ Chung có nghĩa là hết hoặc chết. Cánh Chung là một từ kép hán nôm, các nhà dịch giả và chú giải Kinh Thánh dùng để nói về ngày tận thế, Chúa quang lâm để phán xét loài người. Tiếng Anh chữ Cánh Chung là Eschatology, là môn nghiên cứu về những sự việc sau hết ( the study of the “last things”). Last Things trong ngoặc kép muốn nói là những sự việc sau cùng của cuộc đời sau khi con người nhắm mắt xuôi tay. Đây là một luận đề phổ thông trong các tôn giáo, nhất là Thiên Chúa Giáo và Do Thái Giáo. Eschatology bàn về số phận sau cùng của thế giới, của loài người, và của mỗi cá nhân. Cánh Chung trong giáo lý Công Giáo bao gồm các học thuyết về sự chết, sự sống lại, thiên đàng, hỏa ngục, sự trở lại của Chúa Giêsu và việc phán xét của Ngài. Như vậy Cánh Chung luận là luận về sự việc gì xẩy ra ngay sau cái ngày tàn của vũ trụ vạn vật hay cái chết của mỗi con người, hoàn toàn không phải là đường lối giải quyết những vấn đề thực tại của xã hội trần tục. Rõ ràng, một đàng là những vấn đề sau cái chết, còn một đàng là những vấn đề của con người còn đang sống. Hai vấn đề hoàn tòan khác nhau. Giám mục Nguyễn Văn Khảm đã thuyết giảng ra ngoài vấn đề của ngày lễ, và còn giảng sai về đề tài mà ông đề cập tới. Dưới đây xin trích lại phần chính diễn giải chữ Cánh Chung trong bài thuyết giảng của giám mục Nguyễn Văn Khảm: 

    “Dĩ nhiên, bất cứ một tôn giáo nào cũng hàm chứa bên trong một cánh chung luận, triết thuyết nào có khả năng cung cấp cho con người một cánh chung luận hấp dẫn, cũng có nghĩa là cung cấp một niềm hy vọng có sức thuyết phục thì triết thuyết đó cuốn hút con người. Tôi lấy một cái thí dụ, ta đang sống rất là cụ thể trong một đất nước xã hội chủ nghĩa, dựa trên cái nền tảng triết học của Marx. Thế thì có nhiều người có thể nghĩ Mác xít vốn là một hệ tư tưởng vô thần cho nên là không có cánh chung luận. Không phải thế, trái lại nó có một cánh chung luận rất là hấp dẫn, rất là cụ thể, nó đã trình bày cái điểm tới của lịch sử nhân loại, là một xã hội cộng sản hoàn hảo trong đó:

  không còn cảnh người bóc lột người,

  mà mỗi một người trong anh chị em và tôi chỉ cần làm việc theo khả năng còn như cầu có bao nhiêu là cứ việc xài.

     Người ta sống với nhau trong tình huynh đệ, một thiên đàng tại thế, và khi mà có cái điểm tới của lịch sử cả nhân loại như thế, thì mỗi cá nhân trong lịch sử đó khám phá ra cái ý nghĩa của một sự hy sinh mình chịu. Tôi chết đi nhưng sự nghiệp của tôi vẫn còn tồn tại mãi trong nhân dân. Tôi hy sinh nhưng mà sự hy sinh đấy không vô nghĩa, bởi vì nó xây dựng cho thế hệ tương lai, xây dựng cho nhân dân.

     Trong cái cánh chung luận rất là cụ thể và hấp dẫn và chính vì thế nó đã cuốn hút cả triệu con người chấp nhận bao nhiêu hy sinh để xây dựng tương lai, cho nên có chứ không phải không đâu…” 

     Trích đoạn ngắn trên đây có thể nói là bản copy bức tranh cảnh thiên đàng trần thế mà Karl Marx đã tưởng tượng ra. Đó là một xã hội trong đó mọi người yêu thương nhau như anh em, không ai hà hiếp bóc lột ai, mọi người tự giác làm việc đúng khả năng và hưởng cái công lao động tùy theo nhu cầu của mình. Khung cảnh thiên đường tốt đẹp mà Marx vẽ ra hấp dẫn đến độ có hàng triệu con người dám hy sinh cả cuộc đời để kiến tạo nên nó. Những con người này chết đi chẳng cầu Niết Bàn của Đức Phật, cũng không mơ tưởng Thiên Đàng của Chúa. Họ cho là họ đã mãn nguyện rồi vì, “sự nghiệp của tôi vẫn còn tồn tại mãi mãi trong nhân dân.” Vô thần mà, đâu còn cái gì nữa sau khi chết. Câu này nói rõ ý nghĩa “cánh chung” của người vô thần. Đấy là Cánh Chung Luận của CS theo giám mục Nguyễn Văn Khảm. Ông không bình luận, nhưng sự diễn tả của ông cho thấy ông rất ngưõng mộ luận điểm Cánh Chung của Marx. Giám mục Khảm nói: “Trong cái cánh chung luận rất là cụ thể và hấp dẫn và chính vì thế nó đã cuốn hút cả triệu con người chấp nhận bao nhiêu hy sinh để xây dựng tương lai ….” Bởi vì ông giám mục giảng cho bổn đạo trong một thánh lễ, lời giảng của ông tức là lời giáo huấn, cho nên phải hiểu rằng giám mục Khảm chủ tâm dậy bổn đạo nên noi theo hàng triệu con người CS kia mà thực hiện cái cánh chung của Marx: mãi mãi để lại sự nghiệp trong nhân dân. Thế thôi, Thiên đàng là chuyện vớ vẩn chăng? 

     Cánh Chung của Marx tốt đẹp và hấp dẫn như thế, nhưng Marx là ai, và người đầu tiên có công lao nhất thực hiện Cánh Chung Luận của Marx là Lenin đã suy nghĩ thế nào về luận điểm này thì giám mục Nguyễn Văn Khảm lại không nói tới cho giáo dân của ông biết.  

     Hầu như mọi người trên thế gian này đều cho rằng Marx là một người vô thần (atheist). Điều đó chỉ đúng trên sách vở. Thực ra Marx là một ngưòi hữu thần. Ông ta không tin có Thiên Chúa hay bất cứ thần linh nào, nhưng ông lại là một tín đồ ngoan đạo của giáo phái thờ Satan (Satanist cult). Linh mục Richard Wurmbrand, một tác giả nghiên cứu thâm sâu về Marx, phát giác ra rằng Marx là một đệ tử của giáo chủ Joana Southcott, tông đồ của thần Shiloh tức Satan. Ngay từ hồi còn là sinh viên, Marx đã sáng tác những vần thơ ma quái như thế này:

                        The hellish vapors rise anh fill the brain,
                        Till I go mad and my heart is utterly changed.
                        See the sword?
                        The prince of darkness
                        Sold it to me.
                        For me he beats the time and gives the signs.
                        Ever more boldly I play the dance of death.

(Xin tạm dịch: những luồng gió địa ngục nổi lên tràn đầy cả trí óc, cho đến khi tôi bị điên loạn, và tim tôi toàn toàn đổi khác. Có thấy không cây kiếm mà vị hoàng tử của tối tăm đã trao nó cho tôi. Nó đánh nhịp và ra dấu cho tôi. Cứ như thế tôi càng hăng tiết đùa dỡn với tử thần.)

     Một câu hỏi đặt ra là, thế thì Karl Marx xướng xuất ra thuyết duy vật vô thần không phải là vô lý sao? Không đâu, lý thuyết Marx đẻ ra chỉ là để triệt hạ các tôn giáo, nhất là Thiên Chúa Giáo, sau đó xây dựng một thế giới mới không còn có thần linh mà chỉ tôn thờ tiền tài, danh vọng, và dục vọng mà thôi. 

     Nếu như Cánh Chung Luận của Marx đáng trân quí thật như Gm Nguyễn Văn Khảm ca tụng thì người thực hiện lý thuyết của Marx là Lenin đã chẳng phải hối hận trước khi nhắm mắt lìa đời. Trên giường bệnh, Lenin đã cay đắng thố lộ tâm sự thật của lòng mình như sau: I committed a great error. My nightmare is to have the feeling that I’m lost in an ocean of blood from the imnumerable victims. It is too late to return. To save our country, Russia, we would have needed men like Francis of Assisi (*). With ten men like him, we would have save Russia

(xin tạm dịch: tôi đã phạm phải một sai lầm lớn. Cơn ác mộng của tôi là cảm thấy như mình bị rơi vào trong một đại dương toàn máu của không biết bao nhiêu là nạn nhân. Quá trễ để quay đầu trở lại rồi. Để cứu nước Nga, quê hương của chúng ta, chúng ta cần có những con người như Francis Assisi. Được 10 người như ông ta, chúng ta có thể cứu vãn được nước Nga.) 

     Giám mục Nguyễn Văn Khảm nói chắc như định đóng cột rằng, bất cứ một tôn giáo nào cũng hàm chứa bên trong một cánh chung luận. Câu khẳng định này thiết tưởng cần phải được ngài giám mục làm sáng tỏ. Một vị gám mục tiến sĩ thần học không thể nói năng mù mờ được. Nếu hiểu chữ cánh chung trong lý thuyết của Marx như giám mục Khảm diễn giải thì vấn đề khỏi bàn tới, vì sự diễn giải của giám mục sai rồi như chúng tôi đã trình bầy ở trên. Cánh chung trong triết thuyết của Marx là mục tiêu xây dựng xã hội mà ông mơ ước đạt tới. Nhưng nếu hiểu chữ cánh chung như học thuyết công giáo dậy thì quả thật câu nói của giám mục Khảm đã trở nên hàm hồ. Khổng Giáo chẳng hạn thì Cánh Chung Luận của đạo Khổng là gì. Khổng Tử đã chẳng nói: Đạo khả đạo phi thường đạo. Và ông còn muốn cho quan điểm của mình về các vấn đề siêu hình được rõ ràng hơn, cho rằng, với quỉ thần chỉ nên kính nhi viền chi mà không nên đề cập tới. Hay như Phật Giáo thì thật sự Cánh Chung Luận của đạo Phật giải thích ra sao khi mà Đức Phật dậy rằng vũ trụ vạn vật là một chuỗi tiếp nối “sinh diệt – diệt sinh.” Con người chết đi đầu thai vào một kiếp sống khác. Đó có phải là một chung cuộc đâu? 

     Cứ cho rằng trong lý thuyết của Marx có bao gồm Cánh Chung Luận như giám mục Nguyễn Văn Khảm khẳng định, nhưng điều khó hiểu là học thuyết này của Marx ngày nay đã bị cả loài người vứt bỏ vì nó sai lầm và không tưởng rồi. Thế nhưng tại sao người môn đệ tông truyền của Chúa lại nhắc lại trong ngày lễ kính Chúa Kitô Vua, vị tôn sư của mình, và còn ca tụng nó ngụ ý là khuyên tín hữu thực hành con đường Marx vạch ra. Hầu như mọi tín hữu đều băn khoăn và thắc mắc về điểm đó. Câu trả lời đã có thể tìm ra được ngay trong Phúc Âm rồi. Chúa dậy: “… Vì lòng có đầy thì miệng mới nói ra. Người tốt thì rút cái tốt từ kho tàng tốt của mình; kẻ xấu thì rút cái xấu từ kho tàng xấu của mình …” (Mt 12, 34-35). Nếu giám mục Khảm không ấp ủ Marx canh cánh bên lòng thì ông đã không rao giảng về Cánh Chung Luận của Marx trong ngày lễ kính Chúa Kitô Vua, người thầy của các tông đồ. 

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất 

*  Francis of Assisi là một vị Thánh công giáo sống vào đầu thế kỷ thứ 13. Thánh nhân sinh ra trong một gia đình thương buôn giầu có người Ý, nhưng Ngài đã từ bỏ hết của cải, sống đời khó nghèo và lo giúp đõ cho những ngưòi vần cùng và bất hạnh.

 

Merry Christmas FREE WEBSITE - FREE DOMAIN - FREE HOSTING

VỀ BÀI GIẢNG CỦA GIÁM MỤC NGUYỄN VĂN KHẢM

 BS Nguyễn Tiến Cảnh

Tôi đã tính không định viết, nhưng nghĩ đi nghĩ lại thấy “Đã Quá Sức Rồi”. Đó là lời bố mẹ trách con cái không những đã cãi lời cha mẹ mà còn chửi thẳng vào mặt cha mẹ, thành thử tôi phải viết để nói lên ý nghĩ của tôi và có lẽ cũng của đa số bà con công giáo VN nói riêng và cả thế giới nói chung. Bởi vì vấn đề đã quá rõ ràng cả trên lý thuyết lẫn thực tế mà khắp thế giới ai cũng nhận thấy.

Số là có người đã lợi dụng tòa giảng trong nhà thờ chánh tòa Saigon , mượn danh Phúc Âm tôn giáo để ca tụng chủ thuyết cs. Nghe xong bài giảng, tôi không ngờ vị giảng thuyết lại là một chức sắc lớn trong Giáo Hội CGVN, và có lẽ ông đang ngắm nghé một tước vị cao hơn nữa là Tổng Giám Mục Saigon hay Hanoi, rồi có thể là Hồng Y? Tôi không ngờ vị đó lại là GM Nguyễn văn Khảm.

Cho đến giờ này, có thể tất cả trong và ngoài nước, ai cũng biết GM Khảm ca tụng cs như thế nào rồi. Ông đã mượn bài Phúc Âm ngày lễ kính Chúa Giêsu Vua nói về thời cánh chung đê so sánh với cái thiên đàng địa giới của cs mà ông tổ Marx đã đề ra để mê hoặc con người. Gm Khảm đã đồng hóa đạo Công Giáo với thuyết cộng sản một cách bừa bãi.

KHÔNG PHẢI TRỪU TƯỢNG NHƯ KIỂU GIÁM MỤC KHẢM NÓI

Ngày Cánh Chung là ngày phán xét sau cùng của Chúa để xét sử, phân biệt giũa người lành và kẻ dữ. Người lành là những người trong cuộc sống ở trần gian đã ăn ngay ở lành, lấy tình yêu thương đối xử với nhau, không ăn gian nói dối, không hận thù oán ghét, không cướp của giết người và bóc lột nhau. Kẻ dữ là những kẻ vô đạo đức, có những hành động không giống người lành, nghĩa là họ chuyên môn ăn gian nói dỗi, có nói thành không, không thành có, dùng hận thù ganh ghét làm ân oán, cướp của giết người không nương tay, miễn sao được việc cho mình. Chúa sẽ thưởng phúc thiên đàng cho người ngay lành và phạt xuống địa ngục khốn khổ đời đời những kẻ gian ác. Như vậy quả là công bằng và hợp lý chẳng có gì là trừu tượng như Gm Khảm đã mập mờ phê phán.

MARX MỚI THỰC LÀ KHÔNG TƯỞNG

Ngược lại, Gm Khảm đã bạo gan so sánh ngày cánh chung của Chúa với thiên đàng địa giới của Marx. Ông ca tụng Marx là thực tế, cái thực tế chết người mà cả thế kỷ nay đã có bao nhiêu triệu con người phải chết đi mà chưa thấy một mảy may gì là thực tế, đến nỗi ngay chính địa danh tổ của cs là Nga Sô Viết, Đông Âu, những nước cs anh em đều đã trà đạp và từ bỏ nó, ngoại trừ Trung cộng và VN vẫn cố bám lấy để tiếp tục ru ngủ dân chúng hầu cướp đoạt tài sản của dân của nước, chia nhau miếng đỉnh chung bất kể nỗi khốn khổ cơ cực nghèo đói của dân lành cho đến khi nào không thể tiếp tục giữ được nữa mới chịu nhả ra..

Gm Khảm đã nhắc lại cái bánh vẽ mà Marx đã đưa ra. Ông rất khôn khéo, có tài ngụỵ biện, phủ dụ người nghe, giáo dân là triết thuyết nào, tôn giáo nào, cũng có cánh chung luận, nhưng nơi nào đưa ra được một cánh chung luận hấp dẫn, thực tế mới thuyết phục được lòng người. Rồi ông lấy ngay thí dụ của XHCN VN với chủ thuyết Marx và cho rằng nó có một cánh chung luận rất hấp dẫn và cụ thể, không phải là vô thần, một xã hội hoàn hảo trong đó:

-Không còn cảnh người bóc lột người
-Mỗi người trong anh chị em và tôi chỉ cần làm việc theo khả năng, còn nhu cầu có bao nhiêu cứ việc sài.
-Người ta sống với nhau trong tình huynh đệ, một thiên đàng dịa giới.

Không biết Gm Khảm được huấn luyện về Marx ở đâu mà đã trở thành Marx hơn cả Marx, cs hơn cả cs. Trước tiên ông trích lời Marx cũng sai. Nói là sai, nhưng có lẽ ông cố ý nói trại đi một tý để người nghe dễ lọt tai hơn chăng? Marx nói “Mọi người làm việc theo khả năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu”, nhưng ông lại nói: “…Nhu cầu có bao nhiêu cứ việc sài. Chắc quí vị nhận ra sự khác biệt giữa câu nói của Marx và lời trích của Gm Khảm. “Hưởng thu theo nhu cầu” hẳn phải khác với “Nhu cầu có bao nhiêu cứ việc sài”. Bao che cho cs hay đến thế là cùng. Hưởng thụ kiểu đó thì đâu còn là công bằng nhỉ? Đó là lý do tôi nói Gm Khảm ma lanh mánh khóe hơn cả cs. Còn nói không còn cảnh người bóc lột người thì thực tế cho thấy tại những nước cs, tại TQ và VN hiện nay cảnh người bóc lột người còn tàn tệ và kinh khủng hơn cả thời phong kiến thực dân nữa ai chẳng biết. Gm Khảm quả là bạo phổi thật.

Một sai lầm nữa là Gm Khảm đã cố tình so sánh bừa bãi thời cánh chung của Chúa vời thiên dàng địa giới của Marx. Sau ngày cánh chung là đời sau của con người sau khi chết, còn thiên đàng địa giới của Marx là cuộc sống trên trần thế khi cách mạng của cs, của Marx đã thàng công. Chúng ta thử chờ xem đến bao giờ mới có thiên đàng địa giới như Marx đã vẽ ra.

Gm Khảm có biết rằng để có ngày cánh chung tốt đẹp, Chúa và Marx đã dạy chúng ta thế nào không? Có lẽ ông biết rõ Chúa đã dạy những gì, nhưng ông lờ đi để chỉ ca tụng Marx với mục đích riêng tư của ông.

CĂN BẢN ĐẠO CHÚA LÀ TÌNH YÊU

Chúa Giêsu giáng trần làm người phàm như chúng ta là để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi, để có ngày cánh chung tốt cho mọi người. Ngài lấy tình yêu thương làm căn bản của đạo. Hai chữ TÌNH YÊU được chính Chúa thể hiện qua cái chết của ngài trên thập giá. “Yêu cho đến chết”. Một quá trình giảng huấn của Chúa Giêsu trong 30 năm trời chỉ tóm gọn lại hai chữ Yêu Thương. Tất cả moị người không phân biệt giàu nghèo sang hèn đều như nhau, là anh em một nhà, cùng một cha chung ở trên trời ( ) Anh em hãy yêu thương nhau như yêu thương chính mình vậy (Mat,22: 39). Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói quá sâu sắc và ý nghĩa về hai chữ Tình Yêu rồi tưởng Gm Khảm cũng đã biết.

THIÊN ĐÀNG ĐỊA GIỚI CỦA CS / MARX

ĐẶT CĂN BẢN TRÊN BẠO ĐỘNG, HẬN THÙ, ĐẤU TRANH GIAI CẤP.

Vây mà GM Khảm lơ đi để ca tụng Cánh chung luận của Marx / thiên đàng địa giới

của cs. Ai cũng biết Marx chủ trương đấu tranh giai cấp, ân oán hận thù làm căn bản, đường lối thực hành để đi tới thiên đàng địa giới không cần biết việc đó tốt hay xấu. Phương Châm “Cứu cánh biện minh cho phương tiện” của người cs đã bị thế giới, nhất là những nhà đạo đức và Giáo Hội CG cực lực phản đối. Cả hàng triêu triệu người chết dưới bàn tay cs từ ngày chủ thuyết cs xâm nhập và được thi hành ở Nga Sô Viết, Đông Âu và tất cả các nước cs trên thê giới, ngay cả cho đến giờ này ở TQ và VN vẫn còn tràn ngập chết chóc oán hận và tù ngục. Đọc lại những câu thơ mới đây dưới thời cs mà lòng vẫn cảm thấy rùng rợn:

Bước đi trên hè phố

Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ (Trần Dần)

Hoặc: Giết, giết, giết..…

Cho đồng cỏ xanh tươi! ( Huy Cận )

Đạo Chúa, đạo của Gm Khảm có bao giờ chủ trương “Giết, Giết.., đấu tranh giai cấp, oán ghét hận thù như vậy đâu mà ông ca tụng những người nằm xuống để có được cái gì để lại cho hậu thế, một cánh chung, môt thiên đàng địa giới của cs. Lừa bịp. Đọc suốt 4 Phúc Âm Thư, Công Vụ Tông Đồ, Sách Khải Huyền chưa hề thấy có một chữ nào nói hoặc cổ võ cho chém giết hận thù như vậy. Trái lại Chúa còn dạy “Nếu ai tát anh má này hãy đưa má kia cho họ” hay “Thầy không biểu tha thứ bảy lần, mà là bảy mươi bày lần” (Mat.18:22). Gm Khảm lại cho rằng thiên đàng địa giới của Marx thực tế hơn cả canh chung của Chúa, “không còn cảnh người bóc lột người” thì quả là bạo gan thiật. Nhìn vào VN hiện giờ thì ai bóc lột ai? Gm Khảm đã nguỵ biện, dùng duy vật biện chứng để chối bỏ học thuyết công giáo, ca tụng cs!

MARX LÀ BẤT CÔNG NHẤT

Đến đây vẫn chưa đủ, Gm Khảm còn công khai nói lên toàn bộ cái mà cs đế cao thiên đàng địa giới là :

Không còn cảnh người bóc lột người

Moị người làm việc theo khả năng, còn nhu cầu có bao nhiêu thì sài

Mọi người sống chung thương yêu nhau….

Đọc thì thấy hay lắm, đẹp lắm, nhưng :

Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào….(Kiều)

Chúng tôi nghe những điều này khi ở trong nhà tù cải tạo chỉ biết bụm miệng không dám cười ra tiếng. Người cs biết suy nghĩ, có chút đỉnh lương tâm cũng phải nói thầm trong bụng: Thằng cha này tối dạ quá, đến giờ này mà vẫn chưa sáng mắt tỉnh ngộ. Có nịnh thì cũng vừa vừa thôi chứ. Có thật không còn cảnh người bóc lột người không, khi mà xã hội VN hiện nay, cái cảnh người bóc lột người còn lộ liễu tàn ác và lan tràn hơn bao giờ hết. Cán bộ nhà nước, các ông lớn chiếm đoạt tài sản, ruộng vường của dân là hiển nhiên và công khai. Tham nhũng hối lộ là chuyện bình thường không dấu diếm. Làn sóng người từ Nam chí Bắc lũ lượt vể Saigon, Hanội khiếu kiện suốt năm này tháng nọ mà nhà nước đâu thèm giải quyết. Chiếm đoạt tài sản của tôn giáo, của giáo hội CG như tòa khâm sứ, dòng chúa cứu thế Thái Hà ở Hanội v.v…làm chốn ăn chơi, thương mại, bè phái chia chác nhau làm của riêng vẫn hiển nhiên hiện đang xẩy ra. Có thật mọi người sống với nhau yêu thương tình huynh đệ không Gm Khảm ? Chắc chắn chẳng ai công nhận có tình trạng « dễ thương » đó ở nước CHXHCN-VN hiện giờ. Máu vẫn đổ, người chết oan uổng vẫn thường xuyên xẩy ra ở VN hiện nay. Công an đánh người chết tỉnh bơ chỉ vì tội rất bình thường là phạm luật giao thông, đả thương giáo dân đốt nến đòi hỏi công lý và sự thật, tranh đấu cho tự do tôn giáo một cách ôn hòa ở Thái Hà, Đồng Chiêm, ……vẫn còn rõ ràng như vừa xẩy ra hôm nay. Bắt người bỏ tù vô cớ như cơm bữa. Gm Khảm có nhìn thấy những hiện tượng đó không ? hay chỉ ngồi trong tháp ngà nghe những ông chính ủy giảng thuyết cho nhuần nhuyễn lý thuyết cũ rích của cs không một chút thực tế. Nếu bố mẹ, anh em bà con của Gm Khảm có ai chạy trốn cs từ Bắc vào Nam năm 1954, rồi liều chết chạy ra hải ngoại tỵ nạn chính trị từ 1975 thì hãy hỏi họ tại sao họ lại chạy trốn cs, bỏ lại cái thiên đàng cs mà giám mục đang ca tụng xem họ trả lời ra sao?

Có thât là làm việc theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu không ? Hoàn toàn là xạo, bịp và không tưởng. Tại sao giám mục Khảm lại ngồi mát ăn bát vàng sung sướng trong toà giám mục ở Saigòn, muốn nói gì thì nòi, muốn ăn gì thì phán trong khi các linh mục ở xứ xa xôi hẻo lánh nơi truyền giáo như ở Kontum, Ban mê Thuật…thì sống kham khổ, cơ cực, không được nói, không được ăn, không được hành đạo theo ý mình ? Họ cũng có nhu cầu như Gm Khảm vậy, có khi còn hơn nữa vì nhu cầu Chúa đòi hỏi.

Cho rằng có như vậy đi nữa thì cũng là lỗi phép công bằng . Ngụ ngôn nén bạc mà chúng ta mới nghe trong ngày Chúa Nhật gần đây nói lên sự công bằng. Làm nhiều thì hưởng hiều, làm ìt thì hưởng ìt, không làm thì không được hưởng, có khi còn bị phạt nữa (Mat.25 : 14-30). Không thể cào bằng như kiểu cs làm cho người giàu thành nghèo, hoặc Giáo hội CG miền Bắc từ xưa vẫn kiên trì với Chúa và Giáo Hội chống lại bất công của bạo quyền vô thần cs thì phải được cào bằng với GH miền Nam để cùng cúi đầu vâng phục bạo quyền chống Chúa lừa GH như trong bài giảng của Gm Khảm giảng cho các linh mục và tu sĩ của giáo đoàn Hanội mới đây trong dịp cấm phòng hàng năm với sự đồng lõa của TGM Nguyễn văn Nhơn. Té ra quí vị lợi dụng tòa giảng, lời Chúa, việc nuôi dưỡng đời sống tâm linh của giaó si, giáo dân để ca tụng cs, lôi cuốn những người không đồng ý với mình về với cs.

KẾT LUẬN :

Quá lắm rồi. Nhắc lại, tôi tính không viết nữa như đã ngồi yên từ lâu, nhưng nay cảm thấy không thể cứ thụ đông như vậy được nữa nên phải lên tiếng, mặc dù sẽ có vị cho là « chửi cha mắng chúa » thì cũng chịu. Nếu có thực như ý gán ghép của những người nào đó vì không ưa thì cũng chỉ là chửi các « cha », tức những linh mục, giám mục hay hồng y đi theo cs thôi chứ không dám đụng đến Đức Giáo Hoàng, còn « Chúa » là Thiên Chúa thì nhất quyết và tuyệt đối là không bao giờ, mà chỉ do thiên hạ đổ vạ cho thôi. Chúa và những vị hiểu lòng chúng tôi chắc không trách mà có thể còn thầm khen trong bụng và khuyến khích. Xin hết lòng cám ơn. Nhưng với bài giảng của Gm Nguyễn văn Khảm thì thực sự ông đã chửi Cha tức là Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, người đã viết thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu và phê phán rất gắt gao những kẻ chủ trương chủ nghĩa thực dụng, những kẻ đầy tớ của Chúa là những con chó câm không biết sủa khi sói lang đến ăn thịt đoàn chiên của mình, nhưng ngược lại, lại đồng thanh cùng với tiếng sủa của sói, sủa inh ỏi để ca tụng rước sói vào nhà. Mắng Chúa phải chăng là chối Chúa, vì vô hình chung Gm Khảm đã đồng ý với Marx chấp nhận oán thù, đấu tranh giai cấp…trái ngược với lời Chúa truyền dạy là « Hãy Yêu Thương Nhau Như Anh Em », ca tụng kẻ chủ trương Tam Vô : Vô gia đình, vô tổ quốc và nhất là Vô Tôn Giáo. Cs rõ ràng chủ trương, không chấp nhận có tôn giáo, không có Chúa là đấng linh thiêng, không có linh hồn. Vậy mà Gm Khảm dám công khai bào chữa, vỗ vào mặt Chúa nói cs không vô thần. Đó chẳng phải là mắng Chúa hay sao.

Không biết phải nói Nguyễn văn Khảm là giám mục của Chúa hay của cộng sản ?

Fleming Island , Florida

Dec 12, 2011

NTC

 

Cánh chung luận là gì?

 L.m. An-rê Đỗ Xuân Quế o.p.

"Đó là một sự mạo nhận không mấy lương thiện, một sự gán ghép giả tạo, vì “Mác-xít là một hệ tư tưởng vô thần cho nên không có cánh chung luận”. Đúng như thế, chứ không phải ngược lại."

Cụm từ này khó hiểu vì không có trong từ điển và trong đời thường. Trong tự điển, chỉ thấy những từ như chung kết, chung cục, chứ không thấy cánh chung. Còn trong đời thường, chỉ thấy nói đến cánh chim, cánh cửa, cánh kiến, cánh nhạn v.v…, chứ không thấy nói đến cánh chung, sở dĩ như vậy vì từ cánh chung mới xuật hiện vài chục năm nay thôi, khi linh mục Nguyễn Thế Thuấn nói đến “nhỡn giới cánh chung” ở trang 560 trong bản dịch Kinh thánh của mình. Đàng khác, cánh chung là một cái gì rất xa lạ đối với đời thường của dân chúng.

Khi muốn dịch từ eschaton ƐσχαƮoν (những sự sau) trong Kinh thánh và eschatos logos ƐσχαƮoς λογος (lời về sự sau) trong thần học, nhiều người không biết dùng từ nào, nên mượn từ cánh chung của linh mục Thuấn cho tiện. Từ đó dần dần cánh chung trở thành chữ phổ thông trong sách báo công giáo.

Vậy chính ra, cánh chung là gì và cánh chung luận là thế nào? Theo nguyên ngữ Hy lạp eschaton là những sự sau và eschatos logos là lời về những sự sau. Eschatos logos trở thành eschatology trong tiếng Anh và eschatologie trong tiếng Pháp. Đây là môn học về những sự sau, gọi là tứ chung hay bốn sự sau, tức sự sống, sự chết, thiên đàng, hỏa ngục trong khoa thần học công giáo mà hiện nay người ta nói cách văn vẻ là cánh chung luận.

Sự sống, sự chết, thiên đàng, hỏa ngục là nội dung được bàn đến trong cánh chung luận. Đây là những tín điều người công giáo phải tuyên xưng trong các Chúa nhật và các ngày lễ trọng. Họ buộc phải tin rằng khi chết rồi, mỗi người phải ra trước tòa Chúa để bị phán xét về các việc mình làm khi còn sống. Nếu ăn ngay ờ lành thì được thưởng. Nếu ăn ở bất nhân thì bị phạt. Người lành được thưởng trên thiên đàng còn kẻ dữ bị phạt sa hỏa ngục. Bài Tin Mừng trong lễ Chúa Giê-su Vua vũ trụ cho thấy cảnh tượng đó đối với những người ăn ngay ở lành:

“Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng, Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 25,34-36)

Còn đối với những kẻ bất nhân :

“Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỉ và các sứ thần của nó. vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.” (Mt. 25, 41-43)

Ngày cánh chung là ngày cuối cùng, ngày chu kỳ lịch sử loài người hoàn tất, ngày Chúa ngự giá mây trời mà đến trong tư thế lẫm liệt uy hùng, để phán xét người sống và kẻ chết.

Qua những lời Chúa phán trong ngày phán xét chung, những người được ân thưởng là những người làm những việc từ thiện bác ái. Những người này không phải là những người chỉ biết sống cho riêng mình mà là những người có các mối liên hệ với xã hội, với con người. Các Ki-tô hữu được thánh Phê-rô và thánh Phao-lô dạy rằng quê hương của họ ở trên trời: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20) và họ ở trần gian này như lữ khách : “Anh em thân mến, anh em là khách lạ và lữ hành, tôi khuyên anh em hãy tránh xa những đam mê xác thịt vốn gây chiến với linh hồn”. (1 Pr 2,11)

Quê trời là đích điểm cùa những người tin Chúa. Vì thế, cánh chung phải là ngày các Ki-tô hữu nhắm tới. Vì ngày đó mà họ cố sống theo lời Chúa dạy, khi còn ở trần gian này.

Quê hương Ki-tô hữu ở trên trời và họ ở trần gian này như những lữ khách, nhưng không phải vì thế mà họ xa lạ với trần gian. Hiến chế Vui mừng và Hy vọng cũng như học thuyết xã hội của Hội thánh luôn đặt Ki-tô hữu trước những bổn phận đối với trần gian theo cái nhìn của đức tin. Phải góp phần vào việc xây dựng xã hội trần gian để đem ơn cứu độ của Chúa cho xã hội đó.

Căn cứ vào nội dung môn cánh chung luận trong thần học công giáo thì không một triết thuyết hay chủ nghĩa nào có thể mang danh hiệu là cánh chung luận, vì triết thuyết hay chủ nghĩa đó không nhìn nhận Thiên Chúa là Chủ tể càn khôn và cùng đích của loài người, Đấng thưởng người lành và phạt kẻ dữ trong ngày chung thẩm. Vì vậy, nói rằng :

ĐGM phụ tá Sài Gòn Phero Nguyễn Văn Khảm

“Bất cứ một tôn giáo nào cũng hàm chứa bên trong một cánh chung luận, triết thuyết nào có khả năng cung cấp cho con người một cánh chung luận hấp dẫn, cũng có nghĩa là cung cấp một niềm hy vọng có sức thuyết phục thì triết thuyết đó cuốn hút con người. Tôi lấy một cái thí dụ, ta đang sống rất là cụ thể trong một đất nước xã hội chủ nghĩa, dựa trên cái nền tảng triết học của Marx. Thế thì có nhiều người có thể nghĩ Mác xít vốn là một hệ tư tưởng vô thần cho nên là không có cánh chung luận. Không phải thế, trái lại nó có một cánh chung luận rất là hấp dẫn, rất là cụ thể, nó đã trình bày cái điểm tới của lịch sử nhân loại, là một xã hội cộng sản hoàn hảo trong đó: không còn cảnh người bóc lột người, mà mỗi một người trong anh chị em và tôi chỉ cần làm việc theo khả năng còn nhu cầu có bao nhiêu là cứ việc xài. Người ta sống với nhau trong tình huynh đệ, một thiên đàng tại thế, và khi mà có cái điểm tới của lịch sử cả nhân loại như thế, thì mỗi cá nhân trong lịch sử đó khám phá ra cái ý nghĩa của một sư hy sinh mình chịu. Tôi chết đi nhưng sư nghiệp của tôi vẫn còn tồn tại mãi trong nhân dân. Tôi hy sinh nhưng mà sự hy sinh đấy không vô nghĩa, bởi vì nó xây dựng cho thế hệ tương lai, xây dựng cho nhân dân, Trong cái cánh chung luận rất là cụ thể và hấp dẫn và chính vì thế nó đã cuốn hút cả triệu con người chấp nhận bao nhiêu hy sinh để xây dựng tương lai, cho nên có chứ không phải không đâu…” (Ngưng trích bài giảng về lễ Chúa Giê-su Vua vũ trụ ngày 20.11.2011 đọc thấy trên mạng NVCL của ĐC Phê-rô Nguyễn Khảm)).

thì đó là một sự mạo nhận không mấy lương thiện, một sự gán ghép giả tạo, vì “Mác-xít là một hệ tư tưởng vô thần cho nên không có cánh chung luận”. Đúng như thế, chứ không phải ngược lại.

Thuyết Mác-xít có chăng thì chỉ là một cái bánh vẽ, một sự mơ tưởng hão huyền về một tương lai tốt đẹp cho con người, một sự ru ngủ những người cả tin vào những lời đường mật của những kẻ khéo nói có tài che đậy, để lường gạt thiên hạ mà thôi. Cứ nhìn xem những gì đã xẩy ra hay còn đang xẩy ra tại những nước áp dụng chủ nghĩa Mác-xít mà Cuốn sách đen về chủ nghĩa Cộng sản, là đủ thấy.

L.m. An-rê Đỗ Xuân Quế o.p.

Thắp nến cùng Đức cha Long

Quỳnh Hương

Cho đến nay đã có ít là 3 buổi thắp nến trên nước Úc để cầu nguyện cho Thái Hà, cho 15 thanh niên công giáo vừa bị bắt, và cho cả giáo hội Công giáo Việt Nam. Nhưng ấn tượng sâu đậm nhất có lẽ vẫn là buổi đầu tiên tại Melbourne. Giữa mưa gió ướt át của buổi chiều ngày 19 tháng 11 năm 2011 những ngọn nến đã thắp lên cùng Thái Hà trước tiền đình Quốc Hội Tiểu bang Victoria. Trước các vị dân biểu Úc cùng đông đảo đồng bào đến tham dự, Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long, giám mục phụ tá Tổng giáo phận Melbourne đã bắt đầu bài phát biểu của ngài như sau: “Hôm nay, chúng ta, những người quan tâm đến tình hình đất nước và đặc biệt là tại Giáo Xứ Thái Hà, đến đây để bày tỏ sự liên đới của chúng ta với đồng bào quốc nội và nhất là những người đang tranh đấu cho tự do, công lý và những giá trị nhân bản đang bị một chính phủ độc tài đảng trị chà đạp coi thường. Nhân danh ban tổ chức, tôi xin chào đón và cảm ơn quý vị, Công Giáo cũng như không Công Giáo, các đoàn thể tổ chức, cũng như mọi người đến đây không những vì một Thái Hà hay một tôn giáo mà vì tương lai cho cả một dân tộc và vì tiền đồ cho cả một Tổ Quốc.”
Bài phát biểu của ngài đã đem đến niềm vui và nỗi xúc động cho nhiều người Việt Nam. Nhiều giáo dân đã bày tỏ niềm hân hoan vì cho rằng những lên tiếng từ các linh mục ở ngoại quốc vẫn còn rất giới hạn trước tình trạng đàn áp các giáo dân trong nước ngày càng gia tăng. Như mới đây, tại giáo phận Con Cuông nhà cầm quyền đã dùng loa, đá và cả hơi cay tấn công các linh mục, giáo dân đang dâng Thánh lễ, đọc kinh tại Nhà nguyện. Và lúc 2 giờ sáng ném bom vào nhà nguyện nổ sập một góc nhà. Tại xã Bình Lộc (thuộc giáo xứ Mỹ Lộc) chỉ vì giáo dân phản đối việc nhà nước lấn chiếm một con mương mà nhà cầm quyền đã ra tay đàn áp họ một cách dã man. Hơn một chục người đã bị thương, 8 người phải nhập viện để cấp cứu, 3 người bị thương nặng! Những giáo dân đi chợ bị đánh đập, hàng quán của họ bị đập nát. Thêm vào đó, ban đêm nhà cửa họ bị ném đá, tinh thần họ bị khủng bố. Trong lá thư gởi từ giáo xứ Mỹ Lộc những câu cuối là lời than phẫn uất: “… giáo dân Mỹ Lộc vẫn cô đơn, vô vọng trong đau thương của máu và nước mắt”.
Đứng trước vấn nạn của các giáo xứ nói riêng và của đất nước nói chung, Thái Hà không là biệt lệ. Tuy nhiên Thái Hà đã đối mặt với bạo quyền Hà Nội một cách bình tĩnh, chấp nhận mọi hệ quả vì sự thật và công lý. Thái Hà đã không chỉ dâng thánh lễ thắp nến cầu nguyện cho các giáo xứ, mà còn dâng lễ cầu nguyện cho những người yêu nước gặp nạn như tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, Luật sư Lê Quốc Quân, Bác sĩ Phạm Hồng Sơn … dù họ có là con chiên của Chúa hay không. Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long đã nhắc đến cuộc đối đầu với bạo lực của những con người chỉ có tay không và lòng nhân ái tại Thái Hà như một biểu tượng của “chí khí anh dũng của dân tộc ta”. Và ngài còn cho rằng: “sau những biến cố ở Toà Khâm Sứ, Đồng Chiêm hay Cồn Dầu, Thái Hà là thành lũy cuối cùng của lòng kiên cường có tổ chức. Đối với một chính phủ độc tài, không gì đáng sợ cho họ hơn là ý chí bất khuất có tổ chức.”
Và như ngài nói: “Chúng ta hiểu tại sao chính quyền cộng sản Việt Nam lại quyết tâm triệt hạ Thái Hà cho bằng được, họ đã dùng những thủ đoạn hạ cấp nhất để đạt mục tiêu đó. Ngày 3 tháng 11 mới đây, họ đã cho hơn 100 du đãng và côn đồ đến để nhục mạ, đe doạ tính mạng các linh mục, giáo dân. Sau đó những người này còn dùng búa lớn để đập phá khu vực thờ phượng linh thiêng. Thế mà, ở nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhà nước còn “vừa ăn cướp vừa la làng” qua các phương tiện truyền thông của họ. Thử hỏi một tập đoàn lãnh đạo như thế thì sẽ đưa đất nước chúng ta đi về đâu? Thật trớ trêu, khi đất nước chúng ta đứng trước bao thử thách, từ thành thị đến thôn quê, từ Nam Quan tới mũi Cà Mâu, từ đất liền đến hải đảo, thì những người lãnh đạo lại đối xử với đồng bào một cách dã tâm như vậy.” Đức cha Long đã sót sa so sánh nghịch cảnh ấy như một con tầu lửa đang lao xuống vực thẳm mà người điểu khiển con tầu lại sách nhiễu hành khách thay vì cứu nguy cho cả tầu!
Chưa đầy một tháng sau đêm thắp nến cho Thái Hà, ngày mùng 2 tháng 12 người Việt khắp nơi đã rất tức giận và đau lòng khi nhìn thấy cảnh công an bắt bớ các linh mục, đánh đập tàn nhẫn các giáo dân Thái Hà giữa đường phố Hà Nội. Những thách thức dành cho Thái Hà không còn là những thách thức riêng của một giáo xứ, của một tôn giáo, bởi vì Thái Hà đang là một biểu tượng của những con người Việt Nam chấp nhận trả giá cho quê hương, cho đồng bào mình. Là người Việt Nam, công giáo hay không công giáo chúng ta biết ơn và hãnh diện vì Thái Hà. Đức cha Long đã bày tỏ tâm tình của ông: “ Tôi là giám mục Công Giáo, nhưng tôi vẫn mang dòng máu Việt Nam và không thể không thao thức trước một thực tế quá bi quan về hiện trạng đất nước. Nhưng con đường dẫn đến tương lai tươi sáng cho quê hương là con đuờng dài và chúng ta là những viên gạch lót đường.”
Đức Cha cũng nhắc lại lời bà Aung San Suu Kyi rằng bất cứ cuộc tranh đấu nào không thể rơi từ trời xuống hay một người nào đó ban cho ta, chính chúng ta phải tranh đấu lấy. Và Đức cha khẳng định rằng tranh đấu cho một tương lai tươi sáng cho Việt Nam là bổn phận và trách nhiệm của những người mang dòng máu Việt Nam. “Thiết nghĩ, đây cũng là cơ hội để người Việt chúng ta tại hải ngoại đồng tâm nhất trí với nhau trong cùng một mục đích chung, không phân biệt tôn giáo, khuynh hướng chính trị; không phân biệt Bắc, Trung hay Nam; thậm chí không phân biệt là công dân Úc hay còn là công dân Việt Nam. Mục đích chung đó là gì, là một Việt Nam tự do, công bằng, văn minh.”
Điều cuối, Đức cha kêu gọi rằng tổ quốc chúng ta đang lâm nguy, bóng đêm của sự độc tài gian ác đang bao phủ trên quê hương. Nhưng nếu chúng ta đều đồng lòng đốt lên một ngọn nến thì bóng đêm đó sẽ phải tan biến. Hãy cùng nhau tiếp sức cho Thái Hà “Khi hồi chuông Thái Hà vang lên, người giáo dân đã tới để cứu nguy cho giáo xứ. Hôm nay, chúng ta, những người con của Tổ Quốc ở hải ngoại hay ở trong nước cùng nghe tiếng chuông Thái Hà báo động tổ quốc lâm nguy. Chúng ta hãy cùng nhau giải cứu Việt Nam thân yêu đang đứng trước vực thẳm của sự băng hoại hoàn toàn. Tiếng chuông Thái Hà sẽ là tiếng chuông báo hiệu cái chết của chủ nghĩa cộng sản lỗi thời và sự quang phục của quê hương.”
Chắc chắn không chỉ Thái Hà mà còn rất nhiều người công giáo và không công giáo cũng đang lắng nghe nhịp tim của Đức cha, nhịp tim của một người Việt Nam đang đồng hành: “Đất nước Việt Nam muôn năm, dân tộc Việt Nam muôn năm”. Phải chăng chính vì niềm tin này, tiền nhân đã đổ bao công lao và xương máu để gìn giữ và gởi trao đất nước lại cho con dân Việt. Và trải bao can qua, không ít lần, niềm tin ấy đã được lập lại, được gởi lại cũng bằng chính câu nói ấy, như một lời nhắn nhủ cuối cùng.
Truyền thống đoàn kết đùm bọc lẫn nhau trong đức tin để đi qua những giai đoạn khó khăn là truyền thống và sức mạnh của người công giáo Việt Nam. Là một Phật tử, tôi cũng xin được cùng Đức cha Vinh Sơn Nguyễn văn Long thắp một ngọn nến cho Thái Hà; hiệp thông với tinh thần bất khuất của dân tộc Việt để sớm chấm dứt nghiệp dữ của những kẻ vô minh, chấm dứt mọi khổ đau trên quê hương tôi.


                                      


Lá Thư ngỏ gởi các Linh mục, Tu sĩ và Cộng đồng Dân Chúa hải ngoại

Kính thưa qúy Đức Ông, Linh Mục, Tu Sĩ và anh chị em tín hữu,
Trong tuần vừa qua từ ngày 28 tháng 11 đến ngày 2 tháng 12, ba anh em chúng tôi là Dominic Mai Thanh Lương, Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Orange, Hoa Kỳ, Vincent Nguyễn Mạnh Hiếu, Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Toronto, Canada và Vincent Nguyễn Văn Long, Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Melbourne, Australia, đã có dịp gặp gỡ và chia sẻ những kinh nghiệm mục vụ cũng như những thao thức của các Cộng Đồng Dân Chúa nơi chúng tôi đang sống và làm việc. Chúng tôi cũng có dịp lắng nghe những quan tâm, ưu tư của các linh mục, tu sĩ và giáo dân qua những cuộc đối thoại trong tinh thần đoàn kết và xây dựng. Mặc dù đây chỉ là buổi gặp gỡ hữu nghị, chúng tôi nhận thấy cũng cần chia sẻ với anh chị em một số điều như sau:
1. Chúng tôi chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa đã thương dìu dắt khối người Việt Công Giáo hải ngoại. Sau những năm tháng nhiều đau thương, vất vả và khốn khổ, chúng ta đã ổn định và trở thành một trong những phần tử năng động nhất trong các Giáo Hội địa phưong, nơi chúng ta sinh sống. Lực lượng các linh mục, tu sĩ, giáo dân đông đảo và nhất là đời sống đạo nhiệt thành đã làm rạng rỡ cho truyền thống và di sản đức tin mà các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã đổ máu đào minh chứng.
2. Chúng tôi cũng cảm tạ Thiên Chúa vì tấm gương trung kiên anh dũng của Đức Cố Hồng Y Phanxico Xavie Nguyễn Văn Thuận. Quá trình phong thánh đã được xúc tiến cho vị “Tôi Tớ Chúa” này với nhiều cuộc lắng nghe các nhân chứng ở nhiều nơi trên thế giới. Chúng tôi kêu gọi anh chị em tiếp tục cầu nguyện và hợp tác khi có thể, ngõ hầu Ngài sớm được tôn phong vào hàng hiển thánh, làm vinh danh Giáo Hội và dân tộc Việt Nam.
3. Chúng tôi cảm thấy cần phát huy tinh thần đoàn kết và liên đới trong các thành phần Dân Chúa, hầu tạo sức mạnh và hữu hiệu hóa các sinh hoạt của chúng ta từ trong các giáo đoàn đến giáo phận, quốc gia và quốc tế. Chúng tôi rất hoan nghênh và khuyến khích các sinh hoạt nhằm tạo tình liên đới, giúp nhau thăng tiến trong công việc mục vụ và sống đạo.
4. Chúng tôi cũng nhận thấy cần đáp ứng với các nhu cầu mới trong hoàn cảnh mục vụ mới: các anh em linh mục tu sĩ thế hệ trẻ, giới trẻ thuộc thế hệ thứ hai và thứ ba tại hải ngoại, các cháu thiếu nhi… Nỗi ưu tư chung của chúng ta là làm sao duy trì gia sản đức tin và văn hóa đặc thù Việt Nam cho các thế hệ nối tiếp trong môi trường tục hóa đang đe dọa đến đời sống siêu nhiên của người tín hữu.
5. Sau cùng, chúng tôi biểu lộ sự liên đới với Giáo Hội quê mẹ Việt Nam trong cuộc hành trình tiến về tương lai tươi sáng hơn cho Giáo Hội và cho đất nước. Nhất là, chúng tôi đặc biệt biểu tỏ sự liên đới với giáo xứ Thái Hà hiện đang chịu nhiều thử thách trong khi đòi hỏi những điều chính đáng. Chúng tôi kêu gọi nhà cầm quyền hãy tôn trọng tự do tôn giáo và nhân quyền, để người dân được sống đúng với nhân phẩm theo hiến chư ơng của Liên Hiệp Quốc và có đủ điều kiện để phát huy một đất nước thật sự tự do, độc lập và thịnh vượng.
Chúng tôi cảm tạ Thiên Chúa đã quan phòng cho chúng tôi có cơ hội gặp gỡ, chia sẻ và lắng nghe. Chúng tôi cũng nhận ra sự hạn hẹp trong cuộc gặp gỡ lần đầu tiên này trước nhiều kỳ vọng của nhiều tổ chức, đoàn thể cũng như cá nhân trong khối người Việt Công Giáo hải ngoại. Ước mong của chúng tôi là tiếp tục lắng nghe và cầu nguyen để dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, chúng tôi sẽ phục vụ anh chị em một cách hữu hiệu hơn và mang lại nhiều lợi ích cho Giáo Hội.
Trong Chúa Giêsu Kitô,
Các Đức Cha đồng ký tên
+Dominic Mai Thanh Lương 

+Vincent Nguyễn Mạnh Hiếu 

+Vincent Nguyễn Văn Long

Viết tại Trung Tâm Mục Vụ Việt Nam
Orange County, ngày 2 tháng 12 năm 2011

Nguồn: http://vietcatholic.net/News/Html/94662.htm