Cao Mỵ Nhân,  Văn

Đêm Sương Hà Nội CAO MỴ NHÂN

Đó là buổi cuối cùng bố tôi cho cả nhà đi Hà Nội thăm họ hàng và nhất là nhìn lại cái thành phố trước đó đã khắc sâu trong lòng ông khá nhiều kỷ niệm.

Bấy giờ (1954), ông đang làm phó giám đốc phi trường Cát Bi Hải Phòng nên thường đi Hà Nội chơi, tất nhiên cho cả nhà theo, vào những ngày Chủ Nhật.

Từ Hải Phòng về Hà Nội có 100km, chạy trên quốc lộ số 5 chỉ qua thành phố Hải Dương, ghé nhà chú ruột tôi ở số 1 phố Hàng Đồng rồi lên Hà Nội như chương trình đã định.

Bố tôi xuất thân từ trường Bưởi, sau đổi thành Chu Văn An, từng làm giám đốc sở máy đèn kiêm sở máy nước ở Sa Pa, nơi chị em tôi ra đời, để bây giờ các nhóm bạn văn nghệ cứ gọi đùa tôi là Mỵ Sa Pa.

Trở lại buổi cuối cùng về Hà Nội, sau đó xuống lại Hải Phòng rồi di cư vào Nam 25 – 9 – 1954 trên chiếc phi cơ nhỏ hai hay bốn cánh quạt, không biết có phải là DC3, DC4 dân sự không.

Chỉ hơn 10 năm sau, tôi đã bay như bươm bướm trên trời khi làm công tác xã hội trong Quân lực VNCH, qua những chuyến bay của nhiều loại phi cơ khác nhau như Cessna, trực thăng, HUIB, C46, C47, C119, C123, C130.

Thậm chí có khi còn phải quá giang L19, L20 đi thả truyền đơn trên vùng xôi đậu để được mau chóng về nhà khi đã xong công tác tiền đồn, lũ lụt, v.v..

Tôi muốn kể quý vị nghe về đêm sương Hà Nội.

Lẽ ra cái ấn tượng này chỉ có ở những quý vị vừa quá cố như nhà văn Mai Thảo hay thi sĩ Cao Tiêu tức cố đại tá Hoàng Ngọc Tiêu, nguyên cục trưởng Cục Tâm lý chiến Quân lực VNCH.

Tôi đoan chắc thế vì tôi không được thân nhà văn trưởng thượng Mai Thảo, nhưng trong văn chương ông có những đêm sương Hà Nội.

Còn thi sĩ đại tá Cao Tiêu là niên trưởng của tôi, đã từng cho tôi xem những bức hình ông hay ông bà chụp ở hồ Gươm Hà Nội.

Gia đình ông bà ở Hà Nội nên đêm sương Hà Nội trong ánh điện đường màu vàng thời Tây thuộc là một hình ảnh rõ nét, nhưng lại mơ hồ vì cái lạnh len vào thân áo lãng tử, giai nhân day dứt lắm.

Bố tôi chắc chắn trọng tuổi hơn nhị vị tên tuổi nêu trên, vì buổi âm thầm từ giã Hà Nội, bố tôi đã 44 tuổi. Số tuổi trung niên hào hoa, phong nhã, hẳn phải đẹp thế nào rồi.

Nhưng thời thượng bấy giờ không phải dấu ấn Mỹ với quần jean áo thun như ngày nay, mà vết tích Tây là bộ đồ vest sang trọng lúc nào cũng kèm cravat, đôi khi còn có áo gilet bên trong, mặc cho đứng thân áo, không hẳn cho ấm áp thôi đâu.

Buổi cuối cùng để lìa xa thành đô yêu dấu như trong bài hát của nhạc sĩ Vũ Thành, bố tôi để gia đình chơi với họ hàng rồi vội vã đi Khâm Thiên cầm trống chầu nghe hát ả đào.

Thế nên sau này khi gia đình đã di cư vô Nam, thủa ban cổ nhạc Bắc phần hát trên Đài phát thanh Sài Gòn với những nghệ sĩ Kim Bảng, Huệ Đăng, v.v. là giờ cao điểm của bố tôi để ông nhớ Bắc Kỳ quốc của ông.

Chúng tôi không được nghe nhạc dân ca đầu tiên ở miền Nam như Tình ca, Thuyền viễn xứ, v.v. của Phạm Duy.

Bấy giờ cả nhà chỉ có một cái radio, không phải như hiện nay ở nhà tôi từ con tới cháu mỗi người một Iphone, Ipad, kể cả tôi, sử dụng tiện lợi.

Thành ai trong nhà cũng có hai món chơi văn minh vừa nêu, mỗi người tha hồ chui vào phòng riêng thả hồn mơ mộng nghe thơ, nhạc theo sở thích của mình.

Nhất là tôi bây giờ còn mặc sức tung hoành coi và nghe HNPD.COM hay HNPD.NET, hầu mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây, để viết thơ tình muộn riêng cho anh… huyễn hoặc tâm tư tình cảm mình.

Chị gái tôi buổi từ giã Hà Nội còn vị thành niên, đứng ở Hồ Hoàn Kiếm, tên khác của Hồ Gươm, còn khóc theo một kỷ niệm bỏ lại.

Có lẽ trong nhà chỉ có tôi là giận bố vì vẫn chưa đưa đi ăn kem ở Bờ Hồ và khi ngồi trên xe traction về lại Hà Nội, tôi đã ngủ khò một mạch.

Qua cầu Thượng Lý cao vời, chợt nghe tiếng bố tôi nói:

Ơ hay, cái con Mỵ này, lúc nào đi xe cũng ngủ mới lạ.

Buổi cuối cùng ở Hà Nội theo như bố tôi diễn tả, ông nhớ nhất cái đêm sương, cũng chỉ để giữ lại trong lòng một kỷ niệm ướt át.

So ra với tôi hôm nay thì bố tôi khổ quá, ông không biết đẩy cái kỷ niệm, hay văn vẻ hơn là cái nỗi nhớ thương xa xót của ông đi đâu, vô một góc khuất nào trong tâm hồn chẳng hạn.

Thế nên bây giờ tôi chẳng cảm thấy ngại ngùng khi viết ra những bài thơ tình tưởng là khốn khổ, hoá rất êm đềm, huyễn ảo, huyền mơ.

Nhất là giữ được hình ảnh anh trong hàng chục tập thơ. Chu choa. Kể ra anh lại giận bây giờ. Anh sẽ lớn giọng: ai cho phép tự tung tự tán tình cảm rứa, mới là lạ lẫm.

Anh bảo ở miền anh, tức miền Trung mộng mơ, không cần cái đêm sương ẩm lạnh như Hà Nội của quý vị, với Huế đúng nghĩa phải kể đêm mưa.

Muốn rõ rệt hơn thì đêm mưa Huế. Có buồn bao nhiêu đi nữa vẫn là những đêm mưa xót dạ ở Hoàng thành…

Mà thôi đừng nói mưa Huế xót xa, day dứt chi nhiều, bởi nghe mưa Huế không thất tình vẫn cứ buồn thương, tuyệt vọng lắm nờ.

Rứa thôi ta bỏ Hà Nội, Huế đi, vô hẳn Sài Gòn để hưởng thụ những đêm say tuyệt hảo, say men bia rượu hay say đắm tình người.

Quả vậy, chỉ ở Sài Gòn mới dám sống thực, yêu hết lòng, cạn liệt tình thơ, vẫn còn nhiều điều kiện để yêu thương rồi chấm dứt, thường đùa là chết bỏ vậy đó.

Quê hương Việt Nam mỗi miền, mỗi thành phố có một sắc thái riêng như đêm sương Hà Nội, đêm mưa Huế, đêm say Sài Gòn.

Với tôi còn có những đêm khí núi hơi rừng mù mịt Sa Pa, thời Pháp còn ghi chú thêm nơi bản khai sinh tôi là xã Xuân Viên, làng Chapa, tỉnh Laokay.

Lý do Sa Pa là làng nghỉ mát của tất cả những ông Tây bà đầm tứ xứ trên đất nước Việt Nam, mỗi năm về an dưỡng.

Nói một cách khác, Sa Pa là làng nghỉ mát ở Đông Dương do Tây thành lập để an dưỡng người già và người bệnh thời Pháp chiếm cứ miền Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20 vừa qua.

CAO MỴ NHÂN