Triệu Hà : THIỆP MỜI (Địa Phương Quân)
THIỆP MỜI
HỘI ÁI HỮU ĐỊA PHƯƠNG QUÂN và NGHĨA QUÂN VNCH BẮC CALI
Trân trọng kính mời: Tất Cã Các Hội Đoàn Vui Long Cử Đại Diện
đến tham dự:
NGÀY GIỖ TỔ ĐỨC BÌNH ĐỊNH VƯƠNG LÊ LỢI
THÁNH TỔ CỦA LỰC LƯỢNG ĐPQ VÀ NQ QLVNCH
Địa Điểm:
HỘI NGƯỜI VIỆT CAO NIÊN BẮC CALI
2050 CONCOURSE DR SUITE # 22 ,
SAN JOSE CA 95131
Thời gian từ:11:00AM to 3:00PM,
Chu Nhat, ngày 21 tháng 8 năm 2011
Phần ăn trưa HAHĐPQ&NQ sẽ đài thọ.
Sự hiện diện của qúy quan khách, chiến hữu:
** Là niềm vinh hạnh cho Hội Ái Hữu Địa Phương Quân và Nghĩa Quân Bắc Cali.
** Cùng hướng về các chiến hữu TPB thuộc ĐPQ-NQ ở quê nhà.
Trân trọng.
San Jose, ngày 23 tháng 08 năm 2011
TM. HỘI ÁI HỮU ĐPQ-NQ BĂC CALI
TRIỆU-HÀ
Để biết thêm chi tiết, xin gọi:
TRIỆU-HÀ (408) 646-8752
NGUYỂN -KHANH (408) 694-7543
NGÔ-XUÂN-ĐỨC (408) 270-2985
NGUYỄN-VĂN-PHI (408) 287-1386
Bình Định Vương Lê Lợi (Người Anh Hùng giải phóng dân tộc) |
Lê Lợi sinh ngày 10-9-1385 (6-8 năm ất Sửu) tại Lam Sơn (Kẻ Cham), nay thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa trong một gia đình "đời đời làm quân trưởng một phương". Năm Lê Lợi 21 tuổi cũng là năm nhà Minh đem 80 vạn quân sang xâm lược nước Việt. Cuộc kháng chiến chống Minh của vương triều Hồ thất bại, nước Đại Việt rơi vào ách thống trị tàn bạo của giặc Minh. Trước cảnh đất nước bị kẻ thù giày xéo, tàn phá, Lê Lợi đã nung nấu một quyết tâm đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi. Đầu năm 1416, tại núi rừng Lam Sơn trên đất Thanh Hóa, Lê Lợi cùng với 18 người bạn thân thiết, đồng tâm cứu nước đã làm lễ thề đánh giặc giữ yên quê hương. Đó là hội Thề Lũng Nhai đã đi vào sử sách. Tin Lê Lợi dựng cờ nghĩa, chiêu mộ hiền tài bay xa, thu hút các anh hùng hào kiệt từ bốn phương kéo về. Đất Lam Sơn trở thành nơi tụ nghĩa. ở đó có đủ các tầng lớp xã hội và thành phần dân tộc khác nhau, với những đại biểu ưu tú như: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Chích, Nguyễn Xí, Lê Lai, Cầm Quý, Xa Khả Tham… Sau một thời gian chuẩn bị chín muồi, đầu năm 1418, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, truyền hịch đi khắp nơi, kêu gọi nhân dân đứng lên đánh giặc cứu nước. Lê Lợi là linh hồn, là lãnh tụ tối cao của cuộc khởi nghĩa ấy. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ mở đầu tới kết thúc thắng lợi (tháng 12-1427), qua các giai đoạn phát triển và chiến lược, chiến thuật của nó đã chứng minh Lê Lợi là người có tầm vóc của một thiên tài, một nhân cách vĩ đại, chỉ thấy ở những lãnh tụ mở đường, khai sáng. Nếu Ngô Quyền với chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 đã chấm dứt thời kỳ 1.000 năm mất nước, mở đầu thời kỳ độc lập mới của dân tộc thì Lê Lợi với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, kết thúc 20 năm thống trị của giặc Minh, khôi phục nền độc lập lâu dài cho Tổ quốc, bắt đầu một kỷ nguyên xây dựng mới. Không có Lê Lợi, không có phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Nhưng Lê Lợi không chỉ là người nhen nhóm, tạo lập ra tổ chức khởi nghĩa Lam Sơn mà ông còn là nhà chỉ đạo chiến lược kiệt xuất. Một nét đặc sắc, mới mẻ trong đường lối chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Minh mà Lê Lợi thực hiện là dựa vào nhân dân để tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc. Nhìn vào lực lượng nghĩa binh và bộ chỉ huy, tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa, có thể thấy rõ tính chất nhân dân rộng rãi của nó, một đặc điểm nổi bật không có ở các cuộc khởi nghĩa khác chống Minh trước đó. Dựa vào sức mạnh của nhân dân, đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng xã hội trong một tổ chức chiến đấu, rồi từ cuộc khởi nghĩa ở một địa phương, lấy núi rừng làm căn cứ địa, phát triển sâu rộng thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trên quy mô toàn quốc. Đây là một cống hiến sáng tạo to lớn về đường lối chiến tranh của Lê Lợi và bộ tham mưu của ông, để lại một kinh nghiệm lịch sử quý giá. Vừa là nhà tổ chức và chỉ đạo chiến lược về chính trị, quân sự, vừa là vị tướng cầm quân mưu trí, quả quyết, Lê Lợi đã vận dụng lối đánh "vây thành diệt viện" theo lý thuyết quân sự ông nghiền ngẫm: Đánh thành là hạ sách. Ta đánh thành kiên cố hàng năm, hàng tháng không lấy được, quân ta sức mỏi, khí nhụt, nếu viện binh giặc lại đến thì ta đằng trước, đằng sau đều bị giặc đánh, đó là đường nguy. Chi bằng nuôi sức khỏe, chứa khí hăng để đợi quân cứu viện tới. Khi viện binh bị phá thì thành tất phải hàng". Chiến thuật "Vây thành diệt viện" của Lê Lợi kết hợp với chủ trương "mưu phạt nhị tâm công", uy hiếp, phân hóa, chiêu dụ địch của Nguyễn Trãi tạo nên một phương thức độc đáo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam. Cuộc vây hãm Vương Thông ở Đông Quan và tiêu diệt viện binh giặc tại Chi Lăng, Xương Giang cuối năm 1427 là kết quả thắng lợi của tư tưởng quân sự của Lê Lợi – Nguyễn Trãi. Sau khi đuổi hết giặc Minh về nước, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế năm 1428, sáng lập ra vương triều Lê. Lê Lợi làm vua được 5 năm thì mất (1433), an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn, miếu hiệu là Thái Tổ. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước buổi đầu của vương triều Lê, Lê Lợi đã có những cố gắng không nhỏ về nội trị, ngoại giao, nhằm phục hồi, củng cố, phát triển đất nước trên mọi mặt, như tổ chức lại bộ máy chính quyền từ trung ương xuống địa phương; ban hành một số chính sách kèm theo những biện pháp có hiệu quả để khôi phục sản xuất nông nghiệp, ổn định đời sống xã hội. Lê Lợi cũng chú ý tới việc phát triển văn hóa, giáo dục, đào tạo nhân tài. Năm 1428, lên ngôi vua, năm sau (niên hiệu Thuận Thiên thứ 2, 1429), Lê Lợi đã cho mở khoa thi Minh Kinh. Năm 1431, thi khoa Hoành từ. Năm 1433, Lê Lợi đích thân ra thi văn sách. Đấy là chưa kể năm 1426 trong khi đang vây đánh Đông Quan, Lê Lợi đã mở một khoa thi đặc cách lấy đỗ 32 người, trong đó có Đào Công Soạn, một nhà ngoại giao xuất sắc thời Lê Lợi. Nhưng, nhiệm vụ chính trị lớn nhất phải quan tâm giải quyết hàng đầu sau khi đất nước được giải phóng là việc tăng cường củng cố, giữ vững nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Về phương diện này, Lê Lợi đã làm được hai việc có ý nghĩa lịch sử. Thứ nhất, ông đã thành công trong cuộc đấu tranh ngoại giao, thiết lập quan hệ bình thường giữa triều Lê và triều Minh. Thứ hai, Lê Lợi đã kiên quyết đập tan những âm mưu và hành động bạo loạn muốn cát cứ của một số ngụy quân trước, điển hình là vụ Đèo Cát Hãn ở Mường Lễ, Lai Châu. Trong bài thơ làm khắc vào vách đá núi Pú Huổi Chò (bên sông Đà, thuộc Lai Châu) năm 1431 khi đánh Đèo Cát Hãn, Lê Lợi đã nói rõ ý chí bảo vệ sự thống nhất giang sơn: Đất hiểm trở từ nay không còn, Sau bài thơ trên, Lê Lợi còn viết bài thơ thứ hai khắc vào vách núi Hào Tráng bên Chợ Bờ, Hòa Bình. Lê Lợi trong 5 năm làm vua, bên cạnh những công lao to lớn, Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Vua hăng hái dấy nghĩa binh đánh dẹp giặc Minh, 20 năm mà thiên hạ đại định. Đến khi lên ngôi, định luật lệ, chế lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, lập quan chức, lập phủ huyện, thu góp sách vở, mở trường học, có thể gọi là có mưu lớn, sáng nghiệp. |
Nguồn gốc câu: "Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi"
Trong thời gian đầu của khởi nghĩa Lam Sơn do Bình Định vương Lê Lợi lãnh đạo, lực lượng nghĩa quân còn ít, thế giặc lại mạnh. Nghĩa quân nhiều lần rơi vào thế bị bao vây tưởng chừng tan vỡ. Ba lần rút lên núi Chí Linh là ba lần tuyệt nguồn lương thực, tưởng không thể chống đỡ nổi.
Năm 1419 quân khởi nghĩa rút lên núi Chí Linh (thuộc miền Tây Thanh Hóa) lần thứ hai, quân giặc bao vây chặt, nghĩa quân hết lương ăn, phải ăn thịt cả con ngựa chiến cuối cùng. Để đánh lạc hướng quân giặc, duy trì cuộc khởi nghĩa, Lê Lai đã mặc áo hoàng bào giả làm chủ tướng Lê Lợi, cùng với 500 quân cảm tử xuống núi quyết chiến với quân Minh. Giặc bắt được Lê Lai tưởng là Lê Lợi nên rút quân khỏi núi Chí Linh. Tấm gương hi sinh của Lê Lai mãi được nhà Lê ghi nhớ.
Năm 1428 ngay sau khi lên ngôi Hoàng đế, Lê Lợi đã truy tặng cho Lê Lai là Đệ nhất Khai quốc công thần, soạn hai bài văn thề mãi mãi ghi nhớ công lao của Lê Lai.
Trước khi mất Lê Lợi dặn lại vua nối ngôi Lê Thái Tông rằng: Ta có được ngày hôm nay là nhờ có Lê Lai. Do ngày mất của Lê Lai không rõ nên sau khi ta chết phải làm giỗ cho Lê Lai trước khi làm giỗ cho ta một ngày.
Ngày 22 tháng 8 năm 1433 Lê Thái Tổ băng hà. Từ đó ngày giỗ Lê Lai được tổ chức trước ngày giỗ vua Lê Thái Tổ một ngày. Dân gian Thanh Hóa nay có câu “Hai mốt Lê Lai, hai hai Lê Lợi” bắt nguồn từ việc này.
Lê Lợi Khởi Nghĩa Chống Giặc Minh
1. Lê Lợi Khởi Nghĩa ở Lam Sơn. Từ khi nhà Minh sang cai trị An Nam, dân ta ph?i khổ nhục trăm đường, tiếng oan không kêu ra được, lòng tức giận ngấm nghía ở trong tâm can, chỉ mong mỏi ra cho khỏi đống than lửa. May lúc ấy có một đấng anh hùng nổi lên, kéo cờ nghĩa để chống với giặc Minh, trong 10 năm ấy lại được giang sơn cũ, và xây đắp lại nền độc lập cho nước Nam.
Đấng anh hùng ấy, người ở làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, họ Lê, tên là Lợi. Đã mấy đời làm nghề canh nông, nhà vẫn giàu có, lại hay giúp đỡ cho kẻ nghèo khó, cho nên mọi người đều phục, và những tôi tớ ước có hàng nghìn người. Ông Lê Lợi khẳng khái, có chí lớn, quan nhà Minh nghe tiếng, đã dỗ cho làm quan, nhưng ông không chịu khuất, thường nói rằng: " Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người ta!" Bèn giấu tiếng ở chỗ sơn lâm, đón mời những kẻ hào kiệt, chiêu tập những kẻ lưu vong.
Đến mùa xuân năm mậu tuất (1418) đời vua Thành Tổ nhà Minh, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 16, ông Lê Lợi cùng với tướng là Lê Thạch, Lê Liễu khởi binh ở núi Lam Sơn, tự xưng là Bình Định Vương, rồi truyền hịch đi gần xa kể tội nhà Minh để rõ cái mục đính của mình khởi nghĩa đánh kẻ thù của nước. Việc đánh giặc Minh tuy là thuận lòng người và hợp lẽ công bằng, nhưng mà thế lực của Bình Định Vương lúc đầu còn kém lắm, tướng sĩ thì ít, lương thực không đủ. Dẫu có dùng kế đánh được đôi ba trận, nhưng vẫn không có đủ sức mà chống giữ với quân nghịch, cho nên phải về núi Chí Linh ba lần, và phải nguy cấp mấy phen, thật là gian truân vất vả. Sau nhờ hồng phúc nước Nam, Bình Định Vương lấy được đất Nghệ An, rồi từ đó mới có thể vẫy vùng, đánh ra mặt Bắc, lấy lại được giang sơn nước nhà.
2. Về Chí Linh Lần Thứ Nhất. Khi quan nhà Minh là Mã Kỳ ở Tây Đô, nghe tin Bình Định Vương nổi lên ở núi Lam Sơn, liền đem quân đến đánh. Vương sang đóng ở núi Lạc Thủy (Cẩm Thủy, phủ Quảng Hóa) để đợi quân Minh. Đến khi quân Mã Kỳ đến, phục binh của Vương đổ ra đánh, đuổi được quân nghịch, nhưng vì thế yếu lắm chống giữ không nổi, Vương phải bỏ vợ con để giặc bắt được, đem bại binh chạy về đóng ở núi Chí Linh.
3. Về Chí Linh Lần Thứ Hai. Tháng tư năm kỷ hợi (1419) Bình Định Vương lại ra đánh lấy đồn Nga Lạc (thuộc huyện Nga Sơn, Thanh Hóa) giết được tướng nhà Minh là Nguyễn Sao, nhưng quân của Vương bấy giờ hãy còn ít, đánh lâu không được, lại phải rút về Chí Linh. Quan nhà Minh biết rằng Chí Linh là chỗ Bình Định Vương lui tới, bèn đem binh đến vây đánh. Vương bị vây nguy cấp lắm, mới hỏi các tướng rằng: Có ai làm được như người Kỷ Tín ngày trước chịu chết thay cho vua Hán Cao không? Bấy giờ có ông Lê Lai liều mình vì nước, xin mặc thay áo ngự bào cưỡi voi ra trận đánh nhau với giặc. Quân nhà Minh tưởng là Bình Định Vương thật, xúm nhau lại vây đánh, bắt được giết đi rồi rút quân về Tây Đô.
4. Bình Định Vương Về Đóng Lư Sơn. Vương nhờ có ông Lê Lai chịu bỏ mình cứu chúa, mới trốn thoát được nạn lớn, rồi một mặt cho người sang Ai Lao cầu cứu, một mặt thu nhặt những tàn quân về đóng ở Lư Sơn (ở phía tây châu Quan Hóa). Ngay năm ấy, ở Nghệ An có quan tri phủ là Phan Liêu làm phản nhà Minh; ở Hạ Hồng có Trịnh Công Chứng, Lê Hành; ở Khoái Châu có Nguyễn Đặc; ở Hoàng Giang có Nguyễn Đa Cấu, Trần Nhuế; ở Thủy Đường có Lê Ngà, nổi lên làm loạn, quân nhà Minh phải đi đánh dẹp các nơi cho nên Bình Định Vương ở vùng Thanh Hóa cũng được nhân dịp mà dưỡng uy súc nhuệ.
5. Bình Định Vương Về Đóng Lỗi Giang. Năm canh tí (1420) Bình Định Vương đem quân ra đóng ở làng Thôi, định xuống đánh Tây Đô, tướng nhà Minh là Lý Bân được tin ấy, đem quân đến đánh, đi đến chỗ Thi Lang, bị phục binh của Vương đánh phá một trận, quân Minh bỏ chạy. Vương lại đem quân lên đóng ở Lỗi Giang75 và ở đồn Ba Lậm. Quân Minh phải lùi về đóng ở Nga Lạc và Quan Du để phòng giữ Tây Đô.
6. Nguyễn Trãi. Khi Bình Định Vương về đánh ở Lỗi Giang, thì có ông Nguyễn Trãi vào yết kiến, dâng bài sách bình Ngô, vua xem lấy làm hay, dùng ông ấy làm tham mưu.
Ông Nguyễn Trãi là con ông Bảng Nhãn Nguyễn Phi Khanh. Đời nhà Hồ, ông đã thi đỗ tiến sĩ (1400). Khi ông Nguyễn Phi Khanh bị nhà Minh bắt về Kim Lăng, ông theo khóc, lên đến cửa Nam Quan không chịu trở lại. Ông Phi Khanh bảo rằng: " Con phải trở về mà lo trả thù cho cha, rửa thẹn cho nước, chứ đi theo khóc lóc mà làm gì ? " Từ đó ông trở lại, ngày đêm lo việc phục thù. Nay ra giúp Bình Định Vương, bày mưu định kế để lo sự bình định.
7. Bình Định Vương Phá Quân Trần Trí. Đến tháng 11 năm tân sửu (1421) tướng nhà Minh là Trần Trí đem mấy vạn quân đến đánh Bình Định Vương ở đồn Ba Lậm, lại ước với người Lào sang cùng đánh hai mặt. Vương mới hội các tướng lại bàn rằng: Quân kia tuy nhiều nhưng ở xa
đến, còn đang nhọc mệt, ta nên đưa quân ra đón đành tất là phải được. Bàn xong, đến đêm đem quân vào cướp trại Minh, giết được hơn 1.000 người. Trần Trí thấy vậy giận lắm, sáng hôm sau truyền lệnh kéo toàn quân đến đánh. Quân An Nam đã phục sẳn trước, thấy quân Minh đến, liền đổ ra đánh hăng quá, quân Minh lại phải lui về. Đang khi hai bên còn đối địch, có ba vạn người Lào giả xưng sang làm viện binh cho Bình Đình Vương. Vương không biết là dối, quân Lào nửa đêm kéo đến đánh, tướng của Vương là Lê Thạch bị tên bắn chết. Nhưng mà quân ta giữ vững đồn trại, quân Lào phải lùi về.
8. Về Chí Linh Lần Thứ Ba. Sang năm sau là năm nhâm dần (1422) Bình Định Vương tự đồn Ba Lậm tiến lên đánh đồn Quan Gia, bị quân Minh và quân Lào hai mặt đánh lại, phải thua chạy về giữ đồn Khôi Sách. Quân Minh và quân Lào thừa thế đổ đến vây kín bốn mặt. Vương thấy thế nguy quá, mới bảo các tướng rằng: "Quân giặc vây kín rồi, nếu không liều sống chết đánh tháo lấy đường chạy ra, thì chết cả !" Quân sĩ ai nấy đều cố sức đánh phá, quân giặc phải lùi. Vương lại đem quân về núi Chí Linh. Từ khi Bình Định Vương đem binh về Chí Linh, lương thực một ngày một kém, trong hai tháng trời quân sĩ phải ăn rau ăn cỏ có bao nhiêu voi ngựa làm thịt ăn hết cả. Tướng sĩ mỏi mệt, đều muốn nghỉ ngơi, xin Vương hãy tạm hòa với giặc. Vương bất đắc dĩ sai Lê Trăn đi xin hòa. Quan nhà Minh bấy giờ thấy đánh không lợi, cũng thuận cho hòa.
9. Bình Định Vương Hết Lương Phải Hòa Với Giặc. Năm quý mão (1423) Bình Định Vương đem quân về Lam Sơn. Bấy giờ tướng nhà Minh là bọn Trần Trí, Sơn Thọ thường hay cho Vương trâu, ngựa, cá mắm và thóc lúa; Vương cũng cho Lê Trăn đưa vàng bạn ra tạ. Nhưng sau bọn Trần Trí ngờ có bụng giả dối, bắt giữ Lê Trăn lại, không cho về, vì vậy Vương mới tuyệt giao không đi lại nữa, rồi đem quân về đóng ở núi Lư Sơn. Bình Định Vương Lấy Đất Nghệ An. Năm giáp thìn (1424) Bình Định Vương hội các tướng bàn kế tiến thủ. Quan thiếu úy là Lê Chích nói rằng: " Nghệ An là đất hiểm yếu, đất rộng người nhiều, nay ta hãy vào lấy Trà Long (phủ Tương Dương) rồi hạ thành Nghệ An, để làm chỗ trú chân đã, nhiên hậu sẽ quay trở ra đánh lấy Đông Đô, như thế thiên hạ có thể bình được." Vương cho kế ấy là phải, bèn đem quân về nam, đánh đồn Đa Căng, tướng nhà Minh là Lương Nhữ Hốt bỏ chạy.
Lấy được đồn Đa Căng rồi, Vương tiến quân vào đánh Trà Long, đi đến núi Bồ Liệp, ở phủ Quì Châu, gặp bọn Trần Trí, Phương Chính đem binh đến đánh, Vương bèn tìm chỗ hiểm phục sẳn; khi quân Minh vừa đến, quân ta đổ ra đánh, chém được tướng nhà Minh là Trần Trung, giết được sĩ tốt hơn 2.000 người, bắt được hơn 100 con ngựa. Quân Minh bỏ chạy, Vương đem binh đến vây đánh Trà Long. Quan tri phủ là Cầm Bành chờ cứu binh mãi không được, phải mở cửa thành ra hàng.
Từ khi Bình Định Vương khởi nghĩa cho đến giờ, đánh với quân nhà Minh đã nhiều phen, được thua đã trải qua mấy trận, nhưng quan nhà Minh vẫn lấy làm khinh thường, cho nên không tâu về cho Minh Triều biết. Bấy giờ Hoàng Phúc về Tàu rồi, vua nhà Minh sai Binh Bộ Thượng Thư là Trần Hiệp sang thay. Trần Hiệp thấy Bình Định Vương lấy được châu Trà Long, thanh thế lừng lẫy, bèn vội vàng làm sớ tâu cho vua nhà Minh biết. Minh Đế mới xuống chiếu trách mắng bọn Trần Trí, Phương Chí, bắt phải dẹp ngay cho yên giặc ấy. Bọn Trần Trí sợ hãi đem cả thủy bô, cùng tiến lên đánh Bình Định Vương. Vương sai Đinh Liệt đem 1.000 quân đi đuờng tắt ra giữ Đỗ Gia, còn Vương thì đem cả tướng sĩ đến ở mạn thượng du đất Khả Lưu ở bắc ngạn sông Lam Giang (thuộc huyện Lương Sơn), rồi tìm chỗ hiểm yếu phục binh để đợi quân Minh. Khi quân Minh đã đến Khả Lưu, Vương bèn sai người ban ngày thì kéo cờ đánh trống, ban đêm thì bắt đốt lửa để làm nghi binh, rồi cho binh sang bên kia sông phục sẵn. Sáng hôm sau quân Minh tiến lên bị phục binh bốn mặt đổ ra đánh, tướng nhà Minh là Chu Kiệt phải bắt, Hoàng Thành phải chém, còn quân sĩ bỏ chạy cả. Trần Trí phải thu quân về giữ thành Nghệ An.
Tháng giêng năm ất tị (1425) Vương đem binh về đánh thành Nghệ An, đi đến làng Đa Lôi ở huyện Thổ Du (bây giờ là huyện Thanh Chương) dân sự đưa trâu đưa rượu ra đón rước, già trẻ đều nói rằng: không ngờ ngày nay lại thấy uy nghi nước cũ. Bấy giờ lại có quan tri phủ Ngọc ma (phủ Trấn Định) là Cầm Quý đem binh mã về giúp. Vương bèn xuống lệnh rằng: "Dân ta lâu nay đã phải khổ sổ về chính trị bạo ngược của người Tàu, quân ta đi đến đâu cấm không được xâmphạm đến chút gì của ai. Những gạo thóc trâu bò mà không phải là của người nhà Minh thì không được lấy". Đoạn rồi, phân binh đi đánh lấy các nơi, đi đến đâu các quan châu huyện ra hàng cả, đều tình nguyện đi đánh thành Nghệ An. Vương bèn đem quân về vây thành; quân Minh hết sức giữ gìn không dám ra đánh. Đương khi vây đánh ở Nghệ An, tướng nhà Minh là Lý An ở Đông Quan đem quân đi dường bể vào cứu. Quân của Trần Trí ở trong thành cũng đổ ra đánh, Vương nhử quân Minh đến cửa sông Độ Gia, rồi dùng phục binh đánh tan quân giặc. Trần Trí bỏ chạy về Đông Quan, còn Lý An vào giữ thành, Vương lại đem quân về vây thành.
10. Vây Thành Tây Đô. Đến tháng năm, Vương sai quan Tư Không là Đinh Lễ đem binh đi đánh Diễn Châu, Đinh Lễ đi vừa đến nơi, thì gặp tướng nhà Minh là Trương Hùng đem 300 chiếc thuyền lương ở Đông Quan mới vào, quân ở trong thành ra tiếp, bị phục binh của Đinh Lễ đánh đuổi. Bao nhiêu thuyền lương Đinh Lễ cướp lấy được cả, rồi đuổi Trương Hùng ra đến Tây Đô. Bình Định Vương được tin ấy liền sai Lê Sát và Lưu Nhân Chú đem binh ra tiếp ứng Đinh Lễ. Đinh Lễ nhân dịp tiến lên vây thành Tây Đô.
11. Lấy Tân Bình và Thuận Hóa. Qua tháng bảy, Vương sai quan Tư Đồ Trần Nguyên Hãn78, Thượng Tướng Lê Nỗ đem hơn một nghìn quân vào lấy châu Tân Bình và châu Thuận Hóa. Đi đến Bố Chính thì gặp tướng nhà Minh là Nhâm Năng, hai bên đánh nhau, quân nhà Minh bị phục binh đánh chạy tan cả. Bấy giờ lại có đạo thủy quân của Lê Ngân đem hơn 70 chiếc thuyền đi đường bể vào, Trần Nguyên Hãn liền đem cả thủy bộ tiến
Truyen Bang Tranh Ve Duc Binh Dinh Vuong Le Loi.
Giai thoại thời chống quân Minh
02) Lần này kéo lên lại được thanh sắt đã vứt đi. Lê Thận xem kỹ thì thấy đó là một thanh kiếm có khắc 4 chữ, mà 2 chữ đã mờ. Lê Thận chỉ đọc được 2 chữ còn rõ là Thuận Thiên nghĩa là: "Tuân theo mệnh trời."
03) Lê Thận đem thanh kiếm về nhà thì gặp Lê Lợi tới chơi. Lê Thận đưa thanh kiếm ra khoe thì tự nhiên 2 chữ mờ lại hiện ra thành 4 chữ: "Thuận Thiên Lê Lợi." Lê Thận vội tặng Lê Lợi thanh kiếm rồi nói: "Trời cho anh thanh kiếm này để trừ giặc Minh đó. Vậy xin anh hãy nhận lấy."
04) Lê Lợi thấy thế rất vui lòng, liền cảm ơn Lê Thận rồi đem thanh kiếm ra về. Tới nhà, thấy vợ là Trần Thị Ngọc Trân đang đứng chăm chú nhìn lên ngọn cây đa ở đầu đường. Lê Lợi hỏi thì Trần Thị đáp: "Có cái gì sáng lấp lánh ở ngọn cây đa đấy!"
05) Lê Lợi trèo lên xem thì thấy một cái bao đựng kiếm rất đẹp, có nạm ngọc. Đem xuống, bỏ thanh kiếm Thuận Thiên vào thì vừa vặn. Lê Lợi mừng lắm và bảo vợ: "Đúng là trời cho ta thanh kiếm cùng cái bao đựng này để diệt trừ giặc Minh."
06) Mười năm gian khổ đã qua. Thanh kiếm Thuận Thiên luôn luôn ở cạnh Bình Định Vương. Ngày 15 tháng 04 năm Mậu Thân (1428) Bình Định Vương Lê Lợi lên ngôi vua ở Đông đô, hiệu là Lê Thái Tổ. Nhớ lại chuyện xưa, Ngài lấy niên hiệu là Thuận Thiên.
07) Một hôm đẹp trời, Thái Tổ ngự thuyền rồng, dạo chơi trên hồ Tả Vọng. Tới giữa hồ, bỗng thấy ở dưới nước, nổi lên một con rùa vàng thật lớn. Rùa bơi đến trước thuyền rồng rồi cúi đầu gật gật, như có ý mừng đón nhà vua.
08) Rồi rùa cứ bơi quanh quẩn trước thuyền rồng, không chịu lặn hoặc bơi đi chỗ khác. Lấy làm lạ, Thái Tổ rút thanh kiếm Thuận Thiên ra chỉ. Nhanh như chớp, rùa vàng đớp luôn thanh kiếm trong tay nhà vua rồi lặn xuống nước, biến mất.
09) Vua cho quân lính tát cạn hồ Tả Vọng để tìm lại thanh kiếm Thuận Thiên. Hồ cạn hết nước mà rùa và kiếm vẫn không thấy đâu. Vua cho là bây giờ đã dẹp xong giặc Minh, nên Trời sai lấy lại thanh kiếm đã cho khi trước. Và từ đó Ngài cho đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Hoàn Kiếm (ngày nay vẫn còn ở giữa thành phố Hà Nội)
10) Khi còn ở Lam Sơn, lúc mới đánh nhau với quân Minh, Bình Định Vương thường bị thua luôn. Một hôm vương bị quân Minh đuổi rất gấp. Lúc chạy băng qua một cánh đồng, thấy vợ chồng ông lão già đang tát nước, vương vội vàng chạy lại, cởi bỏ áo ngoài, rồi nhảy xuống ruộng nước, giả làm người đang mò cá.
Giai thoại thời chống quân Minh
12) Đến tối, Ông bà già mời Vương về nhà nghỉ và dọn cơm lên mời. Thức ăn chỉ có đĩa cá giếc nướng và bát canh thịt hầu (tức thịt khỉ). Hai ông bà già cùng chắp tay thưa: "Gặp lúc nguy cấp, chúng tôi trót ăn nói vô lễ, xin chúa công tha tội cho."
13) Vương đáp: "đa tạ hai cụ. Nếu không có hai cụ nhanh trí đối đáp với giặc thì mạng Lê Lợi này đâu còn nữa?" Về sau, khi dẹp xong giặc, vương cho đi tìm vợ chồng ông lão già để trả ơn thì cả hai người đều đã mất. Vì không biết tên của họ nên vua gọi là ông Hầu, bà Hầu để kỷ niệm bát canh thịt hầu ngày trước.
14) Được tin Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Trần Nguyên Hãn giả làm người bán dầu, lẻn vào thành Đông Đô để tìm Nguyễn Trãi còn bị quân Minh giam lỏng ở trong đó. Sau khi bàn luận, Trần Nguyên Hãn rủ Nguyễn Trãi cùng trốn ra khỏi thành, đi tìm gặp Lê Lợi để dâng kế hoạch đánh đuổi giặc Minh.
15) Nhận được cuốn sách ghi rõ kế hoạch "Bình Ngô", Lê Lợi mừng lắm, giữ Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn ở lại giúp việc. Nguyễn Trãi ngầm cho người tói những cây đa ở ven sông, lấy mật viết 8 chữ "Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần." (tức là Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm bầy tôi) vào các lá đa còn xanh.
16) Kiến thấy mật, kéo tới ăn và đục thủng những chỗ có vết mật thành ra 8 chữ: "Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần." Lá cây rụng xuống, theo dòng nước trôi đi khắp nơi. Dân chúng nhặt được những lá cây có 8 chữ này, cho là điềm trời báo trước như thế, nên rủ nhau kéo về giúp Lê Lợi càng ngày, càng đông.
17) Chính Bình Định Vương, khi mới được quân lính đem nộp những lá cây này cũng lấy làm ngạc nghiêng. Vương biết ngay là kế vận động dân chúng của Nguyễn Trãi. Vương cười bảo: "Ta có lời khen diệu kế của quân sư. Dựa vào việc dân chúng hết lòng tin ở Trời, quân sư đã khéo làm cho mọi người theo ta!"
18) Làng Đặng Xá (Tiên Lữ, Hưng Yên) xưa nay vẫn nổi tiếng là nơi có nhiều người đàn giỏi, hát hay. Những đêm trăng sáng, trai gái trong làng thường họp nhau lại ở sân đình để cùng thi hát, cùng vui chơi, đối đáp với nhau.
19) Trong đám thiếu nữ có cô Đào Thị Huệ là xinh đẹp, nết na hơn cả. Cô Đào Thị Huệ hát đã hay mà lại còn nhanh trí. Cô luôn luôn đặt ra những câu hát mới, hợp tình, hợp cảnh để bên nữ hát đố, làm cho bên nam không giảng được…
20) Cuộc sống đang yên vui thì giặc Minh kéo về làng. đóng đồn để chặn đánh Bình Định Vương. Ngoài việc vơ véc thóc lúa, giặc Minh còn bắt thanh niên phải đi làm phu vác đất, đắp đồn cho chúng… Biết tiếng làng Đặng Xá có nhiều thiếu nữ hát hay, chúng đi lùng bắt.
Giai thoại thời chống quân Minh
22) Uống rượu, đùa bỡn chán rồi, lính giặc đều chui vào túi vải để ngủ vì chúng rất sợ bị muỗi đốt sinh ra bệnh sốt rét. Chúng chỉ để một vài tên ở ngoài, giữ việc buộc miệng túi vải lại, rồi thức mà ngồi canh gác suốt đêm.
23) Dần đà thấy bọn thiếu nữ hiền lành biết chiều chuộng chúng, nên chúng cho các cô tự do ra vào đồn trại, bất kể ngày đêm. Chúng còn tin cẩn giao cho bọn Đào Thị Huệ việc buộc miệng túi vải lại cho chúng ngủ, và không cắt quân canh gác suốt đêm như trước nữa.
24) Lúc này bọn Đào Thị Huệ bàn với nhau: "Chúng ta sức yếu, không thể nào vào nghĩa quân giúp Bình Định Vương được. Vậy nhân dịp này, chúng ta hãy cùng nhau lập kế giết ngầm lính giặc, bằng cách đợi cho chúng ngủ say trong túi rồi buộc chặt miệng túi lại và khiêng vất xuống sông, mỗi đêm vài tên."
25) Mấy chị em đều đồng ý. Ngay đêm sau Đào Thị Huệ (còn gọi là Ả Đào) cùng mấy bạn gái khác lặng lẽ khiêng từng túi vải, trong đó có những tên giặc say rượu, ngủ mê mệt, đem quẳng xuống ngòi. Túi đựng xác giặc theo nước trôi ra sông lớn mất tăm…
26) Cứ thế mỗi đêm quẳng vài tên lính, mà tướng Minh không hay biết gì hết. Cho tới một hôm, tướng giặc thấy không rõ vì sao mà số lính trong đồn tự nhiên bị hao hụt đi khác nhiều. Y vội ra lệnh kiểm điểm lại số quân.
27) Y bắt tất cả quân lính trong đồn đứng xếp hàng vào một thửa ruộng hình vuông, bốn bề có đắp tường cao, gọi là đấu đong quân để biết thiếu đủ ra sao. Y giật mình thấy số quân sĩ vơi ít hẳn đi, nên cho là đất vùng này độc, không thích hợp cho việc đóng quân, nên quyết định phải dời đồn đi nơi khác.
28) Sau này khi đất nước thanh bình, làng Đặng Xá nhớ công ơn của Đào Thị Huệ nên đặt luôn tên thôn, nơi có nhà nàng ở là thôn Ả Đào. Đến nay vẫn còn đền thờ Ả Đào ở làng Đào Xá cùng dấu vết đấu đong quân của giặc Minh, tại một khu ruộng gần đó.
29) Từ năm Đinh Hợi (1407) sau khi diệt được nhà Hồ, tướng Minh là Mộc Thạnh sai lấy đất ở núi Bô và phá tháp Chương Sơn (xây từ đời Lý) để đắp thành Cổ Lộng. Thành này ở bên bờ sông Đáy, giữa cánh đồng Lai Cách (Ý Yên, Nam Định)
30) Thành này rộng hơn một trăm mẫu, trong có lũy cao, ngoài là hào sâu, rất kiên cố. Thành Cổ Lộng trấn giữ con đường từ thành Đông Quan vào đến Thanh Hóa. Dân chúng đi qua phải vào trình báo với quân lính nhà Minh.
Giai thoại thời chống quân Minh
32) Bấy giờ ở gần thành Cổ Lộng, tại làng Chuế Cầu có bà Lượng Thị Nguyệt nhan sắc rất xinh đẹp. Chồng bà là ông Đinh Tuấn, người thường liên lạc với các nhóm nghĩa quân chống lại chính sách tàn ác của bọn quan lai nhà Minh.
33) Bà Lương bàn với chồng là nên tìm cách mua chuộc, lấy lòng bọn quân lính trong thành Cổ Lộng để dò la tin tức. Ông Đinh Tuấn liền bảo vợ rằng: "Nếu muốn làm như thế, thì phải mở quán bán hàng, ở ngay phía ngoài thành mới được."
34) Ít lâu sau, quán hàng của bà Lương đã được dựng lên để bán cơm, rượu cho khách qua đường. Vì bà chủ xinh đẹp, lại khéo mời chào vồn vã, nên cửa hàng rất đông khách. Quân lính nhà Minh từ trong thành Cổ Lộng ra, đều vào ăn uống ở quán của bà Lương.
35) Lâu ngày, bà Lương đã làm quen được với một số lớn tướng sĩ va quân lính nhà Minh. Chúng còn cho phép bà được mang rượu thịt vào bán cho những người ở trong thành, vì bận canh gác mà không ra quán được. Do đó mà chỗ nào giặc chức lương thực, vũ khí, bà Lương đều biết rõ.
36) Khi ấy thế lực của Bình Định Vương đã mạnh. Vương sửa soạn ra đánh thành Đông Quan. Trên đường tiến quân thì gặp thành Cổ Lộng chắn ngang. Vương liền họp các tướng sĩ lại để bàn tìm cách phá thành Cổ Lộng trước đã.
37) Giữa phiên họp, bà Lương tìm đến dâng kế hạ thành. Bà nói: "Tôi sẽ bỏ thuốc mê vào rượu cho lính canh uống, rồi đốt lửa làm hiệu để Chủ Tướng đem quân vào chiếm thành. Những nơi chứa lương thực và vũ khí đều được ghi rõ ràng trong tấm bản đồ này.
38) Trước tiên Bình Định Vương còn nửa tin nửa ngờ. Sau khi được biết thêm rằng bà Lương chính là vợ ông Đinh Tuấn, người vẫn gửi tin tức giặc Minh chi nghĩa quân, vương rất mừng. Vương cùng các tướng hết lời khen ngợi bà Lương và dặn bà về nhà, cữ làm đúng như thế.
39) Đúng ngày giờ đã định, bà Lương nổi lửa làm hiệu, ông Đinh Tuấn cùng các nghĩa sĩ ở bên trong lén mở toang cửa thành Cổ Lộng. Đại quân của vương tràn vào chiếm gọn thành, bắt sống được giặc mà không tốn một giọt máu. Vương giao việc giữ thành lại cho bà Lương và ông Đinh Tuấn rồi tiến thẳng ra Đông Quan.