Biên khảo

Thế Phong : VŨ HOÀNG CHƯƠNG: ” …THƠ TA CHẲNG VIẾT CHO ĐỜI… “

VŨ HOÀNG CHƯƠNG: ” …THƠ TA CHẲNG VIẾT CHO ĐỜI… “

 Thế Phong

 

Phạm công Thiện - Thế Phong - Đinh Cường. Đà Lạt 1963 thời Thiện 22 tuổi
viết Ý Thức mới trong văn nghệ và triết học

Phạm công Thiện – Thế Phong – Đinh Cường. Đà Lạt 1963 thời Thiện 22 tuổi viết Ý Thức mới trong văn nghệ và triết học

Năm sinh đúng của Vũ Hoàng Chương là 1915; nhưng trong khai sinh đề ngày 5/5/1916 tại Nam Định. Và tính theo âm lịch, ngày 4 tháng 11 năm Ất Mão. Chính quán làng Phù Ửng, tỉnh Hưng Yên.  Đậu Tú tài Pháp xong ra làm Sếp ga.  Tác phẩm xuất bản từ 1940 đến 1975 trên dưới 20 cuốn, có tác phẩm đã dịch ra Pháp, Anh, Đức ngữ.   Về thơ : Thơ Say ( 1940), Mây ( 1943),  Rừng Phong ( Saigon 1954), Hoa Đăng ( Saigon 1959),  Tâm tình người đẹp ( thơ  viết lối “Nhị thập bát tú” ( Saigon 1961),” Trời một phương” ( Saigon 1962 ) … kịch thơ :” Vân Muội” ( 1942),” Trương Chi”, “Hồng Điệp” ( 1944), về văn xuôi: “Loạn trung bút “( Saigon 1970),” Ta đã làm chi dời ta” ( hồi ký , 1974, tái bản  ,  Nxb Hội  Nhà văn / Chi nhánh phía Nam  , Saigon 1993) ,   dịch  sang Pháp, Anh, Đức.. :” Pòemes choisis “( Saigon 1963, tựa Simone Kuhnen d la Coeuillerie ), “Nouveaux Poems “( Saigon 1970), “Communions Poems “( Anh-Mỹ ngữ),” Die achtundzwanzig Sterne “ (Đức ngữ,  Nxb Hamburg, 1966).

 

P.Mérimée, nhà   văn Pháp của thế kỷ trước đã gióng tiếng nói báo hiệu :” Sau đàn bà mới tới văn chương !”. Với Vũ Hoàng Chương, (VHC)  hẳn là  một nàng Kiều Thu nào đó đã cùng nhà thơ chia sẻ hận tình, xảy ra vào 12 tháng 6 – hình ảnh  lãng đãng nàng thơ thiếu phụ kia đã ám ảnh tâm linh Vũ Hoàng Chương trọn đời thi sĩ  thật đậm nét, đến nỗi VHC phải  bật thành thơ:

 

“ Tháng sáu mười hai từ đây nhé

  Chung đôi từ đấy nhé lìa đôi

  Em xa lạ quá còn đâu phải 

Tố của Hoàng xưa Tố của tôi…”

 

hoặc :

 

“..Kiều Thu hề Tố em ơi

  Ta  dương lửa đốt tơi bời mái Tây “.

 

“Mây” ra mắt vào 1943, chứng giám mối tình lỡ chàng thi nhân thất tình,  khiến chàng muốn thiêu hủy tâm can, bật thành thơ, hòng mong  được giải thoát – để rồi nào có thể quên dễ dàng !  Sau này, ở “ Rừng Phong”  sau mười mấy năm hình ảnh:

 

” Tố của Hoàng ơi”

   từ hư không lại trở về  không hư”,

 “ lẽ nào mộng cả thôi ư? “

 

dẫn đến kết cục não lòng:

 

“ Người ơi giọt bể chưa dư tang điền “.

 

Vậy nàng thơ  có phương danh  “ Tố” là ai?

 

 Theo Tạ Tỵ,  kể lại trong một hồi ký” Mười khuôn mặt văn nghệ / Tạ Tỵ/ Nam Chi Tùng thư, Saigon 1970)- thì nàng  Tố có hai chị em đều đẹp cả, nhan sắc dư thừa, và nhà ở trên đường Capitaine Bruisseau, gần Place Négrier.  (Cửa Nam ,Hà Nội bây giờ ) . Và nhà thơ chỉ yêu một nàng, yêu  đơn tư một chiều – còn Tố có yêu lại không, chẳng ai  tiết lộ điều bí ẩn này.  Sau nàng Tố đi lấy chồng, chẳng ai có thể làm khác hơn  !!

Từ tan vỡ một cách rất vô tình, lại rất hợp lý này, sau này VHC  đành  cưới nàng Đinh Thị Thục Oanh làm vợ.   Thục Oanh là chị  ruột Đinh Hùng, hơn Đinh Hùng 1 tuổi, sinh ở Manila ( Phillipimes) khi cha làm công chức cho Pháp đổi sang đây.

Trước 1975, tôi có gặp bà, ấy là vào một buổi ; đó là lần  tôi đưa Vũ Hoàng Chương về nhà, một  căn nhà  nhỏ ở  gần chợ Vườn Chuối ( Saigon 3).  Chẳng là lần ấy, nhà thơ Nhất Tuấn ( Phạm Hậu, giám đốc Nha  Vô tuyến Truyền thanh Saigon ) mời  chúng tôi làm  giám khảo  cuộc thi Thơ Tết của Đài có  VHC hiện diện.

 Sau 1975, gặp lại bà Thục Oanh  nhiều lần, cũng nhờ nữ sĩ Thư Linh dẫn tới giới thiệu – từ đó, tôi cảm nhận được rằng người đàn bà làm vợ nhà thơ ấy thật phi thường , không chỉ có sức chịu đựng dẻo dai vô biên,  cộng với tấm lòng hy sinh   thật cao cả làm vợ một thi sĩ tài hoa , luôn luôn  mặc complet bảnh bao, túi rỗng vì nghiện ngập.  Hãy cùng nghe lời  tán dương Thục Oanh , qua Tạ Tỵ:

 

“…Ôi thật tội nghiệp cho thân phận đàn bà, đúng là: “ Thân em như giọt mưa sa !” Nàng Oanh, một người đàn bà phi thường, có một sức chịu đựng vô biên và có tấm lòng hy sinh cao cả. Trong suốt cuộc đời làm vợ VHC, một người chồng, tuy nổi danh về thi ca nhưng lại nghiện hút, gia đình thường túng thiếu.  Có buổi sáng, tôi đến thăm Chương tại căn nhà ở gần phố

Hàng Da ( Hà Nội- TP.chú thích) . Lúc tôi đến đã hơn 9 giờ sáng, Chương vẫn chưa tỉnh.  Bà Oanh yên lặng như cái bóng, đứng chải đầu bên chiếc cửa sổ nhỏ . (….)

–“ Ngồi chơi anh, đêm qua anh Chương thức khuya quá !”

Tôi( Tạ Tỵ)  tìm không ra chỗ, đành ngồi xuống chiếu. Tôi nhìn Chương nằm trên tấm nệm cũ. Toàn chân Chương như dán xuống mặt nệm.  Da mặt tái mét, đôi mắt mở hé trề xuống như còn muốn hút ….”

 

Người đàn bà mang tên Kiều Thu hoặc Tố- được nhắc nhở thật nhiều lần trong thơ VHC – với nàng thơ mang tên Tố- tác giả yêu  đơn phương, vì vậy rất có thể  chính nàng thơ cũng không thể hay biết VHC yêu mình ?!

 Còn nàng  Thục Oanh, vợ chính thức VHC- thì tác giả chỉ” nhắc nhở  tên nàng Thục Oanh    duy nhất một lần” – trong tập thơ” Hoa Đăng” mà  thôi.

Trước 1950, chính xác hơn 1947- VHC rạt rào tình cảm, dễ rung động nhịp sống “ thời cách mạng” , tác giả viết bài” Nhớ về Hà Nội vàng son “- có  những đoạn thơ thật mượt mà, rung động thật sự :

 

NHỚ VỀ HÀ NỘI VÀNG SON  (*)

 

..” Ôi ngày mười chín  ngày oanh liệt

  Sóng đỏ hoa vàng khắp bốn phương

  Hà Nội tiếng reo hò bất tuyệt

  Vang vang bờ nọ Thái Bình Dương ?

 

  Ba mươi sáu phố ngày hôm ấy

Là những giòng sông đỏ sóng cờ

  Nền thắm nhụy vàng hoa vĩ đại

Năm cánh xòe trên năm cửa ô 

 

(…………………………………….)

 

Ôi ngày mười chin ngày oanh liệt

 Vạn ước mong dồn một ước mong

 Ôi mùa thu ấy, mùa tin tưởng

Một tấm lòng mang vạn tấm lòng …

 

 

 

 

  Lưng chừng thế kỷ thứ hai mươi

Khoảng giữa mùa thu đẹp tuyệt vời

Như thoảng Mê Giang trào sóng thẳm

Hoành  Sơn tân lĩnh kết hoa tươi “.

 

————–

(*) Trích lại từ “ Lược sử văn nghệ Việtnam- Nhà văn tiến chiến 1930-1945/ Thế Phong . Bài thơ này trước đã in trong” Tập văn Cách mạng và Kháng chiến “( Nxb Sư thật 1947)- tôi trích đăng lại ,bị “Sở Phối hợp Nghệ thuật” (  Ban Kiểm duyệt / Bộ Thông tin VNCH) cắt bỏ 2 đoạn. Tôi không còn nhớ đến nữa, tới đầu năm 1999, kịch tác gia Hoàng  Như Mai ( Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân bây giờ ) đọc  cho nghe 2 đoạn thơ thiếu trong bài – nên mới có cơ hội bổ sung. ( 2 đoạn 3 và 4 in chữ đậm).

————

Trở lại cùng người đàn bà mang tên Đinh Thi Thục Oanh – do chính phu quân mô tả , thì:

Khi lập gia đình, chú trể ở luôn bên nhà vợ cùng em vợ tọa lạc tại Ngõ Bò. Nhưng VHV “ chơi chữ’ gọi” Ngõ Bò”   thành “ Hoàng Ngưu hạng”, và tác giả giải nghĩa:

 

” .. nếu dịch chữ nào nghĩa nấy thì đó là” Ngõ Trâu  Vàng “.  Căn nhà 5 gian lợp ngói, cửa bức bàn , hiên rộng tới 3 thước, có thể trải chiếu ngồi, nhìn ra cây ổi và giàn hoa ngoài sân; nếu hội họp để uống rượu ngâm thơ thì 20 người ngồi vẫn còn thừa chỗ.  Chỉ phải cái nhà hơi tối, vì chẳng có một cửa sổ nào , lại ở vào một ngõ không được hưởng tiện nghi điện lực (…) mà người nọ nhìn người kia vẫn mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.  Thục Oanh và Thứ Lang ( Đinh Hùng- TP chú thích)  bất chấp.  Hoàng đến nhập tịch cũng bất chấp luôn …. “.

 

Bạn bè văn chương đến thăm VHC hoặc  Đinh Hùng đều được Thục Oanh  tiếp đãi khách thật chu đáo, nồng hậu, VHC tự kể :

 

“… Nào Chu Ngọc, Vũ Trọng Can, Lê Văn Trương, vv…Nguyễn Bính  thì đi đâu  một dạo, hình như vào Sài Gòn – lúc phản hồi” Kinh đô văn nghệ” là đóng đô  ngay ( tại đây) , nằm lỳ (ở) Ngõ Trâu Vàng đến 1 tháng  là ít ! Phải chịu  Thục Oanh là một người thản nhiên có một.  Bạn của Thứ Lang hay Hoàng đến,  Oanh đối đãi rất thật tình.  Có khi cơm gà cá gỏi,  rượu thịt ê hề

, có khi ăn khoai trừ bữa hay ăn cháo trắng thay cơm. Rất có thể môt hôm nào đó mỗi người – chủ cũng như khách – chỉ được thưởng thức một chén cơm rang, hay một củ khoai, hoặc vừa đúng 3 thìa cháo.  (…) Hoàng ưa nhắc lại ( của VHC) :

          Ăn ít mới ngon ! …. (*)

——————————————————————————————————-

(*) trích từ hồi ký ”Ta đã làm chi đời ta”/ Vũ Hoàng Chương. Ở đây dùng bản in Nxb Hội Nhà văn/ Chi nhánh Phía Nam do Ý Nhi  xuất bản, Sài Gòn 1993).

 

Cái thời’ chữ nghĩa bán ra tiền”  thời tiền chiến rất khác bây giờ – thơ in ra còn bán ra tiền.  Có tiền mới có nhiều bữa ăn thịnh soạn do Thục Oanh đãi khách, có khi kéo dài tới ngày hôm sau. Cho tới lúc” bây giờ tiền hết gạo không” thì cả hai anh em VHC và Đinh Hùng phái “ hạ sơn”  đòi tiền “ mãi văn” từ các báo đã in bài của họ:

 

“…Thường thường chia quân 2 ngả.  Hoàng không biết Thứ Lang đã” bán”  những bài tùy bút nào, nhưng về phía Hoàng thì đã” đi đứt”   vở kịch thơ” Trương Chi”, rồi đến vở “ Hồng Điệp” cũng đi luôn ,cả một phần  tác quyền tập thơ” Mây”. Kể ra văn chương lúc đó cũng còn có giá….”

 

 

 

 

 

 Kể chuyện giai thoại nhà văn, nhà thơ nghèo- có khi thôi –  có điều khi ngẫm vềhọ” như VHC tả lại- thì” vật được tặng trong ngày cưới, ( kiểm lại) chỉ còn thấy đôi giầy cườm của Đỗ quân tặng, rồi tấm lụa mỡ gà óng ánh của Lê Trọng Quỹ cho,  đến chiếc vòng huyền của Lê Thanh.  Nhìn lại, chẳng thứ gì đáng giá ,khi quy ra tiền.  Còn chú rể ( VHC)  thì lại ngắm nghía không chán mắt một tập giấy của Nguyễn Tuân tặng để viết – lại cả bút máy cũ mèm từ tay Chu Ngọc tặng;  mà tất cả quy ra tiền, thật mà nói chẳng có cái gì đáng giá cả. Bởi lẽ, họ  có “ sẵn cái gì thì tặng cái nấy ” cốt ở tấm lòng quý mến nhau là chính “-  đây chẳng phải chuyện bịa, mà chính chú rể, thi sĩ VHC tự kể :

 

“…Giấy của Nguyễn Tuân thì ai còn lạ gì !  Đó là thứ giấy báo in tầm thường, ở chỗ nó được cắt thành khổ vuông, mỗi bề hai gang tay, nghênh ngang ra mặt.  Cách mép giấy chừng một đốt ngón tay, Nguyễn cho in 1 cái khung là những giòng kẻ lờ mờ.  Bên phía dưới khung lại có in 2 chữ” Nguyễn Tuân” –thủ bút của đương sự.  Tất cả đều dùng màu xanh lá mạ, rất hợp với nền vàng….”

 

Trở lại với tập thơ” Mây”  của VHC- đó là 1942, có ghi lại chuyện kể vui vui thế này – anh chị em văn hữu rất sốt ruột đợi thi phẩm ” Mây của VHC ra đời- kể cả một số  văn hữu không mấy thân thiết  với  tá c giả đi nữa – như   “ cặp bài trùng song sinh “Huy Cận và Xuân Diệu “  Có một buổi, gã  Huy Cận và Vũ Hoàng Chương rất tình cờ đụng mặt  nhau ở Cổng Chéo- Hàng Lược.  Chả biết ông Xuân Diệu đề tựa cho  Huy Cận ra sao , tán ma tán mãnh , bi thảm-hóa” nỗi sầu biển lớn, sông dài” bạn  thơ Huy Cận  có nỗi khổ lớn lao  ra sao, thì chỉ một “ Dieu seul le sait”  mà thôi ! (có Trời mới biết!) – còn ngoài đời – chàng kỹ sư nông nghiệp thời Tây nhiều bổng lộc, thì  làm sao Huy Cận có nỗi khổ’ như biển rộng, sông dài” cho được!. Một lần, chàng Huy Cận và Vũ Hoàng Chương tình cờ gặp nhau ở Cổng Chéo (Hàng Lược)  thì cả hai, ai nấy tay bắt mặt mừng. Riêng chàng Huy  Cận lại cười típ mắt,  nổi hứng ngâm   luôn 2 câu thơ:

 

          “ Đã lâu lại gặp Chàng Say :

          “Lửa Thiêng “ xin đốt cho “Mây  “xuống trần.

 

Cứ như  ý diễn từ 2  câu thơ kia , thì “Lửa thiêng / Huy  Cận”  đã chẳng còn giá trị gì, cứ đốt ra tro để chào mừng một thi phẩm tuyệt tác của VHC sắp chào đời vậy.  

 Ngâm xong, thú quá, chàng Huy Cận  lôi xềnh xệc Vũ Hoàng  Chương vào một hiệu phở ở Hàng Đồng, khăng khăng đòi đãi Hoàng một chầu kỳ no mới thôi !( “ Ta đã làm chi đới ta/ Vũ Hoàng  Chương”).

 

 

Bây giờ bàn đến “ thơ  xuân VHC” sau 1954, từ khi chàng “ Say” lên tàu ‘ há mồm”  củaHải quân Hoa Kỳ chở  kìn kìn  gần 1 triệu  di dân vô Nam- từ vỹ tuyến 17 trở ra thuộc  Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa- từ 17 vỹ tuyến  trở vào thuộc quyền  Quốc gia Việt Nam-( theo Hiệp định  Genève 20/7/1954)-  thì thơ xuân VHC  vẫn chỉ  hướng về” mùa xuân dĩ vãng” – khai bút thơ xuân hôm nay  mà chỉ nhắc lại xuân qua.  

Tôi cho trích lại toàn bài “Thơ xuân qua thi ca của vài thi nhân tiền chiến”(  tạp chí” Văn hóa Á châu” ( Saigon 1960, bài của Thế Phong) – trong đó có  bàn đến thơ xuân VHC:

 

 

 

 

 

 

 

“….Tác giả “ Mây” , “ Say”, “ Rừng Phong”, “ Hoa đăng”  vv… thơ vàng son, và kịch thơ “Vân Muội” lại “ ảo huyền”, than thở cùng mây , bay theo gió : “ Em ơi! lửa tắt bình khô rượu / Đời vắng em rồi say với ai !?” hoặc  giải mộng yêu đương cũng chỉ mang sầu, thêm lụy, dầu muốn vượt qua hay từ chối- thỉ chẳng còn  “ neo”  thoát, dù quyết bỏ  phương xa một dặm đường xưa, lối cũ – thì VHC vẫn” yêu một phút để mang  sầu trọn kiếp /  tình mười năm còn lại mấy tờ thư “ mà thôi ! . Thi sĩ đã từng nhìn lại khởi điểm con đường đã đi, trải qua bao năm, tháng, chao ôi, vẫn chỉ là ảo mộng có muốn  trở về ngôi chính vị , chỉ khi nào đã từ bỏ trần giới mà ca lên : “Ta còn để lại gì không ?/ Kìa nón đá lở, này sông cát bồi ! “.

 

Đã có lúc  chán ngán đến đầu đốt tay,  sầu tới đầu lưỡi giai cấp mình- VHC  thử bước sang địa hạt thơ đấu tranh- đi tìm một chân trời mới cho đỡ buồn nản, cũng là cách  ủng hộ đường lối chính trị quốc gia. ( sau này  tác giả được giải thưởng thơ  Tổng thống VNCH, qua  tập” Hoa đăng”)- Những bài thơ viết theo kiểu” Nhớ về Hà Nội vàng son”  ( 1945)  đến “ Hoa đăng” ( sau 1954) , nhưng dễ mấy khi từ bỏ được ngay bản chất,  và thất bại ngay ở đầu sóng  ngọn nước.( “ Xôn xao hành khúc xây đời mới / Trang khúc du dương ngọn quốc kỳ” vẫn là”làm dáng văn chương,  và thật đúng:” Tóc bạc má hồng mê vận hội!” quả  đã muộn màng !

Con đường  dò ,   tìm hiểu khả năng thi phú  tác giả, liệu còn; hoặc đã cạn mà không hay biết ?!  Dẫn chứng đôi câu trong bài  “ Thoát hình”:

 

“…. Kìa mảnh da ngà đang nứt rạn

Cho tròn một kiếp chẳng phân vân

Lòng cây mấy thuở ai người biết ?

Từng khóc từng reo đã mấy lần ?”

 

Tuy vậy vẫn có thể đo được:

 

“Lòng cây mấy thuở ai người biết ?

 

”-  hoặc trong bài “ Công chúa  Paris”:

 

“…Rồi mỗi lần  thu hội ý

Hoa đăng lại vượt Trùng Dương

Tháp lại truyền tin báo hỷ

Cưới nàng công chúa  Tây Phương …”

 

Ba năm trước, thi sĩ còn nhớ: “ bảy màu mây của Tháp Ngà vấn vương”,  hòa đồng biến chuyển đời riêng  với cơn sóng  chính  trị vần vũ: đất nước chia đôi, rời “ kinh đô văn nghệ” , vào miền Nam tìm Tự do :

 

“…Thuyền thơ chở hứng lên cao

  Sóng xuân lại có đêm nào nguyệt hoa

 Bạc trôi từng lớp sao  sa

 Bảy màu mây của Tháp Ngà vấn vương …“

 ( Xuân thanh bình)

 

Thi sĩ còn đủ khả năng tìm Hội để kết”Hoa đăng”? đó là câu hỏi tác gỉa tự đặt cho bản thân từ 3 năm trước :

 

 

 

 “… Thời gain có mỏi cánh chim bằng ?

        Vũ trụ sang mùa tận thế chăng?

        Anh vẫn còn thơ về dâng bút

        Em có còn Hoa đủ kết Hoa đăng ?”

 

                                              ( Tuổi xanh )

 

Thi sĩ còn đủ sức theo một đoàn thám hiểm để mơ  tới đỉnh” Himalaya-Cho-Oyu” –   nhưng thi sĩ đã đạt được ước mộng của mười mấy năm xưa: mơ được viễn du theo người tình  cùng về” Kinh đô Ánh sáng”- thực tế tác giả  mở mắt ra vẩn chỉ thấy  mình – nên  đành ở lại với thực tế :

 

“…Quán rượu liền đêm chuốt đắng cay

     Buồn mưa, trăng lạnh, nắng hoa gầy

     Nắng mưa đã trải tình nhân thế

    Lưu lạc sầu chung một hướng say

 

    Gặp gỡ chừng như chuyện Liêu Trai

    Ra đi chẳng hẹn một ngày mai

    Em ơi ! lửa tắt bình khô rượu

    Đời vắng em rồi say với ai ?

 

 

   Phương Âu mờ mịt lối quê nàng

   Trăng  nước âm thầm vạn dặm tang

   Ghé bến vào đây người hải ngoại

   Chiều sương mặt bể có mơ màng ?

 

  Tuyết xuống phương nào lạnh lắm không ?

  Mà đáy lòng trắng một mùa đông

  Tương tư đốt thuốc thâu canh đợi

  Thoáng gió trà mi động mấy bông ?[]

 ( Đời vắng em rồi say với ai ?)

 

Mộng Liêu Trai của Bồ Tùng Linh ấp mộng lớn có mục đích” cải tạo xã hội”, kết tinh từ đời sống nguyên hình để thể hiện ước vọng- còn Vũ Hoàng Chương thì” mộng Liêu Trai cá nhân chỉ thấp như ngọn cỏ ,” như vậy sao ? Nhưng   VHC vẫn không nản lòng, nuôi mộng để có ngày toại nguyện, là gặp được giai nhân cùng dệt khúc “ cố nhân kỳ ngộ”:

 

 “…Nàng mang vòng ngọc giai nhân

      Tà áo vòng gai thi sĩ

      Tìm nhau đã mấy trăm lần

       Mới thỏa u hoài vạn kỷ ..” 

 

                                ( Công chúa Paris)

 

 Gọi là” đường thơ mới” của thi sĩ nổi tiếng VHC từ tiền chiến- bởi tôi nhận thấy rằng ít nhất “đường thơ có Công chúa Paris  làm khuây khỏa nhà thơ yêu mến phần nào ẩn ức của bèo giạt bến mê – ít nhất hơn một lần:

 

 

 

 

 

 

 “…Nhổ neo rồi, thuyền ai xin mặc sóng

      Xô về đông hay dạt tới phương Đoài

       Xa mặt đất, giữa vô cùng cao rộng

      Lòng cô đơn cay đắng họa dần vơi !”

     ( Phương xa )

 

Chí tang bồng ấy , đã:

 

   “…Đây người thơ mộng Trang Chu

         Nhẹ cánh tìm mai đỉnh tuyết

         Đưa đường lên ngọn CHO-OYU

        Đã sẵn mùi hương diễm tuyệt !”

 

                                             ( Tuyết hận )

 

Mùa xuân trong đời thơ thi sĩ VHC, hoặc hầu hết các nhà thơ tiền chiến đều tìm nguồn  dĩ vãng. Có nhà thơ nhớ tiếc kỷ niệm quá vãng của mình trong tuổi thanh xuân yêu đương , trẻ trung.  Trường hợp này là VHC.  Tác giả nhớ  lại thuở “Tuổi vàng” hay” Tuổi đá” – một lối gọi “ thời son trẻ”, thời mái đầu xanh có giấc mộng đẹp thuở ban đầu.  Mộng đẹp rồi qua đi theo năm tháng,  bây giờ nhìn lại, dễ mấy ai không luyến tiếc! Chẳng thế mà nhà văn  Pháp nổi danh như Marcel Proust chỉ rặt  tìm dĩ vãng đã mất , qua   tác phẩm coi như tuyệt bút, đó là “ À la recherche du temps perdu” đó sao?  Và ở bên ta là nhà thơ Vũ Hoàng Chương”:

 

TUỔI XANH

 

Trăng dịu từ khi gặp gió lành

Sông lam từ buổi gặp non xanh

Từ hương quen bướm trời quen đất

Em đã yêu rồi, đã của Anh.

 

Thuở ấy tuổi  Vàng hay tuổi Đá ?

Yêu nhau ai tính tuổi bao giờ!

Gối xuân chỉ biết từ nghiêng sóng

Vần điệu trôi dài mãi tuổi thơ.

 

Tuổi dầu Vàng hay  dầu Đá qua

Vàng chưa ai nhạt đá ai nhòa

Trái tim vẫn tuổi Đồng trinh bạch

Thì sắc hương còn vẹn tuổi Hoa

 

Thời gian có mỏi cánh chim bằng?

Vũ trụ sang mùa tận thế chăng ?

Anh vẫn còn thơ về giáng bút

Em còn Hoa đủ kết hoa đăng !

 

 

 

 

 

 

 

 

Hoa gieo ánh sáng ngập tình yêu

Bút vẽ thành Thơ giấc mộng đầu

Nắng rộng mưa dài thu một nét

Không gian còn lại có bề sâu

 

Lứa đôi tái thế vẫn tương phùng

Nguyên thủy nào đâu khác Cực chung !

Anh muốn dìu Em giờ Hiện tại

Nghe trăng hòa điệu nước lên cung

 

Hòa điệu lên cung trăng nước dậy

Xuyên ngang gió trận dọc mấy thành ?

Tuổi Thơ này với Hoa niên ấy

Muôn  trước ngàn sau thăm thẳm xanh[].

V.H.C.

 

Một bài thơ nữa của VHC. – tôi là đọc giả rất yêu mến  thơ ông-  đó là bài” Nguyện cầu”.

(trong tập thơ” Rừng Phong” ( 1954) – bây giờ ai sẽ là người đọc lại , sau  biến  cố 30/4/1975 – Có thể  cho chính  Vũ Hoàng Chương  chăng? Giả thiết chính tác giả nghe lại , hẳn là  ông  sẽ thấm thía” nỗi- đau -nhục”biết chừng nào ?! Với tôi, đây là một bài thơ tuyệt tác của Vũ Hoàng Chương:

 

NGUYỆN CẦU

 

Ta còn để lại gì không ? 

 Kìa non đá lở, này sông cát bồi

Lang thang  từ độ luân hồi

U minh nẻo trước xa xôi dặm về 

 Trông ra Bến Hoặc Bờ Mê

 Ngàn thu nửa chớp bốn bề một phương 

 Ta van cát bụi trên đường

Dù dơ dù sạch đừng vương gót này 

 Để ta tròn một kiếp say

 Cao xanh liều một cánh tay níu trời

 Thơ ta chẳng viết cho đời 

 Không vang nhịp khóc giây cười nào đâu ?

Tám hương đốt nén linh sầu 

 Nhớ quê dằng dặc ta cầu đó thôi 

Đêm nào ta trở về Ngôi

Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian !

 Một phen đã nín cung đàn

Nghĩ chi còn mất hơi tàn thanh  âm ! []

 

 

V.H.C.

 

 

 

 

 

Sau biến cố 30/4/ 1975, V.H.C và vợ sống trong một phòng ở 326 Nguyễn  Trọng Tuyển, quận Tân Bình, tp. HCM, do  nữ sĩ  Mộng  Tuyết cho  ở nhờ. Chẳng là trước đó, VHC được Giải thưởng thơ Quốc gia do Tổng thống Diệm trao tặng,  vợ chồng nhà thơ dự định mua căn nhà nhỏ- thì Mộng  Tuyết mời về ở cho tới  ngày 30 tháng 4, 1975- VNCH không còn tên trên bản đồ-  văn nghệ sĩ tiền chiến ngoài Hà Nội vào Nam,  với tư thế kẻ thắng trận, đầu hất ngược, mắt hếch, nhìn văn nghệ sĩ” Ngụy” miền Nam” bằng nửa con ngươi “- thì VHC  là “ thi sĩ tiền chiến di cư vào Nam  chống Cộng điên cuồng, lại được giải thưởng thơ “  Tổng thống Ngô Đình Diệm, thời Đệ I Cộng hòa “- bị ghi  vào “ sổ đen phe đối nghịch ”.

 

 Nữ sĩ Mộng Tuyết  – dù  với tư cách “ “vợ hờ ” Đông Hồ – mời  các nhà thơ VNDCCH tiếp quản miền Nam  (Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận… thì phải ? vv..) đến dự tiệc, hẳn rằng sự có mặt vợ chồng thi sĩ VHC sẽ làm mất ngon bữa tiệc, còn là  một  chướng ngại vật, khó coi , dầu   bà chủ Mộng Tuyết  không thể đuổi ngay VHC  đi cho khuất mắt. Nên, bà chủ Mộng Tuyết bèn lấy   một mảnh giấy nhỏ, viết hàng chũ” CẤM KHÔNG ĐƯỢC LÊN LẦU “  dán ở cầu thang ( phía dưới nơi trú ngụ của VHC) bởi ở lầu 1,  nơi bữa  đại tiệc đang  diễn ra, tiếp đón các nhà văn miền Bắc” thắng trận”. Hình như  tôi viết ở đâu đó câu chuyện này ,  và đã in  trong một cuốn sách đã xuất bản, khiến   tác giả”Nàng Ái cơ trong chậu úp” bất bình . Sau k hi tôi cho xuất bản” T.T.Kh., Nàng là ai?”, bà ta có cơ hội trả lời phỏng vấn báo Thanh Niên,và mạt sát tôi thậm tệ- kể cả một cô bé đàn em của bà trong nhóm Quỳnh Dao  – đó là nữ sĩ Cao Mỵ Nhân  về  “hùa’ viết bài đòi “ trảm” nhà văn cao bồi T.P .-“,tác thiệt” T.T.KH, Nàng là ai?” trên  báo  Saigon Times ( Thái Tú Hạp chủ nhiệm ) . Tôi được biết  tin  này,  từ phóng viên văn học Trần Nhật Th u-  báo “Văn nghệ  tp. HCM” báo lại.

 

 Tiếp theo, tướng tá, sĩ quan ,  cùng  công chức cao cấp chính quyền VNCH  bị đưa đi  tập trung cải tạo dài hạn –    các trại xa Saigon – thì  VHC”  được  đưa  vào Khám  Chí Hòa ,cải tạo dài hạn tại chỗ.   Vì phạm nhân thiếu thuốc phiện,  lâm bệnh, đau ốm quặt quẹo, tựa hồn ma  thoi thóp sống vật vờ, nên ông  được trả tự do rất sớm –  về nhà được   một thời gian ngắn   qua đời năm 1976.

 

 Năm 1999,  Nxb Đồng Nai cấp phép “ Chiêu niệm 4 nhà văn Sài Gòn” : đề cập  Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Tam Lang và Mai Lâm-Nguyễn Đắc Lộc” – tại “ Chương I” Vũ Hoàng Chương ( 1915-1976), tôi viết:

 

”…Một trong 12 bài thơ di cảo của Vũ Hoàng  Chương “thâu thập được từ Hoàng  Tấn ( tác giả” Nguyễn Bính, một vì sao sáng”- Nxb Đồng Nai 1999 )cho chép lại.  Cũng theo Hoàng Tấn, tác giả V.H.C làm bài thơ này còn có ý ngầm để tặng  Quách Thị Hồ, người hát ca trù hay nhất Việtnam ( danh hiệu NSND ),  xưa từng là bạn cố tri VHC.

 ( tr. 13-16, sách đã dẫn).

 

 

             CHÚNG TA MẤT HẾT CHỈ CÒN NHAU

 

 

            Sáng chưa tối hẳn tối chưa đành

            Gà lợn om sòm một bức tranh

            Nhạc đã có tai thơ có họa

           Biết chăng ai đó mắt ai xanh ?

 

 

 

           Dấu hỏi xoay quanh một cuộc đời

           Sên bò trong óc máu thắm rơi

           Chiều nay một dấu than buông lửng

           Đanh đóng vào xăng tiếng trẳm lời

          

 

          Chúng ta mất hết cả rồi sao ?

          Cả đến âm thanh một thuở nào

          Da trống tơ đàn ôi trúc phách

          Đều khô  như khúc hát gầy hao (?)

 

         Đàn mang trơ đáy mà không đáy

         Mất hết rồi sao sợi nhớ thương

        Tay phách từ lâu nay lạc phách

        Không còn đựng mãi bến Tầm Dương

 

        Hơi ca nóng đã tan thành tuyết

        Để tiếp vào cho nó đỡ xanh

       Bạc mệnh hỡi ai hoàn mệnh bạc

       Đâu còn ấm nữa rượu tàn canh ?

       

       Hay là đêm ấy Ngưu lìa Chúc

       Xé nát mình ra hoen mắt ai?

       Còn có gì đâu cho mắt trống

       Đập lên hoang vắng đến ghê người !

 

       Âm thanh mất hết còn chi đâu ?

       Gắng gượng cho thêm hồn nhọc đau

       Ba kiếp long đong ngồi chụm lại

       Chúng ta mất hết chỉ còn nhau.

 

                                      Sài  Gòn sau 1975.

                                         V.H.C.

 

 Sau khi sách phát hành, tôi nhận được một bài báo từ Sacramento ( thủ phủ California) gửi về-  do Hoàng  Hương Trang viết, đả kích  người viết sách thậm tệ. Nào là,  người viết không chịu đi sưu tập tài liệu, nhà ở quận I  có xa gì, sao không tới Nhà Làng ( ngã ba  Nguyễn Văn Lạc + Xô  Viết Nghệ Tĩnh ) phường 19 ,  quận  Bình  Thạnh) để gặp vợ V.H.C là Thục Oanh lấy tài liệu có phải chính xác hơn là chép lại từ ” một HồTăng Ấn Việt Cộng thì biết’  mô, tê “gỉ?” (Hồ Tăng Ấn là bút danh Hoàng Tấn – TP chú thích ).

 

 Lối viết” thô bạo” H.H. Trang đã  nổi danh trước 1975 rồi ,  xem ra sự đanh đá chẳng kém gì   “bà chằng Bắc kỳ,  cũng   tung váy,  vỗ đồm độp trung điểm ” số ta” ,  há miệng quác mồm , chửi dổn dập vang khắp ba làng,  bốn tổng, bẩy huyện,  đứa nào  đã cả gan  bắt trộm gà bà..”- y  hệt cuộc tranh luận,” phê bình” văn chương, báo chí ” của  H.H. Trang đối   địch bè   lũ gia nô T.T. Diệm , cụ thể  như  Phạm Việt Tuyền  , chủ nhiệm nhật báo” Tự Do” ,  và H.H. Trang  hung hăng, lồng lộn  đòi “  dùng quần đàn  bà đẻ   chụp vào mặt linh mục – nhà văn biên khảo  Thanh Lãng”.

 Tuy vậy,  tôi vẫn chấp nhận được cách phản kháng của H.H. Trang , bởi lẽ một số nhà báo, nhà  văn, thơ ,  nhà biên khảo vv… thường  cậy mình” đạo  Thiên chúa giáo “ nương cậy, làm càn;   lại mong được chính phủ  Ngô ĐìnhDiệm ( Công giáo)  nâng đỡ  , yểm trợ tối đa .!

 

 

 

Sau đó, tôi lại được  đọc một bài báo khá dài,  đăng trên tập san “T iếng vang”  ( cũng từ Sacto gửi về)   tác giả là  Đinh  Nhật Thịnh, anh  ta lên án tôi viết về VHC, nhất là trích dẫn bài thơ  VHC sáng tác sau 1975 là  sai lạc hoàn toàn, như H.H.  vạch ra.    nếu anh ta  chỉ  dựa vào  tư liệu  duy nhất của H.H. Trang thôi-  thì hẳn  phiến diện là  điều khó tránh – và  bài báo   sẽ chẳng  còn gì   giá trị.! ( xem ở  cuối bài – mục “ Đính chính”).

 

Riêng H.H. Trang,  lại  viết bài  thứ hai tiếp theo  lên án “Thế Phong vô hạnh, ngủ với” đàn bà  đàn chị”  để có“ cơm no bò cưỡi “ –   sau  được Cao Mỵ Nhân tin là “ sự   thật Panurge” – nữ sĩ bèn khai thác rỉ sắt  từ “ chiếc kiếm bẩn H. Hương  Trang “ –   để   viết “ Bão trong tách nước” – hòng “chọc tiết  Thế Phong “ một lần nữa . ( *):

—-

(…).. sau đó, tôi ( Cao Mỵ Nhân ) thấy tờ báo của hội văn nghệ sĩ Viêt Mỹ ở Sacramento đăng 2 bài liên tiếp: một của thi sĩ Hoàng Hương Trang mạt sát Thế Phong là nhà văn vô hạnh, một của nhà văn trẻ sau này ở hải ngoại, Nhật Nguyệt, đã nêu những điều phản phé của Thế Phong, vì 2 lý do mâu thuẫn: ông ta nghĩ thế nào ,khi cứ mà ca tụng cố nhân vừa tôn sùng vợ, là điều không thể chấp nhận được, với người đàn ông tự mãn, cho là hay ho hơn ai..(…)

 Kể lại sự việc Thế Phong đã dựng nên một câu chuyện có tính cách thương mại hơn là văn chương sưu tập.” Vụ án văn chương 57 năm mới kết thúc, T.T.Kh. là ai?”.

Cùng với tên văn sĩ Bắc Việt Trần Nhật Thu, Thế Phong đề tên tác giả tập bài báo trên là Thế Nhật, tức Thế Phong và Trần Nhật Thu cách đây 15 năm làm xôn xao dư luận trong và ngoài nước.  Khiến năm đó, 1995, tôi với tình cảm em út trong đại gia đình Quỳnh Dao, một hội thơ danh tiếng ở Saigon xưa, phải viết bài bênh vực T.T.Kh. hậu chiến vì nhân vật trong tập vụ án văn chương nêu trên, là một bậc nữ lưu, tài tử vượt bực, và cũng là trang quốc sắc ở Thanh hóa ta xưa.  Bà còn là phu nhân tiết hạnh của vị luật sư Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng thời  đệ I Cộng hòa (…….) Với bản tánh Thế Phong háo thắng, nghiệt ngã như vậy, thì trong giới văn nghệ, báo chí đã mặc nhiên, bởi ông ta có hay, hay không hay,( hoặc)  không đúng( đi nữa) ;, thì ông ta ( vẫn phải ) chịu trách nhiệm với dư luận.

 Đằng này, căn cứ vào bài ký giả Thanh Hải (nguyên nữ phóng viên văn học  báo Pháp Luật tp. HCM – TP chú thích )- ( có) một nhà thơ cũng nghĩ quàng, tung lên “Phố Mưa “, cái tin  tác giả “ Chốn Bụi Hồng” : mỗi năm mỗi về VN để rủ Thế Phong đi chơi, làm vợ Thế Phong đau khổ quá !

(…) Có thể là người tung tin trên , căn cứ vào bài phỏng vấn nhà văn Thế Phong của ký giả Thanh Hải báo” Pháp Luật” cách đây 3 năm, để tự khoe cái tài mẫn tiệp của mình; nhưng nghĩ cho cùng, vẫn là cái lối của nhà văn hoang tưởng Thế Phong; mà lâu nay tôi vẫn tự nhủ là một cái Bướu trong cuộc đời viết lách của tôi, không mạnh tay cắt bỏ, như qui vị cắt bỏ một nốt ruồi, một cục chai ở bàn tay cầm bút.

 Từ sau cuộc đổi đời 30-4-1975, tôi hoàn toàn vô sản, có lúc phải chạy gạo hàng ngày, ở VN cũng như ở hải ngoại này, tiền đâu mà mỗi năm về VN để gặp Thế Phong một lần, và Thế Phong cũng vậy,  ông ta và gia đình ông sống thế nào, tôi cũng chẳng quan tâm. (….)

Vị hòa thượng  mỉm cười 🙁  người mà CMN  xin gặp – để  tư vấn cho tác giả CMN có sự quân bình trạng thái tâm hồn, sau lần nữ sĩ  bị hoảng loạn, và giao động cùng cực, vì những hỉ, nộ, ái ố…-TP chú thích )

          Cô cứ an tâm  (…) và như Tây Phương khẳng định;” đó chỉ là trận bão trong tách nước trà !” )

CAO MỴ NHÂN

 

( trích lại  từ : <Google / search /  nhà văn thế phong >

 ( Translate this page).

 SG 1 …Cả nước xưa, trước 1975, đã biết Thế Phong là nhà văn cao bồi.. Cách đây 3 năm tôi đã đọc loạt bài phỏng vấn nhà văn Thế Phong từ phụ bản tờ báo Pháp…..)

 

 Câu chuyện Hoàng Hương Trang mạt sát  Thế Phong có  thật vậy không? một  người hỏi.

– Không, chỉ  là chuyện”  phịa” – ,cô ta ưa vểnh tai trâu ,” nghe hơi nồi trõ, nghe mõ sư ông ” ra cái điều biết nhiều, lại  biết cả cái không biết-  mục đích hạ đo ván đối thủ, bất chấp  phương tiện tốt , xấu, bối cảnh đúng, hay không đúng ?

 

 Sở dĩ nói vậy, vì  tôi có thể kể cho cô ta nghe một chuyện sắp kể ra đây, chuyện thực ” cơm no bò cưỡi” – của tôi vào năm  1957 –  lại chưa hề viết ra – chỉ vì tôi không dám thò mặt về nhà trọ (ở xóm đạo, nằm phía sau Nhà thờ Bắc Hà trên đường Lý Thái Tổ- –    nơi này họa sĩ Đinh Cường   đã từng leo lên căn  gác gỗ để  giúp tôi  đóng sách “ Lược sử văn nghệ Việtnam- Nhà văn hậu chiến 1950-1956,  sách  in rô nê  ô)  .Giờ này, tôi   vẫn còn lang thang, đạp xe trên phố , đầu óc rối tung, nghĩ xem nhà thằng bạn nào  quen, để xin ngủ nhờ. Tôi nhớ đã ngủ 3 đêm liền    gác nhà bạn Hưng, em ruột  luật  sư Thống –  gần cây xăng Ngã 3 Nguyễn Thiện  Thuật-  Saigon 3 – mà  lại tới xin ngủ nhờ đêm thứ tư thì” chuế” quá! Tôi như ngỏ lời với  bạn đường,  chiếc xe đạp cọc cạch  đang cùng tôi  lang thang trong đêm,  nghĩ xem có cách gì qua đêm  ? Chủ  và tớ kẽo kẹt hết đường này sang đường kia, vòng qua Lý Thái Tổ, phố này  còn đèn sáng từ  quán cà phê hắt ra.  .  Bỗng nhìn  thấy  một quán  cà phê nhỏ  đó, rất  vắng khách, nằm  cùng dẩy, gần Phòng khám mạch của  bác sĩ  N.Tuấn Phát. Ghếch xe đạp bên đường, vào quán, gọi ly đen nhỏ.  Chính cô chủ quán bưng ra, trò chuyện vui vẻ :

-“ đi một mình, không có bạn sao? “

-Lắc đầu.

 Vắng khách, cô ngồi  xuống ghế bên cạnh hỏi han.

  Trời đã khuya, ngồi lâu, uống cạn,  tôi đành gọi trả tiền,  nhưng  như vẫn vẫn còn  muốn ngồi nán lại.

 Thấy  vẻ mặt  khách buồn buồn,  kiệm lời bắt chuyện, cô bảo :

-“có chuyện buồn thì nói ra  cho vợi !”.

Tôi” tả oán”:

          đêm nay không biết ngủ ở đâu, giá hàng hiên  phòng mạch bác sĩ Phát  rộng rãi,  thì ngủ nhờ sẽ tốt biết mấy? 

, và sau đành khai thật- không dám về nhà trọ, vì thiếu tiền nhà.

-” chuyện ấy là  thường tình, đêm nay hãy cứ   ngủ cho ngon, mai dậy tìm cách trả tiền thuê nhà  xong, là được chứ gỉ?, cô chủ an ủi.

 Thấy nét mặt khách vẫn  buồn so , lại kiệm lời, cô  bắt chuyện:

          vậy không thể về nhà trọ ngủ đêm nay, thật vậy  sao ?

                       “ Tôi lắc đầu  , buột miệng:

”- giá hàng hiên phòng mạch bác sĩ rộng, thì ngủ đại một đêm rối mai tính “.

-.” Không ngủ được đâu,  cảnh sát đi tuần đêm giờ giới nghiêm, sẽ bị  hốt lên xe cây đấy ?.

– Vậy phải làm sao thì chính tôi cũng không biết nữa ? Giá mà có một chỗ ngủ nhờ , chỉ mấy tiếng đồng hồ nữa là hết giờ giới nghiêm rồi ?”

– Thế có người cho ngủ nhờ đêm nay, thì  sao? ”

– Cô chủ ơi, cô nói thật hay đùa vậy ?

 Bỗng nhiên cô ra lời trước:

– tôi  bằng lòng cho ngủ nhờ, liệu  khách  có đồng ý không , nếu đồng ý,  thì  phải chịu một điều kiện .?

-vậy  đó là điều kiện gì, cô chủ ?

  điều kiện nho nhỏ thôi,   nghĩa là anh  phải chờ….…

   ….. chờ  quán đóng cửa  sau 11 giờ  đêm

……….được không ông khách?

 

Tôi còn nói gì được bằng lời nữa, chỉ còn biết cảm ơn ân nhân,  vội vã   gật đầu- vì  cô chủ quán  có lòng nhân từ thương xót tôi …

– kẻ tội đồ  kẻ khốn cùng trong đêm khuya vắng  !

 

 Khi người khách cuối cùng ra về, cô chủ đưa chiếu, chiếc chăn mỏng , hai cái gối, bảo tôi hãy,  trải chiếu trên sàn nhà   và chỉ cách buông mùng.

Tôi làm xong, cô chủ chỉ tôi hãy nằm xuống đó mà ngủ. .

Tôi thực hiện đúng lời cô chủ,  đầu tôi đặt trên  2 gối  chồng, nằm nghiêng. Giấc ngủ tới sớm khiến  tôi  thiu thỉu  lúc nào không hay ,

  cả không biết đèn tắt từ lúc nào ? !

 Bỗng nhiên,

có người giằng một chiếc gối ra khỏi đầu tôi,

 tiếng động nhẹ làm tôi thức giấc.

  Tôi mở mắt.

          và lại không  thể ngờ-

                       cô chủ  cột lại  mái tóc dài  rồi nằm cạnh.

 

 Cảm ơn Thượng đế  quá chừng chừng ! –   mặc dù   khi ấy, tôi  đâu đã là tín hữu đấng Christ !

 

Cô có dáng người  dỏng  cao, dài cẳng ,bây giờ gọi ”  người  nữ chân dài” , rất tử tế đối xử với  tôi- hệt Natacha , nhân vật nữ trong một truyện viết về mùa thu của Maxime Gorki.  Tôi vẫn thầm đội ơn cô chủ quán cà phê ấy, đến nay , tính ra đã trên 50 năm và không bao giờ còn gặp lại , dầu chỉ một lần!  Hệt Gorki ân hận suốt đời, vì   ông ta  cũng không một lần gặp lại  nữ ân nhân Natacha !

 

   Có một lần, nhà thơ Ý Nhi, Trưởng Chi nhánh Nxb Hội Nhà văn  tại  Phía Nam, nhờ tôi chở đến nhà bà  Thục Oanh , để  trả bản quyền” Ta đã làm chi đời ta” của Vũ Hoàng Chương mà Ý Nhi in –  sẵn dịp, tôi  bèn phỏng vấn  bà Thục Oanh về bài thơ “ Chúng  ta mất hết cả rồi sao?” của chồng bà.  Bà đồng ý ngay, đọc cho chép câu sai .(  xem bài  đính chính.)  Rồi tôi in  thêm  tờ rơi ,  lồng vào sách” Chiêu niệm 4 nhà văn Sài Gòn” trước khi đưa phát hành.

 

                                         ĐÍNH CHÍNH

 

Trong sách “ Chiêu niệm  bốn nhà văn Sài Gòn” có một số chữ sai, ở bài” Một trong 12 bài di cảo của Vũ Hoàng Chương ( tr. 17) đã được ĐinhThị Thục Oanh ( vợ VHC ) đính chính vào ngày 17 tháng 7 năm 1999.  Buổi ấy, tôi cùng nhà thơ nữ Ý Nhi đem sách tặng và thăm vợ nhà thơ quá cố Vũ Hoàng Chương. Chữ in đậm là đúng nguyên tác của  tác giả.

 

 

 

           Sáng chưa sáng hẳn tối chưa đành

           Gà lợn om sòm cả bức tranh

           Rằng vách có tai thơ có họa

           Biết lòng ai đỏ mắt ai xanh

 

 

 

 

           Dấu hỏi xoay quanh trọn kiếp người

           Sên bò nát óc máu thắm rơi

           Chiều nay một dấu than buông dứt

           Đanh đóng vào xăng tiếng trả lời

 

          Chúng ta mất hết cả rồi sao ?

          Cả đến âm thanh một thuở nào !

          Da trống tơ đàn ôi trúc phách

          Đều khổ như khúc hát gầy hao

 

         Đàn mang tiếng đáy mà không đáy

         Mất hết rồi sao sợi nhớ thương

         Tay phách từ lâu nay  lạc phách

         Không còn đựng mãi bến Tầm Dương.

 

        VŨ HOÀNG CHƯƠNG.

 

( trích “ Chiêu niệm 4 nhà văn Sài Gòn”/ Thế Phong, Nxb Đồng Nai 1999- bài viết này có sửa lại.).

 

error: Content is protected !!