Biên khảo

NNS : Giàn Hoa Thiên Lý

Úc châu, thứ 2, ngày 5 tháng 7
Kính Thân Hữu Quí Mến.
Chúc Thân Hữu một ngày đầu Tuần, đầu Tháng 7, thật Vui vẻ & nhiều Ơn Phước Lành.
Sáng nay NNs "tào lao" kể chuyện cho Thân Hữu nghe:
Có một lần, NNS gọi Nhà Thơ Mạc Phương Đình là "Đại ca", xin Bài Thơ Chén Trà Xuân, mà NNS tìm loay hoay mãi không ra. Bài Thơ đơn giản, không hàn lâm, nhưng đọc qua làm nhớ Tết và Quê nhà vô cùng, nhất là trong những ngày ngây ngây lạnh ở đất nước Phúc đức, Nam bán cầu này. Mạc Phương Đình gởi cho ngay, với lời nhắn: "bài Thơ đây Tiểu Ca". NNS thấy Vui vui trong lòng, với cách xưng hô của nhà Thơ (Bạn vong niên) của NNS, nên gởi ngay cho Thân Hữu đọc. Lại ngạc nhiên khi có cả bài Họa Thơ của Cụ Hà Thượng Nhân.
Chén Trà Xuân
 
(Bài họa của Cụ Hà Thượng Nhân)
 
Mời nhau bát nước chè
Nước chè hương vị đậm
Bát ngát mối tình quê
Bạc đầu sao ở Mỹ ?
Xuân nghe lòng tái tê
Bát chè còn bốc khói
Thấy lạnh đôi bàn tay
Mà sao đôi khóe mắt
Có chút gì cay cay ?
Tưởng già không còn lệ
Lệ đong bát chè đầy
Nước chè ngày thuở nhỏ
Hương vị còn đâu đây
Ta là ta đấy nhỉ ?
Phương Đông mù mịt mây
Nước chè không phải rượu
Ta vẫn ngờ ta say.

Hà Thượng Nhân
 
Nói đến Cụ Hà Thượng Nhân, NNS thật "khẩu phục tâm phục" Cụ biết chừng nào,  từ những ngày lò mò thích đọc Văn Thơ. Có lần Chú Phan Lạc Phúc lên Queensland thăm, NNS may mắn có được quyển "Bè Bạn Gần Xa", đọc bài viết ngắn: Bạn Già Nông Dân của Chú ấy, lại càng thêm Bái Phục lớp Cha Anh tài giỏi làm sao.
NNS thích cách viết văn thật nhẹ nhàng của Chú PLP, mà Võ Phiến khen là "mỹ Văn", xin kể ra đây với Thân Hữu, để tâm lãnh một lớp Cha Anh thật "Bề thế & Văn hay Chữ tốt" ra làm sao:
" … Ngày xưa hồi đầu thập niên 40, Lam Giang, Hà Thượng Nhân, và Hữu Loan (tác giả "Màu Tím Hoa Sim") là học trò từ Thanh Hóa, Bình Định ra Huế học. Đỗ Tú tài Tây xong là mỗi người đi một ngả. Hai Ông tú Nga Sơn (Hữu Loan) và Hậu Lộc (Hà Thượng Nhân) về quê hương Thanh Hóa dạy học. Còn Lam Giang ra Hà Nội vào Đại học Luật khoa. Sau đó vào thời kỳ đầy biến động, Trung-Nhật chiến tranh rồi Đệ Nhị thế chiến. Nhật từ Trung hoa kéo sang Đông Dương. Các đảng phái Quốc gia  trong và ngoài nước ""đứng lên đáp lời sông núi". Lam Giang vốn là Việt Quốc liền bỏ trường luật đi làm cách mạng.
Sau Cách Mạng tháng 8-1945 và Hiệp định Genève chia đôi đất nước, năm 1954 Cách Mạng Quốc gia gặp hồi điên bái. Bạn bè chiến hữu mỗi người một nơi. Hà Thượng Nhân, Lam Giang vào miền Nam, Hữu Loan ở lại miền Bắc dính vào vụ Nhân văn Giai phẩm. Mười mấy năm, Ông tú Nga sơn (Hữu Loan) trở thành người đẩy xe cút kít, thồ gạch kiếm ăn. Học trò Thanh hóa nhìn Ông thầy cũ còng lưng đánh xe cút kít giữa trưa hè nắng gắt ở miền đồi núi Nga sơn mà rơi nước mắt. Vào Miền Nam, Hà Thượng Nhân vào Quân đội- Lam Giang đi dạy học và viết sách. Thời Đệ nhất Cộng hòa Hà Thượng Nhân làm Tổng giám đốc hệ thống truyền thanh miền Nam, làm việc tại đài phát thanh Sài Gòn. Thời kỳ này Hà Thượng Nhân mời bạn học cũ là Lam Giang viết giúp bình luận tiếng Pháp cho đài. Thời Đệ nhị Cộng hòa, Hà Thượng Nhân về làm chủ nhiệm nhật báo Tiền Tuyến – còn Lam Giang ngoài việc viết sách vẫn phụ trách viết bình luận cho đài Sài Gòn. Mỗi tuần 2 lần Lam Giang đến Tiền Tuyến đưa bài nghiên cứu thời sự…rồi phone sang đài Sài Gòn xem cần phải viết đề tài gì? Nhận "com-măng" xong là Lam Giang nghiêng đầu ngồi viết. Tiếng Việt cũng như tiếng Pháp, Lam Giang có thói quen nghĩ sẵn trong đầu rồi mới viết ra. Viết một mạch là xong, không gạch xóa chữ nào. Tùy theo thời lượng, bài 5 phút viết 3 trang, 10 phút 6 trang. Viết xong đưa tùy phái Tiền tuyến, từ đường Hồng Thập Tự gần cầu Thị Nghè sang đài phát thanh Sài Gòn đầu đường Phan Đình Phùng, xe đạp 5 phút là tới…..
….Hồi đó thập niên 60, có phái đoàn Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) sang làm việc bên cạnh Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị. Theo phong tục Đông Phương ngày lễ, ngày Tết, phái đoàn Trung Hoa thường có quà biếu và câu đối đem đến tặng Tổng Cục. Để đáp lễ Tổng Cục cũng phải cói Thơ hay câu Đối chữ Nho tặng lại. Việc này bên Tổng Cục lại phải nhờ đến Hà Thượng Nhân. Ngày xưa hồi kháng chiến, đi vào khu 4 chợ Rừng Thông ở quê hương Thanh Hóa của họ Hà có một hàng phở mà dân "tạch tạch sè (tiểu tư sản) gọi là hàng phở "có ngay". Vừa ngồi yên chỗ, gọi phở xong là có một tửu bảo đã lên giọng ới vào nhà bếp "cậu xơi phở tái nạm – có ngay". Nếu muốn xin thêm ít hành trần tửu bảo lại tiếp theo "cậu xơi hành trần, có ngay". Phở ăn cũng tạm được , nhưng vui vì sự "có ngay" như thế.  Hà Thượng Nhân bây giờ về việc Thơ Văn cũng hết sức là mẫn tiệp. Thơ văn đối với họ Hà, có sẵn nơi cửa miệng. Do vậy nên tôi (PLP) mới đùa đùa mà gọi anh (HTN) là Thi sĩ "có ngay". Anh cũng chẳng giận, chẳng hờn – nụ cười vẫn vô tư, hào sảng. Thơ "nôm" họ Hà vừa nhẹ nhàng, vừa bay bổng nhưng còn Thơ chữ Hán thì tôi (PLP) chịu không hiểu nổi… Nhưng phái đoàn Trung Hoa Dân Quốc không biết vì lịch sự hay là vì cảm phục văn tài của Hà Thượng Nhân nên mang quà biếu lền khêng nào rượu Cao Lương, Mai Quế Lộ nào sâm Cao Ly – rồi ông Tổng Cục trưởng Tân Văn của Trung Hoa Dân Quốc còn đích thân mời họ Hà thăm Đài Loan nữa…"…
Một bữa, ngồi một mình với lão trượng Lam Giang, tôi (PLP) mới hỏi: " Theo tôi Thơ Văn của Hà Thượng Nhân "dỡ " lắm chứ. Tại sao anh lại bảo lưng vốn chữ Hán của họ Hà không có bao nhiêu?". Lam Giang gặt đầu rằng "" Bỡn cợt nhau một chút cho vui vậy mà. Thơ Hà Thượng Nhân phơi phới.. Nhưng tôi học với họ Hà từ ngày nhỏ tôi biết. Nó là tài tử…không có học kỳ khu theo kiểu như thiết tha, như trác như ma (CT: Như cắt như gọt, như giũa như mài). Tôi tiếp lời :" Hán văn của anh chắc là thâm hậu lắm?". Lam Giang ngừng lại nhìn tôi rồi mới nhẩn nha:"Nói chuyện với cậu về Việt văn, Pháp văn thì còn được. Về Hán văn thì … xin lỗi phải có cụ Nghè Giác thì tôi mới thưa chuyện được" (cụ Nghè Nguyễn Sĩ Giác thời ấy giảng ở Văn Khoa)…
… Có một bữa viết Tạp Ghi tôi mới tán thưởng câu Thơ của Nguyễn Bính:
Nửa đêm hẹn lại sai rồi
Con cờ gõ nhảm cho rơi hoa đèn…
Lam Giang nghe tôi vậy bảo rằng câu thơ đó rất hay, nhưng không phải là Thơ sáng tác của Thâm Tâm mà là dịch từ Thơ Trung Hoa:
Hữu ước bất lai qua dạ bán
Nhàn sao kỳ tử lạc đăng hoa…
Trong những tháng năm viết Tạp Ghi ở tòa báo Tiền Tuyến tôi (PLP) có những người bạn thật là quý ngồi ở bên. Hỏi về Sử Địa, về Đông Phương có lão trượng Lam Giang, hỏi về Triết sử Tây Phương thì có Thanh Tâm Tuyền, người đọc sách rất sâu và không ngừng nghỉ, hỏi về Thơ văn Tiền chiến thì có Hà chưởng môn. Bây giờ ở miền Nam bán cầu này, ngồi viết lại Tạp Ghi một mình một bóng, nhiều khi có điều muốn hỏi mà không biết hỏi ai. Mình đọc chuyện xưa – mấy ông già mùa thu hanh hao ngồi uống trà một mình thấy vắng liền chống gậy dắt đứa cháu sang làng bên thăm bạn già. Bây giờ mình ngồi đây mà "bạn mình" ở tận đâu đâu. Người thì ở tận Minnesota gần Canada – người ở Cali nước Mỹ, người còn ở một con hẻm ở Hàng Xanh – Sài Gòn…"….
Đó là vài dòng về Lam Giang, Hà Thượng Nhân và Thanh Tâm Tuyền, do Chú Phan Lạc Phúc kể lại. Cụ Lam Giang thì người gốc Huyện Bình Khê (Quê hương 3 Anh Em nhà Tây Sơn, Mai Xuân Thưởng, Tăng Bạt Hổ, Bùi Thị Xuân..) cũng là Quê ngoại của NNS. Nhớ lắm. Cụ Hà Thượng Nhân thì Bạn bè với Đại ca Mạc Phương Đình của NNS. Thanh Tâm Tuyền đã mất. Chú Phan Lạc Phúc thì ở tận Sydney, cùng Quê hương thứ 2 của NNS.
NNS sinh sau đẻ muộn, lại là một Khoa Bảng trẻ thuộc Tây học. Việt văn thì chữ được chữ mất. Giờ ngồi đây mơ mộng sao có ngày tích lũy được một phần " Văn hay, Chữ tốt và Kiến thức rộng mênh mông" như các lớp Cha Anh vừa kể trên, thì được tâm nguyện biết chừng nào.
Thật đáng hãnh diện thay.
Giờ đây xin Chia sẻ cùng Thân Hữu một pps Nhạc hay:
Chuyện Giàn Thiên Lý.
Nhạc: Nhạc sĩ (tài danh) Anh Bằng.
Pps này là Phần Một. Vì Anh Bằng viết đến 2 Bảng Nhạc Chuyện Giàn Hoa Thiên Lý.
Phần 2 Chuyện Giàng Hoa Thiên Lý và câu chuyện về nhà Thơ Yên Thao (Ý Thơ được Phổ Nhạc), NNS sẽ gởi vào Thư sau.
Chuyện Giàn Hoa Thiên Lý xảy ra vào thời Toàn Dân Chống Pháp, dành độc lập, đâu đó năm 1947, Liên Khu 3.
Không hay không ăn tiền…hi..hi..
Tình Thân,
Kính.
NNS
……………………………………………………

Quy Khứ Lai Từ (Ðào Tiềm)
Bản Dịch của
Hà Thượng Nhân


Lời Từ Tạ Khi Về Vườn

Về đi nào ! Về đi nào !
Ruộng vườn bỏ rậm làm sao không về,
Tâm để hình dễ bề sai khiến
Sao lại còn quyến luyến thương đau
Thôi thì dĩ vãng … ví dầu …

Tương lai có thể phần nào đổi thay
Bước mê lộ dấu giày mới nhớm
Hôm qua sai, nay hẳn không lầm
Thuyền bơi phơi phới mái dầm,
Gió hiu hiu thổi theo tầm áo bay
Hỏi cùng khách đường này phía trước
Ánh triêu dương mờ nhạt buồn chưa !
Rồi trông thấy cửa thấy nhà,
Vừa mừng, vừa chạy như là trẻ thơ
Con cái chạy ra chờ trước ngõ
Các gia nhân mừng rỡ đón chào
Ba con đường nhỏ năm nào
Cỏ gai lác đác như hầu bỏ hoang
Tùng với cúc còn đang đủ cả,
Dắt tay con hối hả đi vào
Nhìn ra có rượu đầy bầu,
Cầm be tự rót ta nào mời ta !
Ngắm cây sân lân la cũng khoái,
Dựa cửa Nam gửi cái ngông nghênh
Tuy nơi chật hẹp vắng tênh
Ngày ngày qua lại vườn mình cũng vui
Cửa tuy có nhưng thôi chẳng mở
Chống gậy tre vời ngó xa xa
Vô tâm mây núi đùn ra,
Chim bay mỏi cánh lại tha thẩn về
Cảnh sắp tối vỗ về tùng lẻ
Lòng bỗng dưng xiết kể bàn hoàn
Về đi, dứt mọi liên quan !
Ðời thôi thế đã hoàn toàn bỏ ta
Lời nói suông cầu mà chi nữa ?
Khi thân nhân chan chứa cảm tình
Sách, đàn khuây khỏa nỗi mình
Nông dân chạy đến để trình : sắp Xuân .
Ðồng phía Tây sẽ gần có việc
Hoặc mùng giăng, giong chiếc xe mòn,
Hoặc bơi một chiếc thuyền con,
Khi luồng lạch suối, khi len lỏi gò .
Cây hớn hở khen cho tươi tốt,
Suối lặng trôi trong vắt êm đềm .
Chung quanh gió thuận mưa êm
Cảm thương thân thế khi làm khi không .
Thôi là hết, hình trong vũ trụ,
Kiếp phù du gửi thử bao lâu ?
Mặc lòng đi ở những đâu
Sao còn thắc mắc, còn câu nệ hoài !
Giàu sang bỏ ngoài tai chẳng thiết
Chốn thần tiên nào biết đâu tìm ?
Dạo chơi gặp buổi trời êm .
Hoặc dùng cây gậy vun thêm luống cày.
Lên bãi đông, ngất ngây thơ thới
Dấu giày trong làm vội bài thơ
Thuận theo ý của thiên cơ
Mệnh trời vui thế còn ngờ vực chi.

Nguyên tác 30 câu Hà Thượng Nhân dịch sang
thơ Việt thành 58 câu thể song thất lục bát .


Quy Khứ Lai Từ (Ðào Tiềm)


歸去來辭

歸去來兮,田園將蕪,胡不歸!
既自以心為形役,奚惆悵而獨悲?
悟已往之不諫,知來者可追。
實迷途其未遠,覺今是而昨非。

舟遙遙以輕颺,風飄飄而吹衣。
問征夫以前路,恨晨光之熹微。 ….

乃瞻衡宇,載欣載奔。
僮僕歡迎,稚子候門。
三徑就荒,松菊猶存。
攜幼入室,有酒盈樽。
引壺觴以自酌,眄庭柯以怡顏。
倚南窗以寄傲,審容膝之易安。
園日涉以成趣,門雖設而常關。
策扶老以流憩,時矯首而遊觀。
雲無心以出岫,鳥倦飛而知還。
景翳翳以將入,撫孤松而盤桓。

歸去來兮,請息交以絕遊。
世與我而相違,復駕言兮焉求?
悅親戚之情話,樂琴書以消憂。
農人告余以春及,將有事於西疇。
或命巾車,或棹孤舟。
既窈窕以尋壑,亦崎嶇而經丘。
木欣欣以向榮,泉涓涓而始流。
羨萬物之得時,感吾生之行休。

已矣乎!
寓形宇內復幾時,曷不委心任去留?
胡為遑遑,欲何之?
富貴非吾願,帝鄉不可期。
懷良辰以孤往,或植杖而耘耔。
登東皋以舒嘯,臨清流而賦詩。
聊乘化以歸盡,樂夫天命復奚疑!

………………………………………………………………………..
Kính.
NNS 

Úc, chiều 6/7
Kính Thân Hữu Quí mến.
Chiều rảnh một chút, NNS kể tiếp chuyện Lam Giang & Hà Thượng Nhân và Yên Thao (bài thơ nổi tiếng Nhà Tôi) do Anh Bằng Phổ Nhạc.
Trong Bè bạn gần xa, Chú Phan Lạc Phúc kể:
"…Dạo tiếp thu Bình Định (Liên khu 5) hồi đầu năm 1955, tôi thuộc cánh quân đổ bộ ở Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) rồi theo đường quốc lộ 1 tiến về Qui Nhơn qua Bồng Sơn, Tam Quan, Phù Mỹ, Phù Cát, Tuy Phước. Chừng giữa năm 1955, tôi từ biệt đơn vị cũ, tiểu đoàn 14VN đóng ở phù Mỹ. Ngày ấy chính quyền Quốc gia vừa mới thiết lập ở miền này nên chỉ có Tòa tỉnh ở Quy Nhơn, còn các quận, huyện, quân đội kiêm nhiệm phần hành chánh. Chưa bao giờ mà tôi lại "nhiều việc" như thế.
Vừa làm Tiểu đoàn trưởng, Quận trưởng, rồi mở một cái trường cho trẻ học mà thiếu thầy giáo, tôi làm "Hiệu trưởng" luôn. Có một sự trùng hợp kỳ thú là lão trượng Lam Giang vốn người Phù Mỹ – Bình Định. Ngày ấy (1955) tôi chưa được quen anh, nhưng sau này ở tòa soạn những khi tửu lậu trà dư tôi với anh thường nói chuyện địa danh, nhân danh Phù Mỹ. Quê anh ở miền An Lương gần Đề Di làm muối, nhìn ra biển. Anh cho biết là cái trường gỗ lá tôi xây dựng ở quận lỵ Phù Mỹ vẫn còn – bây giờ đã được lợp ngói. Ở khu này có một nơi gọi là Gò Bồi.  Trước khi quân đội Quốc gia về tiếp thu, Vi Xi có hành quyết "5 tên phản động". Lam Giang cười cười mà nói: "Nếu bắn đến người thứ 6 là đến tôi". Anh giơ tay cho tôi coi. Dù bao nhiêu năm tháng đã đi qua, trên cổ tay Lam Giang còn in dấu còng chỗ đen chỗ trắng. Lam Giang bảo rằng: "Tụi nó đã bịt mắt đem tôi đi rồi – nhưng tôi bấm tử vi thì thấy mình chưa tới số. Quả nhiên là chưa đến lượt tôi. Từ đó tôi mới thấy ông Trần Đoàn có lý" (Trần Đoàn, Ông tổ về Dịch lý, Tướng số nổi danh, sống vào đời nhà Tống – NNS).
Ở Sài Gòn ít người biết Lam Giang. Nhưng ở miền Trung nhất là miền Nam Ngãi Bình Phú, Lam Giang là một thứ đại Kỳ nhân dị sĩ. Truyện kể rằng thời Pháp, Lam Giang đại diện kỳ bộ miền Trung đi họp Hội nghị Trung ương ở miền Bắc. Đọc nghị quyết xong là Lam Giang đốt bỏ. Về địa phương, Lam Giang nhớ lại hết, không sai một chữ. Mới đây ở Mỹ, nhà văn Võ Phiến cũng người Phù Mỹ, Bình Định, trong một bài hồi ký có kể lại rằng người có ảnh hưởng lớn đến nhà văn Võ Phiến khi mới vào nghề chính là Lam Giang. Cũng vì ông Lam Giang, ông Võ Phiến cùng người Phù Mỹ mà ở Sài Gòn sau đó tôi "xung phong" vào Hội Bình Định Tương Tế.
…………………..
Sau đó, cũng đầu năm 73, tôi được đề cử sang Đài Loan, theo lời mời của Tổng Cục Tân Văn đi nghiên cứu về tổ chức Cựu chiến binh trên hoàn đảo này. Giáo sư C. người hướng dẫn và tôi đi suốt từ Đài Nam, lên Đài Trung, Đài Bắc thăm hết nơi này nơi khác. Hết chỗ đi rồi, một bữa Giáo sư C. và tôi tới thăm viện đại học Đài Bắc. Nơi đây tôi bất ngờ gặp một nhà nghiên cứu VN đang làm luận án tiến sĩ  tại đây, Trần Quang Huy một người bạn cũ. Khi Trần Quang Huy ra Đài Bắc bù khú với tôi, anh cho hay là anh đang thiếu tài liệu về phía VN trong luận án: " Mối tương quan văn hóa Việt – Trung qua các thời đại". Tôi vốn yếu về mục này nhưng tôi nghĩ đến ông bạn già lão trượng Lam Giang của tôi, người nhiều năm nghiên cứu về sử Việt Nam, về Đông Phương Học. Ông thường nói với tôi về những bài văn bia, những khảo cứu về Kinh Dịch và những giả thuyết của ông về nguồn gốc Việt Nam thời khuyết sử. Ông thường nói với Hà Thượng Nhân: "Mình phải lùi thật sâu trước Công Nguyên nhiều nghìn năm, may ra mới tìm thấy những dấu vết của tiền nhân người Việt chúng ta, từ trước nền văn hóa Đông Sơn, văn hóa Hòa Bình nữa". Trần Quang Huy nghe tôi nói vậy nhờ tôi về nói với Lam Giang gửi cho những tài liệu ấy. Khi về nước kể lại chuyện này, Lam Giang nói: " Thời buổi này người ta đi Mỹ, đi Pháp…học về văn minh Tây Phương – ít người xuất ngoại học về Đông Phương như ông này – để tôi gởi". Tôi nhận được từ lão trượng, hay "ông đồ nát Lam Giang chữ như trấu trát" hai lần chừng 150 trang vừa Việt vừa Hán gửi sang cho Trần Quang Huy. Nhà nghiên cứu này chịu lắm. Năm 1974, Trần Quang Huy tiến sĩ Đông Phương Học về nước. Vừa tới, anh yêu cầu cho được gặp Lam Giang. Cũng một bữa nhậu bất ngờ xảy ra ở tòa soạn, Ông tiến sĩ tân khoa nói chuyện rất lâu với nhà Nho gốc nông dân. Khi Trần Quang Huy ra về tôi mới hỏi ông già của chúng tôi ra sao? Trần Quang Huy gục gặc đầu mà nói" "Bội phục, bội phục". Như vậy câu nói phải có cụ Nghè Nguyễn Sĩ Giác thì mới thưa chuyện được của ông Lam Giang trước đây xét ra là có cơ sở, không phải là ông "nổ bậy"…
 
Trong cơn quốc biến năm 1975, Cụ Lam Giang bị đi cải tạo 5 năm. Khi Ông về, lại dính vô vụ án đảng phái Việt Nam Quốc Dân Đảng, đi tù thêm một đợt nữa hơn 3 năm.. Dạo đầu năm Mão,  lá thư cuối cùng viết cho Chú Phan Lạc Phúc nói rằng: " Nói cho Dì ba (Vợ Chú PLP) Dượng ba (PLP) hay là bản sư vẫn được 2 chữ bình an, vẫn kiếm ăn được bằng lấy số tử vi, làm văn bia. Bản sư cũng làm câu đối cho con cái khắc sẵn chờ ba chúng nằm xuống vào năm 2001. Đến đây là bản sư hết số rồi. Nhưng năm nay bản sư đã 81 tuổi. Không ngờ mình lại thọ hơn Khổng phu tử nhiều năm. Chỉ tính sơ sơ đến năm nay đã thọ hơn Đức Thầy 8 năm rồi đó. Chúc Dượng 3 Dì 3 năm mới An khang…"
 
Bấy nhiêu đó cũng đủ vài nét về Lam Giang, Hà Thượng Nhân…những kẻ Sĩ nhìn lên không thẹn với Đất Trời, do Chú Phan Lạc Phúc kể. NNS thật phải còn học hỏi nhiều..nhiều lắm…từ những bậc Cha Anh "bề thế" như trên.
Lần sau tiếp…
Giờ xin Chia sẻ cùng Thân Hữu pps tiếp theo:
Chuyện Giàn Thiên Lý – Phần II
Bài hát mượn lời bài Thơ nổi tiếng: Nhà Tôi của Yên Thao.
Về nguồn gốc đã gây cảm hứng cho Tác giả viết bài Thơ này, xin Thân Hữu đọc bài Phỏng vấn của Cô Bích Huyền với nhà Thơ Yên Thaonguyên tác Bài Thơ..thật là hay.
Tình Thân,
Kính.
NNS
 
……………………………………………………………………………………………………………..
Nói Chuyện với Yên Thao, Tác Giả Bài Thơ "Nhà Tôi"
*Bích Huyền (BH): Thưa thi sĩ Yên Thao, bài thơ Nhà Tôi của thi sĩ cũng như Đôi Bờ, như Đôi Mắt Người Sơn Tây, như Màu Tím Hoa Sim…BH đã hơn một lần nhắc tới trong chương trình Thơ Nhạc do BH phụ trách trên Đài VOA. Những bài thơ nổi tiếng ấy đã theo làn sóng người di cư từ Bắc vào Nam năm 1954…
*Nhà thơ Yên Thao (YT): Cảm ơn chị Huyền. Cảm ơn về sự ưu ái của chị về bài thơ Nhà Tôi. Đây không phải là lời nói xã giao mà là xúc động thật sự của người làm thơ đã có được một bài thơ qua gần nửa thế kỷ rồi. Còn một năm nữa là đúng một nửa thế kỷ mà vẫn còn người nhớ, nhất là người đó lại ở phương trời xa như chị Huyền.
*BH : Không phải chỉ có một mình BH nhớ bài thơ ấy đâu ạ, mà còn rất nhiều người yêu thơ ở trong miền Nam nữa. BH xin cảm ơn thi sĩ cũng như cảm ơn những người chủ trương Giai Phẩm Mùa Thu Hà Nội. BH đã chép bài thơ Nhà Tôi trong tờ Giai phẩm này, phát hành năm 1964 tại Saigon. Hình như thế, năm đó…nếu BH nhớ không lầm!
*YT: Không biết có phải từ tập san đó hay sau này sao chép qua lại nên sau 1975, tôi có được đọc bài thơ Nhà Tôi, người ta có in sai nhiều từ, chị Huyền ạ !
*BH:Thật là một điều đáng tiếc. Thế nhưng chắc thi sĩ cũng thông cảm, vì đây chỉ là một bài thơ được truyền miệng, được ghi nhớ trong trí tưởng…cho nên sự sai lạc hẳn là phải có.
Thưa thi sĩ YT, những từ ngữ dùng sai đó là những chữ nào ạ?
*YT: Trong đoạn đầu có câu:" Màu trăng vôi lồm lộp mấy khung tường " Màu trăng" chứ không phải "Màu trắng". Vâng, đây là màu của ánh trăng trải trên những khung tường. Và từ "mùa" trong câu "Má trắng mịn thơm thơm mùa lúa chín".Trong miền Nam có sách in là "mùi lúa chín".
*BH : Cảm ơn thi sĩ.Vâng, màu trắng và mùi lúa có vẻ rõ ràng và cụ thể quá ,phải không ạ?
Từ ngữ "Màu trăng" và "Mùa lúa chín" mà thi sĩ dùng để diễn tả ý thơ, theo BH đây là những từ ngữ rất thơ. Bát ngát một trời thơ. Rất đẹp.
Thưa thi sĩ, BH còn thấy có nơi dùng sai một chữ nữa trong câu cuối bài thơ "Nhà tôi ở cuối thôn Đoài …" "Đoài " viết hoa như một danh từ riêng ạ. Đúng ra là "thôn đồi":
Nhà tôi ở cuối thôn đồi
Có giàn thiên lý có người tôi thương …
*YT: Xin chị BH nếu có dịp một lần nữa phổ biến bài thơ Nhà Tôi trên đài VOA, hoặc trên báo chí ở nước ngoài, lưu ý hộ tôi những từ sai ấy.
*BH: Dạ vâng. Bây giờ thì xin thi sĩ cho biết một chút về…"lý lịch" của mình cũng như về xuất xứ của bài thơ Nhà Tôi?
*YT: Tên cúng cơm của tôi là Nguyễn Bảo Thịnh, sinh ngày 21-1-1927 quê Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Nhà tôi tên Đỗ Thị Phú (chứ không phải là Hà) sinh 17-1-1929, quê Đại Gia, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây.Chúng tôi gặp nhau trong kháng chiến chống Pháp, cưới nhau ở Phú Thọ ngày 1-11-1953. Tôi và Phú đều là học sinh thoát ly gia đình đi kháng chiến. Bài thơ "Nhà Tôi" không phải là viết về chúng tôi. Chuyện thế này:
Năm 1949, tôi công tác văn nghệ tại Quân đội liên khu 3, theo một đơn vị đánh vào một đồn binh Pháp đồn trú cạnh sông ở một làng đồi.Trong lúc đợi chờ giờ nổ súng ,tôi trò chuyện với anh em và được biết ở đơn vị này có một cậu quê ở ngay làng đồi đó.Phía bên ấy đang còn mẹ và vợ. Cậu ta lấy vợ được chừng tháng thì chiến tranh bùng nổ.Chàng trai lên đường đi kháng chiến, chia tay người vợ trẻ. Trong câu chuyện, mấy lần cậu ta nhắc tới giàn Thiên lý của nhà mình.Tôi rất thích câu chuyện và viết nên bài thơ "Nhà Tôi". Có lẽ người viết đã hoà nhập được với người kể nên bài thơ được đông đảo anh em lính thuộc và nhanh chóng được phổ biến cả vào các chiến trường Nam Bộ. Không chỉ lính xuất thân từ nông thôn, cả những lính thành phố cũng tìm thấy thấp thoáng trong bài thơ những nét hợp với mình.
Rất nhiều người nghĩ đó là tôi viết về tôi, Bà xã tôi cũng nghĩ thế.
Không biết khi đã rõ sự thật này, những người yêu thơ có giảm đi sự mến mộ đói với bài thơ không?
*BH: Thưa thi sĩ, BH nghĩ rằng sự mến mộ bài thơ Nhà Tôi càng tăng thêm. Vâng, chỉ là tâm sự của một người lính trẻ thôi nhưng vì sự rung động tuyệt vời của bài thơ khiến cho ai đọc rồi cũng thấy như thấp thoáng có ngôi nhà của mình, có những người thân yêu của mình ở trong bài thơ.
Không nhất thiết chỉ là người lính đâu,thưa thi sĩ Yên Thao! Như BH chẳng hạn, rất yêu bài thơ này. Mỗi lần đọc bài thơ là mỗi lần trong lòng lại dâng lên một niềm xúc cảm vô cùng. Hình ảnh ngôi nhà của bố mẹ BH tại huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình lại hiện ra rõ rệt. Rồi những l&u
acute;c líu ríu cùng bố mẹ anh chị em chạy giặc Tây, thương cho người em trai ốm yếu không đủ sức khoẻ chạy loạn phải ở lại nhà…Rồi cảnh trên bờ đê nhập nhoạng tối, lố nhố bóng người bồng bế, gánh gồng. Tiếng súng,tiếng em bé thơ khóc, khói lửa chiến tranh…in sâu trong đầu óc trẻ thơ của BH. Đoạn đầu của bài thơ, đọc rồi muốn khóc:
Tôi đứng bên này sông
Bên kia vùng địch đóng
Làng tôi đấy xạm đen màu tiết đọng
Tre cau buồn tóc rũ ướt mưa sương
Màu trăng vôi lồm lộp mấy khung tường
Nếp đình xưa, người hỡi vui gì không?
Sau đó thì…ngôi nhà đẹp và ấm cúng của gia đình BH đã bị bom cày nát mất rồi !
*YT: Tôi đã hiểu vì sao chị BH yêu bài thơ của tôi. Cảm ơn những xúc động chân thành của chị.
*BH: Ở bên này có bán một CD ngâm thơ thu tại Việt Nam, tựa đề là "Những bài thơ bất tử", trong đó nghệ sĩ Bảo Cường diễn ngâm bài thơ Nhà Tôi.Ông ấy ngâm hay lắm nhưng rất tiếc lại ghi tên tác giả là Nguyễn Bính. Thi sĩ có CD đó chưa ạ?
*YT: Tôi không được biết, nếu chị sẵn và tiện thì gửi cho xin, tôi rất cảm ơn.Tôi chỉ biết có một bài hát từ Mỹ do Anh Bằng viết nhạc, Mạnh Đình ca dưới tiêu đề "Chuyện giàn thiên lý" đang khá phổ biến ở trong nước. Ai cũng cho là thơ của tôi phổ nhạc dù Anh Bằng có cải biên một số lời, rút ngắn lại. Vì người ta đã cải biên, đổi tên bài, không nhắc gì đến tác giả thơ nên bản quyền của tác giả thơ cũng mất luôn. Có anh em bảo tôi viết thư cho Anh Bằng ,song tôi không biết địa chỉ, mà cũng nghĩ viết làm gì?"Thế gian lẫn lộn đúng sai vẫn thường", quan tâm chỉ thêm mệt! Tuy nhiên đề nghị chị dịp nào gặp Anh Bằng cho Yên Thao gửi lời hỏi thăm. Chắc Anh Bằng cũng thích bài thơ ấy nên mới viết nên "Chuyện giàn thiên lý".
*BH: Vâng, BH sẽ liên lạc với nhạc sĩ Anh Bằng để chuyển lời thăm của thi sĩ.
Thưa thi sĩ Yên Thao, sinh hoạt văn học nghệ thuật của thi sĩ hiện nay ra sao ?
*YT: Hiện nay tôi là chủ nhiệm Câu Lạc Bộ Thơ Trào Phúng Hà Nội.Tôi ít làm thơ trữ tình (chỉ khi nào xúc cảm thật mới làm). Thơ trào phúng Yên Thao ký dưới nhiều bút danh:Nguyễn Bảo, Cử Yên, Lang Bang, Thái Dương…
*BH : Dự định của thi sĩ trong những năm tới là gì ạ?
*YT: Tôi đang tiến hành in một tập thơ trữ tình. Khi nào có sách, nhất định không quên gửi tặng chị và đài VOA.
*BH: Xin cảm ơn thi sĩ Yên Thao có nhã ý tặng sách và xin cảm ơn thi sĩ đã dành cho BH buổi chuyện trò lý thú này.
*YT: Mong được tiếp tục trao đổi qua thư với chị. Khi nào có diều kiện về thăm lại đất nước, nhờ chị quá bộ tới nhà chơi. Chắc nhà tôi cũng thích lắm vì qua chị, chúng tôi có thể biết tin tức về anh chị Đỗ Thúc Vịnh. Nhà tôi vẫn luôn nhắc đến. Hồi xưa anh Vịnh hay kể chuyện cổ tích và chép những bài thơ hay cho cô em bé bỏng Đỗ Thị Phú. Nay thì anh Vịnh đã đi xa…Đời người thật ngắn ngủi quá, phải không chị Huyền?
*BH: Vâng, cũng vì thế mà BH luôn nhủ lòng sống sao cho ý nghĩa. Một lần nữa xin cảm ơn thi sĩ Yên Thao. BH sẽ giới thiệu bài thơ Nhà Tôi trong Câu Chuyện Thơ Nhạc do BH thực hiện trên làn sóng VOA, hàng tiần vào 10g tối thứ sáu (giờ VN). Xin gửi lời thăm chị và hy vọng có một ngày không xa được về thăm VN, đến Hà Nội để được nhà thơ Yên Thao dẫn đến thăm nơi xưa có "Nhà tôi ở cuối thôn đồi, có giàn thiên lý có người tôi thương"…
Bích Huyền
………………………………..
Yên Thao

Nhà Tôi

Tôi đứng bên này sông
Bên kia vùng địch đóng
Làng tôi đấy xạm đen màu tiết đọng
Tre cau buồn tóc rũ ước mơ sương
Màu trắng vôi lờm lợp mấy khung tường
Nếp đình xưa người hỡi vui gì không ?
Tôi là anh lính chiến
Rời quê hương từ dạo máu khơi dòng
Buông tay gầu vui lại thuở bình mong
Ghì nấc súng nhớ ơi ngày chiến thắng
Chân có mỏi trên nẻo đường vạn dặm
Áo nào không phai không xót chút hào hoa
Ðêm hôm nay tôi trở về lành lạnh
Sông sâu buồn lấp lánh ánh sao thưa
Tôi có người vợ trẻ đẹp như thơ
Tuổi chớm đôi mươì cưới buổi dâng cờ
Má trắng mịn thơm thơm mùi lúa chín
Ai đi qua mà chẳng từng bịn rịn
Rời đau thương nào đã mấy ai vui ?
Em lặng buồn nhìn với lúc chia phôi
Tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ
Tôi còn người mẹ
Tóc đã ngã màu bông
Tuổi già non thế kỷ
Lưng gầy uốn nặng kiếp long đong
Nắng mưa từ buổi tang chồng
Tơ tằm rút mãi cho lòng héo hon
Thôi xa rồi ! Mẹ tôi
Lệ nhòa mi mắt trông con phương trời
Có từng chợt tỉnh đêm vơi
Nghe ròn tiếng súng nhắc lời chia ly !
Mẹ ơi ! Con mẹ tìm đi
Bao giờ hết giặc con về mẹ vui
Ðêm nay trời lành lạnh
Sông sâu buồn lấp lánh sao lưa thưa
Ống quần nâu đã vá mụn giang hồ
Chắp tay súng tôi mơ về Nguyễn Huệ
Làng tôi kia bên trại thù quạnh quẽ
Nằm im lìm như một nắm mồ ma
Có còn khôngEm hỡi Mẹ tôi già ?
Những người thân yêu khóc buổi tôi xa
Tôi là anh lính chiến
Theo quân về giải phóng quê hương
Mái đầu xanh đầy bụi viễn phương
Bước chân đất đạp xiêu đồn lũy địch.
Này anh lính chiến
Người bạn pháo binh ơi
Ðã đến giờ chưa nhỉ ?
Mà tôi nghe như trại giặc tan tành
Anh rót cho khéo nhé !
Không lại nhầm nhà tôi
Nhà tôi ở cuối thôn đoài
Có giàn thiên lý
Có người tôi thương.
………………………………………………………………
Kính.
NNS