Cao Mỵ Nhân

CAO MỴ NHÂN- THƠ & VĂN: VÀNG NỖI NHỚ.

image_pdfimage_print

CHIẾC BÓNG CỦA TRĂNG.     CAO MỴ NHÂN

Trăng nào vẫn đúng là trăng

Đôi khi trăng quá khuya rằm trăng suông

Trăng trôi về sáng luông tuồng

Trời không mây khiến trăng buông thả tròn

*

Một thời son giá trăng non

Một miền đất nước khi còn lửa binh

Trăng soi sông núi nghiêng mình

Lọt vô nhà vắng tạ tình quan san

*

Trăng rời mộng mị sầu tan

Khuya vương giã biệt trăng tàn héo hon

Nghe như nước chảy đá mòn

Một thân lưu lạc, một hồn bơ vơ

*

Trăng không than đợi, trách chờ

Trăng rơi từng giọt lệ mờ khổ đau

Ngày đi trước, đêm về sau

Vẫn thênh thang đứng tuyến đầu thuỷ chung…

       CAO MỴ NHÂN 

**

CHÀO LỄ TẠ ƠN.      CAO MỴ NHÂN

Năm mươi năm ấy bên trời

Tạ ơn người, tạ ơn đời mênh mông

Như hoa cỏ nội hương đồng 

Khi bình minh toả rạng đông chan hoà

*

Năm mươi năm ấy chúng ta

Gian truân cũng có, hoan ca cũng từng

Tạ ơn nhân ái, vui mừng

Đã qua vấn nạn, không dừng tiến lên

*

Năm mươi năm ấy luân phiên

Mồ hôi nước mắt đôi phen khóc cười

Tạ ơn tình nghĩa bao lời

Tạ tình tri kỷ, tuyệt vời tri âm

*

Năm mươi năm ấy tha nhân

Bỗng thân thương tựa cố nhân đi về

Tạ lòng bóng ngựa, nồi kê

Giấc công danh đã não nề, xôn xao

*

Tạ ơn ngày tháng mời nhau

Hoàng hoa cạn chén gạt sầu muộn xưa

Năm mươi năm sớm hay trưa

Đời sau kiếp trước tưởng chưa muộn màng …

*

     Mùa Lễ Tạ Ơn 2025 – CAO MỴ NHÂN 

==

VĂN CAO MỴ NHÂN

VÀNG NỖI NHỚ.          CAO MỴ NHÂN

Thời gian cũng cách đây ba, bốn chục năm rồi, chúng tôi đang mắc kẹt trong tù, hay có mấy thành phần cũng đã rải rác về thành phố rồi.

Xem ra tôi là một trong số người về sớm nhưng không phải để ở lại thành phố, mà tiếp tục đi xây dựng nông trường.

Vì trong lý lịch tôi sanh quán ở tận cực bắc VN, rồi lại làm việc ở miền trung, chạy vô nam mà không có tên trong sổ gia đình ở Saigon trước 30-4-1975 ấy .

Tôi nhớ lúc ra công an quận Phú Nhuận để xin tạm trú nơi nhà bà chị tôi trong cư xá Kiến Thiết, gần khu nhà thờ Ba Chuông,

Tên công an cứ lý luận kiểu ”  bình dân học vụ “ rằng :

…” Người ta sinh ra ai cũng phải có cha, có mẹ, có đất để chôn rau, cắt rốn, chị ở trên trời rớt xuống à ?

Bây giờ trong lý lịch chị, chị đẻ ra ở SA BA ( trời ơi, người ta sanh ở Chapa, sau này họ gọi Sa Pa, mà hắn ta kêu là Sa Ba ) thì chị phải về nơi đó mà ở…”

Tôi nghĩ nếu cứ cãi vã với tên này, thì tới năm sau, chưa chắc đã xong chuyện tạm trú. Tôi đi nông trường cho rồi.

Dù ở nông trường đường đường chính chính, hay có khi về thành phố, những sĩ quan VNCH đã đi tù cải tạo về, thủa đó …   mơ mộng chuyện ra đi, rời khỏi đất nước khó khăn mọi bề, ngõ hầu để  xây dựng lại tương lai…cũng khá đông.

Chúng tôi gặp nhau tình cờ, có khi phải cố gắng đi tìm nhau để trao đổi những tin tức cần thiết  vv…

Nhưng trong thâm tâm và ngoài cửa miệng, lúc nào hình ảnh lá cờ vàng cũng thiết tha yêu mến, danh xưng sắc vàng trở thành biểu tượng chung…khiến đôi lúc chữ ” vàng “được xem như hình ảnh, khuôn thước gởi gấm, cân đo lòng dạ thủy chung của những người một thời đứng dưới cờ vàng ba sọc đỏ VNCH.   

Chữ “vàng “ là từ ý nghĩa mầu cờ vàng xưa…

Rồi 2 tiếng ” Vàng xưa ” nhanh chóng đi vào nỗi nhớ nhung của những người thuộc chế độ cũ, VNCH.

Chữ “vàng ” được xử dụng nhiều nhất trong thơ ca, từ cổ điển đến thơ văn mới, thí dụ :

Khói vẫn tương tư vàng khí phách

Sương còn khắc khoải bạc sông hồ… ( CMN  )

Phấn vàng như nhũ tươi lòng thép

Ta bảo hoàng kim vẫn đợi chờ…     ( CMN  )

Vàng chưa đậu lá ngô đồng

Nửa năm già đã mênh mông hồn sầu      ( CMN )

Thì lâu lâu cũng gặp một người đồng chí hướng, và phải hết sức thận trọng mới biết được vàng thau lẫn lộn thủa cộng sản chiếm cứ miền nam  Việt Nam sau 30 – 4 – 1975.

Một ngày tại hội thơ Thạch Động của nhà thơ Vĩnh Mạnh Thường Quân, vốn có thời ông Vĩnh Mạnh làm trưởng phòng Văn nghệ Đài truyền hình Saigon trước cuộc đổi đời 1975.

Chúng tôi được hạnh ngộ một tay thơ Đường mới tinh trong danh sách những người quen thuộc Đường luật,là nhà thơ Hà Nguyễn Nguyễn, hỏi đào lý bốn phương, mới hay nhà thơ đó vốn là một đại uý không quân VNCH vừa từ trại tù cải tạo về .

Đại uý không quân nêu trên thích tham cứu đông y. Do đó ông còn được dịp hiện diện trong đại hội Y Võ Dưỡng Sinh do bác sĩ Trương Thìn, nguyên Y Sĩ Trung Uý VNCH, người chủ trương thuyết  Thuỷ Hoả Đông Y  được lưu giữ làm Viện trưởng Viện Y Dược Học Dân Tộc, đã tổ chức cuộc hội  thảo vào cuối thập niên 80 thế kỷ trước , ở thành Hồ .

Thành Hồ là cái tên  lạm đặt cho Saigon, mà không ai ưa từ thủa bắt đầu thay tên đổi họ  Đô thành Saigon Chợ Lớn  của miền Nam cho tới nay.

Hà Nguyễn Nguyễn được giới thiệu như một lương y trong nhóm võ Bạch Hạc .

Tôi bèn cao hứng viết bài thăm hỏi nhà thơ đại uý Không Quân VNCH Hà Nguyễn Nguyễn như sau :

         GỞI BẠN ĐÔNG Y

Nghe anh giờ đã thạo đông y

Bệnh cũ lâu nay chữa thuốc gì

Tai điếc mỗi lần nghe gió thổi

Mắt mờ từng lúc ngó mây đi

Thân hàn cứ thích hoài sinh địa

Bụng ấm còn ưa mãi quế chi

Đạo cốt tiên phong mà lãng trí

Kê đơn thiếu hẳn vị hoàng kỳ …

*

              ( Cao Mỵ Nhân )

Thưa quý vị, bệnh cũ của một phi công là nghe gió tới điếc tai, nhìn mây mờ cả mắt. Hai câu 5,6 nói việc dùng sai các vị thuốc, câu 7 khẳng định vị lương y vô cùng lãng trí, hoá cho nên câu 8 kết, ông kê đơn thiếu hằn vị “ hoàng kỳ “ .

“ Hoàng kỳ “ là tên một vị thuốc đông y, mà còn là “ cờ vàng “ của VNCH .

Thủa đó, sau 1975, ở  cuối đường Lê văn Duyệt kéo dài từ ngã tư Bảy Hiền, bên tay trái,  nếu đi từ ngã tư Bảy Hiền về trung tâm Saigon, có tiệm thuốc Bắc lớn với tên hiệu là Hoàng Kỳ  chữ đỏ trên nền bảng trắng toát.

Hẳn chủ nhân ” Hoàng Kỳ Đường ” phải có tâm huyết với chế độ VNCH lắm, mới dám để một bảng hiệu quyết liệt chống đối bạo quyền cộng sản như vậy …

           CAO MỴ NHÂN