Biên khảo

Ải Nam Quan trong lịch sử (phần 2)

Ải Nam Quan trong lịch sử (phần 2)

 

II. Biên giới lịch sử và biên giới pháp lý

1) Đường biên giới tại ải Nam Quan dưới thời nhà Nguyễn

Vào lúc thực dân Pháp bắt đầu quá trình xâm lược nước ta, nhà Nguyễn vẫn chưa đạt tới trình độ vẽ bản đồ ngang với phương Tây. Giữa nhà Nguyễn với nhà Thanh cũng chưa ký kết các hiệp định về biên giới theo quan niệm của thời hiện đại. Tuy vậy, giữa nước ta và Trung Quốc đã hình thành một đường biên giới rõ rệt, một đường biên giới hiện thực được cả hai bên công nhận. Dọc theo biên giới, một hệ thống các ải đã hình thành từ tỉnh Quảng Yên (Quảng Ninh ngày nay) cho đến tận Lào Kay. Và giữa các ải đó, người ta đã dùng nhiều biện pháp để xác định đường biên giới, mặc dù vẫn còn khá thô sơ.

Như phần trên đã trình bày, chỉ riêng trong tỉnh Lạng Sơn thời đó đã có đến 12 ải mà trung tâm là ải Nam Quan. Trong quyển XXIV của bộ Đại Nam nhất thống chí (nói về tỉnh Lạng Sơn), có cả một phụ lục về “địa giới” giúp chúng ta hiểu được người xưa đã dùng cách nào để phân định đường biên giới. Qua phụ lục này, chúng ta được biết: ở những nơi là “núi rừng”, người ta lấy sống núi (tức đường phân thủy) làm ranh giới; ở những nơi là “núi đất”, người ta lấy sống núi hoặc bia đá, bờ tre làm giới mốc. Ngoài ra, người ta còn dùng các biện pháp khác như: rào gỗ, đường đất hoặc đắp tường đất, trồng tre, đóng vào gỗ, v.v…

Trong bài bút ký công bố năm 1888, bác sĩ P. Neis có kể rằng ngoài ải Nam Quan, phần lớn các ải ở vùng Lạng Sơn đều không xây cửa quan mà nhiều khi chỉ là một hàng giậu (palissade). Trong ĐNNTC cũng có kể tên ải Quì Ma, một cửa ải ở tỉnh Quảng Yên (Quảng Ninh ngày nay) “không đặt nơi phòng thủ sở”, nghĩa là không canh gác. Mặc dù vậy, tất cả các ải đó đều được tôn trọng, đều được coi là mốc biên giới. Một hệ thống các đồn và bảo được thiết lập để canh giữ các ải. Chính điều đó giải thích tại sao người Pháp và nhà Thanh lại có thể xác định được đường biên giới Việt-Trung. Trong tác phẩm của P. Neis, có đoạn văn sau đây:

"Sau hơn hai tháng rưỡi tranh cãi không dứt, sau hai lần cắt đứt các cuộc hội nghị và hỏi ý kiến các chính phủ liên quan, sau cùng người ta thỏa thuận những cơ sở sau đây: người ta sẽ bắt đầu bằng việc thừa nhận đường biên giới cũ, mà đối với chúng tôi là đường biên giới duy nhất đang hiện hữu, rồi sau đó người ta sẽ thỏa thuận với nhau về những sửa đổi chi tiết có thể thực hiện, và người ta chỉ đặt ra những đường phân giới sau khi đã hoàn thành hai động tác nói trên."

Đường biên giới cũ (l’ancienne frontière) mà P. Neis nói đến chính là đường biên giới mà nhà Nguyễn và nhà Thanh đã công nhận trong thực tế.

Vấn đề đặt ra cho chúng ta là: đường biên giới tại khu vực Ải Nam Quan có từ lúc nào? Và đường biên giới đã thay đổi bao nhiêu lần kể từ đó đến nay?

Một số tài liệu sử học nêu tên ải Nam Quan trong những giai đoạn rất sớm. Trong bộ sử rất thông dụng có tên là Việt Nam sử lược, học giả Trần Trọng Kim nêu tên Ải Nam Quan ngay từ đời nhà Trần, trong thời kỳ quân Mông Cổ (nhà Nguyên) âm mưu xâm lược nước ta. Như trong đoạn văn sau đây:

"Sài Thung đưa bọn Trần Di Ái đến gần ải Nam Quan, có tin  phi báo về Kinh đô. Nhân Tông liền sai tướng dẫn một đội quân lên đón đường đánh lũ nghịch thần. Sài Thung bị tên bắn mù một mắt, trốn chạy về Tàu, còn lũ Trần Di Ái bị bắt, phải tội đồ làm lính."
 
Nếu đọc trực tiếp bộ Đại Việt sử ký toàn thư, ở đoạn liên quan đến sự kiện này, chúng ta không hề tìm thấy tên “Nam Quan”. Ngay cả câu chuyện rất nổi tiếng li&e
circ;n quan đến cuộc đời Nguyễn Trãi, Trần Trọng Kim cũng nêu tên ải Nam Quan:


"Ông Nguyễn Trãi là con ông Bảng nhãn Nguyễn Phi Khanh. Đời nhà Hồ, ông đã thi đỗ tiến sĩ (1400). Khi ông Nguyễn Phi Khanh bị nhà Minh bắt về Kim Lăng, ông theo khóc, lên đến cửa Nam Quan không chịu trở lại. Ông Phi Khanh bảo rằng: ‘Con phải trở về mà lo trả thù cho cha, rửa thẹn cho nước, chứ đi theo khóc lóc mà làm gì?’ Từ đó ông trở lại, ngày đêm lo phục thù. Nay ra giúp Bình Định Vương bày mưu định kế để lo sự bình định."

Thật ra, căn cứ vào các bộ sử cổ, chúng ta không tìm thấy cái tên “ải Nam Quan” trong giai đoạn này mà chỉ thấy cái tên “ải Pha Lũy”. Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục (thường gọi tắt là Cương mục) được biên soạn vào đời vua Tự Đức và công bố vào đời vua Kiến Phúc (1884), có lời chua (chú) ở quyển XII, tờ 14 như sau: “Pha Lũy quan: ở xã Đồng Đăng, huyện Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn, nay là Nam Quan”. Điều đáng ngạc nhiên trong khi các nhà sử học – tác giả của bộ Cương mục, kết luận Pha Lũy là tên cũ của ải Nam Quan thì trong bộ sách địa lý quan trọng nhất của thời nhà Nguyễn (tức bộ Đại Nam nhất thống chí, ĐNNTC), cũng được soạn vào thời Tự Đức, lại không thấy ghi điều này. Như vậy, ải Pha Lũy có phải là ải Nam Quan hay lại là một cửa ải hoàn toàn khác, vẫn còn là một vấn đề cần tiếp tục làm rõ.

Theo ĐNNTC, hai chữ “Nam Quan” được nhắc đến lần đầu tiên là vào đời nhà Mạc:

"Sử chép: ‘năm Nguyên Hòa thứ 8, Mạc Đăng Dung cùng với bầy tôi là bọn Nguyễn Như Khuê qua Trấn Nam Quan, đến mạc phủ nhà Minh dâng biểu xin hàng’. Đến đây mới thấy Sử chép tên Trấn Nam Quan."

Đây là một thời kỳ mà nội bộ của nước ta bị phân hóa trầm trọng. Vào năm 1522, Mạc Đăng Dung làm đảo chính lật đổ vua Lê Chiêu Tông, đưa hoàng đệ (em vua) tên là Xuân lên làm vua. Mùa đông năm Bính Tuất (1526), Mạc Đăng Dung cho người giết Lê Chiêu Tông và năm sau (1527), lật đổ hoàng đệ Xuân, chính thức cướp ngôi vua của nhà Lê, tự xưng là hoàng đế. Những người ủng hộ nhà Lê tìm con cháu của nhà Lê để tái lập ngôi vua, dựng ngọn cờ chống lại nhà Mạc. Nguyễn Kim (cha của Nguyễn Hoàng – người sau này xây dựng nên cơ nghiệp của nhà Nguyễn ở phía Nam) trốn sang Lào, lập căn cứ ở châu Sầm Nưa, lập con trai của Chiêu Tông lên làm vua vào năm 1533, đặt niên hiệu là Nguyên Hòa (tức là vua Lê Trang Tông). Vua Lê cho người sang Trung Quốc cầu cứu nhà Minh. Nhà Minh cử Mao Bá Ôn và Cừu Loan tập trung hơn 20 vạn quân kéo sang đánh nước ta. Sợ hãi trước đạo quân của nhà Minh, Mạc Đăng Dung đầu hàng vào năm 1540 (tức năm Nguyên Hòa thứ 8). Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại sự kiện này như sau:

"Mùa đông, tháng 11, Mạc Đăng Dung cùng với cháu là Văn Minh và bề tôi là bọn Nguyễn Như Quế, Đỗ Chế Khanh, Đặng Văn Tri, Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô Văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi Trí Vĩnh, qua Trấn Nam Quan, mỗi người đều cầm thước, buộc dây ở cổ, đi chân không đến phủ phục trước mạc phủ của quân Minh quỳ gối, cúi đầu dâng tờ biểu đầu hàng, nộp hết sổ sách về đất đai, quân dân và quan chức cả nước để chờ phân xử, dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An trấn Yên Quảng, xin cho nội thuộc vào Khâm Châu. Lại xin ban cho chính sóc, cho ấn chương, để kính cẩn coi giữ việc nước và chờ lệnh thay đổi hay quyết định khác. Lại sai bọn Văn Minh và Nguyễn Văn Thái, Hứa Tam Tỉnh mang biểu đầu hàng sang Yên Kinh."

Qua đoạn văn trên, chúng ta biết mạc phủ (tức bộ tư lệnh) của nhà Minh do Mao Bá Ôn chỉ huy đóng gần ải Nam Quan. Như các tác giả của ĐNNTC đã nhấn mạnh, đây là lần đầu tiên tên của ải Nam Quan được nhắc đến trong sử ký của nước ta.

Theo ước đoán của đốc trấn Nguyễn Trọng Đang, ải Nam Quan “hình như mới có từ khoảng niên hiệu Gia Tĩnh nhà Minh (ngang với khoảng niên hiệu Nguyên Hòa nhà Lê nước ta)”. Niên hiệu Gia Tĩnh kéo dài từ 1522 đến 1566, trong khi niên hiệu Nguyên Hòa nhà Lê (đời Lê Trang Tông) ở nước ta kéo dài từ 1533 đến 1548. Mặt khác, tên của ải Nam Quan xuất hiện lần đầu trong sử ký vào năm 15
40. Do đó, chúng ta có thể phỏng đoán thời gian xây dựng ải Nam Quan là từ 1533 đến trước năm 1540.


Việc nhà Minh xây dựng cửa ải ở Nam Quan vào thời điểm đó chứng tỏ phía Trung Quốc mặc nhiên thừa nhận vị trí của cửa ải chính là đường biên giới giữa hai nước. Trước đó, có thể hai bên (nhất là phía Trung Quốc) chưa đồng ý với nhau về đường biên giới tại khu vực này. Mặc dù sử ký của nước ta không nói đến, nhưng Minh sử (Sử ký của nhà Minh) có ghi rõ: vào năm Hồng Vũ thứ 29 (tức năm 1396), Hoàng Quảng Thành, thổ quan tri phủ Tư Minh – một phủ giáp giới với Lạng Sơn, đã tâu với vua Minh rằng người Giao Chỉ (tức người Việt Nam) đã nhân cơ hội Trung Quốc loạn lạc vào cuối đời nhà Nguyên, đem quân cướp 5 huyện thuộc phủ Tư Minh. Ông này cho rằng đất Đồng Đăng thực ra là đất của phủ Tư Minh và đề nghị vua nhà Minh đòi lại vùng đất ấy. Minh Thái Tổ đã sai hai viên quan sang để đòi đất, nhưng “bàn luận qua lại mãi không quyết, việc bèn thôi”. Như vậy là suốt thế kỷ 15, phía Trung Quốc vẫn còn chưa hoàn toàn từ bỏ tham vọng giành lấy vùng Đồng Đăng và mãi đến thập niên 30 của thế kỷ 16, họ mới chấp nhận đường biên giới dừng lại ở ải Nam Quan.

Có thể nói từ khi nhà Minh cho xây dựng ải Nam Quan, một thứ hiệp định không thành văn về đường biên giới tại khu vực này đã được ký kết. Người Mãn Châu sau khi chiếm Trung Nguyên, thành lập nên nhà Thanh, cũng mặc nhiên thừa nhận điều đó. Theo ĐNNTC, vào năm Ung Chính thứ 3 nhà Thanh (1725), án sát tỉnh Quảng Tây là Cam Nhữ Lai đã cho tu bổ lại cửa quan này. Vào năm Ung Chính thứ 6 (1728), nhà Thanh đã cho treo một tấm biển ở cửa ải, đề ba chữ “Trấn Nam Quan”. Đến năm Tân Sửu (1781) đời vua Càn Long nhà Thanh, lại cho treo một tấm biển trên trùng đài, đề 4 chữ “Trung ngoại nhất gia”, có nghĩa là “trong ngoài một nhà”.

Vào năm 1813, đại thi hào Nguyễn Du có dịp đi sứ sang Trung Hoa. Nhân đi qua ải Nam Quan, ông có làm bài thơ trong Bắc hành tạp lục trong đó có hai câu như sau:

Lưỡng quốc bình phân cô lũy diện
Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm…


Nghĩa là:

Hai nước chia đều nhau bởi mặt chiếc lũy lẻ loi
Một cửa quan oai hùng trấn giữa muôn quả núi…


“Mặt chiếc lũy lẻ loi chia đều hai nước” mà Nguyễn Du nói đến chính là bức tường xây hai bên sườn núi (người Pháp gọi là la Muraille de Chine, bức Trường thành của Trung Hoa), có cửa quan (tức ải Nam Quan) nằm ở giữa. Như vậy, có thể nói từ thập niên 30 của thế kỷ 16 cho đến khi thực dân Pháp xâm lược Bắc Kỳ, trong khoảng 3 thế kỷ rưỡi, đường biên giới ở vùng này được xác định ngay tại vị trí của ải Nam Quan. Nó được đánh dấu bằng cửa ải và bức tường xây ở hai bên cửa ải. Không hề có “vùng đệm” hoặc “hai cửa khẩu” như người thời nay thêu dệt.

Nếu nhìn vào tấm ảnh trên đây (ảnh 9) và xóa đi cái cửa nhỏ và bức tường gắn liền với nó, chúng ta có thể hình dung ra cảnh tượng mà Nguyễn Du đã miêu tả trong bài thơ nói trên.

Trong một bài trả lời phỏng vấn vào đầu năm 2008, ông Vũ Dũng – lúc đó là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, tuyên bố một cách chắc nịch:  

“Tại khu vực cửa khẩu Hữu Nghị, theo các văn bản pháp lý lịch sử, đường biên giới luôn nằm phía nam Ải Nam Quan. Trấn Nam Quan do Trung Quốc xây dựng vẫn thuộc Trung Quốc, chứ không phải đường biên giới đi qua Ải Nam Quan như một số người vẫn hiểu.”

Nếu dựa trên văn bản pháp lý (tức là văn bản ký kết giữa nước Pháp và nhà Thanh) thì có thể nói đường biên giới nằm ở phía nam ải Nam Quan. Nhưng nếu dựa trên những văn bản lịch sử như trên vừa trình bày thì đường biên giới “đi ngang qua ải Nam Quan” chứ không nằm ở phía nam của cửa ải. Chỉ những người tin vào sử Tàu mà không tin vào sử Việt mới cho rằng đường biên giới lịch sử nằm ở phía nam ải Nam Quan. Đảng Cộng sản Trung Quốc sau khi đã xác lập quyền thống trị trên toàn bộ lục địa Trung Hoa vào năm 1949 đã “bê nguyên xi” luận điệu của nhà Thanh vào quan niệm sử học và địa lý học của họ. Trong khi đó, những người cộng sản Việt Nam không hiểu do đâu mà trở nên mơ hồ, mù mờ, thay vì dựa vào sử liệu của tổ tiên lại thừa nhận luận điểm của phía Trung Quốc, thậm chí coi đó là luận điểm chính thống của mình?

2) Đường biên giới pháp lý theo Hiệp ước Pháp-Thanh

Vậy thì tại sao đường biên giới từ giữa thế kỷ 16 đến giữa thế kỷ 18 vẫn chạy ngang ải Nam Quan, bỗng dưng lại bị đẩy lùi xuống phía Nam ải Nam Quan? Điều này có liên quan đến hoàn cảnh lịch sử của nước ta vào thập niên 80 của thế kỷ 19.

Vào ngày 25.8.1883, nhà Nguyễn phải ký Hiệp ước Harmand (còn gọi là Hòa ước Quý Mùi) chấp nhận chế độ bảo hộ (protectorat) của nước Pháp đối với Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Ngày 11.5.1884, tại Thiên Tân, nhà Thanh ký hòa ước công nhận quyền bảo hộ của nước Pháp đối với Việt Nam và đồng ý rút quân khỏi Bắc Kỳ. Nhưng do quân Pháp bị phục kích bất ngờ tại Bắc Lệ, một cuộc chiến tranh không tuyên bố lại bùng nổ giữa quân đội hai nước Pháp và Trung Hoa, kéo dài mãi đến giữa năm 1885. Mặc dù đạt được thắng lợi trên mặt biển (như phá hủy hạm đội đóng tại quân cảng Phúc Châu, gây thiệt hại nghiêm trọng cho hạm đội Nam Dương) cũng như đạt được một số thắng lợi trên chiến trường ở miền Bắc Việt Nam, nhưng do cuộc rút quân đột ngột tại Lạng Sơn vào cuối tháng 3 năm 1885, chính phủ Jules Ferry bị phe đối lập (đứng đầu là Georges Clémenceau) công kích kịch liệt, dẫn đến sự sụp đổ của chính phủ này vào ngày 30.3.1885. Do đó, nước Pháp không muốn kéo dài cuộc chiến và đồng ý ký Hiệp ước Thiên Tân (ngày 9.6.1885) chấm dứt cuộc chiến tranh Pháp-Thanh. Để thực hiện hiệp ước này, hai phái đoàn đã được thành lập để tiến hành công tác phân định đường biên giới, bắt đầu bằng việc xác định ranh giới ở ải Nam Quan và vùng lân cận.

Như bác sĩ Paul Neis đã kể lại, công tác này đã gặp trắc trở ngay từ đầu, không phải do phía Pháp mà do phía nhà Thanh cố tình gây rắc rối và tìm cách lấn chiếm. Có thể kể ra hai ví dụ. Một là ngay khi phái đoàn Pháp đến ải Nam Quan để dự phiên họp chính thức đầu tiên, phía nhà Thanh đã cho quân chính quy mang cờ tràn đến chiếm các vị trí thuộc lãnh thổ Việt Nam và cho dù có sự phản đối, họ cũng không chịu rút, có lẽ muốn uy hiếp phái đoàn Pháp về mặt tâm lý. Về sau, khi phái đoàn Pháp chính thức phản đối, các nhà ngoại giao của nhà Thanh thanh minh rằng họ hoàn toàn không biết về hành động của giới chỉ huy quân sự, và hành động vừa qua có lẽ cũng chỉ nhằm để thể hiện nhiệt tình chào đón phái đoàn Pháp. Ví dụ thứ hai là việc phía nhà Thanh tìm cách dời vị trí của ải Bosa (Bochaï) để lấn chiếm bốn làng của người Việt; nếu không có sự phản đối của đại diện các làng này thì có lẽ phái đoàn Pháp cũng không biết gì về sự thực này.

Về phía Pháp, vì họ đàm phán mà không có mặt của triều đình nhà Nguyễ
n nên sự am hiểu về vấn đề biên giới cũng có phần hạn chế; hơn nữa chính phủ Pháp cũng không muốn kéo dài cuộc đàm phán để có thể rảnh tay trong việc ổn định tình hình ở Việt Nam. Phía Trung Quốc biết chuyện đó, nên họ cố tình dây dưa và cố tìm phần lợi về cho mình. Bác sĩ Neis đã kể như sau về đường biên giới ở cửa Trung Hoa (tức ải Nam Quan):


“Cửa Trung Hoa nằm ở đáy một khe núi (gorge) không sâu lắm, những ngọn đồi dốc đứng nghiêng bóng trên cửa ải chỉ có độ cao từ 50 đến 60m. Từ khi có hòa bình, người Hoa đã tái thiết lại cổng bằng đá chẻ và nó được nối liền với một bức tường có lỗ châu mai với những doanh trại phòng ngự bao quanh các ngọn đồi. Các ủy viên người Hoa giữ vững đòi hỏi rằng cái cổng và bức tường có lỗ châu mai không phải là đường biên giới; họ muốn có ít nhất là vài thước đất hoang nằm trước đó. Người ta đến tận nơi, và như một sự nhượng bộ lớn lao về phía chúng ta mà sau đó chúng ta không ngừng khoe khoang, chúng ta đã thỏa thuận rằng biên giới sẽ dựa theo dòng suối chảy dưới chân những  ngọn đồi của cửa Trung Hoa, cách khoảng 150 m trước cửa ấy. Đó là cái mà tôi gọi là phiên họp đầu tiên để xác định biên giới, sáu tháng sau khi chúng tôi khởi hành từ Pháp, ba tháng sau khi chúng tôi đến Đồng Đăng.”

Trong thực tế, đường biên giới được xác định cách ải Nam Quan không phải là 150 m, mà là 100 m. Tác giả Trương Nhân Tuấn đã tìm thấy trong các thư khố ở Pháp một biên bản (procès-verbal) ký ngày 7 tháng 4 năm 1886 Đồng Đăng giữa hai phái đoàn Pháp và nhà Thanh với nội dung như sau:

Ủy ban Phân định biên giới Pháp –Hoa thừa nhận, vào ngày 7.4.1886, rằng: tính từ một điểm cách 100m phía trước Cổng Nam Quan, trên con đường từ Nam Quan đến Đồng Đăng, đường biên giới đi về phía tây lên đến đỉnh của núi đá trên đó trên đó có một cái đồn đánh dấu bằng chữ A trên tấm phác đồ kèm theo, từ cái đồn đó chạy theo đường đỉnh của dãy núi đá nhìn xuống con đường Đồng Đăng cho đến tận điểm B trên bản vẽ. Điểm B này nằm ở nơi giao nhau giữa con đường mòn với dãy núi đá, con đường mòn này tách ra khỏi đường lớn chạy từ Đồng Đăng đến Nam Quan dẫn đến cửa làng Lũng Nghiêu (Lung-Ngieu). Sau đó đường biên giới sẽ theo cùng con đường đó chạy đến cửa làng Lũng Nghiêu. Từ cửa làng đó nó chạy theo đường đỉnh của núi đá bọc quanh lòng chảo của làng Lũng Nghiêu để đi đến một điểm được đánh dấu bằng chữ C. Từ điểm C này nó chạy đến ải Kida .

Ải Kida là ải nào? Để có thể hiểu rõ hơn, chúng ta có thể xem lại tấm bản đồ của đại úy Chapès năm 1894 (ảnh 10) do tác giả Trương Nhân Tuấn công bố, mà tôi xin mạn phép trích đoạn và phóng lớn như sau:

Ảnh 10: Bản đồ Chapès (trích) 


Chúng ta thấy đường biên giới đáng lẽ chạy ngang cửa quan (porte) đã phải lùi một quãng (100 m) về phía Việt Nam. Đường biên giới này chạy về phía tây đến đỉnh của núi đá, sau đó chạy dọc theo đường đỉnh của dãy núi đá vôi, vòng xung quanh làng Lũng Nghiêu (trong ảnh ghi là Lung-Ngau) thuộc địa phận Trung Quốc, rồi lại chạy theo đường đỉnh để đến ải Kida. Trong ảnh, ải này được ghi là Khua Da Aï (Neis phiên âm là Ki-da). Ngoài ải Ki-da, trong bản đồ ta còn thấy Bo Sa Aï (ải Bo Sa, chính là Bo-chaï đã kể trong bài bút ký). Hai ải này thuộc loại không cho phép thông thương, vì ĐNNTC cho biết tất cả các ải ở phía tây của ải Nam Quan đều không được phép thông thương.

Cũng trên tấm bản đồ của Chapès, chúng ta thấy đường biên giới ở phía đông chạy theo một đường gần như thẳng góc với con đường đi Đồng Đăng, nối từ cột mốc số 18 với đường phân thủy của dãy núi ở phía đông. Ở phía đông-nam của ải Nam Quan, trên một ngọn đồi nối liền với dãy núi đất, có một vị trí của phía quân Pháp có ghi chữ “Blockhaus Francais en construction” (lô-cốt của Pháp đang xây dựng). Chính nhờ ngọn đồi có lô – cốt này và những vị trí cao hơn ở hướng đông-nam mà các sĩ quan và nhà nhiếp ảnh người Pháp đã chụp được những tấm ảnh toàn cảnh về ải Nam Quan mà chúng ta thấy trên đây.

Như vậy là do Việt Nam bị mất chủ quyền, không có mặt trong đàm phán cho nên đã mất một phần đất tại ải Nam Quan do sự nhượng bộ của người Pháp đối với nhà Thanh. Đường biên giới vì thế lùi sâu vào lãnh thổ Việt Nam 100 m trước ải Nam Quan. Điều này giải thích rõ nghi vấn mà chúng ta đã nêu trên đây: tại sao ĐNNTC mô tả ải Nam Quan “có một cửa, có khóa, chỉ khi nào có công việc của sứ bộ mới mở”, trong khi trên một số tấm bưu ảnh chụp vào thời Pháp thuộc, chúng ta thấy có đến hai cửa và hai lớp tường gạch chạy song song – ít nhất là ở phần dưới thấp, tiêu biểu là tấm ảnh sau đây do Chân Mây sưu tầm (ảnh 11):

Ảnh 11: Ngõ vào Cửa Trung Hoa và bức trường thành


Vào năm 1908, cuộc nổi dậy của những người thuộc phái Tôn Trung Sơn đã bắn phá và làm thiệt hại cho hai bức tường cũng như hai cửa ải ở Nam Quan. Dòng chữ in bằng tiếng Pháp và dòng chữ viết thêm trên tấm bưu ảnh này có nghĩa là: “Lối vào cổng Trung Hoa (tức ải Nam Quan) và bức trường thành: cách Lạng Sơn 15 km. Các thành lũy và trạm gác bị bắn phá bởi những người cải cách (réformistes) vào năm 1908 và đã có nhiều thiệt hại về vật chất.” 

Việc đẩy lùi đường biên giới 100 m về phía Việt Nam rõ ràng là một hành động xâm phạm lãnh thổ Việt Nam. Nếu coi đó là một căn cứ pháp lý thì đó cũng chỉ là sự hợp pháp hóa một hành vi bất hợp pháp, do chỗ Việt Nam bị mất chủ quyền ở Bắc Kỳ vào tay người Pháp kể từ Hiệp ước Patenôtre (1884). Nếu như ở cả hai nước Việt Nam và Trung Quốc đều có những chính quyền thật sự đại diện cho nhân dân hai nước, và nếu hai quốc gia đều thực hiện đúng đắn chính sách về một đường biên giới hữu nghị thì phía Trung Quốc phải xóa bỏ văn bản ký kết bất bình đẳng đó và trả lại cho Việt Nam 100 m mà nhà Thanh đã lấn chiếm bất hợp pháp, chứ không thể lợi dụng điều đó để tiếp tục lấn chiếm thêm đất đai nhằm xóa bỏ hình tượng “ải Nam Quan” trong lòng người dân Việt.

Tóm lại, đường biên giới lịch sử tại Ải Nam Quan và đường biên giới pháp lý do Hiệp ước Pháp-Thanh quy định vào cuối thế kỷ 19 là hai đường biên giới hoàn toàn khác nhau. Đường biên giới lịch sử hình thành vào khoảng thập niên 30 của thế kỷ 16 nằm ngay tại vị trí của ải Nam Quan và được xác định bằng cửa ải cũng như hai bức tường xây hai bên cửa ải, đúng như ĐNNTC mô tả. Đường biên giới lịch sử đó đã tồn tại ba thế kỷ rưỡi và tạo ra hình tượng “ải Nam Quan” trong văn học và sử học Việt Nam. Nhiều thế hệ người Việt – như thế hệ chúng tôi và nhiều thế hệ trước đó, mỗi khi nhắc đến cái tên “ải Nam Quan”, đều hình dung đó là điểm khởi đầu của Tổ quốc. Còn đường biên giới pháp lý hình thành vào cuối thế kỷ 19 thật ra là hậu quả của một thứ hiệp ước bất bình đẳng được ký giữa nhà Thanh với nước Pháp, trong hoàn cảnh dân tộc ta bị mất chủ quyền.

Bất cứ người Việt yêu nước nào cũng không thể chấp nhận luận điểm “đường biên giới luôn nằm phía nam ải Nam Quan” và coi đó là chân lý, bởi vì luận điểm đó là do nhà Thanh ngụy tạo nhằm lấn chiếm biên giới. Những người cộng sản Trung Quốc tiếp tục nêu luận điểm đó là do ý đồ tiếp tục lấn chiếm biên giới theo gương các tiền nhân của họ. Về phía người Việt Nam, bất cứ ai tự nhận mình là người Việt đều phải có nghĩa vụ tìm hiểu cặn kẽ lịch sử của đất nước thông qua các tư liệu lịch sử do cha ông để lại, đối chiếu chúng với thực tế và các tư liệu khách quan khác (ví dụ: các tư liệu của người Pháp), chứ không thể vội vàng tin vào các chứng cứ ngụy tạo mà phía Trung Quốc trao cho và nhiệt tình làm người phát ngôn hay người bảo vệ luận điểm cho phía họ.

Lịch sử bao giờ cũng công bằng. Cho dù người ta cố tìm cách xuyên tạc, bóp méo lịch sử vì ý đồ cá nhân hay phe phái, lịch sử bao giờ cũng căn cứ vào sự thật, mà che giấu sự thật là điều bất khả thi; bởi vì người ta có thể lừa dối một người nào đó suốt đời hay lừa dối nhiều người trong một quãng thời gian nào đó, nhưng không ai có thể lừa dối mãi mãi cả một dân tộc!

Nhân kỷ niệm 64 năm ngày Cách mạng Tháng Tám 19.8.1945 – 19.8.2009
Đà Lạt, 4.8.2009

Bài do tác giả gửi đến Đàn Chim Việt

Tài liệu tham khảo
1) Đào Duy Anh, Hán-Việt từ điển, Trường Thi, In lần thứ 3, Sài Gòn 1957
2) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, bản cũ (đời Tự Đức), bản dịch của Phạm Trọng Điềm do Đào Duy Anh hiệu đính, Viện Sử học, Nxb Thuận Hóa, 1997, 6 tập
3) Docteur P. Neis, “Sur les frontières du Tonkin”, in Tour du monde,
Vol LIV: 1888 – 1er semestre, pp. 312-416. Bản điện tử đăng ở địa chỉ:

http://collin.francois.free.fr/Le_tour_du_monde/textes/Tonkin/Neis.htm
4) Đại Việt sử ký toàn thư, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1679), Hoàng Văn Lâu và Ngô Thế Long dịch và chú thích, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998, 4 tập
5) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Viện Sử học, Nxb Giáo dục tái bản, 2001-2007, 10 tập
6) Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Viện Sử học, Nxb Giáo dục tái bản, 2007, 2 tập
7) Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Trung tâm Học liệu – Bộ Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1971, 2 tập
8) Trương Nhân Tuấn, “Tìm hiểu về Ải Nam Quan qua một vài tài liệu”, talawas 10.10.2008,
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=14450&rb=0302
9) Trương Nhân Tuấn, “Trao đổi với ông Lê Công Phụng về lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam và hai hiệp ước biên giới Việt – Trung”, talawas 21.20.2008,
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=14530&rb=0302
10) Trương Nhân Tuấn, "Tìm hiểu Đại Nam Quan và giới thiệu sách Biên giới Việt-Trung 1885-2000 – Lịch sử thành hình và những tranhchấp“, Đàn Chim Việt Online, 22.8.2005:
http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=493
11) Trần Gia Phụng, “Vài sử liệu về Ải Nam Quan”, Thư viện Tiếu Lùn, 2003-06-21
http://tieulun.hopto.org:25000/download.php?file=VaiSuLieuVeAiNamQuan
12) Trần Gia Phụng, “Ải Nam Quan trong lịch sử”, Thư viện Tiếu Lùn, 2006-12-25:
http://tieulun.hopto.org:25000/download.php?file=AiNamQuanTrongLichSu
13) Institut Franco-Asiatique (IFA), Bản điều trần của các sĩ Trần Đại Sỹ, 10.11.2001,
http://www.mevietnam.org/lanhtho-lanhhai/tds/tds-dieutran-a.html
14) Hà Mai Phương – Lưu Chu Thanh Tao, “Từ Cửa Nam Quan đến Ải Chi Lăng, Châu Ôn và núi Phân Mao”, Thư viện Tiếu Lùn, 2002-06-18:
http://tieulun.hopto.org:25000/download.php?file=CuaNamQuanDenAiChiLang
15) Từ Mai, “Một số sử liệu liên quan tới biên giới Việt Hoa”, Mạng Ý kiến: http://www.ykien.net/tl_tm_sulieu.html
Do trang “Mạng Ý kiến” bị phá hoại, hiện nay không thể tìm được bài này ở địa chỉ nói trên.
16) Nguyễn Đình Sài, “Biên giới Việt-Trung: Đi tìm sự thật sau những che giấu”; Sự thật về Ải Nam Quan (phần 2), Hội chuyên gia Việt Nam, 11.12.2002: http://www.vps.org
17) Chân Mây, “Tài liệu hình ảnh hiếm quý chứng minh Ải Nam Quan là của Việt Nam”, Diễn đàn Một góc phố, 18.6.2009:
http://motgocpho.com/forums/showthread.php?t=11258&goto=nextoldest
 


Chú thích:

1) ĐNNTC, sđd, tập 4, tr. 390-391
2) Bảo là trại lính lớn hơn đồn. Đồn là một chỗ đóng quân không có thành lũy, bảo là chỗ có đắp đất làm thành nhỏ đóng quân. Xem ĐNNTC, sđd, tập 4, tr. 406, chú thích 1.
3) P. Neis, sđd, ch. 3
4) Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, sđd, tập I, tr. 134-137
5) Trần Trọng Kim, sđd, tập I, tr. 220

6) Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử  thông giám cương mục, Chính biên, XII, 14; sđd, tập 1, tr. 705
7) ĐNNTC, sđd, tập 4, tr. 385-386
8) Đại Việt Sử ký toàn thư, sđd, tập III, trang 121
9) Nguyễn Văn Siêu, Phương Đình dư địa chí , NXB Tự Do Sài Gòn, 1959, trang 451. Trích theo Nguyễn Đình Sài, bđd, http://www.vps.org
10) ĐNNTC, sđd, tr. 366
11) ĐNNTC, sđd, tr. 384-385
12) "Hoàn thành phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc là nguyện vọng chung và lợi ích lớn của nhân dân hai nước”, báo Nhân dân 2.1.2008.
Ngày 26.2.2009, ông Vũ Dũng được Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhì vì những thành tích xuất sắc trong công tác biên giới lãnh thổ và ngày hôm sau, lên đường nhận nhiệm vụ Đại sứ, Trưởng phái đoàn Việt Nam tại Liên hợp quốc ở Geneva, Thụy Sỹ (tin Vietnam Net).
13) Hiệp ước này đã không được Quốc hội Pháp thông qua, và được thay thế bằng Hiệp ước Patenôtre ngày 6.6.1884, được ký tại Huế giữa Jules Patenôtre với Nguyễn Văn Tường và Phạm Thận Duật. Hiệp ước Patenôtre (còn gọi là Hòa ước Giáp Thân) lặp lại những nội dung chính của Hiệp ước Harmand, nhưng có sửa đổi một số điều khoản cho nhẹ hơn.
14) Docteur P. Neis, bđd, chap. VI
15) Tác giả Trương Nhân Tuấn cho rằng ải Kida (Khua Da) là ải Du. Thật ra, ải Du hay ải Du Thôn là Ai Ro, nằm ở hướng đông-bắc của ải Nam Quan, còn ải Kida (Khua Da) nằm ở phía tây – tây-bắc của ải Nam Quan. Ải Du là ải được phép qua lại, trong khi ải Kida là ải cấm qua lại.
16) Trương Nhân Tuấn, “Tìm hiểu về Ải Nam Quan qua một vài tài liệu”, bđd,
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=14450&rb=0302
17) Trong ĐNNTC có tên núi Khiếu Đá, có thể đó chính là tên mà người Pháp phiên âm thành Kida hay Khua Da. ĐNNTC, sđd, t.4, tr. 390.