Biên khảo

30/04/1975 NGÀY VIỆT NAM BỊ MẤT TỰ DO MỘT VẾT HẰN SÂU TRONG TÂM TƯ HOA KỲ

 

chiensivnch.jpg 

 

 

Tài liệu : Ván bài lật ngửa : Trận Tết Mậu thân 1968

                                                                  

Bí ẩn lịch sử trong cuộc chiến VN    

   Tiết lộ của TBĐ về việc ông tiếp xúc với Đại sứ HK Bunker trước khi xảy ra biến cố Tết Mậu Thân đã giải toả một bí ẩn lớn mà từ trước nay những ngưòi nghiên cứu chiến tranh VN luôn thắc mắc. Họ tin rằng đã có một thỏa thuận ngầm nào đó giữa HK và CSVN về biến cố này…Nhưng chưa có tài liệu chứng minh, phải dành cho nó hai chữ “tồn nghi”. Người ta còn có lý do để nghi ngờ, vì Kissinger chỉ cho phép công bố một số tài liệu bí mật của ông sau khi ông chết 5 năm.  

    Lịch sử VN trong hơn 60 năm qua từ khi Nhựt đảo chánh Pháp tháng 3/1945 đến nay diễn tiến có lớp lang, xuyên suốt theo qui luật nhân quả. Tuy nhiên có một khoảng thời gian không rõ ràng -từ tháng 2/1967 đến biến cố Tết Mậu Thân 1968. Sau biến cố này, Mỹ đã đạt được mục tiêu, đưa Hànội vào bàn đàm phán, sau đó ký kết HĐ Paris 1973 và giải kết trách nhiệm ở VN. Có điều mà người nghiên cứu lịch sử thắc mắc: từ cái “nhân” nào đã đưa đến cái “quả” là trận tổng tấn công Tết Mậu Thân?  

   Như mọi người đều biết, đúng một tháng sau khi HK đưa hai tiểu đoàn TQLC đổ bộ lên Đà Nẳng, TT Johnson tuyên bố tại Đại học Johns Hopkins ngày 7/4/1965: sẳn sàng thương lượng không điều kiện với các phe liên hệ dựa trên những hiệp ước cũ hoặc bổ túc bằng những hiệp ước mới. Mục tiêu của HK là nền độc lập của miền Nam VN được bảo đảm để họ có thể quyết định mối liên hệ riêng của họ mà không có sự can thiệp từ bên ngoài. Hôm sau, Hànội trả lời bằng “đề nghị 4 điểm”, HK chấp nhận điểm 1, 2 và 4, chỉ còn điểm 3 qui định “công việc miền Nam do nhân dân miền Nam giải quyết theo cương lĩnh của Mặt trận GPMN” thì HK yêu cầu được thảo luận thêm tại bàn đàm phán. Nhưng Hànội bác bỏ, từ đó chiến tranh ngày càng leo thang.  

   Mãi đến ngày 8/ 2/1967, qua trung gian của TT Kosygin (LX) và TT Wilson (Anh), hai nước này là đồng chủ tịch Hội nghị Genève 1954 về Đông Dương, TT Johnson gởi Chủ tịch Hồ Chí Minh bức thư đề nghị: HK sẽ ngưng ném bom MB và ngưng tăng cường quân lực Mỹ ở MN, nếu BV cũng đình chỉ gởi người và vũ khí vào MN. Sau đó Mỹ và BV sẽ tiến hành những cuộc mật đàm để giải quyết vấn đề miền Nam VN. Trong thư trả lời, Chủ tịch HCM cho biết nước VNDCCH “không thể thương lượng dưới sự đe dọa của bom đạn Mỹ. HK phải chấm dứt vĩnh viễn và không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chống lại nước VNDCCH, khi đó hai bên mới có thể đàm phán và thảo luận những vấn đề mà hai bên quan tâm”. (6) 

    Từ đó có nhiều nổ lực quốc tế giúp HK và Hànội đến bàn hội nghị, đáng kể nhất là trung gian của Pháp từ tháng 6/1967. Ông Raymond Aubrac (một người CS từng quen biết HCM hồi năm 1946) và Hervert Marcovich -cả hai là khoa học gia Pháp, nhiều lần đi Hànội gặp HCM và TT Phạm Văn Đồng để giúp BV và HK trao đổi những đề nghị. Phía Hànội do đại sứ Mai Văn Bộ phụ trách, còn phía HK là Henry Kissinger. Hànội đòi HK ngưng ném bom MB vô điều kiện. HK đồng ý nhưng với điều kiện Hànội phải ngồi vào bàn hội nghị để giải quyết vấn đề miền Nam. Hànội đòi HK phải rút khỏi MN và thừa nhận MTGPMN. Cuối cùng BV nhấn mạnh: “chỉ sau khi HK chấm dứt không điều kiện việc ném bom và bất cứ các hoạt động gây hấn nào khác chống VNDCCH thì họ mới có thể nói chuyện”. Ngày 6/10/1967, Wallner -đại diện HK ở Paris nhờ Marcovich trao cho đại diện Hànội ở Paris một dự thảo thông điệp xác nhận: Mỹ chấm dứt mọi hình thức đánh phá nước VNDCCH mà không nói đến điều kiện, Hànội có thể nhanh chóng tiến hành thảo luận với HK. Wallner nói thêm nếu đại diện Hànội đồng ý, Kissinger sẽ sang Paris trao tận tay cho BV thông điệp với nội dung trên. Hànội không trả lời, việc trung gian giữa ông Marcovich và Aubrac với HK và Hànội xem như chấm dứt (7) 

    Có thể nói, ông TBĐ đã báo cho Đs Bunker biết ý định cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân vào thời điểm này. Sau này, Thượng tướng Trần Văn Trà nhận xét: “Đi vào tổ chức thực hiện một quyết định lớn như vậy mà Bộ Chính trị chỉ dành cho các cấp ở chiến trường có ba tháng, thật là quá ngắn ngũi”. Ông cho biết mục tiêu đề ra là “Tiêu diệt và làm rã tuyệt đại bộ phận quân đội Sàigòn, đánh đổ chính quyền các cấp và giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân” và “tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ” thì thật là vượt quá nhiều khả năng thực tế ta có. Thứ nhất ta không đủ sức -lực lượng ta chỉ bằng 1/5 của Mỹ và quân đội Sàigòn về bộ binh. Còn không quân, hải quân và cơ giới thì chúng có ưu thế tuyệt đối”… Ông chua chát kết luận: “Như vậy đề ra chủ trương TCK-TKN để giành toàn bộ chánh quyền về tay nhân dân” mà cán bộ và chiến sĩ ta diễn đạt gọn và đơn giản lúc đó là “dứt điểm” thì thật là hoàn toàn không thực tế, không thể thực hiện nổi, vượt quá sức của ta và coi thường khả năng và phản ứng của Mỹ”. (8)    

    Trong một bài khác, tướng Trà viết: “trong Tết Mậu Thân, ta không đánh giá đúng về tương quan lực lượng ta địch cụ thể lúc ấy, không thấy hết khả năng còn lớn của địch và điều kiện còn hạn chế của ta, đề ra yêu cầu cao quá sức thực tế ta có. Nghĩa là ta không dựa vào sự tính toán khoa học, cân nhắc sâu sắc mọi yếu tố mà có phần ảo tưởng dựa vào sự mong muốn chủ quan. Chính vì vậy…chúng ta đã phải chịu một hy sinh thiệt hại lớn lao về sức người, sức của, đặc biệt là cán bộ các cấp, làm cho sức ta yếu xuống rõ rệt. Sau đó không những ta không giữ được tất cả các thành tựu đã đạt được mà còn chịu muôn vàn khó khăn tiếp theo trong những năm 1969-1970. (9) 

   Trong khi Hànội đang chuẩn bị kế hoạch tổng tấn công toàn miền Nam, thì quân đội Mỹ lại tập trung vào cứ điểm Khe Sanh, ở tây bắc Quảng Trị, cách khu phi quân sự 18 cây số. Đầu tháng 10/1967, HK gởi những đơn vị TQLC tinh nhuệ đến trấn đóng Khe Sanh, thiết lập một hệ thống cứ điểm chiến lược kiên cố với quân số lên đến 6 ngàn. Với căn cứ Khe Sanh, HK tin rằng họ có thể kiểm soát và phá vỡ các mạng lưới tiếp vận vũ khí và các hành lang xâm nhập quân BV trên đường mòn HCM. Nhưng sau đó, không thám và các máy điện tử khám phá BV đã bố trí nhiều trận địa pháo và hỏa tiễn ở những đồi núi bao quanh căn cứ, trong khi nhiều sư đoàn chủ lực đang dồn về mục tiêu này.  

    Đêm 20/1/1968 Cộng quân bắt đầu khai hỏa với hàng ngàn hỏa tiễn, tiếp theo là các trận mưa pháo vào căn cứ. Tướng Westmoreland khẩn cấp gởi 1500 quân tăng cường lực lượng phòng thủ. Quân Mỹ đổ bộ xuống Khe Sanh dưới làn mưa đạn. Lúc bấy giờ cứ điểm này đang bị bao vây bởi khoảng 19 ngàn quân BV và có khả năng bị tràn ngập với chiến thuật biển người bất cứ lúc nào. Cục diện này tương tự trận Điện biên Phủ hồi đầu tháng 5/1954, khiến nhiều người lo ngại Khe Sanh có thể là chiến trường sẽ kết thúc chiến tranh VN…Nhưng tình hình lại diễn ra theo hướng khác với cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân ngay sau đó.  

   Lúc bấy giờ, có nhiều nguồn tin nói rằng HK và Hànội đã thỏa thuận “án binh bất động” để Lực lượng vũ trang GPMN dốc toàn lực vào cuộc TCK-TKN khắp các thị trấn, đô thị miền Nam. Nếu quả thật MTGPMN có ưu thế, được sự ủng hộ của dân chúng như họ thường rêu rao “kiểm soát 3/4 dân số và 4/5 đất đai” thì HK sẳn sàng rút quân để MTGP quản lý công việc MN theo cương lĩnh của họ. Nếu không thắng, MTGP sẽ cùng chánh quyền Sàigòn đàm phán, giải quyết chiến tranh bằng con đường hòa bình. Như vậy, có thể nói chiến trường Khe Sanh là kế “dương Đông kích Tây” để đánh lạc hướng âm mưu trên. Lúc đó, ai cũng thấy CSBV và HK đều dồn nổ lực vào Khe Sanh, nơi sẽ quyết định cuộc chiến. Mặc nhiên, họ để Quân Giải phóng Miền Nam đọ sức với QLVNCH trong dịp Tết, thời điểm mà người lính Cộng Hòa lơ là trong phòng thủ vì đã có lịnh hưu chiến để ăn Tết cổ truyền.  

    Sử gia Don Oberdorpher nhận xét trận Mậu Thân như sau: “Việt Cộng đã chịu một thất bại quân sự nặng nề. Hàng chục ngàn cán binh cuồng tín nhất, có kinh nghiệm nhất từ vùng rừng núi nhẩy vào vùng đồng bằng và thôn quê gánh chịu những trận mưa bom chết người. Việt Cộng mất cả một thế hệ chiến binh và nhân dân thành phố cũng không chịu nổi dậy theo chúng”. (10) Tuy nhiên, cuộc chiến bước vào giai đoạn mới: đàm phán để kết thúc. Tháng 5/1968, cuộc hòa đàm Mỹ và Hànội đã bắt đầu ở Paris giữa Harriman và Xuân Thủy.  

   Trước đó vào cuối tháng Ba, TT Johnson tuyên bố không tái ứng cử nhiệm kỳ hai, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ và dành cho BV vinh dự đến bàn đàm phán: không phải dưới sự đe dọa của bom đạn Mỹ mà là chiến thắng Mỹ. Ba tháng trước khi rời Bạch Cung, Johnson quyết định ngưng hoàn toàn việc ném bom miền Bắc, mời hai chánh phủ ở miền Nam tham dự đàm phán với HK và BV để hai bên miền Nam tự quyết định công việc nội bộ của họ. Hànội tự hào “thắng lợi Mậu Thân có ý nghĩa chiến lược to lớn và toàn diện, đã kéo Mỹ xuống thang chiến tranh phá hoại miền Bắc và buộc Mỹ phải nhận họp hội nghị hai bên ở Paris” Và “từ tháng 1/1969, đế quốc Mỹ đã buộc phải nói chuyện chính thức với đoàn đại biểu của Mặt trận dân tộc GPMN ở hội nghị bốn bên ở Paris”. (11)    

    MTGPMN muốn liên hiệp với VNCH, không có sự can thiệp từ bên ngoài

   Trong mấy tháng đầu của cuộc đàm phán bốn bên, Hànội vẫn chưa có giải pháp nào mới cho vấn đề MN. Họ vẫn căn cứ vào lập trường 4 điểm đề ra từ 8/4/1965. Còn MTGP thì dựa vào cương lĩnh ngày 20/12/1960 do Hànội soạn thảo: đòi Mỹ chấm dứt xâm lược, rút quân và từ bỏ chánh quyền Sàigòn. Bất ngờ, ngày 7/5/1969 trong cuộc mật đàm với Xuân Thủy, đại sứ Lodge cho biết sẽ đề nghị một giải pháp mới cho vấn đề MNVN theo như tuyên bố của ông Trần Bửu Kiếm (MTGP) trong phiên họp thứ 14 ngày 26/4/69: “Tổng tuyển cử tự do có thể mở đường cho một cuộc thảo luận bổ ích và đề nghị MTGP nói chuyện với Sàigòn”. (12) 

   Lúc bấy giờ, thực lực của MTGPMN ngày càng suy yếu: lực lượng vũ trang hầu như bị nướng sạch trong ba đợt tổng công kích hồi năm 1968, hạ tầng cơ sở bị đánh bật khỏi nông thôn, số lực lượng vũ trang còn sót lại phải chạy sang bên kia bên giới Miên.Trong tình thế đó, lập trường mới của MTGPMN rất mềm dẻo, khác xa nhiều với Cương lĩnh 10 điểm trước đây. Họ không còn đòi giải quyết công việc nội bộ MN theo cương lĩnh của họ, mà sẽ do nhân dân MN tự quyết định, không có sự can thiệp của nước ngoài. Và “trong thời gian từ khi hòa bình đưọc lập lại cho đến khi tổng tuyển cử không một bên nào được cưỡng bức nhân dân miền Nam VN phải chấp nhận chế độ chính trị của mình” (điểm 4 & 5). Ngày 8/6/1969, MTGPMN kết hợp với Liên minh của Ls Trịnh Đình Thảo thành lập Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa MNVN. Sau đó, Trần Bửu Kiếm, trưởng phái đoàn CP/CMLT công bố toàn văn “Lập trường 10 điểm” ngày 8/5/1969 trong một phiên họp công khai tại hội nghị bốn bên.

   Mấy ngày sau, trong cuộc mật đàm, Kissinger nói với Lê ĐứcThọ: khi TT Phạm Văn Đồng đưa ra “lập trường 4 điểm” ngày 8/4/1965 để trả lời đề nghị đàm phán của TT Johnson, tổng thống Mỹ chấp nhận ba điểm. Duy chỉ có một điểm, HK không thể chấp nhận, đó là nội dung điểm 3: “Công việc miền Nam do nhân dân miền Nam tự giải quyết theo cương lĩnh của Mặt trận Giải phóng miền Nam, không có sự can thiệp bên ngoài”. Từ đó đến nay quí vị vẫn duy trì “lập trường trước sau như một của nước VNDCCH”, nay cương lĩnh của MTGPMN đã thay đổi. Chúng tôi thấy lập trường 10 điểm của Chánh phủ CMTL có nhiều điểm trùng họp với kế hoạch hòa bình 8 điểm của HK. Hai bên HK và VNDCCH có thể dung hòa hai đề nghị trên để kết thúc chiến tranh. Kế hoạch 8 điểm của Mỹ được TT Nixon trình bày trên hệ thống truyền hình ngày 14/5/1969: Mỹ muốn rút quân nhanh chóng, không muốn tìm kiếm căn cứ quân sự ở NVN, đòi hai bên cùng rút quân trong vòng 12 tháng sau khi có hiệp định để nhân dân miền Nam VN quyết định công việc nội bộ của họ. HK đồng ý để Mặt trận GPMN tham gia vào đời sống chính trị ở NVN, tham gia vào tổng tuyển cử tự do có giám sát và kiểm soát quốc tế. (13)

   Từ đó cuộc đàm phán Paris đi thẳng vào vấn đề chính là giải quyết cuộc chiến tại miền Nam VN. Sau này, ông Lưu Văn Lợi phụ tá Lê Đức Thọ tiết lộ: “Đây là một bất ngờ” mà Hànội không tiên liệu vì lập trường mới của MTGPMN. Từ trước đến giờ, trên bàn đàm phán chỉ có hai kế hoạch giải quyết vấn đề VN. Mỹ với hai điểm chủ yếu là quân miền Bắc cùng rút với quân Mỹ và giữ chánh quyền Sàigòn. Còn phía VNDCCH thì đòi giữ quân miền Bắc ở lại MN sau khi Mỹ rút, xóa bỏ chánh quyền Sàigòn”. Nay lập trường 10 điểm của Chánh phủ CMLT chủ trương liên hiệp giữa hai chính phủ ở miền Nam. Hànội nhận xét: “Mỹ đang có ưu thế ở MN và tất nhiên muốn giải quyết vấn đề trên thế mạnh. Phía VN phải chờ đợi thời cơ. Cần có thời gian để khôi phục lại tình thế cách mạng và chiến tranh nhân dân ở MN”. Họ phê phán MTGP: “Ngay trong vấn đề chính phủ liên hiệp đưa ra trong hoàn cảnh hạ tầng cơ sở của ta tan ra như lúc đó, nếu địch nhận ra thì có thể cũng là một khó khăn cho ta”. (14) Hậu quả, Trần Bửu Kiếm mất chức trưởng phái đoàn Chánh phủ CMLT. Từ khi bà Nguyễn thị Bình thay thế “Hai đoàn chúng ta tại hội nghị Paris -VNDCCH và MTGPMN- tuy hai mà một, tuy một vẫn là hai: cùng chịu sự chỉ đạo chung, nhưng là hai đoàn độc lập”. (15)

   Ngày 16/7/1969 TT Nixon gặp Sainteny nhờ trao thư cho HCM và yêu cầu ông ta nói thêm rằng: “nếu từ nay đến 1/11 (1969) là hạn cuối cùng không có sự khai thông nào trong thương lượng, Mỹ sẽ dùng những biện pháp gây hậu quả lớn, những biện pháp mạnh mẽ”. Trong thư Nixon nhắc lại đề nghị trong diễn văn ngày 14/5 là “thích đáng cho các bên” và “sẳn sàng thảo luận cả những kế hoạch khác” đặc biệt là 10 điểm của MTGP. Ông kết luận “Đã đến lúc phải đưa bàn hội nghị đến một giải pháp nhanh chóng cho cuộc chiến tranh bi thảm này, Ngài sẽ thấy chúng tôi sẳn sàng và cởi mở trong một nổ lực chung để đem lại những lợi ích của một nền hòa bình cho nhân dân VN anh dũng. Hãy để cho lịch sử ghi lại rằng trong giai đoạn quyết liệt này hai bên đã hướng về phía hòa bình chớ không phải hướng về gây hấn và chiến tranh”. 

   Trong thơ trả lời ngày 25/8, HCM cho rằng kế hoạch 10 điểm của Mặt trận GPMN là cơ sở logic và họp lý để giải quyết vấn đề VN. “Muốn có hòa bình, Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược và rút quân ra khỏi MNVN, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân MNVN và của dân tộc VN. Đó là con đường để Mỹ rút khỏi cuộc chiến tranh trong danh dự. Với thiện chí của phía Ngài và phía chúng tôi, chúng ta có thể đi tới những cố gắng chung để tìm một giải pháp đúng đắn cho vấn đề VN”. Đây là văn kiện đối ngoại cuối cùng của HCM (16)

   Cuộc chiến vẫn còn kéo dài vì sự bất đồng giữa Hànội (chủ trương phải chờ thời cơ để đánh bại chánh quyền Sàigòn) và Chánh phủ CMLT Cộng hòa Miền Nam (chủ trương lập chánh phủ liên hiệp với VNCH). Mối xung đột trên chưa kịp phát triển nhờ phía VNCH đang có mối bất đồng lớn với HK xuất phát từ “lập trường bốn không” của TT Nguyễn Văn Thiệu. 

 Ván bài lật ngửa: một canh bạc bịp khổng lồ

   Mở ra các đợt Tổng tấn công từ Tết Mậu Thân, CSVN đã mượn tay HK và VNCH tiêu diệt gần như toàn bộ Lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam. Những gì xảy ra hai thập niên trước, nay lại tái diễn. Năm 1946, CSVN mượn tay Pháp tiêu diệt các đảng phái Quốc gia để giành độc quyền yêu nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nay, từ sau Mậu Hànội gia tăng lực lượng xâm nhập từ miền Bắc vào, toàn quyền thao túng trên cả hai mặt trận đánh và đàm với Mỹ. Cuối cùng chiến tranh được kết thúc theo như cương lĩnh mới của MTGPMN phù hợp với quan điểm của HK: “Nhân dân miền Nam VN tự quyết định công việc nội bộ của mình, không có sự can thiệp của bên ngoài”. Nhờ đó, giúp HK chấm dứt chiến tranh, giải kết trách nhiệm đối với VN, rút đi trong danh dự với cam kết góp phần hàn gắn vết thương chiến tranh VN. Nhưng nhân dân miền Nam chưa bao giờ được hưởng quyền tự quyết của mình, thì làm sao hàn gắn vết thương chiến tranh được !  

      Hồi ký " Years of Upheaval " : Cái nhìn của Kissinger về ông Thiệu

Trước khi chúng ta (**)để tâm đến chuyện vi phạm của miền Bắc VN, chúng ta phải quan tâm đến một phấn nhỏ của đàm phán là cam kết của chúng ta(Hoa kỳ)đối với đồng minh tổng thống VNCH phải có cơ hội tới thăm tt Hoa kỳ như là phần khích lệ đi sau việc ngưng bắn. 

Ông Thiệu đã nhiều tháng liền chống đối lại thỏa hiệp hòa bình chia cắt đất nước ông ta. Các điều khoản của hiệp ươc Ba lê còn tốt hơn ngay cả kẻ chỉ trích hay ủng hộ chúng ta đã nghĩ. Về đề xuất thương thảo phía ông Thiệu tự chấp thuận đề án 3 năm trong lúc phía Bắc Việt khó lòng chấp nhận chuyện này. Nếu chuyện này thành ,ông ta đã khéo léo đưa trách nhiệm lên vai chúng ta. Cái ông ta cần là tiếp tục chiến đấu cho đến khi kẻ xâm lăng cuối cùng ra khỏi lãnh thổ. Đây không phải là điều sai của ông mà công luận Hoa kỳ thì lại không chấp nhận . 

Ông Thiệu chống lại chúng ta(Hoa kỳ) bằng chiến thuật kiên trì…chúng ta cả hai đều đồng đến một kết luận, một miền Nam VN an toàn về lảnh thổ. Những ai trong chúng ta dự phần vào thương thảo hòa ước Ba lê đều không quá nghi ngờ cũng như không quá ngây thơ. Chúng ta nghĩ rằng Băc Việt sẽ gia tăng sức ép, nhưng chúng ta đã ngưng gia tăng mọi lực lượng và quốc hội chúng ta sẽ bỏ phiếu bắt buộc chúng ta bước ra khỏi cuộc chiến này vô điều kiện nếu chúng ta vượt quá giới hạn.Hoa kỳ hi vọng rằng thế bế tắc về quân sự ít nhất sẽ bảo đảm tính an toàn và có thể dẫn đến cuộc nói chuyện tay đôi giữa các phía VN với nhau. Ông Thiệu luôn nhìn vào chuyện trước mắt là quan trọng nhất.Cái gần nhất với ông không phải là hòa bình sau cùng mà địch quân trước mắt. Sau khi ngưng bắn, quân đội chúng ta sẽ rút về bên kia bán cầu; còn dân tộc của ông vẫn còn cảnh một đội quân tiếp tục hi sinh cho những hi vọng mong manh của nền độc lập tại Đông Dương. Chúng ta đã chắc rằng biện pháp của chúng ta sẽ kềm hãm tham vọng của Hà nôi ; Nhưng mắt của ông Thiệu chỉ chú mục vào những điều không chắc chắn về lâu dài. Về căn bản ông Thiệu có thể đúng , vì chuyện là nôi các tt Nixon không thể chống đối nỗi những quyết định từ quốc nội và nếu giá dư có thuận lợi chăng thì nội các đó cũng tránh né ý niệm về trách nhiệm của chúng ta. Ông Thiệu càng lúc càng ghét cay ghét đắng tôi vì vai trò kiến trúc sư của tôi về thỏa ước hòa bình này. Trong lúc này tôi chỉ biết thông cảm sâu xa về nỗi bực tức của ông , nhưng chúng ta không có chọn lựa nào khác. Hoa kỳ không thể phủ quyết khi Hà nội đã chấp thuận , những điều khoản rất hòa bình chúng ta đã đề ra với sự chấp thuận của ông Thiệu cho thời hạn ba năm. Cho đến hôm nay tôi kính trọng ông Thiệu như là một gương hào hùng của một kẻ dám chiến đấu cho nền tự do dân tộc của ông , một kẻ sau này đã chiến bại bởi những hoàn cảnh ngoài tầm tay cá nhân ông, đất nước ông và ngay cả ngoài vòng quyết định của chúng ta. 

Ông Thiệu viếng Hoa kỳ từ hôm 2/4/1973. Chúng ta chẳng được chút gì tự hào vê chuyến viếng thăm này. Suốt cuộc chiến vừa qua chúng ta chiến đấu vai bên vai với người dân đất nước ông , rất khó lòng chấp nhận ông vào thăm trong nội địa Hoa kỳ vì một nỗi e ngại sự chống đối của dân chúng. TT Hoa kỳ và ông đã kín đáo gặp nhau lần lượt tại Guam, Hawaii, và tại Midway. Ông Thiệu chưa bao giờ được phép đặt chân vào nội địa Hoa kỳ. 

Chuyến viếng thăm của ông Thiệu vào Hoa kỳ năm 1973 là cố tâm tạo dựng một biểu tượng về mối dây giao hảo trong giai đoạn hòa bình mới mà sự hi sinh của chúng ta dành cho một miền Nam tự do. Chuyện gần như hoàn toàn trái ngược. Sự chấm dứt chiến tranh chưa hẳn làm thôi nguy cơ chống đối của công chúng. Do đó chúng ta phải tiếp đón nhà lãnh đạo một nước đồng minh tại tòa ‘‘Bạch Ốc tại bờ Tây” tức là San Clemente, mà hàng chục ngàn sinh mạng người Mỹ cùng đồng minh và hàng trăm ngàn sinh mạng người VN phải hi sinh cho nền tự do của họ. Những buổi lễ tiếp đón và đưa tiễn phải bị thu hẹp lại cơ ngơi của TT cùng canh gác nghiêm nhặt. Ngay cả buôi tiệc tối quốc gia cũng phải chuyển đổi thành bữa tiếp tân gia đình . Lý do bào chữa của TT Nixon vì phòng ăn tối chỉ đủ chỗ không quá mười hai khách nhưng thực ra vì mời nhiều khách khứa sẽ mang lại nỗi e sợ những vị khách quá khích chống đối. 

Nhằm thực hiện lời hứa, phó TT Spiro Agnew được chọn làm vai trò chủ nhân tiếp đãi tại thủ đô. Tình cảnh buổi tiếp đó ông Agnew tiết lộ chớp nhoáng với tôi qua điện thoại trước khi phi cơ chở ông Thiệu hạ cánh. Agnew phàn nàn rằng chỉ có một nhân vật chính phủ là ông bộ trưởng lao động Peter J. Brennan đi theo để đón ông Thiệu thôi. Chỉ có một ít khách dự bữa tối đó với ông phó TT. Những nhân vật cao cấp trong nội các thì tìm cớ để ra khỏi thành phố lúc này. Đây là điều hổ thẹn vì những ngày tôi tùng sự tại Hoa thịnh Đốn mốt số nhân vật lãnh đạo Cộng Sản đã được tiếp đón một cách danh dự. Những giới chức cao cấp giành nhau đến dự cho được buổi dạ tiệc nhằm vinh danh những nhân vật trung lập đặc biệt họ từng chỉ trích nặng nề Hoa kỳ chúng ta. Nhưng một tổng thống chung thủy với một nước bạn bè thì chúng ta hững hờ phó mặc. 

Những kẻ này đã lấy lý do về những khiếm khuyết dân chủ của ông ta làm lý do bào chữa và đẩy đưa cả dân tộc ông về phía kẻ thù của dân chủ. Không có sự kiện thuyền nhân chạy trốn khỏi VN khi ông Thiệu còn tại chức. Rõ ràng hàng triệu bàn chân trốn chạy về vùng ông Thiệu kiểm soát tránh xa vùng đất CS chiếm đóng tức đã bầu cho ông ta rồi.Thói thường hay đổ tội cho việc dội bom của chúng ta nhưng sau này chắc hẳn một điều là đó là phản ứng đối với tính bạo tàn của chế độ CS. Ông Thiệu từng bước cố gằng mở rộng cơ cấu chính quyền – tuy chưa đầy đủ- ngay cả trong vùng CS kiểm soát nơi đó các giới chức của ông dễ thành mục tiêu.Theo phê phán của ông thì chuyện này chưa có lợi lộc nào cả. 

Theo cảm nhận từ chúng ta, điều có phần chắc miền Nam VN mới chỉ phôi thai tạo dựng một thể chế dân chủ. Cũng có những phê phán công bình về sự hà khắc cùng tham nhũng. Nhưng những khi phe đối lập của ông Thiệu trình bày những rắc rối từ nền chính trị đa nguyên tại Sài gòn tới giới báo chí chúng ta thì chúng ta chưa ai so sánh với Hà nội cả ; một nơi mà đối lập chưa bao giờ được chấp nhận , báo chí bị kiểm soát và sự liên lạc với truyền thông ngoại quốc hoàn toàn bị cấm đoán. Nói gọn đi,đòi hỏi này thật khó lòng đáp ứng cho được tình thuận lợi cho cách nhìn kiểu Mỹ đối với ông Thiệu. Kh tôi thăm dò bạn bè Âu châu về chuyến thăm của Ông Thiệu đến Hoa kỳ ngay cả khi kết hợp công du hay cá nhân , có một sự im lặng khó hiểu. Ông và ngay cả ngoại trưởng của ông cũng chưa bao giờ được tiếp đón tại thủ đô các nước đồng minh ngoại trừ Ba Lê nơi diễn ra hòa đàm- một tiến trình giải thể chính phủ ông Thiệu- bước đầu tiên trong việc bỏ rơi- diễn khá hay. Trong lúc đó , bà Nguyễn thị Bình , cái gọi là bộ trưởng ngoại giao cho chính phủ MA :CHÍNH PHỦ CÁCH MẠNG LÂM THỜI CỘNG SẢN , chưa hề có khả năng trình ra ngay cả một nơi làm thủ đô- thì lại được tiếp trọng thể tại Đông Âu. 

Thật là một hiện tượng lạ đời , ngừơi ta cứ tự ru ngủ mình bằng cách cứ thuyết phục những người đứng đắn và chân thiện hướng chuyện phẩn nộ về đạo đức vào cái gọi là bảo thủ. Trong cuộc chiến tại Âu châu có khẩu hiệu ” không có quân thù ở cánh tả ” Vào những năm sau chiến tranh báo chí Tây Phương dãy đầy chuyện vi phạm từ các chế độ như Tây ban Nha , Bồ đào Nha, Nam Hàn , Hy lạp , Ba tư , Nam VN và một số khác , Trong khi đó có nhiều nước những cái gọi là “dân chủ nhân dân ” đáng bị kiềm chế đáng phải hối cải về những chuyện tàn ác của họ vẫn tại Đông Âu hay chế độ chuyên chế thiên tả Thế giới Thứ Ba và dĩ nhiên có Cộng sản Bắc Việt. 

Đừng bao giờ cho rằng các chế độ “tiến bộ” là đầy tớ của nhân dân- các thử thách về lòng trung thành phục vụ dân chúng- bởi vì các chế độ này hoàn toàn là những thể chế toàn trị mà những chế độ bảo thủ thường gặp rối loạn vì họ không có cả lý thuyết lẫn công cụ để đàn áp có hiệu quả. Đừng cho là các thể chế bảo thủ sẽ để yên cho lân bang và có trường hợp sẽ tự phát triển thành các thể chế dân chủ(Tây ban Nha, Hy lạp , Bồ đào Nha) khi quân đội Sô viết áp đặt ý muốn họ lên thế giới lấy danh nghĩa chủ thuyết đại đồng. Chưa hề có ghi nhận nào về sự tiến triển tốt đẹp cho các chế độ chính trị ở Thế giới Thứ Ba vào thời hậu chiến. Làn sóng di dân ào ạt vào thời đại chúng ta luôn luôn phát xuất từ các nước CS chứ không hề theo chiều ngược lại. Thê mà vẩn còn những thói khinh mạng, xúc phạm cùng đối xử bất xứng để dành cho cho bạn bè Tây phương chúng ta như trường hợp ông Thiệu năm 1973 và sau này là Vua Shah của Ba Tư cùng trong cùng thập kỷ… 

[skipped unrelated passages…] 

.Đất nước ông Thiệu bị tấn công bởi nhiều mặt trận, trước tiên là lực lượng du kích được Hà nội trang bị cùng huấn luyện và tiếp đến là sự xâm lăng ào ạt của lực lượng chính quy từ Bắc VN. Tuy thế chính phủ Hoa kỳ vẫn cố gắng gia tăng áp lực thúc đẩy vấn đề tổng tuyển cử và linh động trong thương thuyết phần nào tránh được sự lên án và xoa dịu chỉ trích dai dẳng tại quốc nội . Như là một phép lạ phát xuất từ lòng dũng cảm , ông Thiệu đã cố gắng lèo lái quốc gia trong giai đoạn cam go này, chiến đấu chống lại quân thù cố tâm xâm lấn và làm an tâm đồng minh nào chưa thông hiểu ông. Ông nổi bật với thỏa ứớc 1973 trong đó Hà nội phải từ bỏ những đòi hỏi về chính trị từ bao lâu nay mà quay lại cho vấn đề ngưng bắn còn tốt hơn chúng ta mong đợi, tuy còn bấp bênh theo kỳ vọng của ông. 

Về riêng tư tuy tôi dành ít cảm tình về ông Thiệu nhưng tôi rất kính nể ông vì ông là một người kiên tâm chiến đấu trong nỗi cô đơn ghê gớm(nguyên văn: terrible loneliness) sau cuộc rút quân của Hoa kỳ. Ông chấp nhận những cảm tình và thông hiểu ít ỏi dành cho ông. Chuyện đó không làm phẩm chất của ông hao mòn đi . Dù rằng nguyên thủ chúng ta đã tổ chức buổi đón rước ông với sự thiếu vắng từ phía công chúng ,phản ứng của ông xem như là chuyện thường tình trên thế giới này. Tại San Clemente, trong bài diễn văn lịch sự dành cho ông , TT Nixon có ám chỉ đến khả năng tự bảo vệ của miền Nam VN- một ý niệm nghi ngờ khi Hà Nội dốc toàn lực tấn công với vũ khí của Liên xô. Thật lạ như chuyện thần kỳ ông không vội suy sụp ngay khi so sánh với thực tế miền Nam với Châu Âu sau thế chiến Hai chúng ta đã duy trì 300,000 quân Mỹ ở lại tới một phần tư thế kỷ ! 

Sau các nghi thức buổi lễ , hai nhà lãnh đạo tiếp tục nói chuyện riêng với nhau. Thực sự, chẳng còn gì nhiều để bàn thảo thêm nữa . Ông chẳng hề kêu van về công chuyện chúng ta bỏ lại cho ông và ngay cả cái dã tâm từ phía Hà nội .Nhưng ông đưa ra một một sự kiện thưc tế trước mắt chúng ta là vi phạm từ phía Bắc Việt. Về riêng tư TT Nixon có bảo đảm với ông-cũng như TT đã từng công bố vào hôm 15 tháng Ba và vài nơi khác– rằng TT sẽ chống lại những vi phạm trắng trợn đó bằng vũ lực nếu thấy cần thiết. 

Cùng một lúc TT(tức Nixon) vừa năn nỉ vừa dọa dẫm ông Thiệu bắt miền Nam phải thi hành những điều khoản của hiệp định đề ra.Ông Nixon còn nhắn nhủ nếu có thất bại nào về Hiệp ước Ba lê thì rõ ràng trách nhiệm thuộc về cánh Hà nội. Ông Thiệu chỉ rõ trở ngại chính về sự thành lập Ủy Ban Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc do Hiệp ước đề ra là do Hà Nội từ chối cuộc tổng tuyển cử do ủy ban này giám sát. “Cuộc tranh đua về chính trị” này đã được một số người Mỹ nhiệt liệt tán thành cùng ủng hộ trong thời kỳ đang xảy ra chiến tranh nhưng sẽ không bao giờ được phía Hà nội thi hành lúc hòa bình . Cuộc tranh đấu bằng bầu cử, loại hình từng bị coi thường ngay trong chính quốc gia của nó nhưng nó không bao giờ gây mất mát cho cả một thế hệ nào. 

Sang ngày thảo luận thứ hai hai Ông Nixon và Ông Thiệu quan tâm vấn đề viện trợ cho miền Nam VN.Có một điều chưa thực tế cho lắm đối với các bên liên quan, vì người ta biết rằng sự ủng hộ của Quốc hội chúng ta ngay cả việc giúp đỡ phát triển về kinh tế cho miền Nam cũng thu hẹp lại quá mau.Phía Tự Do(Liberals) thì thấy không còn lợi lộc gì vì họ đã mất dần cam kết giúp cho Miền Nam sống còn , phía Bảo Thủ thì muốn tin rằng họ phải hoàn thành nhiệm vụ làm sao giúp cho cuộc chiến này chấm dứt trong danh dự. Hai phía đều biểu hiệu sự mệt mỏi của quốc gia. Ông Nixon hứa sẽ xem lời yêu cầu viện trợ của Sài Gòn làm mục tiêu trước mắt .Nhưng chuyện còn tùy thuộc vào ý kiến từ Quốc Hội. Ông Thiệu đã nhận được lời hứa trên thông cáo chung chính phủ rằng hai đồng minh sẽ duy trì “TÍNH CẢNH GIÁC” nhằm chống lại “SỰ TÁI TỤC TẤN CÔNG PHÍA CS SAU KHI LỰC LƯỢNG DIỆN ĐỊA HOA KỲ RÚT KHỎI NAM VN” và nữa, “BẤT CỨ HÀNH ĐỘNG NÀO GÂY ĐE DỌA TÍNH ỔN ĐỊNH CHO HIỆP ĐỊNH SẼ NHÂN LẤY PHẢN ỨNG MẠNH MẺ THÍCH ĐÁNG “đây là tuyên bố sau này trứơc công luận từ TT Nixon khi ông quyết tâm thi hành hiệp định. 

Sự mập mờ chưa dứt khoát về vấn đề viện trợ kinh tế không làm lu mờ lòng hưng phấn của ông Thiệu ngày ông rời San Clemente . Khi máy bay của ông cất cánh khỏi California , ông đã khui rượu uống mừng ghi nhớ sự hài lòng cùng khuây nguôi của ông từ cuộc nói chuyện với ông Nixon. Dù tánh ông hay nghi ngại cùng các dấu hiệu khó khăn tương lai đang tới dần–gồm thái độ do dự của chúng ta đối với sự vi phạm hiệp định của Hà nội và lưỡng lự viện trợ kinh tế cho miền Nam– thế mà lòng tin của ông không bao giờ thay đổi rằng Hoa kỳ sẽ đáp ứng viện trợ cho miền Nam trong trường hợp khẩn cấp. Đây cùng niềm tin từng được các đồng minh khác của Hoa kỳ ấp ủ xưa nay ,lòng trung thành từng tạo dựng nên một trong các giá trị căn bản của Hoa kỳ chúng ta đối với thế giới thế nên chúng ta gắng làm sao đừng để nó vuột mất.

vietnam135_sJPG_950_2000_0_75_0_50_50.jpg 


30/04/1975 NGÀY VIỆT NAM BỊ MẤT TỰ DO

MỘT VẾT HẰN SÂU TRONG TÂM TƯ HOA KỲ

 

LÝ ĐẠI NGUYÊN

(VNC) Ngày 30 tháng 4 năm 1975 kết thúc cuộc chiến tranh hiểm hóc tại Việtnam. Trên danh nghĩa là cuộc ‘chiến tranh Quốc Cộng’ của Việtnam, do Bắc Việt Cộng Sản thực hiện cuộc xâm lăng Miền Nam, qua công cụ của họ là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam. Nhưng thực tế nó là một cuộc ‘chiến tranh thế giới thu nhỏ’, do Hoakỳ làm chủ soái về phiá Thế Giới Tự Do và Thế Giới Cộng Sản đứng ẩn mặt sau lưng Cộng Sản Bắc Việt. Chính vì vậy mà dư luận quốc tế và kể cả dư luận của người Mỹ cũng chỉ nhìn thấy Hoakỳ là thế lực quốc tế hiện diện và điều khiển toàn diện, quyết định tối hậu của vận mệnh cuộc chiến tranh quái ác tại Việtnam. Nên 30/04/1975 là ngày Việtnam mất tự do đã thành một vết thương hằn sâu trong tâm thức Hoakỳ, mỗi khi chính quyền Mỹ tham dự vào cuộc chiến nào trên thế giới thì dư luận Mỹ, và người Mỹ, ngay lập tức liền nghĩ tới sự sa lầy của Mỹ tại cuộc chiến Việtnam. Thế giới kết tội cho Mỹ là ‘bỏ rơi Đồng Minh’ của mình, từ đó nghi ngờ thiện chí của Mỹ. Tuy thực tế lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, chính do cuộc chiến Việtnam, và do Mỹ để cho cộng sản nuốt trọn Việtnam đã là một yếu tố quan trọng khiến Liênxô sụp đổ, mà Mỹ không phải tốn một viên đạn nào ở đó. Thế giới thoát khỏi cảnh ‘chiến tranh lạnh’, buớc sang tiến trình kinh tế thị trường ‘toàn cầu hóa’ và ‘dân chủ hóa toàn cầu.

Hoakỳ, tuy với danh nghĩa là ‘bảo vệ tự do cho Miền Nam Việt Nam’. Nhưng thực tế không phải là để tiêu diệt Việtcộng cho Miền Nam, mà để Mỹ Hoá cuộc chiến tranh Việtnam, nhằm đẩy Quốc Tế Cộng Sản vào thế ‘Huynh Đệ Tương Tàn’. Chính vì biết rõ  Liênxô, Trungcộng đang lâm vào thế không đội trời chung. Sau khi Stalin chết, tại đại hội  khóa 20 của cộng đảng Liênxô, Khurushchev đọc Báo Cáo Chính Trị hạ bệ thần tượng Stalin, Mao Trạch Đông, quyết liệt chống ‘phong trào xét lại’ này, với mưu đồ không che dấu là lên ngôi lãnh tụ của toàn thế giới cộng sản, thay chỗ của Stalin. Nga, Tầu công khai chống nhau từ đó. Hồ Chí Minh đã ma mãnh, cho Lê Duẩn đi với Liênxô, đích thân Hồ đi với Trungcộng để vừa kéo 2 đàn anh đang trong thế thù địch sinh tử với nhau vào chi viện cho cuộc xâm lăng của Cộng Sản Việt Nam, vừa không phải lựa chọn đứng về phía Nga hay Tàu. Như vậy trên bản chất của vấn đề là cả 3 phe trong Quốc Tế Cộng Sản: Liênxô, Trungcộng và Việtcộng sẽ phải tìm thế cách khai thác cuộc xâm lăng đó sao có lợi nhất cho mình. Phía Thế Giới Tự Do, Mỹ loại những trở ngại cho công cuộc ‘Mỹ hoá’ chiến tranh Việtnam, dù trở ngại đó là Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà, Ngô Đình Diệm, hay là ngay Tổng Thống Hợp Chúng Quốc Hoakỳ, John F. Kennedy đều bị hy sinh mạng sống cho việc tiến hành cuộc chiến quái gở này. Trong cuộc chiến, các vị tư lệnh chiến trường của Mỹ, không được quyền đánh thắng hay quyền thua. Có nghĩa là phải để cho cuộc chiến kéo dài cho tới khi đạt được mục tiêu chính trị. Chính vì vậy đã làm cho cuộc chiến diễn biến trong tình trạng ‘sa lầy’ làm cho trên 58 ngàn binh sĩ Mỹ tử trận, hàng mấy trăm ngàn lính chiến Việtnam Cộng Hoà bị hy sinh, hàng triệu lính Việtcộng bỏ mình, và nhiều triệu dân chúng Việtnam thương vong, với bao nhiêu của cải đổ vào cuộc chiến. Khiến cho phong trào phản chiến tại Mỹ bùng lên mãnh liệt, buộc các chính khách dù là ‘diều hâu’ cách mấy cũng nghĩ tới giải pháp hòa bình.

Sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 của Việtcộng vào các đô thị Miền Nam, để thỏa mãn mơ ước ‘giải phóng Miền Nam’ của Hồ Chí Minh bị thảm bại, trước sự phản công ngoạn mục của Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà. Lực lượng du kích, cán bộ nằm vùng của Giải Phóng Miền Nam hầu như bị tiêu vong. Quân đội Bắc Việt vào thay thế. Cộngsản Bắc Việt nắm trọn quyền chủ động tại chiến trường Miền Nam và trong các cuộc thương thuyết. Hồ Chí Minh chết tức tưởi, quyền hành hoàn toàn lọt vào tay Lê Duẩn thân Liênxô. Tổng thống Dân Chủ Mỹ, Lyndon B. Johnson xem như đã đưa cuộc chiến cán mức cần thiết, ông không ra tranh cử. Tổng thống Cộng Hòa Mỹ, Richard Nixon đắc cử, tiến hành giải pháp hòa bình. Hội nghị Paris chuyển động. Năm 1971, Mỹ đẩy Trung Hoa Quốc Gia – Đàiloan ra khỏi Liên Hiệp Quốc, đưa Trungcộng vào thay thế, sau khi Mao Trạch Đông đã thực hiện cuộc ‘Cách Mạng Văn Hóa’, kể từ ngày 05/08/1966, loại hết các đối thủ chính trị, để nắm toàn quyền tại Trungcộng nhằm bắt tay với Mỹ. Ngày 21/02/1972, Nixon gặp Mao tại Bắckinh, ngày 28/02/1972 Nixon và Chu Ân Lai ký Thông Cáo Chung Thượng Hải. Mỹ, Tầu liên minh với nhau để chống Liênxô. Cuộc chiến tai quái Việtnam xong nhiệm vụ.

Hiệp Định Paris chấm dứt chiến tranh Việtnam có hiệu lực từ 8 giờ sáng ngày 28/01/1973, để cho Mỹ rút quân, còn quân Bắc Việt không bị rút về Bắc. Do vậy chiến tranh giữa Cộngsản và Quốcgia vẫn tiếp diễn tại Miền Nam. Ngày 19/01/1974 Trung cộng chiếm quần đão Hoàngsa dù lúc đó quân đội Mỹ chưa rút hết khỏi Việtnam. Tổng thống Nixon chủ trương “Việtnam hóa chiến tranh”. Nhưng chính ông đã bị mất chức vào ngày 08/08/1974 bởi chủ trương này. Ngày 30/04/1975 Việtcộng chiếm đóng Sàigòn, để rơi chiếc mặt nạ Dân Tộc Chủ Nghĩa Chống Ngoại Xâm, Giành Độc Lập, xuất hiện với bột mặt thực Cộng Sản Duy Vật Cực Đoan, trung thành với Chủ Nghĩa Xã Hội trả thù rửa hận, coi người Miền Nam là ‘ngụy quân, ngụy quyền, và nguỵ dân., tha hồ đàn áp, đầy ải kẻ thua, cướp đoạt tài sản, nhà cửa, ruộng đất, khiến hàng triệu người phải bỏ nước liều chết vượt biên tìm tự do. Cuối cùng loại luôn thứ công cụ của chúng là Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam và chính phủ lâm thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam, để thống nhất Viêtnam gọi tên là: Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, dưới sự lãnh đạo Độc Tài Toàn Trị của đảng Cộng Sản Việt Nam. Trung thành với Liênxô. Chống lại Trungcộng. Bắt thanh niên Việtnam phải hy sinh ‘làm nghĩa vụ quốc tế’ đánh Khmer Đỏ đàn em Trungcộng tại Campuchia. Trungcộng tràn quân sang Việtnam dậy cho Việtcộng ‘một bài học’. Đúng là cả Liênxô, Trungcộng, Việtcộng và Cộngsản khắp nơi đều rơi vào chiếc bẫy ‘Huynh Đệ Tương Tàn’ của Mỹ. Trungcộng trở mặt với dân Trung Hoa trong vụ đàn áp tại Thiên An Môn. Mỹ không mất một viên đạn nào mà khối Đông Âu được giải thoát. 1991 Liênxô sụp đổ. Điều đau buồn nhất là Việtcộng không nhân cơ hội ngàn năm một thuở này thoát ra khỏi ảnh hưởng của cộng sản đã hết thời, mà lại quay về thần phục Trungcộng. Để học thứ chế độ ‘nửa dơi, nửa chuột’. Rồi bị hiến đất, dâng biển, cúng tài nguyên, tạo điều kiện cho Trungcộng thôn tính trọn vẹn Việtnam và toàn vùng Đông Nam Á. Năm 1995, Mỹ quyết định quay lại Việtnam. Việtcộng coi đây là chiếc phao cứu hộ. Nhưng lại không dám Dân Chủ Hoá chế độ để dựa vào dân, phát huy thế chủ động dân tộc trong mặt trận ngoại giao quốc tế. Vẫn ‘bổn cũ soạn lại’ là ‘đu dây’, giữa Mỹ với Tầu, như thời Hồ Chí Minh, giữa Tầu với Nga. Nhưng một khi Tầu thoả hiệp để ngồi được vào chiếu thứ hai ăn chia với Mỹ, thì Việtcộng phải làm tôi hai chúa, mà kẻ trực tiếp ra lệnh đầy gian tham, ác ý là Trungcộng. Dù sao nhân kỷ niệm ngày 30/04 cũng phải lưu ý Mỹ rằng: Ngày nào Việtnam chưa có tự do, ngày ấy vết hằn nhức nhối vẫn còn nặng chĩu trong tâm thức Hoakỳ.

LÝ ĐẠI NGUYÊN

Little Saigon ngày 26/04/2011 

 

 

vietnam097_sJPG_950_2000_0_75_0_50_50.jpg 

Dương Văn Minh vào giờ thứ 25

dvm1

Ông Dương Văn Minh

Giải pháp cuối cùng

(VNC) Ông Thiệu từ chức ngày 21-4-1975, khoảng bốn năm ngày sau báo chí Sài Gòn đăng tin hai ông Thiệu, Khiêm ra đi tại phi trường Tân Sơn Nhất trước sự căm phẫn của mọi người.

Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay TT Thiệu được bốn, năm ngày bèn ngỏ lời với đồng bào về hiện tình đất nước trên đài phát thanh Sài Gòn, bằng giọng sướt mướt, thở than, đau khổ, ông vừa nói vừa khóc.

“Tôi xin nói thiệt với đồng bào, tình hình hiện nay vô cùng bi đát…  Đồng bào cũng đã biết các vùng Một vùng Hai miền Trung đã hoàn toàn tan rã, vùng Ba, vùng Bốn cũng nay cũng đã bị nhiều sứt mẻ. Rồi nay mai đây những trận đánh sấm sét sẽ đổ xuống đây và rồi Thủ đô Sài Gòn này sẽ thành cái núi xương sông máu. Tôi đã nghĩ đến cái cảnh núi xương sống máu ấy và đã bàn với anh Dương văn Minh, tôi có nói với ảnh như vầy “Bây giờ tôi bàn giao chính quyền cho anh, nhưng bàn giao để anh tìm cái giải pháp hòa bình cho đất nước chứ bàn giao cho anh để anh đầu hàng thì bàn giao làm gì. Hở trời!”

Giọng ông già run run, thảm não, ông khóc thiệt tình khi nghĩ đến cái viễn tượng núi xương sông máu của Sài Gòn, những tiếng khóc não nùng của ông đã gieo kinh hoàng vào lòng mọi người. Bàn dân thiên hạ ai nấy hồn lạc phách siêu, họ không khỏi giật mình khiếp đảm khi thấy mọi bí mật quốc gia đã được nói huỵch toẹt trên làn sóng điện. Đối với người Sài Gòn nay chỉ có thể xác là còn sống, tâm hồn coi như đã chết.

Tin ông Dương Văn Minh sẽ được cử lên làm Tổng Thống thay thế ông Trần Văn Hương không còn là những lời đồn đãi nữa, chính ông Hương đã nói thẳng ra trên đài phát thanh.

Chiều  ngày 28-4-1975, đài phát thanh Sài Gòn tường trình buổi lễ bàn giao chức vụ Tổng thống giữa hai ông Trần Văn Hương và Dương Văn Minh tại dinh Độc Lập, người xướng ngôn viên bằng một giọng bi quan não nề nói:

– Thưa quí vị, chúng tôi đang theo dõi để tường thuật cùng quí vị buổi lễ bàn giao lịch sử ngày hôm nay. Thưa quí vị, bầu trời hôm nay rất là u ám, y như hoàn cảnh đất nước của chúng ta hiện nay. Trong lúc này đang có những tiếng sấm sét nổ rền trên không, bầu trời hôm nay thật thê lương, thưa quí vị tình hình đất nước chúng ta cũng vô cùng ảm đạm.

Một lúc sau lễ bàn giao diễn ra trong bầu không khí buồn tẻ gượng gạo, ông Dương Văn Minh bằng giọng chậm rãi gọi ông Trần Văn Hương bằng thầy. Đối với phía Cộng Hòa Miền Nam ông kêu gọi tinh thần hòa giải dân tộc, và bằng giọng ôn tồn, từ tốn ông khuyên nhủ nhân dân.

“- Xin đồng bào đừng vội bỏ nước ra đi mà hãy ở lại với quê cha đất tổ của mình.”

Báo chí xuất bản chiều nay đăng hình ông Dương Văn Minh mặc áo vét, thắt ca vát, tươi cười với hàng chữ lớn “Đại Tướng Dương Văn Minh Cứu Quốc, ông Dương Văn Minh luôn tỏ ra là người của dân tộc”. Những trang báo cố gắng trấn an, lên giây cót tinh thần người dân Thủ đô vào giờ phút chót, nhưng một lúc sau nhiều tiếng nổ kinh thiên động địa từ phía phi trường Tân Sơn Nhất rung chuyển cả thành phố Sài Gòn, mấy chiếc phản lực cơ A-37 đang chúi xuống ném bom phi trường Tân Sơn Nhất, tại Phú Nhuận người ta nhìn thấy cả hình những trái bom y như những hạt đậu đang rơi xuống.

Chừng hai mươi phút sau, một chiếc quay về phía dinh Độïc Lập vừa bay vừa nhào lộn để tránh đạn, phía dinh có tiếng súng bắn lên dữ dội. Ngoài phố những người hiếu kỳ đứng coi bỗng dưng hết hồn bỏ chạy tán loạn. Mấy chiếc khác lừng lững bay về phía tây bắc trong khi cao xạ ở bến Bạch Đằng bắn nổ lên nổ lụp bụp bên dưới máy bay.

Phía đài phát thanh có nhiều tiếng súng và những tiếng nổ như lựu đạn. Khi ấy ông Dương Văn Minh lên tiếng trên radio cho biết năm phi cơ lạ ném bom phi trường Tân Sơn Nhất. Đúng bẩy giờ đài BBC đọc bản tin tóm tắt về tình hình Việt Nam, người xướng ngôn viên nhấn mạnh từng câu từng chữ.

“- Hôm nay tại Sài Gòn ông Dương Văn Minh được cử lên giữ chức vụ quyền Tổng thống thay thế ông Trần Văn Hương để chuẩn bị cho một cuộc đầu hàng.

– Năm phi cơ lạ ném bom phi trường Tân Sơn Nhất.

– Nhiều loạt súng nổ tại Sài Gòn không biết thuộc bên nào.”

Qua phần bình luận và nhận định người xướng ngôn cho biết lễ bàn giao chức vụ Tổng thống tại Dinh Độc lập chứng tỏ cho thấy sự tan rã của chính quyền  Sài Gòn, người dân Thủ đô đang từ chỗ lo sợ đến chỗ hốt hoảng. Một lúc sau trong phần bình luận người xướng ngôn viên nói bằng một giọng mỉa mai cay đắng.

“Người Mỹ đang chuẩn bị rút lui êm thắm, họ cố gắng bằng mọi cách để giữ gìn thể diện dù phải tháo chạy nhưng Hà Nội lại ra sức làm cho người Mỹ phải bị bẽ mặt đến cùng để còn rêu rao cho cả Á châu được thấy…”

Diễn tiến của tình hình

Cũng vào khoảng thời gian này mười năm về trước người Mỹ bắt đầu đổ quân vào nam Việt Nam. Tháng tư 1969, Wesmoreland tại Hoa Kỳ cho biết nếu Mỹ không đổ quân vào miền Nam Việt Nam giữa 1965 thì sẽ mất trong 6 tháng. Quân số Mỹ tại Việt Nam tăng nhanh từ 184,300 người năm 1965 lên 385,300 người năm 1966… và cao điểm là 536,100 năm 1968. Bắc Việt cùng lúc gia tăng xâm nhập. Họ tăng nhân lực từ 180 ngàn năm 1964 lên tới 261 ngàn trong năm 1967. Kế hoạch “đánh cầm chừng, đánh cho nó sợ” để hăm dọa BV phải vào bàn hội nghị của McNamara-Johnson đã không đạt mục đích mà trái lại còn thúc đẩy phong trào phản chiến lên cao, nhất là sau Tết Mậu thân 1968.

Năm 1969 Nixon lên làm tổng thống thừa hưởng gia tài đổ nát do Johnson và McNamara để lại khi mà phong trào phản chiến đã lên rất cao. Mặc dù hứa hẹn trong khi tranh cử sẽ rút quân về nước trong danh dự nhưng Nixon vẫn nỗ lực tìm mọi cách bảo vệ Việt Nam chống lại sự gia tăng cường độ chiến tranh xâm lược của BV. Khác với Johnson trước đây vào những năm đầu cuộc chiến 1964, 1965 được quốc hội ủng hộ, Nixon ngày càng bị Quốc hội gây khó khăn trở ngại vì cuộc chiến tại đất nhà lên cao dữ dội. Mặc dù giúp VNCH đánh qua các căn cứ hậu cần BV tại Mên Lào nhưng bị chống đối dữ dội tại Mỹ nên không đatï được kết quả mong muốn tại mặt trận Hạ Lào.

Năm 1972 Nixon giúp VNCH đẩy lui cuộc xâm lăng ồ ạt của BV trong trận mùa hè đỏ lửa để lấy ưu thế trên bàn hội nghị và ký kết Hiệp định Paris ngày 27-1-1973, rút quân và đem 587 tù binh về nước.

Sau Hiệp định Paris, quân viện cho VNCH bị cắt giảm dần như sau:

– Sau khi Mỹ rút, viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa:

-Tài khóa 1973: hai tỷ mốt (2,1 tỷ)

-Tài khóa 1974: một tỷ tư (1,4 tỷ)

-Tài khóa 1975: bẩy trăm triệu (0,7 tỷ).

Năm 1975, giá dầu lên tiền mất giá, đạn tăng giá 27% nên tiền viện trợ chẳng mua được bao nhiêu. Theo ông Cao Văn Viên từ tháng 7-1974 cho tới tháng 4-1975 hỏa lực quân đội VNCH giảm hơn 70%, Trong khi viện trợ quân sự của Cộng Sản quốc tế cho Bắc việt giai đoạn 1973-1975 vẫn không thay đổi mấy so với giai đoạn 1969-1972 .

Lực lượng chính qui BV giai đoạn 1975 (20 sư đoàn) gấp hai lần hồi 1972 (10 sư đoàn), vũ khí đạn dược năm 1975 cũng gấp hai, ba lần 1972.

Ngày 10-3-1975, 3 sư đoàn CSBV tấn công chiếm Ban Mê Thuột. Ngày 11-3-1975 TT Thiệu họp tham mưu cao cấp tại Dinh Độc Lậïp quyết định tái phối trí lực lượng bỏ các vùng cao nguyên để giữ các vùng đông dân cư. Ngày 13-3-75 Quốc Hội Mỹ bác bỏ 300 triệu quân viện bổ túc. Hôm sau ngày 14-3-1975 ông ra lệnh rút bỏ Pleiku, Kontum về Qui nhơn đã dẫn đến thảm bại.

Tại quân khu 1 ông Thiệu cho rút sư đoàn Dù về đưa đi phòng thủ nhiều nơi khác. Ngày 25-3 mất Huế và Chu Lai.  Ngày 27-3 phòng thủ Đà Nẵng trở lên vô hiệu trước sự hỗn loạn của thành phố. Ngày 28-3 Cộng quân pháo vào thành phố gây nhiều  thiệt hại nhân mạng, ngày 29-3 Tướng Trưởng xin lệnh bỏ Đà Nẵng, thành phố lớn thứ hai của Việt Nam coi như thất thủ. Cuối tháng 3-1975 quân khu 1 và 2 coi như lọt vào tay CSBV.

Trước khi phát động  cuộc tổng tấn công Hà Nội lên kế hoạch hai năm 1975 và 1976 để chiếm miền Nam nhưng sau cuộc triệt thoái Cao nguyên và tình hình các quân khu 1 và 2 của VNCH đang trên đà tan rã, Bộ Chính trị BV đã họp ngày 25-3-1975 và khẳng định thời cơ chiến lược mới đã đến, Hà Nội có điều kiện sớm hoàn thành cuộc tổng tiến công xâm lược, tập trung các lực lượng binh khí kỹ thuật giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa.

Theo tài liệu phía CS (hồi ký Văn Tiến Dũng trang 141, 142), BV hối hả chuyên chở bằng cả ba phương tiện thủy, bộ và hàng không để để chuyển vận vũ khí, quân nhu, nhân lực đánh xả láng một ván bài chót. Quân khu 5 của BV tổ chức một đoàn xe chở thẳng vào Nam Bộ tiếp liệu cũng như chiến lợi phẩm vừa lấy được của VNCH, đoàn xe do Thiếu Tướng Võ Thứ, phó Tư lệnh Quân khu 5 chỉ huy. Trong khi ấy các sân bay Gia Lâm, Vĩnh Phú, Đồng Hới, Phú Bài, Đà Nẵng, Kontum nhộn nhịp khác thường, các loại máy bay lên thẳng, vận tải, chở khách đều được huy động để chở người, súng đạn, vũ khí, chở sách báo phim ảnh, tranh, nhạc mà còn chở hàng tấn bản đồ Sài Gòn – Gia Định vừa in xong ở xưởng in Bộ Tổng tham mưu tại Hà Nội.

Các bến sông Hồng, sông Gianh, sông Mã, sông Hàn và các bến cảng Hải Phòng, Cửa Hội, Thuận An, Đà Nẵng ngày đêm nhộn nhịp. Các mặt hàng quân sự được bốc xếp kịp thời lên các đoàn tầu vận tải của Bộ Giao Thông vận tải và tầu Hải Quân nhân dân để đưa vào Nam. Hà Nội huy động hết mọi phương tiện thủy bộ, hàng không để chuyển ra mặt trận một số lượng quân đội và vũ khí lớn chưa từng có.

Ngày 4-4-1975 Phan Rang và Phan Thiết được sáp nhập vào Quân khu 3.

Từ ngày 8-4 -1975 Lê Đức Thọ, trùm CS Bắc Việt chủ tọa phiên họp tại Lộc Ninh với các cán bộ thuộc Trung ương Cục miền Nam và Bộ Tổng tham mưu CS. Thọ tuyên bố thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch giải phóng Sài Gòn Chợ Lớn đặt tên là Chiến Dịch Hồ Chí Minh, Tư lệnh Đại Tướng Văn Tiến Dũng, Chính ủy Phạm Hùng, Phó Tư Lệïnh Thượng Tướng Trần Văn Trà.

BV tấn công Phan Rang ngày 14-4-75 tới ngày 16 thì chiếm được thị xã, hai ngày sau 18-4 Phan Thiết cũng lọt vào tay BV.

Từ ngày 9-4-75 đến 15-4 sư đoàn 18 BB cầm cự anh dũng đẩy lui các đợt tấn công của BV tại Xuân Lộc, Long Khánh, năm ngày sau có lệnh lui binh.

Ngày 18-4 Quốc Hội Mỹ bác bỏ 722 triệu quân viện khẩn cấp do Tổng thống Ford đưa ra. Giới chức ngoại giao quốc tế vận động BV thương thuyết nhưng họ chỉ đòi nói chuyện với ông Dương Văn Minh, yêu cầu TT Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức. Ngày 21-4 ông Thiệu từ chức, phó Tổng thống Trần văn Hương lên thay. Ngày 24-4 ông Thiệu và Thủ tướng Khiêm bỏ nước ra đi.

CSBV đã đưa các quân đoàn vào sát vòng đai phòng thủ Sài Gòn chuẩn bị tấn công, cán cân quân sự nghiêng về phía Bắc Việt.  Theo tài liệu phía CS lực lượng của họ gồm: 4 quân đoàn 1, 2, 3, 4, và đoàn 232,  bao gồm 15 sư đoàn bộ binh, 5 lữ đoàn bộ binh biệt lập, 4 trung đoàn tăng, thiết giáp và 6 trung đoàn đặc công. Quân số tổng cộng khoảng 280 ngàn với 400 xe tăng và 420 pháo. Lực lượng tấn công của BV tương đương với 20 sư đoàn.

Lực lượng VNCH gồm các sư đoàn 25, sư đoàn 5, sư đoàn 18 (bị thiệt hại nhiều sau trận Long Khánh), sư đoàn Biệt động quân 106 mới thành lập, sư đoàn 22 di tản, các lữ đoàn Dù và TQLC di tản, địa phương quân nghĩa quân, toàn bộ tương đương với 5 hoặc 6 Sư đoàn quân với số thiếu hụt. Theo ông Cao văn Viên đạn dược tại Quân khu 3 chỉ còn đủ xài trong khoảng hai tuần lễ (Những Ngày Cuối Của VNCH, trang 92)

Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn 3 VNCH khi ấy đã tổ chức phòng thủ Sài Gòn trên 5 tuyến chính với khoảng cách tới trung tâm thành phố xa hơn tầm pháo của đại bác 130 ly của BV đồng thời bảo vệ các căn cứ quan trọng tại Biên Hòa, Củ chi, Lai Khê, Long Bình.

Phía Tây Bắc là Tuyến Củ Chi với Sư đoàn 25 bộ binh (BB) và hai Liên đoàn 8, 9 Biệt động quân. Tuyến Bình Dương ở phía Bắc với Sư đoàn 5 BB. Tuyến Biên Hòa phía Đông Bắc với Sư đoàn 18 BB và lực lượng Xung kích Quân đoàn 3. Tuyến Vũng Tầu và Quốc lộ 15 do Lữ đoàn 1 Dù cùng với một Tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 3 BB và các đơn vị Thiết giáp, ĐPQ, Nghĩa quân của Tiểu khu Phước Tuy phụ trách. Tuyến Long An phía Nam ngoài lực lượng ĐPQ, Nghĩa quân cơ hữu còn  có Sư đoàn 22 BB phụ trách cộng với sự tăng cường của Trung đoàn 12 thuộc Sư đoàn 7 BB, Trung đoàn 14 thuộc Sư đoàn 9 BB và Liên  đoàn 6 BĐQ.

Năm tuyến phòng thủ chính của VNCH cũng trùng với 5 hướng tấn công của năm Quân đoàn CSBV.

Ngày 26-4-1975 CSBV đã bắt đầu tấn công vào Trường Thiết Giáp Long Thành, căn cứ Nước Trong, đặc công tấn công Tân cảng , cầu xa lộ, đài ra đa Phú Lâm nhưng họ thất bại, bị đẩy lui. Bắc Việt đã cho mở chiến dịch Hồ Chí Minh từ 26-4, hai ngày trước khi ông Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống chứng tỏ họ không đếm xỉa gì tới việc thương thuyết.

Ngày 27-4 tại nghị trường Diên Hồng lưỡng viện quốc hội họp bỏ phiếu thuận trao quyền Tổng thống cho Tướng Dương Văn Minh. Sáng ngày 27-4 Sư đoàn 3 BV tấn công chiếm Phước Lễ, Lữ đoàn Dù rút về Vũng Tầu, Sư đoàn 18 được lệnh lui về giữ Trảng Bom. Phía Tây các căn cứ dọc theo Vàm Cỏ Đông lần lượt bị Cộng quân chiếm. BV pháo phi trường Biên Hòa dữ dội, Sư đoàn 3 Không quân phải di tản về Tân Sơn Nhất và Cần thơ. Phía Tây Nam Đoàn 232 CS (gồm 3 Sư đoàn) cắt Quốc lộ 4 nhiều nơi để chận viện binh từ Quân khu 4, phía Bắc Quân đoàn 1 CSBV tiến về Thủ Đầu Một, phía Tây Bắc Quân đoàn 3 BV cắt Quốc lộï 1 và 21 để chặn đường rút của Sư đoàn 25 BB.

Chiều ngày 28-4 -1975 Đại Tướng Dương Văn Minh tuyên thệ nhậm chức Tổng thống tại dinh Độc Lập. Chừng một tiếng sau, trung úy phi công nằm vùng Nguyễn Thành Trung hướng dẫn năm phi cơ A-37 của VNCH do BV chiếm được ném bom phi trường Tân Sơn Nhất rung chuyển cả trời đất khiến dân chúng Đô Thành hốt hoảng.

Từ 4 giờ sáng ngày 29-4 Bộ TTM, phi trường Tân Sơn nhất, BTL Hải quân bị pháo kích nhiều. Cộng quân chiếm được Nhơn Trạch đặt hai khẩu 130 ly pháo 300 quả vào Tân Sơn Nhất gây nhiều thiệt hại. Các bãi đậu phi cơ, bồn chứa nhiên liệu, kho đạn bị trúng pháo kích gây nhiều đám cháy lớn. Sư đoàn 325 BV chiếm Nhơn Trạch, thành Tuy Hạ, tiến về Cát Lái. Sư đoàn 304 chiếm căn cứ Nước Trong.

Trong khi ấy ông Dương văn Minh cử ba người sứ giả đến trại David tại Tân Sơn Nhất để thương thuyết ngưng bắn với phái đoàn Quân sự VC nhưng bị Đại tá Võ Đông Giang bác bỏ.

Sáng ngày 29-4 Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đọc Văn thư của Tổng thống Dương Văn Minh yêu cầu cơ quan Tùy viên quân sự DAO phải rút lui trong vòng 24 giờ đồng hồ. Ngay sau đó đoàn trực thăng gồm 81 chiếc từ hạm đội vào phi trường Tân Sơn Nhất, tòa Đại Sứ Mỹ,  một số cao ốc… để di tản hơn 1,000 người Mỹ và khoảng 6,000 người Việt ra ngoài hạm đội sau 19 giờ bay liên tục.

Trưa ngày 29-4 các vị Tướng lãnh có thẩm quyền tại Bộ Tổng tham mưu và Biệt khu Thủ đô đều đã “tẩu vi thượng sách”. Khoảng 3 giờ chiều, ông Dương Văn Minh cử một số Tướng lãnh và cựu Tướng lãnh vào làm việc tại BTTM: Trung tướng Vĩnh Lộc Tổng tham mưu trưởng, Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh phụ tá, Lâm Văn Phát Tư Lệnh Biệt Khu Thủ đô. Chiều 29-4 Trung Tướng Vĩnh Lộc họp các Tướng lãnh, sĩ quan cao cấp còn sót lại và kêu gọi mọi người cố gắng hoàn tất trách nhiệm. Tối 29-4 ông Dương Văn Minh vẫn kêu gọi các lực lượng Quân đội VNCH trên đài phát thanh, lời kêu gọi lập đi lập lại suốt đêm.

“Các vị Tư lệnh Quân đoàn, Sư đoàn hãy giữ vững vị trí và chờ lệnh mới”

Tân Tổng Tham mưu trưởng Vĩnh Lộc lớn tiếng chỉ trích TT Thiệu và kêu gọi anh em binh sĩ giữ vững phòng tuyến.

“…Hắn đã để cho cả một đạo quân tháo chạy như một lũ chuột, chính y gây ra thảm trạng này và bây giờ cũng chính y là người bỏ trốn.”

Theo lời kể của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, Tư lệnh lực lượng xung kích Quân đoàn 3, vào lúc 12 giờ trưa ngày 29-4-1975, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn triệu tập một phiên họp khẩn cấp tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 tại Long Bình, chỉ có ba ông: Tướng Toàn, Tướng Khôi và Tướng Lê Minh Đảo (Tư lệnh sư đoàn 18). Tướng Toàn ban lệnh cho Tướng Đảo bảo vệ Long Bình, Tướng Khôi bảo vệ Biên Hòa. Khi ấy Sư đoàn 25 BB tại Củ Chi đã bị đánh tan, Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá bị bắt nhưng Tướng Toàn dấu không cho Tướng Khôi và Tướng Đảo biết. Sau đó Tướng Toàn sắp xếp để bỏ trốn bằng trực thăng ra Vũng Tầu cùng các Tướng Lãm, Tướng Hiệp lên tầu đánh cá ra khơi

Buổi chiều 29-4 Bộ Tư lệnh Hải quân và Không quân di tản. Một Liên đoàn BĐQ tại Bến Tranh Bắc Mỹ Tho được lệnh trực thăng vận về Cần Đước ngăn chận Việt Cộng trên liên tỉnh lộ 5A nhưng không có trực thăng, do đó Chợ Lớn được coi như bỏ ngỏ.

Mười giờ tối 29-4 Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi liên lạc với Bộ Tổng Tham mưu, Trung tướng Nguyễn Hữu Có trả lời cho biết ông đang ở bên cạnh Đại tướng Dương Văn Minh (tại dinh Độc Lập)

“Đến 22 giờ 10 có chuông điện thoại reo Trung Tướng Nguyễn Hữu Có gọi tôi ở đầu giây:

– Tôi là Trung Tướng Có đây, tôi đang ở bên cạnh Đại Tướng, anh cho chúng tôi biết tình hình ở Biên Hòa như thế nào?

– Thưa Trung tướng tôi giữ thị xã Biên Hòa, Đảo giữ Long Bình, Toàn đã bỏ chạy, phi trường Biên Hòa bị địch chiếm, áp lực địch rất nặng ở hướng Bắc và Đông Biên Hòa.

1, 2, 3 phút trôi qua, ở đầu giây Tướng Có nói tiếp:

– Đại Tướng hỏi anh có thể giữ vững Biên Hòa đến 8 giờ sáng mai, để Đại Tướng nói chuyện với bên kia được không?

Tôi trả lời không do dự.

– Được, tôi có thể giữ vững Biên Hòa đến 08 giờ sáng mai”

Trong máy điện thoại, tôi nghe văng vẳng tiếng nói của Tướng Có báo cáo lại với Đại Tướng Minh. Cuối cùng Tướng Có nói:

– Lệnh của Đại Tướng cho anh: Chỉ huy phòng thủ bảo vệ Biên Hòa đến 08 giờ sáng ngày 30-4-1975. Chúc anh thành công

Tôi đáp nhận.

Trích trong Chiến Đấu Đến Cùng: Vai Trò Của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh…

Khoảng gần 2 giờ sáng 30-4 BV pháo kích thị xã Biên Hòa dữ dội rồi tập trung một lực lượng hỗn hợp bộ binh chiến xa cấp trung đoàn từ Ngã ba Hố Nai-Xa Lộ tấn công về hướng Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 3. Khi ấy Chiến đoàn 315 VNCH của trung tá Đỗ Đức Thảo xông ra chận địch, hỏa lực chiến xa M-48 áp đảo Cộng quân, giao tranh quyết liệt, một số T-54 bị bắn cháy, địch phải rút. Lúc 2 giờ sáng Tướng Lê Minh Đảo cho biết

Long Bình đã bị tràn ngập phải rút về nghĩa trang quân đội rồi về hướng Thủ Đức.

Khoảng 3 giờ sáng BV lại pháo kích Biên Hòa rất  mạnh và chính xác, Tướng Khôi đoán Cộng quân sẽ tấn công dứt điểm Biên Hòa và ông đã chuẩn bị tung cả ba chiến đoàn Thiết giáp vào trận đánh quyết định. Thật bất ngờ Cộng quân đưa chiến xa dẫn đầu, bộ binh theo sau liền bị Chiến đoàn 315 đánh chận đầu và bọc sườn khiến họ phải rút chạy ngược ra xa lộ, từ đó Biên Hòa yên tĩnh.

Phía Bắc, căn cứ Lai Khê của Sư đoàn 5 bị địch pháo kích dữ dội, quận Bến Cát bị tấn công.

Phía Tây hai  Liên đoàn 8, 9 BĐQ bị thiệt hại nặng, VC bỏ xác cả trăm người cùng 18 xe tăng bị bắn cháy, Quốc lộ 1 giữa Sài Gòn và Củ Chi bị gián đoạn.

Sư đoàn 22 BB vẫn làm chủ được tình hình phía Nam mặc dù bị tấn công.

Ngày 30-4 Trung đoàn 24 BV (SĐ 10) giao tranh ác liệt với quân Dù tại Ngã Tư Bẩy Hiền và Lăng Cha Cả, Cộng quân  bị thiệt hại nặng tới 50% quân số.  BV tấn công trại Hoàng Hoa Thám, BTL không quân. BV xâm nhập Ngã Tư Bẩy Hiền, trong vòng 15 phút có 6 chiến  xa bị Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù bắn hạ, họ bị chận đánh tơi bời phải rút khỏi ngã tư Bẩy Hiền.

Theo Tướng Hoàng Lạc, ông Dương Văn Minh lại cử người tới trại David Tân Sơn Nhất để thương thuyết với CS thuộc phái đoàn bốn bên  xem có vớt vát được tí nào không nhưng họ vẫn một mực đòi phải buông súng đầu hàng nếu không sẽ pháo kích tan nát thành phố. Sài Gòn bây giờ đang nằm trong tầm pháo của Cộng quân. Phòng tuyến đã dần dần sụp đổ dưới các đợt tấn công, pháo kích của BV, họ đã vào sát thành phố.

Theo lời Tướng Khôi, 8 giờ sáng ngày 30-4-1975 tại Biên Hòa, liên lạc với BTTM nhưng không được, ông bèn họp các lữ đoàn trưởng, liên đoàn trưởng, chiến đoàn trưởng để trao đổi tin tức, thảo luận tình hình mặt trận, tinh thần binh sĩ rất tốt, không có ai đào ngũ, các sĩ quan thi hành quân lệnh nghiêm chỉnh. Nửa giờ sau, Tướng Khôi kết luận buổi họp, ông cho rằng Biên Hòa không còn là mục tiêu tấn công của CSBV, họ bỏ Biên Hòa tập trung lực lượng tấn công Sài Gòn. Tướng Khôi bèn ban lệnh hành quân điều động các đơn vị của Lực Lượng Xung Kích như Biệt Cách Dù, tiểu đoàn Dù, Lữ đoàn TQLC, lữ đoàn kỵ binh, các chiến đoàn 315, 322, 318 tiến về Sài Gòn theo đường xe lửa Biên Hòa-SàiGòn và xa lộ Đại Hàn để cứu nguy Thủ đô.

Tướng Khôi duyệt đoàn quân lần cuối, các đơn vị VNCH rời Biên Hòa trong trật tự, trang phục chỉnh tề, tác phong nghiêm chỉnh, không hề nao núng, giống y như những lần hành quân trước đây khi còn Đại Tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy xông trận trên chiến trường Campuchia. Sau đó ông lên trực thăng quan sát thấy tình hình yên tĩnh, các cánh quân ta tiến đều đặn về hướng về Sài Gòn, những ổ kháng cự của địch bên trục tiến quân bị đè bẹp ngay, khi ấy là 9 giờ sáng ngày 30-4-1975. Tướng Khôi bay về hướng Gò vấp, từ trên cao nhìn xuống thấy những đoàn quân xa chở đầy lính, những xe tăng, xe kéo pháo của CSBV như những con rắn dài trên xa lộ Biên Hòa và trên Quốc lộ 13 bò vào Sài Gòn. Tướng Khôi đáp trực thăng xuống trại Phù Đổng để liên lạc với BTTM, các cánh quân thiết giáp của ông vừa đến cầu Bình Triệu gần khu nhà thờ Fatima. Khi nghe máy thu thanh phát ra lời kêu gọi ngưng chiến đấu của Tổng thống Dương Văn Minh, ông để cho các đơn vị tự động buông vũ khí và chấm dứt quyền chỉ huy của mình.

Lúc 10 giờ 30, TT Dương Văn Minh trên radio lệnh cho sĩ quan các cấp hãy liên lạc với các đơn vị Cộng Hòa Miền Nam nơi gần nhất để giao nạp vũ khí, thực hiện ngưng bắn tại chỗ trong khi ông và chính phủ đang chờ các nhà lãnh đạo Cộng Hòa Miền Nam tới để bàn giao quyền hành tránh đổ máu vô ích. Chuẩn Tướng Nguyễn hữu Hạnh phó Tổng tham mưu trưởng cũng kêu gọi các cấp sĩ quan liên lạc các đơn vị CHMN nơi gần nhất để giao nạp vũ khí. Một giờ sau xe tăng BV vào dinh Độc Lập, họ buộc ông Dương Văn Minh phải lên đài phát thanh Sài Gòn tuyên bố đầu hàng.

Các tài liệu Mỹ (Vietnam, A History; The World Almanac Of The Vietnam War) đều nói Bùi Tín là người đại diện CSBV vào tiếp thu dinh Độc Lập. Nay phía CS đưa ra rất nhiều nguồn tin khác nhau về cuộc tiếp thu này, có người nói Bùi Văn Tùng chính uỷ thiết giáp là người đã tiếp thu, có người nói Cao Đăng Chiếm, có người nói Đại tá Nam Long…. Đối với chúng ta những nguồn tin ấy cũng chẳng có gì đáng bàn.

Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân khu 2 sau khi nghe tin đầu hàng bèn uống thuốc độc tự sát. Tại Căn cứ Lai Khê, Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh Sư đoàn 5 tự sát.

Quân khu 4 vẫn còn nguyên vẹn 3 Sư đoàn bộ binh 7, 9, 21 và gần 200,000 Địa phương quân, Nghĩa quân. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam Tư lệnh Quân Khu 4 không cho giật sập cầu Long An như Tỉnh trưởng đề nghị.

Theo lời kể của Trung uý Lê Ngọc Danh, tùy viên của Tướng Nam thì ông là người nhân ái, sùng đạo Phật không muốn đổ máu thêm.

“Là một tư lệnh Quân đoàn, đã nắm trong tay nhiều đơn vị trung thành, tướng Nguyễn Khoa Nam có thể ra lệnh tiếp tục chiến đấu, nhưng là vị tướng có lòng nhân ái, không muốn binh sĩ và đồng bào đổ máu vô ích, ông không cho phá cầu, ông không muốn có người chết thêm”

Trích trong “Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam”, Bút ký của Trung úy Lê Ngọc Danh.

Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh phó tự sát chiều tối 30-4, hôm sau 1-5 Tướng Nam cũng tự sát lúc 7 giờ 30 sáng, Chuẩn tướng Trần Văn Hai Tư lệnh Sư đoàn 7 cũng tuẫn tiết.

Ngày 30-4-1975 kết thúc cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ khởi đầu từ nửa đêm 19-12-1946 khi Võ Nguyên Giáp ra lệnh tấn công quân Pháp tại Hà Nội. Trước đây tại các nước phương Tây cũng như tại Mỹ, những cuộc biểu tình rầm rộ chống chiến tranh, kết án chính sách xâm lược của Mỹ, đòi hòa bình cho Việt Nam nhưng không thấy ai đòi CSVN rút quân về Bắc thực hiện đình chiến. Nay CSBV xé bỏ Hiệp Định Paris mới ký chưa ráo mực, xua đại binh công khai xâm lược miền Nam trước mắt quốc tế, trước mắt những nước đã ký kết và công nhận Hiệp định Paris. Nay thì cả thế giới cứ trơ mắt ếch ra mà nhìn chẳng thấy ai nói đến công bằng hợp tình hợp lý, như thế thì công bằng ở chỗ nào?

Mười năm sau chiến tranh, năm 1985 cựu Đại Sứ Mỹ Martin đã cho Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng coi bức thư của Tổng thống Dương Văn Minh gửi Martin do một sĩ quan trẻ từ Dinh Độc Lập mang qua sáng ngày 29-4-1975. Bức thư yêu cầu cơ quan DAO rút lui trong vòng 24 giờ đồng. Ông NT Hưng cho rằng đây là một tài liệu lịch sử, văn kiện cuối cùng của VNCH gửi Mỹ, bức thư được in lại trong cuốn Khi Đồng Minh Tháo Chạy trang 393 như sau:

Góc bên trái đề: VNCH, Phủ TT, Số 033-TT/VT

Giữa văn thư ghi:

Mật Hỏa Tốc.

Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa

Kính Gủi Ông Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam.

Thưa ông Đại Sứ.

Tôi trân trọng yêu cầu ông Đại Sứ vui lòng ra chỉ thị cho các nhân viên của Cơ quan Tùy Viên Quốc Phòng DAO rời khỏi Việt nam trong vòng 24 giờ đồng hồ kể từ ngày 29-4-1975 để vấn đề hòa bình Việt Nam sớm được giải quyết.

Trân trọng kính chào ông Đại Sứ.

Sài Gòn ngày 28-4-1975

Đại Tướng Dương Văn Minh

Mật

GS Nguyễn Tiến Hưng có nói thêm:

“Bình luận về thư này Kissinger nói thẳng ra: Vì lịch trình này trùng hợp với lịch trình rút  lui của chúng tôi, nó đã thực sự giúp cho chúng tôi tháo ra mà không bị chỉ trích là Mỹ đã bỏ rơi đồng minh của mình”

(Trang 394)

Khi Martin nhận thư của ông Dương Văn Minh, ông sai cô Eva Kim đánh thư trả lời Tổng thống Dương Văn Minh.

“Kính Thưa Tổng Thống.

Tôi vừa nhận đượïc thư của Ngài đề ngày 28-4 yêu cầu tôi ra chỉ thị ngay cho các nhân viên của Cơ quan Tùy Viên Quốc Phòng DAO rời khỏi Việt Nam trong 24 giờ đồng hồ.

Tôi xin thông báo để Ngài hay là tôi đã ra chỉ thị như Ngài yêu cầu. Tôi tin rằng Ngài sẽ ra lệnh cho quân đội của chính phủ Ngài cộng tác bằng mọi cách để làm dễ dàng cho việc di chuyển các nhân viên DAO.

Tôi cũng hy vọng Ngài sẽ can thiệp với phía bên kia (phía Bắc Việt) để Tùy Viên Quốc Phòng và nhân viên của ông ta được ra đi an toàn và trật tự”

Trân trọng

Graham Martin, Đại sứ Hoa Kỳ.

(Trang 394)

Cũng về giai thoại ông Dương Văn Minh yêu cầu Mỹ rời Việt Nam trong vòng 24 giờ, cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa có kể lại trong bài Giờ Thứ 25: theo đó cựïu Đại Tá Nguyễn Linh Chiêu, bạn cũ của ông Dương Văn Minh đã kể lại ngày 15-11-1991 tại nhà riêng của ông Chiêu ở Orange County, ông cho biết đã có dịp tiếp xúc với ông Dương Văn Minh tại Paris đầu năm 1991.

“Toàn bộ câu chuyện ngắn đó có đoạn cựu Đại tá Chiêu hỏi cựu Tổng Thống Dương Văn Minh.

– Tại sao anh mới nhận chức Tổng Thống mà anh ra lệnh đuổi Mỹ về nước?

– ‘Moa’ không đuổi Mỹ. Bản văn đuổi Mỹ là do Đại Sứ Martin (Hoa Kỳ) đưa cho ‘Moa’ và yêu cầu ‘Moa’ phổ biến.

Phần cuối câu chuyện chỉ có thế nhưng nó cho thấy Hoa Kỳ đã an bài chiến tranh chống Cộng của Việt Nam Cộng Hòa chúng ta đến tận cùng chi tiết. Vì vậy mà chúng ta không ngạc nhiên khi bản văn “đuổi Mỹ” vừa phát đi trên làn sóng đài phát thanh Sài Gòn thì từng đoàn trực thăng Hoa Kỳ thuộc Hạm Đội 7 của họ từ ngoài khơi Thái Bình Dương ào ào vào sài Gòn, cứ như các trực thăng đó túc trực ứng chiến trên đường bay của của Hàng Không Mẫu Hạm vậy”

Trích trong Đôi Giòng Ghi Nhớ, Hồi ký của cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa.

Nay dần dần nhiều bí mật quốc gia đã được tiết lộ, nhờ đó chúng ta mới thấy tất cả chỉ là một tấn tuồng hề lịch sử, thật hết nước nói.

Ngoài ra, sau ngày 30-4-1975, ông Nguyễn Văn Thành cựu Tổng thư ký phủ Phó Tổng thống tiết lộ khoảng hạ tuần tháng 4-1975, Ông Trần Văn Hương gặp ông Thiệu ở dinh Độc Lập về nói cho ông Thành biết là ông Đại sứ Mỹ nhờ Đại Sứ Anh nói với ông Thiệu hãy bàn giao chức Tổng  thống cho ông Hương để ông Hương bàn giao cho ông Dương Văn Minh. Ông Hương rất bực tức nhưng không từ chối được.

Theo GS Nguyễn Tiến Hưng người Mỹ tin là Hà Nội mới đầu có ý thương thuyết sau lại thôi.

“Bắc Việt đổi ý đêm 27-4.

Tại Sài Gòn theo Đại Sứ Martin, tuy là hồi tháng ba ông đã có tin tình báo là Hà Nội đã quyết định đi tới một chiến thắng hoàn toàn quân sự , nhưng cả ông và Polgar không đặt nặng sự chính xác của bản tin này.Theo ông lý do là vì cùng một lúc đó lại có thông tin từ phía đại diện của Mặt Trận Giải Phóng bên Âu châu, một từ  Stocholm (Thụy Điển) và một từ Paris, cả hai đều cho biết rằng họ cũng muốn có một giải pháp chính trị. Ngoài ra Martin còn suy luận như đã trình bầy ở trên, là chính Hà Nội cũng muốn  một giải pháp chính trị để kết thúc một cách êm đẹp vì họ còn muốn nhận được viện trợ của quốc tế sau này.

Thế nhưng theo ông “Không hiểu vì một lý do nào đó, đêm ngày 27-4, Bắc Việt đã bất chợt thay đổi tín hiệu, quyết định chọn giải pháp hoàn toàn quân sự và như  vậy giải pháp chính trị đã không còn nữa” về điểm này chính Kissinger cũng đã xác nhận trong một cuộc họp báo ngày 5 tháng 5, 1975 rằng cho tới ngày 27-4, Hoa Kỳ vẫn có nhiều hy vọng Hà Nội không định đi tới một chiến thắng hoàn toàn quân sự và còn muốn điều đình với ông Dương Văn Minh .

Khi Đồng Minh Tháo Chạy trang 390-391.

Người Mỹ giả bộ ngây thơ khéo lắm, với cán cân lực lượng quân sự vào những ngày 26 và 27-4-1975 nghiêng hẳn về phía Bắc Việt, họ lại muốn thương thuyết với ông Dương Văn Minh và trong khi VNCH chỉ còn đạn đủ đánh trong mười mấy ngày? Khi cơm đã tới miệng rồi CS lại không chịu xơi? Lịch sử đã cho thấy CS chỉ chịu thương thuyết khi họ đang ở thế yếu thí dụ tại Hà Nội 1945.

Từ sau ngày ký Hiệp Định Ba Lê đến tháng 10-1973 tình hình tương đối yên tĩnh. Tháng 6-1973 Quốc hội Mỹ biểu quyết cắt ngân khoản cho tất cả các họạt động quân sự Mỹ tại Đông Dương Việt, Miên, Lào. Tháng 10-1973 Quốc Hội ra đạo luật hạn chế quyền Tổng Thống về chiến tranh (War Powers Act), Tổng Thống phải tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến.

Đánh hơi thấy Mỹ bỏ Đông Dương, Bắc Việt bèn thay đổi đường lối đấu tranh từ chính trị sang quân sự bạo lực. Đại Hội 21 của Bộ Chính Trị tại Hà Nội trong tháng 10 quyết định đấu tranh quân sự, trước hết tiến đánh các đồn bót lẻ tẻ, phát triển tuyến đường xa lộ Đông Trường Sơn.

Sau khi ký Hiệp định Paris, Hà Nội cho khởi công xây tuyến đường xa lộ Đông Trường Sơn hay hành lang 613, song song với đường mòn Hồ Chí Minh nhưng nằm trong địa phận Việt Nam Cộng Hòa từ Đồng Hới cho tới Lộc Ninh, đến đầu 1975 thì công trình hoàn thành dài 1,200 km. Dọc theo Đông Trường Sơn là hệ thống dẫn dầu từ Quảng Trị qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh.

Họ đã xử dụng 16 ngàn xe vận tải để chuyên chở binh khí, kỹ thuật, đạn dược, lương thực chuẩn bị cho chiến trường miền Nam trong hai năm 1973 và 1974. Chiều dài toàn bộ hệ thống chiến lược Trường Sơn tới 1975 là 16,000 km gồm 5 hệ thống đường trục dài 5,500 km, 21 đường trục ngang dài 1,020 km, một đường hệ thống dẫn dầu dài 5,000 km.

Như thế BV đã chuẩn bị cho kế hoạch đánh chiếm miền Nam bằng quân sự từ sau Hiệp định Paris, khó có thể tin rằng họ muốn thương thuyết bằng giải pháp chính trị như người Mỹ lầm tưởng hoặc giả vờ lầm tưởng

Do sai lầm trong kế hoạch tái phối trí lực lượng của TT Thiệu, Quân khu 1 và 2 đã lọt vào tay CS nhanh chóng cuối tháng 3-1975, miền Nam mất khoảng hơn 40% vũ khí đạn dược, mất 40% các đơn vị tinh nhuệ, thiện chiến, thiệt hại khoảng trên 700 khẩu pháo, trên 800 thiết giáp, các kho đạn, tiếp liệu tại miền Trung mất hết, một phần lớn lọt vào tay BV. Trước tình hình này, trong tháng 4-1975 miền Nam không còn một tia hy vọng tồn tại ngoại trừ sự yểm trợ của B-52.

Hạ tuần tháng 4-1975, BV đưa nốt 3 Sư đoàn tổng trừ bị thuộc quân đoàn 1 vào Nam nâng tổng số lên gần 20 Sư đoàn với quân số bổ sung  đầy đủ  bao vây Sài Gòn chặt chẽ (Toàn bộ lực lượng BV gồm 4 quân đoàn 1, 2, 3, 4, và đoàn 232 tổng cộng  15 Sư đoàn bộ binh, 6 trung đoàn đặc công, trên mười trung đoàn độc lập) trong khi phòng tuyến bảo vệ VNCH  chỉ có khoảng chưa tới 6 Sư đoàn với quân số thiếu hụt. Trước sự chênh lệch quá nhiều cả về vũ khí đạn dược và quân số như vậy tại sao BV lại phải thương thuyết với Dương Văn Minh? Theo ông Trần Văn Đôn trong hồi ký Việt Nam Nhân Chứng,  Đại Sứ Martin cho biết Hà Nội chỉ muốn nói chuyện với ông Dương Văn Minh mà thôi.

Khoảng 22, 23 – 4-1975, Cộng quân pháo kích 4 hỏa tiễn  120 ly nổ long trời vào Khánh Hội gây nhiều đám cháy lớn, đài BBC cho biết họ cảnh cáo chính phủ Sài Gòn  phải bàn giao cho một chính quyền do họ chỉ định. BV cương quyết đòi ông Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương phải từ chức bàn giao cho Dương Văn Minh để đánh lạc hướng, họ không muốn chính quyền Sài Gòn trong tay những người có lập trường cứng rắn như các ông Thiệu, Hương vì BV sẽ phải tổn thất nhiều mới chiếm được một thành phố Sài Gòn tan nát. Với chính phủ ôn hòa Dương Văn Minh, cường độ chiến tranh sẽ nhẹ hơn, họ sẽ  dễ dàng chiến thắng, chúng ta đã thấy từ ngày 26-4-1975, trước khi Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống, Cộng quân đã bắt đầu mở chiến dịch Hồ chí Minh, họ không đếm xỉa gì tới thương thuyết.

Người Mỹ cũng vờ vĩnh giàn xếp tìm giải pháp thỏa hiệp để ru ngủ dân Sài Gòn ngõ hầu ra đi êm thắm, họ cũng vờ nói vài câu nhân nghĩa, sự thực có mất gì một lời nói.

Ông Trần Bình Nam đã tóm tắt một tài liệu của CIA giải mật ngày 19-2-2009, dài 243 trang (CIA and the generals: Covert Support to the military government in South Vietnam) đăng trên báo điện tử Danchimviet.com, tuy nhiên Trần Bình Nam cũng cho biết, các tài liệu nhất là tình báo không hoàn toàn trung thực, chúng tôi xin trích một số đoạn dưới đây từ bài CIA Và Các Ông Tướng, Chương 9 – Tìm Lối Đầu Hàng Và Di Tản.

Dưới đây là đoạn nói về BV quyết định dùng quân sự.

“Ngày 16-4 quân đội Bắc Việt chiếm Phan Rang…….. Tin tình báo của CIA từ Hà Nội xác nhận tin  đã biết rằng Hà Nội quyết định chiếm Sài Gòn bằng vũ lực càng sớm càng tốt, chậm lắm là trước ngày sinh nhật của ông Hồ Chí Minh 19-6“

Nói về việc bàn giao Tổng thống 28-4 dưới đây.

“Sự nhậm chức của Minh không thay đổi gì kế hoạch của Hà Nội kết thức chiến tranh bằng vũ lực như nguồn tin tình báo từ Hà Nội đã cho biết”

Đoạn nói về Tướng Minh cử người ra Hà Nội thương thuyết khoảng 24, 25, 26-4, về điểm này có khác với nguồn tin báo chí Sài Gòn hồi ấy (4-1975) cho biết miền Nam (ông Minh) đề nghị cử một bộ trưởng ra Bắc nhưng bị Hà Nội bác bỏ.

“Phe tướng Minh cũng ráo riết chuẩn bị. Minh gửi hai phụ tá sang Paris gặp phái đoàn Bắc Việt và xin gửi một phái đoàn ra Hà Nội. Đại diện Hà Nội trong Uỷ ban Quân sự bốn bên đề nghị phương tiện di chuyển với phái đoàn Hoa Kỳ, và Hoa Kỳ cho một máy bay đặc biệt đưa phái đoàn của Minh ra Bắc”

Đoạn dưới đây cho thấy Mỹ sắp xếp để Sài Gòn đầu hàng, chẳng thế mà khi ông Dương Văn Minh vừa lên làm Tổng thống, đài BBC đã nói trắng ra là để đầu hàng.

“Ngày 18-4 Hanos G Toth, một đại tá người Hungary trong phái đoàn quốc tế kiểm soát đình chiến gặp Polgar (CIA) và cho biết qua các cuộc nói chuyện với phái đoàn Hà Nội ông ghi nhận rằng Hà Nội chỉ muốn tăng sức ép để Sài Gòn sụp dần chứ không muốn có  một cuộc tấn công quân sự để kềt thúc chế độ. . . . Toth nói Hungary từng nếm mùi thất trận và tàn phá nên không muốn thấy Sài Gòn bị tàn phá như Berlin năm 1945. Polgar hiểu đây là lời nhắn của Hà Nội nên bên cạnh việc di tản, Polgar và đại sứ Martin lo tìm cách thuyết phục Thiệu từ chức và thành lập một chính phủ liên hiệp gồm các thành phần thiên Cộng để đầu hàng “

Nói chung hồ sơ giải mật trên cũng không mới lạ gì cho lắm, qua một số đoạn trích dẫn chúng ta thấy BV giả vờ thương thuyết để làm cho chính quyền Sài Gòn sớm tan rã. Còn phía Hoa Kỳ thì rõ ràng là họ sắp xếp đưa Dương Văn Minh lên để đầu hàng cho được việc nhà nước. Chẳng qua Dương Văn Minh cũng chỉ là quân cờ của Mỹ như Nguyễn Văn Thiệu mà thôi.

Kết Luận

Trong phần kết luận cuốn Những Ngày Cuối Của VNCH, cựu Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên cho rằng cấp lãnh đạo VNCH không nhận  thấy rõ sự thay đổi chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ khi họ chuyển sang thỏa hiệp hòa hoãn với Trung Cộng, Nga Sô. Vì vậy lãnh đạo VNCH đã không uyển chuyển thay đổi chính sách quốc gia cho phù hợp với tình thế mà vẫn tin tưởng vào những lời hứa hẹn xa vời của người Mỹ.

Cựu Tướng Viên cho thấy ông Thiệu sai lầm ở chỗ vẫn theo đuổi kế hoạch quân sự cứng rắn mà theo ông nó đã lỗi thời vì Hoa Kỳ đã thay đổi chính sách, thỏa hiệp với Cộng Sản quốc tế. Theo Tướng Viên ông Thiệu đúng ra phải uyển chuyển thay đổi kế hoạch quốc gia có nghĩa là nên thương thuyết với BV sau khi ký hiệp định Paris. Ông Thiệu đã sai lầm về chính trị mà cả về quân sự, như chúng ta đều đã biết kế hoạch tái phối trí lực lượng của ông để rút bỏ Quân khu 1 và 2  đã đưa tới sụp đổ tan tành.

Ông Cao Văn Viên cho rằng sau Hiệp định Paris 27-1-1973, VNCH cần phải uyển chuyển thay đổi kế hoạch quốc gia, như vậy con đường thương thuyết, hòa giải của ông Dương Văn Minh được coi như phù hợp với thực trạng và tình thế nhưng chua chát thay ông ta lại không đủ khả năng để làm chuyện ấy. Hẳn ai cũng  đều đã biết sau ngày 1-11-1963, Dương Văn Minh đã nắm quyền Quốc trưởng, cờ đến tay mà còn chẳng phất được thì thử hỏi với tình hình bấp bênh như “trứng đứng đầu gậy” tháng 4-1975, ông có thể làm gì hơn được?

Nhiều người cho rằng Tổng thống Nixon và phụ tá Kissinger ép buộc VNCH ký kết hiệp định Paris đưa tới sụp đổ miền Nam, nay nhiều bí mật đã được tiết lộ, việc cắt giảm quân viện tới xương tuỷ mới là nguyên nhân chính. Bản tin Việt Ngữ đài VOA ngày 2-7-2007 nói cựu bộ trưởng quốc phòng Laird thời Nixon lên tiếng cho biết VNCH thua trận vì bị Mỹ cắt viện trợ.

CSVN đã tiết lộ trong một buổi hội thảo qui mô tại Sài Gòn ngày 14-4 và 15-4-2006 (theo BBC.com) trong giai đoạn 1961-1964 CS quốc tế viện trợ cho miền Bắc 70,295 tấn hàng quân sự, mười năm sau giai đoạn 1973-1975 viện trợ ấy đã tăng lên 724,512 tấn, gấp hơn 10 lần.

Trong khi ấy tiền quân viện của Mỹ cho miền Nam giảm dần

– Tài khóa 1973: hai tỷ mốt (2,1 tỷ)

– Tài khóa 1974: một tỷ tư (1,4 tỷ)

– Tài khóa 1975: bẩy trăm triệu (0,7 tỷ).

Trong khi đó thì cuộc khủng hoảng dầu lửa đã làm giá săng nhớt tăng gấp bốn. Bởi vậy mãi lực thật của ngân khoản ấy chỉ là trên dưới 350 triệu.

Khoản quân viện 350 triệu hồi 1975 còn thua kém quân viện 1963 (384 triệu) chút đỉnh. So sánh viện trợ quân sự cho miền Bắc và miền Nam ta có thể đoán đã có sự xếp đặt ngầm của các siêu cường.

Nay người ta nhìn nhận phản chiến hay cuộc chiến tại đất nhà là nguyên do chính đưa tới cắt giảm viện trợ bỏ Đông Dương vì nó đã thúc đẩy Quốc hội trói tay chính phủ. Lập pháp Hoa Kỳ dựa vào lá phiếu của người dân, nay phong trào phản chiến đã nắm được Quốc hội, chúng ta không lấy làm lạ việc lập pháp cắt viện trợ bỏ rơi Đông Dương không thương tiếc. Người Mỹ chỉ trích Nixon đã kéo dài chiến tranh thêm 4 năm nữa (1969-1972) làm thiệt mạng thêm hơn 20,000 quân Mỹ, thiệt hại vô ích. Nhiều người Việt quốc gia đổ trách nhiệm cho Nixon, Kissinger làm sụp đổ miền Nam. Sự thực lên làm Tổng thống đầu năm 1969 Nixon đã hứa chấm dứt chiến tranh trong danh dự, đưa quân về nước, ông vẫn cố níu kéo miền Nam nhưng cuộc chiến tại đất nhà lên quá cao khiến ông đành bó tay không làm gì được.

Nhiều người tin tưởng nếu Nixon còn làm Tổng thống thì miền Nam chưa chắc đã mất, sự thực dù ông có còn tại chức thì cũng bị Quốc hội trói tay vì không còn ngân khoản để dùng sức mạnh của pháo đài bay B-52 trừng trị CSBV vi phạm, và vì đạo luật mới War Powers Act (10-1973) hạn chế quyền Tổng thống về chiến tranh. Khi BV xua quân chiếm miền Nam, ông cũng sẽ chỉ phản đối xuông cho có hình thức chứ cũng chẳng làm gì hơn được.

Cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa nói:

“Trong lúc trên dưới 200,000 quân của Quân đoàn IV, chưa một trận đánh quan trọng nào, cũng chưa một vị Tư lệnh nào bỏ chạy, đã phải buông súng đầu hàng theo lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh!

Giờ Thứ 25.

Ông Phạm Bá Hoa tỏ vẻ tiếc vì quân khu 4 vẫn còn nguyên vẹn 3 sư đoàn chính qui (SĐ7, SĐ9, SĐ21) và gần 200,000 Địa phương quân, Nghĩa quân mà phải đầu hàng. Mặc dù có thể rút về Vùng 4 cầm cự thêm được một, hai tuần lễ, nhưng ông Dương Văn Minh đã quá chán nản tuyệt vọng tuyên bố đầu hàng để tránh đổ máu vô ích, ông không muốn có người chết thêm. Cũng có thể ông làm theo ý muốn của người Mỹ, họ muốn Miền Nam thua nhanh gọn để ra đi êm thắm không còn ưu tư khắc khỏai.

Trả lời một cuộc phỏng vấn ở Hải Ngoại, Dương Văn Minh nói:

“Tôi không cứu được nước nhưng tôi phải cứu dân”.

Có người kết án ông đầu hàng giặc, có người khen ông đã cứu được Sài Gòn khỏi cơn binh đao, khói lửa nhưng dù ông Dương Văn Minh hay một nhà lãnh đạo nào khác trong giai đoạn này cũng chỉ làm được đến thế thôi. Mặc dù không phải chính trị gia lỗi lạc, ông cũng đã có lòng ở lại với đất nước đang trong cơn nguy khốn để hy vọng tìm được một lối thoát cầu may.

Mấy năm trước nhân ngày kỷ niệm Quốc hận 30-4-2006 tại hải ngoại, một nhà báo có nói Sài Gòn cuối tháng 4-1975 có nhiều thứ rác, trong đó có cả rác chính quyền, ông Dương Văn Minh đã đi lượm cái danh chính quyền mà người ta vứt bỏ vào đống rác. Câu nói thật chua chát nhưng cũng rất chân thực, chính quyền vào giờ thứ 25 như một ngọn đèn cạn dầu cháy leo lét chỉ một cơn gió thoảng là phụt tắt, người ta đã vứt nó vào đống rác nhưng ông Dương Văn Minh vẫn còn tiếc rẻ lượm lên cái hư danh ấy.

Chiều ngày 29-4, Tướng Dương Văn Minh cử ba người sứ giả vào trại David Tân Sơn Nhất để thương thuyết và xin phía CS đừng pháo kích thành phố  Sài Gòn, phía CS  yêu cầu tân Tổng thống phải đầu hàng sớm để tránh đổ máu.

Dương văn Minh dù không có tài nhưng ông đã tỏ ra có nhiều tình thương và thiện chí với dân chúng Thủ đô, đã làm hết sức mình để tránh thảm cảnh núi xương sông máu cho nhân dân. Nhiều người lên án ông là kẻ đầu hàng quân xâm lược, dù ông Dương Văn Minh có lên thay thế ông Trần Văn Hương hay không thì miền Nam cũng vẫn sụp đổ, cũng vẫn phải đầu hàng vì như đã nói ở trên, sau khi ông Thiệu ra đi, đạn dược tiếp liệu của quân đội hầu như kiệt quệ, chính quyền miền Nam y như một ngọn đèn cạn dầu chỉ cần một cơn gió thoảng là phụt tắt.

Cựu TT Nixon nói:

“Ngày 21 tháng 4, Tổng thống Thiệu từ chức hy vọng rằng người kế vị ông có thể  tránh cho Sài Gòn khỏi bị tan nát vì trận đánh cuối cùng. Một thời gian sau Tướng Dương Văn Minh lên thay, ông Minh định thương thuyết với đối phương, nhưng chẳng có hy vọng gì. Sài Gòn chẳng còn gì để thương thuyết. Hà Nội thấy thắng lợi đã gần kề nên không thích thương thuyết mà chỉ muốn nuốt trọn.

Ngày 30-4 năm 1975, xe tăng của BV nghiến xích sắt trên đường phố Sài Gòn, quân đội VNCH mất hết tinh thần . Lúc này chống cự với quân xâm lược chỉ là vô ích”

No More Vietnams, trang 200

Sau ngày miền Nam sụp đổ, được CS phục hồi quyền công dân, ông Dương Văn Minh đã phát biểu nhiều câu có lợi cho quân chiếm đóng, ông đã tự hại ông, đã tự chôn vùi danh dự của mình. Khi sơn hà nguy biến ông đã có can đảm đứng ra gánh vác việc quốc gia đại sự, sao lại không giữ khí phách đến cùng để lưu danh muôn thuở?

Người ta thường nói cháy nhà ra mặt chuột, nước rặt mới biết cá thối, vào Giờ thứ 25 của miền Nam, trong khi nhiều vị Tướng lãnh từ một  sao cho tới bốn sao đã lên kế hoạch “Tẩu vi thượng sách”, vẫn có những vị anh hùng khác với lòng quả cảm và tinh thần trách nhiệm cao đã chiến đấu anh dũng, gan dạ cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc chiến như các Tướng Trần Quang Khôi, Lê Minh Đảo, Lý Tòng Bá, Lê Nguyên Vỹ…

Mặc dù không thấy một tia ánh sáng cuối đường hầm, họ vẫn can đảm, chiến đấu hết lòng cho đất nước tới giờ phút chót, nhưng tiếc thay số người   trọng danh dự như thế xem ra quá ít. Mặc dù ít, nhưng các vị này cũng đã giúp giữ được danh dự cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.

© Trọng Đạt

© Đàn Chim Việt

(Trích  trong  Cuộc Chiến Việt Nam Dưới Nhiều Khía Cạnh,  xuất bản 2010)

——————————————————————–

Tham khảo:

Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.

Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam.

Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hòa, Vietnambibliography, 2003.

Đoàn Thêm: 1969 Việc Từng Ngày, Xuân Thu.

Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh, 2005.

Trần Quang Khôi: Chiến Đấu Đến Cùng: Vai Trò Của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh và Lực Lượng Xung Kích QĐ III Trong Năm Ngày Cuối Của Cuộc Chiến Việt Nam. Nguoivietboston.com .

Phạm Bá Hoa: Giờ Thứ 25, Người Việt Dallas, số ngày 21-8-2009.

Trần Văn Đôn: Việt Nam Cộng Hòa, 10 Ngày Cuối, Trích trong Hồi ký Việt nam Nhân Chúng.

Lâm Lễ Trinh: Tổng Thống Hai Ngày Dương Văn Minh, Người Việt Dallas 30-6-2005.

Danchimviet.com: Trần Bình Nam, CIA Và Các Ông Tướng, Phần 6, Chương 9: Tìm Lối Đầu Hàng Và Di Tản.

Motgoctroi.com: Đài VOA Ngày 2-7-2007: Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ (Laird): Việt Nam Cộng Hòa Thua Trận Vì Bị Mỹ Cằt Viện Trợ.

Motgoctroi.com: Vương Hồng Anh: Những Ngày Cuối CủaViệt Nam Cộng Hòa,

Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988.

Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987.

Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1990.

Trần Đông Phong: Việt Nam Cộng Hòa, 10 Ngày Cuối Cùng, Nam Việt 2006

Đinh Văn Thiên: Một Số Trận Đánh Trước Cửa Ngõ Sài Gòn, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2005.

Đặng Phong, 5 Đường Mòn Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Trí Thức Hà Nội, 2008

Văn Tiến Dũng: Đại thắng Mùa Xuân, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2005.

Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005.

Richard Nixon:No More Vietnams, Arbor House, New York 1985.

Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Viet Nam, 1986, Sphinx Publishing.

The Word Almanac Of The Viet Nam War: John S. Bowman – General Editor, A Bison-book 1985.

Stanley Karnow: Viet Nam, A History, A Penguin Books 1991.

Marilyn B. Yuong, John J. Fitzgerald, A. Tom Grunfeld: The Viet Nam War, A history in documents, Oxford University Press 2002.

Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Trần Đỗ Cung dịch, Người Việt Dallas số 26-4-2006.

Lữ Lan: Cuộc Chiến 30 Năm Nhìn Lại Từ Đầu, Sài Gòn Nhỏ Dallas 28-4-2006.

Lê Quang Lưởng: Thiên Thần Mũ Đỏ Ai Còn Ai Mất, Người Việt Dallas 7-10-2005.

Nguyễn Kỳ Phong: Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam, Người Việt Dallas 21-6-2006.

Hồ Đinh: Sư Đoàn 18 Bộ Binh Và Những Ngày Tử Chiến Tại Xuân Lộc, Sài Gòn Nhỏ Dallas cuối tháng 4-2005.

Hải Triều, Trung Nghĩa: Bán Tiểu Đội Biệt Cách Dù & Trận Đánh Chớp Nhoáng Sau Lệnh Đầu Hàng 30-4-75, Sài Gòn Nhỏ, cuối tháng 4-2006.

Lê Ngọc Danh: Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, bút ký của sĩ quan tùy viên Tướng Nguyễn Khoa Nam, Bút Việt 28-4-2006