Tưởng Niệm Tháng Tư Đen 2025,  VĂN THƠ LẠC VIỆT & THÂN HỮU

Tưởng Niệm Tháng Tư Đen – 50 Năm Ly Hương

**

**

ĐAU ĐỚN QUÁ: VIỆT NAM CỘNG HÒA THUA DO

SỰ PHẢN BỘI CỦA KISSINGER!!!

**

**

Trong niềm thao thức sau 50 năm xa xứ, Phan Lang đã viết bài thơ Tháng Tư Trong Tôi vào ngày đầu tháng Tư năm 2025. Từ những vần thơ mộc mạc ấy, nhạc sĩ Vĩnh Điện đã phổ thành một ca khúc mang âm hưởng hoài niệm thiết tha, được thể hiện thật sâu lắng và truyền cảm qua giọng hát của ca sĩ Tuấn Giang. 

**

**

THÁNG TƯ TRONG TÔI

Bốn bể trôi thân lạc
Tháng Tư đen u hoài
Quê hương thành mây khói
Một thời nét tranh phai

Gót lưu vong lạnh giá
Trời tự do chưa xanh
Mắt khô cùng năm tháng
Tim rướm máu không lành

Nghe quê nghèo nức nở
Ngục tù thay mái tranh
Tre già rơi tiếng nấc
Lúa non rụng đầu cành

Thuyền nhân trôi sóng dữ
Xác tan theo mộng lành
Chim bay không thấy tổ
Chỉ còn gió mong manh

Con lớn khôn đất lạ
Cháu quên tiếng mẹ hiền
Ta gom lời thầm lặng
Dệt giấc mộng đoàn viên

Năm mươi năm biệt xứ
Tóc pha sương mịt mù
Tim còn nghe thổn thức
Nhớ một thời hoang thu

Mái tranh xưa rêu phủ
Giếng làng còn đợi ai?
Khóm cau già lặng lẽ
Ngóng bóng người lạc loài 

Mơ một ngày đất mẹ
Tan khói lửa, yên lành
Ta trở về thăm lại
Lối nhỏ phủ cỏ xanh

Dẫu chân run, lưng mỏi
Dẫu trán hằn gió sương
Lòng vẫn mang quê cũ
Như thuở còn sân trường

Cầu quê hương thanh bình
Hận thù chóng đi qua
Cho cháu con ca hát
Giữa mảnh trời ông cha

1/4/2025

phamphanlang

Xin được gửi lời tri ân sâu sắc đến nhạc sĩ Vĩnh Điện và ca sĩ Tuấn Giang – những người đã thổi hồn vào bài thơ mộc mạc này bằng những giai điệu và giọng ca tuyệt vời, giúp nó thăng hoa và chạm tới trái tim người nghe.

Trong ngày Quốc Hận đánh dấu 50 năm mất nước, xin kính mời quý chị em ùng lắng nghe và thắp lên một niềm hy vọng – rằng sẽ có một ngày quê hương thanh bình, để những người con ly hương có thể quay về, dẫu chỉ để cúi đầu trước mảnh đất mẹ bằng đôi chân đã nhuốm bụi thời gian.

PL xin chân thành cảm ơn và kính chúc sức khỏe, bình an.

Thân kính,
Phạm Phan Lang

MTT-Lam-sao-ma-quen-duoc-30-4-75

**

**

**

THANG-HOA-CUOC-DOI-KY-105-Nua-the-ky-MOT-UOC-MO

**

**

Mới nghĩ tới thôi, cái Trái Tim Tháng Tư nó bỗng nở to chi lạ, có lẽ bất cứ với ai bị đảo lộn sinh hoạt của tháng tư, bị nhào lộn thói quen bởi tháng tư, và bị mất mát, bị tước đoạt, thân bại danh liệt cũng qua danh nghĩa tháng tư bất hạnh, mà 42 năm nay, người dân miền Nam gọi là Tháng tư Đen.

Mình quên bẵng cái Tháng Tư Đen này, trái tim mình bị bất ổn như thế nào?

Ngay từ đầu tháng, đã phải tới văn phòng Bác sĩ Vĩnh Khiêm và bác sĩ Tuyết Mai khám định kỳ 3 tháng/ 1 lần trái Tim và cặp Mắt.

Vào một sáng thứ 7, ngó chỗ nào cũng thấy chiến sĩ VNCH lưu vong, phong cách cũ, nhưng nhân dáng đã đổi thay ít nhiều…

Quý vị huynh đệ chi binh nêu trên, có 2 bửu bối quý giá, thì hết cả 2 đang trong thời kỳ hư hao, lão hoá.

Bác sĩ Khiêm sẽ theo dõi nhịp tim cho quý vị, bên cạnh đó, Bác sĩ Mai coi thử ánh mắt quý vị còn linh hoạt, hay đã mờ mờ.

Lẽ thường quý vị niên trưởng đang ở niên tuế 80-90, hơn một chút, hay kém một chút, đơn thân tới khám bịnh hay kèm theo phu nhân, cũng một thời xuân sắc. Cũng không ngoại lệ, tôi đã quen thuộc nơi này từ cả chục năm nay.Trái tim tôi được cân đo là “lớn vừa”, nhưng nếu coi thường … “quả thịt đỏ” ấy, nó sẽ chín hơn và rụng xuống bất cứ lúc nào không hay.

Mặt khác, nó, trái tim, được đong đếm chính xác, là nó có thể đập mau hơn, nhẩy tưng lên bất loạn, trật nhịp, lỡ nhịp, hay sai nhịp một cách… khủng khiếp.

Nếu anh không níu nó lại, giữ cho thăng bằng, thì khó mà an toàn trong cuộc sống thường tình thôi, đừng nói sôi nổi, nhiệt thành làm gì cho uổng đời hoa gấm.

Anh dư biết điều đó, song cho là chẳng có gì quan trọng. Bởi điều gọi là quan trọng đã phá sản từ 42 năm nay, bây giờ tìm một dấu lửa binh trong quá khứ, như tìm con ốc vỡ dưới lớp cát thiên thu.

Sáng nay, anh khuyên mình là đừng chăm chú cái định kiến sợ hãi mình sai, vì chưa chắc những người phê phán mình đã đúng.

Mọi sự việc phải được hiểu thật rõ ràng, trong cuộc chiến ngày xưa, hay giữa cuộc tình hôm nay, đừng để trái tim phải “bức xúc” vì sao đó.

Tại sao không nói trái tim xúc động, mà “bức xúc” chớ.

Ôi, nếu chỉ làm công tác chiến tranh chính trị, thì với đám đông kia, quen nghe tiếng “bức xúc”, ta phải xài “bức xúc” để đi nhanh vào tập thể đó, còn nếu viết lách văn hoa, thì cuốn tự điển dày cộm của anh, rất có ích cho ta tìm kiếm.

Mà thôi, hãy để cho trái tim “yêu”, đừng “bức xúc” những chuyện không đáng, hay không cần thiết.

Ô, anh cũng đánh giá đúng công việc của trái tim à?

Mình tưởng chỉ có mình đắm chìm vào cõi mê si, khổ luỵ, bắt trái tim thổn thức khá nhiều, khiến nó, trái tim, đập tăng tốc, đập quá tải…khiến bây giờ mỗi 3 tháng phải đi tới phòng mạch Bác sĩ, khám lại một lần.

Anh sợ mình không hiểu ” thiện chí ” của anh, nên anh nêu ra một loạt từ ngữ mà bây giờ trong nước thích dùng, không phải chữ nghĩa chuẩn của cái gọi là giai cấp “công nông “thống trị, mà chính ở thực thể dân chúng tự phát ngôn ngữ xem như mới lạ với họ.

Nay muốn họ” theo ta”, ta phải chuyển hoá họ.

Quý vị truyền giáo ngày xưa, đi tới đâu phải hiểu tiếng nói nước đó, nên ta không lạ, là quý vị truyền giáo tới Ấn Độ thì học tiếng Ấn Độ, tới Trung Hoa thì học tiếng Trung Hoa vv… sơ đẳng nhất là ở nước ta ngày xưa, quý vị học chữ nôm, khai sáng chữ Quốc ngữ vv…, nhưng vẫn tìm hiểu tiếng Thượng, để truyền giáo thẳng cho đồng bào Thượng.

Tôi chạnh nhớ hồi chúng tôi học “Cán sự Xã hội”ở Trung Tâm Caritas của các soeurs dòng Nữ tử Bác Ái, chúng tôi được lên tĩnh tâm ở Trung Tâm Công giáo Tiến hành Đalat do Linh mục Nguyễn Văn Nhân , gốc Canada, chính danh ngài là Gerard Gagnon, tổ chức và điều hành.

Cha Gerard Gagnon bảo rằng: cha thấy người VN đa số họ Nguyễn, nên cha xin là người họ Nguyễn, phái Nam nên tên lót chữ Văn, còn chữ Nhân thì đúng với nhiệm vụ truyền đạo của cha, phải có lòng nhân từ, nhân ái, nhân đạo vv…

Cha Gerard Gagnon viết một quyển sách tiếng Việt ngợi ca tinh thần nhân ái, hiếu hoà của đa số người Việt, tác phẩm tên Hồn Việt, tác giả ghi Nguyễn Văn Nhân (Gerard Gagnon) .

Do đó, trở lại chuyện anh khuyên mình không nên đặt nặng vấn đề về những linh tinh, khi phải viết một bài văn có những ý kiến khác với điều… mình lỡ viết theo thói quen, giống với mọi người.

Hãy để trái tim “yêu” thôi, mệt quá rồi, nếu yêu đến phải vong mạng, thì phản lại chân lý sống của một thành viên trong hội yêu đời như tôi đấy.

Nên, tôi phải chăm sóc trái tim, nhất là mùa tháng tư đen, mà vô hình chung những ai bị tan hoang cuộc sống sau cuộc đổi đời bi thảm 30-4-1975, đều bị ôm một trái tim xúc cảm trầm kha, và ánh mắt tối mờ bởi cuộc sống tan hoang đó..,

CAO MỴ NHÂN

DẶM VỀ THÁNG TƯ .       CAO MỴ NHÂN 

Gởi em trọn vẹn nỗi lòng

Từ khi giã biệt phương đông, tới đoài

Từ khi tiếng quốc u hoài

Nghe trong thân phận lạc loài, xót xa

*

Năm châu thiên hạ bao la

Lòng thêm buồn tủi sơn hà hờn căm

Này đây gió thổi mê lầm

Lệ đang thả giọt âm thầm hoang liêu

*

Dặm về khói sớm , sương chiều 

Hồn nghe phiền muộn những điều trái ngang

Tháng tư phai sắc hoa vàng 

Đốt trầm lên, lạy dở đang mộ người 

*

Tháng tư hiu hắt bên trời

Níu chân bước lẻ trọn đời tiếc thương

Nén nhang thắp đã tàn hương

Biển dâu hay cả đại dương nghẹn ngào… 

       Utah  12 – 4 – 2025         CAO MỴ NHÂN 

===

XÉ LỊCH THÁNG TƯ  ( 1 ).     CAO MỴ NHÂN 

Này là ngày tháng cô đơn

Tháng tư cùng với nỗi buồn phục sinh

Xưa anh thắp lửa biên đình

Đốt tan hoang những u tình chiến tranh

*

Núi mùa xuân thắm rừng xanh

Mầu chinh yên vẫn nhuộm thành quách tươi

Mai vàng bát ngát nắng phơi

Ngắt bông ” bạch tuyết ” tuyệt vời tặng em

*

Bỗng bầy dã thú cuồng điên

Từ phương bắc đến bôi đen sử vàng

Tháng tư lịch rớt ngàn trang

Còn trong anh nỗi uất tràn phút giây

*

Bom rơi, đạn nổ đó đây

Tháng tư tử hận từ ngày ba mươi

Bốn mươi chín năm xa khơi

Ngó về cố tổ,  lệ rơi vạn trùng …

       CAO MỴ NHÂN 

11 – 4 -2025

===

XÉ LỊCH THÁNG TƯ  ( 2 ) .    CAO MỴ NHÂN

Xé bao nhiêu lịch tháng tư 

Vẫn không lấp được hận thù cộng nô

Bên tai đạn nổ, quân hô

Dân xô đẩy kiếm đường vô lánh thù

*

Chiến hào khói lửa mịt mù

Tiếng chuông báo tử, lao tù khắp nơi

Người đi sóng nổi trùng khơi

Người về phiền muộn tả tơi tháng ngày 

*

Sớm chiều ngó xuống đôi tay 

Thấy không kéo nổi trời mây tận tình

Quen nhìn trận địa đao binh

Còn nghe âm hưởng tiến trình hoang liêu

*

Hỡi ôi, thương nhớ  tan theo 

Nửa trăm năm đợi nhạc thiều quân ca

Bốn phương quang phục Quốc Gia

Từ nam ra bắc nước nhà Tự Do  …

    Utah  8 – 4 – 2025

      CAO MỴ NHÂN 

===

MẠC PHƯƠNG ĐÌNH: buổi văn nghệ Tưởng Niệm 50 năm Tháng Tư Đen của Công Đồng người Việt tại San José

 ĐÔI LỜI TỪ TÁC GIẢ PHẠM PHAN LANG

Tháng Tư lại về, mang theo từng đợt sóng ký ức cuồn cuộn dội về. Năm nay đánh dấu 50 năm ngày đau thương lịch sử – ngày chúng ta mất nước, mất quê, mất cả một thời tuổi trẻ hoa mộng… để rồi lưu lạc bốn phương trời.

       Đã từ rất lâu, PL không còn làm thơ. Nhưng càng gần đến ngày Quốc Hận, lòng lại càng trĩu nặng, tim quặn đau khi nghĩ đến một quê hương vẫn còn chìm trong mù mịt, không ánh sáng của tự do. Trong nỗi buồn tái tê ấy, PL đã viết bài thơ “Tháng Tư Trong Tôi”, như một tiếng lòng hoài niệm và thương tiếc. 

        Xin kính mời quý vị cùng đọc, cùng cảm, và cùng thắp lên niềm hy vọng cho một ngày quê hương thanh bình để những người con xa xứ có thể tìm về, cho dẫu chỉ để cúi chào mảnh đất mẹ bằng đôi chân run rẩy.

        PL chân thành cảm ơn và kính chúc sức khỏe, an yên.

Kính quý,
PLang

THÁNG TƯ TRONG TÔI

Bốn bể trôi thân lạc
Tháng Tư đen u hoài
Quê hương thành mây khói
 Một thời nét tranh phai

Gót lưu vong lạnh giá
Trời tự do chưa xanh
Mắt khô cùng năm tháng
Tim rướm máu không lành

Nghe quê nghèo nức nở
Ngục tù thay mái tranh
Tre già rơi tiếng nấc
Lúa non rụng đầu cành

Thuyền nhân trôi sóng dữ
Xác tan theo mộng lành
Chim bay không thấy tổ
Chỉ còn gió mong manh

Con lớn khôn đất lạ
Cháu quên tiếng mẹ hiền
Ta gom lời thầm lặng
Dệt giấc mộng đoàn viên

Năm mươi năm biệt xứ
Tóc pha sương mịt mù
Tim còn nghe thổn thức
Nhớ một thời hoang thu

Mái tranh xưa rêu phủ
Giếng làng còn đợi ai?
Khóm cau già lặng lẽ
Ngong bóng người lạc loài 

Mơ một ngày đất mẹ
Tan khói lửa, yên lành
Ta trở về thăm lại
Lối nhỏ phủ cỏ xanh

Dẫu chân run, lưng mỏi
Dẫu trán hằn gió sương
Lòng vẫn mang quê cũ
Như thuở còn sân trường

Cầu quê hương thanh bình
Hận thù chóng đi qua
Cho cháu con ca hát
Giữa mảnh trời ông cha

phamphanlang

1/4/2025

Chuyển ngữ

April returns once more,  bringing with it wave after wave of surging memories. This year marks the 50th anniversary of a historic sorrow – the day we lost our homeland, our country, and the youthful dreams we once cherished… leaving us scattered across the world.

It has been a long time since I last wrote poetry. But as the National Day of Mourning draws near, my heart grows heavier, and a deep ache stirs within me when I think of a homeland still shrouded in darkness, devoid of the light of freedom. In that aching sorrow, I penned the poem “April Within Me” – a voice from the heart, filled with remembrance and mourning.

Please read, feel, and together let us kindle hope – lhope for a peaceful homeland,
where one day, we – its faraway children – may return,
if only to bow with trembling steps upon the sacred earth of our motherland

With heartfelt thanks and wishes for your health and peace,
Respectfully,
Pham Phan Lang

APRIL WITHIN ME

Across four seas, I drift, alone—
Dark April casts its mournful tone.
My homeland fades in smoke and haze,
A portrait lost in youthful days.

Exile’s path, so cold and bare,
Freedom’s sky still veiled with care.
Eyes gone dry through endless years,
A heart still bleeds its silent tears.

I hear the cries from poor, scorched lands,
Where prisons rise on thatched-roof strands.
Old bamboo sighs with breaking groan,
Young rice falls from its tender throne.

Boat people lost in storm-swept flight,
Dreams shattered in the endless night.
No nest awaits the wing-worn bird,
Just trembling winds and voices blurred.

Our children grow on foreign shores,
Grandkids forget our native lore.
We gather silent words once more,
To weave the dream we’re longing for.

Fifty years in exile’s hold,
Hair now streaked in misty gold.
Yet still the heart can feel the sting
Of autumns lost, of vanished springs.

That mossy thatch of long ago—
Who waits beside the village well?
Old areca trees in silence grow,
Still watching for lost souls to dwell.

I dream one day the war will cease,
Our motherland will rest in peace.
And we return, though frail we be,
To find that path beneath the green.

Though legs may shake, and backs be bowed,
Though time has carved its mark and shroud—
This heart still holds the schoolyard’s grace,
That homeland love no age can erase.

May peace at last embrace our land,
May hatred pass like drifting sand.
So children sing with voices free
Beneath the skies of ancestry.

phamphanlang

April 1st, 2025

Mời nghe nhạc

“Tháng Tư Trong Tôi” – bài thơ mang nỗi niềm về ký ức tháng Tư, đã được người bạn Ns Thái Phạm, cùng với sự hỗ trợ của AI, phổ nhạc thành ca khúc song ngữ Việt-Anh đầy cảm xúc. Mỗi giai điệu là một hồi ức, mỗi lời ca là một tiếng vọng của lịch sử và tình quê.

Xin mời nghe và cùng cảm nhận một Tháng Tư không bao giờ phai trong trái tim người Việt ly hương.

(April Within Me is a poem filled with deep and tender reflections on the memories of April. Now, beautifully set to music by my musician friend Thái Phạm, with the support of AI, it is presented as a bilingual Vietnamese-English song. Each melody is a memory; each lyric an echo of history and homeland. We invite you to listen and feel the enduring spirit of an April that forever lives in the hearts of Vietnamese living far from home.)

MT-NuaTheKy-Mua-Quoc-Han

MT-Nam-Muoi-Nam-Ngay-30-Thang-Tu-

Vui lòng click vào hỉnh để đọc sách

Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài hơn hai thập niên, hàng triệu người đã ngã xuống, hàng triệu gia đình tan nát, và hàng ngàn đứa trẻ sinh ra trong cảnh loạn lạc, mang trong mình hai dòng máu nhưng lại không được xã hội chấp nhận. Những đứa trẻ lai Mỹ-Việt, kết quả của mối quan hệ giữa lính Mỹ và phụ nữ Việt, đã trở thành một trong những hậu quả đau thương nhất của chiến tranh. Họ lớn lên trong sự kỳ thị, nghèo đói, và bị xã hội ruồng bỏ, trở thành những kẻ lạc loài trong chính quê hương mình. “Những Đứa Trẻ Lạc Loài” là một tác phẩm xúc động và chân thực, kể về số phận của những đứa trẻ lai Mỹ-Việt sinh ra trong thời kỳ chiến tranh và lớn lên trong sự kỳ thị, nghèo khó, và bị xã hội ruồng bỏ. Cuốn sách không chỉ là câu chuyện cá nhân của Tâm An, nhân vật chính, mà còn là tiếng nói đại diện cho hàng ngàn đứa trẻ khác cùng cảnh ngộ.

War is not merely a confrontation between factions but also a tragedy for innocent people whose lives are caught in the whirlpool of violence. It is not just an armed conflict but also the lingering pain of those trapped between the crossfire. The Vietnam War lasted over two decades, with millions falling, countless families shattered, and thousands of children born into chaos, carrying two bloodlines yet not accepted by society. The Amerasian children, the result of relationships between American soldiers and Vietnamese women, became one of the most painful consequences of the war. They grew up in stigma, poverty, and abandonment by society, becoming outcasts in their homeland. “The Unwanted Children” is a poignant and authentic work that tells the fate of Amerasian children born during wartime and growing up in stigma, hardship, and neglect. The book is the personal story of Tam An, the main character, and a voice representing thousands of other children in similar circumstances.

Viet-Ve-Bac-Si-Duong-Quynh-Hoa Thong-Bao_50_nam_Quoc_Han

CUỐI ĐƯỜNG MẸ ĐI

(Quê hương, những ngày di tản đầy máu
và nước mắt, trong tháng 4, 1975 –
QUỐC HẬN)

Mẹ già đi từ Cam Lộ
Nước mắt chảy mềm Gio Linh.
Gia tài không đầy đôi rổ,
Mẹ nhìn máu lửa Thần Kinh.

Đá đổ mồ hôi: Thạch Hãn
Chạy dài đến đỉnh Hải Vân.
Leo đèo, Mẹ như mê sảng,
Chân voi: sưng đôi bàn chân.

Mẹ đi giữa trời thiêu đốt
Thây con lớp lớp trải dài
Dọc theo con đường Số Một,
Nằm bên dăm củ sắn khoai.

Tam Kỳ chạy vô Quảng Ngãi
Bầy con đói khát bên đàng.
Biển người xô nhau, quằn quại,
Ngã dần… trong tiếng khóc than.

Mẹ vào Quy Nhơn, Phú Bổn,
Nhìn trời khói lửa Pleiku.
Đoạn đường mang tên Mười Bốn
Thành mồ hoang lạnh, thâm u.

Thây ai quàng manh chiếu rách,
Bàn tay nào vói trời cao?
Ngập vùng tang thương Darlac,
Chân đi, Mẹ khóc nghẹn ngào.

Máu chảy lan dần mạch đất
Nha Trang chết vạn đàn con.
Vào Nam, sức già lây lất
Về đâu? – Nẻo sống không còn !

Cần Thơ, Hà Tiên, Rạch Giá,
Mẹ lần đến mũi Quê Hương
Cà Mau nhìn ra biển cả

Tàn hơi, Mẹ chết bên đường !

Mẹ già đi từ Cam Lộ
Cuối đường, chết mũi Cà Mau.
Trọn đời sống trong đau khổ
Chết còn trông thấy khổ đau !…

Võ Đại Tôn (1975).

MẸ VIỆT NAM ƠI! CHÚNG CON VẪN CÒN ĐÂY


Thơ: Hoàng Phong Linh (Võ Đại Tôn)
Sáng tác năm 1972

Mẹ Việt Nam ơi! chúng con vẫn còn đây
Mẹ Việt Nam ơi! chúng con vẫn còn đây
Những đứa con bầu nhiệt huyết dâng đầy
Mang giòng họ của Lê Lý Nguyễn Trần
Mẹ mặc cho con vải thô áo mầu lam
Mẹ dưỡng nuôi con giòng sữa Bắc Trung Nam
Con của Mẹ đều một giống da vàng
Quyết một lòng diệt hết lũ tham tàn

Trên đầu voi rạng ngời vung ánh thép
Gái Triệu Trưng bồ liễu chống xâm lăng
Hé môi cười nghe tiếng sóng Bạch Đằng
Con Hưng Đạo như Rồng Tiên vùng vẫy
Vượt Trường Sơn, Nguyễn Huệ, Bắc Bình Vương
Quyết một lòng đi giữ vững quê hương
Và còn nữa con của Mẹ toàn danh tướng
Lòng Mẹ vui hãnh diện với đàn con

Nhưng Mẹ ơi giờ đây sao Mẹ khóc?
Hai vai gầy run rẩy nát tâm can
Mẹ lòng đau thương xót cảnh lầm than
Áo nâu nghèo Mẹ rách để phơi than
Một đàn con rồi quên ơn Mẹ nuôi dưỡng
Súng đạn cày tan nát luống quê hương
Mẹ lòng đau thương xót cảnh lầm than
Xót xa nhiều phương Bắc chiếm phương Nam

Nhưng Mẹ ơi! Mẹ đừng than khóc nữa!
Vì chúng con tuổi trẻ vẫn còn đây
Chúng con nguyện cùng ra sức đắp xây
Quê hương mình trong TỰ DO ấm no

Xin Mẹ yêu Mẹ đừng than khóc nữa!
Vì chúng con mười bảy triệu vẫn còn đây
Chúng con nguyện cùng ra sức đắp xây
Chúng con nguyện đi dựng lại Quê hương
Mẹ Việt Nam ơi! chúng con vẫn còn đây
Mẹ Việt Nam ơi! chúng con vẫn còn đây…
Không phản bội giòng sữa thơm nuôi đưỡng
Chúng con nguyện đi dựng lại Quê hương

Mẹ Việt Nam ơi!
Mẹ Việt Nam ơi!
Mẹ Việt Nam ơi!

***

Hồn Ca trên Biển Đông

  • Kính dâng lên hương hồn hơn nửa triệu đồng bào đã tử
    nạn trên Biển Đông, mong vượt thoát chế độ cộng sản
    VN, mưu tìm Tự Do sau cơn Quốc Nạn 30 tháng Tư Đen
    1975.
    (Lưu niệm chuyến đi viếng thăm mộ bia Thuyền Nhân tại các
    đảo Galang và Pinang (Nam Dương) cùng phái đoàn Văn Khố
    Thuyền Nhân và các Bạn từ các quốc gia trên thế giới. CSVN
    đang yêu cầu chính quyền Nam Dương đóng cửa các khu di
    tích Thuyền Nhân trên các đảo. Ngày nào còn CSVN, ngay cả
    những người đã chết trên các đảo hoang vu, lìa xa Tổ Quốc,
    cũng không được yên nghỉ ngàn thu…)
    Viết tại đảo Pinang ngày 14.10.2009
    Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh)
    1.
    Hồn ai đó?
    Chập chờn trên khói sóng
    Dòng máu tươi theo nước chẳng hòa tan.
    Hồn ai đó?
    Vạn tinh cầu chao bóng
    Đảo ghềnh xa còn vọng tiếng kêu than.
    Hãy về đây – trên sóng nước dâng tràn
    Chung tiếng khóc nghẹn đau cùng Dân Tộc.
    Hồn ai đó?
    Đã lìa xa Tổ Quốc
    Vẫn còn ôm sông núi xuống mồ hoang.
    Tiếng oan khiên từ đáy vực còn vang

Hay chìm đắm giữa khơi ngàn sóng dữ?
Mảnh thuyền tan, bập bềnh trôi viễn xứ
Biết về đâu? Hồn phiêu bạt nơi đâu?
Thân cá Hồi tan tác đã chìm sâu
Không tìm thấy lối quay về chốn cũ!
Giữa trùng khơi vang tiếng cười dã thú
Hải tặc giằng co thân xác – kinh hoàng.
Tiếng Mẹ kêu, dòng máu chảy đầy khoang
Tay vời níu đàn con run khiếp sợ.
Biển lạnh chiều hoang, trần gian nín thở,
Vòng tai ương kiếp nạn đến vô cùng.
Hồn ai đó?
Bờ Tự Do bốn hướng, cõi mông lung
Tìm đâu thấy – giữa muôn trùng đen thẳm?
Tiếng kêu “Trời!” trước phút giây chìm đắm
Biến tan vào giông bão, thét trùng dương.
Vực mồ sâu thịt rã máu còn vương
San hô trắng hay là xương ai trắng?
Dòng tóc đen bám ghềnh xa hoang vắng
Thành rong rêu sẫm tím một màu tang.
Hồn ai đó?
Chiếc thuyền Không Gian
Trôi về Vô Tận.
Bánh xe Thời Gian chuyển ngàn uất hận
Chập chờn mấy cõi U Minh.
Lịch Sử nghìn thu trang giấy rợn mình
Ghi chép lại phút kinh hoàng vượt biển!

2.
Hồn ai đó?
Đảo hoang sơ, ai về đây khấn nguyện
Mộ bia tàn, ai thắp nén hương dâng?
Nơi Ba-Đình vui chuốc rượu Vô Thần
Cười nghiêng ngả mừng reo hò chiến thắng!
Đồng ruộng phơi bày xương trắng
Oan khiên máu lệ thành sông.
Bao thây vùi trong sóng nước biển Đông
Còn sót lại mấy hoang tàn di tích?
Hồn ai đó?
Đảo xa xôi mộ phần cô tịch
Giấc ngủ chẳng bình an.
Họ còn theo, cố phá đập tan
Để tô hồng chế độ:

  • “Chủ nghĩa huy hoàng, không ai chối bỏ
    Không có người vượt thoát để tồn sinh !!!” (*CSVN)
    Nhưng bia đời như nắng rọi bình minh
    Luôn soi rõ từng vết sâu tội ác
    Của loài dã tâm với ngôn từ khoác lác
    Đang tôn thờ chủ thuyết lai căng.
    Hồn ai đó?
    Từ bao cõi vĩnh hằng
    Xin về đây chứng kiến.
    Tấm lòng chúng tôi, trọn đời Tâm Nguyện
    Chí bền gan, xin vẹn Nghĩa Tình.
    Dù ngăn cách Tử Sinh
    Giữa hai bờ Nhật Nguyệt.
    Dù có ai phá tan mộ huyệt
    Đến nghìn sau hồn mãi còn đây.
    Nhìn trùng khơi sóng nước dâng đầy

Gửi mơ về cố quốc.
Hồn vẫn sống trong lòng Dân Tộc
Vì hai chữ Tự Do.
Chiều GALANG bão tố sóng to
Hay tĩnh lặng trăng rơi thềm đá.
Sáng PINANG nắng xuyên rừng lá
Hay đêm vờn tiếng hát nhân ngư.
Hồn mãi còn đây, dù bia mộ hoang vu
Không tên tuổi – sá gì tên với tuổi!
Dù xác thân đã hòa chung cát bụi
Biển Đông còn – HỒN MÃI SỐNG THIÊN THU!
VÕ ĐẠI TÔN (HOÀNG PHONG LINH)

Kính gửi quý vị, quý chiến hữu, thân hữu và các thế hệ hậu duệ VNCH tự do nhân bản, hải ngoại/quốc nội,

Người ta thường nói: “Thời gian là thần dược có thể chữa lành mọi vết thương”, nhưng theo tôi suy nghĩ theo kinh nghiệm sống lưu vong của kẻ mất quê hương cội nguồn thì ngày nào chưa giải trừ được chế độ cộng sản bạo tàn, quang phục quê hương tự do dân chủ, thì ngày đó vẫn còn ngập tràn máu đen trong tâm não. Nằm trên giường bệnh cuối đời, chờ phút cuối theo lẽ vô thường kiếp nhân sinh, tôi nhớ lại những bài thơ của tôi đã hân hạnh được nhiều nhạc sĩ nổi tiếng phổ nhạc và nhiều ca sĩ có lòng thương trình diễn.

Tôi xin chân thành cảm tạ.

VÕ ĐẠI TÔN

Xin gửi đến quý vị ba (3) bài thơ dưới đây được phổ nhạc.
Kính mong chia sẻ chung nỗi lòng vong quốc.

  1. Youtube/Video – Mẹ VN Ơi Chúng Con Vẫn Còn Đây.

Thơ võ đại tôn (hoàng phong linh) – 1972 – cố nhạc sĩ nguyễn ánh 9 phổ nhạc – ca đoàn văn nghệ la-san trình diễn.

2. Youtube/Video – Cuối Đường Mẹ Đi.

Thơ Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh) – Nhạc Sĩ Võ Tá Hân Phổ Nhạc.

  1. Youtube/Video – Hồn Ca Trên Biển Đông.
    Thơ Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh) Nhạc Sĩ Yên Sơn Phổ Nhạc.
50-Nam-THANG-BA-GAY-SUNG_-Nho-Viet-Nam-Cong-Hoa_Tim-Nguyen

NHỮNG NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ –

BÀI VIẾT CỦA GIAO CHỈ – NHÂN DỊP KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY QUỐC HẬN

Chín lần cảm ơn


Giao Chỉ San Jose viết về lần tổ chức tại San Jose năm 2015. Đến năm 2017 dự trù sẽ trở lại San Jose nhưng không còn cô Hạnh Nhơn nữa. Cô ra đi 9 giờ tối hôm ấy. Xin đọc lại chuyện cũ để tưởng nhớ người xưa.

Hình ảnh Bà Hạnh Nhơn – ân nhân của thương phế binh VNCH

Kỳ đại hội văn nghệ Cám Ơn Anh, người thương phế binh VNCH tại San Jose đã ghi nhận có sự hiện diện của nhiều vị niên trưởng trong quân đội. Đô đốc Trần văn Chơn 95 tuổi vẫn không quản tuổi già bình tĩnh ngồi giữa trưa nắng với hàng ngàn khán giả. Một vị cao niên khác là trung tướng Hoàng Xuân Lãm 87 tuổi. Được tin ông qua đời nên bác đến tham dự cũng để bày tỏ ý nghĩa của lời ca nổi tiếng. “Anh không chết đâu em.” Đó là các vị cao niên trong hàng quan khách danh dự. Người đứng ra nhận trách nhiệm là đại tá không quân Nguyễn Hồng Tuyền. Năm ấy ông 85 tuổi. Mấy năm trước tưởng người đã đi xa, nhưng người vẫn quanh đây.Vị nữ lưu số một của cộng đồng bền bỉ 9 năm qua là trung tá nữ quân nhân không quân Hạnh Nhơn 87 tuổi. Chị là hội trưởng của tổ chức đứng mũi chịu sào tổng cộng 9 kỳ đại hội. Không có thành tích nào lớn hơn có thể so sánh với “9 lần gươm báu trao tay, thuyền quyên thay thế anh hùng một phen”. Tổng cộng kỳ nầy tổ chức lần thứ 3 tại San Jose thu được trên tám trăm ngàn. Trong đó có Canada góp 100 ngàn và riêng Texas đưa về 300 ngàn. Nếu tính chung tất cả các kỳ tổ chức thu được gián tiếp và trực tiếp con số đã lên đến trên 7 triệu mỹ kim. Trong khi đó hồ sơ thương phế binh ghi nhận hôm nay trên 14 ngàn.

Trung tá Hạnh Nhơn, nguyên trưởng đoàn nữ quân nhân không quân khi đứng ra nhận công tác hơn 10 năm qua, chị không biết đã bắt đầu trở thành con tằm.”Nàng” đã mang làm kiếp con tằm, dù cho đến thác vẫn còn vương tơ”. Câu chuyện năm xưa bắt đầu từ khi nhà văn Huy Phương dẫn cô Hạnh Nhơn lại gặp nghệ sĩ Nam Lộc. Xem ra chính Nam Lộc là người mở đường cho chương trình Cảm ơn anh từ đầu. Khi trận thứ nhất mở màn, Trúc Hồ vận dụng tối đa các nghệ sĩ của Asia nhập cuộc và tiếp theo sau này là phương tiện của truyền hình SBTN. Với khả năng truyền thông mở rộng toàn thể giới, tiếng ca của Asia chuyên chở hùng ca cùng nước mắt Việt Nam Cộng Hòa đã đem lại tiền bạc gửi về cho thương phê bình ở quê nhà.

Những yếu tố thành công

40 năm xưa, khi miền Nam thất thủ, Ngày 30 tháng tư một trăm ba mươi tư ngẩn người chạy thoát. Ngày 15 tháng 5-1975 chiến hạm của đệ thất hạm đội Hoa Kỳ rút khỏi biển Đông sau khi vớt hết dân ty nạn. Từ sau ngày đó, những con thuyền ra đi được coi là thuyền nhân đầu tiên. Những chuyến đi liên tiếp kéo dài từ 75 đến 95 với 1 triệu người vượt biển. Tiếp theo là ODP, HO, con lai chúng ta làm thành các cộng đồng tại hải ngoại. Ngày nay tổng cộng có 3 triệu dân tỵ nạn rải rác khắp năm châu. Nhưng chúng ta đã để lại 16 ngàn tử sĩ tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Đã để lại hơn 50 ngàn thương binh và trên 100 ngàn quả phụ. Ngay từ giữa thập niên 80 khi Việt Dzũng viết bài ca gửi chút quà về quê hương thì đã có nhiều người nghĩ đến thương binh chiến hữu còn ở lại Sài Gòn. Hai mươi năm sau, giữa thập niên 90 khi người Việt về thăm gia đình thì việc cứu giúp thương phế binh đã trở thành phong trào tại Âu châu, Úc châu, Canada và Mỹ châu. Qua đến thập niên đầu thế kỷ 21 thì lời cảm ơn anh mạnh mẽ cất lên bằng tiếng hát đã trải qua 9 mùa thu từ 2006 đến nay 2015.

Trong số các phong trào quần chúng hải ngoại 40 năm qua thì Cảm Ơn Anh đã trở thành truyền thống tốt đẹp và thành công nhất. Yếu tố căn bản là lòng người vẫn hoài niệm tinh thần Việt Nam Cộng Hòa và người lính Cộng Hòa. Đã gần nửa thế kỷ trải qua mà nam nhi vẫn còn muốn mặc bộ quân phục oai hùng và nữ nhi vẫn mãi mãi là người yêu của lính. Thêm vào đó, cuộc chiến ngày này không phải bằng vũ khí mà bằng phương cách đấu tranh chính trị thì nghệ sĩ, danh ca đã trở thành chiến sĩ và truyền thông Việt ngữ đã chuyển tải các thông điệp cảm ơn anh vô cùng hữu hiệu để nhận về tình nghĩa từ khắp bốn phương trời. Trong việc phối hợp tổ chức xem ra vẫn có nhiều khiếm khuyết, nhưng tinh thần hợp tác vì mục đích chúng đã thể hiện được sự thành công tốt đẹp sau cùng. Về phương diện quản trị và điều hành tài chánh lên đến hàng triệu mỹ kim, chắc hẳn cũng có nhiều điều cần cải tiến và công bố. Chúng tôi sẽ có dịp tìm hiểu và đóng góp ý kiến xây dựng sau này. Nhưng nói chung sự hưởng ứng của đồng bảo là điều quan trọng nhất. Xin chúc mừng đại hội thành công.

Các nghệ sĩ như Nam Lộc, Khánh Ly, Ý Lan, Kiều Chinh, Việt Dzũng và nhiều tài danh khác đã từng đến thăm viếng Viện bảo tàng Việt Nam tại San Jose. Buổi tối chủ nhật thêm anh chị Trúc Hồ là những người khách thăm viếng rất muộn. Sau một ngày dài đại hội, Trúc Hồ và Diệu Quyên đến vào lúc 7 giờ chiều. Kelley Park đã chính thức đóng của từ 5 pm nhưng Viet Museum cũng mở cửa đặc biệt dành cho người thanh niên vượt biên đường bộ hơn 30 năm trước. Trúc Hồ đến thăm Museum đồng thời cũng thăm lại người bạn văn nghệ Việt Dzũng với đầy đủ hình ảnh và đôi nạng sắt được lưu lại ở đây cả trăm năm sau. Sau khi thăm viếng suốt một giờ,

Trúc Hồ hỏi bác Lộc rằng cháu có thể làm được chuyện gì. Tôi nói rằng bác là quá khứ, cháu là hiện tại. Museum này là di sản quý giá từ quá khứ muốn giao cho hiện tại để chuyển cho tương lai. Hãy xử dụng phương tiện của Asia và SBTN để hải ngoại quan tâm đóng góp di sản và nuôi dưỡng lâu dài. Bản thông điệp từ quá khứ đã trao cho hiện tại vào buổi tối sau một ngày dài đại hội văn nghệ lần thứ 9 tại San Jose.

Đăng lại để tưởng niệm chị Hạnh Nhơn.

Giao Chi San Jose. giaochi12@gmail.com (408) 316 8393

                   TiểuThu

Đêm nay cơn ác mộng lại trở về. Thơ giật mình thức giấc, tâm trí hoang mang thảng thốt. Trái tim đập thình thịch trong lồng ngực. Bên cạnh nàng Tú vẫn ngủ say sưa. Sau biến cố mất nước năm 75, từ khi may mắn thoát khỏi Việt Nam vào phút cuối, lại được định cư ở xứ Canada, nhưng có lẽ bị chấn thương tâm lý khá nặng nên thỉnh thoảng Thơ lại gặp ác mộng trong giấc mơ. Thật sự kinh hoàng, vì lần nào Thơ cũng thấy mình về Sàigòn thăm gia đình và không cách nào tìm được phương tiện trở qua Canada. Nàng tự sỉ vả mình ngu ngốc, đang sống yên ổn với chồng con, khi không trở về Việt Nam làm gì để ra cớ sự! Có lần trong cơn mơ Thơ khóc sướt mướt, tỉnh dậy hai má còn ướt đẫm nước mắt.

Thơ kể cho vài người bạn nghe, không ngờ cũng có người gặp ác mộng y như nàng. Một người bạn thân kể rằng, trong mơ anh thấy mình đi vượt biên và bị bắt lại. Mà người bắt anh lại là tên thủ trưởng nơi anh làm việc. Anh nghĩ chắc chắc mình tiêu đời rồi. Khi giật mình tỉnh dậy, nhận ra mình đang ở Hoa Kỳ, anh thấy trong đời chưa bao giờ hạnh phúc đến thế!

Thấy đồng hồ chỉ 5 giờ, Thơ cố dỗ giấc ngủ lại, nhưng sao đầu óc vẫn tỉnh táo và tâm trí lan man nhớ về những ngày tháng xa xưa. Thủa còn ở Việt Nam và chưa bao giờ nghĩ rằng sẽ bỏ quê cha đất tổ, đến một nơi xa lắc xa lơ, mùa đông lạnh thấu xương để sinh sống. Vì đâu và vì ai? Nếu không phải vì những người cùng giòng giống, cùng tổ tiên như nàng, nhưng lại đem cái chủ thuyết chết người của ngoại bang về áp đặt  một cách dã man lên đồng bào ruột thịt của mình?! Miền Nam của Thơ trước khi bị cưỡng chiếm xinh đẹp, hiền hòa biết bao. Lúa gạo đầy đồng, tôm cá đầy sông, đi lại tự do. Làm sao tả hết những cái hay, cái đẹp mà người dân miền Nam đã được hưởng cho đến ngày 30-04-1975!

Từ năm 1972 gia đình nhỏ của Tú và Thơ thuyên chuyển từ miền Cao Nguyên về tỉnh lỵ Sa Đéc. Thật tiện lợi vì quê nội Thơ ở Cao Lãnh và quê ngoại ở Vĩnh Long. Và qua Long Xuyên cũng cùng một quãng đường dài. Nàng nhớ những trái soài Hòn mập ú, ngọt như đường mà chỉ có ở Cao Lãnh. Qua Vĩnh Long thưởng thức món xôi chiên phồng ăn với gà rô ti nổi tiếng. Sầu riêng Cái Mơn không đâu ngon bằng. Vú sữa Lò Rèn cũng tuyệt diệu. Có khi theo bạn về quê Cái Bè ăn cam. Cam Cái Bè nổi tiếng ngon ngọt. Thích hơn nữa là đi thuyền qua mấy cái cù lao ăn chôm chôm, nhãn. Sa Đéc cũng là một địa danh nổi tiếng với nhiều loại trái cây và tôm cá, gà vịt. Loại  mận da người màu xanh cẩm thạch, ruột đặc không hột và rất ngọt. Vú sữa hột gà màu trắng ửng hồng ngon ngọt vô cùng. Đặc biệt vùng này có loại ốc gạo thịt béo ngậy, ăn một lần là mê tít luôn. Không thể quên loại cá thu nước ngọt, nhỏ hơn cá thu biển, mình óng ánh nhiều màu. Cá này kho với nước dừa tươi là tuyệt cú mèo. Nói đến vịt xiêm Sađéc thì ai cũng biết. Bình thường vịt được nuôi bằng lúa, tép riu đầy sông rạch nên rất mập, thịt mềm, thơm ngọt. Mỗi lần có bạn phương xa đến thăm thế nào họ cũng được Thơ đãi món thịt vịt trứ danh Sa Đéc. Khi cả nhà Thơ về Sài Gòn thăm gia đình Tú, ngoài trái cây đủ loại không bao giờ thiếu cặp vịt xiêm.

Lúc này Thơ đã có hai tí nhau, một trai hơn 3 tuổi và một gái chưa 2 tuổi. Tú đi làm và Thơ ở nhà trông con. Tưởng rằng giòng đời cứ êm đềm trôi như giòng Cửu Long hiền hòa. Chiến tranh khốc liệt ở đâu xa, chứ tại thị xã thì đời sống vẫn bình thường. Chợ búa vẫn họp đông đúc mỗi ngày. Nơi Tú làm cũng không thấy thay đổi gì cả. Chợt ngày 25 tháng 4, Tú nhận được điện thoại của bà chị trên Sàgòn bảo gia đình Tú phải lên SàiGòn gấp. Chị đã làm thông hành cho đại gia đình đi ngoại quốc. Thế là vợ chồng con cái chất nhau lên xe chạy một lèo lên Sàigòn. Té ra nhờ hai ông anh rể sĩ quan cấp Tá làm việc trong Tổng Tham Mưu nên họ biết người Mỹ đã rút khỏi Việt Nam và một số tướng lãnh cũng như công chức cao cấp đã tìm đường chạy ra ngoại quốc. Ôi chao, lên đây mới thấy cả Sàigòn hỗn loạn. Ngoài đường đông nghẹt người. Tất cả các tiệm vàng chen chân không lọt. Người mua vàng, kẻ đổi đô la. Thơ cũng chen lấn đổi được 80 đô la Mỹ.

Cả gia đình Thơ cũng được ông anh rể cho vào danh sách xin đi máy bay Mỹ. Cơ quan D.A.O bảo chờ họ sẽ tới rước. Chờ mãi đến hôm 28 Việt cộng pháo kích dữ dội vào phi trường Tân Sơn Nhất thì Thơ tuyệt vọng, ôm con khóc mùi mẫn. Sáng sớm 29, sau một đêm thức trắng, cả nhà lên xe chạy vào Cư xá Sĩ quan trong bộ Tổng Tham Mưu, nhà ông anh họ của Tú. Ông này thân cận với 1 ông Tướng vùng, ông Tướng hứa sẽ có máy bay đón. Hy vọng tràn trề, nhưng chờ gần tới trưa vẫn chẳng thấy gì, người nào mặt mày cũng buồn rầu ủ rũ, căng thẳng tột độ. May sao gần 12 giờ, một sĩ quan dưới quyền của ông anh rể báo tin có chiếc tàu Đại Hàn đang đậu ở Tân Cảng sắp nhổ neo. Mừng quýnh mọi người lên xe chạy ra Tân Cảng. Dọc đường rất hỗn loạn vì dân chúng đang hôi của trong mấy cơ sở Mỹ bỏ trống. Kẻ khuân, người vác chạy đầy đường. Thỉnh thoảng có những tràng súng nổ dòn dã và những người lính còn mặc quần áo trận, có người bị thương máu me tùm lum, tay cầm súng chạy dọc theo hai bên đường khiến Thơ kinh hãi ôm cứng hai đứa trẻ. Tụi nhỏ chắc cũng linh cảm thấy sự nguy hiểm nên im lặng không dám hó hé. Sau này nàng mới biết một nhóm lính Việt Nam Cộng Hòa lúc đó vẫn còn cố gắng đánh nhau với Bắc quân trên cầu Xa Cảng. Thương thay những người chiến sĩ miền Nam anh dũng, thà hy sinh đến giọt máu cuối cùng chứ quyết không đầu hàng quân địch!

Xe quẹo vào bến Tân Cảng. Trên bến tàu nhiều người Mỹ đang đứng chỉ huy cho đoàn người xếp hàng dọc lên tàu. Họ bắt tất cả quân nhân phải cởi quân phục và bỏ súng lại trước khi lên tàu. Tất cả mọi người phải xuống hầm tàu thông qua một cái miệng hầm nhỏ, vừa một người qua lọt. Đây là chiếc tàu của Đại Hàn do Mỹ thuê chở vũ khí sang Việt Nam. Giờ đây Mỹ thuê để chở người tị nạn rời khỏi đất nước. Hầm tàu dùng để chứa hàng hoá, chỉ có một chỗ lên xuống nhỏ xíu nên nóng hầm hập. Gia đình Thơ kể như là những người đến muộn nhất nên mười một người chia nhau một chỗ độ chừng một mét vuông ngay dưới miệng hầm. Nàng đưa mắt nhìn chung quanh thấy người là người, nằm ngồi ngổn ngang. Tháng tư trời nóng, trong hầm như cái hỏa lò nên người nào cũng dùng cái gì đó quạt phành phạch, trông toàn cảnh cứ như những cánh bướm đang bay chấp chới! Riêng hai nhóc tì của Thơ cũng phải cởi áo ở trần mới chịu nổi.

Độ nửa tiếng sau thì tàu tách bến chạy về hướng Vũng Tàu. Thú thật là đến giờ phút đó vợ  chồng nàng cũng không biết mình sẽ đi đâu? Thấy người ta chạy thì mình cũng chạy theo, miễn là thoát khỏi Việt Nam đang rơi vào tay Cộng quân. Gia đình Tú vốn người Bắc. Năm 54 ba mẹ anh đã bỏ hết của cải, cơ ngơi ở Hà Nội để chạy vào Miền Nam lánh nạn. Lần đó họ còn biết mình sẽ đi đâu. Nhưng lần này thì quả thật rất mơ hồ, chỉ biết nhảy lên tàu rồi sau đó phó mặc cho ông Trời!

Lúc tàu chạy ngang Rừng Sát, mặt mày người nào cũng nghiêm trọng, không dám thở mạnh. Chỉ sợ một quả đạn gì đó trong rừng bắn ra trúng tàu thì gần một ngàn sinh mạng sẽ đi chầu Hà bá! May quá không sao. Nhưng trọng trách của con tàu này là phải đón cho được một ông cố vấn gộc người Mỹ. Vì thế tàu cứ chạy dọc theo bờ biển từ Vũng Tàu cho tới Cà Mau suốt 3 ngày liền. Đến ngày thứ tư mới trực chỉ ra khơi từ Vũng Tàu. Lúc này mọi người đã biết tin Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng nên ai nấy đều buồn dàu dàu. Tàu ra khỏi Vũng Tàu thì gặp vô số thuyền con từ đất liền chạy ra. Họ vây quanh tàu nên thuyền trưởng bắt buộc phải vớt họ lên. Ôi thôi thì gồng gánh đủ thứ, cả TV, cả xe gắn máy. Tất nhiên thủy thủ Đại Hàn vứt hết mấy thứ này xuống biển để lấy chỗ cho người. Lúc rời Tân Cảng con số chưa tới một ngàn, giờ đây đã lên đến hơn ba ngàn người! Thì ra có vị linh mục dẫn cả làng Phước Tỉnh chạy ra khơi! Đến giờ thì vấn đề vệ sinh thật nan giải. Tất cả mọi người già trẻ bé lớn đều bị đau mắt. Mà làm gì có thuốc cho ngần ấy người? Đành chịu thua! Gia đình Thơ chạy vào phút chót, lại hy vọng đi máy bay nên không chuẩn bị đem theo lương khô, đành chấp nhận ăn những khẩu phần của lính tráng đi hành quân: gạo sấy và cá khô. Cũng có nhiều gia đình có quan hệ với thủy thủ Đại Hàn nên họ đã xuống tàu trước mấy hôm với đầy đủ lương thực, mì gói và bánh trái các loại. Nhưng lúc này hồn ai nấy giữ nên chẳng ai “dại gì” chia cho người không quen biết! Gạo sấy thì đổ nước lạnh cho nở ra, cá khô thì cứ vậy mà ăn. Tội nghiệp hai đứa nhỏ, Thơ phải năn nỉ chúng mới miễn cưỡng ăn chút ít nên suốt tuần lễ dưới tàu hai đứa gầy nhom.

Đến ngày thứ bảy thì tàu ghé Subic Bay Phi Luật Tân lấy thêm nhiên liệu để đi tiếp qua đảo Guam. Chỉ một số người được đặc biệt xuống tàu để sang đảo  Guam bằng máy bay. Nhờ hai anh rể sĩ quan cấp Tá nên gia đình nhỏ của Tú-Thơ cũng được hưởng ân huệ này. Số còn lại tiếp tục đi tàu sang Guam. Đặt chân xuống đảo, thấy cảnh trùng phùng của nhiều gia đình, vợ con đi trước bằng máy bay, chồng đi sau bằng tàu, may mắn gặp lại nhau thật vô cùng hạnh phúc. Mỗi gia đình được chia một căn lều, có ghế bố và mền để ngủ, ngoài ra trống trơn. Ngày 3 lần đi sắp hàng lảnh cơm do đầu bếp Mỹ nấu. Chỗ của Thơ thì trường kỳ mỗi người được 1 vá cơm trắng và 1 vá trứng gà bột chiên. Có chai xì dầu hay hủ muối nào nhà bếp bỏ ra cũng bị chôm mất nên mọi người ăn cơm lạt nhách cũng đành chịu. Những người có tiền thì vào căng tin mua thức ăn. Thơ chỉ có 80$ nên…không dám, vì “biết ra sao ngày sau??? Thấy những người lính Mỹ phục vụ dân tị nạn Việt Nam mà thương.

Thơ không nhớ có bao nhiêu người tới đảo, chỉ nhớ là đông lắm. Lều trại nhìn mút mắt. Chỉ khổ ngày thật nóng và đêm thật lạnh.  Suốt ngày đi sắp hàng lấy cơm (Mỗi bếp có 3 hàng. Mỗi hàng dài hàng trăm mét) nên ai cũng đen thui như Chà Và! Đến nỗi có người quen gần nhà, gặp Tú còn hỏi “phải anh Tú không?”May mà lúc gia đình Thơ đến đảo thì phái đoàn Canada cũng vừa đến mở văn phòng. Tú-Thơ vội vàng đến xin đi Canada. Ban đầu họ chỉ nhận dân professionel, nhưng sau đó Mỹ phản đối gay gắt nên họ nhận luôn mọi ngành nghề. Nhiều bác sĩ, kỹ sư, giáo sư phải khai gian là thợ sơn, thợ máy mới được nhận. Hai tuần sau thì đại gia đình Tú lên máy bay trực chỉ Québéc. Lúc quá cảnh Hawai có người bịnh nặng nên cả gia đình phải xuống để đưa người bệnh vào nhà thương. Rồi sau đó nghe nói họ lập nghiệp luôn ở đây. Cũng may mắn vì khí hậu Hawai quá tuyệt vời.

Dân tị nạn đến Montréal vào tháng năm nên khí hậu đã ôn hòa, dễ chịu. Người dân nơi đây thật hiền hòa, hiếu khách, tuy nhiên họ không biết tí gì về Việt Nam. Vì chỉ nhìn chiến tranh VN qua truyền thông, chỉ thấy cảnh quê nghèo, đồi núi chập chùng, rừng rậm âm u nên trong trí họ VN là một xứ nghèo nàn lạc hậu. Chẳng vậy mà có 1 conseiller người bản xứ đã khuyên các bác sĩ VN nên đi học nghề y tá để kiếm sống. Họ  không biết rằng trường Đại học Nha Y Dược Việt Nam là một chi nhánh trực thuộc trường Nha Y Dược của Pháp và sinh viên học bằng tiếng Pháp. Rồi chỉ vài năm sau họ ngạc nhiên xiết bao khi hầu hết các bác sĩ, dược sĩ đã trở lại hành nghề và trong trường trẻ em Việt Nam học hành  đều xuất sắc. Hơn thế nữa các em rất lễ độ với thầy cô nên được quý mến vô cùng. Tóm lại, thuở đó dân Việt Nam sống ở Montréal được người bản xứ hết sức  kính trọng.

Thơ nhớ lại những tháng ngày vất vả trong cuộc sống mới nơi xứ người. Những ngày đi làm trong bão tuyết lạnh căm, gió thổi muốn bay vì người mình vốn nhỏ bé. Nhưng gian nan nào rồi cũng qua. Cái giá tự do trả thế cũng còn quá nhẹ. Cuộc sống êm đềm vì cả Tú lẫn Thơ đều không nhìn lên, không ganh tị hay so sánh  với ai. Thơ vẫn tâm niệm rằng mỗi một con người đều có số mệnh riêng. Và mình biết đủ là đủ. Con cái lớn dần, đã ra riêng để sống cuộc sống của chúng. May mắn sức khỏe hai vợ chồng nàng khá tốt. Thơ luôn cám ơn Trời Phật đã cho gia đình nàng thoát khỏi chế độ bạo tàn và đưa đẩy đến xứ sở Canada, một xứ sở giàu mạnh lại đầy lòng nhân ái, vị tha. Một trong những nơi đáng sống nhất thế giới. Vợ chồng nàng không mong gì hơn. Thỉnh thoảng cơn ác mộng vẫn hiện ra, nhưng hình như càng ngày càng cách xa nhau. Thơ hy vọng trong tương lai “Nó” sẽ không đến quấy rầy nàng nữa. Thơ chỉ cầu mong được sống một cuộc đời bình lặng, thanh thản bên Tú và các con. Mong lắm thay!

TiểuThu

Mùa Đông 2024

NGUYỄN XUÂN GIÁO1

      1Cựu Trưởng Ty Cảnh-Sát Công-An Quốc-Gia, Tỉnh Thừa-Thiên.

Tôi ở “An-Điềm” mới chuyển qua,

Anh từ “Tiên-Lãnh” cũng đưa ra.

Một trăm bốn chục tù nguy-hiểm

Nhốt kín rừng sâu “Đồng-Mộ” xa.

Ai bảo!  Bên ngoài: dân không “an”!

Bên trong: can-phạm cũng không “ngoan”!

Những tên đầu-sỏ: cần cô-lập,

Dập tắt trong đầu… mọi tính-toan!

Chúng bắt đi làm, mệt xỉu xâm;

Ngày hai lạng sắn (quý hơn sâm!)

Trích trong tiêu-chuần không lao-động:

Mấy chục ăn vào, trăm mấy thâm!2

      2Mấy chục người đi “lao-động” được cấp thêm mỗi người mỗi ngày 200 gr sắn, xén bớt từ khẩu-phần cầm-hơi của hơn một trăm người không đi “lao-động”.

Những lúc đi chung một chặng đường,

Thấy anh tôi qúa ngậm-ngùi thương:

Tôi còn bước được theo đồng-đội,

Anh lết chân sên  một bộ xương!

Âu-dược gia-đình tiếp-tế cho:

Trại không có thuốc  nhập vào kho!

Cầu nhiều, cung ít, tù nhiều bệnh,

Đến lúc anh cần: hết sạch vo!

Bảy chín qua đi trong tối-tăm,

Tám mươi dời trại xuống “Thôn Năm”.

Rồi anh ngã bệnh, ngày càng yếu,

Đi+đứng xiên xiêu, phải dựa+nằm.

Xin chúng cho anh được viết thư:

Thư mang hy-vọng hoá huyền-hư.

Chúng cho viết hết, nhưng… không gửi!

(Điều đó, anh+tôi đã biết dư!)

Trí lụn, thân suy, óc muộn phiền;

Cháo ngày hai sét, đói liên-miên!

Thuốc-men chẳng có, không săn-sóc!

(Nếu chết thì lôi ra trước hiên!)

Đến lúc anh như đã hụt hơi,

Nửa mình lạnh cứng, tay buông xuôi,

Chúng cho võng chở về “Tiên-Lãnh”;

Chúng bảo: anh đi bệnh-viện rồi!

Đồng-bạn mừng cho anh gặp may:

(Không như Xuân, Xáng3 chết trong này)

Nào: “tiêu-chuẩn” thuốc!  nào: “y-tá”!

Nếu được cho về nữa, lại hay!

      3 Trung-tá Trần Như Xuân chết tại “Đồng-Mộ”; trung-tá Trần Phước Xáng chết tại “Nhà Trắng” trong trại “Thôn 5” (Trại “Tiên-Lãnh 2”); đều thuộc Quận Tiên-Phước, Tỉnh Quảng-Nam.

                       *

Tám mốt, tôi từ “Kho Đạn” lên

Mới hay anh Giáo đã… quy-tiên!

(Chúng đem về nhốt trong phòng tối

Được độ vài hôm… thì là… yên!)

Ấy đấy!  Công ơn chúng hải-hà:

Đã không giết chết, không đòn tra,

Còn cho “học-tập”, cho lao-động,

Để “tốt” mà mau trở lại nhà!

Biên-bản về anh chắc chúng ghi:

(Cũng như Xuân, Xáng: sướng ai bì!)

Thuốc-men! ăn+uống! và chăm-sóc!

Bác-sĩ  đồng-tù  ký… chứng-tri!

Còn nhớ hôm nào: anh với tôi

Cùng bàn thế-sự, máu cùng sôi;

Ta dùng tiếng Pháp trên đầu địch,

Thù giặc, căm-hờn lũ… tớ-tôi!

Anh đã là tù thuở ngáo-Ngô;

Tôi: tù phong+thực lẫn mê-nô.

Bây giờ ta lại tù man-Cộng:

Anh hết, tôi còn… tới lúc mô?

Nhưng, hễ trên cao còn Trời Xanh,

Thì còn lưong-hảo thắng gian-manh!

Tôi nguyền đóng góp cho Đời đẹp,

Cho thoả lòng Người, thoả dạ anh!

                  Tiên-Lãnh 1, 02/03/1981

                         THANH-THANH

MTT-Lam-sao-ma-quen-duoc-30-4-75-1 MTT-Tuoi-tre-hoi-nhap-2025

CÁC BÀI VIẾT TỪ TRANG THÂN HỮU LONG HỒ VĨNH LONG:


Long Hồ Vĩnh Long: 50 Năm Bụi Mờ – Sáng Tác: Lê Tín Hương – Ca Sĩ: Anh Dũng
Long Hồ Vĩnh Long: Người Tôi Yêu-Tô Đình ĐàiLong Hồ Vĩnh Long: 50 Năm -Cao Vị KhanhLong Hồ Vĩnh Long: Hổ Tướng Đất Việt-Kim PhượngLong Hồ Vĩnh Long: Tháng Tư Nhớ Sài Gòn-Trần Bang ThạchLong Hồ Vĩnh Long: Kỷ Niệm Không Mờ Phai -Tiểu ThuLong Hồ Vĩnh Long: Saigon Xưa Không Còn – Nhạc & Lời Phạm Anh Dũng & Nguyên Bích – Ca Sĩ: Kim OanhLong Hồ Vĩnh Long: Ðêm Ba Mươi- Nguyễn Phan Ngọc AnLong Hồ Vĩnh Long: 50 Năm Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa-NguyễnThịThanh DươngLong Hồ Vĩnh Long: Nước Non Ngàn Dặm Ra Đi – Sáng Tác: Phạm Duy – Tiếng Hát: Mã Thị LợiLong Hồ Vĩnh Long: Nắng Hạn Tháng -Lê Mỹ HoànLong Hồ Vĩnh Long: Chiến Sĩ Bất Tử -Lê Huy TrứưLong Hồ Vĩnh Long: Tiệc Lính-Minh ThúyLong Hồ Vĩnh Long: Tháng Tư Về, Em Có Nghe? – Kim LoanLong Hồ Vĩnh Long: Bài Thơ Năm Mươi Năm – Nguyễn Vĩnh LongmLong Hồ Vĩnh Long: Ngày Tháng Tư-Kim PhượngLong Hồ Vĩnh Long: 50 Năm Vẫn Hoài…Kim Oanh

*********************************************

KHG Dương Nguyệt Ánh – Hình do cô Ánh gửi cho HLC 2025

Đã 50 năm qua kể từ ngày miền Nam rơi vào tay cộng sản (CS). 50 năm là một thời gian đủ dài để cho những người Việt tha hương xây dựng lại mái nhà và một đời sống sung túc mới bên ngoài quê hương.  Nhưng 50 năm vẫn chưa đủ dài và có lẽ sẽ không bao giờ đủ dài để chúng ta quên đi cái tang chung và quên được Việt Nam (VN), hay nói rõ hơn là quên được Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).

Những ngày tháng đầu đặt chân đến Hoa Kỳ (HK) tị nạn, tôi vô cùng ngỡ ngàng khi thấy truyền thông, báo chí, sách vở, phim ảnh và học đường HK mô tả chiến tranh VN khác hẳn với những gì chính tôi và gia đình tôi đã sống qua. Vì thiên tả và phản chiến, họ đã thiếu lương thiện hoặc mù quáng đến nỗi bóp méo sự thật và nhục mạ không chỉ quân đội VNCH mà cả binh sĩ HK của họ. Vì thế quần chúng HK nói riêng và thế giới nói chung có một hiểu biết rất sai lệch về chính nghĩa của miền Nam. Bao nhiêu năm sau khi miền Nam sụp đổ, tôi vẫn mang trong lòng một cái hận. Cái hận nước mất nhà tan chưa đủ, tôi còn mang thêm nỗi uất hận và cảm giác đau đớn bất lực khi thấy chiến sĩ của mình tiếp tục bị hàm oan và sỉ nhục.  Những người quân nhân HK thì bị vơ đũa cả nắm là những tên sát nhân phụ nữ và trẻ thơ.  Những chiến sĩ VNCH vào sinh ra tử trong đó có anh ruột tôi thì bị vu khống là hèn nhát.  Cả quân đội VNCH bị bỏ rơi và cuối cùng bị ra lệnh đầu hàng vào 30 tháng 4 mà tại sao bị đổ tội làm cho mất nước.

Hôm nay, tôi vẫn còn mang trong lòng sự tức giận này nhưng tôi không còn cảm thấy bất lực nữa.  Trong khi tôi từ một người tị nạn buồn tủi năm xưa trở thành một công dân HK với đầy tự tin hôm nay thì tôi cũng đã học hỏi và nhận ra được nhiều điều.  Tôi nhận ra rằng chính chúng ta phải tự giúp mình, chính chúng ta phải lên tiếng phản bác lại bọn truyền thông thiên tả, phải tự giải oan và không trông chờ vào ai khác.  Ở những quốc gia tự do dân chủ như HK, ai cũng có thể lên tiếng tranh đấu hay bênh vực cho bất cứ một điều gì.  Ngày nay với những sách báo điện tử và những trang mạng xã hội, truyền thông dòng chính không còn giữ độc quyền hướng dẫn dư luận nữa, và tiếng nói của thiểu số như chúng ta sẽ không sợ bị át giọng, miễn là ta có đủ quyết tâm.

Là thế hệ tị nạn đầu tiên chúng ta đã tạm lo xong chuyện cơm áo, đã thành công rực rỡ trên quê hương mới ở nhiều phương diện, và đã dựng lên những cộng đồng Việt trù phú ở khắp nơi. Bây giờ là lúc chúng ta đủ phương tiện và kinh nghiệm để dồn nỗ lực vào việc trả lại sự thật cho lịch sử.  Chính chúng ta phải phục hồi danh dự cho chiến sĩ của mình và chính chúng ta phải giáo dục quần chúng về chiến tranh VN và chính nghĩa của quân dân VNCH, nhất là cho thế hệ con cháu của chúng ta.  Với tình trạng thiên tả ở các học đường HK, từ sách vở tài liệu giảng huấn cho đến khuynh hướng chính trị của giáo sư, chính con cháu chúng ta cũng sẽ hiểu biết sai lệch nếu cha mẹ không giải thích.

Hậu quả là con cháu chúng ta không những sẽ không biết hãnh diện mà có thể còn mặc cảm về nguồn gốc VNCH của họ, cho rằng cha ông chỉ là những kẻ thua trận cay cú nên mới chống chính quyền VNCS. Từ đó họ không tha thiết đến việc tìm biết thêm về cái gốc của mình, không tham gia vào sinh hoạt của cộng đồng người Việt quốc gia (CDNVQG), và thờ ơ với những vấn đề liên quan đến sự trường tồn của dân tộc VN.  Còn nếu họ có lòng và vẫn quan tâm đến VN thì chính vì họ xa lạ với CDNVQG, họ sẽ dễ nhiễm tuyên truyền và dễ ngả về phía CSVN.

Một trong những chiêu bài bọn tay sai CS ở hải ngoại dùng nhiều nhất là kêu gọi hòa hợp hòa giải và hợp tác với chính quyền VN. Đã gọi là hợp tác tức là phải có một mục đích chung.  Mục đích của chúng ta là bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ chủ quyền quốc gia của VN, là tạo tự do, cơm no áo ấm cho người dân VN.  Mục đích của họ chỉ là củng cố quyền lực cho đảng và giai cấp tư bản đỏ, bằng mọi giá và bất chấp mọi hậu quả cho dân tộc và tổ quốc VN, như đã được chứng minh bằng những hành động dâng đất dâng biển cho Trung Cộng và ăn cắp tài nguyên quốc gia làm của riêng.  Mục đích của họ và của ta không những không thể dung hòa mà còn đối kỵ nhau nên người Việt quốc gia hải ngoại không thể hợp tác hay hòa hợp hòa giải gì với nhà cầm quyền VN được. 

30 tháng 4 không thể chỉ là một ngày tang buồn với những hồi tưởng và nước mắt.  Khi nhớ đến những cái chết bi hùng của chiến sĩ VNCH và những tai ương đã đổ lên đầu quân dân miền Nam, chúng ta cần có những bước tới tích cực hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa, để trả lại sự thật cho lịch sử, để giáo dục tuổi trẻ VN và dư luận thế giới về chiến tranh VN và phục hồi danh dự cho quân dân VNCH. 

Tôi xin nhân dịp này bầy tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với những ai đã từng tranh đấu và hy sinh cho chính nghĩa tự do của miền Nam VN, những chiến sĩ đã bỏ mình, và những thưong phế binh đang sống tủi cực ở quê nhà.  Nhờ chiến sĩ mà hôm nay tôi được sống tự do và bình an, được có cơ hội để theo đuổi những hoài bão riêng và mưu tìm hạnh phúc cho riêng mình.  Tôi mãi mãi không quên ơn chiến sĩ.

Dương Nguyệt Ánh

April 2025

===============================

==============================

CHUẨN-TƯỚNG HUỲNH THỚI TÂY

Lê Xuân Nhuận

MỘt hôm, vào đầu tháng 3 năm 1975, tôi được Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia/Ngành Đặc-Biệt gọi vào mà không cho tôi biết trước lý-do hay mục-đích gì.

Cũng được xe-hơi dân-sự đón từ phi-trường, nhưng đến văn-phòng của Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương thì viên thiếu-tá bí-thư mời tôi qua gặp Trung-Tá Phạm Văn Ca, Giám-Đốc E2 (Nha Phản-Tình-Báo/Nội-Chính), theo lệnh của Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây.  

Tôi đã từng cùng Trung-Tá Ca đi tu-nghiệp về “Chống Khuynh-Đảo” tại Úc-Đại-Lợi vào năm 1970 nên quen thân nhau.

Ca bảo tôi:

‒ Ông Tướng muốn biết trong thời-gian qua anh có làm gì sai trái hay không.  Anh hãy ngồi đây, viết bản tự-thuật, kể hết những gì mà anh thấy là khuyết-điểm, xong rồi hãy qua gặp ông.

*

Tôi ngồi ôn lại mấy việc lớn/nhỏ mà tôi nghĩ là có thể đã làm Tướng Tây bất-bình về tôi…

Trung-Tá Nguyễn Mâu

Trong một buổi họp các cấp Trưởng E (Giám-Đốc Nha tại Trung-Ương và Nha tại các Vùng), Đại-Tá Huỳnh Thới Tây hỏi về “Biệt-Đội Thiên Nga” cùng các cơ-cấu không thấy có ghi trong Sắc-Lệnh tổ-chức của Ngành.   

Tôi trình-bày về “Chiến-Dịch Đại Phong” và “Ký-Giả Tự Do”.

Chiến-Dịch Đại Phong” là tên gọi của một phương-thức hoạt-động, theo đó thì nhân-viên Đặc-Cảnh sử-dụng người chỉ-điểm, là cán-bộ/bộ-đội/cơ-sở Việt-Cộng bị bắt mà tự-nguyện hợp-tác với ta, bằng cách ngụy-trang và tạo ngụy-tích cho đương-nhân không bị công-chúng, nhất là đối-phương, nhận ra.  

Ký-Giả Tự Do” là một/vài viên-chức Đặc-Cảnh hoặc cảm-tình-viên của Ngành, có năng-khiếu viết báo, làm phóng-sự, được giao nhiệm-vụ bí-mật trà-trộn vào giới ký-giả hiện đang ào-ạt săn tin giật gân, trong đó có nhiều phần-tử phản-chiến, thân-Cộng và cả là cộng-sản trá-hình.  Ngành Đặc-Biệt can-thiệp với Bộ Thông-Tin, cấp “Thẻ Ký-Giả” cho họ, để phòng có ai thắc-mắc thì đưa ra cho họ xem.  “Tự Do” nghĩa là gửi bài đăng trên bất-cứ báo nào, không hẳn là cộng-tác-viên nhất-định của một báo nào.

Tôi đã thật-tình và vô-tình nói rằng đó là những sáng-kiến của Trung-Tá Nguyễn Mâu.

Đại-Tá Tây ném mạnh cây bút xuống bàn, dằn giọng:

‒ Tôi là Huỳnh Thới Tây; làm việc với tôi thì hãy chỉ biết có tôi; tôi không cần biết Nguyễn Mâu là ai.

Việc Thăng-Thưởng Nhân-Viên

Một lần khác, cũng họp tham-mưu như trên, bàn về vai trò của “Cán-Bộ Điều-Khiển” (Case Officer: Điệp-Trưởng) trong các công-tác xâm-nhập (nguời của ta, do ta xây-dựng rồi cài vào hàng-ngũ địch) và nội-tuyến (người của địch, được ta móc-nối, sử-dụng làm tay-trong cho ta).

Đại-Tá Huỳnh Thới Tây ngỏ ý muốn nâng-đỡ giới này.  

Tôi lấy tư-cách là người thực-sự đi sát và hiểu-biết nội-tình tại chỗ, trình-bày:

‒ Trước đây, Người Bạn Đồng-Minh đã nghĩ đến việc cấp một ngân-khoản phụ-trội hàng tháng cho tất cả viên-chức Ngành Đặc-Biệt, nhưng bên Cảnh-Sát Sắc-Phục phản-đối, nên việc không thành.  Theo tôi, đáng khuyến-khích nhất là Cán-Bộ Điều-Khiển, như đại-tá vừa nêu ra.  Nhưng đa-số Cán-Bộ Điều-Khiển thì là hạ-sĩ-quan.

“Nếu dùng sĩ-quan thì không những dễ-dàng hơn trong việc tiếp-xúc và nhờ-vã sự giúp-đỡ của người khác, mà còn có nhiều uy-tín và được tin-tưởng hơn đối với chính mật-viên của mình.  Nhưng sĩ-quan Cảnh-Sát Đặc-Biệt thì đa-số đều mong được giữ chức-vụ chỉ-huy, mà khi đã là cấp chỉ-huy rồi thì họ lại mong được qua Sắc-Phục, hay nói đúng hơn là họ mong được hưởng những lợi-lộc như bên Sắc-Phục.  Thí-dụ, ngay cả khi đã được cấp một chiếc xe Jeep rồi, mà xe lại có màu sơn và mang bảng số của xe thường-dân, thì họ vẫn thấy thua-kém xe Jeep sơn 2 màu lục+trắng của Cảnh-Sát (Sắc-Phục), vì bên Sắc-Phục vẫn được dân-chúng nể-sợ và dành cho nhiều ưu-tiên hơn.

“Còn muốn tưởng-thưởng các hạ-sĩ-quan CBĐK hữu-công thì cách xứng-đáng nhất là thăng cấp cho họ; nhưng họ vẫn nằm ở dưới các Trưởng G  (Phòng), Trưởng H (Ban), nên họ còn lâu mới được thăng lên sĩ-quan.”

Đại-Tá Tây dằn mạnh cây bút xuống bàn, thốt lên một tiếng chửi thề, bỏ ra khỏi phòng.

Mọi người lặng im, lo sợ giùm tôi.  Trung-Tá Nguyễn Văn Thuận, Trưởng D3 (Phụ-Tá Chuyên-Môn của Trưởng Ngành ĐB Trung-Ương) đưa tay ra dấu cho tôi chú ý đến anh.  Trước kia, anh cũng đi Úc cùng chuyến với Ca và tôi.

Thuận nói:

– Mọi sự thưởng/phạtthăng ai, giáng aiđều nằm trong tay của ông.  Nếu anh xin ông ban ơn đặc-cách thăng cấp cho các phần-tử hữu-công, thì ông sẽ mát lòng hơn.

Hệ-Thống Liên-Lạc Cảnh-Sát Hình-Sự

Trong vụ phi-cơ “Air Vietnam” bị nổ lựu-đạn tại Phi-Trường Phú Bài, Huế, khi tôi biết được thủ-phạm là Nguyễn Cửu Viết, tôi liền gửi điện cho Bộ Chỉ-Huy CSQG Quận liên-hệ tại Sài-Gòn, là nơi cư-ngụ của một người bạn của thủ-phạm (mà theo tin-tức tôi nhớ từ hồi còn ở Vùng II thì Viết đã nhờ chính người bạn này tìm-kiếm cho y một quả lựu-đạn) yêu-cầu trong đó chấp-cung “người-bạn” ấy.

Đại-Tá Tây cho rằng tôi đã vượt quyền, không trình lên ông là cấp trên, để ông ra lệnh cho các cấp dưới hữu-trách ở địa-phương khác thi-hành.

Theo tôi thì đây là thủ-tục hình-sự; tôi, với tư-cách Hình-Cảnh-Lại (danh-xưng mới, trước kia là Tư-Pháp Cảnh-Lại), Phụ-Tá Biện-Lý (Công-Tố-Viên) của Tòa Án Sơ-Thẩm, tại Đà-Nẵng (tôi cũng là Phụ-Tá Chưởng-Lý của Tòa Án Thượng-Thẩm Vùng I, tại Huế), tôi có thể phát lệnh truy-nã, trực-tiếp nhờ sự tiếp tay của các Hình-Cảnh-Lại khác (Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Khu, Tỉnh, Thị, Quận, v.v…) trên khắp nước, trong những vụ án cần được khẩn-cấp tầm+tra.

Huống chi CSQG của Việt-Nam Cộng-Hòa đã là Hội-Viên của Cảnh-Sát Quốc-Tế (InterPol).  

[Hoa-Kỳ đã giúp Việt-Nam Cộng-Hòa tuyển-dụng viên-chức có bằng đại-học luật-khoa, nghiên-cứu về luật quốc-tế, hướng-dẫn tham-gia tổ-chức Cảnh-Sát Quốc-Tế [InterPol], thành-lập chi-nhánh Việt-Nam của Cảnh-Sát Quốc-Tế, đặt trụ-sở tại Tổng-Nha (nay là Bộ Tư-Lệnh) Cảnh-Sát Quốc-Gia.]

Trong một số trường-hợp khẩn-cấp các Hình-Cảnh-Lại còn có thể liên-lạc phối-hợp hoạt-động với nhau, không những vượt quản-hạt hành-chánh trong một nước, mà còn có thể vượt cả biên-giới quốc-gia.

Cấp-Hiệu CSQG cho Thám-Sát Đặc-Biệt

Vì đã huy-động Thám-Sát Đặc-Biệt* đi hoạt-động chung với Cảnh-Sát Dã-ChiếnCảnh-Sát Sắc-Phục, và cả Nghĩa-QuânĐịa-Phương-Quân, nên tôi đề-nghị với Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng CSQG Khu I, và đã được ông chấp-thuận, cho một số cấp chỉ-huy của Thám-Sát Đặc-Biệt tại Vùng I được mang cấp-hiệu CSQG, để có uy-tín đối với các đơn-vị bạn mỗi khi đi phối-hợp hành-quân.

Họ mặc sắc-phục Cảnh-Sát Dã-Chiến, đội mũ-nồi bằng nỉ màu lục của Thám-Sát Tỉnh (PRU= Provincial Reconnaissance Unit) cũ, nhưng cấp chỉ-huy không mang dấu-hiệu gì để các cơ-quan đơn-vị bạn nhận biết rõ-ràng.

Nay thì tại Vùng I họ được mang thêm cấp-hiệu CSQG:  Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đội Thám-Sát Đặc-Biệt Khu I mang cấp-hiệu thiếu-tá.  Chỉ-Huy-Phó của đơn-vị này mang cấp-hiệu đại-úy.  Các Chỉ-Huy-Trưởng của Đội Thám-Sát Đặc-Biệt thuộc các Tỉnh/Thị trong Vùng I cũng mang cấp-hiệu đại-úy.

Đại-Tá Huỳnh Thới Tây cho rằng tôi đã lạm quyền, vì Quyết-Định của Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc là do đề-nghị của tôi.

Riêng về việc này thì tôi tự nhận là đã xúi ẩu để Đại-Tá Lộc chấp-thuận, vì nếu chờ-đợi Trung-Ương thì chắc khó có kết-quả, bởi lẽ Thám-Sát Đặc-Biệt chưa có quy-chế thực-thụ CSQGkhông có cấp-bậc, chỉ có chức-vụ và còn hưởng lương theo mức cố-định từ thời còn ở dưới quyền của CIA.  Vả lại, việc mang cấp-hiệu này chỉ có giá-trị đối với 2 viên-chức tại cấp Vùng, và một viên-chức tại mỗi Tỉnh/Thị, và chỉ trong khi tham-gia hành-quân phối-hợp mà thôi.  

[Hồi tôi còn làm Trưởng Ngành Cảnh-Sát Đặc-Biệt Vùng II, tôi đã trình xin và được Tư-Lệnh Quân-Đoàn II/Vùng II Chiến-Thuật chấp-thuận cho một trung-sĩ Cảnh-Sát Đặc-Biệt ở Tỉnh Bình-Thuận được mang cấp-bậc đại-úy QLVNCH để vào làm việc trong Ban Liên-Hợp Quân-Sự 4-bên.  Nay làm Giám-Đốc Đặc-Cảnh Vùng I, tôi cũng đã xin và đã được Tư-Lệnh Quân-Đoàn I/Quân-Khu I chấp-thuận cho vài trung-sĩ Cảnh-Sát Đặc-Biệt của tôi ở Đà-Nẵng được mang cấp-bậc đại-úy QLVNCH để vào làm việc tại Ban Liên-Hợp Quân-Sự 2-bên.]

Một Khẩu K-59 Tước Được của VC

Trong một cuộc hành-quân, Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Nam có tịch-thu được của Việt-Cộng một khẩu súng lục mới lạ, Địa-Phương chưa thấy lần nào.

Thiếu-Tá Chánh-Sở Lâm Minh Sơn báo-cáo lên tôi, tôi báo-cáo lên Bộ Tư-Lệnh/Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương.

(Lệnh trên ban xuống từ trước là trong trường-hợp tương-tự thì hãy chụp ảnh, mô-tả đặc-điểm hình dáng khẩu súng để xem nó thuộc loại nào.)  

Sau đó, tôi nhận được lệnh nạp trình chiến-lợi-phẩm ấy lên Trung-Ương.

Gặp lúc có một cuộc họp tại Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, tôi được mời vào tham-gia.

Sau phần thuyết-trình tổng-quát của tôi, Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây hỏi tôi về khẩu súng trên.

Tôi có mang theo bản sao của tờ báo-cáo kèm theo hình-ảnh mô-tả của khẩu súng lụcgửi rồi nhưng chắc chưa đến tay ôngnên tôi lấy ra đưa cho ông xem.  Tướng Tây đọc báo-cáo và nhìn hình-ảnh, xong hỏi khẩu súng đâu rồi, hãy trao cho ông.

Tôi đâu có khẩu súng ấy mà trao.

Số là Đặc-Cảnh ở Tỉnh đồng-thời cũng có báo-cáo kết-quả hành-quân lên Tỉnh, nên viên Tỉnh-Trưởng sở-tại đòi xem khẩu súng ra sao.  Thấy khẩu súng quý, vì mới bắt được lần đầu, viên đại-tá Tỉnh-Trưởng bèn giữ lại, nói là mượn xem ít hôm.  Liền đó, gặp dịp Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu ra thăm Quảng-Nam, viên Tỉnh-Trưởng sở-tại đưa khẩu súng ấy ra khoe; và thấy Tổng-Thống tỏ ý thích nó nên viên Tỉnh-Trưởng tặng luôn.

Thường thì chúng tôi báo-cáo tóm-tắt sự-việc ngắn gọn ra ở phần trước, còn các chi-tiết phụ-thuộc thì ghi ra ở phần sau, với các tài-liệu liên-hệ kèm theo.

Do đó, tôi đáp (như có ghi ở phần sau báo-cáo):

– Trình thiếu-tướng, Tổng-Thống đã lấy khẩu súng ấy rồi.

Nhưng Chuẩn-Tướng Tây chưa đọc phần sau của bản báo-cáo, không hỏi chi-tiết làm cách thế nào mà khẩu súng ấy lại đến thấu tay Tổng-Thống; ông nghĩ là tôi đã “qua-mặt” ông, tự ý vượt cấp tâng công trực-tiếp với vị Nguyên-Thủ Quốc-Gia.

Ông tức, gằn giọng:

– À, anh đã muốn “kiếm điểm” trực-tiếp với Tổng-Thống thì từ nay trở đi có gì anh cứ lên thẳng Tổng-Thống, đừng cần thằng này nữa nghe!

Vài Ngoại-Lệ

Tôi nghĩ cũng cần báo-cáo cả những việc-làm ra ngoài nguyên-tắc, phần thì để tỏ là mình thành-thật, phần thì để phòng Cấp Trên đã biết cả rồi (?).

1. Đời công:  Tôi đã tự-ý thành-lập một “Phòng Tình-Hình” (không có trong sơ-đồ tổ-chức chính-thức của Ngành), để nhân-viên thay phiên nhau cùng làm việc 24 giờ/7 ngày với tôi, bắt cả nhân-viên trực máy tại các Tỉnh/Thị cũng cùng ở trong tình-trạng sẵn-sàng làm việc bất-cứ lúc nào liên-tục suốt ngày+đêm như tôi.

2. Đời tư:  Có lần một viên Thanh-Tra Trung-Ương ngỏ ý muốn xem sinh-hoạt ban đêm tại Đà-Nẵng.  Trong thời-gian đó, Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng cấm các sĩ-quan quân-nhân không được đến khiêu-vũ tại các vũ-trường, nên các Tỉnh/Thị-Trưởng cấm chung mọi người, mặc dù các chủ tiệm-nhảy đã được chính-quyền cấp cho giấy phép hành-nghề.  Tôi đã đưa viên Thanh-Tra ấy vào một phòng trà+ca+vũ+nhạc; gặp lúc không có nhân-viên Cảnh-Sát Sắc-Phục, các cô vũ-nữ đã ào ra sàn, ông cũng ôm eo một cô lả-lướt như ai.

*

Tôi nhờ đả-tự-viên tại văn-phòng E2 đánh máy, xong ký tên, đưa bản Tự Thuật ấy cho Trung-Tá Phạm Văn Ca.  Anh mang ngay vào trình cho Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây.        

Lát sau, Ca trở lại, nói rằng Ông Tướng đang bận, bảo tôi tiếp-tục tường-trình các hoạt-động tại các Tỉnh/Thị thuộc Miền Trung.

*

Công-việc của tôi không phải chỉ là gửi+nhận công-văn & công-điện và đi thanh-tra, bình-thường như một số cấp chỉ-huy trung-gian khác, nhất là cấp Vùng.

Tôi đã tích-cực thực-hiện công-tác an-ninh & phản-gián của chính cấp Vùng.  Có như thế mới xứng-đáng với sự hiện-diện và hiện-hữu của một cơ-quan cấp Vùng.

Đồng-thời tôi cũng hòa-nhập hoạt-động với các địa-phương, góp phần cụ-thể cùng họ vượt khó, tiến nhanh.

Tôi chỉ ghi lại một số sự-việc thí-dụ mà thôi.  Tính từ Quảng-Trị vào đến Quảng-Ngãi.  [Đã viết trong cuốn hồi-ký “Cảnh-Sát-Hóa” (trang 137-240) nên không nhắc lại ở đây.]

        Tôi đưa bản thảo nhờ đả-tự-viên đánh máy giùm, xong nghĩ là mình cũng nên ghi ra những gì mà các thuộc-viên có thể hiểu lầm, dẫn đến bất-mãn, xuyên-tạc gì chăng.

Đại-Úy Cao Viết Song của Tỉnh Quảng-Tín

Không hiểu vì sao mà Đại-Úy (sau này là Thiếu-Tá) Lâm Minh Sơn, Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Nam, và Đại-Úy Cao Viết Song, Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Tín, được Bộ Tư-Lệnh CSQG thuyên-chuyển vào Sài-Gòn; xong rồi Sơn được trở lại với trách-vụ cũ, còn Song thì không.

Nhân dịp vào Bộ Tư-Lệnh, tôi hẹn với Song hãy đến gặp tôi, để tôi dẫn vào trình-diện và xin với Đại-Tá Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, cho anh trở lại nhiệm-sở cũ.

Nhưng Song trễ hẹn.

Tôi chỉ có thể nhân lúc báo-cáo thành-quả công-tác mà xin cho Song.

Tôi vào gặp Đại-Tá Tâynhư một diễn-viên xuất-hiện trên sân-khấu vào một lúc nào đó nhất-định trong một vở tuồngchứ đã ra khỏi phòng-giấy của ông rồi, đã đóng xong vai tuồng của tôi rồi, thì diễn-viên-tôi không thể tự-dưng vào lại sân-khấu.  Tôi không thể nào trở lại, vào gặp bất-thường mà xin cho Song, bởi lẽ Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương bận rất nhiều việccó lần tôi thấy buổi chiều ông vẫn ở lại làm việc cho đến tối đêmvả muốn vào gặp thì phải trình xin phép trướcmà tôi thì không phải là một người thân-cận của ông.  Thế thôi.

Đại-Úy Nguyễn Văn Tuyên của E Khu I

Vì Đại-Úy X, Chánh Sở Nghiên+Kế tại E6 (Ngành Đặc-Biệt Khu I) của tôi, được Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng CSQG Khu I, cử đi làm CHT/CSQG một Quận trong Vùng, tôi chọn một trong các đại-úy giảng-viên tại F4 (Trung-Tâm Huấn-Luyện Tình-Báo Căn-Bản Khu I), là các sĩ-quan chưa giữ chức-vụ chỉ-huy, lên thay.

Tôi không quen biết ai, mà chỉ xét qua hồ-sơ cũng như nhận-xét của cấp chỉ-huy trực-tiếp là Trưởng F4, thấy họ đều tốt như nhau, nên tôi chọn Đại-Úy Nguyễn Văn Tuyên.  Tuyên là người có nét chữ viết tay khá đẹp, viết nhanh như tốc-ký (phòng khi tôi cần đọc gấp cho anh viết một văn-bản gì), và là tín-đồ Đạo Ki-Tô (để chứng-tỏ là mình không kỳ-thị aiNgay chính một viên vệ-sĩ và hai viên tài-xế của tôi, tôi cũng chọn người theo Đạo Kitô).

Nhân dịp cuối năm, có đợt thăng-thưởng chung cho mọi người, tôi đề-nghị cho anh lên thiếu-tá.

Tôi đích-thân thảo một Phiếu Trình đặc-biệt, bảo Tuyên cho đánh máy ngay, ghi số, đóng dấu, rồi trao tận tay cho tôi ký, để sáng hôm sau tôi mang vào Sài-Gòn, định sẽ nhân lúc tường-trình công-việc với Đại-Tá Huỳnh Thới Tây thì trao cho ông mà xin cho Tuyên.

Rồi tôi lo làm hồ-sơ thuyết-trình đến khuya, sáng lại là lên phi-cơ, vào gặp Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương.

Khi tôi đã làm xong việc tại Bộ Tư-Lệnh/Ngành Đặc-Biệt, nhân-viên biệt-phái tiếp-phát văn-thư tại Sài-Gòn mới tìm đến nơi tôi tạm-trú ở Sài-Gòn mà trao Phiếu Trình nói trên.

Cũng như trường-hợp của Cao Viết Song, tôi không thể nào vào lại, xin riêng cho Nguyễn Văn Tuyên.  Hồ-sơ (bình-thường) đề-nghị thăng cấp cho anh, nằm chung danh-sách với các ứng-viên khác, đã không qua lọt hội-đồng tuyển-lựa bình-thường tại Nha Viên-Chức/Tiếp-Trợ, vì không có kèm Phiếu Trình đặc-biệt của tôiđáng lẽ, nếu có, thì có bút-phê chấp-thuận đặc-biệt của Trưởng Ngành rồi.

Một Đại-Úy Muốn Có Chức-Vụ Chỉ-Huy

Có một đại-úy, tôi không nhớ tên, trong số các giảng-viên tại F4, có vợ là người quen thân với vợ của Đại-Tá Chỉ-Huy-Trưởng CSQG Khu I, đã nhờ bà này xin cho chồng mình được giữ chức-vụ chỉ-huy.

Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc ngỏ ý với tôi.

Tôi hứa là sẽ thu-xếp giùm.

Nhưng đối với Ngành Đặc-Cảnh thì việc đề-cử trách-vụ có phần khó-khăn hơn bên Sắc-Phục.

Ở Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia, hồi đó, có sự thi-đua hoàn-tất bổ-nhiệm, ổn-định chức-vụ, giữa các Khối, Nha, Sở, Phòng; từ Trung-Ương xuống các địa-phương.

Trưởng Ngành Đặc-Biệt tại Bộ Tư-Lệnh không muốn bị chê là mình làm chậm, hoặc không chính-xácnếu cứ thường-xuyên thay-đổi phương-vị người này, kẻ kia, nếu không có gì khẩn-thiếttức là xáo-trộn hệ-thống quản-trị, thống-kê, kế-toánvì mỗi chức-vụ (có hưởng phụ-cấp) đều cần được hợp-thức-hóa bằng một Nghị-Định của Bộ/Trung-Ương.

Rất tiếc là mãi rất lâu tôi vẫn chưa thể đề-cử anh được vào một vị-trí chỉ-huy nào, vì chưa có chỗ nào khuyếtđiều này hẳn là không làm vừa lòng bà vợ, và ngay cả cấp chỉ-huy trực-tiếp hàng ngang của tôi tại Vùng này…

*

Vì mọi người rất sợ Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình, không dám trình ông nhiều hơn những gì ông đã chỉ-thị, nên Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây cũng theo cách đó, ít ai dám hỏi nhiều hơn những gì ông đã nói ra.  

Tôi nhớ có lần Đại-Tá Tây ra lệnh cho Cảnh-Sát Đặc-Biệt toàn-quốc báo-cáo về vấn-đề “giành lấn đất-đai”.  Các nơi đua nhau thu-thập tài-liệu về chuyện chủ đất tranh-tụng nhau về bất-động-sản, công-thổ, tư-điền.  Tôi hỏi Nha Tình-Báo (E1) là nơi phát ra lệnh ấy, thì trung-tá Giám-Đốc Nha ấy cũng chỉ nhắc lại lệnh của Cấp Trên như thế mà thôi.  

Riêng tôi tự nghĩ chủ-quyền đất-đai là một hộ-sự, không thuộc Cảnh-Sát Quốc-Giacoi về hình-sựhuống gì Ngành Đặc-Biệt là cơ-quan chính-sự.  Chắc-chắn là việc Việt-Cộng nhân dịp ngưng bắn theo Hiệp-Định Paris mà lấn chiếm lãnh-thổ ở vùng xôi-đậu, nên đã bảo riêng các Tỉnh/Thị tại Vùng I tường-trình thêm về vụ này.  Quả-nhiên, trong buổi họp tại Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương mà Đại-Tá Tây cho mời cả các Phụ-Tá Đặc-Biệt cấp Tỉnh/Thị tại Khu I vào dự, tất cả các Chánh Sở Đặc-Cảnh liên-hệ đều thuyết-trình giống như tài-liệu cấp Vùng của tôi; lúc đó mới biết là đúng nhu-cầu của ông.

Do đó, tôi không biếtvì hẳn Trung-Tá Phạm Văn Ca cũng không hỏi nên không biếtthực-sự Chuẩn-Tướng Tây muốn tôi trình-bày những gì.

*

Cuối cùng tôi được mời vào gặp Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây.

Ông cười hỏi tôi:

– Anh ngạc-nhiên lắm hả?  

Tôi chưa biết phải nói gì thì Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương đã nói ngay:

– Chính tôi mới là người ngạc-nhiên, về anh.

“Ở Vùng I:  Chánh Sở An-Ninh Quân-Đội đề-cao anh; Tham-Mưu-Trưởng Quân-Đoàn & Quân-Khu khen-ngợi anh; Trung-Tướng Tư-Lệnh Ngô Quang Trưởng ban-thưởng Anh-Dũng Bội-Tinh cho anh 3 lần, 2 với ngôi sao bạc, 1 với ngôi sao vàng.  Cộng chung, tại Vùng I, cũng như tại Vùng II, ngoại-trừ các sĩ-quan quân-đội biệt-phái qua, thì anh là sĩ-quan Cảnh-Sát có nhiều huy-chương nhất, cả các loại của các quân-chủng bên quân-sự lẫn các loại của các Bộ bên dân-chính, và các loại huy-chương của Cảnh-Sát Quốc-Gia.

“Ở Trung-Ương:  tôi hỏi các phụ-tá của tôi, Giám-Đốc các Nha, thì không ai chê-trách gì anh, mà họ còn tỏ ra quý-mến anh.

“Tôi đã phái Trung-Tá Phạm Trọng Tú, Thanh-Tra-Trưởng, ra tận nơi dò xét về anh, nhưng không tìm thấy điều gì sai trái, chỉ toàn ưu-điểm mà thôi…”

Ông cười, khiến tôitừ chỗ thoạt đầu lo-ngại, tiếp đến ngạc-nhiên, rồi là vui-mừngcũng cười theo ông.

Rồi ông đứng dậy, khiến tôi cũng đứng dậy theo.

Ông kết-luận:

– Tôi chỉ trực-tiếp trắc-nghiệm, để anh tự mình nói ra, rằng mình đã có làm gì bậy-bạ hay không.  Mà không thì là tốt rồi.  Thiếu-Tướng Tư-Lệnh cũng có đường dây kiểm-soát riêng, và cũng nhận thấy là anh có tài, có công, có tư-cách, đáng được tưởng-thưởng.  Thiếu-Tướng đã ra lệnh thăng cấp cho anh vào “Ngày Cảnh-Lực” 1-6-1975* này.  Bộ Tư-Lệnh đã dự-trù sẽ bổ-nhiệm anh vào một chức-vụ nào đó, quan-trọng và xứng-đáng hơn cương-vị hiện-thời.

“Thôi, chúc mừng anh. Tiếp-tục cố gắng.

“Và vui-vẻ ghé Nha-Trang thăm gia-đình nha!”

*Ngày ấy chưa đến thì Việt-Nam Cộng-Hòa đã tiêu-vong.

LÊ XUÂN NHUẬN  

Ghi chú:

   Cựu Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành Đặc-Biệt toàn-quốc (mà tôi gọi làTư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương), sau ngày mất nước, đau nỗi đau chung, đã lặng-lẽ ẩn mình trong bóng tối, không xuất-hiện nơi công-cộng, không tuyên-bố, phát-biểu điều gì. 

        Ông mất tại Westminster, CA, USA, ngày 12-9-2010, hưởng-thọ 78 tuổi.

=====

Lê Xuân Nhuận

TÔI đã phát-biểu với Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia, có cả Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương, cùng nghe, rằng nếu tôi còn đảm-trách an-ninh & phản-gián Vùng I ngày nào thì ngày đó tôi còn ngăn-chận được mọi cuộc biến-loạn, cho Vùng ấy, và, do đó, cho cả Miền Nam*.

Tôi nói như thế liền sau khi tôi đề-nghị bổ-nhiệm hai sĩ-quan tín-đồ Kitô-Giáo làm Tỉnh/Thị-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh/Thị, là hai chức-vụ quan-trọng nhất trong chính-quyền tại Tỉnh Thừa-Thiên và Thị-Xã Huế. Như thế nghĩa là sau khi thay-đổi hai quan-chức ấy, mà nếu tình-hình ngoài đó vẫn còn bất-an, thì chính tôi mới là người có thể dẹp yên các mưu-đồ quấy rối nội-chính tại Huế và Thừa-Thiên.

Đề-nghị của tôi đã được Trung-Ương chuẩn-y ngay.

Thế rồi, mới dự lễ giao+nhận chức-vụ Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh/Thị giữa Thiếu-Tá Liên Thành và Trung-Tá Hoàng Thế Khanh ở Huế xong, tôi đã phải ra ngoài đó lại để chủ-toạ lễ giao+nhận chức-vụ Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh/Thị: Trương Công Đảm thay-thế Trương Công Ân.

*

Nhớ hôm Trung-Tá Hoàng Thế Khanh nhậm-chức, ngay sau buổi lễ tôi đã đi vào một số văn-phòng thuộc Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực cũng như thuộc Sở Đặc-Cảnh Tỉnh/Thị sở-tại, để quan-sát và nghe-ngóng tình-hình chung. Ngoại-trừ số đông lâu nay vốn có thiện-cảm với tôi, có một số ít viên-chức sắc-phục cũng như dân-phục mà qua ánh mắt của họ nhìn nhau trước, trong và sau khi họ nói chuyện với tôi, tôi cảm thấy rõ-ràng rằng, dù Ngành Công-Lực ở cố-đô có do cá-nhân hay phe-nhóm nào đứng đầu đi nữa, thì bây giờ, đối với thiểu-số ấy, tôi vẫn chỉ là một người khách lạ, một người dưng, đáng nghi, đáng phòng.

Trước kia, Liên Thành tưởng tôi ăn-ý với Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng I, là Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, vốn có khuynh-hướng Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng, để chống phe-phái Đại-Việt Cách-Mạng-Đảng mà trong đó anh cùng Trương Công Ân là đảng-viên cấp cao.

Giờ đây, cánh ấy lại tưởng tôi thoả-hiệp với lớp mới là những phần-tử cực-đoan của dư-Đảng Cần-Lao để chống phá Phật-Giáo.

Trong lúc đó, chính Hoàng Thế Khanh cũng lo đề-phòng tôi, vì tôi nguyên là nhân-vật đầu tiên công-khai đơn-độc chống chế-độ độc-tài nhà Ngô, bị mật-vụ triều Ngô gán cho là thành-viên quá-khích của Đảng Đại-Việt để phát-vãng tôi ra khỏi Miền Trung vào năm 1960…

Tôi thì xưa nay vẫn là một người độc-lập. Tôi coi nhẹ các cấp lãnh-đạo nhất-thời; tôi chỉ chú-trọng quảng-đại quần-chúng miên-viễn ngoài đời và đa-số công-chức & quân-nhân trung-chính trong Chính-Quyền mà thôi.

Tôi tách mình riêng ra khỏi các bộ-phận đón-tiếp và tháp-tùng, để tiện tiếp-xúc với một số cá-nhân bộc-trực, trong số này có Đại-Uý Trần Vĩnh Thuận tức “Thuận Xù”*. (*Xem “Ông Đồn Lợi”). Anh có một bộ tóc bù-xù nên bạn-bè đặt cho anh cái tên như trên.

Thuận là một trong số các bạn thân của tôi ngày xưa, nhất là giai-đoạn liền trước biến-cố 1960, là năm chúng tôi xa nhau. Bây giờ anh là Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực một Quận ngoại-ô trong Tỉnh Thừa-Thiên. 

Được tôi kéo ra để chuyện-trò riêng với nhau, câu nói đầu tiên của anh là trách-móc tôi:

– Tôi tưởng anh đã quên hết dĩ-vãng và bạn-bè!

Tôi chưa kịp nói gì thì Thuận đã nói tiếp, như để tăng phần khuấy-động tình-cảm trong lòng tôi:

– Anh Đặng Hữu Lợi đã chết, anh Trần Văn Cư đã mất, anh Phan Văn Trực đã qua đời, anh Lê Tấn Lực đã đi xa, anh Nguyễn Mầm đã thành phế-nhân, anh Nguyễn Duy Hát đã ra khỏi Ngành…

Những việc ấy, và cả nhiều việc khác nữa, tôi đã biết từ bao lâu rồi; nhưng khi nghe “Thuận Xù” nhắc lại tự-nhiên lòng tôi bỗng nhói đau như mới lần đầu tiên nhận được tin buồn về những người thân thương.

Chưa hết, “Thuận Xù” còn oái-oăm thò tay vào trong cổ áo tôi, nắn tìm xem tôi có mang một sợi dây chuyền nào không. Khi không thấy gì, anh mới ôm chầm lấy tôi mà hôn.

Ngày xưa, khi Ông Ngô-Đình Diệm mới về nước chấp-chánh, tôi là người đã ủng-hộ ông tận-tình, đơn-độc, liều-lĩnh ly-khai khỏi BTL Đệ-Nhị Quân-Khu, tức chống lại nhóm Hinh+Xương, dùng phương-tiện của Quân-Đội Quốc-Gia lúc ấy đang chống Diệm để phát-triển ảnh-hưởng ban sơ đang còn mong-manh của họ Ngô, mở đường cho thế-lực nền Đệ-Nhất Cộng-Hoà sớm vững mạnh bắt đầu từ Miền Trung.

Do đó, sau khi chính-quyền Diệm đã ổn-định, giới-chức hữu-trách trong Quân-Đội đã đề-nghị Trung-Ương ban thưởng “Quân-Công Bội-Tinh” cho tôi. Các sĩ-quan lãnh-đạo Ngành Chiến-Tranh Tâm-Lý tại Đệ-Nhị Quân-Khu, lúc đó toàn là những phần-tử thân-tín của Cố-Vấn Ngô Đình Cẩn, đã tặng tôi một sợi dây chuyền có treo một thập-tự-giá bằng vàng để làm kỷ-niệm khi quân-nhiệm của tôi đã mãn hạn-kỳ.

Thủa ấy, có nhiều công-chức và quân-nhân bỏ đạo của mình để theo Đạo Kitô. Số người cả trong lẫn ngoài chính-quyền tuy không phải là con chiên của Chúa mà cũng đeo thập-tự-giá dưới cổ thì khá đông. Không rõ do ai kể lại mà Thuận biết tôi cũng có một cái, nên anh cứ dòm chừng tôi, xem tôi có đeo hay không.

Ngày nay, “Thuận Xù” cố ý nhắc tôi nhớ lại cái vật trang-sức ấy, cái ý-nghĩa tượng-trưng của một phản-ứng người, trước một bối-cảnh đời.

Chỉ vừa mới thay-đổi cấp lãnh-đạo chính-viện Tỉnh có mấy hôm, và đến hôm nay thì mới thay-đổi cấp chỉ-huy Ngành An-Ninh (chưa động đến Ngành Phản-Gián) sở-quan, mà màu-sắc tín-ngưỡng của cá-nhân họ đã tác-động sâu-đậm lên tâm-lý của số đông viên-chức địa-phương như thế này sao?

Tôi cũng đã có linh-tính và ước-tính là sẽ có một cái gì đó xảy ra, nhưng tôi đã cắt đứt chiều-hướng xung-khắc của nhóm Linh-Mục Nguyễn Kim Bính ở Phú Cam đối với Chính-Quyền Tỉnh/Thị dưới thời Đại-Tá Tôn Thất Khiên rồi. Thế mà đường-lối đối-nghịch của họ lại nhắm sâu vào cả các chính-đảng và tôn-giáo khác, nhất là Phật-Giáo, mà tổ-chức quần-chúng là “Lực-Lượng Hoà-Hợp Hoà-Giải Dân-Tộc” thì cũng đang cùng đương-đầu với Chính-Quyền Trung-Ương.

Trong trường-hợp Đại-Việt Cách-Mạng-Đảng bất-hòa với Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng, chắc “Thuận Xù” không cần nhắc-nhở gì tôi. Chỉ có trường-hợp Kitô-Giáo chèn ép Phật-Giáo, mới khiến anh phải bày-tỏ thái-độ như thế với tôi.

Thế mới biết, làm một người trung-lập không phải là việc dễ. Hầu như mọi người, nhất là trong Chính-Quyền, trong các giáo-hội và trong các chính-đảng, đều đinh-ninh rằng, người nào cũng phải là đảng-viên của một đảng nào đó, tín-đồ của một đạo nào đó, hay ít nhất cũng là đồ-đệ của một nhân-vật nào đó. Điều tệ-hại nhất là khi người ấy không thuộc cùng một cánh với mình thì người ta coi người ấy như kẻ phản-động, như kẻ thù.

Đáng lẽ tôi nói cho “Thuận Xù” biết về lập-trường của tôi; nhưng tôi lại ngại là anh sẽ kể lại với người khác, và người khác ấy lại tưởng rằng tôi cốt thanh-minh để mong cầu một chút ân-huệ gì của họ chăng.

Năm 1954, nếu tôi vượt qua những thủ-tục thông-thường trong các cơ-quan quân-sự và hành-chánh, nhất là vượt qua lòng tự-trọng của chính mình, như lắm kẻ đã làm, đến kể công với Cố-Vấn Ngô Đình Cẩn, hoặc Cố-Vấn Ngô Đình Nhu, hoặc chính Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm, thì chắc-chắn là tôi đã được ban cho nhiều đặc-quyền đặc-lợi rồi. Năm 1967, nếu tôi kể công với Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu rằng tôi đã bí-mật nhúng tay phá vỡ âm-mưu đảo-chính của Thiếu-Tướng Nguyễn Cao Kỳ để bảo-toàn kết-quả cuộc bầu-cử đem lại thắng-lợi cho ông ngồi vững trên ghế Nguyên-Thủ Quốc-Gia, thì cũng chắc-chắn là tôi đã được trọng-thưởng nhiều rồi.

Vì tự-trọng và tự-ái, tôi chấp-nhận im-lặng, chỉ mình tự biết lấy mình.

Và mình đã nghĩ đúng, nói phải, làm hay, là đủ rồi.

Tuy nhiên, về vấn-đề đối-nghịch giữa Kitô-Giáo với Phật-Giáo thì tôi phải nói, vì tôi là một chứng-nhân.

Xét chung thì chế-độ Ngô Đình Diệm đã tạo hoàn-cảnh cho một số tín-đồ Kitô-Giáo, và cả một số không phải là con chiên của Chúa, xúc-phạm đến các tôn-giáo khác, nhất là Phật-Giáo mà tổng-số tín-đồ lên đến trên chín mươi phần trăm dân-số, nên các lãnh-tụ Phật-Giáo phải đứng lên tranh-đấu đưa đến cuộc Cách-Mạng 1-11-1963.

Ngày xưa, dưới thời Pháp-thuộc, các quan cai-trị thực-dân Pháp và triều-đình Huế tay-sai đều nằm trong vòng ảnh-hưởng của các cha-cố thuộc Toà Thánh Vatican, nhưng việc lấn-át chỉ xảy ra trong một số lãnh-vực và nhắm vào một số đối-tượng nhất-định, chứ không chèn-ép tràn lan người dân nô-lệ Việt-Nam vốn đại-đa-số là đệ-tử Cửa Thiền.

Liền trước thời Diệm, khi đế-quốc Pháp trở lại với súng đạn viễn-chinh thì cụ Trần Văn Lý lên chấp-chánh ở Miền Trung. Dù là một nhân-sĩ Kitô-Giáo, được Pháp và giáo-hội hậu-thuẫn và nể-vì, nhưng cụ có ỷ vào chức quyền để rẻ-rúng người nào không cùng tín-ngưỡng với mình đâu.

Dù sao, nếu cho rằng mọi tín-đồ Đạo Kitô dưới thời Diệm đều muốn đè bẹp Đạo Phật thì cũng không hoàn-toàn đúng.

Năm 1960, tôi bị đày lên xứ Thượng và bị “mật theo-dõi hành-vi chính-trị”, nghĩa là tôi thuộc thành-phần “phản-loạn” (dưới chế-độ Diệm không có “đối-lập”). Trớ-trêu thay, tôi được Giám-Đốc Cảnh-Sát Công-An trên này cử làm Trưởng Ban Điều-Tra Đặc-Biệt của Nha, bất-chấp lệnh cấm của Tổng-Nha. Nhiệm-vụ và quyền-hạn của tôi là bắt giữ, thẩm-vấn và lập hồ-sơ truy-tố các vụ vi-phạm, cả hình-sự lẫn chính-trị, khắp các Tỉnh ở cựu-Hoàng-Triều Cương-Thổ này.

Tại thủ-phủ của Cao-Nguyên, tôi đã đối-diện với nhiều tín-đồ Kitô-Giáo, vừa là thanh-niên học-thức, vừa là chấp-sự thân-cận của các Cha Xứ ở các Địa-Điểm Dinh Điền và Khu Trù Mật nổi tiếng thịnh-vượng và an-ninh của đồng-bào Miền Bắc di-cư, như Châu Sơn, Kim Châu Phát, Khuê Ngọc Điền, v.v…

Về mặt chính-trị nội-bộ, các thành-viên Kitô-Giáo bị báo-cáo là có ngôn-ngữ và thái-độ chống-đối Chính-Quyền, mà tôi lần-lượt mời đến hỏi cung, đều mạnh-dạn vạch rõ sai-lầm của chế-độ Diệm trong vấn-đề tôn-giáo, và khẳng-định rằng họ phản-đối mọi âm-mưu và hành-động của những kẻ đàn-áp Phật-Giáo. Chính Linh-Mục Nguyễn Viết Khai, là cha đỡ-đầu của Diệm, mà cũng chống Diệm về vấn-đề này. Theo họ, Thánh-Kinh tức là Lời Chúa, có khuyến-khích con chiên mở rộng Hội Thánh, nhưng bằng rao-giảng chứ không phải bằng bạo-lực hay mồi-bả vật-chất của thế-gian.

Biên-Tập-Viên Nguyễn Hữu Liêm và Thẩm-Sát-Viên Nguyễn Giang, ngồi cùng phòng với tôi, vừa làm việc vừa liếc nhìn tôi mà cười. Mà buồn cười thật, chính tôi cũng tự cười mình: một viên-chức an-ninh bị chế-độ trừng-phạt vì chống-đối chế-độ mà lại nhân-danh chế-độ đứng ra bắt lỗi những phần-tử cũng chống-đối chế-độ như mình!

Không lâu trước ngày tôi bắt đầu điều-tra các đối-tượng này, ở Ban Mê Thuột đã xảy ra một cái chết gây sôi-nổi dư-luận gần xa. Nguyên dưới quyền của Biên-Tập-Viên Liêm có một Đội Biệt-Kích Công-An, chuyên đi lùng diệt Việt-Cộng tại khắp các tỉnh Cao-Nguyên. Một hôm, có một đội-viên tên Nguyễn Văn Nam, cùng với đồng-đội mới đi công-tác về, bị mót đại-tiện nên vừa từ trên xe nhảy xuống là đã vội-vàng chạy tuốt vào trong nhà tiêu. Vì gấp-rút và không có gì khác hơn nên anh đã dùng một mảnh giấy báo mà lau hậu-môn. Ngẫu-nhiên có một đội-viên khác, cũng vào cầu-tiêu, trông thấy mảnh giấy báo của Nam có in ảnh của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, nên lưu-ý anh về việc này. Người bị bắt gặp quả-tang “phạm-thượng” đã rút súng tự bắn vào đầu chết ngay tại chỗAnh sợ bị đưa ra “phê-bình” trong các buổi “Học-Tập Chính-Trị và Công-Dân Giáo-Dục”, và sau đó là những hậu-quả khôn lường.

Một số trong các tín-đồ Kitô-Giáo nói trên, trong lúc khai-cung, đã đề-cập với tôi về vụ đó, và một người đã chất-vấn tôi:

– Dưới thời Nho-Giáo cực-thịnh, mọi người đều phải tôn-trọng ngay cả bất-cứ một mảnh giấy nào trên đó có Chữ Nho, vì Chữ Nho là biểu-tượng của Đạo Nho, của Đức Khổng-Tử. Tuy thế, nếu có kẻ dùng sách giấy có Chữ Nho, hình-ảnh Đức Khổng-Tử, mà lau hậu-môn, thì kẻ ấy chỉ bị quở mắng, hoặc bị đánh đòn, một lần rồi thôi, chứ có ai vì cái lỗi ấy mà bị hành-hạ tàn-nhẫn đến độ thà tự-tử chết còn hơn để bị bắt giam? Qua cái chết của anh ấy, cũng là đồng-nghiệp Công-An với các anh, các anh nghĩ sao về chế-độ này?

Các anh Liêm và Giang đã đồng-ý với tôi, dẹp bỏ biên-bản chấp-cung, để cho các phần-tử “Công-Giáo công-chính” ấy tự tay viết các lời khai theo ý họ, xong để họ ra về tự-do, rồi đệ-trình hồ-sơ lên Cấp Trên “để tuỳ-nghi thẩm-định” với cái đề-nghị đã trở thành công-thức là “tiếp-tục mật theo-dõi hành-vi chính-trị” của các đương-nhân.

Tôi nhấn mạnh với “Thuận Xù” điều đó, và nhắc thêm về biến-cố 1960: cùng bị đày ra khỏi Huế và các tỉnh thành lớn, lên miền lam-sơn chướng-khí một lần với tôi, còn có các anh Trần Văn Liệu và Trần Tòng; họ cũng là tín-đồ Kitô-Giáo, cũng là dân Phú-Cam, trung-tâm ảnh-hưởng của gia-đình họ Ngô. Trước đó, nhân-sĩ Trần Điền mà tôi quen thân hồi ông còn làm Giám-Đốc Nha Thông-Tin và hầu hết đồng-bào gần xa đều biết tiếng, là thủ-lãnh Hướng-Đạo Việt-Nam, là một nhà trí-thức Kitô-Giáo lừng danh, mà cũng chống-đối Diệm và bị Diệm kết án tử-hình…

Thế thì đâu có phải là đồng-bào Kitô-Giáo nào cũng dễ-dàng đồng-minh với Quỷ Satan?

Thế mà hiện nay vẫn còn có một số thuộc cả hai bên chưa chịu làm lành với nhau.

Ở Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia, người ta kháo chuyện với nhau về một chuyến đi thanh-tra Thừa-Thiên/Huế vừa rồi của Trung-Tá Trần Văn Hương.

Các cấp chỉ-huy ở đây bố-trí cho Hương ngủ ở khách-sạn, ăn ở nhà-hàng, và chi-tiêu linh-tinh gì đó. Khi anh về Trung-Ương rồi, Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực ngoài này, dưới thời Thiếu-Tá Liên Thành, liền gửi một xấp hoá-đơn vào Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia, nơi đã phái Hương đi công-tác, để xin thanh-toán tiền phòng, tiền ăn, v.v… cho Hương!

Ngoài việc Hương bị xem như đã có đòi-hỏi địa-phương cung-phụng này kia, các viên-chức khác từ đó về sau đều ngán Miền Trung, nếu phải ra Huế là lo giữ mình đủ điều.

Nguyên-do là Hương nguyên là Cảnh-Sát-Trưởng ở Huế, dưới thời Đệ-Nhất Cộng-Hoà, và là tín-đồ Đạo Kitô.

Vấn-đề tôi đặt ra với anh+em, không phải chỉ là cá-nhân Trần Văn Hương thật ra là một người tương-đối không quá xấu, không đáng để bị chơi khăm cách đó, nhưng mà là đối với bất-cứ ai, dù trong quá-khứ đã làm việc gì không hay, mà sau đó tình-trạng đã được giải-quyết rồi, và trong hiện-tại họ là người mới, không phạm lỗi gì, thì mình không nên tiếp-tục oán thù vì chuyện đã qua.

Chúng ta ai nấy đều có rất nhiều bạn thân, kể cả thân-nhân, không cùng tôn-giáo với mình. Đừng để sự khác-biệt tín-ngưỡng xen vào làm sứt-mẻ mối gắn-bó trong đời sống giữa những con người với nhau.

*

Trong nội-bộ Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên, có hai Phòng quan-trọng, là Nghiên+Kế và Tác-Vụ; mà hai Chủ-Sự Phòng thì không hợp nhau vì tín-ngưỡng khác nhau.

Trước kia, tôi được cho biết là Trung-Uý Dương Đại Chung báo-cáo tình-hình chính-trị quốc-nội cho Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, ngay cả trước khi lập công-điện hay công-văn trình lên Cấp Trên. Đây là một vấn-đề phức-tạp và tế-nhị vô cùng. Đúng ra, trên nguyên-tắc thì công-chức và quân-nhân không được tham-gia hoạt-động cho một đảng-phái chính-trị nào; nhưng trên thực-tế thì, dưới thời Đệ-Nhất Cộng-Hoà, Đảng Cần-Lao Nhân-Vị đã rập khuôn đảng cộng-sản mà đặt nền-móng bên trong các cơ-quan chính-quyền và đơn-vị quân-lực; và, dưới thời Đệ-Nhị Cộng-Hoà, Đảng Dân-Chủ tuy ra đời sau nhưng cũng đã lan tràn bên trong các công-sở và quân-doanh; cho nên không ai nhớ đến cái nguyên-tắc ấy nữa. Trong lúc đó, không có văn-bản nào cấm các tín-đồ tiết-lộ việc công và việc quân cho các vị “lãnh-đạo tinh-thần”. Có thể là người ta tin rằng việc ấy sẽ không xảy ra; hoặc có thể là người ta cố ý tránh né vì sợ làm mếch lòng các giáo-phái; mà cũng có thể là người ta mặc-nhiên chấp-nhận và cho phép việc làm này? Và, lẽ tất-nhiên, một khi các chính-trị-gia đã có tai+mắt trong các công-đường và binh-trại rồi, thì các tu-sĩ cũng chẳng chịu thua-kém gì ai. Cho nên tôi không trách phạt gì Chung, vì thật ra có một số viên-chức thuộc các giáo-hội khác, các chính-đảng khác, ở khắp nơi, sau này cũng có bắt chước hành-động như Chung, mặc dù không nhất-loạt và tích-cực bằng. Bù lại, lần nào ra Huế tôi cũng tiếp-xúc với anh, để xoá cho anh cái mặc-cảm bị lạc-lõng vì khác phe, và để tận-dụng trong anh cái tinh-thần phục-vụ vốn tiềm-tàng của mỗi người.

Tôi đã lập lại cái thế thăng-bằng trong quan-hệ đối-nhân, và thấy được kết-quả tốt. Ít nhất thì anh cũng đã góp phần gỡ bí chung, khi Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây trực-tiếp gọi máy hỏi tôi về cuộc mít-tinh đang diễn ra. Buổi sáng củ-mật ấy, Linh-Mục Nguyễn Kim Bính triệu-tập giáo-dân trước sân và xung quanh nhà thờ Phú-Cam, chuẩn-bị khí-thế cho một cuộc xuống-đường mới, dự-trù hùng-hậu và quyết-liệt hơn lần rồi.

Tôi đã ra Huế, có mặt tại chỗ, nhưng phải nhờ đến Chung, là người trong cuộc, mới biết đủ những gì khuất kín bên trong giáo-đường, vì các nhân-viên khác tín-ngưỡng khó lòng mà len-lỏi vào được trong cái tập-thể chọn-lọc và có cảnh-giác cao ấy, để chụp ảnh, ghi-âm, nhận-diện thành-phần cực-đoan, thu-thập hành-tung những kẻ khả-nghi, và định-vị cái đài vô-tuyến phát-thanh mà nhà thờ này được phép sử-dụng từ thời Đệ-Nhất Cộng-Hoàngày xưa là để giúp các tín-đồ già-yếu bệnh-tật, không đến giáo-đường nổi, cũng có thể ở nhà mà nghe giáo-lễ do đồng-đạo cử-hành; ngày nay là để phổ-biến đến khắp ngõ hẻm hang cùng những lời hô-hào chính-trị phát-động các cuộc mít-tinh, xuống đường chống chính-quyền.

Ngày nay, có Đại-Tá Nguyễn Hữu Duệ và Trung-Tá Hoàng Thế Khanh, Chung và các bạn của anh đương-nhiên thoả-thích hơn.

Ngược lại, Trung-Uý Dương Văn Sỏ, Trưởng Phòng Tác-Vụ, trước các cấp chỉ-huy đều mới, thì không khỏi giao-động tinh-thần, vì không ai đoán được chữ ngờ.

Thượng-Sĩ Lê Văn Y, một Trưởng Lưới Tình-Báo xuất-sắc của Đặc-Cảnh Quận Ba, Đà-Nẵng, mà vì Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực địa-phương không ưa nên đã phải đổi vùng. Thiếu-Uý Nguyễn Ba, một điệp-trưởng hữu-công của Tỉnh Thừa-Thiên, lại là người của Đảng Đại-Việt lúc đương-quyền, mà vì không được lòng các cấp chỉ-huy cùng Đảng nên cũng đã bị đẩy đi xa. Thiếu-Uý Trương Quang Thanh năng-động của Tỉnh Quảng-Nghĩa, phải sống xa quê vì tuy là đảng-viên Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng mà không cùng hệ-phái với các cấp chỉ-huy.

Huống gì gốc-gác của Trung-Uý Sỏ thì rõ-ràng xa-cách với thế-lực cầm quyền hiện giờ.

Do đó, tôi phải duy-trì chỗ đứng của Sỏ, vì đó vừa là tai+mắt vừa là tay+chân của Ngành, không thể để lọt vào người khác phe, khi mà vấn-đề phe-phái đã được chính Trung-Tá Hoàng Thế Khanh không ngần-ngại công-khai nêu lên với Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc và tôi.

Một mặt, tôi giao-tiếp với Sỏ nhiều hơn, để tỏ là đã có tôi đích-thân chăm-sóc khả-năng phục-vụ của anh; mặt khác, tôi đề-cao hai viên-chức khác, chủ ý là nếu phải thay-thế Sỏ thì hẳn là Khanh sẽ phải chấp-nhận một trong hai người này mà thôi. Tôi làm như thế là để vẫn giữ cái thế thăng-bằng trong nội-bộ cơ-quan; nếu không thì một mình Chánh Sở Đặc-Cảnh Trương Công Đảm bị kẹt ở giữa khó lòng mà hoàn-thành trách-vụ của mình.

*

Cũng như ở các Tỉnh khác, ngoài các viên-chức Đặc-Cảnh địa-phương, tôi đã có một số bạn-bè thân-tín, thuộc nhiều giới, ở Thị-Xã Huế và Tỉnh Thừa-Thiên.

Dù không phải là kẻ đa-nghi, song kinh-nghiệm bản-thân không cho phép tôi làm kẻ dễ tin. Thỉnh-thoảng tôi vẫn phải xét lại một vài vấn-đề, dù là bề ngoài không có gì bất-thường.

Tôi tin vào các cộng-sự-viên của mình; nhưng nếu chính các đương-nhân thật tình không nắm vững tình-hình hoặc bị đánh lừa, thì lẽ nào tôi chịu để cho mình cũng cùng bị thiếu-sót hay sai-lầm sao? Nhiều khi gặp phải những bài toán khó giải, tôi đã nhờ vào linh-tính, trực-giác hay “giác-quan thứ sáu”, nhất là thái-độ vô-tư của mình. Nhưng xác-thực nhất bao giờ cũng là tin-tức, tài-liệu, và sự hiểu-biết của các thân-tình-viên nói trên; nhờ họ, tôi đã nhiều lần biết được, và cả biết trước, những mưu-đồ ám-muội của một số nhân-vật này, phe-phái kia…

*

Sau cuộc họp báo của Ngành Đặc-Cảnh chúng tôi tố-cáo Tổng-Hội Sinh-Viên Huế và cả “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”, qua Linh-Mục Nguyễn Kim Bính tại Phú-Cam, đều đã bị Việt-Cộng xâm-nhập và lợi-dụng, thì tình-hình nội-an ở Huế, và cả toàn-quốc, đã lắng dịu đi rất nhiều.

Sinh-viên ở Huế trở lại sinh-hoạt bình-thường, chăm lo trau dồi kiến-thức văn-hóa, không còn bung xung hò hét ồn-ào như thời-gian qua.

Sinh-viên ở Sài-Gòn, mà cái Tổng-Hội trong đó vốn cũng đã bị Cảnh-Lực Quốc-Gia tố-cáo là bị cộng-sản giật dây, nay thêm sáng mắtchỉ trừ số ít phần-tử cơ-sở Việt-Cộng và thân-Cộng mà thôi.

Về phần “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”, thì Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, Cha Xứ Phú-Cam, đã bị khựng lại, nên ngưng xuống đường; và Linh-Mục Trần Hữu Thanh trong Nam thì cũng, do đó, ngưng các mưu-tính biểu-tình.

Như thế là chúng tôi đã thành-công trong việc ngăn-chận và dập tắt các nỗ-lực xúi-giục toàn-quốc đồng-loạt tuần-hành, gây xáo-trộn trật-tự công-cộng, làm mất an-ninh chung trong mọi giới dân-nhân, tạo hoàn-cảnh và cơ-hội cho kẻ địch lèo-lái mà biến thành xung-đột đẫm máu, kể cả cơ nguy bị đối-phương xâm-chiếm từng cơ-quan, đơn-vị, hay khu-vực ly-khai hay tự-trị ngay trong nội-địa lãnh-thổ Quốc-Gia, mà ảnh-hưởng dây chuyền có thể là mất hẳn cả Miền Nam.

(Tuy nhiên, về mặt tinh-thần, “Phong Trào Chống Tham Nhũng” vẫn còn cố-thủ, tiếp-tục và gia-tăng các nỗ-lực sách-động cũ, trong các nhà thờ, trong các họ đạo, và cả trong giới giáo-dân quân-nhân, thậm chí kêu gọi làm binh-biến, dùng bạo-lực lật đổ Tổng-Thống Thiệutức là tuy không mở cổng cho địch vào đồn, mà lại mở lòng, mở ý, sẵn-sàng đón mời “đồng-minh”, vì cùng là kẻ thù của tổng-thống Việt-Nam Cộng-Hòa!)

Mục-đích của nhóm tu-sĩ Kitô-Giáo quá-khích không phải chỉ là lật đổ Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu, mà là tái-lập một chế-độ kiểu Ngô Đình Diệm, nghĩa là dù cho sẽ không có một Tổng-Thống tín-đồ Đạo Chúa với một mạng lưới khủng-bố kiểu Đảng Cần-Laovì vào thời đó không có một nhân-vật nào có thể có đủ điều-kiện là một ứng-viên kiểu đó vào chức-vụ đóthì họ cũng sẽ tìm đủ mọi cách đưa vào Chính-Quyền những nhân-vật và những chính-sách hoàn-toàn do họ giật dây, mục-đích là đàn-áp các giáo-hội khác, để phát-triển Đạo Kitô.

Bây giờ, kế-hoạch thứ nhấttoàn-quốc xuống đường xáo trộn an-ninh, tạo sức ép lớn cả trong lẫn ngoài đủ để lật Thiệuvì tôi mà đã bất-thành, thì họ xoay qua kế-hoạch thứ hai.

Tôi đã cài-cấy tay-trong trong mọi tổ-chức, dù là chính-trị, kinh-tế, văn-hóa, xã-hội, kể cả tín-ngưỡng. Đặc-biệt trong vấn-đề này tôi càng theo sát ý-đồ và đường-lối của các mục-tiêu, bắt đầu từ Huế, từ xóm Phú-Cam mà ra.

Kế-hoạch thứ hai của họ là triệt-hạ dần các phần-tử nguyên là thành-viên hoặc có cảm-tình, hoặc bị nghi là liên-hệ gần+xa với phe “Phật-Tử Tranh-Đấu” vốn đã góp phần lật đổ Nền Đệ-Nhất Cộng-Hòa. Đối-tượng của họ nằm ở mọi nơi, dân cũng như quân, ở cả ba ngành lập-pháp, hành-pháp và tư-pháp trong Chính-Quyền Đệ-Nhị Cộng-Hòa.

Và họ bắt đầu ra tay.

Một hôm, không lâu trước ngày Thừa-Thiên triệt-thoái rồi Vùng I lui quân, một số đơn-vị Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa đi hành-quân trong hoạt-vực của Chi-Khu Phong-Điền, thuộc Tỉnh/Tiểu-Khu Thừa-Thiên, đã phá vỡ được một căn-cứ của Việt-Cộng, và tịch-thu được của chúng nhiều chiến-lợi-phẩm, trong đó có một số tài-liệu quan-trọng, kể cả một Nghị-Quyết của Đảng-Ủy Liên-Khu IV về Tỉnh Thừa-Thiên/Thị-Xã Huế. Nghị-Quyết này đề-cập đến tình-hình các mặt của Việt-Nam Cộng-Hòa tại Tỉnh liên-quan, nhiệm-vụ của chúng, và kế-hoạch cho một cuộc tấn-công mới, nhằm chiếm-giữ thành-phố Huế lâu dài hơn, rút kinh-nghiệm từ cuộc tổng-công-kích vào mùa xuân năm 1968Tết Mậu-Thân.

Nguồn (tài-liệu VC): https://thuathienhue.gov.vn/vi-vn/Thong-tin-du-dia-chi/tid/Tu-nam-1945-den-nam-1975/newsid/271876D3-36BE-4461-B109-206D14ED1596/cid/FFD5F879-74BC-4D55-AEB6-E0C0332427ACTrong đó có đoạn:{Ngày 10-2-1975: Quân ủy Trung ương xác định kế hoạch năm 1975 cho Trị – Thiên và nhấn mạnh phải “tích cực sáng tạo thời cơ và sẵn sàng chớp thời cơ tiến lên giành thắng lợi lớn, kể cả giải phóng Huế”}. 

Như đã nói trên, nhiều tu-sĩ Kitô-Giáo đã tổ-chức cho tín-đồ mà là nhân-viên an-ninh & tình-báo của các cơ-quan & đơn-vị khắp nơi báo-cáo tình-hình, tin-tức mới nhất cho các linh-mục, ngay cả trước khi thực-hiện công-điện công-văn trình lên Cấp Trên của mình. Kết-quả hành-quân lần này cũng không ra ngoài lệ thường.

Cho nên người ta đọc thấy đoạn kết của bản Nghị-Quyết Việt-Cộng ghi rõ: sau khi chiếm được Thành-Phố Huế, dứt điểm Tỉnh Thừa-Thiên, chúng sẽ dựng lên một chính-quyền mới, gồm toàn những “đồng-chí nằm vùng công-khai hợp-pháp” của chúng, đó là sáu Nghị-Viên đương-kim của guồng máy dân-cử sở-tại của Việt-Nam Cộng-Hòa, mà đứng đầu danh-sách là Ông Nguyễn-Khoa-Phẩm, Chủ-Tịch Hội-Đồng Tỉnh Thừa-Thiên, và Ông Nguyễn-Khắc-Thiệu, Chủ-Tịch Hội-Đồng Thị-Xã Huế, v.v…

Bộ Chỉ-Huy Tiểu-Khu Thừa-Thiên đã làm báo-cáo kèm với bản chụp sao các trang tài-liệu đánh máy của Đảng-Ủy Việt-Cộng nói trên, trình lên Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn I và Quân-Khu I, Bộ Tổng-Tham-Mưu, v.v…

Chánh Sở Đặc-Cảnh Thừa-Thiên/Huế trình lên tôi, tôi trình lên Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, rồi Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia (kiêm Đặc-Ủy-Trưởng Trung-Ương Tình-Báo) trình lên Tổng-Thống.

Kết-quả trông thấy trước mắt là các ông Nguyễn Khoa Phẩm, Nguyễn Khắc Thiệu, cùng bốn nhân-vật dân-cử nói trên, sẽ bị giải-nhiệm tức-thời.

Giải-nhiệm các Nghị-Viên Hội-Đồng Tỉnh+Thị-Xã không phải là một việc khó.

Trước đây, có một số Nghị-Viên Hội-Đồng Tỉnh Quảng-Nghĩa đã hành-sử tư-cách dân-cử của mình, xin Bộ Chỉ-Huy Tiểu-Khu sở-tại cấp phương-tiện phi-cơ trực-thăng cho họ chở thực-phẩm, thuốc-men, và nông-cụ lâm-cụ lên các Quận miền núi để cấp-phát cho đồng-bào vùng đó đang gặp khó-khăn. Đa-số các vật-phẩm ấy đã lọt vào tay những kẻ buôn lậu và tiếp-tế cho Việt-Cộng, thay vì đến tay người dân khó-nghèo. Thiếu-tá Đặc-Cảnh Hồ Anh Triết đã điều-tra ra sự thật, và kết-quả là Trung-Ương đã giải-nhiệm các Nghị-Viên liên-can.

Nhưng trong trường-hợp trên, các Nghị-Viên ấy chỉ phạm tội buôn lậu, chỉ bị biện-pháp hành-chánh hoặc bị phạt tiền. Đằng này, theo tài-liệu kể trên, thì nhóm Nguyễn Khoa Phẩm rõ-ràng là tay-sai của Việt-Cộng nằm vùng, lâu nay đã hoạt-động cho địch đắc-lực đến độ được chúng tín-nhiệm chọn cử cầm đầu bộ máy chính-quyền mà chúng sẽ dựng lên nay mai. Với bằng-chứng đó, các đương-nhân sẽ không những chỉ bị giải-nhiệm, mà chắc-chắn là sẽ còn bị câu-lưu truy-tố về tội phá rối trị-an, ở tù, và có vết-tích xấu về mặt chính-trị trong hồ-sơ lý-lịch cá-nhân, mất hết mọi cơ-hội để ra tham-gia chính-sự dù ở bên dân-cử hay bên công-quyền.

*

Ngay sau khi tài-liệu Việt-Cộng nói trên được Tiểu-Khu và chính-quyền Tỉnh Thừa-Thiên và Thị-Xã Huế làm bản sao gửi đi các nơi, tôi được nguồn tin tín-cẩn báo riêng cho biết: đoạn kết trong bản Nghị-Quyết Việt-Cộng ấy là do một nhóm dư-đảng Cần-Lao quá-khích thông-đồng với nhau mà ngụy-tạo thêm.

Ông Nguyễn Khoa Phẩm, ông Nguyễn Khắc Thiệu, và tất cả các Nghị-Viên có tên trong đoạn kết của bản Nghị-Quyết Việt-Cộng ấy, đều là tín-đồ Phật-Giáo, có quan-hệ chặt-chẽ với Giáo-Hội Phật-Giáo Việt-Nam Thống-Nhất; họ đồng-thời cũng là đảng-viên quan-trọng của Đại-Việt Cách-Mạng-Đảng.

Đạo Phật và Đảng Đại-Việt, cùng các giáo-phái và chính-đảng khác, đã bị chế-độ Ngô Đình Diệm đàn-áp, và đã góp phần tích-cực vào việc lật đổ chế-độ ấy.

Hiện nay, Đại-Việt và Phật-Giáo đang ngăn-chận dư-đảng Cần-Lao, là một nhóm tín-đồ Kitô-Giáo và giáo-phái khác mà quyền-lợi vật-chất hoặc tinh-thần đã quá gắn-bó với chế-độ Diệm, không để cho họ tái-lập quyền sinh-sát để trả thù cho gia-đình họ Ngô.

Từ nhiều năm qua, hầu như mọi quyền hành-pháp và lập-quy tại Tỉnh Thừa-Thiên/Thị-Xã Huế đều nằm trong tay Đảng Đại-Việt, và hầu như lần bầu-cử nào các liên-danh Phật-Giáo cũng thắng phiếu vào Hội-Đồng Tỉnh và Thị-Xã địa-phương.

Bây giờ thì nhóm cựu Cần-Lao ấy, cái thiểu-số tác-yêu tác-quái đã là tác-nhân tác-hại cho chính cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và các anh+em của ông phải mất mạng, và cho Đảng ấy phải tự xóa tên của mình, nhóm ấy đã lại nắm được vị-thế cầm đầu cả quyền hành-pháp lẫn ngành công-lực của toàn Tỉnh & Thị rồi.

Theo kế-hoạch thứ hai của các Linh-Mục Trần Hữu Thanh và Nguyễn Kim Bính, họ muốn gấp-rút thanh-toán các phần-tử đối-nghịch hiện còn cầm đầu cơ-quan dân-cử của Tỉnh+Thị nầy.

*

Đồng-thời với tin-tức mật riêng của tôi, đích-thân Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên/Thị-Xã Huế, Trương Công Đảm, trình-bày với tôi là thuộc-viên của anh bị giao-phó công-tác thực-hiện việc giả-mạo đoạn văn vu-khống các Nghị-Viên kia.

Anh là bạn thân của Trung-Tá Hoàng Thế Khanh, hiện là cấp chỉ-huy tại chỗ của anh; nhưng việc này là “một tệ-nạn rất nguy-hiểm, vì nó là mầm-mống gây thù-nghịch ngay trong hàng-ngũ của những người đang đứng chung cùng một chiến-tuyến”. Do đó, vì “trung-thực”, vì “chính-tâm”, anh đã chọn đặt chính-nghĩa lên trên tình-cảm hay quyền-lợi cá-nhân, nên anh liền báo-cáo Sự Thật lên tôi.

Tài-liệu ngụy-tạo của Nguyễn Hữu Duệ thì chỉ đi theo hệ-thống báo-cáo tình-hình, chứ không thông-qua kỹ-thuật kiểm-tra; vả lại vấn-đề Việt-Cộng chủ-trương tái-diễn biến-cố Tết Mậu-Thân ở Huế là điều hầu như mọi người đinh-ninh là chuyện đương-nhiên; nghĩa là các cấp nhận được báo-cáo đều đã tin chắc nội-dung là đúng 100%.

Tôi liền lấy bản chụp sao của Nghị-Quyết ấy ra xem lại, chú ý nhìn kỹ thì thấy, dù bằng mắt thường, quả thật đoạn cuối đã được đánh máy bằng một máy đánh chữ khác, khác hẳn với các trang trước và với đoạn trước cùng trang.

Tôi lặng người đi một lát, rồi nhắm mắt lại ôn lại lời dạy của Đức Phật Thích-Ca: “Oán-cừu nên cởi, không nên buộc!” Năm trăm năm sau, Đức Giê-Su cũng rao-giảng như trên: “Hãy hết sức mình sống hòa-thuận với mọi người… Đừng tự mình trả thù ai… Đừng để điều ác thắng mình, nhưng hãy lấy điều thiện mà thắng điều ác!” (Romans 12:18,21). Tôi lại lật lui, đọc thêm trong sách Proverbs 10:12: “Tính ghen-ghét phát-sinh tranh-chấp; chỉ có lòng thương yêu mới lấp hết tội-khiên”. Trước hết, và trên tất cả là “Mười Điều Răn” đã có từ xưa, trong sách Exodus 20:16: “Các con không được làm chứng gian để hại người xung quanh!”…

Kể từ biến-cố 1-11-1963, đã mười hai năm trôi qua, Đệ-Nhất Cộng-Hòa không còn, mà một nhóm nhỏ phần-tử thân-Diệm còn rơi-rớt lại vẫn còn hiểm-độc như thế. Họ mới gặp dịp chó-ngáp-phải-ruồi ngóc đầu lên được một chút mà đã gian-manh bày mưu thâm, tính kế hiểm vu-oan giá-họa để hãm-hại người khác tín-ngưỡng ngay, huống gì khi cái chế-độ độc-tài độc-tôn bạo-ác ấy đang còn phủ trùm lên khắp quê-hương, mà họ lại nắm chính-quyền trong tay, thì họ đã tác-yêu tác-quái đến mức nào.

Nếu vụ ngụy-tạo tài-liệu Việt-Cộng ở Huế mà đạt kết-quả do họ mong muốn, rồi các nơi khác cũng sẽ noi theogiống như kế-hoạch biểu-tình, Huế mà làm xong là các nơi khác cũng sẽ làm theokhông cần Tỉnh-Trưởng, Tư-Lệnh Hành-Quân; chỉ cần bất-cứ một cá-nhân nào có thể báo-cáo tin-tức, chuyển trình tài-liệu, là đã có thể thêm-thắt theo ý của nhóm chủ-trương: hậu-quả sẽ như thế nào trên khắp vùng đất gọi là Miền Nam Tự-Do?

Tôi không là người của bất-cứ một chính-đảng hay giáo-hội nào; mà Trương Công Đảm thì cũng không nặng tình đậm nghĩa với ai đến độ mù-quáng lý-trí và thui-chột lương-tâm mà bao che cho lũ gian-manh. Huống gì anh đã thấy rõ là chúng sẽ còn lợi-dụng anh thêm trong nhiều âm-mưu tiếp theo.

Trong vụ giả-mạo tài-liệu này, điều bí-mật đã được báo-cáo lên tôi cũng rất có thể sẽ được tiết-lộ cho người khác biết, và hậu-quả tất-nhiên sẽ là một phản-ứng mạnh của giới Phật-Tử, với mối liên-kết có sẵn với nhiều tổ-chức khác, thí-dụ Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng và Đại-Việt Cách-Mạng-Đảng, mà ngoài Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc ra thì riêng Đại-Việt cũng đã là một chính-đảng có khối lượng đảng-viên đông nhất và mạnh nhất trên toàn cõi Việt-Nam Cộng-Hòa.

Việc làm bất-lương của vài ba con chiên ghẻ, làm chứng dối như thế, rất có thể sẽ châm ngòi cho một cuộc nội-chiến khốc-liệt giữa hai giới Phật-Tử và cựu Cần-Lao cực-đoan, sớm đẩy Việt-Nam Quốc-Gia đến bờ vực thẳm tương-tàn.

*

Hôm qua, tài-liệu bắt được của Việt-Cộng mà Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên/Thị-Xã Huế trình lên thì tôi đã giao cho Sở Nghiên+Kế Khu I làm Phiếu Chuyển đệ-trình lên Bộ Tư-Lệnh CSQG/Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương theo lệ thường rồi.

Nhưng hôm nay, về vấn-đề ngụy-tạo đoạn kết, có tầm quan-trọng lớn-lao đối với tình-hình an-ninh và nội-chính của Quốc-Gia, thì tôi đã tức-tốc vào báo-cáo riêng với Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng I, và tự tay đánh máy một Phiếu Trình mật, gửi riêng cho Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, bản sao gửi Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia, và cử đại-diện thân-tín mang thẳng đến văn-phòng của hai vị ấy ở Sài-Gòn.

Tôi cũng báo-cáo thẳng lên Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư-Lệnh QĐI&QKI, tức Đại-Biểu Chính-Phủ tại Vùng I, theo đúng tinh-thần của Sắc-Lệnh của Chính-Phủ đã quy-định cho trách-vụ của tôi.

Tất-nhiên tôi đã nêu tên nguồn tin và giải-thích rõ trường-hợp nhận tin, đặc-biệt là Trương Công Đảm, để giúp Cấp Trên kiểm-chứng dễ-dàng. Ngoài ra, tôi còn tuyệt-đối giữ kín vụ này tại địa-phương mình, để tránh náo-loạn trong khi chờ-đợi quyết-định của Trung-Ương.

Nguồn tin của tôi nói rõ rằng chính Đại-Tá Nguyễn Hũu Duệ, Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Trưởng Thị-Xã Huế, là nhân-vật chủ-chốt trong việc thi-hành thủ-đoạn này, việc mà, nếu ông mà từ-chốinhân-danh dân Chúa, làm theo lời Chúa hơn là lời Chathì hẳn chưa biết chờ đến bao giờ Linh-Mục Nguyễn Kim Bính mới kiếm ra cho được một con chiên ngoan đạo kiểu đó theo ý của mình.

Đại-tá Duệ mà lên làm Tỉnh-Trưởng ngoài đó là do đề-nghị đặc-biệt có tính-toán của tôi, chứ không phải là do “tài” hay “đức” gì của ổng.

Nhưng ổng đã để lộ ra “tài đức” thật-sự của ổng.

Ổng đã nuôi lòng trả thù từ ngót mười hai năm nay, đúng theo lời trối của cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm (“Tôi chết thì trả thù cho tôi!), lạm-dụng Trung-Tá Hoàng Thế Khanhtôi nghĩ là Khanh ở thế bị-động, vì Khanh bản-chất chính-trựchiện là Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh/Thị ở dưới quyền mình, hành-động theo kế-hoạch của nhóm “lãnh-đạo tinh-thần” cực-đoan của mìnhđứng đầu Miền Trung là Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, Cha Xứ Phú-Camtrong chương-trình chung là bứng-tỉa các nhân-sự mà họ cho là kẻ thù của phe Kitô-Giáo quá-khích và cựu-Cần-Lao ác-ôn, mà bước khởi đầu là ngụy-tạo đoạn kết vu-oan giá-họa tha-nhân trong bản Nghị-Quyết của Việt-Cộng nói trên.

Phóng-ảnh đoạn trích thư của Ô. Trương Công Đảm,

cựu Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế:

A paper with writing on it
Description automatically generated Trương Công Đảm hiện ở Thành-Phố Denver, Colorado, USA.

*

        Sau Quốc-Biến 30-4-1975, ra Hải-Ngoại, cựu Đại-Tá Nguyễn Hữu Duệ xuất-bản cuốn hồi-kí “Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng-Thống Ngô Đình Diệm”, được mời đi nhiều nơi thuyết-trình về “ước mơ chưa đạt” của dòng họ Ngô Đình.

        Tôi gửi thư trực-tiếp hỏi vài điều để thấy trình-độ và khả-năng của đương-nhân “trả thù cho lãnh-tụ anh-minh”.

Phóng-ảnh thủ-bút của cựu Đại-Tá Nguyễn Hữu Duệ:

A handwritten letter with a signature
Description automatically generated

“Tôi đổi ra Huế năm 1973* làm Tỉnh Trưởng Thừa Thiên và Thị Trưởng Huế – Tôi không nhớ rõ ngày tháng chỉ nhớ là thời gian rất ngắn khi rút lui khỏi Huế*.

Ngoài ra tôi chưa hề phục vụ ở Huế bao giờ.

Xin kính chúc ông và gia quyến an khang.

Kính thư,

(Chữ ký)

Xin cáo lỗi vì già nên tay run khi viết thư.”

——-

*Làm Tỉnh/Thị-Trưởng Thừa-Thiên/Huế “năm 1973” rồi “rút lui khỏi Huế” vào tháng 3-1975 mà bảo [1973-75] là “thời-gian rất ngắn”!

Viết thư là có thì-giờ tra-cứu, chứ không phải là trả lời tức-thì trên máy điện-thoại, mà còn nhớ sai ngày làm Tỉnh-Trưởng (thực-sự là nhậm-chức vào tháng 11 năm 1974), thì làm sao mà viết nổi sách hồi-ký lịch-sử (cuốn “Nhớ lại những ngày ở cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm”)?

LÊ XUÂN NHUẬN 

====

 TRƯƠNG THANH TÂN

Cháu với chú chưa hề quen biết trước

Mà vào tù mới gặp đã thân nhau;

Bởi vì hai ta chung một niềm đau

Và trên hết là chung lòng phục-hận.

*

Cùng ý-chí quyết hồi-hưng quốc-vận,

Mình liều mình mong nhóm lửa dêm khuya:

Chú dò tình-hình biến-động ngoài kia,

Cháu kết-nạp anh+em trong các Đội.

*

Chú bị chợt tay? trầy chân? trặc gối?

Cháu có sẵn-sàng thuốc-đỏ, cồn, bông:

Ấy là mình tạo dịp để truyền-thông,

Qua mặt được “ăng-ten” cùng “bảo-vệ”.

*

Chú có nửa đời… quyền-hành, luật-lệ,

Nay ─ lộ-diện rồi ─ hoạt-động gay-go;

Cháu mới lớn lên đã mất Tự-Do

Nên tự-phát ─ do Dân ─ đầy khí-thế.

*

Nguyễn Đăng Thục, nghị-viên từ xứ Huế,

Phan Thành Sung, cảnh-chức tự Sài-đô:

Già ngành+nghề, lớn tuổi-tác, khác ranh-tô,

Mà đã chịu tham-gia cùng với cháu!

*

Trương Thanh Tân!  Cháu là hòn ngọc báu

Của Quảng-Nam xưa “ngũ phụng tề phi”.

Chưa thành-hình nhưng ngục-sử rành ghi

Cuộc nổi dậy ─ của “tù-nhân cải-tạo”!

*

Những hành-hạ, những đoạ-đày ngược-bạo

Của kẻ thù, đâu đáng kể vào đâu!

Cháu vẫn hiên-ngang phút chót ngửng cao đầu

Lấy cái chết để đền ơn Tổ-Quốc!

*

Trương Thanh Tân!  Làm sao quên cháu được,

Một anh-hùng trong vô-số vô-danh

Lấy máu mình chép tội lũ gian manh

Và tưới bón cho thắm lòng Đất Mẹ.

*

Cháu dám chết khi tuổi còn rất trẻ

Dù chưa hề là công-chức, quân-nhân;

Thì những cha, anh (như chú) phải mang ân

Và phải… làm gì?  Làm gì cụ-thể

Để trả thù cho cháu, cho toàn-dân,

Và để khỏi thẹn-thùng với cháu thương-thân:

                       Trương Thanh Tân…

                                THANH-THANH

====

NGÔ HẢI QUẢNG

Tôi kính phục Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng

Cả từ thời Nguyễn Thái Học đến hôm nay.

Riêng Miền Trung có Tỉnh Quảng-Nam này

Là xuất-phát nhiều đảng-viên “gạo cội”…

Nhưng, trong trại có tên Cam Úng Thối

Là…  Bí-Thư  Đảng-Uỷ  Tỉnh  nhà  ta

Mà đớn-hèn đi khuất-phục lũ tà-ma,

Khiến mọi giới gớm nhờm như ghẻ lở!

Tôi thắc-mắc thì anh+em chống-đỡ:

Không phải người nào cũng đốn-mạt hôi tanh!

Cũng là Bí-Thư, tôi nhận-diện ra anh:

Cùng Tỉnh-Uỷ nhưng khác nhiệm-kỳ, đảm-lược!

Ngô Hải Quảng! làm sao tôi quên được:

Trong một lần mình lén hẹn cùng nhau,

Anh thở dài: Trần Bình Trọng1 nay còn đâu?

Dám chọn chết, khiến quân thù khiếp phục!

      1 Anh-hùng lịch-sửViệt-Nam, bị quân Nguyên bắt, đã mắng thẳng vào mặt giặc để bị chúng giết chết hơn là bị cầm tù & làm nhục: “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc!”

Nhưng, tôi lại tưởng là anh khích giục

Tôi hiến mình nêu gương sáng hy-sinh,

Nên tôi hỏi đùa: chết cái chết quang-vinh,

Sao anh chẳng chính mình làm việc ấy?

Rồi… sau đó, người nào hoàn-cảnh nấy;

Tôi xuống Chợ-Cồn, ra Hà-Nội, vô Hoà-Sơn.

Lúc chúng trả về Tiên-Lãnh, tôi mừng rơn

Vì… ít nhất… cũng trùng-phùng bạn cũ…

Nhưng, Trần Quang Trân2 trước pháp-trường thọ-tử!

Giữa kẹp-kìm Thái Khắc Lễ3 vong-thân!

Trong quật-cường dũng-liệt Trương Thanh Tân4!

Và với bất-khuất thành-nhân5 Ngô Hải Quảng!

2 Sĩ-quan An-Ninh QLVNCH, chuyên-viên điện-tử (được Hãng Panasonic bảo-trợ tu-nghiệp tại Nhật), đã chế được máy vô-tuyến liên-lạc từ trong trại “cải-tạo” ra bên ngoài, tổ-chức phá trại vượt biên, bị bắt vào ngày 27-05-1982 và bị xử-tử vào ngày 19-06-1982 (cùng vụ đã có 12 sĩ-quan và Xã-Trưởng bị tù chung-thân hoặc hằng chục năm; 75 đồng-bạn bị biện-pháp hành-chánh “tập-trung cải-tạo” vô-thời-hạn, thực-sự thụ-hình 10 năm trở lên; và nhiều người không bị kết án nhưng bị kiên-giam).

Sĩ-quan Cảnh-Sát Quốc-Gia, dịch-giả cuốn sách “Gạo Lứt, Muối Mè”.

Xem bài thơ “Trương Thanh Tân” của Thanh-Thanh trong sách này.

5 Danh-ngôn: “Dù không thành-công cũng đã thành-nhân”.

Từ tâm-thức bỗng nhói lên một thoáng

Tôi… ân-hận mình đã… gợi ý cho anh?

Nhưng, cái chết của anh xúc-động trời xanh,

Nên, tự nó, đã cao sâu đầy ý-nghĩa!

Vì bị đày-đoạ dưới đòn thù độc-địa,

Nhiều dân lành đành chấp-nhận hèn-ươn;

Nhưng anh là một trong số ít đã cao vươn

Vượt thoát khỏi mọi cường-quyền, bạo-lực.

Anh đã đổ máu đào làm son tươi thế mực

Chép việc và người nổi bật nét hùng-kiêu,

Để nói lên: dù mái dột, tường xiêu,

Chính-Nghĩa vẫn là móng nền vững chắc.

Anh đã nêu cao tinh-thần kháng-tặc

Không riêng Quảng-Nam hay Việt-Quốc

                    mà là cả toàn-dân.

Xây Vinh-Quang cho Tổ-Quốc hồi-xuân,

Anh là một trong những hòn đá tảng:

                    — Ngô Hải Quảng!

                                   THANH-THANH

===

NGUYỄN XUÂN GIÁO1

      1Cựu Trưởng Ty Cảnh-Sát Công-An Quốc-Gia, Tỉnh Thừa-Thiên.

Tôi ở “An-Điềm” mới chuyển qua,

Anh từ “Tiên-Lãnh” cũng đưa ra.

Một trăm bốn chục tù nguy-hiểm

Nhốt kín rừng sâu “Đồng-Mộ” xa.

*

Ai bảo!  Bên ngoài: dân không “an”!

Bên trong: can-phạm cũng không “ngoan”!

Những tên đầu-sỏ: cần cô-lập,

Dập tắt trong đầu… mọi tính-toan!

*

Chúng bắt đi làm, mệt xỉu xâm;

Ngày hai lạng sắn (quý hơn sâm!)

Trích trong tiêu-chuần không lao-động:

Mấy chục ăn vào, trăm mấy thâm!2

      2Mấy chục người đi “lao-động” được cấp thêm mỗi người mỗi ngày 200 gr sắn, xén bớt từ khẩu-phần cầm-hơi của hơn một trăm người không đi “lao-động”.

Những lúc đi chung một chặng đường,

Thấy anh tôi qúa ngậm-ngùi thương:

Tôi còn bước được theo đồng-đội,

Anh lết chân sên  một bộ xương!

*

Âu-dược gia-đình tiếp-tế cho:

Trại không có thuốc  nhập vào kho!

Cầu nhiều, cung ít, tù nhiều bệnh,

Đến lúc anh cần: hết sạch vo!

*

Bảy chín qua đi trong tối-tăm,

Tám mươi dời trại xuống “Thôn Năm”.

Rồi anh ngã bệnh, ngày càng yếu,

Đi+đứng xiên xiêu, phải dựa+nằm.

*

Xin chúng cho anh được viết thư:

Thư mang hy-vọng hoá huyền-hư.

Chúng cho viết hết, nhưng… không gửi!

(Điều đó, anh+tôi đã biết dư!)

*

Trí lụn, thân suy, óc muộn phiền;

Cháo ngày hai sét, đói liên-miên!

Thuốc-men chẳng có, không săn-sóc!

(Nếu chết thì lôi ra trước hiên!)

*

Đến lúc anh như đã hụt hơi,

Nửa mình lạnh cứng, tay buông xuôi,

Chúng cho võng chở về “Tiên-Lãnh”;

Chúng bảo: anh đi bệnh-viện rồi!

*

Đồng-bạn mừng cho anh gặp may:

(Không như Xuân, Xáng3 chết trong này)

Nào: “tiêu-chuẩn” thuốc!  nào: “y-tá”!

Nếu được cho về nữa, lại hay!

      3 Trung-tá Trần Như Xuân chết tại “Đồng-Mộ”; trung-tá Trần Phước Xáng chết tại “Nhà Trắng” trong trại “Thôn 5” (Trại “Tiên-Lãnh 2”); đều thuộc Quận Tiên-Phước, Tỉnh Quảng-Nam.

                       *

Tám mốt, tôi từ “Kho Đạn” lên

Mới hay anh Giáo đã… quy-tiên!

(Chúng đem về nhốt trong phòng tối

Được độ vài hôm… thì là… yên!)

*

Ấy đấy!  Công ơn chúng hải-hà:

Đã không giết chết, không đòn tra,

Còn cho “học-tập”, cho lao-động,

Để “tốt” mà mau trở lại nhà!

*

Biên-bản về anh chắc chúng ghi:

(Cũng như Xuân, Xáng: sướng ai bì!)

Thuốc-men! ăn+uống! và chăm-sóc!

Bác-sĩ  đồng-tù  ký… chứng-tri!

*

Còn nhớ hôm nào: anh với tôi

Cùng bàn thế-sự, máu cùng sôi;

Ta dùng tiếng Pháp trên đầu địch,

Thù giặc, căm-hờn lũ… tớ-tôi!

*

Anh đã là tù thuở ngáo-Ngô;

Tôi: tù phong+thực lẫn mê-nô.

Bây giờ ta lại tù man-Cộng:

Anh hết, tôi còn… tới lúc mô?

*

Nhưng, hễ trên cao còn Trời Xanh,

Thì còn lưong-hảo thắng gian-manh!

Tôi nguyền đóng góp cho Đời đẹp,

Cho thoả lòng Người, thoả dạ anh!

                  Tiên-Lãnh 1, 02/03/1981

                         THANH-THANH

===

==

THU-DONG-KINH-

Minh Thúy Thành Nội

Phần I

Ngày tháng trôi qua vùn vụt, mới đó đã nửa thế kỷ từ khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam. Năm nay hình như cơn buồn của người dân tỵ nạn tăng lên nhiều hơn, nỗi nhớ, nỗi uất hận cũng thấm đậm hơn. Tôi thấy nhiều hội đoàn xôn xao chuẩn bị ngày tưởng niệm mất nước trong “tháng Tư Đen” sớm hơn, thay vì những năm trước chỉ vào cuối tháng.

Chủ Nhật ngày 6 tháng 4/ 2025 chương trình ca nhạc “Kỷ Niệm 50 Năm Sài Gòn Mất Tên” do Nhóm Thân Hữu Sài Gòn, ban nhạc Sài Gòn Nhớ và ông Lê Văn Hải, Hội Trưởng cơ sở Văn Thơ Lạc Việt (VTLV), cũng là Trưởng ban Báo chí Bắc Cali và chủ báo Thằng Mõ kết hợp tổ chức tại quán Coffee Lovers tọa lạc tại 1855 Aborn Rd. San Jose, Ca 95121. Cũng như bao nhiêu lần tổ chức, người hùng Lê văn Hải luôn khoản đãi phần nước ngọt free và phần quà sổ số trúng thưởng.

Quan khách đến dự quá đông, nhiều cụ già con cháu đẩy xe lăn vào ngồi lắng nghe những bài hát mang chủ đề “Chiều Nhạc Tưởng Niệm 50 Năm Sài Gòn Mất Tên” Những khuôn mặt trầm tư với mái tóc pha sương, ánh mắt trĩu buồn xa vắng. Năm mươi năm tưởng như mới ngày hôm qua, dù Sài Gòn đã bị Việt Cộng (VC) đổi tên, nhưng nó vẫn còn sống mãi, hằn sâu trong tâm trí, và cất giữ trong trái tim người dân miền Nam đang ở trong nước, cũng như đồng bào tỵ nạn đang sống lưu vong trên khắp thế giới.

“Sài Gòn ơi! Tôi đã mất người trong cuộc đời

Sài Gòn ơi, thôi đã hết thời gian tuyệt vời

Giờ còn đây, những kỷ niệm sống trong tôi

Những nụ cười nát trên môi

Những giọt lệ ôi sầu đắng…” (*1)

Tiếng hát vang lên trong không khí lắng đọng…hình ảnh Sài Gòn được mang danh Hòn Ngọc Viễn Đông nhộn nhịp đầy sinh động còn đâu nữa. Ký ức không thể quên được ngày 30/4 đen tối, tang thương bị Việt Cộng chiếm đoạt miền Nam. Niềm đau buồn của đất nước, đảo lộn cuộc sống đang ấm no hạnh phúc trở thành địa ngục chốn trần gian.

“Năm 1954 ông bà Nội tôi đã đưa gia đình trốn thoát ban đêm lên Hà Nội, tới Hải Phòng xuống tàu di cư vào Nam vì có tên trong danh sách chôn sống địa chủ. Tháng tư/1975 lúc VC vào chiếm, những tiếng thở dài, những lời gào khóc đau đớn. Mẹ tôi, đôi mắt trũng sâu và quầng thâm qua một đêm thao thức, tuyệt vọng kéo tôi ra góc sân:

– Con cầm tiền thích gì thì mua ăn. Rồi đến tiệm thuốc tây mua thuốc rầy, mấy mẹ con cùng uống. Mẹ đã từng sống với họ rồi. Không chịu nổi đâu con.

Tôi quay lưng, tránh nhìn đôi mắt đầy nước mắt của mẹ, bước vội ra phố. Tôi đã không làm theo lời dặn mua thuốc vì đầu óc đang còn ngơ ngẩn.

Cũng khoảng thời gian này, bà Nội đang ở với chú tôi tại Phan Rang đã nổi cơn điên, gào thét khi thấy lá cờ đỏ sao vàng: “Quân ăn cướp! Trả lại tài sản cho tao. Quân ăn cướp!” Nửa đêm bà Nội trốn ra khỏi nhà. Không biết bà chết, vùi thây nơi đâu, đến nay con cháu vẫn không có tin tức. Sau đó là những ngày đói rách cùng tận… Tinh thần mẹ con tôi bị khủng bố theo mỗi đợt họp cưỡng bách đi kinh tế mới, ép đi lao động thủy lợi.

Cha tôi hồi đó là Trưởng Cuộc Cảnh Sát. Sau hơn một năm rưỡi đi tù cải tạo về, bị cưỡng ép lên vùng kinh tế mới với dì Hai và bảy người em. Cha tôi lạnh lẹ mở lò gạch nên dân trên vùng kinh tế mới có việc làm. Ông vận động nhà cầm quyền địa phương, xin quyền lợi cho nhân công được lãnh tem phiếu và gạo mỗi tháng. Công việc trôi chảy nếu không nói là phát triển mạnh. Dưới thành phố bệnh viện, cơ quan, trường học lên ký hợp đồng mua gạch rất nhiều. Thế rồi chủ tịch kiểm soát vùng kinh tế mới đến mượn lò gạch và ngang nhiên chiếm trâu bò của em tôi (dùng vào rừng đốn củi). Cha tôi uất ức nghẹn ngào nói với con cháu “chưa thấy chế độ nào khốn nạn như vậy, mình bị ngã nó đạp cho xuống vực, mình vừa ngoi đầu lên nó lại ăn cướp công của tài sản”.

(trích từ bài viết “Nửa Thế Kỷ Nhìn Lại của tôi được in trong tuyển tập của hội Cô Gái Việt).

Trở lại buổi chiều nghe nhạc trong không khí trầm lắng, tiếng hát buồn vời vợi đưa tâm hồn mọi người đi về miền quá khứ, tiếc nuối một Sài Gòn hoa lệ với biết bao kỷ niệm. Tôi thầm cám ơn ông Lê văn Hải đã tổ chức hàng năm cùng sự góp mặt của các ca sĩ. Những năm trước tổ chức tại Câu Lạc Bộ Mây Bốn Phương, Cà Phê Lover, và bây giờ là lần thứ 7, chúng tôi được thưởng thức những bản nhạc gợi hình ảnh quê hương yêu dấu xa ngàn trùng đầy tiếc nuối.

Thứ Hai ngày 7 tháng 4 / 2025, theo tin của phóng viên thi sĩ Mạc Phương Đình cho biết “Tại tiền đình Quận hạt Santa Clara, Giám Sát Viên Betty Dương và Chủ Tịch Hội Đồng Giám Sát Otto Lee đề xướng cùng Cộng Đồng Việt Mỹ Bắc Cali, phối hợp với Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Tây Bắc Hoa Kỳ, tổ chức buổi Thượng Kỳ và treo Cờ rũ VNCH để khởi đầu cho những chương trình tưởng niệm trong suốt tháng Tư, nhằm ghi nhớ và tưởng niệm một phần lịch sử chung của chúng ta.

Buổi lễ đã được long trọng khai mạc với hàng trăm các cựu quân nhân VNCH, các cựu chiến binh Hoa Kỳ và đồng hương Việt Nam tham dự. Theo dự kiến trong suốt tháng Tư, cờ Việt Nam Cộng Hòa sẽ tung bay tại trụ sở Hành Chánh của Quận Hạt, như một biểu tượng tưởng niệm những người đã hy sinh. Và như một ánh sáng dẫn đường cho hành trình tiếp tục gìn giữ các giá trị về tự do, dân chủ và nhân quyền”.

Chủ nhật ngày 13 tháng 4/2025, ông Lê Văn Hải hội trưởng của VTLV tổ chức buổi “Tưởng Niệm Tháng Tư Đen” tại County Hall (Isaac Newton Senter Auditorium 70 W Hedding ST. San Jose, CA 95110) được bảo trợ bởi Giám Sát Viên Hạt Santa Clara Betty Dương. Vẫn những khuôn mặt đáng kính của VTLV góp bàn tay đắc lực như thầy Phạm Thái lo bao quát, phóng viên Mạc Phương Đình, ông Hoàng Thưởng điều khiển nghi lễ chào cờ hát Quốc Ca Mỹ -Việt, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Dũng mở đầu chương trình, ban nhạc Sài Gòn Nhớ do chị Thuý Nga đảm trách cùng các ca sĩ trình diễn, hai MC duyên dáng Hạnh Thảo, Thanh Loan phối hợp cùng ban Du Ca của ông Trương Tấn Mẫn, đặc biệt có cô xướng ngôn viên Đồng Thảo của đài phát thanh Quê Hương góp mặt.

Hội trường rộng với sự tham dự đông đảo của đồng hương. Sau phần phát biểu của những vị Dân Cử, Giám Sát Viên Betty Dương phát bằng tưởng lục cho ông Lê Văn Hải, phần tâm tình của Tiến Sĩ Nguyễn Hồng Dũng bày tỏ về ý nghĩa đau buồn của mùa quốc hận. Tiếng nhạc vang lên quyện vào giọng hát.

Tự do ơi tự do! tôi trả bằng nước mắt

Tự do hỡi tự do! anh trao bằng máu xương

Tự do ôi tự do! em đổi bằng thân xác

Vì hai chữ tự do! ta mang đời lưu vong … (*2)

Tôi nghe mắt mình cay cay vì ca từ diễn tả về chuyện thuyền nhân vượt biển. Ký ức đi rất xa, xa khoảng thời gian từ 1980 đến 1985 mà tôi đã ghi lại trong câu truyện “Tháng Ngày Tìm Tự Do trước đây.

*

Hơn năm năm vất vả ngược xuôi tìm đường trốn ẩn, có lần trên đường đến điểm hẹn bị bể, bà con chạy tán loạn, tôi và đứa em trai chạy chui vào rừng sâu, nghe tiếng súng nổ bà con bị Công An hốt lên xe, họ lùng sục đến nửa đêm và tôi thoát nạn ở vùng Rạch Sỏi (Kiên Giang). Theo đuổi từ năm này qua năm nọ vẫn miệt mài không sờn chí. Có lần trốn cả nhóm bảy người (dòng họ bà con) trong rừng mấy ngày bị bắt còng tay đi vào làng, được dân miền Nam hiền hậu tốt bụng đem cơm nước, thức ăn xin tổ trưởng cho chúng tôi được dùng, sau đó vào nhà tù An Biên (Rạch Giá).

Ký ức khó quên nhất trong ngày tháng bị tù đày là: Công an coi tù chỉ một hố sâu chứa nước toàn đất sét và rong rêu vàng khè tạm gọi là chỗ… phát nước uống. Mỗi sáng họ mở cửa cho lấy nước từ đó uống, bà con không uống nổi với mùi tanh của nước bẩn, các chị có sáng kiến nấu cơm đổ nước đầy nồi, nước sôi chắt ra bình để cơm cạn chín, từ đó uống bằng mùi nước gạo. Mỗi chiều họ mở cửa cho ra vệ sinh và tắm bằng con đầm nước cũng đục ngầu sau khi đàn trâu tắm trước, chỉ khác chút là không cho trâu tắm chung với người. Ra tù chẳng còn tờ giấy hộ thân, sống chui lủi tránh con mắt công an, đi tới đâu  mua vé chợ đen, đêm ngủ chung với đám ăn xin vì không có giấy tờ tuỳ thân, không dám vào phòng trọ quanh bến xe.

Chuyến cuối cùng lọt đến đảo Pulau Bidong, được Ban Trật tự dẫn về căn gác ở chung hai chị độc thân. Sáng hôm sau nghe loa gắn trên các ngọn cây “Đây là tiếng nói của người dân tỵ nạn Cộng Sản trên đảo Pulau Bidong …”, tôi mới thật sự biết mình còn sống, đã thật sự rời xa mảnh đất quê hương thân yêu, và ôm mặt khóc nức nở khi nghe Thanh Thúy hát “Ai về bến Ngự cho ta nhắn cùng. Nhớ chăng non nước Hương Bình! Có những ngày xanh…” *(3)

Ngày ngày ra bến đón những chuyến tàu tấp tới, lắm lúc chứng kiến cảnh phụ nữ được khiêng băng ca vào bệnh viện vì tàu bị hải tặc. Có em bé khoảng 15 tuổi ở đối diện trước mặt nhà, nghe những người đi chung chuyến với em, to nhỏ kể chuyện chuyến đi bị cướp, vét sạch tiền vàng, lôi phụ nữ qua tàu họ làm chuyện tồi bại, khi lôi kéo dằng co, em bé này đã khóc lóc gào to: “Lạy Chúa tôi, con đâu có tội tình chi?

Chị T nằm chung gác với tôi, kể chuyến đi của chị gồm mười một người, trên tàu chỉ có ba phụ nữ, trong đó một cô khoảng 18 tuổi đi cùng chồng chưa cưới. Hai tàu từ xa đến húc mạnh vào thuyền của chị tưởng chừng muốn bể đôi. Hải tặc nhảy qua lôi ba người phụ nữ, nó giở trò nhưng thấy chị đang có kinh nguyệt, tát mấy bạt tai mạnh xô chị xuống tàu. Hai cô kia chống cự rất mãnh liệt, nó xốc lên, hai cô vật xuống, cứ như vậy vài lần các cô đuối sức, chúng xé toạt áo, vài tên kềm giữ hai bên để tên khác cười man rợ bày trò khốn nạn trước mặt mọi người. Anh chồng chưa cưới chỉ biết ôm mặt gục đầu. Chúng bắt cóc hai phụ nữ đi luôn trong tiếng khóc nức nở của người chồng.

Tôi chuyển trại qua Sungei Besi (thủ đô của Mã Lai), được Cao Uỷ sắp xếp về khu Thanh Nữ Độc Thân sống chung phòng gồm mười chị em. Chị H cuối góc phòng ít nói chuyện, suốt ngày ngồi đan len, nét mặt ẩn hiện nỗi buồn sâu lắng nội tâm. Được biết tàu chị đi bị lạc hướng lênh đênh hơn một tháng, đói khát kiệt sức nướng thịt người ăn cầm cự nhưng rồi đều chết từ từ, chồng và đứa con trai chị cũng bỏ mạng, lúc gặp tàu quốc tế vớt chỉ còn lại vài người.

Chị A có chồng bên Mỹ, dẫn theo đứa con trai bảy tuổi vượt biên trên chiếc ghe vài người chỉ mình chị là phụ nữ. Gặp hải tặc kéo chị qua tàu, chúng dụ cháu nhỏ các món đồ chơi rồi hiếp chị. Chúng dội nước lạnh vào mặt chị, sau những lần chị bị ngất xỉu, thay phiên nhau làm chuyện tồi bại cho đến khi gặp tàu buôn, chúng phi tang tội lỗi bằng cách giao chị lại. Chị được bệnh viện chăm sóc tận tụy sau thời gian dài nằm liệt người. Mỗi sáng loa phóng thanh gọi tên chị lên kiểm tra sức khỏe, lúc trở về phòng chị cho xem thuốc ngừa thai và thuốc đề phòng bệnh Aids. May mắn tinh thần chị vững mạnh vượt qua chưa bị điên loạn.

Em C hay bị đau đầu thường lên bệnh viện khám, nguyên nhân tàu em gặp ba tàu cướp bao vây tấn công. Tàu đông phụ nữ sợ hãi nhảy xuống hầm trốn, em bị một tên cướp chụp đầu lôi lên trong khi em đang ôm chặt song sắt, tên cướp túm tóc kéo giật mạnh, đang lúc dùng dằng thì tàu tuần tra trên biển xuất hiện, bọn cướp phóng về tàu mình chạy nhanh.

Đáng lẽ tôi được chuyển qua Phi Luật Tân học ba tháng Anh Văn cũng như học về đời sống Mỹ, nhưng bên đó bị tình trạng ứ nghẹt người, nên được chuyển qua đảo Galang 2 của nước Indonesia. Nơi đây tôi sống chung bốn chị em ở dãy nhà dành riêng cho phụ nữ quay ra bìa rừng. Hằng ngày đến trường học, chúng tôi đi ngang qua khu Miếu được dựng dưới gốc cây đa rậm lớn. Nghe kể lại Miếu thờ hai chị em bị hải tặc hiếp, chờ đợi diện nhân đạo hơi lâu, hai chị em nhục nhã mỏi mòn rủ nhau ra đó treo cổ chết, bà con thương tâm lập Miếu thờ.

Hai chị em H và B chung phòng cũng kể tôi nghe: Trong chuyến đi bán chính thức của người Hoa năm 1977, cả gia đình được chia ra 2 tàu, hai em chứng kiến tàu ba mẹ bị đắm chìm giữa biển cả mênh mông, trước con mắt sững sờ của tàu còn lại, nhưng đành chịu bất lực. Hai em nói hình ảnh ấy luôn hiện lại trong giấc mơ đau nhói.

Trong dòng họ bên chồng tôi có cháu gái, hai em gái con bà O ra đi mất tích biền biệt. Vợ chờ chồng đi tù về (anh tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh), cả gia đình vượt biển gặp hải tặc giết hết đàn ông. Năm ngoái tôi được xem phim “Boat People” của đạo diễn Thanh Tâm từ Canada đem qua Mỹ chiếu trong ngày 30/4, có đoạn một nhân vật kể lại: Xác các em thiếu nữ đi chung một ghe tấp vào làng biển xa xôi, được dân chôn và lập nơi thờ, tôi giật mình liên tưởng đến hai dì cháu tuổi còn thanh xuân, đi trong một tổ chức nghe đâu chuyến đó chỉ toàn con gái. Tôi bị ám ảnh nặng đầu khi xem khung cảnh chiếu ngôi làng, muốn về kể cho người chị và bà O nghe, nhưng không có can đảm vì lo ngại khơi lại nỗi buồn cố lắng xuống đã gần 40 năm.

Tôi nép thân trên mảnh thuyền mong mạnh sương gió

Như một người tìm đường về nơi đáy mồ

Tôi bước đi vì không muốn làm kẻ tội đồ

vì tôi muốn lại kiếp con người

muốn cuộc đời còn có những nụ cười… (*4)

Tâm tư tôi đã trải mênh mông trên vùng biển, hình ảnh con tàu đêm giông bão như những chiếc thuyền giấy thả trên nước lụt chơi hồi còn nhỏ. Rùng rợn mỗi cơn sóng ào đến cao ngất phủ xuống con thuyền nghiêng sát mặt nước. Tiếng la hét, tiếng đọc kinh râm ran, tiếng người điều khiển “bà con bình tĩnh tát nước ra, nước đang ngập đầy”, chỉ một tích tắc thuyền sẽ chìm hoặc lật trong đêm tối mực. Tiếng ói mửa thi nhau vào đầu, vào mặt, mùi hôi tanh của kinh nguyệt, ngồi ngâm mình trong nước lạnh cóng, tôi đuối sức nghĩ mình sắp chết, lơ mơ tự hỏi thầm “cha mẹ có linh ứng gì không? con sắp ra đi rồi…” nhưng số còn sống, không bị gặp hải tặc và ký ức chưa bao giờ quên cuộc vượt biển liều lĩnh, tìm một phần sống trong 99 phần chết.

*

Thứ Bảy ngày 26 tháng 4/2025, tại tiền đình Quận Hạt Santa Clara số 70 West Hedding St San Jose, CA 95110, Uỷ Ban Chấp Hành Cộng Đồng Việt Mỹ tổ chức “Đại Lễ Tưởng Niệm 50 Năm Quốc Hận 30 Tháng Tư”.

Chúng tôi đến sớm mang tâm trạng hồi hộp khi thấy các anh lính Việt Nam Cộng Hoà mặc quân phục theo từng binh chủng. Hình ảnh oai hùng của một thời còn sôi sục tinh thần chiến đấu chẳng chịu buông, nhưng vận nước nổi trôi đành theo số mệnh. Các anh đã bị tù đày nơi chốn rừng sâu, bị đọa đày bởi quân Cộng Sản thâm độc hiểm ác. Nhắc đến chuyện tù tội, không làm sao kể hết chuyện dài của các anh đi “cải tạo” mà tôi được nghe kể lại trực tiếp, hoặc đọc nhiều sách như “Đời Tù Một Thiên Nga” của Nữ Tình Báo Thiếu Tá Thanh Thủy, “Con Trâu Đâu Có Cải Tạo” của Nhạc Sĩ Lê Hữu Nghĩa, tôi nhớ nhất hai câu nói của người tù và cán bộ:

Người tù:

– Thưa cán bộ, muốn gia tăng năng suất lao động, ở trại có nuôi một bầy trâu mấy chục con sao không sử dụng để kéo bừa.

Cán bộ:

– Các anh cải tạo chớ con trâu đâu có cải tạo mà bắt nó kéo bừa.

Mời đọc truyện ngắn trong đường dẫn dưới đây để thấm nỗi tù đày nhục nhã bị bóc lột dã man tàn nhẫn không thể tưởng.

http://nhinrabonphuong.blogspot.com/2020/03/con-trau-au-co-cai-tao-

Thật là đau lòng uất nghẹn: họ đã ký kết hiệp định ngừng chiến nhưng lại vi phạm trắng trợn, lì lợm cố chiếm miền Nam cho bằng được, để biến một miền Nam đang sung túc bị lộn ngược nghèo đói và lạc hậu. Tôi nhớ năm 2015, giai đoạn này còn đi làm, nhưng nghe cuốn phim “Ride the Thunder” (Cưỡi Ngọn Sấm) của ông Richard Botkin đã từng là vị cố vấn sát cánh với Trung Tá Thủy quân Lục chiến Lê Bá Bình (người thật việc thật) thời chiến tranh Việt Nam. Tôi đi làm về sớm để được xem phim tại rạp, phim chiếu cảnh tù đày của người lính VNCH khiến ai cũng nín thở, đau lòng phải khóc, con mắt mọi người đỏ hoe khi ra khỏi rạp.

Xin trích lời nhận xét:

 “Sự thật những người lính quân đội Việt Nam Cộng Hòa là những người quả cảm. Không ai muốn ngừng chiến đấu cả. Miền Nam Việt Nam đã gần đoạt được chiến thắng rồi. Nhưng họ phải bỏ súng vì Hoa Kỳ quyết định không hỗ trợ, không viện trợ nữa, trong khi miền Bắc vẫn tiếp tục được Nga và Tàu hỗ trợ. Còn nhiều sự thật nữa mà ông Richard Botkin muốn đưa lên màn ảnh. Sự thật về sự tàn ác của bên thắng cuộc tại những trại tù cải tạo.”

Sự thật về những người vợ có chồng đi cải tạo vừa bươn chải lo cho con, vừa đối phó với mọi khó khăn của cuộc sống, vừa chắt bóp thăm nuôi chồng, vừa mòn mỏi đợi chờ, cho đến ngày chồng hoặc được thoát khỏi ngục tù hay được tin chồng đã chết. Ông Richard Botkin cho biết cũng vì mục đích trả lại sự thật cho lịch sử mà ông muốn biến cuốn “Ride the Thunder: A Vietnam War Story of Honor and Triumph” thành phim.

Giờ đây nhìn những bộ quân phục, tôi lại liên tưởng câu chuyện của Trung Tá Võ Vàng chồng bà Đường (hiệu trưởng trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi), đã bị Việt Cộng lừa xuống suối một mình, bắn ngang nhiên nhiều phát đạn, đổ tội Trung Tá trốn trại (bạn tù kể lại), thật vô cùng dã man trong trại tù “cải tạo” và khi có dịp về Nam Cali thăm, Cô thường nhắc lại, nay thì Cô và Trung Tá Võ Vàng đã gặp nhau bên kia thế giới.

Chủ Nhật 27 tháng 4/ 2025 có 2 nơi tổ chức lễ:

1/ Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Tây Bắc Hoa Kỳ tổ chức “Lễ Giỗ Và Tưởng Niệm Anh Linh Các Chiến Sĩ Dân-Quân- Cán – Chính Việt Nam Cộng Hoà Tuẫn Tiết trong ngày 30/4 /1975” tại 2670S.White RD #175 San Jose CA 95148.

2/ Cộng Đồng Việt Nam Bắc Cali tổ chức” Tưởng Niệm Quốc Hận Lần Thứ 50” tại 1141 East William Street, San Jose CA 95116.

Thứ Tư 30/4/2025 có 4 nơi tổ chức lễ:

1/ Buổi sáng: Lực Lượng Sĩ Quan Thủ Đức/QLVNCH tổ chức “50 Năm Tưởng Niệm Quốc Hận 30/4/75 & Lễ Truy Điệu Quân Dân Cán Chính VNCH và Các Vị Tướng Tá Tuẫn Tiết” tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ “Thank You America” (Khu Công Viên Vườn Truyền Thống Việt) 1499 Roberts Ave, San Jose, CA 95112 lúc 9 giờ.

2/ Buổi sáng: Liên Hội Cựu Quân Nhân tổ chức “Lễ Thượng Kỳ và Rũ Kỳ” tại Tiền Đình Toà Thị Chính Thành Phố San Jose, số 200 E. Santa Clara St, San Jose CA 95113, được sự quan tâm, phối hợp của chính quyền Thành Phố lúc 11 giờ.  

3/ Buổi chiều: Tuổi trẻ Vietnamese American Roundtable tổ chức chủ đề “50 TH Anniversary Commemoration of The Fall of Sài Gòn. Honoring History, Shaping Tomorrow” tại City Hall Rotunda 200 East Santa Clara Street, San Jose CA 95113.

4/ Buổi chiều: Tại Đền Thánh Tử Đạo Việt Nam 685 Singleton Road, San Jose CA 95111: “Lễ Dâng Hương Tưởng Niệm 50 Năm Tháng Tư Đen, Thánh Lễ cầu nguyện cho những thuyền nhân đã chết trên đường vượt biển”

Mùa Quốc Hận năm nay, các hội đoàn thay phiên nhau tổ chức Lễ Tưởng Niệm ngay từ đầu tháng Tư. Thật quý hóa thay những tấm lòng yêu nước Việt Nam Cộng Hòa. Chân thành cám ơn các hội đoàn.

Chú thích:                                                    

(*1) Sài Gòn Ơi Vĩnh Biệt- NS Nam Lộc

(*2 & 4) Xin Đời Một Nụ Cười – Nam Lộc

(*3) Đêm Tàn Bến Ngự – Dương Thiệu Tước

Phần II

Thứ Tư đúng ngày 30 /4. Chúng tôi thức dậy thật sớm chuẩn bị lái xe lên dự lễ Tưởng Niệm ngày Quốc Hận tại công viên Vườn Truyền Thống Việt do Lực Lượng Sĩ Quan Thủ Đức tổ chức. Biết giờ cao điểm bà con đi làm, đường xá kẹt xe nên khởi hành lúc 7:30, freeway 880 nhích xe từng đoạn, tôi không dám nhìn đồng hồ phó mặc cho số mệnh, đến nơi mới dám nhìn thấy kém 5 phút đúng 9 giờ làm lễ, tôi thở phào sung sướng vì sẽ được hát bài Quốc Ca Việt Nam.

Buổi lễ trang nghiêm do ông Hoàng Thưởng và ông Lê văn Hải điều khiển chương trình. Chúng tôi thắp nén nhang thành kính trước di ảnh các vị: Thiếu Tướng Phạm văn Phú, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung Tá Nguyễn Văn Long là những vị anh hùng “Sinh vi Tướng, Tử vi Thần “đã tuẫn tiết trong những ngày mất nước. Ngoài ra còn biết bao nhiêu vị sĩ quan hoặc những người lính vô danh đã tự sát trong thời điểm đó. Thật là vinh danh các vị anh hùng đã vị quốc vong thân, đúng là “Anh Hùng tử, khí hùng bất tử”.

https://tienggoicongdan.com/2015/03/05/cdnvqghk-danh-sach-anh-hung-vnch-tuan-tiet-trong-thoi-gian-30-4-1975/canhsatquocgia.org

Màu nắng rực rỡ chan hòa, mây trời trong xanh tuy khí hậu còn hơi lạnh. Tôi ngẩng nhìn tượng đài Việt – Mỹ, pho tượng người lính Mỹ và người lính VNCH trong tư thế hiên ngang anh dũng đầy tinh thần bất khuất. Mắt nghe cay mờ, hồi tưởng biết ơn đến sự hy sinh của những người lính VNCH, quý báu hơn nữa là những người lính Mỹ, xin trích một đoạn trong bài viết “Ký Ức Chưa Phai” của tôi:

… “Trí óc tôi miên man càng lúc càng sâu về đề tài chiến tranh và sự hy sinh…  Điển hình về bức tường đá đen tại Washington DC, được khắc tên hơn 58,000 anh hùng lính Mỹ đã hy sinh tính mạng trong cuộc chiến tại Việt Nam. Điều thật đáng trân trọng và hiểu rõ nỗi đau đớn khôn cùng của những bà Mẹ, những người vợ trong hoàn cảnh mất con mất chồng. Làm sao chúng ta có thể quên được hay mất đi những cảm xúc nhức nhối này, người Mỹ không chết vì nước Mỹ, một sự hy sinh quá vĩ đại dù đã 45 năm trôi qua, nó luôn là nỗi đau buồn đối với người thân họ, và chúng ta cũng sẽ ray rứt phần nào với cái chết của họ” …

Thầm lặng nguyện cầu đến những anh linh tử sĩ đã hy sinh bỏ mình ngoài chiến trận, những người tìm tự do bỏ mạng trên biển cả, đường bộ, những tù “cải tạo” chết trong rừng sâu khổ nhục, những bạn đồng minh sát cánh chiến đấu trên trận tuyến Việt Nam. Còn cái “Ơn” nào bằng giờ đây tôi được định cư nơi xứ Cờ Hoa, nhờ nước Mỹ nhân đạo mở rộng vòng tay cứu vớt, được sống trong không khí tự do và hưởng một đời sống sung túc.

Xong buổi lễ chúng tôi chạy qua Tiền đình Tòa Thị Chính do Liên Hội Cựu Quân Nhân tổ chức. Rất phấn khởi và hãnh diện nhìn trên các con đường cũng như những khu thương mại lớn, một rừng cờ vàng tung bay rực trời. Lá cờ của hồn thiêng sông núi, vì mất nước đã sống chết đem theo mình, vận động vào dòng chính Mỹ để được phát huy, phát triển tinh thần quốc gia không chịu khuất phục dưới sự đàn áp độc tài đảng trị của VC nên trốn chạy. Nơi nào có dân tỵ nạn là có cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tung bay khắp năm châu bốn bể trên toàn thế giới. Tại Bắc Cali có nhóm Hậu Duệ Cờ Vàng do em Minh Huy làm trưởng nhóm, hăng say cầm cờ diễn hành trong các buổi lễ lớn, hoặc theo dõi những tù nhân lương tâm bị bắt bớ trong nước để tìm cách vận động, đấu tranh.

 Giờ đây, trước Tòa Thị Chính, lá cờ bay trong nắng, sau khi làm lễ Thượng Kỳ và treo cờ rũ, chiếc máy bay ngày trước đã từng qua VN tham chiến bay rất nhiều vòng trước sự giới thiệu của MC, bà con xúc động ngẩng lên trời đưa tay vẫy chào cùng sự tham dự của chính quyền Thành Phố.

Chúng tôi tìm quán ăn ngồi nghỉ ngơi chờ 4:30 chiều vào trong Toà Thị Chính do nhóm trẻ có cái tên “Vietnamese American Roundtable” tổ chức, được sự bảo trợ của Nghị Viên Biên Đoàn. Người đến dự rất đông mặc toàn màu đen, hội trường rộng lớn đặt ghế nhiều nhưng vẫn không đủ nên số người đứng chật chung quanh. Đây là thế hệ nối gót “tre già măng mọc”, tuổi trẻ học cao, thành đạt trên xứ người hợp lực trong tinh thần đoàn kết. Các em đặt bàn thờ bảy vị tướng tá Vi Quốc Vong Thân, dâng những vòng hoa trắng trông rất trang trọng đẹp mắt, các em rất lễ phép chào hỏi người lớn tuổi và nhờ cầm cờ vàng chung ba thế hệ một tấm lòng.

Lúc đến giờ khai mạc, đoàn người ra dàn chào với 50 lá Quốc Kỳ phất cao trong khí thế mạnh mẽ. Chương trình được Thị Trưởng, Nghị Viên, Dân Biểu Thành Phố lên phát bằng khen thưởng. Sau đó chiếu những đoạn phim của thời điểm mất nước, cảnh quân dân chạy tán loạn, cảnh người vượt biển gợi nhớ ngày miền Nam Việt Nam đầy tang thương quá đau lòng. Tiếp tục những bài hát hướng về hương yêu dấu, vinh danh tên tuổi chiếu những nhân vật công trong mọi lãnh vực, xen kẽ lời phát biểu, tâm tình của các em đầy xúc động.

Tóm tắt lời phát biểu của các em:

 – Kính thưa các Cô Chú, các Bác, các Ông Bà. Chúng con sinh ra nơi đây, nhưng biết nguồn gốc của mình là người VN, lý do tại sao đến đây từ Cha, Ông kể lại lịch sử đau buồn của ngày 30/4, và cũng chính cha ông đã từng bị tù đày khốn khổ. Chúng con vô cùng biết ơn thế hệ đi trước đã hy sinh quá nhiều, để chúng con có được ngày hôm nay, và luôn nhớ mãi ngày quốc hận, cũng như quyết tâm gìn giữ nối tiếp ngọn Cờ Vàng…

– Hiện nay hàng ngày con được đi học, được sự chăm sóc của ba mẹ lo từng bữa cơm no, áo ấm. Lúc nhỏ con vô tư chẳng hiểu gì, chỉ biết vui chơi học hành, lớn lên theo ba mẹ đi dự những buổi sinh hoạt Cộng Đồng, nhất là dự những hội chợ Tết, thấy người VN chung tay tổ chức, con mới cảm nhận được hai chữ “đồng hương”. Trong nhà thương quý ba mẹ vô cùng, ra ngoài kính nể lớp người đi trước đã gầy dựng một Cộng Đồng gìn giữ truyền thống văn hóa tốt đẹp của đất nước mình trên xứ người, cho nên con đã ghi tên học lớp Việt Ngữ, nhận ra tiếng Việt mình đẹp hay quá, rồi tiếp tục dạy lại các lớp nhỏ…. 

– Rất mong những bạn trẻ hăng hái tham gia, góp sức gầy dựng Cộng Đồng VN mỗi ngày một vững mạnh thêm, như Tết năm nay nếu không có tổ chức buổi diễn hành hoa hậu, hay dạo ngắm quang cảnh các buổi chợ thì em sẽ buồn lắm, vì nơi đó là sức sống, là hơi thở của người Việt Nam nơi chốn tha phương…”

Vẫn còn nhiều nơi:

Buổi trưa:  Việt Museum tổ chức tại 2410 Senter RD, San Jose CA 95111.

Năm giờ chiều: tại Century nhóm văn nghệ của Nhạc Sĩ Hoàng Tường (Houston qua), ban Tuệ Đăng của Thu Nga, cùng đoàn trống La San.

Sáu giờ chiều tại Đền Thánh Tử Đạo, chưa kể Sacramento (thủ phủ của tiểu bang California), và nhiều tổ chức khác nữa.

Thôi thì tùy duyên tham dự, nơi nào có dân Việt Nam lưu vong tỵ nạn là có lá cờ vàng mà lớp cha anh đã tranh đấu, vận động mạnh mẽ để có được màu cờ của tự do dân chủ bay phất phới trên xứ người. Giờ đây đã 50 năm, trong mùa Quốc Hận ở đâu có tổ chức, chúng tôi đều muốn tham dự, dẫu đường xa lái từ nhà tới San Jose nếu không kẹt xe cũng mất 50 phút.

Nhờ những buổi lễ này, chúng ta được thấy lá cờ vàng, được hát bài Quốc Ca, được thắp nén hương cho các vị tướng lãnh đã can trường tuẫn tiết trong ngày 30/4/75, được có phút mặc niệm đến các anh linh hồn thiêng sông núi, hàng triệu người trốn chạy làm mồi cho cá và đổi bằng thân xác cho cướp biển, mồ chôn tù cải tạo trong rừng sâu, được thấy những bộ quân phục của người lính VNCH gợi nhớ một thời nữ sinh đi choàng vòng hoa chiến thắng, dẫu đau nhưng lại rất dịu vợi đắp lên miền dĩ vãng, được gặp gỡ đồng bào VN, những người cùng chung tâm trạng mất quê hương, tỵ nạn nơi xứ người nhưng luôn ấp ủ lá cờ vàng trong tim.

Chúng ta nhìn nhau thông cảm thì nỗi đau, sự uất ức được an ủi và ấm lòng biết bao nhiêu.

Minh Thúy Thành Nội

30 Tháng Tư/2025 (Bắc Cali)