VTLV TRANG ĐẶC BIỆT-MỪNG GIÁNG SINH 2024
**
Lễ Giáng Sinh
Mùa lễ rộn ràng khắp mọi nơi
Shopping trang trí ánh đèn ngời
Người chen mua sắm làm quà tặng
Gặp dịp hân hoan chuyện tiệc mời
*
Thánh lễ con chiên tưởng nhớ ngài
Bao điều khổ nhục gánh hai vai
Tấm lòng vĩ đại dang tay rộng
Cứu rỗi muôn loài hướng đúng sai
*
Đêm Chúa xuống trần khúc nhac vang
Đêm đông lấp lánh tỏa sao ngàn
Nguyện cầu ân đức ngài che chở
Đêm Thánh vô cùng ý nghĩa mang
*
Có dịp cháu con tụ một nhà
Gói quà mệt thở tốn tiền đa
Nhưng mà rộn rã lòng vui thích
Hội họp vui cười ấm áp nha
*
Phở cháo, chè xôi, thịt nướng đầy
Chất chồng đống hộp chứa quà vây
Nâng ly rượu đỏ chan hòa chuyện
Hưởng lễ Noel tiệc lớn này
*
Minh Thúy Thành Nội
Giáng Sinh 2024
**********************************
VĂN THƠ LẠC VIỆT MERRY CHRISTMAS 2024
*
GIÁNG SINH kính chúc thảy nhà nhà
Luôn gặp điều lành, lộc đáo gia
LẠC VIỆT thành viên đời hạnh phúc
VĂN THƠ thân hữu sống an hòa
Tiệc Réveillon tối hàng lô Gifts
Lễ CHRISTMAS đêm cả khối quà
CHÚA ngự trên Trời ban phép lạ
Toàn cầu nhân loại thảy hoan ca.
*BBT VTLV – CHRISTMAS 2024 (Phương Hoa )
***
GIỌT LỆ ĐÊM GIÁNG SINH
(Viết thay một người)
Tuyết lạnh báo đông về
Đêm trường dài lê thê
Than hồng khôn sưởi ấm
Lịm dần trong cơn mê
*
Người xưa chừ nơi nao
Gió bên rèm lao xao
Trở trăn vòng gối chiếc
Lệ thầm hoen má đào
*
Chuông Thánh Đường rền vang
Giật mình thêm bàng hoàng
Giáng Sinh nào chung lối
Nay đôi ngã đôi đàng
*
Nhớ vòng tay ấm áp
Đêm Thánh ánh sao cười
Chúa Hài Đồng mở mắt
Gửi yêu thương loài người
*
Bên Máng Cỏ Chúa nhìn
Như vui chúc đôi mình
Bên nhau đầy hạnh phúc
Theo ước mơ đẹp xinh
*
Rồi bể cả cồn dâu
Xô tình mình hư hao
Phòng loan nơi viễn xứ
Mắt môi ai lệ trào.
Phương Hoa – Giáng Sinh 2024
ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG.
CAO MỴ NHÂN
Đêm Thánh vô cùng trân quý ơi
Đoá hoa nhân ái nở bên trời
Khát khao yêu mến người thiên hạ
Tất cả xin vào dự hội chơi
*
Ánh biếc vì sao lấp lánh xa
Tươi vui bếp lửa ấm muôn nhà
Chúa ơi, Đêm Thánh vô cùng tận
Người với người thương ta với ta
*
Bạn với bè trên mỗi bước xuân
Hoan ca nơi khắp ngả dương trần
Mây vương sắc áo mầu nhân ảnh
Đêm Thánh vô cùng đẹp dấu chân.
*
Mãi mãi hoa thơ kết vạn lòng
Dâng lên Thiên Chúa mỗi mùa đông
Bình an dưới thế đêm vô tận
Chúa ở cùng anh chị em mong …
CAO MỴ NHÂN
*
NOEL CẢM LUỴ.
CAO MỴ NHÂN
*
Đứng trên đỉnh cầu vồng
Người có nhớ gì không
Hay một trời dĩ vãng
Đã tan ra thành sông
*
Dòng sông cuộc đời xưa
Nước mắt đầy như mưa
Người vương thương khổ luỵ
Trên những chuyến đò trưa
*
Đã ở thật xa xôi
Cuộc tình cũng chơi vơi
Mười năm trôi mộng mị
Bài thơ viết không lời
*
Noel cuối thật buồn
Đón Chúa vào linh hồn
Rồi bay theo huyễn cảm
Cùng nỗi sầu sắt son
*
Người đi, xin bái biệt
Bồng bềnh lúc chia tay
Mười năm hương nguyền tắt
Sót lại nỗi đau này …
CAO MỴ NHÂN
*
TRƯỚC LỄ GIÁNG SINH.
CAO MỴ NHÂN
*
Chúa ơi, con chẳng còn nao nức
Nghe tiếng chuông, chờ Lễ Nửa Đêm
Con thấy lòng con yên lặng quá
Thản nhiên vào giấc ngủ êm đềm
*
Bao nhiêu bạn trẻ đã ra đường
Phải họ đi tìm Chúa mến thương
Hay họ chỉ đi tìm bóng họ
Bên nhau, mai mốt lại muôn phương
*
Ở đây, cạnh Chúa vẫn cô đơn
Ngửa mặt nhìn sao, nén tủi hờn
Con muốn lênh đênh trên biển cả
Một lần sóng gió, Chúa gần hơn
*
Chúa ơi, Chúa đến làm chi nhỉ
Con khóc như mưa, Chúa lại …cười
Con khổ sở hoài, xin Chúa giúp
Chúa kêu thử thách với con thôi
*
Con vừa cầu nguyện gởi cho ai
Thôi nhé, Noel này lạc loài
Con viết thơ buồn trên giá thánh
Ngày mai thức giấc, chắc sầu vơi…
(Saigon 24 -12 – 1981)
CAO MỴ NHÂN
ĐÊM CHRISTMAS.
CAO MỴ NHÂN
*
Anh đứng nhìn em lâu
Sân nhà thờ, đêm thâu
Lời thánh ca chưa dứt
Tan vào cuộc tình sau
*
Bài thơ không buồn phiền
Chúa ở mãi bên em
Ôm em cho chặt nhé
Đừng để rớt trái tim
*
Nhạc thánh ca lâng lâng
Hồn chơi vơi bâng khuâng
Bạn đời vô quá khứ
Người tình lỡ trăm năm
*
Hồi chuông ngân vang xa
Chúa vẫn ở bên ta
Sao anh im lặng thế
Ta đang trong mộng mơ
*
Thơ rơi theo tình buồn
Em sợ sầu vương thương
Mông mênh đêm Christmas
Nước mắt hoà khói sương …
CAO MỴ NHÂN
*
HÁT THÁNH CA.
CAO MỴ NHÂN
*
Buổi sáng em ngồi hát thánh ca
Cả không gian sáng rỡ quanh nhà
Anh đang xa tít chân mây rộng
Em nguyện trời ân sủng chúng ta
*
Ôi, nguyện trời cao, tuyệt đỉnh cao
Giơ tay em với tới phương nào
Không gian vần vũ, anh yêu hỡi
Sương khói mơ hồ giữa ánh sao
*
Chúa ở cùng anh, Chúa bỏ em
Bâng khuâng hờn tủi những ưu phiền
Ngay khi anh đến, khi anh đến
Mang nỗi u hoài, trễ muộn thêm
*
Buổi tối thánh ca vẳng ngập ngừng
Chao ôi, có thật Chúa bên lưng
Đỡ em đi hết đường đau khổ
Dấu lệ yêu thương, đọc ” Kính mừng …”
CAO MỴ NHÂN
*
ĐÊM THÁNH.
CAO MỴ NHÂN
Đêm thánh vô cùng hạnh phúc sao
Đường vô nhà Chúa gió len vào
Từng cây, từng lá, từng hoa lạnh
Christmas chan hoà chuông vọng cao
*
Anh có bao giờ ngó thật xa
Đêm rơi huyền ảo khói la đà
Hàng thông đứng đợi đôi hè phố
Vươn bóng mơ màng nghe thánh ca
*
Lễ nửa đêm chuông thả ngút trời
Người về ấm áp giữa sương rơi
Vòng ôm xiết chặt tình thân ái
Đếm bước thương yêu đẹp tuyệt vời
*
Mấy chục năm mà tưởng mới đây
Noel xưa lưu lạc phương này
Vẫn nơi ký ức thời thơ dại
Bài thánh ca buồn hát đắm say…
CAO MỴ NHÂN
Ý NGHĨA CỦA LỄ GIÁNG SINH
Lễ Giáng Sinh là ngày Christmas khá trọng đại. Trọng đại vì đây là ngày đã được mọi quốc gia, mọi tôn giáo coi như ngày vui chung của nhân loại, chứ không riêng gì đối với tín đồ Thiên Chúa Giáo. Do đó, có người đã nói, Christmas là một cơ hội hãn hữu để nhắc nhở mọi người có bổn phận đối với những người mà ta không quen biết cũng như đôi khi không ưa thích.Và đồng thời mọi người cũng hân hoan hát các điệu nhạc Giáng sinh như “We wish you a Merry Christmas”, như “Silent Night”, Đêm Thánh Vô Cùng mừng Chúa Hài Đồng ra đời.
…Ôi Chúa thiên đàng, cam nếm cơ hàn
Nhấp chén phiền vương phong trần
Than ôi Chúa thương người đến quên mình
Bơ vơ chốn quên nhà lúc sinh thành
Ai đang sống trong lạc thú
Nhớ rằng Chúa đang đền bù…
Theo lời ghi lại thì khi Chúa Jesus cất tiếng khóc chào đời trong một cái máng cỏ ở hang Bethlelem có ba vị Vua phương Đông mang ba món quà đến để bày tỏ sự thành kính của họ. Trong khi đó, những người chăn cừu nghèo khó cũng lòng thành tặng Chúa Jesus hoa quả và những món đồ chơi do chính họ làm ra…
Lễ Giáng Sinh Christmas là lễ kỷ niệm ngày sinh của Chúa Jesus. Christmas gồm có chữ Christ và Mas. Christ là tước vị của Đức Giêsu, chữ Mas là Thánh lễ. Thượng Đế đã gửi con yêu quý của mình xuống thế để chuộc tội và mang lại tình thương, hòa bình, hạnh phúc cho nhân loại. Tuy là lễ riêng của tín đồ Cơ Đốc Giáo, nhưng hầu như mọi người đều trân trọng, chung vui. Với tất cả, Lễ Giáng Sinh là thời gian tuy ngắn ngủi nhưng tràn ngập thương yêu với những gói quà dưới cây Noel, sao sáng lung linh nơi cửa sổ, những cánh thiệp chúc tụng gửi đó đây, những bữa ăn đoàn tụ thân bằng quyến thuộc với tiếng cười nói hân hoan hạnh phúc, với tuyết trắng phủ kín sân nhà, đường phố…
Cho nên, tinh thần của Lễ Giáng Sinh là chia sẻ, bao dung, thương yêu và giảm thiểu giận hờn.
Tiểu thuyết gia Oren Arnold gợi ý về quà tặng Giáng Sinh như sau: “Với kẻ thù, cho sự Tha thứ; với đối thủ cho sự Chịu đựng; với bạn bè cho Trái Tim; với khách hàng cho Phục Vụ Chu Đáo; với các cháu bé Làm Gương Sáng để cháu noi theo và với chính mình, cho niềm Tự Trọng”.
Trong thông điệp gửi cho nhân dân Hoa Kỳ, vị Tổng Thống thứ 30 của quốc gia này là Calvin Coolidge (1872-1933), nhắn nhủ: “Christmas không phải là một thời gian hoặc một mùa nhưng là một tâm trạng. Để chào mừng hòa bình và thiện ý, để có đầy đủ tình yêu thương”.
Tiểu thuyết gia nước Anh là Charles Dickens ((1812–1870) cũng đồng ý với “ Tôi luôn nghĩ Christmas như là thời gian vui thú ; một thời gian thân tình, tha thứ, độ lượng, thoải mái; thời gian mà nam cũng như nữ dường như tự do rộng mở trái tim, do đó tôi xin Thượng Đế chúc lành cho Christmas”.
Tác giả Wilda English viết :”Thượng Đế ban cho ta ánh sáng của Christmas, đó là niềm tin; ấm áp của Chrismas, đó là tình yêu; rực rỡ của Christmas, đó là sự trong sáng; chính trực của Christmas, đó là công lý; lòng tin tưởng ở Christmas, đó là sự thật; mọi ý nghĩa của Christmas, đó là Chúa Giê Su”.
Kế cận những bên nhau hạnh phúc, Giáng Sinh còn quá nhiều người không mua, không nhận được quà tặng, không lo được bữa ăn ngon, những em bé bán diêm chết cóng trong đêm băng giá, những đứa con bị cha mẹ bỏ rơi, những người bệnh không được thuốc thang chăm sóc…
Nhưng có Mother Teresa, người được Chúa Jesus kêu gọi để phục vụ những kẻ bất hạnh từ Giáng Sinh năm 1948. Bà từng nói “Mỗi năm tôi khởi sự việc làm vào ngày Christmas”.
Vì, theo bà, “Là Lễ Giáng Sinh mỗi khi ta để Thượng Đế thương yêu người khác qua ta…và là Lễ Giáng Sinh mỗi khi ta mỉm cười với anh em của ta và cứu giúp họ”.
Đó là thánh ý Thiên Chúa.
Mà trong Lễ Giáng sinh, thường thường người ta cũng hay cầu nguyện
Cầu nguyện không phải chỉ là sự thờ phượng mà còn là một nguồn sinh lực dồi dào, mạnh mẽ mà con người có thể tạo ra. Ảnh hưởng của sự cầu nguyện lên tinh thần và thể chất có thể chứng minh được. Ảnh hưởng đó được đo lường bằng sự phục hồi thể xác, đưa tới một trí tuệ sáng suốt, một lương tri ổn định và sự thấu hiểu những mặt khàc nhau trong sự giao thiệp giữa mọi người.
Nếu ta thành thật tạo ra một thói quen cầu nguyện, cuộc sống của ta sẽ thay đổi rõ ràng. Lời cầu nguyện sẽ để lại trong hành động và thái độ của ta những dấu ấn khó xóa nhòa. Một tác phong bình thản, một nét mặt ung dung tự tại ở những ai đã có một nội tâm phong phú. Trong chiều xâu của lương tri là ngọn lửa của nhân ái. Và con người tự nhìn thấy mình. Họ nhìn ra tính ích kỷ, thái độ kiêu hãnh, tâm trạng sợ hãi, lòng tham lam, những sai lầm ngớ ngẩn của mình. Họ sẽ triển khai một nghĩa vụ đạo đức, một trí tuệ khiêm cung lâu dài.
Câu nói, “Hãy cầu xin và sẽ được đáp ứng” đã được chứng minh bằng kinh nghiệm của nhân loại.Thực ra, cầu nguyện không thể mang lại sự sống cho em bé đã chút hơi thở cuối cùng hoặc chấm dứt được cơn đau thể chất. Nhưng cầu nguyện, như hạt radium, là nguồn sinh lực tự tạo sáng chói không bao giờ hết. Khi cầu nguyện, ta đã kết nối bản thân với nguồn sức mạnh bất tận đang quay cuồng trong vũ trụ. Ta xin một phần năng lượng đó cho nhu cầu thiếu hụt của ta để tăng cường bổi bổ. Nhưng đừng cầu nguyện Thượng Đế để thỏa mãn lòng ham muốn nhất thời.
Ta có thể cầu nguyện bất cứ ở đâu, một mình hoặc với người khác. Hãy nghĩ tới Thượng Đế nhiều hơn là hơi thở khiến cho cầu nguyện trở thành một thói quen.Và đừng cầu nguyện vào buổi sáng rồi suốt ngày sống như một con người man rợ độc ác.
Hơn bao giờ hết, cầu nguyện bây giờ là một gắn bó cần thiết trong nếp sống của con người. Thiếu quan tâm tới ý nghĩa của tôn giáo đã đưa thế giới tới ngưỡng cửa của sự diệt vong. Nguồn sức mạnh xâu sắc, toàn hảo nhất của chúng ta đã bị lãng quên một cách thảm bại. Cầu nguyện phải được tích cực áp dụng trong nếp sống của chúng ta. Vì nếu sức mạnh của sự cầu nguyện được áp dụng trong đời sống thường nhật thì còn nhiều hy vọng rằng những lời cầu nguyện cho một thế giới tốt đẹp hơn sẽ được đáp ứng.
Để kết luận, xin mượn lời của nhà văn danh tiếng nước Anh Charles Dickens như sau, khi ông nói tới Christmas: “I will honor Christmas in my heart, and try to keep it all the year”, Tôi sẽ tôn vinh Christmas trong trái tim của tôi và trân trọng Christmas suốt năm”.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
MÙA GIÁNG SINH AN LÀNH
Lễ Tạ Ơn đã qua, mùa Giáng Sinh lại về. Nhiều nhà thờ được trang hoàng rực rỡ đón Giáng Sinh, nhà nhà chuẩn bị mua cây thông, có người lên rừng đốn cây thông đem về cho gia đình mình, cho bằng hữu của mình. Có một số gian hàng bán cây thông ngoài đường nhưng chúng tôi thích mua cây thông ở nhà thờ hơn vì mua cây thông ở nhà thờ ít nhất mình cũng giúp cho nhà thờ một chút gì đó. Ở Orange County, nhà thờ nào có linh mục Việt Nam, có giáo dân Việt Nam thì nhà thờ đó được trang hoàng rất đẹp, đèn rực rỡ khắp nơi ngoài nhà thờ, cây cỏ ở nhà thờ được chăm sóc một cách cẩn thận, nhất là tượng Đức Mẹ lộ thiên đầy hoa, hoa cúc, hoa lan, hoa vạn thọ, Đức Mẹ đứng giữa rừng hoa. Đức Mẹ đã đẹp, hoa làm cho Đức Mẹ đẹp hơn. Hằng ngày, nhiều tín đồ đến cầu nguyện Đức Mẹ ban phép lành, người nào (không phân biệt tôn giáo) có tâm sự đều đến cầu xin Đức Mẹ ban cho mình sự bình yên, không phải chỉ có người lớn tuổi cầu xin điều gì đó mà ngay cả những người trẻ tuổi cũng cầu xin.
Khi đồng hương đến những nơi linh thiêng cầu nguyện thì khuôn mặt rất thành khẩn, rất chân thành, chúng tôi đã gặp nhiều người già ngồi trên xe lăn, người tật nguyền chống gậy đến trước tượng Đức Mẹ cầu nguyện ở nhà thờ Saint Barbara, Santa Ana, nhà thờ Saint Polycap, nhà thờ Westminster, nhà thờ Anaheim, nhà thờ Saint of Alexandria Temecula, v.v. Khuôn mặt của những người có niềm tin tôn giáo lúc cầu nguyện rất hiền lành, thánh thiện, lúc đó hình như họ không ở trần gian, mà họ đến nơi nào đó, nơi đó là Thiên Đàng.
Chúng tôi còn nhớ năm đầu tiên tị nạn ở Hoa Kỳ dự thánh lễ Giáng Sinh đầu tiên ở một nhà có cổ kính ở thành phố Glendale, Los Angeles County. Tối hôm đó có vài người Việt Nam tham dự, vì ở trại tị nạn thì nóng, sang Hoa Kỳ đêm Giáng Sinh quá lạnh, áo lạnh không đủ ấm, chúng tôi vừa đứng trước tượng Đức Mẹ vừa run, nhà thờ tuy nhỏ mà số người tham dự thì đông, thấy người lạ đến nhà thờ, một bà Mỹ lớn tới nắm tay chúng tôi dẫn vào bên trong nhà thờ. Không khí đêm Giáng Sinh tưng bừng chưa bao giờ thấy, đương nhiên ở trong trại tị nạn làm sao có không khí vui tươi như thế này, ở trong trại tị nạn hồi hộp chờ từng ngày để được định cư.
Gần tới mùa Giáng Sinh nhà nào cũng đẹp, văn phòng, cơ sở thương mại cũng trang hoàng đẹp hơn ngày thường, cây thông, thiệp Giáng Sinh với ông già Noel để trên cây thông, những chiếc vớ dài thật đẹp để trên lò sưởi. Lúc nhỏ, chúng tôi thường nghe nói nếu mình mơ ước điều gì thì ông già Noel sẽ cho mình, ông già Noel sẽ đi từ ống khói xuống lò sưởi. Ông bà, cha mẹ thường nói những đứa trẻ phải ngoan ngoãn thì ông già Noel mới cho quà, trẻ con thì hay tin lời của ông bà cha mẹ mình nói, dù không ngoan ngoãn nhưng tới ngày gần lễ Giáng Sinh cũng phải ngoan để được quà của ông già Noel. Trên đời này có đứa trẻ nào học giỏi mà không nghịch ngợm đâu chứ? Nghe nhạc Giáng Sinh, mặc áo mới, có quà, trẻ con nào mà không thích mùa Giáng Sinh chứ? Các nhà thờ đẹp, trang hoàng cây thông rực rỡ, bóng đèn đủ màu, cũng nhờ bàn tay của Giáo dân, sân ở nhà thờ không có một lá cây cũng nhờ bàn tay của Giáo dân, của linh mục quan tâm đến nhà thờ của mình.
Trước lễ Giáng Sinh, tôi thường gọi thăm các linh mục mà chúng tôi quen. Linh mục Vũ Đảo, đã hưu trí, là học trò trường trung hoc Lý Thường Kiệt thập niên 50 lúc người Bắc mới vừa di cư vào Nam. Linh mục Vũ Đảo học rất giỏi, có khiếu văn nghệ, đóng kịch rất xuất sắc, sau này là nhà giáo, rồi là sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau 30/4/1975, ngài ở tù 3 năm. Ra tù, ngài vượt biên qua Thái Lan, định cư ở Chicago, Hoa Kỳ. Ngài đi học ở nhà dòng, được thụ phong linh mục ở miền Đông vào tháng 4/1988.
Cựu học sinh trung học Lý Thường Kiệt ở Quang Trung, quận Hóc Môn rất hãnh diện về ngài, và không biết đất lành ở trường sao đó mà trường có nhiều dì phước, linh mục và có một giám mục cũng là học trò của Lý Thường Kiệt. Cựu học sinh Lý Thường Kiệt ở California tổ chức chào đón ngài trước khi ngài về Phi Luật Tân làm việc trong các trại tị nạn ở Phi Luật Tân.
Đến Phi Luật Tân vào tháng 6/1988, linh mục Vũ Đảo giúp rất nhiều đồng hương tị nạn trong trại tị nạn. Phi Luật Tân gồm có 4000 đạo họp lại thành một quốc gia Phi Luật Tân, đạo Công Giáo và Tin Lành phát triển rất mạnh mẽ, các vị lãnh đạo tinh thần được tôn trọng, hằng năm linh mục Vũ Đảo về Hoa Kỳ một lần, ngài được bằng hữu đón tiếp một cách nồng nhiệt, chúng tôi thường gởi sách, báo, nhạc để ngài đem về Phi Luật Tân tặng cho đồng bào tị nạn, ngài cho biết trong trại tị nạn hằng năm vẫn tổ chức lễ Giáng Sinh một cách long trọng.
Linh mục Vũ Đảo là linh mục bề trên của dòng Ngôi Lời mới thành lập ở Mỹ chừng 50 năm. Ngày xưa ở Việt Nam không có dòng Ngôi Lời, khi biến cố lớn xảy ra ở Lousiana, tượng thánh Louis bị những người nổi loạn cột dây vào đầu và định giựt sập thì linh mục Stephen Schumacher vừa chịu chức chưa được một năm của tổng giáo phận St. Louis, đứng dưới tượng Thánh Louis cùng một số Giáo dân bảo vệ tượng. Nếu họ kéo dây thì tượng Thánh Louis sẽ ngã, linh mục trẻ và một số giáo dân này sẽ chết ngay tức khắc, nhưng nhờ sự khôn khéo của linh mục trẻ này và nhờ Chúa ban phước, linh mục cố kéo dài thời giờ đối thoại để cho cảnh sát đến. Hơn 1 tỷ người trên thế giới theo dõi cảnh đối thoại từng giây từng phút, nhiều người hội hộp và muốn đau tim, người nào đau tim sẵn có thể chết bất cứ lúc nào, thế rồi Cảnh Sát đến giải tán đám biểu tình.
Tôi gọi ngay linh mục Vũ Đảo, xin số điện thoại và email của vị linh mục trẻ đó, và cuối cùng tôi phỏng vấn được ngài, một linh mục trẻ gan dạ, không sợ chết đứng giữa bão táp phong ba, leo thang cứu tượng Thánh Louis thoát khỏi bị giựt sập.
Tôi cám ơn linh mục Vũ Đảo, tôi cám ơn những vị lãnh đạo tinh thần đã giúp chúng tôi về mặt truyền thông. Nếu không có linh mục Vũ Đảo thì tôi làm sao có được số điện thoại của vị linh mục anh hùng kia một cách kịp thời.
Làm phóng sự về sinh hoạt tôn giáo thì những nhà thờ là nơi nên tìm đến, những bài thánh ca đi vào hồn người, những đứa trẻ được bố mẹ bế vào nhà thờ trong những ngày lễ, nhất là đêm Giáng Sinh, đứa trẻ nào lớn lên cũng đam mê âm nhạc và có thể thành ca sĩ, vì âm nhạc đã vào máu rồi.
Hãy cầu nguyện, cầu nguyện thật nhiều, đời sống sẽ bình yên hơn, lòng sẽ thanh thản. Người nào có niềm tin ở tôn giáo thì đời sống sẽ vui hơn, lạc quan hơn, và sống yêu đời hơn, dù gặp trở ngại trong đời sống cũng sẽ vượt qua một cách dễ dàng.
KIỀU MỸ DUYÊN, Giáng Sinh 2024
GIÁO ĐƯỜNG VẮNG EM
Chiều nay trở lại giáo đường
Ngoài sân vắng lặng người thương chửa về!
Nghe hồn lạnh buốt ủ ê!
Buồng tim khắc khoải nặng nề xiết bao!
Chừ ôn kỷ niệm năm nào
Mừng vui chuyện vãn ngắm sao rạng ngời
Khôn hề quên được người ơi!
Ngập ngừng bối rối tỏ lời yêu em
Tiếng chuông lảnh lót hiên thềm
Dường như giúp đỡ lòng thêm đẹp lòng
Canh tàn dõi đợi ngóng trông
Miền xa có hiểu thầm mong nguyện cầu
Bây giờ dạ mãi lo âu
Làng quê phố thị tìm đâu hỡi nàng?
Lẽ nào phân biệt hèn sang
Sao đành quay bước vội vàng nỡ quên?
Từng mơ nghĩa nặng duyên bền
Quỳ xin Chúa giúp mình nên vợ chồng
Chúa ơi Ngài thấy tội không?
Giáng Sinh rộn rã sao lòng quạnh hiu!
Như Thu
12/17/2024
==
Xin Ngôi Sao Lạ
Thơ Trần Quốc Bảo
Xin Ngôi Sao Lạ
Theo ngôi sao lạ phương đông,
Ba Vua gặp Chúa Hài Đồng giáng sinh.
Niềm tin mặc khải, sấp mình,
Tiến dâng lễ vật, tôn vinh Ngôi-Lời!
“Sáng danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm”
Thiên cung nhạc nhã vang âm.
Hang Bê-Lem ngát hương trầm thơm tho!
Đất trời mầu nhiệm giao thoa,
Nguồn Ơn-Cứu-Độ tuôn oà chứa chan!
Nằm trong máng cỏ cơ hàn,
Người là ánh sáng thế gian muôn đời!
Người là sự sống bởi Trời!
Là chân thiện mỹ ngời ngời tâm linh!
Ba Vua theo ánh cứu tinh,
Lại về mỗi dịp Chúa sinh ra đời.
Con qùy lạy Chúa… Chúa ôi!
Cho ngôi sao lạ chiếu trời Việt Nam!
Xua tan “quốc nạn sao vàng”
Quê hương con được bình an muôn đời!
Muôn ngàn lạy Chúa… Chúa ôi!
Xin ngôi sao lạ chiếu trời Việt Nam!
Trần Quốc Bảo
Richmond, Virginia
Địa chỉ điện thư của tác giả:
MỜI QUÝ VỊ BẤM VÀO MŨI TÊN GÓC TRÁI KHUNG HÌNH DƯỚI ĐÂY (TRÊN HOẶC DƯỚI) ĐỂ LẬT TRANG
KON TUM – MÙA GIÁNG SINH CUỐI CÙNG
(Trích đoạn trong truyện dài Đức Tin)
…Tháng 8 năm 1974, đơn vị hắn nhận lệnh luân chuyển từ Bắc Bình Định lên trấn đóng vùng cao nguyên đất đỏ. Hắn náo nức trở lại nơi mà người bạn Biệt Động Quân đã vô tình cứu hắn thoát chết dạo trước, và thăm lại người em gái hậu phương thường mở cho hắn nghe bản nhạc “Em tên…em tên Mộng Thường…mẹ gọi em bé ngoan”.
Đến nơi, pháo đội trừ đóng quân ở căn cứ Trần Ngọc Lân, còn trung đội 2 của hắn, được chỉ huy bởi vị trung uý pháo đội phó, thì kéo hai khẩu đại bác 105 ly nhét vào hai lô-cốt, nòng súng ló ra ngoài hướng về phía bắc. Ông tập hợp trung đội để ban hành mệnh lệnh:
-Đây là phòng tuyến cuối cùng, chúng ta không còn bắn yểm trợ cho đơn vị nào nữa. Nhiệm vụ của chúng ta là trực xạ vào các chiến xa T54 nếu nó xuất hiện từ hướng Ngô Trang. Các anh em hãy hết sức chú ý để kịp thời vào vị trí tác xạ. Ai vi phạm, chiếu quân lịnh thi hành kỷ luật.
Nơi hắn đóng quân có tên là Eo-Gió, cách thị xã Kon-Tum khoảng 6 cây số về phía bắc, là một ngọn đồi thấp và trơ trọi, nằm án ngữ trên đường 14, con đường độc nhất nối liền với các tỉnh phía nam. Sau khi Đắc Tô-Tân Cảnh thất thủ, nơi đây trở thành vị trí chiến lược phòng thủ hàng đầu.
Từ ngọn đồi nhìn ra bốn phía là núi cao chớn chở và rừng xanh bát ngát. Buổi chiều sương lam âm u tỏa xuống những khí lạnh ghê người. Còn ban đêm, gió thổi qua hun hút, nghe như tiếng kêu gào của các cô hồn uổng tử đã chết dọc theo con đường di tản từ mùa hè đỏ lửa 1972.
Ngày tháng ở đây nhàn nhã hơn thời kỳ còn đóng quân ở Tam Quan-Bình Định, bọn hắn không phải phơi lưng dưới nắng làm đạn cả ngày hay thức giấc giữa đêm khuya để bắn vài quả đạn quấy rối vu vơ. Công việc thường ngày là canh gác và lau chùi súng đạn, những quả đạn Beehive chống biển người được đưa ra sắp sẵn vào hai bên ụ súng. Loại đạn này, theo vị chỉ huy cho biết, nó có giá một triệu hai trăm ngàn đồng một quả, trong khi lương binh nhì của hắn-đã trừ tiền ăn-chỉ hơn mười hai ngàn đồng mỗi tháng. Trong cái đầu non nớt của hắn, hắn nghĩ thầm -“ Giá mà người mỹ dùng số tiền khổng lồ này mua sữa và bánh mì phát cho dân hắn được no nê thì hạnh phúc biết bao!”.
Mỗi ngày sau khi xong phần việc của mình, hắn thường đi tha thẩn quanh doanh trại, tán dóc với các chiến hữu biệt động quân. Đời lính nơi miền biên cương vô cùng gian khổ, thiếu thốn đủ bề. Quanh năm chỉ thấy rừng già và súng đạn, chưa kể cái chết luôn luôn rình rập chung quanh. Mỗi tuần họ được một lần tiếp tế, khẩu phần là 7 ca gạo, một mớ cá khô, mắm muối bột ngọt và mấy bó rau xanh. Lãnh Lương ra không biết tiêu pha ở đâu cho hết, bèn châu đầu đánh bạc, thằng không may sạch túi thì đành đi lượm “dế mèn” quấn hút, thằng ăn được tiền cũng chả biết làm gì khác hơn là kiếm sòng khác nướng tiếp. Thỉnh thoảng cũng có phái đoàn các “em gái hậu phương” kèm theo vài ca sĩ tỉnh lẻ đến thăm và tặng quà. Lính lác thì được giao lưu ban ngày, còn khi đêm đến, mấy cô ca sĩ rút vào trong các căn hầm sĩ quan, ở đó vọng ra tiếng nhạc xập xình, lẫn với tiếng cười đùa vui vẻ. Có hôm đúng phiên gác, hắn tò mò lén nhìn qua lỗ châu mai. Trong căn phòng ấm cúng, nồng nàn mùi nước hoa và mùi thuốc lá thơm, hắn tê mê nhìn những thân hình gợi cảm của các cô gái đang tay trong tay, mặt nhìn mặt cùng các viên sĩ quan dập dìu khiêu vũ theo điệu nhạc quay cuồng. Lòng hắn bỗng bừng dậy một nỗi khát khao mà bấy lâu hắn kìm nén. Hắn thèm mùi da thịt đàn bà. Thì có sao đâu? Hắn mới hai mươi tuổi…và hắn khao khát được yêu, được ôm người hắn yêu trong vòng tay nóng bỏng và đặt vào đôi môi mọng ướt của nàng một nụ hôn nồng cháy…
Nhưng…cho đến bây giờ, hắn vẫn chưa có người yêu!
Một lần tình cờ gặp lại một người học trò cũ của Cha hắn lúc ông còn dạy tiểu học ở quê. Anh ta là trung uý đại đội trưởng một đại đội biệt động quân thuộc LĐ 23/BĐQ đi hành quân ngang qua. Anh mừng rỡ, kéo hắn vào lều, hỏi thăm về vị thầy cũ, mời hắn ăn một bữa cơm, rồi khi ra về còn cho hắn nửa cây thuốc Capstan. Cảm động hắn làm một bài thơ tặng lại anh. Bài thơ có tựa đề là Biên Giới Ca:
Núi cao chớn chở mồ uổng tử
Rừng xanh bát ngát hồn ma thiêng
Chiến địa máu trào như là suối
Biên giới hề, âm u dị thường!
Biên giới ngày nắng nung chảy mỡ
Biên giới đêm lạnh như cắt da
Xác chết rủ nhau ngồi ngay dậy
Đốt lửa rừng lên mà hát ca…
Ta mang thân trấn thủ lưu đồn
Ba năm biên giới nhận là con
Ba năm man dại theo rừng rú
Buổi chiều ngồi vuốt chòm râu non!
Bạn ta áo bạc màu sương gió
Đem tuổi xuân phơi giữa chiến trường
Từ buổi lên đường xa phố nọ…
Chưa từng san sẻ chuyện yêu đương!
Chiều nay sương xuống mờ quan ải
Nghe tiếng hồn hoang hú não nề
Vỗ tay ta hát hề, biên tái
Súng đạn người đi chẳng trở về!.
Anh ta đọc, khen “mày làm thơ được đó, nhưng buồn quá, đời mày chắc sẽ còn nhiều gian khổ”
Hắn yên lặng không nói gì.
Một tháng đôi ba lần hắn cũng chuồn về được thị xã Kon-Tum. Đến thăm thằng bạn “trung sĩ biệt động quân”, rồi kéo nhau lê la từ quán Cafe Giao, Da Vàng, đến quán Cây Ổi. Ở đó ”có vẻ” em Phương tóc dài đã có chút cảm tình với hắn. Hắn nghĩ “có vẻ”thôi, bởi vì tâm lý các cô gái thời bây giờ chỉ nhắm vào các chàng sĩ quan hào hoa đẹp trai phong độ, chứ còn hàng ngũ cái thứ lính “đơ dem cùi bắp” như hắn thì các cô chả thèm để ý tới bao giờ!.
Em Phương có mái tóc dài ôm kín cả bờ lưng thon thả, sau buổi học về, em thường thay mẹ ra ngồi ở quầy tính tiền. Những khi vắng khách, em lơ đễnh một tay chống cằm, tay kia hí hoáy vẽ trên tờ giấy, nghiêng cả mái tóc mây óng ả về phía hắn. Hắn đánh bạo, phết đại vài câu thơ vớ vẩn rồi trao cho nàng:
“Trời đang rét nhưng lòng anh ấm lạ
Khi ngồi đây trông mái tóc em dài
Vở học trò em đã chép tên ai
Cho anh gửi bài thơ tình của lính…”
Đọc xong, em quay lại nhoẻn môi cười với hắn. Thừa thắng xông lên, hắn kéo ghế qua gần quầy, rồi-vừa nhả khói thuốc vòng tròn, theo kiểu của nhân vật Trần Đại khi đến tán tỉnh em Tường Vi xinh đẹp của quán cafe Gió Nam trong phim Điệu Ru Nước Mắt-hắn vừa phun ra hàng tá thơ tình lãng mạn, từ thơ yêu nồng nàn của Xuân Diệu, Huy Cận cho đến thơ thất tình của Nguyễn Bính. Tuổi học trò nhiều mộng mơ thường thích văn thơ, cho nên em cười híp mắt, ngồi lim dim nghe hắn đọc thơ và bình thơ chứ còn để trở thành người yêu của hắn thì…chắc còn xa lắm!
Mùa giáng sinh năm đó, hắn chuồn về được thành phố sau khi lội bộ 6 cây số. Đến tìm thằng bạn “trung sĩ biệt động quân” thì mới hay nó vừa về phép hôm qua. Buồn tình, hắn một mình tha thẩn tới quán cafe Cây Ổi và gạ gẫm nàng đi lễ nhà thờ với hắn. Nàng đáp gọn lỏn:
-Em không có đạo!
Hắn lên giọng đóng vai cha cố:
-Chúa xót thương tất cả loài người, những người không có đạo Chúa lại thương hơn..
Nàng nghi ngờ nhìn hắn:
-Thôi đi! Đừng xạo…sao anh biết?
Hắn hùng hồn chứng minh:
-Anh là bằng chứng đây, vì lòng mong muốn được đến với Chúa trong đêm thánh vô cùng mà chỉ huy của anh đã cho phép anh đi, trong lúc cả đơn vị cắm trại. Nếu ngài không dùng quyền năng của ngài để làm động lòng vị chỉ huy của anh thì còn ai có thể làm được? (Hắn đã nói láo, thực ra hắn chui rào trốn đi chứ có chỉ huy nào cho phép lính tráng rời đơn vị ban đêm vào những lúc mà việt cộng rình rập tấn công)
Nàng có vẻ xuôi tai:
-Ơ…nhưng mà em không quen đi lễ, tới đó em chả biết làm gì cả?
-Chúa sẽ làm tất cả. Em chỉ việc đi cùng anh tới đó, đứng im chắp tay cầu nguyện…rồi Cha xứ sẽ làm lễ, ngài sẽ cho em được nếm bánh thánh, uống nước thánh…em sẽ được đầy ơn phước, sẽ có chồng giàu sang và sinh những đứa con bụ bẫm, có gương mặt xinh đẹp rạng ngời giống hệt khuôn mặt phúc hậu của Đức Mẹ Maria…
Nàng vẫn bướng bỉnh:
-Nếu em không đi thì sao?
Hắn dọa dẫm:
-Thì khi lìa đời, em sẽ xuống hỏa ngục, nơi đó có những con quỷ đuôi dài đầu sừng, nó sẽ tán tỉnh và hù dọa em, em sẽ chết khiếp…
Hắn còn tuôn ra hàng tràng dài những điều mà hắn học lóm đâu đó trong Kinh Thánh. Nàng vô phương chống đỡ trước những lời lém lỉnh của hắn nhưng vẫn không chịu đầu hàng:
-Nhưng…nhưng mà…má em sẽ la, nếu đi với anh… em hổng dám đâu!
Tới đây thì hắn đành phải bạt mạng nói càn:
-Không người mẹ tốt bụng nào lại la mắng con gái khi đi lễ nhà thờ vào đêm giáng sinh với một chàng trai tử tế…như anh.
Nàng liếc đôi mắt sắc như dao cạo quét khắp người hắn:
-Liệu có tin được mấy cái anh chàng lính tráng như anh không?
Thấy nàng có vẻ xiêu lòng, hắn gật đầu lia lịa:
-Tin được…tin được! Bên trong bộ đồ phong trần này là một linh hồn thánh thiện. Anh là một chàng trai tử tế hiền lành nhất mà em có thể tin tưởng. Thề có Chúa chứng giám, anh sẽ hộ tống em đến nơi an toàn và sẽ trả em về nhà đúng giờ sau khi tan lễ mà không làm em bị mất một sợi lông chân nào…
Nghe hắn quả quyết, nàng cũng động lòng, nên sau vài giây lưỡng lự nàng bèn gật đầu:
-Vậy…anh ra đứng ở cuối đường đợi em, em sẽ thay đồ rồi ra sau…nhớ là đưa em về ngay sau khi tan lễ đó…nghe chưa?
Hắn mừng rơn.
Thế là…lần đầu tiên trong đời, hắn được sánh bước bên một người con gái, dịu dàng trong chiếc áo dài trắng tinh khôi cùng đi lễ nhà thờ.
Con đường dẫn đến ngôi giáo đường chính của thành phố tràn ngập sương mù, đêm đó lại là một đêm có trăng . Ánh trăng mờ tỏa, quyện cùng lớp sương mù lãng đãng tạo thành một thứ ánh sáng huyền ảo mông lung, khiến hắn có cảm giác như là đang bơi trong không gian của một tầng trời xa thẳm nào đó, chứ không phải đang đi giữa một thành phố bị chiến tranh vây bủa tứ bề.
Thấy nàng có vẻ lạnh, hắn cởi chiếc áo Philaket của mình choàng lên vai nàng trong động thái của một bàn tay sẵn sàng chở che bảo vệ. Nàng cảm động, trìu mến đi sát vào hắn, hắn nghe được mùi hương tóc và mùi da thịt của nàng thoảng ra ngây ngất. Ôi chao….Hắn ước gì cho đường đi không tới và đêm cứ dài ra, để mãi mê, hắn sẽ cùng nàng trôi đi…trôi đi qua lối vào tình sử và cùng bay đến một thiên đường mộng ước xa xôi. Nơi chỉ có tình yêu và mật ngọt, nơi xa lìa trần thế đau thương!….
Nhưng con đường thực tế thì quá ngắn ngủi. Mười lăm phút sau-dù đã cố đi chậm hết sức-hắn và nàng cũng đã đứng trước cửa nhà thờ. Người đến dự lễ và người đi xem cũng rất đông. Hắn chật vật đưa nàng vào bên trong. Khi đã yên vị ở một chỗ mà hắn nghĩ là có thể nhìn bao quát cả khung cảnh của giáo đường, hắn ấn nàng ngồi xuống chiếc ghế trống duy nhất còn lại, hắn đứng sau lưng. Nàng trả lại chiếc áo khoác lính cho hắn vì lúc này hơi nóng của số đông người đã đẩy cái lạnh ra bên ngoài khung cửa.
Đang lúc hắn đang say sưa giảng bài về sự tích của đêm giáng sinh thì một bàn tay thô bạo kéo mạnh hắn về phía sau. Cùng với một tràng cười “đểu cáng” là một giọng nói quen quen:
-Thằng quỷ! Trốn ở đâu mà tụi tao tìm mãi mới ra mày…Đi!…đi nhậu với tụi tao!
Hắn ngó lên, thì ra là hai thằng “ôn dịch” cùng đơn vị. Hổng biết nó làm cách nào mà cũng trốn được về đây?
Hắn bèn xuống nước năn nỉ:
-Tao đi với em gái, tụi mày thông cảm, hẹn quán nào đi, chút xíu đưa em về xong tao đến.
Không đếm xỉa gì lời năn nỉ của hắn, hai thằng bạn thân kéo tuột hắn ra ngoài:
-Huynh đệ chi binh gì mà bỏ bạn bè đi chơi với em út? Để em đi lễ đó, nhậu với tụi tao xong quay lại đón em về…không nói on-đơ gì ráo…
Miệng nói tay kéo, hai thằng “quỷ sứ” lôi thẳng ra quán. Vốn tính nể trọng bạn bè, nhất là đối với bạn bè vào sinh ra tử, hắn ngoan ngoãn bước theo mà không kịp quay lại dặn dò “em Phương thân mến” một câu nào.
Hắn định bụng ngồi một lát với hai thằng “ôn dịch”, uống với tụi nó vài ly rồi tìm cách chuồn. Nhưng, người tính không lại ý trời!
Khi cái thứ nước màu hổ phách “quỷ quái” trong chai “Napoleon lùn” chạm đáy, hắn ngật ngưỡng đứng lên bắt tay từ giã bạn, thì cũng là lúc hắn đổ ập xuống sàn nhà, không còn biết trời trăng mây nước gì nữa cả!
o0o
Khi tỉnh lại vào buổi sáng hôm sau, hắn thấy mình nằm co trên chiếc bàn sắt trong phòng khách của một quán trọ rẻ tiền. Cổ họng đắng nghét và cái đầu nặng trịch, hắn chẳng biết tại sao mình lại ở đây?
Chợt nhớ tới nàng, hắn giật mình phóng xuống đất – chết mẹ! mình quên đón nàng rồi!
Hắn vội vàng đi tìm nước rửa mặt, rồi sờ khắp túi quần, túi áo, chẳng có thứ gì ngoài một manh giấy viết nghệch ngoạc mấy chữ:
“Mày say quá mà khách sạn hết chỗ, tụi tao đành bỏ tạm mày ở đây, tiền bạc giấy tờ tụi tao giữ, mai về đơn vị lấy”.
Hắn trở lại quán cafe Cây Ổi để gửi đến nàng một lời xin lỗi. Thấy hắn, nàng chẳng nói chẳng rằng, quay lưng bước vào nhà sau mất dạng.
Hắn đứng yên một lát, nhìn trời hiu quạnh…rồi thọc hai tay vào túi quần lặng lẽ rời đi!.
Mùa giáng sinh 1974-đối với hắn-đã trở thành một kỷ niệm đẹp và…buồn!
Ngày 14 tháng 3/1975. Kon Tum được lệnh di tản, đơn vị hắn kéo súng theo đoàn quân lầm lũi từ giã chiến trường, hắn không kịp đến chào “em Phương thân mến”. Cuộc di tản chiến thuật biến thành một cuộc tháo chạy kinh hoàng. Bom đạn, đói khát và bịnh tật đã giết chết rất nhiều binh lính và thường dân vô tội. Hắn tìm kiếm khắp nơi và hỏi thăm rất nhiều người, không ai biết tin tức gì về cô Phương cà phê Cây Ổi.
Hắn thở dài nghĩ đến một điều không dám nghĩ:
– Có thể “em Phương thân mến” đã vùi thân trong một góc rừng nào đó giữa vùng lửa đạn chiến tranh rồi!
Chàng Đông Ry Nguyễn
EM BÚP BÊ GIÁNG SINH–G. LENOTRE
– Thái Nữ Lan dịch
Theo trí nhớ của tôi về quá khứ xa xôi, tôi vẫn nhìn thấy bà hầu tước De Flavigny, luôn tươi cười và thanh thản, bà thường ngồi ở chiếc ghế bành thấp bọc nhung màu vàng nhạt, đầu đội chiếc nón len viền ren, có vài lọn tóc bạch kim lòa xòa trên mặt. Bên cạnh bà luôn có một phụ nữ khác cùng lứa tuổi, ngồi ở chiếc ghế thấp, cũng tươi cười hiền hậu: bà ấy thường được gọi là “Cô Odile”.
Bà ấy không phải là cô hầu, mà hình như có một mối dây thân mật khiến hai bà là đôi bạn thân; họ thường ngồi đan những chiếc váy lót bằng len để rồi mỗi thứ năm đem tặng cho người nghèo cùng với một mẫu bánh mì và năm đồng tiền hai xeng ( liard= 1/4 xu của Pháp thời đó), vừa kể cho nhau những dòng tâm sự không bao giờ cạn. Vào những ngày không đan đác thì họ lại lục soạn bao nhiêu là tủ kệ, mở những hộp xinh đẹp quấn đầy cả dãi ruy băng, rồi bày ra nào là những khăn lót dĩa, lót bình hoa thêu thùa rất công phu, rồi chùi dọn suốt ngày. Bọn chúng tôi là một đám trẻ con tò mò được phép chứng kiến những hoài niệm về kho tàng cổ xưa rất hữu ích ấy, với điều kiện không được đụng đến bất cứ thứ gì.
Bên trong một cái tủ bí mật ấy, như là ngôi đền nhỏ, chúng tôi thấy một vật để đứng trong một hộp thủy tinh mà hai phụ nữ ấy chăm chút như một vật linh thiêng: đó là con búp bê lớn, mặc một chiếc áo đầm bằng lụa đã sờn theo kiểu xưa; đầu nó thì đã rụng gần hết tóc qua thời gian, mũi thì bị gãy, gương mặt và tay thì đã bị tróc hết lớp sơn bọc ngoài, và chân thì chỉ còn một chiếc giày gót cao đã bị nứt nẻ, màu đỏ phai nhòa, với khóa cài bạc đã thành đen điu .
Khi nhìn thấy món đồ vật trang trí uy nghi ấy, bà hầu tước và cô Odile bế nó ra với sự dè dặt của đứa trẻ lễ sinh ở nhà thờ khi phải cầm vật thánh trong hòm thánh tích: họ nói từng câu ngắn với vẻ ké né: “Ôi, CÔ BÉ lại bị rụng tóc nữa rồi…Cái váy lót lại mòn thêm nữa…Ôi ngón tay này lại sắp rơi xuống nữa nè.” Họ cẩn thận chăm chút mở nắp hộp ra, vỗ bụi trên tóc, vuốt nếp gấp chiếc váy bằng đầu ngón tay, nhẹ nhàng, âu yếm.
Rồi họ để em bê trên ngăn kệ đẹp nhất, như trên một kệ thờ.
– “Bé có đứng được không, cô bạn yêu dấu của tôi?”, bà hầu tước hỏi bạn mình.
Còn bà Odile thì chỉ gọi bà là “Bà Solange”, một cách thân mật, không kèm chức tước.
Chúng tôi không biết gì thêm về hai phụ nữ ấy và con búp bê, cho đến một đêm trước Giáng Sinh, vào một năm xa xưa lắm rồi, bỗng dưng chúng tôi được tham dự, được “kết nạp” vào toàn bộ bí mật đó. Hôm ấy Odile và bà bá tước đã nói chuyện với nhau một cách sôi nổi hơn thường ngày.
Đến chiều tối, cả hai trở nên trầm lặng, gần như tĩnh tâm, rồi im lặng chắp hai tay lại, ngậm ngùi nhìn nhau, và ta hiểu rằng họ đang hướng về một kỷ niệm thật yêu dấu của riêng họ. Khi bên ngoài trời tối hẳn, Odile thắp nến lên; rồi lấy xâu chìa khóa từ bên trong cái tạp dề, bà mở cửa tủ đựng em búp bê. Bà bưng con bê ra khỏi hộp; trong mớ áo quần trang hoàng kiêu sa thuở nào, giờ đây với cái đầu nhẵn tóc, nó có vẻ già hơn hai người phụ nữ rất nhiều, và họ đang chuyền tay nhau vật báu bằng những cử chỉ thật chăm chút, gần như là âu yếm, như thể đối với con gái yêu.
Nữ hầu tước để con bê lên chân mình, nhẹ nhàng kéo đôi tay bằng thạch cao đến gần thân nó, toàn bộ khớp kêu ken két như tiếng rên rỉ, rồi bà nhìn ngắm ” cô nàng” với một nụ cười thật trìu mến -” Cô bạn yêu dấu của tôi, bà gọi mà như thể nói với con bê, bây giờ ta kể chuyện của mình cho bọn trẻ nghe nhé?” Rồi Odile gật đầu đồng ý; nữ hầu tước ra dấu cho chúng tôi đến đứng quanh bà; con bê vẫn ngồi trên đùi bà, và làm như bà sẽ thuật lại câu chuyện cho mỗi con bê nghe thôi.
Bà kể rằng từ rất nhiều năm trước, khi bà con là đứa trẻ, cuộc nội chiến tàn phá xứ Bretagne của bà, đó là thời gian kinh hoàng. Từ những ngày đầu năm 1792, cha mẹ của bé Solange đã di cư, và giao bé cho một bà nông dân sống bên cạnh lâu đài của họ ở Ploubalay trông chừng, vì tính cách nguy hiểm của cuộc trốn chạy nên không thể mang bé đi cùng; họ nghĩ rằng chiến tranh sẽ sớm kết thúc thôi, và họ sẽ trở về trong thời gian ngắn. Nhưng rồi không lâu sau đó, biên giới đã bị đóng cửa, và luật lệ gắt gao ngăn cấm những kẻ di cư trở về lại nước Pháp. Cô bé Solange phải ở với gia đình người hàng xóm tốt bụng, không nhận được tin tức gì của cha mẹ mình, vì hình phạt sẽ là án tử hình nếu ai có ý muốn liên lạc với những người di cư.
Ploubalay là một ngôi làng rộng lớn, cách Saint-Malo khoảng ba dặm; bờ biển gần đó có đầy cả những tảng đá lớn, bao quanh là quần đảo đá ngầm, nên mọi mưu toan cập bến đều rất nguy hiểm. Bọn lính mới chiếm cứ toàn bộ thị trấn, họ đã đuổi bọn lính phe bảo hoàng đi; tên trung sĩ cầm đầu bọn họ là một người có tính tình như bao nhiêu người trong quân cách mạng: thô lỗ, sắt đá.
Hắn người vùng Alsace, tên là Metzger. Mọi người đều sợ hãi hắn ta, nhất là đối với bé Solange, khi nhìn bộ ria mép, đôi lông mày rậm, ánh mắt nghi ngờ, giọng nói cứng ngắc, vang to, của người đàn ông kinh khiếp đó, là cả một cơn ác mộng cho bé.
Khi tên trung sĩ không làm việc với toán lính của hắn, thì hắn ngồi ở cửa nhà thờ, để canh chừng những con đường của thị trấn với vẻ mặt thật dữ tợn. Một hôm bé Solange đi mua bánh mì cho bà Roualt, lúc về thì thấy ông ấy đang nhìn theo mình. Bé muốn đi vòng ra sau, nhưng lại không dám. Lấy hết can đảm, bé liền đi thật nhanh như thể ở nhà đang có người đợi mình. Đến lúc tưởng rằng đã thoát đôi mắt cú vọ của hắn, bỗng bé nghe thấy giọng nói ồm ồm của tên lính:
– Này cô bé kia, đứng lại!
Cô bé tội nghiệp cảm thấy như tim mình ngừng đập: bé không bước được nữa, chắc là chết giấc mất thôi…
– Đến đây xem nào…- xích tới chút nữa..
Bé phải nghe theo, không còn kiểm soát mình được nữa, bé chỉ cách tên trung sĩ hai bước chân, mà cũng chưa dám ngẩng mặt lên nhìn. Hắn để bé đứng như vậy một lúc, rồi bỗng bằng một giọng vang to như sấm làm con bé rùng mình: – Mi thuộc dòng quý tộc phải không? Cô bé há hốc miệng, phú dâng cho Thượng Đế. Bé không hiểu lắm, nhưng biết rằng chữ đó là dành cho những người sẽ bị giết.
– Mi bao nhiêu tuổi hả?.
Bằng một giọng khàn đi vì kinh khiếp, bé trả lời: – Tám tuổi, bé định nói thêm cho lịch sự , “thưa ông”, nhưng rồi không thốt ra, vì biết rằng nếu nói ra thì tên ấy sẽ bóp cổ bé ngay tức khắc.
Nhưng hắn không có vẻ gì là để ý đến điều đó, lại làu bàu:
– Hừ, tám tuổi…tám tuổi! Rồi nói thầm: – Mi cao lớn và mạnh khỏe đấy, so với tuổi của mi.
Cô bé nhìn ông ta, hắn thật là kinh khủng, với vẻ mặt dữ dằn, đầu đội cái nón hai sừng có vài sợi lông chim đỏ, gương mặt rám nắng, ống điếu thì đen thui, túi đạn đeo chéo trước ngực, kiếm dài ngoằng và đôi ủng đầy cả bùn sình. Và điều ghê gớm nhất là đôi mắt hắn, sâu hoắm, sắc sảo như chực ăn tươi nuốt sống cô bé.
-Thôi, chuồng đi! hắn ra lệnh. Cô bé liền nhanh chân chạy một mạch về nhà, vừa chạy mà tim vẫn còn đập thình thịch.
Kể từ hôm đó, cô bé có cảm tưởng như tên trung sĩ luôn theo dõi mình. Khi hắn có việc đi ngang trước nhà gia đình Rouault, là phải cố nhìn vào bên trong để tìm bé. Hoặc khi gặp bé ngoài đường, hắn gọi bé bằng cái giọng quỷ quái, thô lỗ, làm cho con bé run lẩy bẩy: – Ah! cô bé kia!
Solange ước sao không phải đi ra ngoài nữa, nhưng bà Rouault, tiên đoán rằng cha mẹ của bé sẽ không có cơ may trở về nữa, và bà không thể để bé ăn không ngồi rồi, nên thường sai đi mua những thứ cần thiết cho gia đình.
Thế là, bị ép buộc để hàng ngày phải diện kiến với con bù nhìn ghê sợ của mình, Solange đành phải chịu đựng sự nghiệt ngã của đời mình; và tên lính mới ấy chỉ còn chờ có được cơ hội. Một hôm khi đang ngồi rửa rau ở máy nước công cộng trong khu nhà, hắn bỗng xuất hiện và hỏi: – Này bé, tên mi là gì? Cô bé biết rằng giờ ấy đã điểm, nên cam chịu trả lời: – Solange… Tên lính reo lên:- Solange! – (hắn đọc là Zaulanche)
-Cái tên mới ngộ làm sao! Rồi hắn nắn cánh tay bé, và bế con bé lên để xem thử nó có nặng không – Tám tuổi ư! Sao mà lớn nhanh thế!
Cô bé có cảm tưởng như mình đang là con mồi ngon trong tay một con yêu tinh…
*** Bây giờ đang là tháng Mười Hai, những tháng ngày u buồn ảm đạm, không có ánh dương; ngày nào bọn lính mới cũng bắt được những người di cư trở về, họ sống quá cơ cực ở Jersey hoặc Luân Đôn, không chịu đựng nổi, nên quá ao ước được trở về Pháp, rất nhiều người đã mạo hiểm cập bến.
Bọn lính phục kích ở bờ biển cũng như toàn bộ khu vực , và đã luyện một đám chó to lớn đi săn loại mồi đặc biệt này, để tìm ra tung tích những kẻ khốn cùng, ban ngày thì nằm rẹp trong lau sậy, ban đêm thì men theo các mương rãnh. Dân làng thường thấy bao nhiêu người đi ngang qua Ploubalay này bị xiềng xích, áo quần thì tả tơi, bọn lính thì đi kèm họ đến Saint Malo, hoặc Rennes, rồi sau một cuộc xét xử sơ sài, bị đem ra bắn. Luật lệ không nương tha và không có kháng án: bất cứ người di dân nào bị bắt là chịu tử hình.
*** Vào đêm vọng Giáng Sinh năm 1793 ấy, trong làng không còn ai nhớ về những buổi lễ thân thương của thuở xa xưa nữa. Nhà thờ thì đóng cửa, chuông thì im vắng; đêm tối đã buông xuống, đầy sương mù; suốt ngày người dân nghe tiếng chó sủa không ngớt về phía khu Bodard: hôm nay bọn lính đã thu hoạch được khá rồi…
Cô bé Solange ngủ ở căn gác kế căn đựng thóc lúa, đầy cả bóng tối ghê rợn, và ban đêm bé nằm bất động, nghĩ đến bao nhiêu điều bất trắc có thể xảy ra. Hôm ấy bé vừa thay áo quần vừa run vì lạnh và bé thật buồn, nhớ đến bao nhiêu đêm Giáng Sinh với cha mẹ mình, thật vui thích, và trong lòng bé thấy thương mến làm sao!
Những buổi sáng thức dậy sao sung sướng hạnh phúc quá! ở cạnh lò sưởi tràn đầy quà cáp gói bằng dãi nơ thật xinh xắn, rồi bao nhiêu là đồ chơi và bánh kẹo!
Vừa mơ mộng như thế, cô bé vừa cầm đôi guốc gỗ một cách uể oải, không muốn để cạnh lò sưởi vì biết rằng rồi đây chúng cũng sẽ trống trơn khi bé thức dậy, y như năm vừa rồi. Ngay cả Đức Chúa nhỏ bé cũng lo sợ và không đến nước Pháp nữa hay sao?
Bé có cảm tưởng như có tiếng động, thế là bé nhanh nhẩu thổi nến và chui vào chăn. Rồi bé ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ, bé thấy như cánh của nhè nhẹ mở ra, và một bóng đen lẻn vào căn gác. Bé hé mắt ra nhìn: căn phòng bây giờ đã được ánh trăng chiếu sáng,. Ta có mơ không đây? Bé nhận rõ bóng đen là một người đàn ông: một người đàn ông ăn mặc như những người di cư mà bé thấy ở ngoài quận khi lính đem tù nhân đi Saint Malo; rồi bé nghe thấy một giọng nói thật khẽ: – – Solange, bé con nhỏ cưng của ta, đừng sợ con ạ.
Bé cảm thấy một bàn tay đang dang những lọn tóc trên trán ra một cách cẩn thận: một tia sáng của ánh trăng đang chiếu rõ cô bé.
Người đàn ông nhìn bé: – Ôi con yêu Solange của ta, con xinh đẹp quá, và cao lớn, mạnh khỏe nữa!
Ông ấy không ngớt ngắm nhìn bé. Rồi ông ôm lấy bé một cách cuồng nhiệt, và hôn tới tấp làm bé suýt nghẹt thở. Bé không còn biết mình thức chưa hay còn đang mơ; nhưng bé biết ngay là nếu cha của mình còn sống, thì đây chính là giọng của người, những cái vuốt ve trìu mến, và ôm ấp bé như thế. Bé thấy người đàn ông quỳ bên cạnh giường mình, rồi bé nghe ông khóc nức nở; bé khép mình trong tay cha- rồi quá hạnh phúc! bé nhắm mắt ngủ tiếp.
Bình minh hôm sau, bé mở choàng mắt, và lúc đầu thật khó khăn để nhớ lại những gì vừa xảy ra đêm qua, nhưng rồi bé trấn tĩnh lại: chắc chắn là mình đã nằm mơ rồi: căn phòng trống trơn, cánh cửa thì khép kín; dưới nhà bé nghe rõ bước chân bà Rouault đi qua đi lại. Solange ngồi ở mép giường, và bỗng nhiên, sung sướng hét lên,… Trên đôi guốc của mình, được sắp lại ngay ngắn, bé vừa nhìn thấy một con búp bê dựng đứng, mặc chiếc áo váy thật rực rỡ bằng lụa xanh, một con bê thật cao lớn, uy nghi, tươi cười, ăn mặc như một phu nhân, với những lọn tóc xoắn thật xinh bao lấy khuôn mặt bằng sứ thanh tao, trên vai là khăn choàng kiểu hoàng hậu, chân thì mang giày bằng da cừu, khóa cài giày lại bằng bạc sáng loáng…
Cô bé liền quỳ xuống trước “lệnh bà”, và ngay tức khắc gọi bà là Yvonne. Bé thay áo quần rất nhanh, rồi ôm “con gái” trên tay, bé đi xuống nhà.
Bà Rouault, vừa nhác thấy bé cùng với món đồ chơi tuyệt diệu ấy mà trong trí tưởng tượng của bà cũng chưa bao giờ mơ ước được, vô cùng ngạc nhiên thốt lên:-— Lạy Trời, Solange, ai cho cháu con bê này vậy? – Thưa bà, đó là chúa Hài Đồng Giê Su ạ, cô bé trả lời một cách hồn nhiên.
Người đàn bà há hốc miệng kinh ngạc: ôi, nói về lòng tin theo kiểu thần thánh này thì bà chịu thua thôi. Tuy nhiên, bằng chứng rành rành đây khiến bà choáng ngợp: bà biết rằng ở Ploubalay này, hoặc ngay cả tỉnh thành Matignon, Saint Malo, hoặc Rennes đi nữa cũng không một ai có thể sắm được cho mình hay người thân một món đồ huyền diệu như thế.
Thế rồi, chính vì điều này, bà trở nên rất cung kính, và ngắm nhìn mà không dám đụng vào phu nhân mà Solange trao cho bà một cách long trọng. Bà liền gọi ông đến: – Ông xem thử món quà mà Chúa Hài Đồng mang đến cho Solange nè; ông ấy là một người chất phác,và không biết gì về những trang sức lụa là của các bà mệnh phụ đâu. Nhưng rồi các bà hàng xóm đều ùa đến. Tất cả đều choáng ngợp và chắp tay lại kinh ngạc, rồi xầm xì; vài người nghiêng mình trước một vật thần thánh, vài người không hiểu nổi điều thần bí này.
Còn Solange thì chẳng quan tâm đến nỗi xúc động của họ, bé đang ru Yvonne, và ôm hôn nó một cách thận trọng, môi chỉ dám phớt nhẹ lên lọn tóc vàng óng và đôi má bóng lưỡng của con gái mình; bé đem nó đến cửa sổ để cho nó thấy cảnh bên ngoài.Rồi bà Rouault trở về với thực tế, sai con bé đi mua hàng ở tận góc xa xôi của ngôi làng; con bé hớn hở đem em búp bê theo. Hiện tượng này đã được một nửa quận biết rồi; các bà nông dân đứng ở cửa sổ để nhìn, và bé Solange biết được bây giờ mình trở nên quan trọng thế nào rồi. Khi bé đến trước nhà thờ, nơi đó tên Metzger vẫn ngồi vắt ngang ghế, lần này thì bé không thèm quay đầu lại để nhìn nữa: hôm nay thì chẳng có mối hiểm nguy nào đến với bé nữa rồi? Niềm vui bất tận trong lòng khiến bé không còn sợ việc gì hay ai nữa, nên khi tên trung sĩ gọi bé lại, và hỏi nó ôm vật gì, thì bé trả lời một cách tự tin: – Đó là một con búp bê – Một con bê thật đẹp! Ở đâu mà nhóc có được vậy? – Thưa ông trung sĩ, chính Chúa Giê Su Hài Đồng đã cho tôi.
Tên lính theo phe cộng hòa liền đứng phắt dậy, lấy chân hất cái ghế ra: – Mi nói cái gì? hắn hét lên – Đó là con bê mà Chúa đã cho cháu nhân dịp Giáng Sinh, ông trung sĩ – Ah, mi nghĩ là ta sẽ tin vào … nhưng trước vẻ ngây thơ của con bé, hắn ngừng nói; nhưng giật lấy con bê từ tay cô bé, hắn nhìn thật kỹ , và nói: – Ôi, một lệnh bà đẹp thật; mà này, nhìn xem, bên dưới giày có ghi nè: Berkint-London- vậy ra con bê này là dân xứ Anh quốc? Vậy thì Chúa Giê Su Hài Đồng là người Anh hả?– Cháu không biết, thưa ông, cô bé vừa trả lời vừa lấy lại con búp bê; bây giờ niềm vui của cô bé đã bị hỏng rồi – Để xem nào, hắn làu bàu, rồi quay lại gọi thuộc hạ.
Một tên hạ sĩ chạy ra.– Hôm qua có người lạ nào xuất hiện trong làng không?– Dạ tôi nghĩ là không đâu ạ, hôm qua bọn lính canh đã làm việc rất tốt. Thật ra đám chó săn đã hú lên một cách không bình thường, nhưng chúng tôi đã lục soát kỹ rồi, mà không tìm thấy gì cả.– Được rồi, tập họp mọi người lại đi. Rồi hắn đeo túi đạn vào, cài dây lưng, lấy khẩu súng và dẫn đầu đám lính đến nhà bà Rouault.
Solange, trở nên thật lo âu, đi bên cạnh hắn, nhưng bước nhanh hơn, và ôm ghì bé Yvonne xinh đẹp và tươi cười vào lòng. Đến nơi, hắn ta để hai tên lính gác trước cửa, rồi chia vài tên ra khắp nơi bên trong và quanh nhà.Rồi bảo đám còn lại đi theo mình, hắn vô trong phòng, cầm tay bé Solange, ngồi vào ghế, rồi kéo bé đến gần mình, và bằng một giọng rất nhỏ nhẹ, có lẽ để dỗ dành con bé: – Nào, bé con, kể cho ta nghe tất cả mọi việc đi nào.Thế là bằng một giọng rất nhỏ, buồn bã, cô bé bắt đầu kể về “giấc mơ của bé”, về người đàn ông mà bé nghĩ là đã nhìn thấy trong phòng, về ảo tưởng của những nụ hôn mà ông ấy đã hôn bé, và rồi đến lúc sáng, cô ngạc nhiên xiết bao khi phát hiện ra con bê thật xinh…
Tên trung sĩ theo dõi thật kỳ lời của cô bé, không bỏ sót chi tiết nào. Bỗng dưng, quay lại phía đám lính đang lắng nghe, hẳn ra lệnh:– Bọn bây, quay trở ra đi, và hãy canh cho thật kỹ mọi ngõ ngách! Nã súng vào đầu bất cứ tên nào có ý trốn chạy!Bọn họ ra ngoài, khi còn lại một mình Metzger và cô bé:– Nào, bé con, mi nói là người đàn ông đã hôn mi,… và gọi là “Solange bé nhỏ của ta”, rằng ông ấy đã quỳ bên cạnh giường cô bé và còn khóc nữa? Cô bé gật đầu , không muốn nói dối, nhưng cũng cảm nhận được một tai họa sắp xảy đến.Metzger chưa vội hành động. Hắn đặt đôi tay thô ráp lên vai bé Solange, và nói thật nhỏ, như thế nói cho chính mình:– Ừ, hắn ta nói một cách nghiêm trang, ta cũng có một bé nhóc con như thế này, ở Alsace (miền Đông nước Pháp, cạnh Đức & Thụy Sĩ), thành phố Gersheim ( Đức)… nó cũng lên tám tuổi…đã tròn hai năm rồi ta cũng chưa gặp lại con bé… và ta nói thế này: Để chỉ nhìn thấy nó thôi, cho dù nó đang ngủ, trong bóng tối, để hôn nó một chút thôi, chỉ để cảm thấy nó thiu thiu ngủ trên vai ta, mớ tóc vàng của bé thì sát vào mặt của ta…thì ta đây cũng dám liều mạng sống của ta như vậy… Hình như người cha nào cũng như thế cả.”Hắn ra chiều suy nghĩ thật kỹ càng. Rồi hắn trở nên cương quyết, đứng phắt dậy, lại thô bạo, và lắc lắc cái đầu như để xua đuổi một ý nghĩ hèn kém nào đó, rồi quay ra cánh cửa mở: – Hai người đi với ta, chúng ta sẽ lục soát căn nhà nhỏ bé này! Solange bỗng la lên: – Thưa ngài trung sĩ, gượng đã!Bé đã nghe tên lính ấy nói và đột nhiên cô bé đã hiểu tất cả: đêm đó, chính ba của bé đã đương đầu với cái chết để được đến vài phút bên cạnh con gái bé cưng, đã rời khỏi nơi ẩn náu, băng qua biển cả, cặp bến vào những tảng đá nguy hiểm, trườn người giữa đám lau sậy dưới họng súng của bọn lính canh, đề về đến làng. Chính ba của bé khi nghĩ rằng bé sẽ không có món đồ chơi nào cho lễ Giáng Sinh cả, nên đã mang “lệnh bà” đến cho nó.Ba của bé đang ẩn trốn trên căn gác kia, và rồi đây họ sẽ lên bắt ông đi, và bé sẽ nhìn thấy ông bị xiềng xích quấn vào người, và đi với bọn người lính bao quanh…Thế rồi, cô bé, lòng dạ tan nát, khóc nức nở làm rung cả đôi vai bé nhỏ, và chạy đến bên tên trung sĩ– Đợi đã! Đợi đã, ông ơi! Tên lính bây giờ đã trở lại vẻ hung ác dữ dằn, nói bằng giọng thô lỗ: – Gì nữa đây?, hắn hỏi. Solange suy nghĩ như thế này: Để cứu cha của bé, bé sẽ đưa hết tất cả những gì bé sở hữu; nhưng hỡi ôi, bé chỉ có mỗi con bê. Bé liền nảy ra ý định hy sinh thật cao cả – Thưa ngài trung sĩ, ngài có một con gái…cùng tuổi với cháu…mà ngài chưa gặp lại từ hai năm nay phải không? Metzger liền gật đầu ra hiệu đúng như vậy.-Thế thì! Thế thì!, Solange nói tiếp, đôi mắt ngấn lệ, có thể bởi vì ông không có mặt ở nhà nên chúa Hài Đồng Giê Su đã quên cô bé rồi chăng… Vậy ông hãy lấy con búp bê của cháu đây này, cháu tặng ông đó. Tên lính liền quay lại phía cô bé; hắn nhìn cô bé với đôi mắt đã ướt đẫm; hắn thở rất mạnh, đôi môi run rẩy dưới bộ ria mép, và ta nhận thấy trên gương mặt hắn những bắp thịt cử động lên xuống, tỏ rõ cảm xúc bị đè nén.
Hai người lính bước vào phòng.– Cháu đừng nói gì hết, không phải lo điều gì, tên trung sĩ nói nhỏ với bé.Rồi hắn nói với bọn lính :– Chúng ta sẽ lên trên kia, và lục soát mọi ngõ ngách. Bọn bây giữ súng sẵn sàng và hãy lên đạn, và cố nhìn cho kỹ. Bé con này, đi trước đi. Cả ba người lính và cô bé leo lên bậc thang: vừa vào căn gác, hắn đặt một người ở ngưỡng cửa, người kia cạnh cửa sổ; hắn mở cửa căn gác xép, rồi chỉ một mình hắn bước vào đó, đóng cửa lại. Trống ngực Solange đập thình thình, muốn vỡ toang ra.
Một lúc sau, cửa gác bật mở, và Metzger hiện ra: – Bên trong này không có gì cả.!– Ta trở xuống thôi. Con chim đã bay mất rồi. Chúng ta đã bị lừa…Rồi khi xuống bên dưới nhà, lúc chỉ còn một mình hắn và Solange, hắn nói nhỏ vào tai bé:– Cháu hãy nhớ kỹ điều này: “Người đàn ông ấy” có thể ở lại trên đó hết đêm nay và nguyên cả ngày hôm sau. Cháu nói ông ta hãy yên tâm đi, mọi việc sẽ tốt thôi. Ông ấy sẽ ra đi vào đêm ngày mốt, và đến Lancieux và Saint-Briac, ở đó ông có thể ra khơi lại; vùng đó sẽ không có lính gác, ta sẽ đem lính của ta qua phía bên kia. Cháu hiểu rõ chưa?
– Dạ hiểu, thưa ngài trung sĩ
– Vậy tốt rồi! Còn con búp bê này của cháu, ta sẽ mang nó đi: ta sẽ gởi về cho bé Odile của ta. Ta phải lấy con bê, bởi vì có thể có một người khác sẽ tò mò giống như ta khi thấy Chúa Hài Đồng Giê Su mang cho bọn nhóc như cháu những món đồ mỹ nghệ xuất xứ từ Anh Quốc đó. Cái em bé này đã gây cho cháu quá nhiều phiền toái rồi.– Thế nhé! Và nhớ giữ bí mật nhe cháu! Và đừng quên: đi về phía Lancieux và Saint-Briac.
Rồi ông ta đi ra, gọi cả bọn lính đi theo; và rồi, ngay chiều hôm đó, mang họ đi thám hiểm về phía Matignon, cùng với lũ chó săn luôn, trong suốt ba ngày tròn. “
&&&&&&
“Và đó là câu chuyện của cả ba chúng ta, nữ bá tước Flavigny nói, đó là chuyện lôi thôi duy nhất trong suốt cuộc đời của cả ba chúng tôi, Odile, Yvonne, và tôi. Mười lăm năm sau, khi tôi làm đám cưới với bá tước của tôi, chúng tôi đi tham quan vùng Alsace; tôi đã đến Gersheim, và hỏi thăm về trung sĩ Metzger, về con gái Odile của ông ta, vì các con biết đấy, những cái tên đó đã in đậm trong trí nhớ của ta rồi. Ta đã tìm thấy người lính già ở nhà máy sản xuất hoa làm rượu bia của ông ta. Ông ấy đã giải ngũ, sau khi được lãnh huân chương ở Austerlitz, do chính Hoàng đế trao tặng..
Ông ấy đã kể cho con gái mình câu chuyện về bé Solange,và Odile đã cất giữ “lệnh bà”; rồi khi ông ấy qua đời, vài năm sau đó, ta đã đưa Odile về đây với ta; cô bé đã mang Yvonne lại cho ta, và kể từ ngày đó, cả ba chúng ta không bao giờ rời nhau nữa.
G. LENOTRE – tháinữlan dịch
Cuộc Ngưng Bắn đêm Giáng Sinh
NGƯNG BẮN TRÊN XỨ NGƯỜI…
CÒN XỨ TA THÌ SAO… HUẾ, MẬU THÂN 1968?
Khi họ nói KHÔNG Với Chiến Tranh – 650 chữ–David G. Stratman – TháiLan dịch –
22/6/2012
Đó là vào ngày 25 tháng 12, năm 1914, chỉ mới 5 tháng kể từ khi bắt đầu Thế Chiến thứ I. Lính Đức, Anh và Pháp đã thật chán chường và mệt mỏi với những cuộc bắn giết vô nghĩa, đã bất tuân thượng cấp của họ và đã thành huynh đệ với “Kẻ thù” trong suốt hai phần ba của Mặt Trận phía Tây (một trọng tội với bản án tử hình vào thời chiến). Những đội quân Đức giương cây thông Giáng Sinh lên trên các chiến hào với biểu ngữ “Chúc Mừng Giáng Sinh”.
“Bạn không bắn,chúng tôi cũng không bắn”. Hàng ngàn dòng quân lính lũ lượt băng qua một vùng đai trắng với toàn thân người thối rửa rãi cùng khắp. Họ ca những bài hát mừng Giáng Sinh, trao đổi hình ảnh của gia đình thân thương ở quê nhà, chia nhau phần lương thực, chơi túc cầu với nhau, hoặc ngay cả quay thịt. Binh lính ôm hôn những người mà trước đây vài giờ họ đã nhắm bắn.
Bộ Tư Lệnh Tối Cao của cả hai phe đều cảm thấy ghê sợ. Đây là thảm họa đang hình thành: binh lính tuyên bố tình huynh đệ với nhau và từ chối đi chiến đấu. Tướng lãnh của cả hai phe tuyên bố việc hòa giải tự phát sinh là mưu phản và bị đưa ra tòa án quân sự. Vào tháng 3 năm 1915 phong trào huynh đệ chi binh đã bị triệt hạ và máy chém đã được đưa vào xử dụng . Đến thời điểm ngưng chiến vào năm 1918, mười lăm triệu nạn nhân đã bị hành hình.
Rất ít người nghe nói đến câu chuyện về Cuộc Ngưng Bắn đêm Giáng Sinh. Vào ngày Giáng Sinh năm 1988, một câu chuyện của Boston Globe kể rằng một xướng ngôn viên đài phát thanh FM địa phương đã cho phát rất nhiều lần bài ” Giáng Sinh ở Chiến Hào”, một ballad ( bài dân ca hoặc về truyền thống dân tộc) về Cuộc Ngưng Bắn đêm Giáng Sinh- và họ đã rất sững sốt về hậu quả của việc này .Bài hát đã trở nên bài được yêu cầu nhiều nhất trong suốt kỳ nghi lễ ở Boston trên rất nhiều trạm phát thanh FM. Và người xuống ngôn viên nói thêm” Tôi càng kinh ngạc hơn khi thấy không phải số lần bài hát được yêu cầu mà chính là phản ứng sau đó của những thính giả trước đây chưa bao giờ được nghe bài hát đó : “Họ gọi cho tôi với tâm trạng rất xúc động, đôi khi nghẹn ngào và bật khóc, nói rằng ” Ôi Trời, tôi vừa được nghe những lời gì vậy?”
Quý vị thật dễ dàng đoán được vì sao những thính giả đó phải bật khóc chứ? Câu chuyện về Cuộc Ngưng Bắn đêm Giáng Sinh đi ngược lại với phần lớn tất cả những gì chúng ta được nghe về loài người.
Câu chuyện ấy đã cho chúng ta một ý niệm về thế giới theo ước mong của chúng ta, và nói lên rằng” Việc này đã thật sự xảy ra một lần rồi”. Điều này nhắc chúng ta nhớ về những cảm nghĩ mà ta đã giấu kín, vượt ra ngoài tầm của các câu chuyện trên truyền hình và báo chí, và cho ta biết cuộc sống con người thật tầm thường và thấp kém như thế nào. Sự kiện này giống như ta được nghe rằng những ước mơ sâu kín nhất của ta thật sự là có thật: Thế giới thật ra có thể khác đi.
Trích dẫn từ “Chúng ta CÓ THỂ Thay Đổi Thể Giới”, David G. Stratman : Ý Nghĩa Thật của Cuộc Sống Hằng Ngày (New Democracy Books, 1991)
TháiLan dịch
BÀI CA GIÁNG SINH TRÊN CHIẾN HÀO –875 chữ John McCutcheon- TháiLan dịch
Christmas in the Trenches – : Tác giả & trình bày John McCutcheon
CHRISTMAS IN THE TRENCHES– John McCutcheon
” My name is Francis Tolliver. I come from Liverpool.
Two years ago the war was waiting for me after school.
To Belgium and to Flanders, to Germany to here,
I fought for King and country I love dear.
It was Christmas in the trenches where the frost so bitter hung.
The frozen field of France were still, no Christmas song was sung.
Our families back in England were toasting us that day,
Their brave and glorious lads so far away.
I was lyin’ with my mess-mates on the cold and rocky ground
When across the lines of battle came a most peculiar sound.
Says I “Now listen up me boys”, each soldier strained to hear
As one young German voice sang out so clear.
“He’s singin’ bloddy well you know”, my partner says to me.
Soon one by one each German voice joined in in harmony.
The cannons rested silent. The gas cloud rolled no more
As Christmas brought us respite from the war.
As soon as they were finished a reverent pause was spent.
‘God rest ye merry, gentlemen’ struck up some lads from Kent.
The next they sang was ‘Stille Nacht”. “Tis ‘Silent Night'” say I
And in two toungues one song filled up that sky.
“There’s someone commin’ towards us” the front-line sentry cried.
All sights were fixed on one lone figure trudging from their side.
His truce flag, like a Christmas star, shone on that plain so bright
As he bravely strode, unarmed, into the night.
Then one by one on either side walked into no-mans-land
With neither gun nor bayonet we met there hand to hand.
We shared some secret brandy and wished each other well
And in a flare-lit soccer game we gave ’em hell.
We traded chocolates, cigarettes and photgraphs from home
These sons and fathers far away from families of their own.
Young Sanders played his squeeze box and they had a violin
This curious and unlikely band of men.
Soon daylight stole upon us and France was France once more.
With sad farewells we each began to settle back to war.
But the question haunted every heart that lived that wonderous night
“Whose family have I fixed within my sights?”
It was Christmas in the trenches where the frost so bitter hung.
The frozen fields of France were warmed as songs of peace were sung.
For the walls they’d kept between us to exact the work of war
Had been crumbled and were gone for ever more.
My name is Francis Tolliver. In Liverpool I dwell.
Each Christmas come since World War One I’ve learned it’s lessons well.
That the ones who call the shots won’t be among the dead and lame
And on each end of the rifle we’re the same. “
— John McCutcheon “Christmas in the trenches”
Tên tôi là Francis Tolliver , tôi sống ở Liverpool.
Hai năm trước, chiến tranh chờ đợi tôi khi tôi vừa rời ghế trường học, ở Bỉ, ở Flandres, ở Đức Quốc, ở đây.
Tôi chiến đấu cho quốc vương và đất mẹ mà tôi yêu tha thiết.
Bây giờ đang là mùa Giáng Sinh và thời tiết đông giá đang hoành hành một cách dữ dội nơi các chiến hào.
Những cánh đồng băng tuyết ở Pháp thật yên ắng, không nghe thấy một bài hát Giáng Sinh nào vang lên trong không gian..
Và những gia đình thân yêu của chúng tôi, bên Anh Quốc xa xôi, đang vinh danh các con em của họ, những dũng tướng tràn đầy nhiệt huyết, đang ở rất xa quê hương của họ.
Tôi đang nằm cạnh anh bạn trên nền đất sỏi lạnh giá, bỗng dưng từ bên kia chiến tuyến một âm thanh thật đặc biệt vọng lại.
Tôi bảo” Anh em ơi, hãy lắng nghe này”, thế là các anh lính nghễnh tai ra nghe.
Một tiếng hát với âm sắc thật trong trẻo vang lên một giai điệu tiếng Đức.
Ôi này, anh ta hát hay tuyệt”, anh bạn tôi nói.
Rồi dần dần từng giọng hát bằng tiếng Đức hòa nhập vào đội hợp xướng. Đại bác giờ đã im tiếng, và những đám mây khí độc đã tan ra thật xa một khi Giáng Sinh đang cho chúng tôi vài khoảnh khắc ngơi nghỉ khi còn đang ở giữa cuộc chiến. Khi họ đã hát xong bài hát, và sau một lúc tỉnh tâm, vài anh bạn ở Kent ( Đông Nam nước Anh) xướng lên bài ” God rest Ye , merry gentlemen” Hồng Ân Thiên Chúa (Nỗi Lòng Mục Tử). Kế đó, vài người hát Stille Nacht. Tôi giải thích: Đó là bài “Đêm Thánh Vô Cùng”.
Và rồi bài hát được cất lên bằng hai ngôn ngữ, cùng một bài hát bao trùm cả bầu trời quanh đó.
“Có ai đang đi về phía chúng ta kià”, anh lính gác la lên.
Tất cả mọi người đều nhìn về phía một bóng đen cao ngồng vừa xuất hiện ra bên cạnh họ.
Trên tay anh ta ngọn cờ trắng phất phơ theo gió, như một ánh sao đêm Giáng Sinh, sáng rực trên cánh đồng trong khi anh đang tiến bước một cách hùng dũng, trên người không hề mang vũ khí, và rồi bóng đêm thật dày đặc lại bao trùm quanh anh ta …
Thế rồi, từng người một, từ cả hai bên chiến tuyến, chúng tôi tiến về phía vùng đai trắng , không ai mang súng ống, không lưỡi lê, và chúng tôi bắt đầu siết chặt tay nhau,
Tất cả chúng tôi chia nhau phần rượu mạnh đã được cất giấu bấy lâu, chúng tôi chúc mừng nhau, rồi dưới ngọn đèn vàng mờ nhạt, chúng tôi chơi một trận túc cầu, và đã làm cho đối phương bao phen phải vất vả.
Chúng tôi chia nhau những phong sô cô la, thuốc lá, rồi những đứa con và những người cha trao đổi cho nhau từng bức hình gia đình thương yêu từ nơi xa xăm mịt mù kia…
Cậu bé Sanders thì chơi đàn phong cầm, còn phía bên kia thì họ chơi đàn vĩ cầm, ôi một đám bạn thật kỳ ngộ và huyền hoặc làm sao, thật là khó tin!
Thế rồi ánh mặt trời đã lên, chiếu sáng cả khu chiến hào và thêm một lần nữa, nước Pháp lại trở lại là nước Pháp.
Sau những lời chia tay thật não nề, tất cả chúng tôi chuẩn bị để chiến sự lại tiếp diễn, nhưng rồi, một câu hỏi đã ám ảnh tất cả những thành viên đã hiện diện trong cái đêm tuyệt vời thật khó tin ấy cứ luẩn quẩn trong trí chúng tôi: Có người thân nào của tất cả những người ấy đã nằm trong tầm ngắm của chúng tôi từ bấy lâu nay không?
Lúc đó lễ Giáng Sinh đã về trên các chiến hào, ở đó mọi vật đã bị bao trùm bởi đợt rét căm quá tàn bạo, nhưng những cánh đồng của Pháp đã được sưởi ấm bởi khúc hát của đội hợp xướng, vì bao nhiêu bức tường được dựng lên giữa hai phe chúng tôi để buộc chúng tôi phải thực hiện nhiệm vụ ở chiến trường ấy đã bị rạn nứt luôn mãi rồi.
Tên tôi là Francis Tolliver , tôi sống ở Liverpool,
và nếu tôi cần phải nhớ một bài học ,
đó là những người đã ra lệnh cho chúng tôi phải bắn giết lẫn nhau họ sẽ không thuộc nhóm người bị giết hoặc bị thương
và rằng ở trên mỗi đầu súng, chúng tôi đều như nhau. “
***
Theo những nhân chứng của thời ấy, hình như là đám lính Đức đã là những người tiên phong để thực hiện tình huỳnh đệ ấy.
Rồi tùy theo sự khôn ngoan hoặc vô nghĩa của các quan lại trong quân đội, vài cuộc nổi dậy đã bị dập tắt ngay trong trứng nước; dù sao, cuộc ngưng chiến đã được kéo dài cho đến đầu tháng giêng năm 1914.
John McCutcheon- TháiLan dịch-
Mùa Giáng Sinh Ấm Áp
Mấy hôm nay trời lạnh ngắt, tê cóng tay chân nhưng tôi cũng phải siêng năng đi shopping rảo nơi này, kiếm nơi kia những thứ vừa túi tiền để làm quà Noel đã gần kề. Đường phố tấp nập, xe cộ nghẹt đường. Dù kinh tế khó khăn, vật giá leo thang vùn vụt, công việc lao đao khó kiếm, nhưng không ai dám bỏ lỡ ngày lễ quốc tế lớn với phong tục ông già Noel tặng quà cho trẻ con, mà sau này mọi người còn tặng quà cho nhau nữa. Ngày lễ chính cũng là kỷ niệm ngày cưới của tôi tính đến nay đã gần bốn mươi năm chung sống cùng nhau.
Bày các thứ mua trên sàn nhà, nhìn bảng giá mỗi thứ tôi mỉm cười. Cỡ nào cũng có thể mua quà: có tiền ít mua gift card $10 cà phê Starbuck, mua kẹo sô-cô-la giá nào cũng có. Tôi tìm kéo, dao, giấy hoa mân mê gói từng món quà, vừa gói vừa cho tâm hồn quay về chuyến tàu kỷ niệm …
Giai đoạn đầu tiên đến Mỹ, cả gia đình nhà chồng cùng ở chung một nhà. Số tuổi lớn bắt tay vào việc làm, số em trẻ đi học xa. Vùng Fremont lúc đó chỉ có vài ba nhà Việt Nam ở gần, cuối tuần họ qua chơi, nhiều lúc nấu món này món kia đến biếu. Đầu óc tôi lúc đó sao mà quá ngây thơ, chỉ mơ ước được ở nhà, sắm áo dài thỉnh thoảng đi dự tiệc, nhưng mới vừa qua ngày trước thì ngày sau em chồng đã chở tôi vào làm tiệm bánh Pháp gia đình hùn mở. Sáng theo xe khi trời mờ tối và lúc về cũng tối mờ. Trời lạnh cóng chị hàng xóm đem biếu tôi chiếc áo ấm dày. Vài tuần sau tôi mua chả đến biếu và cám ơn lòng tốt anh chị này, gặp lúc vợ chồng đang cãi vã nhau. Anh kể chuyện “cả gia tài có được ba ngàn, vợ tôi không cất ở nhà mà bỏ vào túi áo măng tô đi chợ, giờ bị mất rồi, chán lắm chắc phải .ly dị thôi” chị vợ phân trần đôi điều mặt buồn xo. Chồng tôi khuyên lơn “tản tài hơn tản mạng, của đi thay người, tiền sẽ kiếm lại được”. Tôi mở đôi mắt to tiếc rẻ số tiền quá lớn, không thể tưởng đối với tôi. Ra về tôi thì thầm bên chàng “Trời ơi em mà có số tiền như vậy khỏi cần làm gì hết”, Chàng trề môi “Ở Mỹ này ai cũng đi cày hết, rồi cô sẽ thấy: có ba ngàn đòi năm ngàn và không biết khi nào là đủ đâu.”
Đám cưới tôi vào đêm 24 tại nhà. Các em trai họ bên chồng từ LA lên, các em đang còn đi học nhưng rất chân tình, nói với tôi “em có $10 chị muốn món quà gì em mua”, tôi thấy cảm động vì các em đang nghèo “chị qua được Mỹ là có gia tài lớn rồi, em còn đi học thiếu thốn cực nhọc đừng mua gì hết, đường xa lái xe lên đây chung vui với chị là quý lắm rồi“.
Khi có công việc thì đâm ghiền vì mỗi nửa tháng nhận tấm check tăng đầy sinh lực đóng tiền nhà, tiền ăn tiêu và gởi chữ hiếu về cha mẹ anh em.
Ngôi nhà ở đường Costa Way vùng Fremont là kỷ niệm quý giá đầu tiên tôi đặt chân lên đất Mỹ. Mẹ chồng tôi hy sinh nấu ăn cho con cái đi cày. Căn nhà có bốn phòng, sửa thêm hai phòng dưới Garage xe, anh em làm nhiều giờ khác nhau, tuy đông người nhưng cũng ít gặp mặt nhau. Cuối tuần con cái được nghỉ bày nấu nướng cơm hến, bún bò, phở, cháo xúm nhau ăn vui vẻ. Gia đình gồm mười một người con, dần dần lập gia đình ra riêng, nhưng vẫn sum họp ngày chủ nhật hoặc kỵ giỗ, xem như căn nhà đó là ngôi Từ Đường thờ cúng từ đời ông bà Cố trở xuống.
Lần lượt cháu nhỏ ra đời, con dì, con cậu, con chú, con cô lứa tuổi nào chơi với lứa tuổi đó. Vì luôn họp mặt nơi ngôi nhà Từ Đường nên các cháu rất thân thiết như anh chị em ruột. Có khi các cháu qua nhà thím này, mợ kia ở lại để chơi chung anh em họ và ngược lại. Chúng nhắn tin cho nhau hẹn gặp gỡ xem cine, hoặc về nhà ông bà nội ngoại, gọi pizza ngồi chuyện trò ăn chung. Lớn dần các cháu đi học phương xa, cháu nào tốt nghiệp vẫn ăn mừng đông đủ. Giờ đây các cháu liên lạc chung cả nhóm, có lần hẹn hò qua New York dự sinh nhật cháu khác làm việc bên đó, chơi suốt tuần gởi hình ảnh vui nhộn về, người lớn cảm thấy hài lòng thỏa mãn về sự thành công của lớp trẻ, bù đắp biết bao nhiêu công lao khó nhọc, hy sinh vì con.
Mùa lễ nhớ biết bao nhiêu kỷ niệm trên đất Mỹ. Soạn thiệp Noel gởi mợ bên Pháp, bạn Mỹ lúc làm chung nơi Company Kyle Design, vài người thân thích và bà Marilyn Evans. Lòng tôi không khỏi ngậm ngùi về ông chủ Tom Evans nay đã mất, chỉ còn lại bà đến mùa Noel chúng tôi nhận được tấm card lời lẽ ấm áp. Đã hơn ba mươi năm, thời gian qua vùn vụt. Nhớ ngày nào khi chồng tôi vừa học vừa làm part time cho hãng tư nhân nhỏ, một hôm bị đau ruột thừa dữ dội phải vào bệnh viện mổ và nghỉ dưỡng nửa tháng, tưởng ông bà thuê người khác nhưng không. Họ gởi hoa chúc lành, nhắn chồng tôi đến trao tấm check nửa tháng lương cho không, và dặn chồng tôi tiếp tục làm những công việc nhẹ. Mỗi năm chúng tôi được mời dự tiệc Noel nơi nhà hàng sang trọng trên vùng Berkeley. Thời gian này tôi làm cho company Kyle Design trên đường Industrial đang còn mướn chỗ nhỏ vùng Hayward, tôi đậu xe ngoài xa đi bộ vào. Khoảng đường đó có hàng cây rậm lá um tùm, nên mỗi ngày xe tôi đều bị chim thả “bông trắng” đầy trên trần. Xe lại bị bộ phận nơi máy mỗi lần đề cho nổ phải chờ tới 15 -20 phút, nếu vài phút chạy thì máy tắt. Lần đó tiệc lễ Giáng Sinh tổ chức đêm thứ sáu, tôi không kịp rửa xe để vậy chạy luôn. Nhà quê lên tỉnh cả hai người, chưa quen lối quý phái sang trọng, tới nơi có người đứng chào xin chìa khoá lái xe đi đậu parking, vào trong có người đến xin áo khoác ngoài đem đi treo nơi khác. Ngồi một bàn dài ông bà chủ và nhân viên, thưởng thức nhạc sống hoà tấu và tiệc sang trọng. Lúc trở về cũng đứng trước tiệm chờ người lái xe đến, tôi hồi hộp lo lắng tài xế không hiểu bệnh của chiếc xe, chắc họ cũng toát mồ hôi hột, và nếu họ nhìn kỹ một tí sẽ thấy phân chim bao trùm chiếc xe đời thượng cổ. Đó là kỵ niệm nhớ hoài mỗi khi nhắc lại đều không khỏi nhịn cười. Chúng tôi thừa hưởng rất nhiều quà bà Marilyn cho sau mùa lễ: bánh, kẹo sô-cô-la, có lúc cả áo jacket mới toanh. Chồng tôi làm cho ông bà Tom ăn tiệc được hai mùa lễ, rồi đổi jobvà ông bà cũng sang hãng góp cổ phần sáp nhập vào công ty lớn. Bà Marilyn vẫn chưa quên, chúng tôi còn nhận đều đặn tấm thiệp Noel từ vùng Moraga gởi đến.
Đang gói các món quà và viết card chúc Giáng sinh, năm mới. Chồng tôi bước xuống chợt nhắc:
– Nấu bún bò cho Boss Kyle nữa.
– Dĩ nhiên mà, đang tính ngày mai đi chợ mua các thứ nấu đây.
Nói đến boss Kyle nơi tôi đã làm việc trên ba mươi năm, nơi có câu chuyện sẽ rất dài, dài hơn con đường có hàng cây bóng mát trên vùng Livermore che chở cuộc sống của tôi. Gần gũi Boss tôi học được những đức tính chịu khó, kiên nhẫn và lối sống vô cùng giản dị, thân mật gần gũi. Mỗi mùa Noel tôi được nhận quà bằng số tiền thưởng rất lớn trên dưới ba ngàn, và nghỉ một tuần qua Tết Tây được ăn lương. Bà và hai con gái rất mê món bún bò, mì hoành thánh tôi nấu, nên bây giờ tuy đã về hưu nhưng đến mùa này tôi vẫn nấu gởi lên.
Những mùa Lễ Giáng Sinh trôi qua trên đất nước Hoa Kỳ, con cháu đại gia đình thật vui nhộn, đầm ấm hạnh phúc. Thức ăn mỗi người một món theo kiểu Potluck để ngập bàn. Đêm thiêng liêng, không ai có thể quên Chúa Giê -su sinh ra đời, đêm Chúa xuống thế. Một đêm thần diệu đối với trẻ con được thỏa mãn ước mơ, và loài người được nhận thông điệp của hoà bình “Vinh danh Thượng Đế trên cao, bình an cho người dưới thế”. Ngày của sự sum vầy, gia đình yêu thương gắn bó hơn, mùa của sự rộn ràng chờ đợi, đâu đâu cũng nghe bài hát “Jingle Bells” Đêm Noel, đêm Noel, ta hãy cùng vui lên… Chúng tôi cảm tạ Chúa, sau đó ăn uống, chớp hình, hát Karaoke và tán gẫu. Mục sau cùng phát quà, cháu nào cũng dùng bao rác cỡ lớn chứa quà, bởi toàn bộ cô bác chú dì là mười một người chưa kể nhân đôi dâu rể. Hiện nay có thêm hai Chắt nữa, tổng cọng hai mươi mốt trẻ, chỉ tiếc ông bà cố đã qua đời. Số lớn nay đã ra trường đủ ngành nghề: Y, Dược, Luật, Y Tá, MBA (Quản Trị Kinh Doanh), Accounting Management, Kỹ Sư, chỉ Nha Sĩ là không có, tuy nhiên cũng có cháu thất bại trầm trọng, và một cháu bị bịnh Autism (tự kỷ), còn lại hai cháu đang học đại học.
Tôi thấy hơi đau lưng, đứng dậy vươn vai, quay qua nói với chồng:
– Mấy năm sau này mình giảm phần quà rất nhiều vì các cháu lớn đã có lương cao jobvững: chỉ tượng trưng hộp kẹo sô-cô-la , mấy cháu còn đi học cho tiền, hai cháu nhỏ gọi bằng bà cho quần áo, nên đã tăng tiền Homeless bên Mõ Nhân Ái của ông Lê văn Hải, (chủ nhiệm tờ báo Thằng Mõ) và nơi nhà thờ thuộc vùng Richmond mình vẫn gởi từ lâu.
Chồng tôi gật đầu hoan nghênh:
– Đúng rồi, bà tính vậy hay đó.
Nghĩ tới ông Lê văn Hải cũng là hội trưởng của cơ sở Văn Thơ Lạc Việt. Tôi vô cùng kính trọng cách sống hài hoà của ông, tấm lòng rộng rãi tràn đầy bác ái luôn nghĩ đến những người Homeless, thường tổ chức phát thức ăn và quà hàng tháng, chưa kể còn chia sẻ tình nghĩa với huynh đệ đời lính. Ông thường nói “Nếu bạn không biết cho đi, đồng nghĩa với việc bạn sẽ không biết thế nào là hạnh phúc”.
Qua Mỹ hai bàn tay trắng, bao nhiêu người sống chung một ngôi nhà, chỉ có vài chiếc xe cũ rích. Giờ đây đã có mười lăm ngôi nhà và mấy chục chiếc xe. Đất nước này cho chúng tôi nhận quá nhiều, những ông bà Boss Mỹ đầy ân tình, cuộc sống văn minh lịch sự dìu dắt, hướng dẫn chúng tôi từng bước, che chở hơn hai phần ba cuộc đời, tập tánh siêng năng phấn đấu để bây giờ tuổi già được nuôi dưỡng tiền hưu cũng như có bảo hiểm cover 80%, chúng tôi mua thêm 20% bên ngoài nữa, chỉ thua những người ăn tiền già được bảo bọc 100%, không tốn đồng nào.
***
Tôi đã làm xong các công việc gói quà, gởi card và nấu bún bò cho Boss.
Ngày lễ đến, đường phố toàn hình ảnh các ông già Noel xuất hiện. Trước những ngôi nhà trang trí màu sắc lộng lẫy, nơi này chưng hình chú Nai vàng lấp lánh, nơi kia giăng đèn trên các cành cây trước sân đủ màu xanh, đỏ, vàng, tím. Khung cảnh tràn đầy ấm cúng phủ bớt cái lạnh se thắt trong không gian. Đại gia đình chúng tôi tụ họp nơi nhà người em. Cây thông lấp lánh những quả châu, hoa tuyết trang trí, quà chồng cao vui mắt, thức ăn, thức uống đầy bàn.
Tuy gia đình chúng tôi theo đạo Phật, nhưng đêm lễ thiêng liêng… chúng tôi nguyện thầm “Lạy Phật, lạy Chúa… chúng con xin cảm tạ đêm hôm nay có được sự sum họp gia đình đầm ấm. Các cháu thì nhắc chữ “Emmanuel” (Thiên Chúa ở cùng chúng ta). Im lặng để biết ơn Phật Chúa, biết ơn cha mẹ, biết ơn thầy cô, biết ơn những anh Thương Phế Binh, những người lính VNCH, biết ơn nước Mỹ, “Biết Ơn Đời, Đời Sẽ Thương Ta” như cuốn sách của Dr Robert A Emmons đã cho tôi cảm nhận niềm diễm phúc đêm nay… đêm Noel.
Minh Thúy Thành Nội
You Raise Me Up –
Ngài Nâng Tôi Lên
Có lẽ ai trong chúng ta cũng đã từng nghe qua ít nhất một lần ca khúc bất hủ này. Tên của ca khúc là You Raise Me Up.
Youtube: https://youtu.be/UzXjYjwi2Zc
Đây là bài ca khởi nguồn từ một đoạn nhạc mở đầu (Prelude) cho album Silent Story của Secret Garden do nhạc sĩ Lovland sáng tác. Sau đó vị nhạc sĩ này đã đề nghị nhà soạn nhạc lừng danh và cũng là nhà văn người Ireland Brendan Graham viết lời ca.
Tưởng cũng nên biết ca khúc này dựa trên một câu chuyện rất đẹp.
Chuyện kể rằng:
Có một bạn trẻ kia than trách với Chúa sao những lúc cô đơn, đau buồn và thất vọng…Ngài lại vắng mặt?
Chúa không trả lời mà chỉ lẳng lặng cho anh xem một đoạn phim. Đoạn phim ấy chỉ ghi lại hình ảnh dấu in của hai đôi chân trên bãi cát biển.
Anh nói với Chúa:
- Ồ, đây là lúc mà con đang thành công và hạnh phúc, đúng là Ngài đang bước đi bên con.
Thế rồi đoạn phim chiếu đến cảnh biển nổi sóng trong một ngày giông bão, trên bãi cát chỉ còn lại dấu in của một đôi chân.
Chàng trai trẻ nói ngay với Chúa:
- Đó, Ngài xem! Lúc con gặp khó khăn, thử thách, Ngài để con lủi thủi một mình trong cô đơn và thất vọng.
Chúa hỏi lại chàng trai:
- Con có biết đôi chân ấy là của ai không?
Anh đáp:
- Hẳn là của con rồi!
- Không, đó là đôi chân của Ta.
- Vậy thì đôi chân của con đâu ạ?
Chúa âu yếm nhìn chàng trai và trả lời:
- Lúc đó, Ta đang vác con trên vai của Ta đấy!
Và bài hát này chính là lời thổn thức của bạn trẻ ấy với Chúa:
When I am down,
and, oh my soul, so weary
When troubles come
and my heart burdened be
Then I am still
and wait here in the silence
Until you come
and sit awhile with me
You raise me up
so I can stand on mountains
You raise me up
to walk on stormy seas
I am strong
when I am on your shoulders
You raise me up
to more than I can be
Tôi mạn phép chuyển ngữ sát với giai điệu, để ca khúc này có thêm lời Việt sau đây:
Nghẹn ngào xa vắng
Hồn tôi băn khoăn ngập buồn đau
Đường đời đen tối
và xót xa chiếm tâm hồn
Bồi hồi lo lắng
Ôi cô đơn tâm tư rã rời
Kìa Chúa đến bên
Ủi an cho tôi bình yên
Ngài nâng tôi lên
cho tôi vững chân giữa núi đồi
Ngài nhấc cao hơn
an tâm bước qua biển khơi
Rồi thêm sức
cho tôi tin tưởng niềm vui sống
Ngài đỡ nâng tôi
đưa tôi đến nơi bình yên.
“You raise me up to walk on stormy seas” – Ngài nâng con lên vượt qua giông bão biển khơi.
Bắt nguồn cảm hứng về câu chuyện trong Kinh Thánh nói đến một môn đệ của Chúa Giêsu khi thấy Ngài bước trên sóng nước. Bằng cả đức tin tuyệt đối, ông xin Chúa: “You raise me up – Ngài nhấc con lên”. Kết quả phép lạ thật diệu kỳ, vị môn đệ ấy cũng được bước đi trên sóng nước.
Đó là câu chuyện của niềm tin và tình yêu bao la vào Đấng Quyền năng được kết dệt qua âm nhạc để trở thành một ca khúc tuyệt vời. Nhiều người cũng nhìn nhận ca từ của ca khúc này dưới góc độ một câu chuyện tình yêu lứa đôi tuyệt đẹp. Nhưng dù là đối với Thiên Chúa hay người tình thì cũng là những cảm xúc vô cùng mỹ diệu và cao thượng. Điều đó cho ta một triết lý: tình yêu và niềm tin cao thượng sẽ nâng chúng ta lên…
Tôi nghĩ rằng, đây là bài hát không riêng cho một tôn giáo nào, và có lẽ các bạn cũng đồng ý với tôi rằng, chúng ta không thể phủ nhận sự hiện diện Thượng Đế trong đời sống của kiếp nhân sinh. Thậm chí chính ngay những người vô thần hay chủ thuyết vô thần (Atheism) mà họ thường nào là: “Tôn giáo là liều thuốc phiện” với những “Duy Vật Biện Chứng” và “Loài người do khỉ mà ra…”
Cho tôi lan man ngoài lề một tí.
Thật ra, chính những người vô thần này họ lại tin thần linh hơn ai hết (Chủ nghĩa vô thần có ở cả người theo chủ nghĩa duy tâm lẫn cả người theo chủ nghĩa duy vật) Vì kinh nghiệm đã cho ta thường thấy nếu điều gì ngoài sức lực và kiểm soát của con người, họ thường chạy đến các thần linh để ước nguyện và cầu xin. Thí dụ muốn được những điều may mắn, được thăng chức, việc làm tốt; ăn nên làm ra, tai qua nạn khỏi… họ van vái bốn phương, muốn được nhiều tiền và giàu có; họ “hối lộ” thần linh. Họ mê tín,dị đoan, xem bói, cầu cơ, khấn xin, van vái Thần núi, Thần sông, Thần biển, Thần hồ…
Những điều này cho ta suy nghĩ và khẳng định gì?
Thưa, dẫu là vô thần, nhưng tận trong sâu thẳm tâm hồn, họ vẫn tin có Thượng Đế đã tạo dựng nên vũ trụ và vạn vật, để mỗi khi gặp hoạn nạn mà cầu cứu và van xin. Nghĩa là họ tin có Đấng Thần Linh, tin có Ông Trời dù rằng họ từ chối các tôn giáo mặc dù họ biết mọi tôn giáo luôn hướng con người đến điều thiện – lành…
Nhà Bác học Einstein (Thuyết tương đối) là một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất mọi thời đại nói rằng:
“Khoa học không có Tôn giáo là mù lòa…”
Thế nên người vô thần tự định nghĩa theo cách “Chủ nghĩa vô thần không phải là sự hoài nghi nơi các thần, hay chối bỏ các thần; mà là thiếu niềm tin nơi các thần”. Như vậy, chủ nghĩa vô thần vì sự hoài nghi và là sự thiếu niềm tin. Tư tưởng này phát xuất từ lòng kiêu ngạo mà trong Kinh Thánh cũng đã có đề cập: “Kẻ ngu dại nói trong lòng mình rằng, “Không có Thiên Chúa” (Thánh Thi 19:1; 97:6) Nghĩa là họ tự nhận mình trí tuệ vượt trội hơn niềm tin nơi Thiên Chúa.
Nhà bác học vật lý Newton trong thời đại chúng ta đã trải qua bao nhiêu năm tìm hiểu định luật vạn vật hấp dẫn chuyển động trong trái đất đã khẳng định rồi thốt lên rằng:
“Trong Kinh Thánh có nhiều biểu hiện chắc chắn về tính có thực hơn trong bất cứ một câu chuyện nào chống lại sách đó”
Cũng do thiếu thông tin đúng đắn để họ kết luận rằng chẳng có gì tồn tại ngoài vũ trụ. Những nguyên nhân đó khiến một số người xác nhận mình là vô thần và rồi kiêu ngạo.
Thiếu hiểu biết.
Thiếu hiểu biết hoặc hiểu biết khái quát về địa lý, văn hóa, về không gian và thời gian trong Kinh Thánh, khiến họ nghi ngờ rồi tạo ra các ý tưởng suy diễn lý lẽ mù lòa theo cách của mình để vá víu vào các khoảng đó. Việc này thường dẫn tới suy luận tôn giáo sai lầm, cũng như thể kiến thức sơ sài về Thiên Chúa thường bị bôi nhọ bởi những điều siêu nhiên mà Thiên Chúa tạo dựng, nghe như thần thoại hay là một câu chuyện cổ tích. Cũng không ngoại trừ từ lòng đố kỵ và ác cảm của một số vị chức sắc, tu sĩ thù ghét tôn giáo, thậm chí bị ảnh hưởng vì những người mang danh là có đạo mà lối sống và hành vi của họ bề ngoài, thiếu công bằng, đen tối, tàn nhẫn và độc ác…
Trong thời gian vừa qua, chúng ta có lẽ đã thấy và nghe trên YouTube những bài thuyết pháp của những tu sĩ nói sai – cố ý nói sai để mạ lỵ và xúc phạm tôn giáo, gây hoài nghi niềm tin nơi những tín đồ có nhận thức giới hạn, tạo mất tình đoàn kết giữa các tôn giáo. Và nay, cái giá phải trả; các vị tu sĩ này đã bị cộng đồng mạng đồng loạt lên án và tẩy chay, làm ảnh hưởng xấu đến chính tôn giáo của mình.
Ý niệm về mọi tôn giáo và sự tồn tại của nó chính là “Cái Đẹp” – “Cái Đẹp cứu rỗi thế giới”.
Một người có cách sống đạo đức nằm ngoài các mệnh lệnh tôn giáo là điều rất cần thiết. Vì trong thế giới hôm nay, đã có một số người mà họ mất đi ý niệm về tội lỗi, nên đã gây ra những điều đau khổ cho con người.
Tôn giáo của người nào đó là điều cao cả và thiêng liêng bất khả xâm phạm trong trái tim người ấy. Tôn trọng Tôn giáo của người, có nghĩa là ta tôn trọng và làm rạng rỡ Tôn giáo của chính ta!
Trở lại bài hát You Raise Me Up.
Thường khi con người gặp những hoạn nạn, đau khổ, bất toàn, bất hạnh… Họ lại chạy đến cầu xin Thần linh.
Ước gì không phải lúc ta gặp hoạn nạn mới cần đến Thiên Chúa, mà ngay những lúc ta hạnh phúc, đầy đủ, sướng vui… Nhiều khi ta cầu xin liên lỉ điều này điều kia mà sao chẳng thấy được ban phát? Thế nhưng, biết đâu Ngài lại ban cho ta những điều khác, và chính những điều này mới là thật sự rất cần thiết mà ta chưa cảm nhận.
Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài biết rõ ta cần gì!
Sau cùng, kính mời quý vị và các bạn mở YouTube để nghe ca khúc You Raise Me Up dưới đây.
Ca khúc này tôi đã viết thêm lời Việt như đã nói ở trên, cũng như sáng tác thêm đoạn kết (Coda) rồi hòa nhạc dựa trên phong cách nguyên thủy của bài hát theo link sau đây:
Quý vị và các bạn cũng có thể ươm giọng ca của mình vào ca khúc nổi tiếng này theo link karaoke kèm theo dưới đây:
Không quên xin cảm ơn nghệ sĩ Trúc Tiên đã thực hiện video diễn ảnh rất ý nghĩa.
Trân trọng,
Văn Duy Tùng
NHỮNG MÙA GIÁNG SINH TRONG KÝ ỨC
Nguyễn Hoàng Quý
Làng quê nơi tôi sinh ra là một vùng bán sơn địa thuộc thung lũng Quế Sơn, địa danh một thời nổi tiếng trong các trận qiao tranh giữa một bên là quân giải phóng và một bên là quân đội Đồng minh & VNCH. Quế Sơn ở phía Nam Đà Nẵng, cách chừng 60km, ở Tây Nam Hội An cách chừng 40 – 50km.
Thập niên 50 thế kỷ trước, ở quê tôi không hề thấy những Nhà Thờ Thiên Chúa Giáo, chỉ rải rác vài chùa Phật giáo, đa số là các Thánh thất Cao Đài ở nhiều xã trong quận.
Những năm học tiểu học, 1956 – 61, mỗi năm đi học được nghỉ lễ “Bấc” một tuần, cứ ngỡ là gió bấc. Lớn dần thì hiểu ra đó là Lễ Phục Sinh (Pâques). Con nít, nghỉ học là vui nên không quan tâm mấy, cũng không nhớ có nghỉ Noen hay không, nghỉ ít hay nhiều ngày vì mãi đến năm 1960, làng tôi mới có một Nhà Nguyện Công Giáo. Nhà Nguyện dựng trên đất nhà anh Năm Sắc con bà Luân, vách tranh, lợp tranh. Không rõ nơi này quy tụ được bao nhiêu người tới cầu nguyện theo lễ nghi Công giáo vì với đầu óc một cậu bé lên mười, điều chú ý không phải là việc này. Điều còn nhớ được là có một linh mục ở tỉnh về giúp đỡ mọi việc thời gian đầu, anh Năm Sắc xưng với ông là “Cha”, vợ con anh cũng xưng là Cha, Bà Luân, mẹ anh không đồng ý và nói rằng: “Nếu con và vợ con xưng với ông này là Cha thì dứt khoát các con của con phải xưng là “ông nội”!”. Chuyện hoàn toàn có thật, không mảy may thêu dệt vì người dân quê, khi chưa hiểu, dễ dị ứng với những cái mới.
Phải đợi đến cuối thập niên 60, khi tôi lên Đà Lạt học năm đầu đại học tôi mới có nhận thức tương đối đầy đủ về LỄ NÔ – EN, NGÀY GIÁNG SINH khi thành phố này có nhiều trường Công Giáo, nhiều Nhà Thờ, bạn bè tôi là con Thiên Chúa, Đại học Đà Lạt nơi tôi học là trường Công Giáo. Khi nhà Thờ Con Gà, Domaine de Marie, nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, các xóm đạo từ số 6 vào Thánh Mẫu đều trang trí mừng Giáng sinh, lòng mình rộn lên những cảm giác vui tươi khi nhìn và nghĩ đến câu: “Sáng danh Thiên Chúa trên Trời/ Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Có một lần anh em tôi vào nhà thờ Dòng Chúa Cứu thế đêm 24.12, được nghe từ đó tiếng đàn harmonium dạo bài “Đêm Thánh vô cùng” (Silent night – Holy night) và bài “Hang Bêlem”. Tiếng đàn thoát ra từ bên trong bức tường đá của Nhà Thờ rất tuyệt. Chỉ đến sau này, có lần đến Nhà Thờ Kỳ Đồng Sài Gòn cũng đêm Giáng Sinh mới được nghe lại, y hệt, dù ở đây ồn ào hơn do xe cộ chạy qua.
Về Huế, tôi được tiếp xúc với Linh mục Trần Thắng Trung là tuyên úy Công Giáo, về sau Cha về quản lý Tòa Giám mục, tôi gặp Soeur Marie de Bernard, Soeur Jean du Calvaire Kim Thúy. Hai chị tu dòng Saint Paul, làm việc thiện nguyện ở BV Trung Ương Huế. Cha Trung và các chị vốn có giao tình với chị ruột tôi ở Đà Nẵng từ trước nên coi tôi như con – em, luôn dành cho những tình cảm yêu thương và ai cũng muốn tôi “trở lại đạo”. Có lẽ tôi không nhận được sự quan phòng của Thiên Chúa nên dầu ngày ấy, tôi đi lễ chúa nhật với người bạn cùng phòng ở ký túc xá, đọc Thánh Kinh, tôi vẫn chỉ dừng lại ở việc nhận Hồng Ân của Người. Vào cuối tháng 12, khi thời tiết bên ngoài rất đẹp, trời không còn mưa, có ngày nắng vàng trải trên khóm cây các sân nhà thờ đã trang trí thông Nô – en, máng cỏ, hang lừa lòng tôi vẫn rộn lên những nao nức và nghĩ đến việc dọn mình chờ đợi đón mừng ngày Chúa Giê su Ki tô chào đời.
Đến nhà thờ xem lễ Giáng Sinh, nghe Phúc Âm, nghe Thánh Ca cũng như nghe các Cha giảng, tôi thấy lòng mình thanh thoát, những bài giảng của các Cha luôn giúp ích cho việc bảo tồn trật tự xã hội khi con chiên thực hiện đúng 10 điều răn của Chúa. Tôi cũng đã dự một vài Thánh lễ cưới của người thân, Thánh lễ luôn đem lại cho mình cảm giác vui mừng cho hạnh phúc của cô dâu chú rễ nhất là khi giáo luật có những điều ràng buộc họ với nhau để biết nhẫn nhịn trong cuộc sống hàng ngày theo kiểu “Chồng giận thì vợ bớt lời. . . “.
Khi ra trường đi dạy, tôi có vài lần dự lễ mở tay của học trò cũ ở ngay chính giáo xứ mình sinh ra, tôi mặc complet, thắt cravat như đi họ đám cưới vì, cũng giống như dự lễ khấn của các nữ tu (khấn tạm, khấn lại, khấn trọn đời) đều không khác lễ cưới của người ngoại đạo. Có lần tôi dự Thánh lễ nửa đêm ở Nhà Thờ Đồng Dài, cách nhà chừng 15km. Lễ xong về dự tiệc canh thức ở nhà riêng của Chủ tịch Hội Đồng Giáo xứ có Cha chánh xứ và các chức sắc nhà thờ cùng tham dự. Tất cả những việc này và còn nhiều nhiều nữa đã luôn nằm ở một ngăn đẹp trong tủ đựng những kỷ niệm đời mình. Do vậy, cứ đến đầu tháng 12 hàng năm là bao nhiêu kỷ niệm với đất, với người trỗi dậy để thấy mình trẻ lại và lòng mình ấm áp.
Cha mẹ tôi thờ Ông Bà, về sau, tôi tìm hiểu đạo Chúa, tuổi trung niên, tôi tìm hiểu đạo Phật, đọc sách Phật và sống theo giới luật của một Phật tử nhưng trong tôi luôn có một Đấng Toàn Năng chi phối mọi con người. Với tôi, đấng Toàn Năng đó là Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn yêu thương và cứu chuộc trần gian.
TRÁI TIM TỪ BI CỦA NGƯỜI THỢ XỨ LÁ PHONG -Adèle Bibaud- 1173 words
Người người đều quấn mình thật ấm, họ bước đi rất nhanh, trời quá rét. Mọi người đều lo âu vội vàng để chạy nhanh về tổ ấm: lưới trượt của những xe trượt tuyết rền lên trên con đường lớn ở Mile-End *, gió rít thật xé tai làm đám tuyết ụn thành đống dưới chân những cây cao phủ đầy sương giá, trước đó trận bão đã làm rung chuyển những cánh tay sầu não của chúng. Những hạt bông tuyết xoáy tròn trên không, như thể bụi mù vùng sa mạc, làm mất hướng nhìn của người bộ hành. Hôm ấy thật sự là một buổi tối Giáng Sinh, thời tiết xuống hai mươi lăm độ âm. Ở khúc ngoặt con đường, một đám nhà nhỏ nghèo nàn đang khoe chùm mái đổ nát. Nào ta hãy vào căn đầu tiên nhé: có bốn người: họ đang ở căn phòng phía trước, hai người phụ nữ, hai đứa bé.
Bọn nhỏ đang lăn lộn, đùa giỡn, rồi cãi nhau. Ở lò sưởi, từ cái nồi bóng loáng như gương mặt của một người Phi Châu, tiếng ồng ộc của món súp hầm tỏa ra mùi vị thật ngon. Trên bàn, bốn bộ thìa dĩa dao đặt ngày ngắn với chiếc khăn trải thật tươm tất, một miếng bơ, một miếng phó mát, một cái liễn bằng sành chứa đầy sữa, một ổ bánh mì. Họ chỉ còn chờ người chủ gia đình. Trên tủ bếp, một bức tượng của thánh Antoine, cánh tay bị gãy đang bế chúa Hài Đồng Giê Su do một phép mầu, ở dưới chân bức tượng thì một con ngựa gỗ đang kéo xe ba gác, cái xe này cũng đã qua cuộc chiến nên chỉ còn ba bánh xe; ở đầu bên kia của tủ thì bên dưới một quả cầu thủy tinh có hai bàn tay bằng sáp đang chắp vào nhau thật chặt, trên một cái khay bằng nhung đỏ; rồi xa hơn là một cái bình thủy tinh không quai, hai cái tách bị rạn nứt, một con chó bằng gốm, một con cừu với người chăn, tất cả những thứ này làm đồ trang trí cho căn nhà và được sắp xếp một cách không thứ tự và thật xa con mắt mỹ thuật. Trên tường thì treo lủng lẳng xoong nồi và dụng cụ nhà bếp. Ngoài ra, còn mấy cái ghế khập khiễng, một cái ghế trường kỷ xếp được dùng làm tủ, đó là toàn bộ đồ nội thất trong phòng; cho dù với sự nghèo nàn thiếu thốn, căn phòng vẫn toát ra một không khí thoải mái vì tất cả đều thật sạch sẽ chu đáo.
Tiếng gù gù của chú mèo nằm trên chiếc ghế đẩu cũ kỹ cho biết rằng thực khách này của căn nhà hèn mọn được yêu thương và cưng chiều như thế nào.
Hai người phụ nữ rì rầm nói chuyện với nhau, thỉnh thoảng đôi mắt của người trẻ bị mờ đi vì ngấn lệ.
– Tội nghiệp cô ấy quá, bà nói. Cô ấy sẽ không sống nổi. Ai sẽ chăm sóc con của cô ta? Lúc trước khi tôi bị bịnh, chính cô ấy đã chăm lo bọn nhóc của tôi. Ôi, giá như ông nhà tôi muốn làm điều đó!… nhưng mùa đông năm nay thật khắc nghiệt, quá khắc nghiệt, nên tôi không dám hỏi ông ấy, chị biết không, tôi thật đau đớn nghẹn ngào mỗi khi sang thăm cô hàng xóm. Ban đêm tôi không thể ngủ bởi vì tôi đã đọc được trong đôi mắt to sắp tàn lịm của cô ấy điều mà cô ấy muốn hỏi tôi nhưng không dám, cô ấy chờ tôi sẽ mở lời trước.
– Chị nghĩ cô ấy sẽ không qua khỏi hay sao?
-Chị ạ, cô ấy bị viêm phổi, và khi đã bị bịnh này rồi thì thua thôi, cộng thêm với nỗi lo âu về sự nghèo đói, rồi ý nghĩ phải để con mình lại cho người lạ nuôi lại càng làm cho cô ấy suy mòn nhanh hơn nữa, ôi thương quá.
Người thiếu phụ trẻ lấy vạt tạp dề lau nước mắt đang từ từ chảy dài xuống.
Rồi, may sao, cánh cửa đột ngột mở bật ra và một luồng gió mạnh mang theo những mảng tuyết ào vào nhà cùng với một người đàn ông cao to trông rất hoạt bát khỏe mạnh có dáng một lực sĩ, nét mặt nghiêm nghị, nhưng có vẻ chân thành và lương thiện.
– Ôi, với khí hậu chết tiệt này, về nhà thích làm sao, trời ạ! tôi tưởng là cơn bão tuyết sẽ chôn sống tôi ngoài đường rồi chứ! Rốt cuộc ta cũng về đây rồi. Ông ấy vừa nói vừa ném cho bọn nhóc một túi kẹo hạnh nhân.
– Này các con, ngày mai là lễ Giáng Sinh rồi đó, chúa Hài Đồng Giê Su không quên các con đâu này; nhưng mà này đừng có mà kiện cáo hay cãi cọ đấy nhé.
-Ba!
Hai đứa bé chạy đến bên cha, một đứa ôm lấy chân ba chúng, đứa kia thì leo lên vai, còn ông ta thì ôm hôn các con, thảy chúng lên trên cao, đứa này rồi đến đứa kia, rồi đến bên vợ mình.
– Cái gì thế này, hôm nay lại có nước mắt ư, điều gì làm cho em ray rút thế, đây là lần thứ hai trong tuần mà ta thấy em khóc, điều này không bình thường rồi. Em không tin tưởng nơi ta để nói cho ta biết việc gì làm em buồn khổ sao? Hôm nay là một ngày tốt, ta làm việc rất có kết quả và ta muốn tất cả mọi người đều hạnh phúc trong ngôi nhà này. Nào, hãy nói ngay cho ta biết em cần điều gì nào.
Người thiếu phụ trở nên sợ sệt.
– Chắc là anh sẽ rầy la em mất thôi.
– Em nói đi.
– Đây ạ! Anh biết không, cô hàng xóm tội nghiệp, cô ấy sắp ra đi, rồi con của cô ta…
-A! đúng rồi, cô nàng khốn khổ tội nghiệp, anh quên khuấy đi mất, rồi con cô ta, đúng vậy, thật buồn cho cô ấy quá.
– Nếu anh muốn..
– Này mẹ nó, nếu như con của cô ấy làm cho em xúc động và lo âu, thì em hãy qua bồng nó về đây đi, đó là món quà của em đó. Ta sẽ làm việc thêm, về trễ một chút, như thế sẽ có đủ cái ăn cho tất cả chúng ta.
Thế là trong cái đêm mà con của Chúa Cha xuống trần thế để cứu rỗi nhân loại, thì bên trong ngôi nhà nhỏ bé ấy, cái nôi mà lâu nay đã đem cất trên gác xép, lại được mang xuống để đón nhận một em bé gầy còm yếu ớt, và cùng lúc đó linh hồn của một kẻ đọa đày vì nghèo khổ đã bay lên trời, với vẻ bình tâm mãn nguyện.
Adèle Bibaud – TL dịch
* Mile-End: khu phố thuộc thành phố Montreal, Quebec, Canada.
CÂU CHUYỆN SAU ĐÊM GIÁNG SINH
KHUYẾT DANH– TL dịch -679 chữ
Một khi những người chăn chiên đã ra đi và mọi việc đã trở nên yên tĩnh trở lại, em bé trong máng cỏ ngẩng đầu lên và nhìn về phía cánh cửa hé mở. Một câu bé đang đứng đó, e dè bẽn lẽn… rụt rè và sợ sệt.
– Đến đây nào cậu bé, Chúa Giê-Su bảo. Tại sao con e sợ đến vậy con?
– Dạ bẩm, con không dám…Con không có gì để tặng ngài cả, cậu bé trả lời.
– Ta ước mong cậu sẽ tặng cho ta một món quà biết bao, bé sơ sinh nói.
Cậu bé xa lạ đỏ mặt lên vì hổ thẹn.
– Thật sự con không có gì cả , thưa ngài… con không sở hữu được bất cứ gì cả ạ; nếu như con có món gì, con sẽ tặng ngài …ngài xem đây ạ.
Rồi moi móc lục lọi trong hai túi quần vá chằm vá đụp của mình, cậu bé lôi ra một lưỡi dao cũ đã rỉ sét .
– Dạ con chỉ có chừng này thôi, nếu ngài muốn con xin tặng ngài ạ.
– Không đâu, con cứ giữ đi, chúa Giê-Su trả lời. Ta muốn những thứ khác của con kia. Ta muốn con cho ta ba món quà.
– Con rất hân hạnh, thưa ngài, cậu bé nói, nhưng con sẽ làm gì cho ngài ạ?
– Hãy tặng ta hình vẽ sau cùng của con đi.
Vẻ mặt của cậu bé trở nên lúng túng và đỏ rần lên . Cậu ta bước đến gần máng cỏ và để tránh cho Marie và Joseph không thể nghe mình nói gì, cậu thì thầm vào tai Chúa Hài Đồng Giê-Su:
– Thưa ngài, con không thể… hình con vẽ quá tệ hại xấu xí…không ai muốn nhìn thấy đâu ạ!
-Con ạ, chính vì nó xấu nên ta mới nói con đưa cho ta, em bé trong máng cỏ trả lời…Con phải luôn luôn tặng cho ta tất cả những gì người khác gạt bỏ đi, và những gì mà chính con cũng không ưa thích.
-Và nữa nè, ta muốn con đưa cho ta cái đĩa của con, em bé tiếp tục.
-Nhưng mà sáng nay con đã làm bể đĩa mất rồi, thưa ngài! chú bé ấp úng trả lời.
– Bởi vì vậy nên ta muốn con đưa cho ta… Con luôn phải tặng cho ta tất cả những gì bị gãy bể trong suốt cuộc đời của con, ta muốn dán chúng lại…
– Còn bây giờ con hãy lập lại cho ta nghe con đã trả lời ba mẹ con như thế nào khi họ hỏi lý do làm sao con đã làm bể cái đĩa, Chúa Giê Su nhất định hỏi để xem chú bé kể lại sự việc ra sao… Chú bé liền sa sầm nét mặt, cúi mặt xuống, xấu hổ và nói thì thầm một cách buồn bã:
-Con đã nói dối.. con đã nói rằng vì sơ ý nên cái đĩa đã tuột khỏi tay con; nhưng sự thật thì không phải như thế.. Lúc đó con đang tức giận và con đã đẩy mạnh cái đĩa cho nó rớt xuống nền gạch hoa và đã vỡ ra!
– Con ạ, đó chính là điều ta muốn con thổ lộ ra! Chúa Giê Su nói. Con hãy giao hết cho ta tất cả những thứ xấu xa phiền toái trong cuộc đời của con, nào là những điều dối gian, những lần vu khống, những sự hèn nhát và những điều ác độc của con. Ta muốn con hay trút hết những gánh nặng đó cho ta…Con không cần đến những thứ đó… Ta muốn làm cho con luôn hạnh phúc vui sướng và con hãy nhớ rằng ta luôn luôn tha thứ cho những lỗi lầm của con, con ạ.
Rồi vừa ôm hôn cậu bé vì đã tặng mình ba món quà đó, chúa Giê Su nói:
– Bây giờ thì con đã biết đường dẫn đến Trái Tim của ta rồi, ta ước mong mỗi ngày con đều đến thăm ta con nhé.
KHUYẾT DANH– TL dịch
Nếu Ông Già Noel quên ghé thì…
Mone Dompnier –thailan dịch
CÂU CHUYỆN THẬT CỦA MỘT NGƯỜI BẠN BÊN PHÁP
VÀ THẬT ĐAU, KHI NGHĨ VỀ CÁC VỊ ANH HÙNG TRONG QLVNCH- BAO NHIÊU THÁNG NGÀY GÔNG CÙM TÙ TỘI, MỘT MẪU ĐƯỜNG ĐEN, ĐƯỜNG BÁT (Đọi) LÀ CẢ MỘT KHO TÀNG- THƯƠNG ĐAU!!
Một buổi sáng Giáng Sinh. Dưới gốc cây thông, những tờ giấy màu bị xé toạc, những chiếc hộp mở toang cả ra, và bọn trẻ thì phấn khích giữa bao nhiêu là quà mà ông già Noel mang đến cho chúng vào đêm qua. Bà tôi thì ngồi hơi xa một chút, đang mỉm cười khi thấy niềm hạnh phúc và sự ngạc nhiên vui thích của các cháu.
– Bọn nhỏ này được cưng chiều quá chừng. – Bà nói khẽ, có vẻ như bà sợ rằng tôi sẽ nghĩ bà trách móc khi thấy vô số đồ chơi và những thiết bị tân thời cho những môn chơi trên máy như thế.
Đúng là tôi không thể cưỡng lại để lựa chọn khi lướt qua các món ở cửa hàng đồ chơi. Là thú vui của tôi khi chọn từng món đồ và chắc chắn sẽ khiến các con reo lên vì thích thú. Đem giấu tất cả những món ấy đi. Rồi cuối cùng sắp chúng dưới gốc cây thông, với niềm nôn nao chờ đợi giây phút khi bọn nhỏ thức dậy và khám phá…
– Cháu biết không, bà vẫn nhớ một Giáng Sinh từ thời thơ ấu. Từ rất lâu lắm rồi…
*
Một đêm đầy sao, lạnh cóng. Một cô bé trằn trọc, quay qua quay lại trên giường, quá bồn chồn để có thể nhắm mắt. Ở trường, chiều nay cô giáo đã kể về ông già Nô En, các chú tuần lộc và chiếc xe trượt tuyết của ông ấy, những món quà ông phân phát cho trẻ em.
– Và chẳng mấy chốc, ông sẽ đi qua tất cả các trang trại của làng. Nếu con đã tỏ ra ngoan ngoãn trong suốt năm học, ông ấy sẽ mang đến cho con một món quà vào đêm Giáng Sinh. Nhưng các con đừng quên đặt đôi guốc của mình trước lò sưởi con nhé.
Bọn trẻ nghe cô giải thích, vẻ kinh ngạc. Cô giáo trẻ của họ đến từ thành phố, cô ấy biết rất nhiều, cô ấy không thể sai được. Vì vậy, khi Sylvie về nhà cũng kể mọi chuyện cho cha mẹ và các chị nghe, và em cũng mang đôi guốc gỗ của mình đặt ngay ngắn trước lò sưởi, như lời cô giáo đã dặn dò.
Nhưng sau khi làm điều đó, bé cũng có vẻ bồn chồn lo âu.
– Nếu ông già Nô En quên đến nhà mình thì sao? Trang trại của chúng ta ở trên dốc rất cao của ngôi làng. Có lẽ ông Nô En sẽ không nhìn thấy nhà của ta đâu, Ba Mẹ ạ.
– Bé cưng của mẹ, con đừng lo, con ạ. Trước khi đi ngủ, ba mẹ sẽ máng đèn lồng ở cửa chuồng ngựa nhe con. Đôi mắt các chú tuần lộc rất tinh tường, chúng sẽ nhìn thấy, con yên tâm nhé con.
Đêm ấy, cô bé Sylvie thật khó mà dỗ giấc ngủ. Nếu như mình vẫn còn thức, có lẽ mình sẽ nghe
tiếng ông già Nô En và chiếc xe trượt tuyết với tiếng chuông rung trên con đường đầy tuyết. Nhưng cô chỉ nghe thấy những lời thì thầm, tiếng cười thật khẽ vọng lên từ dưới nhà bếp. Cô bỗng nhìn thấy một tia sáng vàng giọi lên ở khe gỗ sàn nhà. Và nhìn lên ô kính cửa sổ, những hạt bông tuyết lấp lánh thật đẹp. Cha cô đã treo đèn lồng lên rồi. Sylvie mỉm cười, yên tâm. Và rồi cuối cùng đêm tối cũng mang bé đi vào giấc mộng đẹp.
Khi cô mở mắt ra… “Ôi, hôm nay là Giáng Sinh rồi!”
Một niềm hy vọng to lớn làm tim cô đập rất mạnh. Vẫn còn đang mặc áo ngủ, đi chân trần, cô
chạy ngay đến đôi guốc của mình, và nhìn thấy góc một chiếc khăn tay ca rô màu xanh trắng nhô ra, giống như khăn của cha mình.
– Ôi, con có quà nè! Ông Nô En đã tặng con một món quà! Cha ơi, Mẹ ơi!
Bên trong chiếc khăn tay… là một miếng đường thật to! Chỉ của mình con thôi phải không?
– Cha nhìn này! Có phải thật sự là của riêng con không?
– Ôi, đúng rồi đó con. Chắc là ông già Nô En biết rằng con là một đứa bé rất thích ăn quà đó con.
Các chị của cô bé cười vang khi thấy bé vui thích. Họ biết rằng thỏi đường mà cha để bên trong chạn thức ăn được bọc cẩn thận trong một chiếc khăn, là nỗi thèm thuồng của cô bé mỗi khi cha cô lấy con dao nhíp nạo một miếng nhỏ cho bé, đôi mắt bé sáng lên như muốn nói cha cho thêm tí nữa… Sau đó cô bé liếm ngấu nghiến những đầu ngón tay một cách tiếc nuối. Vậy mà giờ đây cô sở hữu nguyên cả một miếng thật to, chỉ riêng cho mình cô thôi!
– Đừng ăn hết một lần con ạ, cha bảo cô bé.
Ôi không, đẹp quá, ngon tuyệt quá, phải kéo dài niềm hạnh phúc này càng lâu càng tốt. Mở khăn tay ra và rón rén liếm cục đường nhiều lần trong ngày thật vui thích biết bao! Cô bé nóng lòng chờ đợi cho hết ngày lễ để kể về món quà của mình cho cô giáo, một người dạy học biết rất nhiều câu chuyện tuyệt vời.
Và rồi khi cô giáo vừa cười vừa hỏi bọn trẻ về kỳ nghỉ lễ của chúng, thì Sylvie là người rất nóng lòng nên đã lên tiếng trước, cô bé có rất nhiều điều để kể. Chiếc đèn lồng trong đêm, chiếc khăn tay trắng xanh, miếng đường… Nhưng, đến khi cô kể xong câu chuyện và im tiếng thì tất cả bạn bè cô bé trở nên im lặng một cách kỳ lạ.
Ở ngôi làng miền núi này, nơi mà sự nghèo đói, thậm chí khốn khổ, đã càn quét toàn vùng, thì chỉ có Sylvie được Ông già Noel đến thăm vào ngày 25 tháng 12. Những đôi guốc của bạn bè cô bé vẫn trống rỗng một cách đáng thương trước lò sưởi.
– Có lẽ chúng ta không ngoan như lời ông Nô En dặn dò rồi, cô bé Marie thốt lên một cách buồn bã.
Trên bục giảng, nụ cười cô giáo bỗng trở nên héo hắt và đôi mắt cô đẫm lệ.
*
Tôi cũng nhìn thấy đôi mắt của Sylvie ướt đẫm khi bà vừa kể cho tôi nghe ngày ấy niềm hạnh phúc của bà bỗng chốc tan biến khi nhận thấy nỗi buồn của các bạn trong lớp, những người khốn khổ mà ông Nô En đã quên ghé nhà chúng.
Ôi bài học về cuộc đời mà bà Ngoại đã truyền cho tôi qua câu chuyện trên thật quý hóa biết dường nào!
Bà có biết chăng món quà Giáng Sinh mà bà vừa ban tặng cho tôi mang ý nghĩa như thế nào đối với tôi không?
Con xin dâng tặng câu chuyện này cho bà ngoại S. của con, đã kể cho con nghe về lễ Giáng Sinh của bà thời thơ ấu, năm 1900.
– Mone Dompnier -tháilan dịch