Biên khảo

Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh : VN Trung tâm nông nghiệp lúa nước, công nghiệp đá xưa nhất thế giới

VN Trung tâm nông nghiệp lúa nước, công nghiệp đá xưa nhất thế giới

Trong Việt Nam Sử lược, sử gia Trần Trọng Kim đã viết: “Tích Quang và Nhâm Diên sang làm thái thú tại Giao Chỉ và Cửu chân (2 quận lớn trong 9 quận của Việt Nam cổ), dạy dân điều lễ nghĩa, cưới vợ hỏi chồng, dùng cày bừa mà cày cấy ruộng, vì trước đó dân Giao Chỉ chỉ biết săn bắn và chài lưới….”. Sử gia Ðào Duy Anh cũng viết “Nó (Trung Hoa) làm thầy khai hóa cho ta và các dân tộc Á Ðông khác.”

Sách vở của các vị sử gia trên đã dạy dân học suốt bao thế kỷ. Người Việt Nam cứ cong lưng theo thế mà học về lịch sử nước nhà. Có lẻ hai ông sử gia trên đã dựa một cách tiêu cực vào sử Trung Hoa mà không cố suy luận và phán đoán về sử liệu nước nhà (một gương sáng mà chúng cần lưu ý: Triều Tiên và Trung Hoa phản kháng 35 điểm viết sai trong lịch sử giáo khoa Nhật Bản hiện nay).

Mặc dầu rằng 2 ông sử gia nói trên đã có công viết nên lịch sử nước nhà để dạy dân. Nhưng không hiểu vì sao 2 ông không hề quan tâm nghiên cứu tệ lắm là những gì quí báu ghi chép trong những bộ sử nước ta vào thế kỷ 13 là bộ Ðại Việt Sử Ký do 2 sử gia Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên biên soạn dưới thời nhà Trần; và bộ Sử Ký Toàn Thư do Ngô Sĩ Liên biên soạn dưới thời nhà Lê cùng nghiên cứu các sách vở khác của Trung Hoa.Trước thế kỷ 13 là thờsử? Trung Hoa và Việt Nam. Sử Trung Hoa chép, khoảng 3000 năm trước T.C, dân du mục Mông Cổ vượt sông Hoàng Hà đánh chiếm nước Bách Việt từ sông Hoàng Hà đến sông Dương Tử của Ðế Lai. Ðế Lai xưng là thiên tử làm vua phương Bắc, là con Ðế Nghi, cháu nội  Ðế Minh. Ðế Minh là cháu 3 đời của vua Ðế Viêm tức Thần Nông. Ðế Minh đi ngao du đến núi Ngũ Lĩnh (tỉnh Vân Nam ngày nay) gặp một tiên nữ (người tài giỏi và rất đẹp nên được người đời ấy tặng biệt hiệu là tiên nữ), đẻ ra Lộc Tục. Ðế Minh cho Lộc Tục làm vua phương Nam từ Dương Tử Giang đến tận Việt Thường. Lộc Tục làm vua Bách Việt phương nam đặt tên nước là Xích Quĩ, xưng hiệu là Kinh Dương Vương lấy nàng Long Nữ con Ðộng Ðình Quân đẻ ra Sùng Lãm tức Lạc Long Quân (như vậy là Lạc Long Quân là con Nữ Rồng và cháu nội của Nữ Tiên: do đó mà chúng ta được gọi là con Rồng cháu Tiên).

Lạc Long Quân nối nghiệp Kinh Dương Vương làm vua phía Nam sông Dương tử. Ðế Lai đem con gái Âu Cơ gả cho Lạc Long Quân. Sau đó Ðế Lai cùng em họ là Lạc Long Quân lập liên minh Xích Quĩ đánh nhau với du mục Mông Cổ tại Trác Lộc trên sông Hoàng Hà (3.000 tr. T-C). Mông Cổ thắng trở thành Hán tộc. Người Hán rất ghét thủ lãnh Liên Minh Xích Quỉ là Ðế Lai nên gọi ngài là Xi bưu (xấu xí láo lếu). Ðế Lai tử trận, Lạc Long Quân có thể đã chết trong trận Trác Lộc, hoặc còn sống thì đem một số con cái tướng tá và tàn quân chạy ra biển tản mác khắp nơi trên Thái Bình Dương. Mông Cổ chiếm bình nguyên Hoàng Hà xưng là Hoàng Ðế lập nên Trung Quốc và cũng bắt chước Ðế Lai xưng là Thiên tử. Một số thị tộc Bách Việt mà Hán Mông cổ gọi là man di, ở lại sống chung rãi rác khắp nơi.

Vợ Lạc Long Quân là nàng Âu Cơ, con gái Ðế Lai kéo quân qua sông Dương Tử, trở lại chốn rừng núi phía nam tức là nước Xích Quĩ, chia các con cai trị sinh ra 18 dòng họ Hùng Vương. Cho tới Bắc thuộc lần thứ I, biên giới nước ta kéo dài từ Ðộng Ðình Hồ trở xuống đến Việt Thường (Trung Việt ngày nay).

Nếu so sánh giữa hai sắc dân, Mông Cổ du mục và Bách Việt nông nghiệp sống định cư thì chúng ta dễ hiểu rằng nguồn gốc nông nghiệp của Tàu là do dân Miêu tộc (tên người Hán gọi Bách Việt). Dân Bách Việt vốn đã có nghề nông từ lâu đời trước khi Mông Cổ đến. Vả lại các vị Thần nông, Phục Hi, Nữ Oa v.v… là tổ tiên của Bách Việt đã chết lâu đời trước trận Trác Lộc. Vậy nên Hán tộc gốc Mông Cổ hoàn toàn không liên can gì đến sự nghiệp nhà nông của các Vị nói trên. Và dân Bách Việt cũng đã thạo thành về nông nghiệp lâu đời từ trước khi Mông Cổ đến. Chúng ta thử chứng minh nhận xét hoàn toàn hợp lý trên đây.

Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rõ nét rằng Việt Nam có nguồn gốc Bách Việt và luôn tự xưng là Bách Việt, mà là Bách Việt thuộc thành phần chính thống, trung kiên, bất khuất, lãnh đạo. Lúc bị dân du mục Mông Cổ đánh bại tại Trác Lộc, Lạc Long Quân là vua nước Xích Quỉ bị tử trận hay chạy ra biển nhưng nước Xích Quỉ được bà Âu Cơ giữ gìn nguyên vẹn. Một số người Bách Việt phương Bắc ra đi đến nước Xích Quỉ phải là tầng lớp lãnh đạo Bách Việt. Kẻ ở lại bị coi là dân man di nô lệ, chung sống với dân Mông Cổ mà thành dân Trung Hoa ngày nay.

Nói như thế chỉ để chứng minh rằng nền văn minh nông nghiệp của dân Bách Việt không phải do du mục Mông Cổ khai sáng. Ðó là tàng tích Bách Việt hoàn toàn. Nếu phải nói một cách công bằng thì văn minh nông nghiệp Bách Việt là tài sản chung của toàn thể Bách Việt mà Việt Nam là chủ yếu. Trung Hoa có nông nghiệp từ thời tiền sử là nhờ vào dân Miêu tộc (tức Bách Việt ở lại chung sống). Vậy cả hai dân tộc Trung Hoa gốc man di Bách Việt và Việt Nam gốc Bách Việt chính thống đều là dân đã làm nên nền nông nghiệp từ rất nhiều thiên niên kỷ trước khi Mông Cổ đến xâm lăng đất đai?

Người Hán gốc Mông Cổ cai trị Trung Hoa lâu đời, và đô hộ Việt Nam non 1000 năm, nên lòng người man di Trung Hoa gốc Bách Việt cũng như lòng người Việt Nam dần lãng quên gốc gác của mình mà tưởng rằng văn minh nông nghiệp là do Tàu Mông cổ (Hán) khai hóa !

Ðối với dân tộc Trung Quốc thời bấy giờ, người Hán có nguồn gốc Mông Cổ là lớp quí tộc chủ nhân, lớp lãnh đạo quyền uy giàu có. Miêu tộc tuy đông, làm nghề nông bị liệt vào hàng bần cùng, nô lệ, bị coi là man di.

Trở lại Việt sử, trong 2 bộ sử xưa của Việt Nam là bộ Ðại Việt Sử Ký do 2 sử gia Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên biên soạn dưới thời nhà Trần, và bộ Sử Ký Toàn Thư do Ngô Sĩ Liên biên soạn dưới thời nhà Lê đã ghi:

“Trước họ Hồng Bàng (Kinh Dương Vương) còn nhiều đời vua nhưng không kể đến… (đó là các vua Phục HY, Ðế Viêm, Ðế Minh, Ðế Nghi v.v…”, và rằng “…từ họ Hồng Bàng (2879 tr. TC) dân ta cầy cấy mà ăn, đào giếng mà uống…” rằng “Vua Kinh Dương Vương nối nghiệp con cháu Thần nông, lấy con gái vua Ðộng Ðình, tỏ rõ đạo vợ chồng, nắm ngay gốc văn hóa, lấy đức mà cảm hóa dân…đó chẳng phải là phong tục thái cổ từ Viêm Ðế ư?.” Có lẽ Trần Trọng Kim và Ðào Duy Anh cho là tưởng tượng nên không tin vào đoạn sử này. Trong lúc đó sử gia Trần Trọng Kim viết, họ Hồng Bàng có vua Kinh Dương Vương (2879-258) là dòng dỏi Vua Thần Nông có quốc hiệu là Xích Quĩ, có con là Lạc Long Quân nối ngôi (2.804 năm tr. TC). Ðã gọi là con cháu vua Thần nông thì tại sao không rành về nghề nông mà phải đi nhờ dân gốc Mông Cổ dạy!

Như thế, rõ ràng 2 sử gia Trần Trọng Kim và Ðào duy Anh chỉ biết dựa trên sử của một quốc gia đã xâm lăng nước ta lâu đời và luôn có khuynh hướng chiếm, phá hoại hay xuyên tạc văn hóa tiền sử và lịch sử của dân tộc Bách việt. Tuy nhiên nhờ vào di vật của tổ tiên còn để lại trong lòng đất, các học giả khảo cổ học ngoại quốc và Việt Nam đã chứng minh cho chúng ta và thế giới ngày càng thấy rõ sự thật, rằng chính dân Bách Việt nông nghiệp Bắc Việt đã ảnh hưởng giáo dục lễ nghĩa, nông nghiệp và công nghiệp cho khắp lục địa Nam Á trước khi Mông Cổ tới nhiều nghìn năm (sẽ chứng minh rõ sự kiện này)

Ðối với Bách Việt thì ta có thể nói rằng khi dân du mục Mông cổ đánh liên minh Xích Quỉ của Ðế Lai – Lạc Long Quân mà chiếm bình nguyên sông Hoàng Hà có thể coi đó là Bắc xâm lược lần thứ I (3000 năm tr.TC). Lúc Tần Thủy Hoàng chiếm nước Việt Âu Lạc của Thục An Dương Vương là Bắc thuộc lần thứ II (246-206 tr TC). Lúc nhà Hán dứt nước Nam Việt của họ Triệu là Bắc thuộc lần thứ III. Nhà Ðông Hán đô hộ nước Lĩnh Nam của Trưng Vương là Bắc thuộc lần thứ IV. Những tài liệu nầy, kể cả tên nước Xích Quỉ cũng đều được nêu ra trong tài liệu viết sử của các sử gia nói trên, riêng về ranh giới thì lại càng rất đúng.

“Tích Quang và Nhâm Diên sang làm thái thú tại Giao Chỉ và Cửu chân (2 quận lớn nhất được coi là kinh đô của Việt Nam cổ), dạy dân điều lễ nghĩa, cưới vợ hỏi chồng, dùng cày bừa mà cày cấy ruộng…..”.? Qua những tài liệu trên làm sao tin được sự kiện lịch sử này chứ? Chúng ta hãy nghe những câu nói của Ðức Khổng Tử sau đây:

Khi một môn đồ xuôi Nam đến đất Việt, xin Ðức Khổng Tử chỉ dạy, ngài nói “…người Bách Việt miền nam (phía nam Dương Tử Giang) có lối sống, tiếng nói, luật lệ, phong tục, tập quán, thức ăn uống riêng…”, “…dân Bách Việt chuyên làm ruộng lúa mà ăn chứ không như chúng ta trồng kê và lúa mì. Họ uống nước bằng lá cây hái trong rừng gọi là trà.”

Một lần khác Ðức Khổng Tử xác nhận: “Những đạo lý ngài viết ra đều là những điều đã có sẵn trong dân gian (dân chúng gốc Bách Việt)”. Chính những đạo lý đó Mông Cổ hoàn toàn không có vì với Mông Cổ chỉ có đạo lý cũ sức mạnh. Vì thế Ðức Khổng Tử mới lấy đạo lý từ dân gian, viết ra để dạy cho vua quan là giòng giỏi Hán tộc Mông Cổ.

Ðức Khổng Tử còn nói rằng : “Dân Bách Việt rất thích ca múa, vừa làm việc vừa ca vè, hát đối, nói vận (vè, thơ, ca dao), lấy lá cây mang vào người, trá hình múa hát…” . Và Ðức Khổng tử cho rằng: “xướng ca vô loại, chẳng nên ca múa như dân Nam Man”. Nên trong thời gian đô hộ quan Tàu cấm dân ta múa hát trong những ngày lễ lạc. Nhưng hát bội hay hát bộ (vừa hát vừa làm bộ điệu) gốc Bách Việt mà Tàu rất thích nên họ phát triển hát bộ (sau này lại truyền qua cho Việt Nam phương thức hát bộ mới, được chế biến thêm. Miền Nam Việt Nam lại cải biến thêm thành Cải Lương, Tàu lại chế biến thành cải lương Hồ Quãng).

Sách Hậu Hán Thư quyển 14 viết lại “Dân Giao Chỉ (thủ đô của Bách Việt phương nam) biết nhiều thủ công nghiệp, luyện đúc đồng và sắt v.v…”. Sách Cổ Kim Ðồ Thư, Thảo Mộc Ðiếm của Trung Hoa chép: “Mã viện tâu vua Tàu, Giao chỉ ép mía làm đường phèn: Giao chỉ có thứ cây mía ngọt, đem ép lấy nước rồi làm đường phèn.”. “Giao chỉ làm giấy mật hương: giấy mật hương làm bằng lá và vỏ cây mật hương trồng ở Giao chỉ, giấy mềm, giai và thơm, ngâm nước không bở không nát”

Vậy mà trong quyển ART DE LA CHINE của ông Jean Buhot “Les Éditions du Chène, Paris” xuất bản tháng Tư năm 1951, tác giả đã viết “Le papier ayant inventé par la Chine dès la dynastie de Hán probablement, on peut croire quil connaissent depuis la même époque deux procédés : lestampage et limpression. ” “Giấy đã được Tàu phát minh ra từ thời nhà Hán, chắc như vậy, và người ta có thể tin rằng cũng vào thời ấy người Tàu đã biết 2 kỹ thuật : rập khuôn bằng tay và in ấn …” Xem như vậy thì thấy những sự hiểu biết của người Âu Châu về Trung Hoa và Việt Nam lệch lạc và bất công biết bao nhiêu.

Các sách cổ khác của Trung quốc như Giao Châu Ký, Tam Ðô Phủ, Ngô Lục Ðịa Lý Chí, Nam Phương Thảo Mộc Trạng v.v… đều chép đại lược rằng :

“Dân Lạc Việt trồng lúa mà ăn, dùng lá trà mà uống…”; “…họ biết uống nước bằng lổ mủi…”; “…nuôi tằm mà dệt vải…”; “…dùng đất sét đào sâu trong đất, thái mỏng phơi khô làm thức ăn quí, dùng làm quà quí để đi hỏi vợ…”; “…dùng đá màu làm men gốm…”; “dùng mu rùa mà bói việc tương lai”; “họ dùng một khúc tre dài chừng 1 thước hơn, một đầu có trụ cao làm tay cầm, có giây buộc vào trụ lại đằng kia mà làm đàn gọi là độc huyền cầm….”, “…họ đem tính tình các con vật mà so sánh với người, rồi họ truyền tụng rằng ngày thứ nhất trời sinh con chuột, ngày thứ hai sinh con trâu, ngày thứ ba trời sinh con cọp …(chuyện thần thoại của người Dao : gốc tích của 12 con giáp của tử vi ngày nay)”. “Họ biết tìm hiểu các thức ăn nóng mát (tức thuyết âm dương) để trị bệnh, dùng kim đâm vào da thịt lấy máu để trị bệnh (lễ giác bầu), lấy đá hơ nóng áp vào da thịt để trị bệnh….”; “… Họ rất quí các loài chim, biết tập chim biết nói, … họ có nuôi nhiều chim trĩ sống trên núi rất đẹp (mà sau này Tàu gọi là phụng hoàng)”.Sử Tàu kể rằng vào thời nhà Châu bên Tàu dân Bách Việt quận Việt Thướng đem tặng vua nhà Châu cặp chim trĩ, sau đó nhờ Tàu dùng xe chỉ nam của Mông Cổ chỉ đường về.

Những ghi chép thường có tính cách kỳ thị là man di. Nhưng những chuyện huyền thoại cổ Man Di như chuyện ông Bàng Cổ gốc người Dao (xem Bàn Cổ của Nguyễn Văn Diễn), chuyện bà Nữ Oa biết “đội đá vá trời” tức có kinh nghiệm về thời tiết mưa gió, dạy dân theo thời tiết mà trồng trọt, Thần Nông dạy dân làm ruộng, Viêm đế (vua xứ nóng Bách Việt) thì dân Mông Cổ chiếm lấy làm của riêng. Thật ra lúc đầu người Hán không quan tâm những câu chuyện có vẻ hoang đường của dân Bách Việt. Nhưng khi họ hiểu ý nghĩa triết lý sâu xa của những câu chuyện hoang đường về các Vị, thì họ ép ngay câu chuyện và nhận ngay các Vị có gốc Bách Việt ấy làm tổ tiên của họ. Họ cũng có lý một phần, vì dân Miêu tộc Trung Hoa là hậu duệ các Vị. Nhưng họ phải hiểu rằng dân Việt Nam mới là con cháu đính thị của các Vị.

Tuy người Tàu vẫn biết tổ tiên của người Hán có nguồn gốc Mông Cổ có con vật tổ là cọp trắng, với nhà truyền thống cổ là nhà gốc du mục hình tròn. (Les premières civilisations LA CHINE ANCIENNE, trang 28-29, của ông William Watson xuất bản năm 1969 tại Grande Bretagne) (xem hình của Bs Thanh vẻ lại dựa theo hình nhà khảo cổ của ông William Watson). Trong lúc đó nhà cổ của Bách Việt là nhà sàn hình chữ nhật làm bằng tranh và tre cong cho chắc chắn, dần dà sinh ra mái cong. (xem hình vẻ của Bs Nguyễn Thị Thanh, phỏng theo loại nhà minh khí (nhà chôn theo người chết) bằng đất nung thời Hùng Vương tìm thấy trong văn hóa Ðông Sơn 2.800 ans tr T-C). Ngày nay thế giới và cả người Việt Nam cũng đều lầm tưởng rằng con rồng (chỉ là hiện thân của con cá sấu) con chim phụng (là hiện thân của loài chim trĩ) vật tổ của Trung Hoa, và mái nhà cong là văn hóa cổ truyền của họ luôn. Chẳng qua đó là hiểu lầm. Ngày nay nhờ khảo cổ học mới có thế chứng minh được sự thật

Tệ lậu hơn nữa, hiện nay có nhiều nhà khoa bảng Việt Nam còn không biết văn hóa là gì, còn cho là dân mình không có văn hóa nữa kia, hoặc có chăng chỉ là cái “búi tó trên đầu” (bài “Bảo tồn Văn hóa” của nhà đại khoa bảng bác sĩ giáo sư Ðại học danh tiếng Mỹ kiêm nhà văn Vũ Ðình Minh biệt hiệu là Mai Kim Ngọc đăng trên nhiều báo đặc biệt là báo Y giới: bài viết có tính cách mỉa mai Việt Nam không có văn hóa gì để mà bảo tồn hết trơn hết trọi, hoặc giả có chăng chỉ có cái “búi tó” của ông nội nhà khoa bảng MKN).

Trở lại nông nghiệp của dân Bách Việt. Làm ruộng cần công cụ. Nền nông nghiệp sinh công nghiệp. Công nghiệp sản xuất công cụ cho thợ đá, kỹ nghệ đá, cho thợ đồng, kỹ nghệ đồng và các thứ tiểu công nghiệp khác như nghề nuôi tằm dệt vải, làm đồ gốm của nước ta từ trước thời các vua Hùng cho đến thời Bắc thuộc lần đầu tiên (111 tr TC) 273 đã phát triển xa hơn Tàu và không hề nhờ phương bắc giáo huấn.

Trái lại các thợ giỏi và kỹ thuật cao của nước ta bị sức mạnh cướp lấy để phát triển, dành lấy làm văn hóa của mình. Dân việt cổ bị cấm tuyệt mọi sinh hoạt kỹ nghệ bản địa công khai. Vì vậy những nền văn hóa thời tiền và sơ sử Việt Nam bị ngưng hẳn từ thời Bắc thuộc lần đầu. Thế giới cũng hiểu rằng Trung Quốc đã ngăn chặn những nền văn minh tiền sử Việt Nam và đã xung phong vào để tiếp nối những nền văn minh tiền sử đó (sẽ có bằng chứng rõ về sau).

Từ trước đến nay chúng ta chưa khẳng định được những điều nói trên mà phải chờ di vật cổ tổ tiên để lại trong lòng đất mới có đủ luận cứ thuyết phục cho chính chúng ta và thế giới. Khảo Cổ học đã nói lên cho chúng ta biết rất nhiều điều bí ẩn mà ngoại quốc đã hiểu lầm hoặc che dấu và xuyên tạc. Nhờ vậy ngày nay rất nhiều học giả Trung Hoa đã công nhận sự thật về nguồn gốc Bách Việt trong văn hóa Tàu.

Từ khi người Pháp qua cai trị nước ta, họ chiếm độc quyền về khoa Khảo cổ. Từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khảo cổ học đã tìm ra ở trên đất nước chúng ta hiện tại, đặc biệt là từ miền Bắc vào Miền Trung từ xưa là đất cổ Việt Thường. Cho đến nay người ta đã tìm thấy rất nhiều nền văn minh tiền sử Việt Nam cổ liên tục nối đuôi nhau trên đất Bắc và Trung Việt. Thường khi tìm được di chỉ văn hoá ở đâu đầu tiên người ta lấy tên địa phương mà đặt cho nền văn hóa đó.

Văn hoá Việt cổ xưa nhất còn gặp nhiều di vật cách đây từ 30.000 năm trở lại được tìm thấy ở núi Ðọ, thôn Sơn Vi tỉnh Vĩnh Phú được đặt tên là văn hóa Sơn Vi hay Tiền Hòa Bình. Nền văn hóa này được tìm thấy rải rác khắp miền Bắc và Trung Việt. Tuy việc tìm kiếm là ngẫu nhiên, nhưng nhờ vào sự giàu thịnh nên người ta đã tìm thấy rất nhiều nền văn hóa có tính cách liên tục nối tiếp nhau từ văn hoá Sơn Vi (30.000 năm tr, TC) qua Hoà Bình (16.000 – 7.000 tr TC) đến Bắc Sơn rực rỡ, Quỳnh Văn, Phùng Nguyên, Ðồng Ðậu, Gò Mun, Hoa lạc v.v… dần dần đến văn hóa Ðông Sơn huy hoàng có niên đại từ 800 năm đến 111 năm tr TC là thời gian bị Bắc thuộc lần đầu. Rồi từ 111 tr TC văn hóa nước ta ngưng hẳn chìm lỉm, vì sao? Hỏi tức nhiên là đã trả lời. Dư âm của các nền văn hóa trên còn âm thầm kéo dài thêm vài thế kỷ sau Bắc thuộc rồi bị Tàu thôn tính và ẵm đi luôn.

Trong những nền văn hoá tiền sử nước ta khi nói đến văn hóa Hòa Bình (di chỉ tìm thấy ở tỉnh Hòa Bình – Bắc Việt) thì từ lâu giới khảo cổ học và trí thức thế giới đều biết rằng đó là một trung tâm nông nghiệp và công nghiệp đá xưa nhất thế giới.

Nhưng vì sao dân tộc ta như các sử gia Trần Trọng Kim, Ðào Duy Anh cứ luôn cho mình là dân man di, được Hán khai sáng, dạy cho cưới vợ hỏi chồng, dạy cho nông nghiệp… Suốt 1000 năm cai trị, Hán lấy tài nguyên sản vật quí, và bắt thợ giỏi, gái đẹp cùng ngăn cấm dân truyền tụng văn hoá cổ, ngăn cấm dân ta phát triển kinh tế, và đập phá tất cả mọi công trình công nghiệp điển hình là gốm, lò luyện kim, lò đúc đồng trống đồng, đúc sắt.

Dân Việt sợ, ai có đồ gốm và đồ đồng, trống đồng thì đem chôn dấu. May thay khảo cổ học đã lấy lên từ lòng đất những sự thật về văn hóa tiền sử và lịch sử nước nhà. Nghiên cứu tài liệu khảo cổ, đối chiếu với tài liệu sử học là việc làm có bằng chứng khoa học vững vàng giúp chúng ta tìm hiểu nguồn gốc văn hóa dân tộc. Lịch sử văn hóa mỹ thuật dân tộc Việt Nam cần được soi tỏ dưới ánh sáng khoa học một cách công minh.

Khác với lịch sử, sử gia có thẫm quyền ghi chép nhiều ít theo ý mình những sự việc xảy ra, văn hoá mỹ thuật lịch sử cần những sự thật cụ thể được chứng minh bằng khoa học. Lịch sử phụ thuộc sử gia, trong lúc văn hoá mỹ thuật lịch sử là công trình của tiền nhân để lại một cách đích thực, hiển nghiên, không thể chối cãi hay làm méo mó sự thật được.

Văn hóa mỹ thuật lịch sử giúp tìm hiểu con người, hoàn cảnh, nghệ thuật, trình độ tiến hóa, sinh hoạt gia đình làng xã. Thế cho nên văn hoá mỹ thuật là một khoa học lịch sử tuy khó khăn nhưng vô cùng quí báu lý thú. Những cổ vật là vô tri, nhưng qua đó chúng ta có thể tìm hiểu được cách sống, tư tưỡng, cá tính, tinh thần tập thể, tình cảm, hoài bảo và tư tưởng triết thuyết trong cuộc sống vật chất và tinh thần của tiền nhân. Vì vậy có thể nào chấp nhận lịch sử văn hóa nước nhà qua hành động và lời lẽ khinh bạc, dìm dập, xuyên tạc của thực dân ngoại lai Tây và tay sai trong nước của họ.

Trở lại các thị tộc du mục Mông Cổ, thủy tổ nhà Hán vượt sông Hoàng hà đến chiếm dần dà trung nguyên bao la rộng lớn mà lập nên nước Tàu vĩ đại. Nghề nông là do dân Bách Việt làm từ lâu đời trước khi Mông Cổ đến chiếm, họ tiếp tục làm. Vị tù trưởng Mông Cổ lên ngôi đầu tiên xưng là Hoàng đế và biến dân Bách Việt thành nô lệ chỉ được quyền làm nghề nông hay làm lính.

Như vậy khi đến chiếm lục địa trung nguyên dân Mông Cổ được thừa hưởng tài sản nông nghiệp của bao nhiêu đời Bách Việt truyền lại. Tuy vậy xưa kia Hán tộc Mông Cổ rất kỳ thị, khinh miệt và đối xử tàn ác với Miêu tộc Trung Hoa, do đó mới sinh ra chế độ nô lệ. Dân nô lệ Bách Việt thường chỉ được sống với nghề bản xứ, trồng trọt, đánh cá hay đánh giặc. Dân Hán là dân nắm chính quyền vẫn còn nhớ, yêu thích nghề du mục xưa, nên lấy sự săn bắn làm một thú tiêu khiển cho hàng vương giả.

Sau trận Trác Lộc, lớp Bách Việt thuộc hàng lãnh đạo bỏ chạy về phương Nam là vùng đất cực nam của Bách Việt lập nên nước Việt cổ. Cũng lại bị nhà Hán đến đô hộ, và sự đô hộ kéo dài ngót 1.000 năm. Nhà Hán vừa chiếm Việt cổ họ thi hành ngay chính sách thực dân, thâu nạp không những của cải vật chất, mà họ còn rất chú trọng đến tài nguyên trí tuệ. Nhà Hán đã chiếm văn hóa tiền và sơ sử của Bách Việt trên lục địa Trung Hoa từ trước. Nay lại chiếm luôn cả văn hóa sơ sử Việt Nam của nước Lĩnh Nam của Trưng Trắc từ Ðộng Ðình Hồ trở xuống Miền Bắc và Miền Trung Việt Nam cổ.

Họ có thâm ý làm cho người Trung Hoa và người Việt cổ quên hẳn quá khứ của giống nòi hầu dễ dàng buộc họ đồng hóa và chấp nhận rằng chính nhà Hán Mông Cổ khai hóa ra Bách Việt. Người Trung Quốc đã được sinh ra từ Mông Cổ đồng hóa với Bách Việt. Và nhà Nguyên Mông Cổ và nhà Thanh Mãn Châu sau này lại bị Trung Hoa đồng hóa lần nữa. Như vậy Mông Cổ và Mãn Thanh đã bị man di Miêu tộc Bách việt đồng hóa thành Trung Hoa.

Người Tàu Mông cổ vốn có vật tổ là cọp trắng, và nhà cổ là nhà hình tròn gốc du mục nhưng khi họ thấy vật tổ Bách Việt rồng phụng, và nhà cổ Bách Việt mái cong, có vẻ đẹp tao nhã mỹ thuật, nên họ đã chiếm ngay văn hoá nhà cổ và rồng phụng Bách Việt làm của họ và người mình không hề dám hé môi hay trăn trối với con cháu.
Gần đây đào được trống đồng ở Vân Nam, khảo cổ gia Tàu cũng tuyên bố ầm ĩ là trống đồng do Mã Viện và Gia Cát Lượng sản xuất!. Sao họ có thể quên Hậu Hán Thư quyển 14 ghi rõ: “Dân Giao Chỉ có linh vật là trống đồng, nghe đánh lên họ rất hăng lúc lâm trận….”. Chính vua Quang Vỏ nhà Ðông Hán đã ra lệnh cho Mã Viện phải phá hủy trống đồng Bách Việt. Vì thế trên đất Hoa Nam hiện tại là đất Việt cổ tìm thấy trống đồng là việc đương nhiên. Hậu Hán Thư quyển 14 chép: “Mã Viện là người thích cưỡi ngựa giỏi, biết phân biệt ngựa tốt. Lúc ở Giao Chỉ Viện lấy được trống đồng đem đúc ngựa…” (xem hình chụp Hậu Hán Thư)

Mã Viện cũng đã phá trống đồng để đúc cột đồng trụ để chiếm cho chắc ăn phần đất từ Ðộng Ðình Hồ trở xuống của nước Lĩnh Nam. Và vì sợ dân Giao Chỉ lấy cột đồng đúc trống và phá hủy biên giới do Mã Viện đề ra, nên Mã Viện ghi “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” để dọa dân việt cổ. Nhưng rồi chắc là dân ta cũng đã lén lấy đồng trụ để đúc trống vì thiếu đồng, nên đồng trụ biến mất. Ngoài ra, vì cần đồng để đúc trống nên thường đem vàng bạc ngọc ngà hạt trai, sãn phẩm quí đồi lấy tiền đồng của ngươời Hoa cổ. Trước đó chính bà Lữ Hậu vợ vua Thái Tổ nhà Hán là Lưu Bang đã ra lệnh cấm bán, đổi chác tiền đồng cho dân Giao Chỉ.

Riêng Mã Viện, từ khi thắng Trưng Vương, biết dân Giao Chỉ coi trống đồng như là một linh vật giữ nước. Mã Viện, có kinh nghiệm về việc Trưng Vương ra trận dùng trống đồng thúc quân, thấỵ uy lực trống đồng của Bách Việt rất lớn, giúp họ đánh giặc rất hăng. Việc đúc ngựa, đúc đồng trụ chỉ là cái cớ để tiêu hủy linh vật của Bách Việt mà thôi. Vậy ai dám bảo trống đồng do Mã Viện và Gia Cát Lượng đúc thì thật là xuyên tạc lịch sử mỹ thuật Việt Nam một cách trắng trợn.

Nhân đây xin kể một trường hợp xuyên tạc, bình gốm Hoa Lam cổ, trưng bày ở viện bảo tàng Istambul, cách đây trên 50 năm Tàu và Nhựt tìm xem có thể là của họ không. Nhưng đến khi thấy niên hiệu ghi trên bình là niên hiệu vua Việt “Thái-hòa bát niên…, Bùi Thị Hi bút” (xem hình), người Hoa bèn bảo đó là “của một ông thầy Tàu qua Việt Nam chơi, làm để lại..”? Vào Thời kỳ đó người ta hoàn toàn chưa biết Việt Nam đã có lò gốm hoa lam rất sớm từ thế kỷ 12, 13 với màu xanh bản địa chứ không nhập cảng màu xanh tươi của BaTư như TrungHoa.

Phải mất 30 năm sau, khi khảo cổ học Việt Nam tìm thấy dấu tích nhiều lò nung gốm cổ hoa lam trên đất Bắc từ thế kỷ 12, 13 cùng những sản phẩm phế thải của lò và những gốm Việt Nam cổ có hoa văn giống hoa văn trên độc bình ở Istambul, mới chứng minh đích thực bình cổ danh tiếng ở bảo tàng viện Istambul là của Việt Nam do một phụ nữ là Bùi Thị Hi trang trí.

Vả lại dân Mông Cổ là dân sống bằng săn bắn và du mục. Do đó họ không thể nào là những người đã phát sinh ra nền văn hóa nông nghiệp. Và như thế họ cũng chẳng bao giờ có họ hàng và cần thiết có họ hàng với các ông Thần Nông (người tài giỏi về làm ruộng), bà Nữ Oa “đội đá vá trời” (tức là người tìm hiểu và kinh nghiệm nhiều về thời tiết giúp nhà nông làm ruộng).

Dân du mục phải thường xuyên chống chọi với thú rừng, cũng như chống chọi với các đoàn du mục khác, họ phải đấu tranh không ngừng. Vì thế họ là một chủng tộc mạnh, tài nghệ bắn cung, cưỡi ngựa, đô vật, đâm chém của họ rất cao. Chính nhờ vào tài nghệ này mà họ đã thành công trong việc chiếm lục địa Trung Hoa và chiếm Việt Nam sau này.

Giòng máu du mục buộc họ luôn sẵn sàng chiến đấu, từ đó nảy sinh giòng máu xâm lăng. Vả lại khí trời miền bắc lạnh, nên bản chất họ rất khỏe, và rất sợ khí nóng ở miền nhiệt đới nông nghiệp mà họ coi là nơi âm phong chương khí. Cũng vì lý do đó, người Trung Hoa gốc Mông Cổ không thể có các vị vua Thần nông “vua trồng trọt xứ nóng” tức là vua Viêm Ðê cần thiết của nhà nông. Dân Bách Việt hiền lành ở miền Nam lo nghề nông, không quen đánh giặc bị họ chiếm hết đất đai và văn hóa.

Suốt trên hai nghìn năm chúng ta hầu như chỉ học cho biết rằng Việt Cổ là một đất nước vô văn hóa, man di, được nhờ Tàu Mông cổ khai hóa. Dầu rằng Tàu gốc Mông Cổ không chứng minh được văn hóa tiền sử của họ. Như thế đủ thấy ảnh hưởng của việc bị đô hộ Tàu, kể cả Tây sau này, là nguy hiểm như thế nào!

Chính vì vậy mà LM Triết Gia Kim Ðịnh đã gia công nghiên cứu một triết lý An Việt và nói đến “một nền văn hóa Việt Nam cổ mồ côi”. Nhưng văn hóa tiền sử Việt Nam đã bị che dấu và cướp đoạt vì sức mạnh, chứ nhất thiết không hẳn là một văn hóa mồ côi. Văn hóa Việt cổ có mẹ đẻ từ các nền văn hóa tiền sử Việt Nam, và đã sinh đứa con khổng lồ là nền văn hóa siêu việt Trung Quốc Chính văn hóa Trung Quốc lúc không nhận là con đẻ của văn hóa Bách Việt, là một văn hóa mồ côi. Lúc Tưởng Giới Thạch ra lệnh nghiên cứu về văn hóa Trung Hoa từ ngày nay trở về trước. Nhưng khi lên đến nhà Hán và thời Khổng Tử, các nghiên cứu gia Trung Hoa Dân Quốc đành bỏ dở vì vấp phải văn hóa Bách Việt!.

Với thực dân Pháp, trong vòng gần 80 năm đô hộ Việt Nam, chúng ta nhìn thấy biết bao tài sản của nước ta Pháp đã đem về xây dựng đất nước họ, làm giàu Viện Bảo Tàng của họ (nào đàn đá báu vật hiếm quí, nào 4 quyển sách trước tác của cụ Nguyễn Du v.v… và v.v… Pháp cướp về nước tất. Tương lai gần chúng ta nhất định phải đòi lại tài sản bị cướp, đòi bồi thường và đòi Pháp phải xin lỗi dân tộc Việt Nam)

Trong thời gian bị thực dân Pháp đô hộ, việc khảo cổ trên đất nước ta chỉ dành độc quyền cho người Pháp. Chuyên gia và khảo cổ gia Việt Nam có đóng góp công lao ý kiến cũng không được ghi lại. Người Pháp mà tiêu biểu là ông H. Mansuy đã có những phán đoán sai lạc, lập luận lầm lẫn về văn hóa mỹ thuật tiền sử và lịch sử Việt Nam. Trước những khám phá về văn hóa tiền sử và lịch sử Việt Nam, ông ta luôn có thành kiến rằng, bao nhiêu nền văn hóa xa xưa của Việt Nam cổ từ thời tiền sử vốn chỉ là “hàng nhập cảng”…, “hàng vay mượn, hàng thiên di v.v… của phương Bắc hay phương Tây” !

Từ trước, với phong cách thực dân khi Ông H. Mansuy khi nhìn thấy những viên gạch lót nền nhà cổ có hoa văn đẹp (xem hình gạch lót nhà có hoa văn), đào lên từ lòng đất, đã nói rằng: “Ðây là gạch nhập cảng để làm bàn thờ chứ không thể lót nền nhà.

Ngày nay chúng ta đã tìm thấy nhiều lò gạch cổ sản xuất gạch có khắc hoa văn ở Bắc Hà, và đã đào được nền nhà lót gạch có hoa văn thời nhà Trần, ví dụ nền nhà có lót gạch hoa văn của Hưng Ðạo Vương tại Vạn Kiếp. Và các nhà học giả về khảo cổ học khắp thế giới và Việt Nam đã chứng minh về tính chất bản địa của những nền văn hóa tiền sử xưa nhất và phát triển nhất trên đất nước Việt Nam mà đặc biệt là văn hóa Hòa Bình với sự ra đời sớm nhất thế giới của nông nghiệp lúa nước cũng như các nền văn hóa lịch sử sau này.

Có những người Việt Nam mà đại diện là ông Nguyễn Văn Tốt đã đọc sách tây thực dân, sao chép lại nguyên văn làm sách, mặc dầu thế giới đã cải chính trước đó rất lâu. Ông Trần Văn Tốt đã theo đúng luận điệu thực dân của H. Mansuy mà viết sai lạc về văn hóa Hòa Bình và văn hóa Bắc Sơn rằng: “Người Hoà Bình có mặt trên đất nước Việt Nam vào khoảng từ 5000 đến 3000 trước TC… coi như chưa biết gì về nông nghiệp và chăn nuôi, không biết gì gốm …”, “Ðá mài đã có vào thời Bắc Sơn, nhưng ít được sử dụng”; “… nghệ thuật đá mài có vai trò rất tiêu biểu cho văn hóa tộc họ Auxtro asiatique, được dùng nhiều ở miền Trung Ðông Dương. Người ta đã cho là những rìu mài này được nhập cảng từ Tây Tạng, Giang Nam bên Tàu, vì chúng nó cũng có ở Hoa Nam, Ấn Độ, Nhật Bản, Ðại Hàn… “; “và những dụng cụ đá mài hình dĩa là của văn hóa Úc từ Tàu truyền xuống v.v… “

Than ôi! thật vô cùng đáng trách! ông Tốt đã sao chép lại y nguyên những lập luận lầm lạc và vội vàng và đầy dẩy thành kiến đầu tiên của ông Mansuy mà bỏ qua mọi chứng minh khoa học xác đáng và mới mẻ hơn của các ông C.O. Sauer và W.G. Solheim, không biết với mục đích gì. Như thế phải chăng ông Tốt đã vô tình hay cố ý làm tay sai cho thực dân lỗi thời mà thế giới đã lên án !

Ông Tốt đã theo đuôi thực dân đưa ra một thứ suy luận hàm hồ, vì hễ cứ thấy nơi nào có, thì tất là “nhập cảng của nơi đó;”, bất chấp cả thời gian nơi nào có trước, nơi nào có sau, và bất chấp cả nơi nào có tính cách sản xuất nghiệp vụ và nơi nào có tính cách tiêu thụ. Vậy thì ông Tốt viết sách về văn hóa tiền sử Việt Nam, phải chăng để tìm cách dìm dập thóa mạ tổ tiên mình hay là để nối giáo cho giặc.

Nhà học giả Sauer Hoa Kỳ đã viết trong quyển Ðồng Quê:

“Ðúng là nông nghiệp đã tiến triển qua 2 giai đoạn, mà giai đoạn đầu là giai đoạn của văn hóa Hòa Bình, lúa nước đã được trồng cùng một lúc với củ môn nước (khoai sọ)”.

Ðến nay tất cả các nhà khảo cổ học, sử học Hoa Kỳ như các ông C. Sauwer, R. Somhein, Trương Quang Trực (Ông Trực là người Mỹ gốc Trung-hoa), ông Jorhman và học giả Liên Xô ông N. Vavilow đều công nhận:

“Ðông Nam Á mà chủ đạo là Việt Nam đã có một nền văn hóa tiền sử phát triển rất sớm sủa, tiên tiến và nhanh chóng, sáng tạo và sống động chưa từng thấy một nơi nào khác trên thế giới”.

Chúng ta hãy nghe mấy dòng sôi nổi của ông C.O. Sauer viết trong quyển Agricultural Origins and Dispersals – Xuất bản ở New York:

“Tôi đã chứng minh Ðông Nam Á là cái nôi của nền nông nghiệp xưa nhất. Và tôi cũng chứng minh rằng văn hóa nông nghiệp có nguồn gốc gắn liền với đánh cá bằng lưới ở xứ naỳ. Tôi cũng chứng minh rằng những động vật gia súc xưa nhất bắt nguồn từ Ðông Nam Á, và đây là trung tâm quan trọng của thế giới về kỷ thuật trồng trọt và cải biến cây cối bằng cách tái sinh sản thực vật “.

Trước đây người ta vẫn ca tụng địa điểm văn minh tân thạch khí ở vùng Tây Á Tiểu Á và cho rằng đây là một xứ nông nghiệp xưa nhất thế giới. Vì đã có những niên đại C14 lên đến thiên niên kỷ thứ VI, thứ VII. Việc phát hiện ra nền nông nghiệp tại Hòa Bình cách đây trên 10.000 năm đã làm cho thế giới rung chuyển, chao động.

Như vậy trung tâm nông nghiệp xưa nhất không còn là vùng Lưỡng Hà mà là Ðông Nam Á mà chủ đạo là Việt Nam. Việt Nam đóng vai trò quan trọng nhất vì nơi đây là điểm phát xuất chính.

Chúng ta hãy nghe lời bình luận xác đáng của ông W. G. SOLHEIM II đã viết từ năm 1967 “Tôi cho rằng khi chúng ta nghiên cứu lại nhiều cứ liệu ở lục địa Ðông Nam Á, chúng ta hoàn toàn có thể phát giác ra rằng việc thuần thục hóa cây trồng đầu tiên trên thế giới đã được dân cư Hòa Bình (Việt Nam) hoàn thành vào khoảng 10.000 năm trước TC…. ”
“…Rằng văn hóa Hòa Bình là văn hóa bản địa không hề chịu ảnh   hưởng của bên ngoài, đưa tới văn hóa Bắc Sơn (Việt Nam)… ”
“… Rằng miền Bắc và miền Trung lục địa Ðông Nam Á có những văn hóa tiến bộ mà trong đó đã có sự phát triển của dụng cụ đá mài láng đầu tiên của Châu Á, nếu không nói là đầu tiên trên thế giới và đồ gốm đã được phát minh…”
“…Rằng không phải là sự thuần hóa thựt vật đầu tiên như ông Sauer đã gợi ý và chứng minh mà thôi. Mà còn đi xa hơn, nơi đây đã cung cấp tư tuởng về nông nghiệp cho phương Tây. Và sau này một số cây đã được truyền đến Ấn Ðộ và Phi Châu. Và Ðông Nam Á còn tiếp tục là một khu vực tiền tiến ở Viễn Ðông cho đến khi Trung Quốc thay thế xung lực này vào ểưa đầu thiên niên kỷ thứ 2 tr TC tức khoảng 1500 tr TC.”
(Nửa đầu thiên niên kỷ thứ 2 tr TC tức khoảng 1500 sau khi Mông Cổ chiếm lục địa Trung Hoa non 1500 năm.)

Như đã nói trên, Trung Quốc thừa hưởng văn hóa nông nghiệp phát triển nhờ dân Bách Việt còn lại trên hoa lục. Chính nhờ sự phát triển của những sắc dân Bách Việt này mà Trung quốc rộng lớn có đủ tư cách thay thế xung lực phát triển nông nghiệp Ðông Nam Á vào khoảng năm 1500 tr TC. Như vậy chứng tỏ chính dân Bách Việt tức Việt cổ dạy Tàu nông nghiệp chứ không phải ngược lại như Trần Trọng Kim đã viết trong Việt Nam aư3 Lược.

Chúng ta phải xúc động trước những lập luận rất vô tư, công bằng và rất khoa học của Solheim II, cũng như rất xúc động trước nắm gạo bị cháy dở hóa thạch đã tìm thấy ở Ðồng Ðậu Vỉnh Phú có niên đại 5.500 năm trước TC tức cách đây 7.500 năm (C14). Nắm gạo cháy dở của thời phát trịển trồng lúa nước nầy cũng chứng minh cho chúng ta rằng lúa nước đã được trồng từ rất lâu không ai biết được trước lúc nắm gạo bị cháy như ông Sauer đã cho rằng lúa nước đi đôi với nghề đánh cá.

Những sự kiện trên đây đã được công bố lên thế giới từ lâu. Với C.O.Sauer chẳng hạn trong quyển “Agricultural Orgins and Dispersals, New-York- 1952 “, với Wilhelm G. Solheim trong quyển “Southeast Asia and the West. Science vol. 157, 1967, p.899 “. Ít nhất là trước thời gian mà ông Trần Văn Tốt xuất bản quyển Introduction à lart ancien du Việt Nam bằng tiếng Pháp năm 1969. Chúng tôi nói ngay mặt ông Trần Văn Tốt rằng một trong các văn hoá tiền sử Việt Nam, văn hóa Hòa Bình của Việt Nam không phải là đứa con nuôi, con vay mượn, con hoang, hay con mồ côi, nó chính là con đẻ của văn hóa Sơn vi kéo dài từ rất xa xưa có thể lên đến 500.000 năm đến 25.000 năm tr TC. Thường người ta lấy một niên đại tượng trưng gần nhầt là 30.000 năm làm mốc trung gian. Và để tiếp tục cuộc đời, văn hóa Hòa Bình đã dẫn đưa nhanh chóng đến một nền văn hóa nổi danh thế giới của Việt Nam là văn hóa Bắc Sơn. Và từ văn hóa Bắc Sơn đến các nền văn hóa Quỳnh Văn, Bầu Tró, Hoa Lạc, Phùng Nguyên, Gò Mun, Ðồng Ðậu và cuối cùng là Ðông Sơn.

Sự liên tục của các nền văn hóa luôn được duy trì bằng những chứng minh cụ thể. Thật vậy các nền văn hóa Việt Nam cổ ngày càng được tìm thấy là có những bước tiến mạnh mẽ, những nét phát triển huy hoàng. Mãi cho đến thời Bắc thuộc lần thứ I thì, văn hóa Ðông Sơn nước ta, bắt nguồn từ thời tiền sử, bị ngưng hẳn.

Chính giặc Mông Cổ là những người đã xâm lăng các nền văn hóa tiền sử và sơ sử Việt cổ từ trên đất Trung Nguyên cho đến Việt Nam. Họ lấy hết cả, vừa đất đai, vừa công trình, vừa công cụ, vừa con người, vừa những người thợ tài giỏi Việt cổ đem về Tàu để phát triển nên nền văn hoá siêu việt của Trung Hoa sau này.

Ðồng thời cướp lấy, họ phá hoại, họ cấm cản mọi sự phát triển văn hóa địa phương của kẻ bị trị : trong suốt non 1000 năm đô hộ, họ đã cố tâm cướp đoạt, hủy hoại, cấm đoán, dìm dập và dấu diếm tất cả mọi vết tích, mọi hình thức phát triển của văn hóa lịch sử Việt Nam. Lòng đất đã được phơi bày mọi sự thật Chính sách vở và các học giả Trung Hoa hiên đại cũng đã nhìn nhận những sự thật trên.

Văn hóa Việt Nam bị tê liệt, bị biến mất do xâm lăng và cướp giật của Trung Quốc. 1000 năm quá dài, con cháu không được truyền đạt, nên dần dà người Việt Nam tự cho là mình đã được người Tàu khai hóa như các sử gia Trần Trọng Kim và Ðào duy Anh nói trên, thật là hổ thẹn với tiền nhân thay!!

Từ rất sớm, năm 1932, tại Ðại Hội Nghị Quốc tế của các nhà khảo cổ tiền sử học Viễn đông, vấn đề văn hóa Hòa Bình nước ta đã được xác nhận một cách chính đáng. Vấn đề thực tiễn là nền văn hóa Hòa Bình có mặt trên toàn thế giới. Nhưng điều quan trọng ở đây là nền văn hóa này đã được tìm thấy ở Việt Nam sớm hơn đâu cả, nghĩa là có trước những nơi khá trên thế giới và tìm thấy ở Hòa Bình một làng nhỏ Việt Nam, ở vào một thời gian xa xưa nhất (cách đây trên 16.000) đối với các nơi khác trên thế giới.

Ðiều nầy có nghĩa là người Việt cổ tại Hòa Bình Việt Nam đã có làm nên nền văn hóa Hòa Bình trước nhất trong nhân loại. Nói một cách khác, người Hòa Bình trên đất Việt Nam đã có một thời văn minh xưa nhất thế giới, đó là sự thật mà khoa khảo cổ học thế giới minh chứng và xác quyết. Thế nên khảo cổ học thế giới đã lấy tên của một làng quê Hoà Bình Bắc Việt đặt tên cho nền văn hóa này gọi là văn hóa Hòa Bình cho toàn thế giới (xem Encyclopédie d’Archéologie).

Thế là Hòa Bình tại Việt Nam đã được coi là trung tâm văn minh tiền sử đầu tiên của nhân loại về nông nghiệp lúa nước và về công nghiệp đá. Chẳng những nền văn minh tiền sử này ngang hàng với Trung Mỹ và miền Lưỡng Hà về phương diện kỹ thuật. Một điểm rất đáng hảnh diện là “Hòa Bình đã được thế giới xác nhận là trung tâm phát minh nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp cùng chăn nuôi gia súc đầu tiên trên thế giới”. Trung tâm nông nghiêp cùng chăn nuôi đầu tiên trên thế giới tại Hoà Bình Việt Nam đã có trước vùng Lưỡng Hà đến 3000 năm. Như vậy thì còn điểm nào nghi ngờ rằng nơi nào “nhập cảng” nơi nào!.

Hòa-Bình, trung tâm văn minh nông nghiệp đầu tiên của nhân loại trên thế giới, để rồi từ đó nền văn minh trên được lan tràn khắp vùng Ðông Nam Á: Trung Quốc, Nhật Bản, Mả Lai, Thái Lan, Ấn Ðộ v.v…? Mà ở Hòa Bình là nơi sầm uất, giàu thịnh hơn đâu hết và đã có vị vua Viêm Ðế (vua nóng tượng trưng cho mùa trồng trọt), Thần nông là người đã nghiên cứu dạy nghề nông và được tôn sùng như một vị vua, và có bà Nữ Oa là người đã nghiên cứu thời tiết nắng mưa, cùng các ngày lễ, ngày Tết phù hợp với mùa màng và sự nghỉ ngơi của người nông dân sau khi mùa đã thâu hoạch. Bà Nữ Oa đã nghiên cứu thời tiết lúc gieo, lúc cấy, lúc gặt, mà dạy dân làm ruộng không thất mùa. Vì thế dân gian coi bà Nữ Oa như một vị thần linh có khả năng ” lấy đá vá trời”.

Văn hóa tiền sử nước ta đã thu hút thế giới vào văn hóa Hòa Bình. Một trung tâm kinh tế sản xuất đầu tiên trên thế giới. Một trung tâm kỹ nghệ đá đầu tiên của nhân loại, trước rất xa văn hóa Lưỡng Hà và Trung Mỹ (Mexico hiện tại) đến cả 3 thiên niên kỷ. Bước tiến này nhảy vọt mạnh với văn hóa Hòa Bình, có lẽ một phần cũng nhờ ở biến cố thiên nhiên là trận Ðại Hồng Thủy thế giới đã ẻay ra thời văn hóa Hòa Bình (sẽ nói rõ sau). Nói chung đó chỉ là một suy luận, nhưng thật chất là đã có sự phát triển liên tục và rõ ràng từ văn hóa Sơn Vi đến Hòa Bình.

Tiềm lực của văn hóa Hòa Bình là càng ngày càng đưa con người thích nghi nhu cầu sự sống với một cố gắng như là một cuộc cách mạng. Ðó là cuộc cách mạng sinh sống bằng kỹ nghệ sản xuất công cụ để bán đi khắp nơi cho thợ đá. Và dụng cụ nông nghiệp đá cho người dùng. Với nhu cầu sản xuất nông nghiệp mới nầy, tất nhiên kỹ nghệ đồ đá phải phát triển. Văn hóa Hòa Bình là văn hóa đá giữa, nên nó có một ảnh hưởng sâu rộng về nghệ thuật đá mới. Vì chính nơi đây, Hòa Bình, trên đất nước Việt cổ, là điểm phát xuất ra những nền văn hoá thuộc nền cách mạng đá mới của các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Philippine, Indonêsia, Mã Lai và cả miền Ðịa Trung Hải v.v… Chính vì vậy, Việt Nam chính là trung tâm cách mạng sản xuất đá mới đã được thế giới khẳng định.

Có rất nhiều tầng văn hóa của các nước trên thế giới thuộc văn hóa Hòa Bình nhưng trẻ trung hơn, tức ra đời sau hơn nhiều, so với Hòa Bình, đã được nghiên cứu đến và đều được qui về văn hóa Hòa Bình. Thế giới đã khẳng định rằng trong những nền văn hóa ấy không hề có thuật chế tạo đá sỏi như ở Việt Nam.

Thời gian, thời tiết và mưa nắng đã làm tan vỡ rồi bào mòn và tẩy sạch những tảng đá lớn. Hạt nhân đá còn lại có độ cứng rất cao gọi là đá sỏi hay đá cuội. Chế tạo những hòn đá cứng này rất khó khăn. Nhưng người ta cần những rìu đá, búa đá, dao đá bằng đá sỏi mới có thể ảan xuất ra những rìu, búa, dao, cày đá bằng đá tảng mềm hơn cho người nông dân.

Ghè đẻo trên đá sỏi cứng rất khó, nhưng rất cần thiết. Vì những công cụ bằng đá sỏi cứng dùng để chế ra các công cụ đá tảng dễ ghơn. Chỉ ở Hòa Bình mới có nghệ thuật chế tác đá sỏi cứng, với số lượng rất cao, dùng để bán đi khắp nơi cho thợ đá chế tạo những dụng cụ bằng đá.

Thợ đá dùng công cụ đá sỏi cứng của Hoà Bình mà chế tác các dụng cụ nông nghiệp đá tảng mềm hơn đá sỏi. Khắp nơi trên địa cầu có rất nhiều học trò về chế tạo đá của các bậc thầy đá Hoà Bình Việt Nam. Ðiều này chứng minh rõ ràng là chỉ trong nền văn hóa Hòa bình tại Việt Nam mới có việc sản xuất công cụ đá cứng cho người thợ đá sử dụng như là dụng cụ chế tạo đá.

Vậy còn ai hoài nghi Hoà Bình không phải là trung tâm đẻ ra nghiệp vụ đá cho nhiều quốc gia trên thế giới. Văn hóa Hoà Bìnhlà một nền Văn hóa cách mạng ra đời trước văn hóa Bắc Sơn, và như trên đã nói, lẽ dỉ nhiên trước Ðông Sơn rất lâu, ít nhất đến cả từ 6.000 đến 8.000 năm.

Và chính Hòa Bình là mẹ đẻ ra nền văn hóa nổi danh Bắc Sơn và sau èay là văn hóa Ðông Sơn rực rỡ huy hoàng. Văn hóa Ðông Sơn kéo dài cho tới khi Tàu qua chiếm nước ta lần đầu tiên thì ngừng hẳn. Ðiều này chứng minh rõ ràng Tàu đã đến cướp mất, phá hoại, cấm chỉ sự phát triển văn hóa của nước Việt cổ. Rõ ràng cũng nhờ cướp bóc lỏi cốt văn hoá Bách Việt cộng với sự giàu mạnh của cải và quân lực mà văn hóa Trung Hoa tiến nhanh sau này.

Trưng Vương là người Việt là một người đàn bà đã dành được độc lập cho Việt Nam đầu tiên trong thời gian rất ngắn ngủi (xem hình theo sử Tàu)? Tuy nhiên con số 3 năm là do Tàu xuyên tạc và buộc dân Việt phải nghe theo, ai nói khác là bị tội. Sử gia Trần Trọng Kim cứ dựa theo đó mà sao chép lại mà thôi, như trường hợp của Trần Văn Tốt nói trên.

Sự thật là nguyên bà Trần Thị Ðoan là một nữ tướng, vợ của quan lạc tướng Trương Man Thiện ở đất? Mê Linh, giòng dõi Hùng Vương. Vợ chồng ông Man Thiện, song thân 2 chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị (tên thật là Trương Nhất và Trương Nhì. Trước mắt chúng ta nhất nhì là chữ Hán. Nhưng tên hai bà Trưng cho chúng ta thấy rất có thể chữ hán có nguồn gốc trong chữ bách việt, rồi sau đó trở lại chữ Việt có nguồn trong chữ Hán. Chẳng khác nào chữ Anh có nguồn gốc trong chữ Pháp hay La Tinh, rồi chữ Pháp và La Tinh lại có nguồn gốc từ chữ Anh ngày nay) đặt bản doanh ở đất Phong Châu nơi mà văn hóa Ðông Sơn vẫn âm thầm tồn tại, cùng hai con gái nổi lên chống Tàu từ nhiều chục năm về trước. Chồng mất sớm, bà Man Thiện cùng 2 con thay quyền (xem hình chụp sách Hậu Hán Thư).

Nguyên từ trước gia đình bà Man Thiện Trần Thị Ðoan có mối thù truyền kiếp với gia đình Ðặng Thi Sách là người rất hùng dũng, giòng dõi Sơn Tinh ở làng Chu diên, giòng giỏi này cũng chống Tàu. Bà Man Thiện bèn tìm kế cởi bỏ hận thù để liên minh chống giặc. Bà đặt con gái trưởng là Trưng Trắc làm thống soái. Rồi cho Trưng Trắc kết duyên với Thi Sách để cùng liên minh. Khi lâm trận Thi Sách bị giết, Trưng Trắc một mình phải thống lãnh luôn 2 đạo quân của mình và của chồng nên thanh thế bà rất mạnh, nơi nơi đều lần lượt đến hợp tác.

Vì thế nếu chúng ta cứ gọi Trưng Trắc đánh Tàu là vì thù chồng là sai lầm trầm trọng và oan cho một vị nữ anh hùng Việt Nam. Bà Trưng cùng mẹ chống Tàu từ thuở còn niên thiếu vào những năm 20, 22 sau TC. Ðến năm 30 sau TC, tuy còn trẻ bà qui tụ được nhiều anh hùng nam nữ. Trong thời gian dấy nghiệp, và trong phạm vi cai trị của bà Man Thiện Trần Thị đoan, văn hóa Ðông Sơn đã có phần phục hưng khá mạnh. Chính dân quân của bà Man Thiện, rồi đến sau là của Trưng Vương tự rèn lấy gươm giáo, tự đúc lấy trống đồng mà dùng và đem tiếp tế cho những bộ tộc Bách Việt khác theo bà. Ðó cũng là lý do khiến các bộ tộc Bách Việt đều kính nể và qui về một mối với Trưng Vương.

Nền văn hóa Ðông Sơn dưới thời Trưng vương tuy âm thầm và ngắn ngủi nhưng tính ra có đến trên 100 năm, vì nó tiềm ẩn trong rừng sâu núi cao. Nền văn hóa này được gọi là nền văn hóa Ðông Sơn phục hưng. Ðiều này cũng chứng minh trong mọi hoàn cảnh tiềm lực nghệ thuật của người Bách Việt mang một tính chất bất khuất, nhân gian và liên tục. Âu đây cũng là đức tính mà Trưng Vương đã truyền lại cho con cháu vùng Hà Tĩnh Nghệ An và sau này truyền đến Quảng Bình, Quảng Trị Thừa Thiên v.v… vậy.

Về sau lúc có độc lập dài lâu, văn hóa thời Lý, Trần cũng đã dần dần trỗi dậy, nhưng so với văn hóa Ðông Sơn thì còn kém xa. Như thế thì thấy nạn xâm lăng tai hại cho văn hóa dân tộc biết bao!

Thật vậy, nhờ vào khảo cổ học mà mọi bí ẩn của tiền sử đã được làm sáng tỏ. Và thế giới đã công nhận Việt Nam, tiêu biểu là văn hóa Hoà Bình mà tên tuổi đã được “thế giới hóa” (Encyclopédie d’Archéologie), đã được thế giới xác nhận là nơi có một nền nông nghiệp lúa nước và công nghiệp đá xưa nhất thế giới.

Có thể vì văn hóa Hòa Bình nằm vào thời điểm của trận Ðại hồng thủy cách đây từ 17.000 năm đến 6.000. Cuộc Ðại Hồng Thủy này bao gồm cả thế giới, theo đó chắc nó ăn khớp và trùng hợp với cuộc Ðại Hồng Thủy đã được diễn tả trong Cựu Kinh Ước của đạo Do Thái và Ðạo Công Giáo. Vì vậy theo khoa học, rõ ràng trước và sau Ðại Hồng Thủy loài người đã có mặt thậm lâu trên miền Ðông Nam Á, mà quan trọng là tại Việt Nam.

Sau vụ đại hồng thủy này, nơi trên thế giới nguy hại nhiều nhất, chính là Lục Ðịa Ðông Nam Á. Vì một phần đất lớn của miền này đã sụp xuống biển, mở rộng thêm Thái Bình Dương. Xét theo thềm lục địa Ðông Nam Á, các nhà khảo cổ nhận thấy Ðại Hồng Thủy lên và lui rất chậm chạp, vì thế không xảy ra tai nạn chết ngừơi tập thể.

Và như vậy số người đã sống trên bình nguyên Ðông Nam Á cu mà nay là biển đã di tản nguyên vẹn ra khắp các lục địa Ðông Nam Á, và Úc Châu còn lại. Có lẽ đó là lý do chính của sự hỗn hợp nhiều chủng tộc trên miền Ðông Nam Á.

Phần đất còn sót lại sau Ðại hồng thủy trở nên quá ít đối với số dân sống bằng hái lượm trước kia. Do đó vấn đề cần thiết cho sự sinh sống của người Ðông Nam Á mà trong đó người Bách Việt cổ là căn bản là đi tìm thức ăn. Người Bách Việt cổ đã di tản lên chốn cao nguyên tức là lục địa Bách Việt cổ mà nay là miền Nam Trung Hoa và đồng bằng Bắc Việt và thẳng đến miền duyên hải Trung Việt (vùng Quảng Trị Quảng Hóa tức là Thừa Thiên).

Người Việt cổ bắt buộc phải nghĩ đến cách làm tăng số lượng thực phẩm cần thiết để sinh sống mà trước đây họ chỉ cần tìm thấy dễ dàng trong thiên nhiên. Ðây có lẽ là nguyên nhân phát triển nghề nông của các chủng người đã di tản đến Ðông Nam Á mà chủ yếu là Việt Nam cổ.

Trên đây tôi đã dẫn những cứ liệu lịch sử về văn hóa Hòa Bình với mục đích xóa tan những luận điệu và nhận xét sai lạc của thực dân Tây và Tàu; đồng thời cũng để trình bày một cách tương đối sơ lượt, một khía cạnh nào đó sự nghiệp lớn lao của tổ tiên chúng ta: hiện tại thế giới đã công nhận rằng nước Việt Nam chúng ta đã có một nền nông nghiệp lúa nước và một nền công nghiệp đá đã từng phát triển rực rở và xưa nhất thế giới.

Vậy mà bao nhiêu trăm năm nay đất nước chúng ta phải tea3i qua biết bao gian truân, đói khó, xâm lăng, huynh đệ tương tàn. Ðến nỗi con cháu mờ mịt cả mắt mũi không còn thấy gì về tiền nhân, không còn biết gì đến công lao tổ tiên. Ðồng thời con cháu cũng đã để ngoại bang hiểu lầm về sự nghiệp của các Vị. Vậy mà hiện tại người dân Việt phải đói khổ, phải nghèo nàn, phải đau thương, phải chậm tiến một cách man rợ. Thật là một điều vô cùng tủi nhục cho thân phận con người Việt Nam.

Thôi thì, tục ngữ ta vốn có câu “Mấy ai giàu ba họ, mấy ai khó ba đời”. Ngày xưa vinh thì ngày nay nhục vậy. Ðối với Trung Hoa hay ít lắm là với Nhật Bản, Ðại Hàn, Thái Lan, Ðài Loan… Việt Nam tệ lắm là ở địa vị ngang hàng, chúng ta trở thành thua kém xa vời thì nỗi nhục ấy quả nhiên là lớn lao. Chúng ta lại phải di tản sống lưu vong trong nhiều quốc gia có những nền văn minh khoa học và xã hội vượt bậc.

Vậy, chúng ta chỉ còn cầu mong hết nhục ắc sẽ có ngày vinh quang. Chúng ta hãy đầy lòng tin tưởng cho ngày mai. Sau cơn sáng trời lại mưa, thì ắc sau cơn mưa trời lại sáng. Chúng ta phải tin tưởng như vậy. Chúng ta sẽ không tự mãn hả hê trước những thành tựu về học hành thi cử hay nghề nghiệp của con em trên đất khách. Vì đó chỉ là chuyện đương nhiên, mà trái lại chúng ta phải tự kiểm điểm những thiếu sót, những mất mát lớn lao cho thế hệ trẻ về phương diện văn hóa dân tộc.

Chúng ta phải có bổn phận vun trồng mầm móng văn hóa Bách Việt nước nhà lên lòng non dân tộc hải ngoại. Ðó tất nhiên phải là điều khó khăn, chúng ta có thể bỏ công lao mồ hôi nước mắt, nghị lực thời gian làm việc hữu ích cho hậu duệ chúng ta; hơn là ngày đêm ganh tương tị hiềm, kình địch, châm biến, chia rẽ, đua nhau bịa đặt bôi nhọ kẻ nào có gì hơn mình chút đỉnh. Những hành đông đó chẳng những đã biến dần dân lưu vong thành một sắc dân mất gốc vô văn hóa, vô tổ tiên, mà còn biến một số người Việt đông đúc kém cỏi về kiến thức văn hóa Việt Nam (mặc dầu có khoa bản, bằng cấp ngoại quốc cao, hay tiền bạc nhiều) lưu vong thành man di đúng như suy luận của người TrungHoa.

Các dân tộc khác như Trung hoa, Nhật Bản, Do Thái… Họ mang tinh thần đoàn kết với nhau bảo tồn và xây dựng lại nền văn hóa dân ịôc đi tiền phong khó khăn vất vả cho đến đạt mục đích thiết thực và họ đã thành công huy hoàng. Các dân tộc ấy là những tấm gương sáng giúp chúng ta trong nỗ lực làm phát triển văn minh tinh thần tức văn hóa truyền thống của tổ tiên Việt.

Niềm tin sẽ trở nên hiện thực hay không trong một ngày mai hậu gần gũi cũng do ở những hành động sâu ẩn trong mối ưu tư văn hóa dân tộc của mỗi một người trong chúng ta. Ðể cầu chúc cho bước tiến văn hóa ở tương lai gần của dân Việt, chúng tôi xin kính hiếu chút tình cảm lên trước bao công trình của tổ tiên chúng ta suốt từ thời tiền sử đến nay. Chúng tôi xin mượn câu nói của nhà văn hào Jean Valery: “Hỡi tâm hồn cao cả, đã đến lúc mà Người cần được mặc chiếc áo xinh đẹp xứng đáng với cơ thể của người.”

Bác sĩ – Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh

Nguồn: An Việt Toàn Cầu