Linh Mục Phê Rô TRƯƠNG BÁ CẦN NỖI NIỀM BIẾT TỎ CÙNG AI
Xin đọc để rộng đường tham khảo về Linh Mục Phê-Rô Trương Bá Cần.
***********************
Linh Mục Phê Rô TRƯƠNG BÁ CẦN Nỗi miền biết tỏ cùng ai
Linh mục Phê rô Trương Bá Cần, nguyên Tổng tuyên uý Thanh Lao Công, đã vĩnh viễn ra đi.
Nhìn lại cuộc đời và sự nghiệp của ông luôn là một dấu hỏi đối với nhiều người Công giáo Việt
Lúc này, ông không còn có mặt trên thế gian đầy biến động này nữa. Ông đi về nước Chúa hay đến một nơi nào khác, tôi không biết. Tôi nhắc lại chuyện trên không nhằm phê phán ông. Tôi cũng không xét xem những việc ông làm đúng hay sai. Đúng hay sai đó là việc mà ông phải đối diện với lương tâm, ông sẽ chịu trách nhiệm trước Thiên Chúa, Người đã cho ông ơn kêu gọi để trở thành mục tử, mang sứ mạng rao giảng Tin mừng, dọn đường cho Chúa đến.
Tôi thực tâm luôn coi ông là người Thầy, người Cha thân thiết, gần gũi nhưng khó hiểu. Ông đã khai mở cho tâm trí tôi dòng suy nghĩ về thế giới hôm nay, về giáo hội, nhất là về thân phận những con người thấp hèn đang sống cơ cực trên quê hương này.
Tôi đã đến và làm việc ở trụ sở Thanh Lao Công tại số 370 Lê văn Duyệt Sài Gòn vào cuối tháng Năm năm 1972, lúc bấy giờ nhiều thủ lãnh Thanh Lao Công nam bị chính quyền Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bắt bỏ tù. Tại trụ sở Thanh Lao Công nam chỉ còn vài người gồm các anh Nguyễn Ngọc Hà, Hạ sĩ nhất Không quân, Nguyễn Sinh Tiềm, Y tá Thượng sĩ Quân y viện Ngô Quyền Thủ Đức; các anh Lê Văn Long và Trần Văn Quân là những sinh viên trốn lính; công việc của hai anh sinh viên này là đánh máy và in ronéo tạp chí CHỌN, báo Tin Mừng Hôm Nay và bản tin Thanh Lao Công (đến năm 1974, các anh có đánh máy và in thêm Tạp chí SỰ THẬT do Giáo sư Ngô Văn Ân, Linh mục Trần Thế Luân và tôi chủ trương); Thiếu Uý Phạm Tất Hanh, nguyên giáo viên Trường Sinh ngữ Quân đội và Chuẩn uý Nguyễn Hãy, nguyên Chủ tịch Liên đoàn Thanh Lao Công Nha Trang, thỉnh thoảng tạt qua trụ sở thăm anh em, đôi khi ngủ lại trụ sở; và tôi là thương phế binh Quân đội Việt Nam Cộng Hoà; ngoài ra, cũng còn có một người cháu trai và vài cô cháu gái của Linh mục Trương Bá Cần từ Bảo Lộc xuống ở nhờ để đi học, kết hợp với việc lo cơm nước cho ông.
Tôi thật may mắn được đích thân Linh mục Trương Bá Cần hướng dẫn việc đọc sách. Những quyển sách phần lớn nội dung viết về Công Đồng Vatican II như Hiến chế Mục vụ trong Thế giới hôm nay, Thông điệp Mẹ và Thầy, Thông điệp Đấng Cứu chuộc Con người, Tuyên ngôn của Đại hội đồng Giám mục Thế giới, Tuyên ngôn và Quyết nghị của Hội đồng Giám mục Á châu họp tại Manila năm 1970…Đó là những quyển sách, những tài liệu mà sau khi đọc xong tôi nhận chân được rằng Giáo hội của tôi đang thực sự hoà nhập vào những hy vọng, lo âu, cùng chia sẻ những nỗi đau của thân phận con người cùng khổ. Đó là những quyển sách gối đầu nằm của tôi. Tôi đã đọc say sưa bất kể ngày đêm. Để am hiểu và đóng góp tích cực cho phong trào Thanh Lao Công, ông đưa tôi đọc quyển Vai trò Tông đồ Giáo dân, Thanh Lao Công và Phương pháp Xem- Xét – Làm. Song song với việc đọc sách, tôi phải đi học đánh máy chữ, sang nhà in Trình Bày học xếp chữ in typo, học tiếng Anh, tiếng Pháp…Ông còn giao cho tôi một công việc mà lúc đó tôi cho rằng quá nhàm chán. Mỗi ngày tôi phải ghi chép vào một quyển sổ khổ lớn tiêu đề các bài báo, tên tác giả viết liên quan đến các vấn đề giáo hội, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục…đăng trên các tờ nhật báo phát hành tại Sài Gòn. Cũng chính công việc này đã cho tôi nhận thức về một xã hội thật sinh động và nhiều biến động trong xã hội lúc bấy giờ.
Một buổi sáng, ông gọi tôi lên phòng của ông để trao đổi về Công đồng Vatican II, đặc biệt về Hiến chế Mục vụ trong thế giới hôm nay, về vai trò của chiến sĩ Thanh Lao Công – chất gây men trong cuộc sống – phải dấn thân vào sinh hoạt cộng đồng và môi trường xã hội…Tôi thẳng thắn trình bày những suy nghĩ, hiểu biết của tôi và đề nghị hướng đi mới cho phong trào Thanh Lao Công ở địa phương.
Sau lần trao đổi đó, ngoài những công việc ở văn phòng, ông giao cho tôi cùng với hai Linh mục tuyên uý là Phan Khắc Từ và Trần Thế Luân đi cơ sở để nắm tình hình hoạt động của các đoàn Thanh Lao Công, cùng sinh hoạt với các anh chị em tại các địa phương như Nha Trang, Cam Ranh, Phan Thiết, Bình Tuy, Căn Cứ II (Long Khánh) và Phước Tỉnh…Linh mục Phan Khắc Từ và tôi thành lập Đoàn Thanh Lao Công mới tại Giáo xứ Tân thái Sơn, Đoàn Học sinh Thanh Lao Công. Đa số các em học sinh sống tại các xứ đạo Vườn Xoài, Tân Phú, Tân Thái Sơn là nòng cốt cho phong trào học sinh lúc bấy giờ. (Hiện nay, nhiều em đã thành đạt ở nước ngoài cũng như ở trong nước). Đồng thời, tôi cùng Linh mục Trần Thế Luân đến Kênh Nước Đen, cù lao Nguyễn Kiệu (Quận 4) tiếp xúc nhằm chuyển hoá các em bụi đời, chích xì ke. (Có nhiều em sau này tham gia tích cực cùng cha Luân xây dựng ngôi nhà nguyện Mẫu Tâm lúc ban đầu chỉ có không đến mười người cho đến ngày cha Luân qua đời (1988) số người theo đạo Công giáo lên tới hai trăm).
Linh mục Trần Thế Luân và tôi hằng năm có đến ba, bốn lần đi sinh hoạt với các Đoàn Thanh Lao Công Nha Trang, Cam Ranh, Phan Thiết, Bình Tuy. Tôi còn nhớ lần đầu tiên đến Nha Trang, cha Luân dẫn tôi đến trình diện đức Giám mục Nguyễn Văn Thuận. Đức Cha bảo chúng tôi xuống báo cơm với nhà bếp, tắm rửa rồi lên gặp Đức Cha. Cuộc gặp ngài hôm đó thật giản dị, ấm cúng và sậu đậm. Ngài dẫn chúng tôi vào một phòng nhỏ, rồi, nhìn lên tượng Chúa chịu đóng đinh, Đức Cha và chúng tôi cùng làm dấu thánh giá dâng lời cầu nguyện. Ngài đọc bài thánh thư của Thánh Phao Lồ rồi diễn giải ý nghĩa của bài Thánh thư. Cha Luân và tôi cùng chia sẻ với ngài tinh thần của bài Thánh thư đó. Chỉ có thế thôi, ngài không bắt buộc chúng tôi phải làm thế này thế kia. Nhưng tôi vẫn cảm nhận lời chia sẻ bài Thánh thư của ngài như một mệnh lệnh, một huấn dụ cho chúng tôi thực thi sứ vụ tông đồ tại giáo phận mà ngài đang đảm nhận.
Hàng quý, Linh mục Phan Khắc Từ và tôi đi công tác tại các đoàn Thanh Lao Công ở Căn cứ II (Long Khánh) và Phước Tỉnh. Đến năm 1973, do Linh mục Phan Khắc Từ xin vào làm công nhân Sở Vệ sinh Đô thành, đồng thời tham gia các tổ chức chính trị như Mặt trận Cứu đói, Uỷ ban Bảo vệ Quyền lợi Người Lao động…nên ít có thời gian đi địa phương cùng tôi.
Cũng trong thời gian Linh mục Phan Khắc Từ đi làm công nhân vệ sinh, tôi có viết một đề án “Thay đổi Số phận Những Người Lượm Rác” và được Linh mục Trương Bá Cần tán thành. Để thực hiện đề án này, tôi đã thực thụ đi lượm rác. Mỗi sáng tinh mơ, tôi có mặt ở bãi rác Thủ Đức, tay cầm hai bao loại 50kg và chiếc cù nèo hoà cùng những người lượm rác tại đây. Sau một tuần lễ cùng lượm rác, cùng ăn cơm, cùng nghỉ trưa tại chỗ như họ, tôi đã tìm được nguyên nhân dẫn đến sự nghèo đói cùng cực của họ. Họ uống rượu như hũ chìm, đánh bài, chơi số đề, con em họ đều không được đến trường…họ thường bị các chủ vựa ve chai, phế liệu thu mua với giá rẻ mạt.
Để thay đổi số phận của những người lượm rác, Linh mục Trương Bá Cần đồng ý cho chúng tôi dùng trụ sở Lê Văn Duyệt thành lập tổ thu mua rác phế liệu, những người đến bán phế liệu đều được cấp thẻ tổ viên để hàng quý được chia lãi. Để tăng thu nhập cho các tổ viên, ông đã cùng tôi đến công trình xây dựng Cư xá Thanh Đa gặp Kiến trúc sư Nguyễn Thiệp xin các vỏ bao xi măng, gặp ông Đức chủ hãng Cogido để thương lượng mua giấy vụn và gặp các Sơ đang công tác tại các bệnh viện Công giáo xin các vỏ bao thuốc và chai lọ…Đến đâu, chúng tôi cũng được sự đồng tình.
Trụ sở Thanh Lao Công những ngày sau đó trở thành bãi phế liệu to đùng, người ra vào và đến làm việc tấp nập. Để tôi không bị chi phối bởi công việc của tổ thu mua phế liệu, Ông và Linh mục Phan Khắc Từ cử thầy Nguyễn Ngọc Vần đang giúp xứ Vườn Xoài sang trông coi.
Cũng nhờ các tổ thu mua phế liệu mà nhiều anh chị em tại các giáo xứ Bùi Phát, Vườn Xoài, Tân Hương, Tân Thái Sơn và một số thanh niên, học sinh khu vực Cống Bà Xếp có việc làm. Nhiều anh chị em đã trở thành nồng cốt cho phong trào Thanh Lao Công như các chị Mai Thị Thìn, Sương, Hoà, Ngọc, Thoa, Hoa, Hà…và các em nam như Hoa, Tài, Sáu…Tất cả các chị em trên đều thuộc hai giáo xứ Bùi Phát và Vườn Xoài. Linh mục Trương Bá Cần cũng đồng ý cho chúng tôi nhận hai em Cu Tý và Bé Xíu mồ côi cha mẹ đang đi lượm rác được đến ở trong trụ sở để chúng tôi bảo bọc, nuôi nấng, dậy dỗ và được cắp sách đến trường như bao trẻ em khác. Một điều không ngờ là sau biến cố 1975, hầu hết giáo dân xứ đạo Tân Hương sống bằng nghề rác phế liệu, nhiều gia đình đã trở nện giàu có nhờ hợp đồng với chủ đất đào bới các bãi rác Mỹ hoặc móc nối với các công ty quốc doanh thầu các hộp carton và nylon phế liệu…
Để được các chủ hãng chấp nhận thu mua rác phế liệu theo hợp đồng, chúng tôi phải làm công tác phân loại và đóng gói rác. Bao nylon phải được giặt sạch đem bán cho các hãng chế biến phế liệu mà không phải qua trung gian đầu nậu. Lần chia lãi đầu tiên các tổ viên đều nhận được một khoản tiền khá lớn, nhiều tổ viên tâm sự với tôi là trong cuộc đời chưa bao giờ họ cầm số tiền lớn như vậy.
Nhằm thay đổi số phận những người lượm rác, thầy Vần và tôi soạn nội quy và điều lệ cho các tổ viên. Nội quy chú trọng đến các tật xấu mà họ phải bỏ như: không được uống rượu say sưa, không được đánh bài, không được ghi số đề…ai không biết chữ phải đến trụ sở mỗi tối (trừ thứ Bảy và Chủ nhật) để học cho đến khi biết đọc, biết viết. Chúng tôi nhờ các tổ viên đang học Trung học làm thầy, cô giáo đứng lớp. Tổ thu mua phế liệu phải ngừng hoạt động do ngày 30-4-1975, trụ sở bị một trung đội bộ đội đến chiếm đóng. Thầy Vần cùng các anh chị em trong Ban điều hành tổ phải chuyển về 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Văn phòng Đại diện Địa phận Vinh do Linh mục Nguyễn Viết Khai quản lý.
* *
*
Hầu như chủ trương, đường hướng phát triển Thanh Lao Công miền Nam Việt
Ngoài ra, Linh mục Trương Bá Cần cũng không được sự đồng thuận của Liên đoàn Thanh Lao Công Nha Trang. Tôi còn nhớ có lần công tác tại Nha Trang, Linh mục René Gautier (tuyên uý Liên đoàn Thanh Lao Công Nha Trang) đã thẳng thắn phê phán cha Cần đẩy phong trào Thanh Lao Công đi quá xa, sai với đường hướng mục vụ. Ông dẫn chứng nhiều thủ lãnh tranh đấu bị chính quyền bắt giam do có người đã vào bưng nhận lệnh của cộng sản. Linh mục Gautier tặng tôi quyển Kiểm Điểm Đời Sống do ngài biên soạn để hướng dẫn các đoàn viên Thanh Lao Công Nha Trang. Tôi đã đọc ngay trong ngày hôm đó và sáng hôm sau tôi trao đổi với ngài rằng, như cha biết đó, Thanh Lao Công được thành lập bởi đức Hồng y Giuse Cardijn, tôn chỉ và mục đích của ngài là huấn luyện tầng lớp công nhân, thợ thuyền đi vào môi trường làm việc bằng đức tin Ki-tô hữu, bằng phương pháp Xem-Xét-Làm. Cha Cần cũng chỉ làm đúng như thế. Còn Cha chú trọng cho đoàn viên sống đời sống tâm linh, đạo đức trong môi trường lao động, điều đó cũng đúng và cũng rất cần thiết cho mỗi người Ki-tô hữu. Tôi cũng nhìn nhận với ngài rằng, chính cha Cần cho tôi biết Đoàn Khắc Xuyên được cán bộ cộng sản sắp xếp đưa vào mật khu Hố Bò gặp Mai Chí Thọ, vì lẽ đó mà chính quyền không trả lại tự do cha anh ta, trong khi đó tất cả các thủ lãnh Thanh Lao Công bị bắt vài tháng sau đều được trả tự do.
Những bất đồng trên chỉ được giải quyết khi Linh mục Fernando, Tổng tuyên uý Thanh Lao Công Quốc tế và anh Sergio, Chủ tịch Thanh Lao Công Quốc tế sang Việt Nam tổ chức cuộc họp bất thường tại 12 Yersin Đà Lạt. Trước khi vào cuộc họp căng thẳng này, anh Sergio, anh Nguyễn Hồi (Chủ tịch Liên đoàn Thanh Lao Công Nha Trang), tôi và vài anh em khác đi uống nước tại quán cà phê Tùng. Tôi cũng thừa nhận với các anh là tại Sài Gòn có một số thủ lãnh và đoàn viên đi quá xa vào con đường chính trị, đó là sự lựa chọn cá nhân của họ, cha Cần không thể cấm họ được. Khi đã biết chắc họ hoạt động cho cộng sản như trường hợp Nguyễn Xuân Phổ đến trụ sở tuyên truyền, lôi cuốn các đoàn viên Thanh Lao Công, ông đã phản ứng và không cho sinh hoạt Thanh Lao Công nữa.
Cuối cùng thì cuộc họp đêm đó cũng đã có những tranh luận thẳng thắn trên tinh thần xây dựng và mọi hiểu lầm được giải toả.
* *
*
Cho đến lúc này tôi thực sự vẫn không hiểu cặn kẽ về ông. Tôi tự hỏi, Ông là người cộng sản chăng? Chắc chắn là không. Nhưng qua một số việc làm của ông và một số linh mục khác như khi đến gặp Đức Cha Nguyễn Văn Thuận đề nghị ngài đừng nhận nhiệm vụ ở Sài Gòn mà hãy về lại Nha Trang, việc chính quyền cộng sản trục xuất Đức Khâm Sứ Toà Thánh năm 1975 hay trong vụ phong thánh năm 1988…
Lần cuối cùng, khi đến thăm ông đang điều trị tại bệnh viện Tâm Đức vào tháng Sáu năm 2009, tôi đã đặt thẳng những vấn đề trên với ông. Ông cho rằng mình chỉ là công cụ của Giáo hội và quê hương; quyền lợi của Giáo hội và quyền lợi của quê hương không thể trái ngược nhau. Bởi vì cả hai đều vì con người và cho con người.
Tôi muốn hỏi ông quê hương nào, của ai. Nhưng đành câm lặng vì sự mệt mỏi đã hiện rõ trên khuôn mặt ông.
Mãi mãi tôi vẫn luôn nhớ về ông, người thầy, người cha thương kính đã giúp tôi trưởng thành trong một xã hội đầy cạm bẫy và chông gai.
Lều Gió, đêm 20 tháng Bảy năm 2009.
Hát cho người nằm xuống
Kính viếng Cha Michel TRẦN THẾ LUÂN
Thơ TRƯƠNG HÙNG THÁI
1.
Tôi đã thấy
quanh cỗ áo quan cha nằm
dưới huyệt sâu
Những khuôn mặt người
cố ngăn dòng nước mắt
Tội đã thấy
những người đàn bà lam lũ
áo sờn vai
Rộng tay quờ quạng
lùa từng miếng đất
xuống huyệt sâu
Tôi đã thấy
những sư cô màu áo vàng
nhiều lần đến thăm cha
thật ân cần
cho đến giờ vĩnh biệt
Tôi đã thấy
người dân cù lao Nguyễn Kiệu
cùng giáo dân nhiều họ đạo
đến dự lễ tang
chật kín nguyện đường Thánh An tôn
Họ cúi đầu tiễn biệt cha lần cuối
Tôi đã thấy điều mới lạ trong tôi
Khi nắp bàn thiên
cỗ áo quan cha nằm khép lại
Tim tôi nhói buốt
Khi tiếng búa gõ
gõ trên mặt hòm
Cổ tôi nghẹn đắng
Khi từng miếng đất đậm tình
ném xuống huyệt sâu
Tôi không thể
không thể ngăn được dòng nước mắt
2.
Cha Michel
Còn đây giòng nước đen
Cùng cảnh đời cơ cực
Nơi cù lao Nguyễn Kiệu
Đếm làm sao hết
Người dân lam lũ
Suốt đời
Cơm không đủ ăn
Áo không đủ mặc
Họ thức khuya dậy sớm
Ôm giá rét vào đông
Cha đến cù lao
Giữa đời sống khó nghèo
Bằng tấm lòng nhân ái
Bằng lương tri người tu sĩ
Cha mở lòng ra cho người cùng khổ
Cha mở lòng ra
cho người trôi sông lạc chợ
cho những em bé bụi đời
không mẹ
không cha
Cha đã chia nỗi đau
cùng niềm bất hạnh
để họ có được một lần vui
3.
Tôi không thể quên ngày, tháng, năm
Đầu thập niên 70
Những dòng đời trôi dạt
Từng cơn lũ người ào ạt trào dâng
Họ đình công
Họ xuống đường
Họ chống chiến tranh
đòi hoà bình
đòi độc lập
đòi tự do
đòi cơm áo
Bươm bướm bay rợp trời
Lời hát vang dậy nơi nơi
Cha góp mặt
Như bao người dân có mặt
Hôm nay có người nói về Cha
– Kìa ông Cha Pin Con Ó
– Kìa ông Cha nằm đường tuyệt thực
– Kìa ông Cha nhuộm đỏ
Nhiều khi nhai đi nhai lại
– Kìa ông cha quốc doanh
Họ đưa mắt nhìn Cha
như có gì ái ngại
Bằng bức tường ngăn cách, Cha ơi!
Còn riêng tôi
Tôi hiểu Cha cách khác
Bởi đã một thời
Tôi kề cận bên Cha
Cùng chung miếng ăn, giấc ngủ
Cùng chia xẻ cay đắng ngọt bùi
Cha ơi, nếu họ nghe được
Lời Cha hằng khuyên nhủ
“Con ơi hãy sống
và cống hiến cho đời
trong tình thương của Chúa
trong tình yêu của Mẹ
đừng tham danh cầu lợi
đừng bao giờ để người
làm chính trị giật dây”
Hôm nay tôi mới hiểu
Vì sao Cha không giải thích
Vẫn âm thầm bên cuộc sống khó nghèo
Bên dòng nước đen
Cùng người dân cù lao Nguyễn Kiệu
Ôi rái tim người
Là lễ hiến dâng
Là ngọn đuốc niềm tin
Cha chọn cho mình
Niềm tin bé nhỏ
Bên ông Ba
bà Hai
Ông Sinh
bên những em bé
đêm Chúa ra đời
nơi nguyện đường Mẫu Tâm
Cha như ông già Noel
Ban phát tình thương
Làm sao tôi quên
Một ngày áng mây vần vũ
chuyển màu đen
Cha nằm trên giường bệnh
Biết bao bà con
Cùng hai em Diệu – Phượng
quên ăn
quên ngủ
cận kề bên Cha
cho đến giờ phút cuối
Làm sao tôi quên
Thánh lễ an táng cử hành
Qua lời giảng ngậm ngùi
Đức Cha Phao-lô nhắc từng câu từng chữ
“Cha Michel là người
không có tham vọng cá nhân
Cha Michel là người
không có ý đồ chính trị”
Ôi, những lời ngắn ngủi
cũng đủ làm cho tôi
rưng rưng nước mắt
Sự thật ơi!
Phải chăng sự thật chỉ có được
khi con người trở về cõi chết
Cha Michel,
đêm Cha nằm xuống
âm thầm tôi đếm hạt mưa rơi
Giữa đêm đông trăng soi lạnh cóng
Đêm Chúa ra đời
Vẳng tiếng thiên thần hát ngợi khen
Bài thánh ca tôi hát mừng Cha
Chan hoà nước mắt
Nghe vọng về mầu nhiệm phục sinh
Sài Gòn, Giáng Sinh 1988
NỖI NIỀM BIẾT TỎ CÙNG AI
Trương Hùng Thái