Tin Văn Thơ Lạc Việt

Lê Văn Hải tóm lược : BA MƯƠI SÁU NĂM QUỐC HẬN (1975 -2011)

 

Thang Tu Den 1.jpg


 

BA MƯƠI SÁU NĂM QUỐC HẬN (1975 -2011)  THƯƠNG NHỚ NHỮNG ANH HÙNG LIỆT NỮ BÌNH THUẬN  ĐÃ HY SINH VÌ QUỐC GIA – DÂN TỘC

MƯỜNG GIANG

                Ba mươi sáu năm về trước, thành phố Phan Thiết sau mấy cơn mưa đầu mùa, đẫm đầy nước mắt, máu lệ và đạn pháo kích của quân Bắc Việt, thêm sự tàn phá ghê gớm của đám đặc công, quân phạm, trà trộn trong đoàn di tản từ Miền Trung về, làm cho tháng 4-1975 mùa hè hoa phượng, không còn thơm nồng trong những trang lưu bút. Khắp nơi, những trận đánh long trời lở đất đã diễn ra hằng ngày, càng lúc càng ập sát Phan Thiết cũng như Sài Gòn. Trong cơn mưa rào nước mắt tháng tư, mọi người ai củng cố dầm mưa, để níu lấy một chiếc giây diều tuổi nhỏ, đang mong manh sắp đứt , giữa cơn bão tố loạn cuồng.

                Năm đó mưa đến sớm bất ngờ theo với tiếng súng nổ. Phía xa trên đỉnh Trường Sơn, lửa đạn cùng với giông chớp làm rung động đất trời. Những người lính trận Bình Thuận, đêm ngày phờ úa với chiếc ba lô và đạn súng, chạy theo cơn lốc giữa đời nhưng không biết rồi đời sẽ đi về đâu, vào những ngày tháng tư lửa loạn.

                Suốt thời tuổi thơ sống ở Phan Thiết, đã quen với màu hoa phượng vỹ ven đường Nguyễn Hoàng dẫn vào lớp học và tiếng ve rên tỉ tê trong mấy gốc vông già trong Lầu Nước, một niềm chờ đợi, một cõi đam mê, một hồn cô đơn trống lạnh. Nhưng sao tháng tư năm đó, màu hoa phương kể cả tiếng ve ran, như đã đổi thay một cách lạ lùng. Bởi vì màu phương không còn là má em hồng thắm mỗi khi e thẹn, còn tiếng ve lại nỉ non rên khóc, khiến cho người lính trận thêm đứt ruột, buồn rầu.

                Những ngày tháng tư, Phan Thiết càng lúc càng thêm cô quạnh, vì một số lớn người thành phố, trong số này hiện diện không ít các cấp chỉ huy quân cán chính có phương tiện, đã nối tiếp di tản về Nam lánh tai ương chiến nạn. Đây là một sự thật não nùng của Ba trăm năm Bình Thuận, một nơi chốn luôn khóc tiển nhưng người đi, bọn nhà giàu sau khi vơ vét đầy bao bố tiền vàng chạy về Sài Gòn lập nghiệp ẩn tích làm sang. Lũ khoa bảng.thành đạt, những kẻ sống nghề cầm ca xướng hát, khi nổi tiếng với đời, cho dù có chôn nhao cắt rún ở dây, cũng vẫn cố chối, vì sợ mang tiếng với thiên hạ, bởi mùi nước mắm, cá mực và rơm rạ nơi thôn ổ, quê mùa. Nên những ai còn lại chắc là người nghèo, nhưng cũng ở lỳ trong nhà vì thời thế không biết đâu mà mò.

                 Khắp nơi, ngoài gió mưa, bom đạn, gần như chỉ còn có những người lính trận, lúc nào cũng nhạt nhòa vì lệ và giọt mưa cô đơn, lăn veo trên hai khóe mắt. Cứ đánh nhau và tiếp tục thay phiên chôn xác đồng đội, đồng bào bạn bè, giữa những cơn mưa sau chiến trận. Thảm nhất là lúc mà cỏ xanh vữa phủ đẹp trên nấm mộ của người lính, thì tháng 5-1975 mất nước, vài ngày sau đó, người chết tử thi chưa rã, đã bị dầy mồ xới mộ để trả thù. Tháng tư, những căn hầm tránh đạn của lính , ngày mưa đêm gió, nước ngập tới võng, khiến cho lính lẫn quan, cứ mở to đôi mắt để mà nghe tiếng nước , từ trời ùa vào hầm sắp ngập tới bụng mình.

                Thân phận của người lính miền Nam là như vậy. Ngoài kia bom đạn của cả hai phía, ác liệt từng giây. Phải cám ơn những giọt mưa đã làm nhạt nhòa nước mắt của người lính, bao chục năm đã sống âm thầm, chịu đựng hy sinh, giữa một xã hội vong ân bạc nghĩa như chưa từng biết đến nỗi đau thương và chết chóc bao giờ.

                Ra đời trong một đêm mưa đại bác, thời gian Pháp và Việt Minh đánh đấm loạn ngầu, ngay trong những đường phố Phan Thiết. Năm 1945 Việt Cộng cướp chính quyền, ba má bỏ thành phố, gánh anh em tôi, giữa cơn mưa chạy loạn. Từ đó cho tới nay, mưa và khói lưa cứ theo tôi hành hạ một đời. Ở đây nơi quê người, vậy mà cũng đã mấy chục mùa mưa đợi chờ thương nhớ.

                 Năm nay tháng tư tuổi già, nhưng mà hồn sao vẫn cứ ngơ ngác , như muốn chực ôm choàng lấy mùa hè, hoa phượng . Ngồi trong nhà đếm giọt mưa tí tách, lại cứ tưởng tiếng mưa năm nào, gõ nhịp trên tàu chuối sau hè. Mưa Phan Thiết giống mưa Hạ Uy Di, bất chợt từng cơn đổ như trút nước và ngưng. Nhưng mưa nào cũng buồn, nhất là những ngày tháng tư gợi nhớ, năm nao ngày mưa hò hẹn tình đầu. Năm nay cũng vẫn năm nào, một mình cứ chạy ngược thời gian, trở về tuổi thơ, vẫn còn núp lén đâu đó. Cuối cùng rồi cũng nắm được áo em, đồng đội trong giọt nước mắt cuối đời, khi chuyến tàu ngược đường dỹ vãng, vừa ghé ga Phan Thiết, đúng vào những ngày tháng tư mất nước, của ba mươi bốn năm về trước, mà khóc và cô đơn trong nổi đổi đời..

                Thật thắm thiết biết bao, khi đọc lại những lời tâm sự đầy nước mắt của Đốc sự Phạm Ngọc Cửu, một viên chức hành chánh, đã phục vụ tại Bình Thuận nhiều năm, từ Phó Quận trưởng Hải Long, Trưởng Ty Kinh Tế, Chánh Văn Phòng cho tới chức vụ cuối cùng là Phó Tỉnh Trưởng . Ông viết ‘ Chỉ có những kẻ tự cho rằng mình hoàn hảo, chỉ có những kẻ không làm một cái gì cả, để thấy khả năng mình ở đâu ? Nhưng lúc nào cũng chờ cơ hội để mà phê bình chỉ trích.’. Chính những kẻ này mới ganh tị, phỉ báng và bôi xấu quê hương mình.

                 Ngày nay, trang sử Bình Thuận vẫn còn đó, hồn thiêng sông núi Phan Thành cũng đâu có tan biến, nên lúc nào anh linh của các cán bộ, chiến sĩ, đồng bào bị VC thảm sát oan khiên hay gục ngã khi đối mặt với giặc thù .Máu của họ đã tưới hồng thêm ruộng đồng, sông núi của quê hương. Tất cả đã trở thành những thiên hùng ca bất tử của quân dân Bình Thuận, cho dù xác thân của họ ngày nay đã tan biến theo cát bụi , vì mồ mã đã bị VC liên tiếp san bằng hay ra lệnh di dời, để lấy đất bán cho Việt kiều, xây khách sạn, sân golf và các tụ điểm du lịch.

“ tháng tư đen, máu xương càng thêm đẩm

giặc tràn về, mở tù ngục, pháp trường

gây kinh hoàng, gieo tang tóc, thê lương

khiến trời đất cũng bôn đào lánh nạn

lính ở lại, lãnh đòn thù, quốc hận

cùng dân đen, chết rục rã, xương khô

xưa lót đường, để ai dựng cơ đò

nay thân xác, bón rừng xanh thêm lá..”

1- 4/4/1975 : BÌNH THUẬN HỔN LOẠN KHI ĐỒN DI TẢN ĐI QUA 

                Sáng mồng một tháng 4-1975, một cuộc họp được coi là lịch sử, đã được tổ chức tại Phòng khách danh dự, trong Tòa Hành Chánh tỉnh, gồm BCH. Hành chánh, Tiểu khu và bảy Quận trưởng. Đây là một buổi họp đặc biệt, mục đích để tìm cách đối phó hữu hiệu với đoàn di tản chiến thuật, từ Cao nguyên và Miền Trung, sắp tới Phan Thiết vì kể từ đêm qua tới nay, Bình Thuận vẫn không hề nhận được một chỉ thị hay câu trả lời ‘ Đã ghi nhận ‘ , chừng ấy thôi, từ BTL SD23BB, QD2,Trung tâm hành quân của Bộ TTM/QLVNCH và Phủ Thủ tướng. Thời gian này, tại địa phương, VC chỉ quấy rối lẽ tẽ nhưng không gây thiệt hại nào đáng kể. Xa hơn, tình hình chiến sự Lâm Đồng, vừa được Trung Tá Tỉnh Trưởng Vương Đăng Phong,cho biết rất sôi động, nhất là tại mặt trận giáp ranh với Quận Định Quán (Long Khánh). Phía Nam, QL 1 đã bị VC bít cứng ở Rùng Lá (Bình Tuy), quân số tập trung cả Quân đoàn, với ý đồ chuẩn bị một trận tấn công khủng khiếp vào SĐ18BB tại Xuân Lộc. Ở Bình Tuy, Đại tá Tỉnh Trưởng Trần Bá Thành, cũng đã lập một nút chặn rất hùng hậu, từ Căn cứ 10, ở Ngả ba cây số 46, chạy tới Thị xã La Gi, với mục đích giải giới Đoàn quân trên.

                Như vậy Đoàn di tản chắc chằn sẽ bị khựng lại và dội ngược về Bình Thuận, chừng đó Phan Thiết sẽ hứng chịu toàn bộ sức nặng này. Để giải quyết một biến động tàn khóc, mà không một thẩm quyền nào, từ Trung Ương cho tới Quân Khu và các Tỉnh Thị đã bó tay, nên các cấp chỉ huy tại Bình Thuận, trong cuộc họp trên, đã đề nghị thật nhiều giải pháp, như nhờ BTL.Không và Hải Quân, yểm trợ phương tiện, chuyển vận đoàn di tản từ Bình Thuận về Nam bằng máy bay và chiến hạm. Laị có những đề nghị có tính cách quân sự, như dùng mìn, đánh sập vài chiếc cầu lớn trên QL1, hay xử dụng pháo binh làm thành hàng rào hỏa lực và cuối cùng là thiết lập một nút chặn tại Cà Ná, ranh giới giữa Quân Tuy Phong và tỉnh Ninh Thuận.

                Nhưng dù có gọi cuộc di tản trên bằng một cái tên nào chăng nửa, thì đối với những người có trách nhiệm tại Bình Thuận, nó cũng được đánh giá như một cuộc tấn công vĩ đại nhất, từ trước tới nay, trong lịch sử chiến tranh của Ba Trăm Năm Miền Biển Mặn. Trong khi đó, không một ai có đủ thẩm quyền bắt nó dừng lại, mà chỉ hy vọng giới hạn phần nào sự tàn phá của nó, để tiết kiệm bớt máu xương của đồng bào, giảm thiểu thiệt hại vật chất, giữ được tinh thần chiến đấu của quân, cán, chính trong tình huống xôi động này.

                Hơn nữa các đối tượng trước mắt, tuyệt đại đa số không phải là địch, mà là một lực lượng vì hoàn cảnh phải di tản chiến thuật. Nên dù không một cấp chỉ huy nào nói ra hay chỉ thị, thì ai cũng phải hiểu rằng nó phải được che chắn an toàn, để tái phối trí, chứ không phải là đoàn quân phản loạn, thật sự chống lại quân Chính Phủ tại Vùng I Chiến Thuật, vào những năm xáo trộn 1965-1967. Do đó,không một ai dám, kể cả Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên vào lúc đó, công khai ra lệnh tàn sát Họ. Cuối cùng, cho dù có ra mặt đối phó, liệu ngăn cản đuợc hay không, trước một lực lượng đông đảo, tuy là ô hợp nhưng cũng đủ xe tăng, đại pháo, quân số và súng đạn để trả thù, tàn sát, tàn phá và cảnh nồi da xáo thịt giữa những người lính cùng chung một màu cờ sắc áo lại tái diễn, chẳng những có lợi cho giặc, mà còn trúng kế bọn Việt gian phản tặc, đám khoa bảng trí thức thân Cộng, đang thấp thỏm theo dõi tình hình từng giây phút, để mà viết bài đăng báo, làm vui đảng và ‘ bác Hồ tặc Nguyễn Tất Thành ‘.Đó là một bài toán nát óc, một sự khó khăn nhất trong cuộc đời quân ngũ, mà đầu tỉnh quyết định trong phiên họp lịch sử hôm nay “ Bỏ Ngỏ Thành Phố Phan Thiết “ suốt thời gian Đoàn Di Tản , đi ngang qua.

                Rồi điều không ai muốn cũng phải làm trong khi đợi chờ. Tất cả đặt trong tình trạng báo động cao nhất. Đối với các Đơn Vị đóng dọc QL1, được lệnh lùi sâu vào phía trong, để tránh tình trạng ngộ nhận, khiêu khích giữa hai phía, và phải trở lại vị trí cũ ngay, để bảo vệ cầu đường thông suốt và ngăn chận mọi sự tấn công, đóng chốt của địch.

                Tại Phan Thiết,bắt đầu ngày 2-4-1975, đã có một số đồng bào và các gia đình cán bộ, công chức, quân đội., hưởng ứng theo lời kêu gọi của Chính quyền địa phương, đã tạm thời thu xếp lánh ra ngoại ô nhất là Phú Hài, Rạng, Mũi Né để tạm lánh nạn. Ty Dân Vận Chiêu Hồi, Đại Đội Chiến Tranh Chính Trị, Tỉnh Đoàn CB/XDNT cùng với Xã Châu Thành Phan Thiết, cũng đã sử dụng tất cả phương tiện truyền thanh, để trấn an và kêu gọi đồng bào bình tỉnh, trước mọi tình huống xấu, để tránh nguy hiểm, thiệt hại tài sản và sinh mệnh. có thể sẽ xảy ra.

                 Quận trưởng Hải Long được giao trách nhiệm, bảo vệ an ninh tỉnh lộ từ Phan Thiết tới Mũi Né, thông suốt 24/24, đồng thời bằng phương tiện sẳn có cùng phối hợp với Ty Giáo Dục và Thanh Niên, Tỉnh Đoàn CB/XDNT.. thành lập các Khu Tạm Trú tại Trường Học, Chùa, Nhà Thờ, Nhà Lều Nước Mắm.. để chuẩn bị tiếp nhận đồng bào các nơi tới tạm trú. Quận Hàm Thuận giữ an ninh tuyệt đối trên QL1, từ Phan Thiết tới cây số 25 giáp ranh với Bình Tuy. Quận Thiện Giáo hành quân, mở rộng vòng đai, hạn chế VC pháo kích về thành phố, gây thêm chết chóc và hổn loạn khi có mặt đoàn di tản.

                Con đường huyết mạch, nối liền Phan Thiết với Phi trường và nhất là Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, đã được BCH. Tiểu Khu bảo vệ chặt chẻ và cẩn mật, để sẳn sàng chuyển vận các nạn nhân đến chữa trị. Ty Y Tế và Bệnh Viện Phan Thiết trên đường Hải Thượng Lãn Ông, hoạt động 24/24, đồng thời cũng lập thêm Hai Toán Y Tế cứu cấp lưu động, thường trực tại Trường Tiểu Học Đức Thắng và Nam Phan Thiết, trên Đại lộ Trần Hưng Đạo, để kịp thời cứu cấp bệnh nhân, khi không thể chuyển vận họ tới được Bệnh viện hay QYV.

                Riêng Ty An Ninh QĐ , Ty Cảnh Sát QG và Phòng 2 TK sẳn sàng đối phó với Đặc Công CS, bọn này đang trà trộn trong Đoàn Di Tản, để kích động, khiêu khích, tạo hổn loạn kể cả đốt phá các cơ sở chính quyền , cây xăng, chợ búa. Riêng Xã Phan Thiết , phải theo dõi bọn trộm cướp, du đảng có tiến án, để ngăn chận kịp thời, bảo vệ sinh mạng và tài sản đồng bào. Ngoài ta Tiểu Khu phải thiết lập ngay Một BCH nhẹ, đóng trên Lầu Ông Hoàng voí hệ thống truyền tin 24/24.

                Cuối cùng Tỉnh cũng đã dự trù kế hoạch dành cho giờ thứ 25, mở lại đường bay Dân sự Phan Thiết-Sài Gòn, ký hợp đồng thuê mướn các ghe tàu đánh cá tư nhân, để sẳn sàng chuyên chở cán bộ và gia đình, kể cả đồng bào khi cần thiết. Tiền thanh toán được rút từ Ngân khoản Khai Hoang Lập Ấp, hiện đang tạm đình chỉ, vì tình hình chiến sự. Ngoài ra Phái Viên Hành Chánh Phú Quý cũng đã chuẩn bị sẳn sàng một đoàn ghe, khi cần thiết sẽ vào Phan Thiết công tác.

                Ngày 2-4-1975, Bộ Tư Lệnh/ Quân Đoàn II lần lượt tan hàng tại Pleiku và Nha Trang., và cuối cùng bị xóa tên, vào lúc 1giờ 45 trưa cùng ngày, qua quyết định của Bộ Tổng Tham Mưu/QLVNCH, sáp nhập phần lãnh thổ còn lại vào QĐIII. Một đêm trôi qua và cuối cùng Đoàn Di Tản cũng đã vào lãnh thổ Bình Thuận. Các Quận Tuy Phong, Hải Ninh nhờ không nằm trên QL1 nên ít bị thiệt hại vật chất. Ngược lại Quận Hòa Đa bị tàn phá nặng nề, từ Phan Rí Cửa, Phan Rí Thành,Chợ Lầu vào tới Lương Sơn nằm dưới chân núi Tà Dôn. Tiệm ăn, quán giải khát, cửa hàng tạp hóa đều bị cướp sạch.

                Tại Phan Thiết, sáng ngày 4-4-1975, hầu như mọi con đường trong thành phố đều tràn ngập các loại xe cộ của Đoàn Di Tản, chẳng khác gì một con quái vật khổng lồ, dài mấy cây số. Hởi ôi công trình ba trăm năm đánh đổi bằng máu xương huyết lệ của không biết bao nhiêu thế hệ, chỉ có một đêm ngắn ngũi, đã bị đốt cháy ngôi chợ lớn (xây năm 1899), nhiều cây xăng, dập phá phố xá thương mại và nhà cửa của dân lành. Nhưng nhức nhối hơn hết, vẫn là cảnh đàn bà, con gái bị hãm hiếp.. ngay trước đám đông, mà không ai dám ngăn cản hay can thiệp, vì Tỉnh dã bỏ ngỏ nên không tìm đâu được bóng dáng của chính quyền.

                Buổi trưa, có hai hỏa tiển 130 ly, từ hướng Xuân Phong,Trinh Tường, pháo vào trung tâm Phan Thiết., làm thương vong một số người. Chừng ấy đoàn di tản mới chịu rời thành phố nhưng lại rơi vào ổ phục kích của VC tại cây số 37 trên QL1. Số còn lại chạy thoát về tới Căn cứ 10, thì bị Tiểu khu Bình Tuy giải giới hết.

                Ngay khi Phan Thiết được giải tỏa,Tỉnh Đoàn CB/XDNT/BT, chỉ thị cho Đoàn CB/XDNT từ Nông trường Sao Đỏ về Trường Nam Tiểu Học, để tiếp nhận hơn 10.000 đồng bào chiến nạn, từ các tỉnh Cao nguyên và Duyên Hải Miền Trung chạy về. Sau đó, số đồng bào trên, đuợc chuyển tiếp bằng GMC, tới các Trại Tạm Cư, vừa được tỉnh thiết lập, dưới rặng dừa xanh, chạy dài từ Đá Ông Địa, tới Trường Tiểu Học Rạng, thuộc Xã Thiện Khánh, Quận Hải Long. Đoàn được tăng cường thêm 10 cán bộ địa phương của Phùng Bửu Hưng,phối hợp với Ty Giáo Dục và Ty Xã Hội dựng lều trại, lập danh sách cấp phát gạo, cá thịt hộp, chăn mền, quần áo cũ, thuốc men và các phương tiện, cho những gia đình muốn về Nam.

2- BÌNH THUẬN : NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG

                Ngày 7-4-1975, sau khi Lâm Đồng bỏ ngõ, quân Bắc Việt từ Di Linh về tấn công Chi Khu Thiện Giáo và Trung Đội Nghĩa Quân,bảo vệ Cầu Ngựa tại Xóm Gọ,đồng thời pháo kích vào TD230 DPQ, để chận đường tiếp viện. Trận chiến thật ác liệt., VC mở nhiều đợt tấn công nhưng đều bị chận tại hàng rào phòng thủ,bởi mìn Claymore, lựu đạn và những khẩu đại liên ở các lô cốt. Trận này, có sự tham dự của hai Đại Đội thuộc TD230, do Đại Uý Tập và Trung Úy Sanh chỉ huy, thêm vào yểm trợ của Pháo Bi nh và Trực Thăng võ trang. Sáng ngày 8-4-1975, VC chém vè, bỏ lại chiến trường 72 xác chết, bên ta có 14 tử thương và nhiều binh sĩ thương nặng.

                Ngày 12-4-1975, VC lại pháo 130 ly vào quận Thiện Giáo, đồng thời chiếm Xóm Động Giá, Phú Long, làm gián đọan lưu thông, trên QL1. Đại Uý Huỳnh Văn Quý, được chỉ định thay thế Thiếu Tá Phan Sang, làm Tiểu Đoàn Trưởng TD 249/DPQ, tăng cường thêm ĐĐ283/DPQ biệt lập của Đại Uý Nguyễn Văn Ba, đã tái chiếm lại được Cầu Phú Long và thị trấn, sau những trận đụng độ ác liệt kinh hồn. Ngày 15-4-1975, VC từ khắp nơi, pháo kích dồn dập vào Chi khu Thiện Giáo. Do trên Tiểu Khu cho lệnh di tản và điều động TD230 về phòng thủ Phan Thiết.

                Ngày 16-4-1975, phòng tuyến Phan Rang vở, trước sự tấn công biển người của mấy sư đoàn và tăng pháo Bắc Việt. Các tướng lãnh Nguyễn Vĩnh Nghi, Phạm Ngọc Sang, Đại Tá Nguyễn Thu Lương.. cũng như hầu hết các sĩ quan trong Bộ Chỉ Huy/Tiền Phương của QD3, đều sa vào tay giặc tại chiến trường, ngoại trừ Tư Lệnh SD2BB là tướng Trần văn Nhựt đuợc HQ đậu ngoài Vịnh Ninh Chữ cứu thoát. Cũng trong ngày, quân Bắc Việt ào ạt theo quốc lộ 1, qua Cà Ná, tiến vào lãnh thổ Bình Thuận. Giờ thứ 25 đã tới, một số quân cán chính Tuy Phong được tàu HQ vớt tại Cà Na.

                 Chiều ngày 16-4-1975, Tiền-đồn Đá Chẹt (Đơn-vị tuyến đầu của TK Bình-Thuận giáp ranh với Ninh-thuận) do Đại Đội 4/248 ĐP của Trung Uý Nguyễn Tấn Hợi, trước sự xuất hiện đoàn xe tăng của CS Bắc Việt, nên đã rút quân về hưởng biển Tuy Phong và được Duyên Đoàn 27 cứu đem ra chiến hạm (HQ503) trong đêm tối.

                 3 giờ đêm 16 rạng ngày 17 tháng 4, đoàn xe tăng trên đã lọt vào bãi mìn chống chiến xa tại Dốc Bà Chá (Xóm Nùng) trên QL1 gần Lương Sơn, do Đại Đội 1. Tiểu Đoàn 212/Liên Đoàn 925 ĐP/Bình Thuận của Đại Uý Vĩnh. Theo tất cả các nhân chứng hiện còn sống sót tại Hoa Kỳ, có 7 chiến xa gồm T54 và PT76 bị cháy hay hư hại nặng. Sau đó VC kéo đi 4 chiếc, 3 xe cháy còn lại hiện nằm tại Lương Sơn (Bắc Bình, Bình Thuận). Trận phục kích này được phối hợp giữa nhiều cấp chỉ huy từ TK,LĐ/TĐ và Đại Đội.. cùng với Phòng 3 Tiểu Khu , chứ không phải là “Trận Đánh Không Có Đại Bàng” mà một tác giả nào đó đã bịa đặt để làm giảm uy tín của các cấp Sĩ Quan QLVNCH tại Tiểu Khu Bình Thuận.                          

                Bắt đầu đêm 17-4-1975, lửa khói đã mịt mù khắp thành phố Phan Thiết. Hải Quân 07 và Hải vận hạm Ninh Giang HQ 403, được lệnh tới bờ biển Phan Thiết yểm trợ hỏa lực và chờ chuyển vận binh sĩ về Nam khi nguy ngập. Lúc 1 giờ chiều ngày 18-4-1975, tăng pháo và đại quân Bắc Việt vào Phú Long, TD249 và DD283 DPQ kể cả Trung Đoàn 6/SD2BB đều rút ra biển. Ác chiến đã xãy ra khắp thành phố Phan Thiết,mãi tới 6 giờ 30 chiều cùng ngày, xe tăng VC , mới chỉ vào tới Cầu Trần Hưng Đạo và đã cố thủ tại các vị trị vừa chiếm được, mà không dám di chuyển tới các nơi khác, vì ở đâu cũng đều có sự hiên diện của người lính VNCH. Đây là một sự thật lịch sử, một hãnh diện của người miền biển và trên hết là cũng nhờ tinh thần chiến đấu dũng mảnh của quân dân tại địa phương, chỉ chịu bỏ quê hương, khi không còn giữ nổi, trong ngấn lệ ngậm ngùi.

                Cùng lúc, chiếc Thiết Vận Xa M-113 bên trong có chở nhiều thùng bạc do Bộ Tài Chánh vừa mới cấp cho Tỉnh vào trung tuần tháng 4, nên chưa kịp phát cho một số Đơn Vị DPQ+NQ, CB/XDNT. Chiếc xe bọc sắt này đã chìm không xa bờ, cách Bãi Thương Chánh, khi lội ra Chiến Hạm và phần lớn tiền bạc đều bị VC tich thu, kể cả số tiền còm của các ngư dân quanh vùng mò tìm được. Chủ ghe đưa Tỉnh Trưởng ra chiến hạm, bị tù và chết trong trại giam, hiện còn người em ruột vượt biên đang ở Bắc CA, là một nhân chứng, xác nhận ‘ Trận đánh nào tại BT, cũng đều có đại bàng ‘ và người lính trận nào của BT-PT nếu có chết, cũng chết trên chiến trường hay trong trại giam khổ sai của Cọng Sản tại khắp miền đất nước, như Tỉnh Trưởng Lưu Bá Châm, Nguyễn Khắc Tuân, Vương Đăng Phong, Huỳnh Ngọc Ghênh, Trịnh Văn Bình.. chứ không chịu nối giáo cho giặc Cộng để chịu nhục trong Tổng Cục An Ninh Quân Đội tại Sài Gòn.

                 Suốt đêm 18-4-1975, các đơn vị DPQ vừa chống cự với VC, vừa rút lui xuống Bến Tàu Kim Hải gần Phi trường. QYV. Đoàn Mạnh Hoạnh, trong giờ phút nguy ngập, cũng chuyển vận được nhiều thương bệnh binh ra chiến hạm.

                Sáng ngày 19-4-1975, hai Phản lực cơ A-37, được lệnh Quân Đoàn III, thả bom đánh xập các cây cầu trên sông Mường Mán nhưng thả lạc mục tiêu, làm hư xập nhiều nhà cửa của đồng bào, trong khu phố Thương Mai, quanh các đường Gia Long, Nguyễn Tri Phương và Ngô Sĩ Liên. Tại Bến Tàu Kim Hải, các Chiến Hạm Hải Quân và Duyên Đoàn 28 đã vớt được gần toàn bộ các Đơn vị DPQ, BDQ,SD2BB và QYV. Doàn Mạnh Hoạch, chở vào Vũng Tàu tối 19-4-1975. Tại Phước Tuy, các đơn vị DPQ + NQ .Bình Thuận, tập họp lại thành Trung Đoàn Bình Thuận

                Tại Phan Thiết , sau ngày 1-5-1975, VC đã sát hại một số lớn Quân, Cán, Chính để trả thù. Ngoài một số anh em bị hạ sát ngay khi kẹt lai, từ 19 tới 30/4/1975, đã có không biết bao nhiêu người khác, đã gục ngã trước đạn súng và lòng thù hận sắt máu cũa giặc sau ngày 1-5-1975. Giờ đây,qua ba mươi sáu năm trầm thống hờn hận, dù đã vật đổi sao dời nhưng những người còn sống,một thời là nạn nhân hay nhân chứng, gia đình hoặc đồng bào địa phương, làm sao có thể quên được những hình ảnh dã man tàn khốc, mà họ đã chứng kiến được, khi VC .BT đã vô lương vô nhân đạo, bắn giết những kẽ ngả ngựa sa cơ..

                Đời lính là như vậy đó, cho nên đâu cần phải là sử gia, nhà văn trí thức,hay những kẻ một thời nắm quyền hành, mới ghi lại được những thảm kịch của chiến tranh. Tôi , một quân nhân tại địa phương, với hơn mười năm quân ngủ, xuôi ngược mọi nẻo đường đất nước, khắp các vùng chiến thuật và ở trong nhiều đơn vị. Nhưng điều vinh hạnh nhất của đời người, là đã cùng với quân dân Bình Thuận, sống trọn vẹn trong 18 ngày cuối cùng của tháng tư đen 1975. Bởi vậy với tôi, tháng tư là một khoảng thời gian kỳ diệu, với những trang lịch sử đẳm máu treo lơ lửng trên đầu, luôn cho người lính già sống sót, môi cảm giác rất xa rất gần, như những người bạn cũ đã nằm xuống hôm qua, giờ chỉ biết nhớ mà không bao giờ gặp lại được.

                Đó cũng là lời giải đáp thắc mắc mà tôi đã đeo đẳng suốt 36 năm qua, là đã không hề nuối tiếc cho bản thân mình, trong đó có gia đình luôn nhận phần thua thiệt, đau khổ vì vẫn sống trong vùng địch đóng..

                Bây giờ như mới hôm qua, những ngày tháng tư lửa máu tại Phan Thiết, xin kính cẩn tưởng niệm những người đã mất. Bổng thấy tâm hôn như chết khựng, không phải vì men rượu, mà là nổi xót xa khi nghĩ tới những cơ cực của miền biển mặn, như đang úa vỡ ở cuối chân trời, trong đó có mẹ, có em, có quê hương gió cát, đang quằn quại trong thiên đàng Xã Nghĩa, không biết bao giờ mới ngoi lên được, để mà làm người.

Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di

Tháng 4-2011

MƯỜNG GIANG

 

 

vietnam080_sJPG_950_2000_0_75_0_50_50.jpg               

 

Chuyện một người chiến binh trong cuộc chiến Bắc Nam.
(nhân đánh dấu 36 năm ngày 30-4-1975)

Trn Bình Nam

 

Tôi có một người bạn tù hồi năm 1975 khi tôi bị giam tại trại Lam Sơn. Trại Lam Sơn là một Trung tâm Huấn luyện của quân đội VNCH tại Dục Mỹ, quận Ninh Hòa, được bộ đội miền Bắc chiến thắng trong cuộc chiến tranh Bắc Nam 1955-1975 tạm thiết lập làm trại tù.

Anh tên là Nguyễn Văn Sơn, nguyên thiếu tá lực lượng Lôi Hổ. Thời gian anh Sơn và tôi ở tù chung một trại không dài nhưng anh đã để lại cho tôi một ấn tượng khó quên. Một mẫu người có phong cách kỳ lạ.

Hình ảnh và tiếng kêu của anh Sơn vẫn còn văng vẵng bên tai tôi suốt 35 năm qua sau ngày chúng tôi chia tay nhau.

Anh được chuyển ra khỏi trại Lam Sơn để bước vào vòng thứ nhì của hệ thống địa ngục lao tù cộng sản. Khi chiếc xe GMC chở tù chuyển trại chạy qua khu trại tôi vào một ngày nóng bức cuối tháng 7 năm 1975 anh Sơn kêu to để báo cho tôi biết anh rời trại. Tôi chỉ kịp nhìn thấy chiếc xe tù chạy qua, cánh tay anh Sơn đưa cao vẫy. Tôi vẫy lại. Rồi biệt vô âm tín.

Thế mà đã ba mươi lăm năm!

Cuối tháng 3 năm 1975 sau khi bộ đội cộng sản vào thành phố Nha Trang tôi bị kẹt lại. Tháng 6 đang đêm công an đến nhà bắt tôi về tội không ra trình diện.

Thật ra tôi có trình diện, nhưng trễ. Biết mình đã nằm trong rọ, tôi cẩn thận theo dõi các thông cáo của Ủy ban quân quản (cơ cấu chính quyền mới ngay sau khi chiếm thị xã Nha Trang) về việc trình diện. Lúc đó tôi là dân biểu thị xã Nha Trang. Gốc sĩ quan Hải quân, nhưng tôi đã giải ngũ từ năm 1971 và không có chân trong bất cứ một đảng chính trị nào tôi đặt mình vào diện “dân cử” và chờ gọi dân cử ra trình diện để thi hành. Không thấy có thông cáo nào gọi dân cử, tôi nằm nhà chờ. Tuy nhiên vì thận trọng, một thời gian sau tôi ra phường Lộc Thọ trình diện. Lấy cớ không ra trình diện công an thị xã ra lệnh bắt.

Đang đêm đại úy công an Nguyễn Văn Linh (trùng tên với ông Tổng bí thư đảng cộng sản sau 1986) trưởng ty công an Nha Trang dùng xe Jeep  dẫn một đoàn du kích đến bắt tôi. Khi đại úy Linh giải thích lý do, tôi trình giấy trình diện. Đại úy Linh hơi lúng túng. Nhưng đoán biết công an đã quyết định bắt tôi, trình diện hay không chỉ là cái cớ, tôi nói sẵn sàng về đồn để cơ quan an ninh làm những thủ tục cần thiết. Cảm thấy thoải mái đại úy Linh bảo tôi mang đồ dùng cá nhân lên xe công an đậu chờ xế cổng nhà. Tôi ngồi băng sau không bị còng tay, bên cạnh là một anh công an mang súng dài. Đại úy Linh ngồi băng trước, súng lục ngang hông với tài xế. Đoàn du kích bao vây quanh nhà tản mác vào đêm tối .

Công an đưa tôi về ty công an thị xã Nha Trang đóng nơi nhà ông giám đốc chi nhánh Nha Trang của Ngân hàng Việt Nam Thương Tín nằm trên đường Duy Tân chạy dọc theo bờ biển Nha Trang. Từ đó công an chuyển tôi lên trại Lam Sơn. Tại đây tôi ở chung trong một trại nhỏ, giống như một căn nhà với Thiếu Tá  Nguyễn Văn Sơn. Trong tổng trại Lam Sơn có hằng mấy trăm căn nhà như vậy.

Từ trại Lam Sơn đang đêm tôi cùng một số tù nhân khác được chuyển về nhà tù Chợ Đầm của tỉnh Khánh Hòa. Sau vài tuần lễ được chuyển về giam tại trại giam tù chính trị cũ (của VNCH) xây phía sau Trung Tâm Huấn Luyện Công chức, cũng nằm trên đường  Duy Tân. Hai ngày đầu tôi bị nhốt vào xà lim trước khi chuyển qua nhốt chung với hơn 80 anh em tù nhân trong một căn phòng chỉ có khả năng chứa khoảng 30 người nằm ngồi. Tại đây tôi gặp ông Khác Chánh Văn Phòng của đại tá Lý Bá Phẩm, tỉnh trưởng Khánh Hòa kiêm thị trưởng thị xã Nha Trang và ông Nghi, trưởng ty hành chánh Thị Xã Nha Trang. Qua hai ông Khác và Nghi tôi được biết đại tá Phẩm cũng đang bị giam riêng trong trại để điều tra cùng với Thiếu Tá bác sĩ Dù Trần Đoàn.

Từ trung tâm này tôi được chuyển lên trại Đồng Găng trong rừng sâu của tỉnh Khánh Hòa. Tôi được trả tự do từ trại Đồng Găng.

Trở lại chuyện Thiếu Tá Sơn. Tôi không quen biết Thiếu Tá Sơn trước khi đến trại Lam Sơn. Chúng tôi chỉ ở chung nhà với nhau vài tuần lễ trước khi tôi  được chuyển qua nhà khác và sau đó Sơn được chuyển ra khỏi trại Lam Sơn .  

Chỉ mấy tuần thôi, chúng tôi quen nhau, thân nhau, tin cậy nhau. Câu chuyện tôi thuật lại ở đây hoặc do Thiếu Tá Sơn kể lại hoặc xẩy ra trong mấy tuần lễ ngắn ngủi đó.

Trước ngày 31/3/1975 (ngày quân đội cộng sản chiếm tỉnh Khánh Hòa) trại Lam sơn là một Trung Tâm Huấn Luyện cấp sư đoàn của quân đoàn 2 có khả chứa hàng ngàn tân  binh hoặc binh sĩ về tái huấn luyện. Các binh sĩ này tạm trú trong những mái nhà tranh đơn sơ dựng cạnh nhau có phên che gió và giường ngủ chồng lên nhau. Lực lượng  cộng sản quản lý trại dùng các căn nhà này sau khi đã tháo phên che và giường chồng bên trong (để dễ kiểm sóat) gọi là “Nhà”, Nhà số 1, Nhà số 2 v.v… để cho các cựu sĩ quan và công chức miền Nam vừa bại trận trú ngụ trong thời gian học tập. Sĩ quan ở riêng. Công chức ở riêng.

Nhà số 10 dành cho một trung đội Dù bị bắt tại đèo Phượng Hoàng thuộc quận Khánh Dương trên quốc lộ nối liền Ban Mê Thuột với Nha Trang qua quận lỵ Ninh Hòa. Đặc biệt nhà số 10 sĩ quan ít mà nhiều lính Dù. Trung đội Dù này đã quần thảo với quân chính quy Bắc Việt trên đèo Phượng Hoàng cho đến phút chót. Trong nhà 10 chỉ có một Trung úy và một Thiếu úy Dù, còn lại là hạ sĩ quan và binh sĩ, và một sĩ quan Lôi Hổ: Thiếu Tá Nguyễn Văn Sơn.

Tôi bị bắt trễ nên khi lên Lam Sơn các dãy nhà đều đầy người, họ nhét tôi vào nhà 10. Tôi nhận thấy hai người sĩ quan Dù rất bình thản và các người lính Dù có vẻ thoải mái như đang được nghỉ ngơi sau các cuộc hành quân. Họ giúp các sĩ quan đào giếng lấy nước, trồng cà chua, ớt, bầu bí v.v… nơi đám đất  bỏ hoang trước nhà. Thiếu Tá Sơn suốt ngày hút thuốc và kể chuyện tiếu lâm.

Thời biểu chính của tù nhân là hằng ngày lên lớp nghe cán bộ giảng 9 bài căn bản. Tôi còn nhớ một số đề tài như “Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”, “Chiến tranh giới hạn” … và học những bài hát  “cách mạng” như “Tiếng chày trên sóc Mambo”, “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”, “Giải Phóng Miền Nam”, “Chiến thắng Điện Biên”…

Tôi không hiểu làm sao và lúc nào tôi và Thiếu Tá Sơn trở nên thân nhau. Hình như Lôi Hổ và Dù không có gạch nối nên hai sĩ quan Dù ít nói chuyện với Thiếu Tá Sơn. Lính Dù thì vẫn giữ khoảng cách với sĩ quan. Có lẽ còn do tính tình. Hai sĩ quan Dù ít nói, trong khi Thiếu Tá Sơn sống để ruột ngoài da. Anh Sơn không quan tâm đến hoàn cảnh. Ông vui sống trong cảnh tù tội và sằn sàng đón chờ mọi chuyện.

Thời gian đó không khí trong trại Lam Sơn còn rất dễ chịu. Người cộng sản có sách vở để xử lý phe địch. Họ áp dụng phương pháp “bảy tầng địa ngục”. Họ không đưa người tù vào ngay tầng dịa ngục cuối cùng. Họ đưa vào tầng nhẹ nhàng nhất ở ngoài và dần dần đưa người tù vào các tầng bên trong khắc nghiệt hơn từng bậc để người tù thích ứng dần và mất ý chí phản kháng.

Trại Lam Sơn,  nơi tù nhân học 9 bài căn bản là vòng đầu của địa ngục. Sau giờ lên lớp tù nhân trở về nhà giam tự do thoải mái trò chuyện với nhau, nấu nướng linh tinh gì cũng được, có thể đi thăm bạn tù ở các nhà khác và chỉ phải tôn trọng giờ đi ngủ và giờ thức dậy. Trước cỗng trại Lam Sơn ban quản trại cho họp chợ bán thức ăn và mọi thứ cần dùng cho tù nhân. Vợ con tù nhân đến thăm bao nhiêu lần một tuần cũng được và tù nhân có tiền (lúc đó tiền VNCH vẫn còn lưu dụng) có thể tiêu xài thoải mái.

Học xong 9 bài là thời  kỳ 2 tuần lễ để viết bản “thu hoạch”, nghĩa là mỗi tù nhân viết bản khai lý lịch, khai báo quá trình làm việc và mọi tư tưởng riêng tư. Trong thời kỳ này ban quản trại mỗi ngày tập họp tù nhân toàn trại một lần động viên tù nhân “thành thật khai báo” để được khoan hồng về với gia đình. Ban quản trại phỉnh các tù nhân rằng họ có hồ sơ từng người không cần khai báo họ cũng đã biết. Thu hoạch chỉ là để đo sự tin tưởng của tù nhân vào “cách mạng”. Thời kỳ khai báo họ để cho tù nhân nhiều tự do hơn và đa số tù nhân tưởng rằng (trừ các sĩ quan và viên chức ở trong ngành an ninh tình báo) sau khi viết xong bản thu hoạch họ sẽ được trả tự do. Tâm lý này làm đa số tù nhân viết rất thật, không dấu diếm ngay cả những gì nghĩ là sai trái mình đã làm, cũng như các công tác quan trọng mình đã thi hành. An ninh cộng sản chỉ cần có thế để phân loại tù nhân đưa vào những tầng trong thích hợp cho từng đối tượng của bảy tầng địa ngục.

Bản thu hoạch của tôi tương đối đơn gỉản nên chỉ cần vài hôm là tôi viết xong. Tôi ở trong quân ngũ 16 năm. Hai  năm tại trường đào tạo kỹ sư hải quân của hải quân Pháp, một năm phục vụ trên chiến hạm như một cơ khí trưởng và 13 năm tại Trường Sĩ Quan Hải quân Nha Trang như một huấn luyên viên và sĩ quan điều hành công tác đào tạo sĩ quan hải quân, trước khi đắc cử dân biểu thị xã Nha Trang và giải ngũ. Thời gian trên chiếm hạm, chiến tranh bắc nam chưa bùng nổ lớn nên chiến hạm của tôi chỉ đi làm các công tác tiếp tế nhỏ. Một chuyến đi tiếp tế địa phương quân canh gát đài khí tượng trên đảo Hoàng Sa, một chuyến tiếp tế cho trại tù Côn Sơn.

Thiếu Tá Sơn cũng không viết gì nhiều. Tôi hỏi, Sơn nói: “Họ nói họ đã biết hết rồi thì còn gì để viết. Tôi viết ngắn gọn rằng tôi là sĩ quan Lôi Hổ, một đội quân được huấn luyện để làm các công tác đột kích vào mật khu Việt cộng, và tôi đã từng giết nhiều cán bộ cao cấp trong các cuộc đột kích. Tôi sẵn sàng trả giá của người chiến bại theo tinh thần thượng võ, không có gì để nói chuyện khoan hồng khai báo lôi thôi.”

Cung cách của Thiếu Tá Sơn là vậy. Hiên ngang như đời sống phóng khoáng của anh. Anh kể rằng anh thuộc một gia đình công giáo sung túc. Bố mẹ muốn anh trở thành linh mục. Anh đã vào đại chủng viện, nhưng chịu không nổi khuôn phép của Giáo Hội để trở thành linh mục, anh rời chủng viện bất chấp sự bất mãn của bố mẹ. Tránh phiền toái và trách móc của gia đình anh thi vào trường sĩ quan bộ binh Đà Lạt. Ra trường anh chọn binh chủng Lôi Hổ để thỏa chí phiêu lưu.

Thiếu Tá Sơn cho biết anh có vợ và 2 con. Chuyện lấy vợ của anh ly kỳ không kém đời anh. Nó là một tình sử của thời chiến tranh. Trách Sơn cũng được mà thông cảm Sơn cũng được.

Chuyện Sơn kể rằng: Sau những ngày đánh trận anh thường lang thang nơi thành phố Nha Trang. Một nữ sinh ở Xóm Bóng lọt vào mắt xanh của anh. Hai người tha thiết yêu nhau và anh quyết định cưới người yêu.

Bố mẹ cô nữ sinh không thuận cuộc hôn nhân vì không muốn con gái ở góa trong thời chinh chiến. Lý do khác là khác biệt tôn giáo. Sơn đến nhà cô gái cho bố mẹ cô gái biết anh không có thì giờ chờ đợi và anh không buộc vợ rữa tội theo đạo Chúa. Anh nói anh đã sắp xếp với nhà thờ và trong vài hôm sẽ mang sính lễ tới xin cưới trước khi đi hành quân. Anh đã thuê một căn nhà trong thành phố cho vợ ở khi anh vắng nhà.

Ngày hẹn, anh đến nhà cô gái với sính lễ đầy đủ trên hai chiếc xe Jeep.  Anh dùng một xe có tài xế. Xe thứ  hai dành cho hai sĩ quan bạn và mấy quân nhân Lôi Hổ tháp tùng. Một đại úy đóng vai đại diện nhà trai làm chủ hôn. Một trung úy đóng vai phụ rễ. Anh Sơn mặc đại lễ trung úy Lôi Hổ, lưng đeo súng ngắn, ngực đầy huy chương.

Biết bố mẹ vợ tương lai sẽ từ chối cuộc rước dâu, anh cho quân nhân mang sính lễ vào nhà như không có chuyện gì sẽ xẩy ra. Anh Sơn và hai sĩ quan bạn theo sau. Thấy  quân nhân trang trọng vào nhà, bố mẹ cô dâu buộc phải ra tiếp (thời chiến tranh, không ai muốn cưỡng lại nhà binh!). Ông bố bình tỉnh hỏi quý vị đến nhà có việc gì. Ông đại úy chủ hôn trình bày lý do. Ông bố tuyên bố ông chưa bao giờ chấp thuận hôn lễ. Đã tính trước, ông đại úy xin được mời cô dâu ra để hỏi ý kiến. Từ trong phòng cô dâu trang phục sẵn sàng bước ra trước sự ngạc nhiên của bố mẹ.

Ông đại úy chủ hôn hỏi, và cô dâu xác nhận biết hôm nay là ngày hôn lễ của cô với trung úy Nguyễn Văn Sơn. Bố mẹ cô dâu nén giận nhưng đành phải để cho con lên xe hoa. Trung úy Sơn giành tay lái, người yêu khóc sướt mướt ngồi bên cạnh. Khóc vì lấy được người yêu hay khóc vì đã làm buồn lòng cha mẹ? Ghế sau hai quân nhân bồng súng ngồi ở thế tác chiến. Sĩ quan chủ hôn và phù rễ lái theo sau. Đám cưới không có phù dâu.

Sau lễ cưới độc đáo của thời chiến tranh, trung úy Sơn chiến trận liên miên. Chị Sơn ở nhà lo tổ ấm. Sau vài năm anh chị Sơn có được hai cháu, một trai một gái kháu khỉnh. Thấy con gái có hạnh phúc với tình yêu chân thật bố mẹ chị Sơn tha lỗi cho con gái, nhận rễ và cho phép con gái và cháu ngoại về ở chung để con gái tránh đơn độc trong những lúc anh Sơn hành quân vắng nhà.

Biến cố tháng Tư đến và trung úy Sơn, lúc này là thiếu tá bị bắt tại mặt trận và đưa vào trại Lam Sơn. Câu chuyện giữa anh Sơn và tôi bắt đầu từ đó.

Cán bộ hướng dẫn nhà 10 của chúng tôi là một hạ sĩ quan quê Bắc Ninh. Anh ta hiền lành và không hống hách như các cán bộ khác. Anh thuộc một đơn vị chính quy quân đội Bắc Việt từng tham dự trận đánh An Lộc trong những ngày đầu của trận chiến sau cùng. Mỗi ngày anh đến nhà chúng tôi làm nhiệm vụ hướng dẫn và thường ngồi xổm trên đất, tay vấn thuốc lá phì phèo hút và kể đủ thứ chuyện về “ngoài Bắc ta” và chuyện chiến trận anh đã trải qua. Anh không tô điểm đời sống “ngoài Bắc ta cái gì cũng có” như các cán bộ khác và kể lại các trận đánh anh không theo luận điệu của trại là “trận nào quân ta cũng thắng”. Chúng tôi trong nhà 10 có nhiều thiện cảm với anh, và trở nên bạo dạn trong những trao đổi với anh.

Một hôm tôi ngồi cạnh Thiếu Tá Sơn nghe anh nói chuyện với anh trung sĩ cán bộ. Thuật lại một trận đánh để giành một vị trí gần Lộc Ninh, viên trung sĩ nói đơn vị anh, mặc dù với quân số áp đảo, đã gặp sự kháng cự mãnh liệt của một đơn vi quân đội VNCH cho nên dù chấp nhận mọi tổn thất nhân mạng đơn vị anh vẫn không chiếm được vị trí. Thiếu Tá Sơn cho biết tiểu đoàn của anh đã được phái đến tăng cường trong trận đánh đó. Sơn nói:

“Đánh đấm với các anh chán bỏ mẹ. Quân lính các anh cỡ tuổi 14 hay 15, trông như con nít, không biết gì khác ngoài việc xông tới, hết lớp này đến lớp khác. Chúng tôi bắn chết, thây chồng chất lên nhau trông vừa thương tâm vừa kinh tởm và có lúc tôi đã ra lệnh cho lính tạm ngừng bắn dù biết chậm một giây là đơn vị có thể bị tràn ngập”

Viên trung sĩ cán bộ nghe và không trả lời. Anh ta chỉ cười nho nhỏ. Vẫn giữ thế ngồi xổm anh xê dịch kiếm lửa châm điếu thuốc đang hút dở vừa tắt. Hình như anh ta chán nản một điều gì.

Chiều hôm đó tôi nói với Sơn: “Chúng ta là kẻ chiến bại. Những gì anh nói với viên trung sĩ cán bộ có thể được báo cáo và người  cộng sản có thể thủ tiêu anh. Khích hay làm nhục kẻ chiến thắng không phải là một cách hành xử khôn ngoan.”

Sơn cười chua chát: “Tôi biết họ và họ biết rõ tôi. Trước sau họ cũng sẽ giết tôi. Tôi nói để họ biết người chiến sĩ VNCH không hèn nhát. Thua, tôi chấp nhận mọi hậu quả, không than van, không than trời trách đất, không đổ thừa cho đồng minh bỏ chạy.”

Thiếu Tá Sơn rất ít nói đến gia đình dù tôi biết anh nghĩ tới và âu lo từng phút từng giây. Có lẽ anh đang dọn mình cho đời sống ở một thế giới khác cùng với người vợ và cũng là người tình duy nhất của anh. Trong khi thân nhân của các sĩ quan và công chức bị bắt tại Nha Trang và các vùng lân cận đến thăm thì không một thân nhân nào của anh Sơn đến thăm anh. Tôi hỏi, anh Sơn nói anh không biết và cũng không muốn đoán biết.  Anh nói anh xem như đời anh đã chấm dứt sau khi đơn vị anh đầu hàng và anh không thể tự vận vì anh là một tín đồ theo đạo Chúa.

Một thời gian vài tuần sau khi mọi tù nhân viết xong bản “kiểm điểm ” nộp ban quản trại, tôi được chuyển sang một nhà khác giam chung với các công chức trong thị xã . Họ đã xếp loại và cho tôi vào thành phần “ngụy quyền”.

Bây giờ không còn chợ trời trước cổng trại Lam Sơn, không còn  những buổi thăm viếng tự do. Nhân một tù nhân lợi dụng giờ ra chợ trốn trại về Nha Trang bị bắt lại, ban quản trại không cho họp chợ nữa. Nhưng bên trong trại các tù nhân vẫn còn được đi lại từ nhà này qua nhà khác thăm viếng hàn huyên. Tôi vẫn thường đến thăm Thiếu Tá Sơn vào những buổi chiều trước giờ cơm chiều. Cơm còn đủ để ăn no với cá vụn và canh rau.

Một buổi chiều đang ngồi trong trại, cạnh con đường đất dùng để xe tuần chạy quanh các khu nhà, tôi nghe tiếng kêu từ một chiếc xe GMC chạy qua nhà tôi: “Anh Sơn ơi, tôi đi đây, vĩnh biệt anh.” Nhìn nhanh ra đường tôi thấy một chiếc xe GMC mui trần chở đầy tù nhân chạy qua. Một người lính cầm súng đứng gát phía sau. Thấp thoáng tôi thấy bóng dáng Sơn đưa tay vẫy, miệng không ngừng kêu “Anh Sơn! Vĩnh biệt anh!”

Đó là hình ảnh cuối cùng của Sơn đối với tôi. Tôi nghĩ Sơn đã bị chuyển ra khỏi trại Lam Sơn.

Nhưng sau khi ra trại tôi nghe phong thanh anh Sơn chưa bị chuyển khỏi Lam Sơn. Anh được chuyển qua một trại khác trong khu Lam Sơn. Có tin đồn rằng anh Sơn tổ chức vượt ngục cùng với vài bạn tù khác nhưng bất thành, một vài bạn tù bị bắn chết, anh Sơn bị bắt lại.

Mấy năm sau tôi vượt biên, và trong suốt hơn 30 năm ở  nước ngoài tôi vẫn ngóng trông tin Sơn. Tôi không nghĩ anh Sơn đã bị giết hay chết trong một trại tù nào đó ngoài miền Bắc. Một người giàu ý chí như Thiếu Tá Sơn không thể chết dễ dàng như vậy. Tôi tin anh vẫn sống và đã ổn định tại một góc trời nào đó trên trái đất này. Nhiều sĩ quan rơi vào những trường hợp nghiêm trọng hơn anh đã được ra nước ngoài theo diện HO.

Hy vọng lớn nhất của tôi là đoản văn này lọt vào mắt anh Sơn hay bạn bè anh trong quân ngũ và ngoài đời sống dân sự. Xin nhắn với Thiếu Tá Sơn rằng người bạn tù những ngày ngắn ngủi của anh tại “nhà 10” trại Lam Sơn vẫn còn đây và chờ nghe tin lành của anh và gia đình. E-mail liên lạc: binhnam@sbcglobal.net./.

 

Trần Bình Nam

April 16, 2011

binhnam@sbcglobal.net

www.tranbinhnam.com

 

 

thangtu-1.jpg 

 Lời Một Thuyền Nhân

(tặng tất cả Thuyền Nhân Việt Nam trong cuộc
vượt biên đau thương nhất của lịch sử loài người)

Tôi đang sống cuộc bình yên
Nơi hương nhãn tiến thơm riêng một vùng ( 1)
Lớn cùng với núi với sông
Tôi yêu trang sử hào hùng nước tôi
Yêu dân, bao chục triệu người
Sống đời nhân bản, xây đời cần lao ( 2)
Thông minh, bất khuất, anh hào
Yêu quê, xương trắng máu đào, dựng quê
Hóa Giang dũng cảm lời thề
Diên Hồng trống giục bốn bề liệt oanh
Quê tôi là một bức tranh
Rừng vàng, biển ngọc, núi xanh, kiêu hùng ….
 

Thế mà Bến Hải một dòng
Ai đem chia cắt để lòng nước đau
Để cho vườn nhãn rưng sầu
Tôi nhìn vườn nhãn nghẹn câu giã từ
Triệu người dân Bắc di cư
Vào Nam tưởng đã được như mong cầu
Nào ngờ hăm mốt năm sau
Miền Nam cũng lại đỏ ngàu máu tươi (3)
Đau thương ngập chín tầng trời
Người không được sống kiếp người, thảm chưa !
Dân thành vượn thuở hoang sơ
Quê hương thành chốn có thừa nhà giam
Đau lòng, tôi bỏ Việt Nam
Ra khơi, vượt biển, tôi làm Thuyền Nhân !
 

Thuyền Nhân, nhắc chuyện Thuyền Nhân
Tưởng như hỏa ngục gian trần hiện lên
Nào là bão tố giữa đêm
Sóng nhồi, tàu vỡ, người chìm, ván trôi…
Nào dao hải tặc giết người
Thất thanh, thiếu nữ thét nơi mạn thuyền
Nào tàu chết máy, lật nghiêng
Người theo sóng cuốn, người thiêm thiếp chờ
Nào người tàu lạc đường mơ
Xương phơi tră‘ng đảo san hô, cạnh tàu !
Nào giây thuỷ táng thương đau
Chồng ghì giữ vơ, mẹ gào ni’u con …
Mây đen, sóng cũng đen ngòm
Biển to, người bé tí hon … hãi hùng
Nào tàu mất tích biển đông
Không còn dấu vết trên dòng nước xanh
Người may, cặp bê’n an lành
Thương người nửa cuộc, lòng canh ca’nh sầu
Thuyền Nhân, chuyện chẳng hết đâu
Kể thêm nữa chỉ lòng đau xót lòng

Vì ai con Lạc cháu Hồng
Chết đau đớn giữa biển đông thế này ???
Oan hồn dân Việt còn đây
Nỗi hờn còn đó, vẫn đầy , vẫn đau….
Biển đông sóng vẫn dậy sầu
Hỡi người chung những nhịp cầu nhớ, quên …?

1-     Nhãn là thổ sản rất đặc biệt của vùng Hưng Yên. Quả Nhãn vị Ngọt, mùi thơm, cơm dày, hột nhỏ. râ’t ngon, Xưa     để tiễn vua nên gọi là nhãn tiến.

2-    Lao động và chuyên cần. xin đừng hiểu lầm vơ’i tên một đảng pha’i chi’nh trị

3-    1954 VC chia đôi Bă‘c Nam VN tại sông Bê’n Hảị

NgôMinhHằng

 

 

vietnam139_sJPG_950_2000_0_75_0_50_50.jpg

 

NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HOÀ NGHĨ GÌ NHÂN NGÀY 30 THÁNG TƯ NĂM 2011.

 

Nguời lính Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) hiện diện tại Hải Ngoại  trên từng các quốc gia Tự Do để làm quê hương thứ hai,  thấp thoáng mà đã 36 năm rồi ,  tính ra có người đến  được bến bờ Tự Do gần 20 năm,  sau khi ra tù Cộng Sản và được cứu xét Tỵ Nạn Chính Trị tại các quốc gia tạm dung.

Gần như toàn thể quân nhân các cấp chưa ai có giấy giải ngũ, họ bị bức tử rã ngũ sau hơn 20 năm dài (1954-1975) thi hành nghiã vụ thiêng liêng bảo vệ lãnh thổ và người dân Miền Nam Việt Nam. Ngưới lính VNCH ngày nay dù không còn sống trên đất nước Việt Nam nhưng tâm hồn luôn gắn bó với Quê Hương và Dân Tộc, với họ hàng, bè bạn chiến đấu và những đồng đội thương binh năm xưa còn ở lại.

Chúng ta có đủ điều kiện để căm thù Cộng Sản, cũng như đại đa số đồng bào hiện đang sống trong

gông cùm Cộng Sản suốt mấy chục năm qua. Nhưng trách nhiệm chưa tròn, đứng trước quốc dân, trước đồng đội đã ngã xuống, trước những lời hứa cùng các bạn tù năm xưa, chúng ta không đặt niềm “Căm Thù” vào công cuộc đấu tranh cho “Chính Nghĩa”. Không đặt căm thù vào Cộng Sản Việt Nam (CSVN) không phải là vì sợ cộng sản trả thù, hay vì trông chờ Hoà Hợp Hoà Giải mà vì hiện nay kẻ khiếp sợ là chính bọn Việt Gian Cộng Sản chớ không phải dân ta. Do đó muốn chiến thắng kẻ thù bằng Chính Nghiã thì chúng phải vượt qua sự thấp hèn của bọn Phi Nghĩa.

Hoà Hợp Hoà Giải với CSVN là điều không thể thực hiện được tại Việt Nam, vì trong lịch sử từ năm 1930 đến nay trên 80 năm biết bao cơ hội Hoà Hợp, Hoà Giải Dân Tộc để kiến tạo sức mạnh Toàn Dân, mà cả thảy đều bị Cộng Nô phủi sạch vì trong Cương Lĩnh của chúng chỉ biết “Căm Thù, Căm Thù và Căm Thù”.

Tấm gương sáng chói của nhà tranh đấu cho Dân Chủ và Nhân Quyền Trung Quốc Lưu Hiểu Ba, đã được Giải thưởng Nobel Hoà Bình năm 2010, mặc dù ông bị kết án, đày đoạ hàng chục năm tù kể từ Biến Cố Thiên An Môn 1989, nhưng  ông vẫn kêu gọi đấu tranh “Bất Bạo Động”  và dẹp Hận Thù trong đấu tranh, ông nói: “Thù hận chỉ làm hoen rỉ sự khôn ngoan và ý thức của ta, phá hỏng lòng khoan hòa và tình người của một xã hội.”[i]

Có người lại hỏi: Các anh tranh đấu cho Dân Chủ và Nhân Quyền cho ai? Xin thưa không phải cho 3 triệu người Việt Hải Ngoại , mà cho 86 triệu đồng bào trong nước. Tức là chúng ta phải thấu đáo nguyện vọng thiết thực của đồng bào Việt Nam muốn gì? Kế đến nhìn ra thế giới để lượng xem “Thế Nước”  và nhìn vào trong nước để thấu đạt “Lòng Dân”.

Cách đây mười năm người ta ước lượng  Cộng Sản tồn tại từng thập niên một,  gần đây vì lòng tham tột đỉnh của Trung Quốc , lại lộ ra sự hèn hạ tột cùng  của CSVN, thì lòng người  dân Việt dự liệu  sự sụp đổ của bọn Việt Gian tính từng năm một. Vừa qua thế giới lại bùng lên cơn bão Hoa Lài, thổi lên từ Bắc Phi, những cơn “Bão Giá” [ii]đánh vào kinh tế suy sụp  tại Việt Nam,  sóng thần “Cơm áo , gạo tiền “đang tràn tới quê nhà.

Người dân trong nước từ trước đã sống cơ cực, nay không còn chịu đựng được nữa vì vật giá gia tăng ngày một, tham nhũng tràn lan, xã hội sa đoạ, giàu nghèo cách biệt quá xa, hiện trạng bạo quyền truy lùng, bắt nhiều nhà Dân Chủ, sát hại vô cớ dân lành  chứng tỏ chúng không phải là thế mạnh mà đang mất niềm tin, lo bề tháo chạy, tẩu tán tài sản ra ngoại quốc thì việc tiên liệu giật sập bạo quyền được tính từng tháng một!!!.[iii]

Ngày kỷ niệm 30 tháng Tư, năm nay nơi nơi không còn những  lời thán oán, uất hận khi xưa mà  tại các quốc gia có nhiều Cộng Đồng Người Việt nhất là  Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Pháp quốc và Vương Quốc Anh chúng ta đã đồng lòng phất lên ngọn cờ “Đòi Lại Quyền Tự Quyết”[iv]  của toàn dân và chủ trương Yểm Trợ đồng bào “Quốc Nội Vùng Lên”[v] bằng các biểu ngữ cương quyết sáng ngời mang tính Vùng Lên, Quật Khởi.

Nhận định tình hình là như thế, nhưng quyền “Quyết Định Tối Hậu” là của Toàn Dân Việt Nam tại Quốc Nội. Thời cơ đến không phải tái diễn hằng năm, mà chỉ đến một lần cho những ai biết “Nắm Bắt Thời Cơ” đúng lúc. Các tôn giáo quốc nội, lực lượng công nhân, nông dân, ngư dân cộng với Dân Oan cả nước còn chần chờ gì nữa khi thời cơ lịch sử  đã đến!!!

Lịch sử sẽ sang trang mới hào hùng, ngọn cờ Dân Chủ và Nhân Quyền cho toàn dân Việt, vùng lên Giải Thể chế độ độc tài, phản quốc hại dân để cùng nhau xây cuộc Đời Mới: Hoà Bình, Thịnh Vượng cho quê hương Việt Nam

Long Điền 28 tháng Tư năm 2011

 

 

 

thangtuden.jpg

QUỐC HẬN 2011 THẾ GIỚI ĐƯỢC THẤY GÌ ? "CỘNG SẢN CHẶT ĐẦU CỘNG SẢN"

 Nguyễn Việt Nữ

 

Ngày 27 tháng 1 năm 1973 nhà nước Cộng Sản Hồ Chí Minh ký tại Paris một văn kiện Quốc Tế mang tên là Hiệp ước “Chấm dứt chiến tranh và vãng hồi hòa bình” có các cường quốc Nga, Tàu, Anh, Pháp, Mỹ cả Liên Hiệp Quốc ký bối thự.

Nhưng ngày 30 tháng 4 năm 1975, Cộng Sản Bắc Việt trắng trợn lái xe tăng Liên Xô vào miền Nam chiếm Dinh Độc Lập chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trước sự im lặng của các nước đã đặt bút ký.

Từ đó dân, quân, cán, chính miền Nam như bầy chim bị vở tổ, tung bay đi tìm đất lành tạm dung, rồi cả miền Bắc cũng ra đi mà ta nói trụ đèn có chân cũng bước đi tị nạn!

Ngày bị xâm lăng bằng hiệp ước Quốc Tế đó,  nạn nhân của Cộng Sản Việt Nam khắp thế giới gọi đó là Ngày Quốc Hận.

Không phải chờ đúng cuối tháng, mà người Việt tị nạn khắp thế giới càng ngày càng chuẩn bị cử hành ngày Quốc Hận với những chương trình qui mô ghi nhớ hành trình vượt biên đau thương từ nhiều tháng trước; nhưng từ đầu tháng 4 mỗi năm là rõ rệt nhất, nên trở thành mùa Quốc Hận.

Trong 35 năm ly hương tị nạn, có rất nhiều đòan thể, cá nhân, nam lẫn nữ, nổ lực tranh đấu đòi lại quyền sống tự do dân chủ cho quê Mẹ Việt Nam, nhưng duy nhất có một Nữ tù đã dám hi sinh, tình nguyện ở tù Luân Đôn rồi Mỹ quốc để kêu gào hai cường quốc có chữ ký trong hiệp định Paris 1973 mà nở im tiếng trước sự bất công nầy,  hãy nghe lại tiếng hờn đau của triệu người vô tội chết oan trên biển cả,  hàng trăm triệu người dân Việt, Miên, Lào ngày nay vẫn phải sống dưới gọng kềm Cộng Sản….Câu chuyện dài, đầy tín giáo dục có lưu tại hai văn khố pháp đình Anh, Mỹ. Xin trình bày sau. Bây giờ ta trở lại ngày 30 tháng 4.

Mở đầu mùa Quốc Hận 2011, ngày 2 tháng 4 chúng tôi được phát biểu trên Diễn Đàn Paltalk “Tiếng nói của người Việt tự do trong và ngòai nước3” về cuộc “Cách Mạnh Hoa Lài”.

Lúc được mời, chúng tôi lại vừa thấy Linh mục Chân Tín từ Việt Nam đã gửi lên mạng lưới bài “YÊU CẦU HỦY BỎ HIẾN PHÁP 1992 VÀ KÊU GỌI TẪY CHAY BẦU CỬ QUỐC HỘI BÙ NHÌN NGÀY  22 tháng 5 năm 2011”.

Lời kêu gọi tẩy chay bầu cử Quốc Hội nầy là một cuộc cách mạng bất bạo động, rất trùng hợp với công trình tranh đấu đưa tội ác Cộng Sản ra tầm vóc Quốc Tế của Linh Mục tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Lý và Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ mà chúng tôi cũng đã đem phổ biến cho trên 90 tổ chức Quốc Tế tại Đại hội Văn Bút Quốc Tế ở Tokyo vào tuần lễ chót tháng 9 năm 2010.

Nhưng ngày lên diễn đàn là thứ bảy 2 tháng 4, chỉ còn hai ngày nữa tức ngày 4 tháng 4 là tại Hà Nội sẽ diển ra phiên tòa xử Tiến Sĩ Cù Huy Hà Vũ về tội “Tuyên truyền chống phá nhà nước XHCNVN” gồm 10 cáo trạng,  trong đó có tội bị can kêu gọi “Bỏ điều 4 HP”.

Chúng tôi rất ủng hộ cả hai lời kêu gọi nầy, nên một trong ba đề tài được giới thiệu trên diễn đàn Paltalk, có chủ đề:

"Yêu cầu hủy bỏ Hiến pháp 1992 của Linh Mục Chân Tín là đúng sự thật lịch sử" 

Chúng tôi đã nói phiên tòa ngày 4/4/11 xử người thuộc gia đình công thần của chế độ mà dám kêu gọi lọai bỏ “Tư tưởng Hồ Chí Minh trong Hiến Pháp 1992” sẽ  là hiện tượng “Cộng Sản Chặt đầu Cộng Sản” rất ngọan mục.

Bản án Cù Huy Hà Vũ: “Cộng Sản chặt đầu Cộng Sản”

Đây chính là chữ dùng của Hòa Thượng Thích Quảng Độ trong tập tài liệu 44 trang nhan đề “Nhận định về những sai lầm tai hại của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với dân tộc và Phật giáo” kèm theo thư ngỏ gửi cho Tổng Bí Thư Cộng Đảng Đỗ Mười mà hiện  đài Phật Giáo Việt Nam phát thanh tài liệu lịch sử nấy mỗi tuần vào ngày thứ sáu. (Nguồn: Võ Văn Ái, phát ngôn viên của GHPGVNTN, Email: queme@free.fr)

Lúc dự Đại Hội Quốc Tế Văn Bút kỳ thứ 76 tổ chứ tại Tokyo, chúng tôi đã dùng tài liệu của hai nhân chứng sống để viết bài về tội ác Hồ Chí Minh và tình trạng đàn áp tôn giáo triệt để hiện tại. Hai vị ấy là Hòa Thượng Thích Quảng Độ và Linh Mục tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Lý.

http://files.myopera.com/nguyenphucbaoan/blog/Cu%20Huy%20Ha%20Vu%20Da%20Dao%20Cong%20San.jpg 

Cù Huy Hà Vũ hai tay bị còng như điều 88 của bộ Luật Hình Sự cáo buộc để giải ra tòa, nhưng vẫn đi hiên ngang, ngẩng cao đầu giữa 2 hàng cảnh sát. AFP photo  

Rất ly kỳ là tài liệu Hòa Thượng Thích Quảng Độ gửi cho Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Đỗ Mười từ năm 1994 mà chúng tôi giới thiệu cho Quốc Tế, trong  “Bản nhận định…” của Hòa Thượng về chiến dịch đấu tố trong Cải Cách ruộng Đất của Hồ Chí Minh, Hòa Thượng nói người dân miền Bắc thời ấy kết luận là “Cộng Sản chặt đầu Cộng Sản”.

Bản án Cù Huy Hà Vũ đã gây ra bao nhiêu lời phê bình và kêu gọi Hà Nội “thả tức khắc” của nhiều nhân vật nổi tiếng khắp thế giới, trong ấy có bản lên tiếng của Hòa Thượng Thích Quảng Độ mà đọc kỷ thì hình như vị lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vô tình đã chứng minh lời người dân miền Bắc kết tội cuộc “sát nhân” nầy là đúng lịch sử.

Xin tóm tắt nội dung bản lên tiếng nầy để đi thẳng vào chủ đề lịch sử.

Tòan văn bản lên tiếng quí vị có thể đọc trên các báo, trên net và các đài phát thanh.

Chúng tôi chỉ xin dùng phân đọan nói rõ lý lịch Cộng Sản từ cốt lõi của gia đình bị can:

Nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tôi lên tiếng phản đối bản án phi pháp 7 năm tù và 3 năm quản chế với tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam” đối với Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ tại Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội hôm 4.4 vừa qua. (….)  Yêu cầu Đảng Cộng sản và Nhà nước CHXHCNVN trả tự do tức khắc cho Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, vì ông vô tội ; hoặc Tòa tuyên bố hủy bản án ngày 4.4.2011 để tổ chức xét xử lại từ đầu vì Tòa đã vi phạm tố tụng chiếu theo bộ Luật Tố tụng hình sự.

Nói rằng Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ vô tội là chiếu theo công luận quốc nội cũng như quốc tế phản ứng kịch liệt từ 48 tiếng đồng hồ qua trên các cơ quan truyền thông báo chí thế giới. Rõ hơn trong thực tế, ông Cù Huy Hà Vũ chỉ dùng chính luật pháp của Nhà nước CHXHCNVN để ôn hòa bênh vực cho dân oan, ôn hòa đòi hỏi dân chủ chiếu theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam tham gia ký kết từ năm 1982. Ngoài ra ông còn báo động nguy cơ mất nước cũng như đại nạn sinh thái trong việc giao thầu cho Trung quốc khai thác bô-xít ở Tây nguyên.

Mặt khác, thân phụ Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, là ông Cù Huy Cận, một trong những công thần của chế độ, người đã vào Huế ngày 25.8.1945 nhận ấn kiếm của Vua Bảo Đại trao quyền cho chính phủ Việt Minh của ông Hồ Chí Minh. “Con nòi cháu giống cách mạng” như thế thì sao có thể kết tội “tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam” ?! (Hết trích).

Truy ra, gia đình Cù Huy Hà Vũ cả cha, mẹ, hai người bác, người cậu đều có công lớn lao với Hồ Chí Minh:

Ông Cù Huy Cận năm 1946 còn là Bộ Trưởng không bộ của chính phủ liên hiệp (như Đổng lý văn phòng bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh). Mẹ của Cù Huy Hà Vũ là người phụ nữ tận tụy săn sóc sức khỏe ông Hồ. Cù Huy Hà Vũ còn có 2 người bác tính đến nay cũng ít nhất là 60 tuổi Đảng, gần đây cũng tham gia kêu gọi Đảng thả cháu mình!

Đặc biệt, thi sĩ Xuân Diệu, là cậu và còn là cha nuôi của Cù Huy Hà Vũ. Cần nhắc lại thi sĩ Xuân Diệu rất có công “Lột người” tiểu tư sản của ông theo lời dạy của bác Hồ để trở thành một tên đồ tể hô hào đấu tố địa chủ trong chiến dịch Giảm Tô và Cải Cách Ruộng Đất cho mọi người trở thành vô sản như nguyện vọng duy nhất của Hồ Chí Minh:

"Anh em ơi! Ta quyết chung lưng. Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tử thù. Địa hào, đối lập ra tro. Lưng chừng phản động đến giờ tan xương. Thắp đuốc cho sáng khắp đường. Thắp đuốc cho sáng đình làng hôm nay. Lôi cổ bọn nó ra đây. Bắt quỳ gục xuống, đọa đày chết thôi”.

Chính vì Hồ Chí Minh chỉ thị xem tòan xã hội là “tử thù”, từ địa chủ hay chỉ là những người khác chính kiến, thậm chí những người lưng chừng cũng xếp vào hàng phản động, cũng phải lôi cổ chúng ra tiêu diệt thành tro than hết để lấy ruộng đất của họ cho vào hợp tác xã mà được “làm chủ tập thể”. Sau Cải Cách ruộng đất vét của, giết người để tiến lên Xã Hội Chủ nghĩa rồi thì năm 1956 lại có chiến dịch “Sửa Sai” do tướng Võ Nguyên Giáp đứng ra chịu tội thay Hồ Chí Minh. Chính Giáp tuyên bố 12 ngàn tù nhân chờ chết được “ơn Bác và Đảng” thả về. Đây là lúc đảng viên cũ đòi lại vợ con, tài sản và giết đảng viên mới đang cầm quyền.

Quốc nạn “Dân Oan” hiện ra từ thời ấy và càng ngày càng đông vì “Lấy oán trả oán, oán oán chập chùng”, rồi thiên tai dồn dập nữa, nên đến năm 2000 Hòa Thượng Thích Quảng Độ phải đích thân huy động viên chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất lo cứu lụt nên bị giam lỏng, nhưng quí viên chức GHPGVNTH khác vẫn tiếp tục cứu trợ Dân Oan cho đến nay.

Sau Giảm tô và CCRĐ,  liên tiếp những đảng viên của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, đảng viên trong nhóm bị cho là “Xét lại chống Đảng” cũng bị Đảng Cộng Sản lần lượt thanh tóan cả. Người nổi tiếng cuối cùng là Đảng Viên anh hùng Điện Biên Phủ, Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, người mà Cù Huy Hà Vũ rất thân cận– cũng bị lột lon…Cũng may mà nhờ vang danh khắp thế giới về trận Điện Biên Phủ nên Đảng không dám giết. Vì vậy mà những cuộc thanh trừng đẩm máu thường thấy của thế giới Cộng Sản và riêng nội bộ đảng CSVN, người dân kết luận đó là “Cộng Sản chặt đầu Cộng Sản”. Áp dụng nó trong phiên tòa Cù Huy Hà Vũ thật là một tượng hình rất chí lý.

Hòa Thượng Thích Quảng Độ viết cho Đỗ Mười từ năm 1994: “Chúng tôi không ai đánh Cộng Sản cả, nhưng vì ai cũng ghét cái ác, mà Cộng Sản ác quá, giết hại lẫn nhau để tranh giành quyền lợi  thì sớm muộn gì tự nó cũng  sẽ tan rã..”

Cũng vậy, về đơn kiện số 1 của LM Nguyễn văn Lý, chúng tôi cũng đưa hết ra quốc tế, có đọan: Kết luận 4 trang liệt kê danh sách 44 kỹ thuất tra tấn vô nhân đạo, cha Lý đặt câu hỏi, “Tại sao chế độ nầy dã man xấu xa và tàn ác như thế?” Câu trả lời rất chính xác và đầy đủ mà tóm gọn là: Vì họ là những đồ đệ của những Lênin, Stalin, đặc biệt là Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh!

Vậy là mùa Quốc hận 2011 nầy, thế giới đã chứng kiến nội bộ Đảng Cộng Sản càng ngày càng “Chặt Đầu” nhau mà chết ô nhục để tòan dân được sống yên lành! Mong lắm thay!

Xin các niềm tin tôn giáo cùng hiệp thông cầu nguyện cho mộng ước sớm thành.

 

Nguyễn Việt Nữ

(8/4/2011) 

 

 

 

chiensivnch.jpg 

 

 

Tài liệu : Ván bài lật ngửa : Trận Tết Mậu thân 1968

                                                                  

Bí ẩn lịch sử trong cuộc chiến VN    

   Tiết lộ của TBĐ về việc ông tiếp xúc với Đại sứ HK Bunker trước khi xảy ra biến cố Tết Mậu Thân đã giải toả một bí ẩn lớn mà từ trước nay những ngưòi nghiên cứu chiến tranh VN luôn thắc mắc. Họ tin rằng đã có một thỏa thuận ngầm nào đó giữa HK và CSVN về biến cố này…Nhưng chưa có tài liệu chứng minh, phải dành cho nó hai chữ “tồn nghi”. Người ta còn có lý do để nghi ngờ, vì Kissinger chỉ cho phép công bố một số tài liệu bí mật của ông sau khi ông chết 5 năm.  

    Lịch sử VN trong hơn 60 năm qua từ khi Nhựt đảo chánh Pháp tháng 3/1945 đến nay diễn tiến có lớp lang, xuyên suốt theo qui luật nhân quả. Tuy nhiên có một khoảng thời gian không rõ ràng -từ tháng 2/1967 đến biến cố Tết Mậu Thân 1968. Sau biến cố này, Mỹ đã đạt được mục tiêu, đưa Hànội vào bàn đàm phán, sau đó ký kết HĐ Paris 1973 và giải kết trách nhiệm ở VN. Có điều mà người nghiên cứu lịch sử thắc mắc: từ cái “nhân” nào đã đưa đến cái “quả” là trận tổng tấn công Tết Mậu Thân?  

   Như mọi người đều biết, đúng một tháng sau khi HK đưa hai tiểu đoàn TQLC đổ bộ lên Đà Nẳng, TT Johnson tuyên bố tại Đại học Johns Hopkins ngày 7/4/1965: sẳn sàng thương lượng không điều kiện với các phe liên hệ dựa trên những hiệp ước cũ hoặc bổ túc bằng những hiệp ước mới. Mục tiêu của HK là nền độc lập của miền Nam VN được bảo đảm để họ có thể quyết định mối liên hệ riêng của họ mà không có sự can thiệp từ bên ngoài. Hôm sau, Hànội trả lời bằng “đề nghị 4 điểm”, HK chấp nhận điểm 1, 2 và 4, chỉ còn điểm 3 qui định “công việc miền Nam do nhân dân miền Nam giải quyết theo cương lĩnh của Mặt trận GPMN” thì HK yêu cầu được thảo luận thêm tại bàn đàm phán. Nhưng Hànội bác bỏ, từ đó chiến tranh ngày càng leo thang.  

   Mãi đến ngày 8/ 2/1967, qua trung gian của TT Kosygin (LX) và TT Wilson (Anh), hai nước này là đồng chủ tịch Hội nghị Genève 1954 về Đông Dương, TT Johnson gởi Chủ tịch Hồ Chí Minh bức thư đề nghị: HK sẽ ngưng ném bom MB và ngưng tăng cường quân lực Mỹ ở MN, nếu BV cũng đình chỉ gởi người và vũ khí vào MN. Sau đó Mỹ và BV sẽ tiến hành những cuộc mật đàm để giải quyết vấn đề miền Nam VN. Trong thư trả lời, Chủ tịch HCM cho biết nước VNDCCH “không thể thương lượng dưới sự đe dọa của bom đạn Mỹ. HK phải chấm dứt vĩnh viễn và không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chống lại nước VNDCCH, khi đó hai bên mới có thể đàm phán và thảo luận những vấn đề mà hai bên quan tâm”. (6) 

    Từ đó có nhiều nổ lực quốc tế giúp HK và Hànội đến bàn hội nghị, đáng kể nhất là trung gian của Pháp từ tháng 6/1967. Ông Raymond Aubrac (một người CS từng quen biết HCM hồi năm 1946) và Hervert Marcovich -cả hai là khoa học gia Pháp, nhiều lần đi Hànội gặp HCM và TT Phạm Văn Đồng để giúp BV và HK trao đổi những đề nghị. Phía Hànội do đại sứ Mai Văn Bộ phụ trách, còn phía HK là Henry Kissinger. Hànội đòi HK ngưng ném bom MB vô điều kiện. HK đồng ý nhưng với điều kiện Hànội phải ngồi vào bàn hội nghị để giải quyết vấn đề miền Nam. Hànội đòi HK phải rút khỏi MN và thừa nhận MTGPMN. Cuối cùng BV nhấn mạnh: “chỉ sau khi HK chấm dứt không điều kiện việc ném bom và bất cứ các hoạt động gây hấn nào khác chống VNDCCH thì họ mới có thể nói chuyện”. Ngày 6/10/1967, Wallner -đại diện HK ở Paris nhờ Marcovich trao cho đại diện Hànội ở Paris một dự thảo thông điệp xác nhận: Mỹ chấm dứt mọi hình thức đánh phá nước VNDCCH mà không nói đến điều kiện, Hànội có thể nhanh chóng tiến hành thảo luận với HK. Wallner nói thêm nếu đại diện Hànội đồng ý, Kissinger sẽ sang Paris trao tận tay cho BV thông điệp với nội dung trên. Hànội không trả lời, việc trung gian giữa ông Marcovich và Aubrac với HK và Hànội xem như chấm dứt (7) 

    Có thể nói, ông TBĐ đã báo cho Đs Bunker biết ý định cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân vào thời điểm này. Sau này, Thượng tướng Trần Văn Trà nhận xét: “Đi vào tổ chức thực hiện một quyết định lớn như vậy mà Bộ Chính trị chỉ dành cho các cấp ở chiến trường có ba tháng, thật là quá ngắn ngũi”. Ông cho biết mục tiêu đề ra là “Tiêu diệt và làm rã tuyệt đại bộ phận quân đội Sàigòn, đánh đổ chính quyền các cấp và giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân” và “tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ” thì thật là vượt quá nhiều khả năng thực tế ta có. Thứ nhất ta không đủ sức -lực lượng ta chỉ bằng 1/5 của Mỹ và quân đội Sàigòn về bộ binh. Còn không quân, hải quân và cơ giới thì chúng có ưu thế tuyệt đối”… Ông chua chát kết luận: “Như vậy đề ra chủ trương TCK-TKN để giành toàn bộ chánh quyền về tay nhân dân” mà cán bộ và chiến sĩ ta diễn đạt gọn và đơn giản lúc đó là “dứt điểm” thì thật là hoàn toàn không thực tế, không thể thực hiện nổi, vượt quá sức của ta và coi thường khả năng và phản ứng của Mỹ”. (8)    

    Trong một bài khác, tướng Trà viết: “trong Tết Mậu Thân, ta không đánh giá đúng về tương quan lực lượng ta địch cụ thể lúc ấy, không thấy hết khả năng còn lớn của địch và điều kiện còn hạn chế của ta, đề ra yêu cầu cao quá sức thực tế ta có. Nghĩa là ta không dựa vào sự tính toán khoa học, cân nhắc sâu sắc mọi yếu tố mà có phần ảo tưởng dựa vào sự mong muốn chủ quan. Chính vì vậy…chúng ta đã phải chịu một hy sinh thiệt hại lớn lao về sức người, sức của, đặc biệt là cán bộ các cấp, làm cho sức ta yếu xuống rõ rệt. Sau đó không những ta không giữ được tất cả các thành tựu đã đạt được mà còn chịu muôn vàn khó khăn tiếp theo trong những năm 1969-1970. (9) 

   Trong khi Hànội đang chuẩn bị kế hoạch tổng tấn công toàn miền Nam, thì quân đội Mỹ lại tập trung vào cứ điểm Khe Sanh, ở tây bắc Quảng Trị, cách khu phi quân sự 18 cây số. Đầu tháng 10/1967, HK gởi những đơn vị TQLC tinh nhuệ đến trấn đóng Khe Sanh, thiết lập một hệ thống cứ điểm chiến lược kiên cố với quân số lên đến 6 ngàn. Với căn cứ Khe Sanh, HK tin rằng họ có thể kiểm soát và phá vỡ các mạng lưới tiếp vận vũ khí và các hành lang xâm nhập quân BV trên đường mòn HCM. Nhưng sau đó, không thám và các máy điện tử khám phá BV đã bố trí nhiều trận địa pháo và hỏa tiễn ở những đồi núi bao quanh căn cứ, trong khi nhiều sư đoàn chủ lực đang dồn về mục tiêu này.

 

    Đêm 20/1/1968 Cộng quân bắt đầu khai hỏa với hàng ngàn hỏa tiễn, tiếp theo là các trận mưa pháo vào căn cứ. Tướng Westmoreland khẩn cấp gởi 1500 quân tăng cường lực lượng phòng thủ. Quân Mỹ đổ bộ xuống Khe Sanh dưới làn mưa đạn. Lúc bấy giờ cứ điểm này đang bị bao vây bởi khoảng 19 ngàn quân BV và có khả năng bị tràn ngập với chiến thuật biển người bất cứ lúc nào. Cục diện này tương tự trận Điện biên Phủ hồi đầu tháng 5/1954, khiến nhiều người lo ngại Khe Sanh có thể là chiến trường sẽ kết thúc chiến tranh VN…Nhưng tình hình lại diễn ra theo hướng khác với cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân ngay sau đó.  

   Lúc bấy giờ, có nhiều nguồn tin nói rằng HK và Hànội đã thỏa thuận “án binh bất động” để Lực lượng vũ trang GPMN dốc toàn lực vào cuộc TCK-TKN khắp các thị trấn, đô thị miền Nam. Nếu quả thật MTGPMN có ưu thế, được sự ủng hộ của dân chúng như họ thường rêu rao “kiểm soát 3/4 dân số và 4/5 đất đai” thì HK sẳn sàng rút quân để MTGP quản lý công việc MN theo cương lĩnh của họ. Nếu không thắng, MTGP sẽ cùng chánh quyền Sàigòn đàm phán, giải quyết chiến tranh bằng con đường hòa bình. Như vậy, có thể nói chiến trường Khe Sanh là kế “dương Đông kích Tây” để đánh lạc hướng âm mưu trên. Lúc đó, ai cũng thấy CSBV và HK đều dồn nổ lực vào Khe Sanh, nơi sẽ quyết định cuộc chiến. Mặc nhiên, họ để Quân Giải phóng Miền Nam đọ sức với QLVNCH trong dịp Tết, thời điểm mà người lính Cộng Hòa lơ là trong phòng thủ vì đã có lịnh hưu chiến để ăn Tết cổ truyền.  

    Sử gia Don Oberdorpher nhận xét trận Mậu Thân như sau: “Việt Cộng đã chịu một thất bại quân sự nặng nề. Hàng chục ngàn cán binh cuồng tín nhất, có kinh nghiệm nhất từ vùng rừng núi nhẩy vào vùng đồng bằng và thôn quê gánh chịu những trận mưa bom chết người. Việt Cộng mất cả một thế hệ chiến binh và nhân dân thành phố cũng không chịu nổi dậy theo chúng”. (10) Tuy nhiên, cuộc chiến bước vào giai đoạn mới: đàm phán để kết thúc. Tháng 5/1968, cuộc hòa đàm Mỹ và Hànội đã bắt đầu ở Paris giữa Harriman và Xuân Thủy.  

   Trước đó vào cuối tháng Ba, TT Johnson tuyên bố không tái ứng cử nhiệm kỳ hai, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ và dành cho BV vinh dự đến bàn đàm phán: không phải dưới sự đe dọa của bom đạn Mỹ mà là chiến thắng Mỹ. Ba tháng trước khi rời Bạch Cung, Johnson quyết định ngưng hoàn toàn việc ném bom miền Bắc, mời hai chánh phủ ở miền Nam tham dự đàm phán với HK và BV để hai bên miền Nam tự quyết định công việc nội bộ của họ. Hànội tự hào “thắng lợi Mậu Thân có ý nghĩa chiến lược to lớn và toàn diện, đã kéo Mỹ xuống thang chiến tranh phá hoại miền Bắc và buộc Mỹ phải nhận họp hội nghị hai bên ở Paris” Và “từ tháng 1/1969, đế quốc Mỹ đã buộc phải nói chuyện chính thức với đoàn đại biểu của Mặt trận dân tộc GPMN ở hội nghị bốn bên ở Paris”. (11)  

 

    MTGPMN muốn liên hiệp với VNCH, không có sự can thiệp từ bên ngoài

   Trong mấy tháng đầu của cuộc đàm phán bốn bên, Hànội vẫn chưa có giải pháp nào mới cho vấn đề MN. Họ vẫn căn cứ vào lập trường 4 điểm đề ra từ 8/4/1965. Còn MTGP thì dựa vào cương lĩnh ngày 20/12/1960 do Hànội soạn thảo: đòi Mỹ chấm dứt xâm lược, rút quân và từ bỏ chánh quyền Sàigòn. Bất ngờ, ngày 7/5/1969 trong cuộc mật đàm với Xuân Thủy, đại sứ Lodge cho biết sẽ đề nghị một giải pháp mới cho vấn đề MNVN theo như tuyên bố của ông Trần Bửu Kiếm (MTGP) trong phiên họp thứ 14 ngày 26/4/69: “Tổng tuyển cử tự do có thể mở đường cho một cuộc thảo luận bổ ích và đề nghị MTGP nói chuyện với Sàigòn”. (12) 

   Lúc bấy giờ, thực lực của MTGPMN ngày càng suy yếu: lực lượng vũ trang hầu như bị nướng sạch trong ba đợt tổng công kích hồi năm 1968, hạ tầng cơ sở bị đánh bật khỏi nông thôn, số lực lượng vũ trang còn sót lại phải chạy sang bên kia bên giới Miên.Trong tình thế đó, lập trường mới của MTGPMN rất mềm dẻo, khác xa nhiều với Cương lĩnh 10 điểm trước đây. Họ không còn đòi giải quyết công việc nội bộ MN theo cương lĩnh của họ, mà sẽ do nhân dân MN tự quyết định, không có sự can thiệp của nước ngoài. Và “trong thời gian từ khi hòa bình đưọc lập lại cho đến khi tổng tuyển cử không một bên nào được cưỡng bức nhân dân miền Nam VN phải chấp nhận chế độ chính trị của mình” (điểm 4 & 5). Ngày 8/6/1969, MTGPMN kết hợp với Liên minh của Ls Trịnh Đình Thảo thành lập Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa MNVN. Sau đó, Trần Bửu Kiếm, trưởng phái đoàn CP/CMLT công bố toàn văn “Lập trường 10 điểm” ngày 8/5/1969 trong một phiên họp công khai tại hội nghị bốn bên.

   Mấy ngày sau, trong cuộc mật đàm, Kissinger nói với Lê ĐứcThọ: khi TT Phạm Văn Đồng đưa ra “lập trường 4 điểm” ngày 8/4/1965 để trả lời đề nghị đàm phán của TT Johnson, tổng thống Mỹ chấp nhận ba điểm. Duy chỉ có một điểm, HK không thể chấp nhận, đó là nội dung điểm 3: “Công việc miền Nam do nhân dân miền Nam tự giải quyết theo cương lĩnh của Mặt trận Giải phóng miền Nam, không có sự can thiệp bên ngoài”. Từ đó đến nay quí vị vẫn duy trì “lập trường trước sau như một của nước VNDCCH”, nay cương lĩnh của MTGPMN đã thay đổi. Chúng tôi thấy lập trường 10 điểm của Chánh phủ CMTL có nhiều điểm trùng họp với kế hoạch hòa bình 8 điểm của HK. Hai bên HK và VNDCCH có thể dung hòa hai đề nghị trên để kết thúc chiến tranh. Kế hoạch 8 điểm của Mỹ được TT Nixon trình bày trên hệ thống truyền hình ngày 14/5/1969: Mỹ muốn rút quân nhanh chóng, không muốn tìm kiếm căn cứ quân sự ở NVN, đòi hai bên cùng rút quân trong vòng 12 tháng sau khi có hiệp định để nhân dân miền Nam VN quyết định công việc nội bộ của họ. HK đồng ý để Mặt trận GPMN tham gia vào đời sống chính trị ở NVN, tham gia vào tổng tuyển cử tự do có giám sát và kiểm soát quốc tế. (13)

   Từ đó cuộc đàm phán Paris đi thẳng vào vấn đề chính là giải quyết cuộc chiến tại miền Nam VN. Sau này, ông Lưu Văn Lợi phụ tá Lê Đức Thọ tiết lộ: “Đây là một bất ngờ” mà Hànội không tiên liệu vì lập trường mới của MTGPMN. Từ trước đến giờ, trên bàn đàm phán chỉ có hai kế hoạch giải quyết vấn đề VN. Mỹ với hai điểm chủ yếu là quân miền Bắc cùng rút với quân Mỹ và giữ chánh quyền Sàigòn. Còn phía VNDCCH thì đòi giữ quân miền Bắc ở lại MN sau khi Mỹ rút, xóa bỏ chánh quyền Sàigòn”. Nay lập trường 10 điểm của Chánh phủ CMLT chủ trương liên hiệp giữa hai chính phủ ở miền Nam. Hànội nhận xét: “Mỹ đang có ưu thế ở MN và tất nhiên muốn giải quyết vấn đề trên thế mạnh. Phía VN phải chờ đợi thời cơ. Cần có thời gian để khôi phục lại tình thế cách mạng và chiến tranh nhân dân ở MN”. Họ phê phán MTGP: “Ngay trong vấn đề chính phủ liên hiệp đưa ra trong hoàn cảnh hạ tầng cơ sở của ta tan ra như lúc đó, nếu địch nhận ra thì có thể cũng là một khó khăn cho ta”. (14) Hậu quả, Trần Bửu Kiếm mất chức trưởng phái đoàn Chánh phủ CMLT. Từ khi bà Nguyễn thị Bình thay thế “Hai đoàn chúng ta tại hội nghị Paris -VNDCCH và MTGPMN- tuy hai mà một, tuy một vẫn là hai: cùng chịu sự chỉ đạo chung, nhưng là hai đoàn độc lập”. (15)

   Ngày 16/7/1969 TT Nixon gặp Sainteny nhờ trao thư cho HCM và yêu cầu ông ta nói thêm rằng: “nếu từ nay đến 1/11 (1969) là hạn cuối cùng không có sự khai thông nào trong thương lượng, Mỹ sẽ dùng những biện pháp gây hậu quả lớn, những biện pháp mạnh mẽ”. Trong thư Nixon nhắc lại đề nghị trong diễn văn ngày 14/5 là “thích đáng cho các bên” và “sẳn sàng thảo luận cả những kế hoạch khác” đặc biệt là 10 điểm của MTGP. Ông kết luận “Đã đến lúc phải đưa bàn hội nghị đến một giải pháp nhanh chóng cho cuộc chiến tranh bi thảm này, Ngài sẽ thấy chúng tôi sẳn sàng và cởi mở trong một nổ lực chung để đem lại những lợi ích của một nền hòa bình cho nhân dân VN anh dũng. Hãy để cho lịch sử ghi lại rằng trong giai đoạn quyết liệt này hai bên đã hướng về phía hòa bình chớ không phải hướng về gây hấn và chiến tranh”. 

   Trong thơ trả lời ngày 25/8, HCM cho rằng kế hoạch 10 điểm của Mặt trận GPMN là cơ sở logic và họp lý để giải quyết vấn đề VN. “Muốn có hòa bình, Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược và rút quân ra khỏi MNVN, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân MNVN và của dân tộc VN. Đó là con đường để Mỹ rút khỏi cuộc chiến tranh trong danh dự. Với thiện chí của phía Ngài và phía chúng tôi, chúng ta có thể đi tới những cố gắng chung để tìm một giải pháp đúng đắn cho vấn đề VN”. Đây là văn kiện đối ngoại cuối cùng của HCM (16)

   Cuộc chiến vẫn còn kéo dài vì sự bất đồng giữa Hànội (chủ trương phải chờ thời cơ để đánh bại chánh quyền Sàigòn) và Chánh phủ CMLT Cộng hòa Miền Nam (chủ trương lập chánh phủ liên hiệp với VNCH). Mối xung đột trên chưa kịp phát triển nhờ phía VNCH đang có mối bất đồng lớn với HK xuất phát từ “lập trường bốn không” của TT Nguyễn Văn Thiệu.

 

 Ván bài lật ngửa: một canh bạc bịp khổng lồ

   Mở ra các đợt Tổng tấn công từ Tết Mậu Thân, CSVN đã mượn tay HK và VNCH tiêu diệt gần như toàn bộ Lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam. Những gì xảy ra hai thập niên trước, nay lại tái diễn. Năm 1946, CSVN mượn tay Pháp tiêu diệt các đảng phái Quốc gia để giành độc quyền yêu nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nay, từ sau Mậu Hànội gia tăng lực lượng xâm nhập từ miền Bắc vào, toàn quyền thao túng trên cả hai mặt trận đánh và đàm với Mỹ. Cuối cùng chiến tranh được kết thúc theo như cương lĩnh mới của MTGPMN phù hợp với quan điểm của HK: “Nhân dân miền Nam VN tự quyết định công việc nội bộ của mình, không có sự can thiệp của bên ngoài”. Nhờ đó, giúp HK chấm dứt chiến tranh, giải kết trách nhiệm đối với VN, rút đi trong danh dự với cam kết góp phần hàn gắn vết thương chiến tranh VN. Nhưng nhân dân miền Nam chưa bao giờ được hưởng quyền tự quyết của mình, thì làm sao hàn gắn vết thương chiến tranh được !  

 

      Hồi ký " Years of Upheaval " : Cái nhìn của Kissinger về ông Thiệu

Trước khi chúng ta (**)để tâm đến chuyện vi phạm của miền Bắc VN, chúng ta phải quan tâm đến một phấn nhỏ của đàm phán là cam kết của chúng ta(Hoa kỳ)đối với đồng minh tổng thống VNCH phải có cơ hội tới thăm tt Hoa kỳ như là phần khích lệ đi sau việc ngưng bắn. 

Ông Thiệu đã nhiều tháng liền chống đối lại thỏa hiệp hòa bình chia cắt đất nước ông ta. Các điều khoản của hiệp ươc Ba lê còn tốt hơn ngay cả kẻ chỉ trích hay ủng hộ chúng ta đã nghĩ. Về đề xuất thương thảo phía ông Thiệu tự chấp thuận đề án 3 năm trong lúc phía Bắc Việt khó lòng chấp nhận chuyện này. Nếu chuyện này thành ,ông ta đã khéo léo đưa trách nhiệm lên vai chúng ta. Cái ông ta cần là tiếp tục chiến đấu cho đến khi kẻ xâm lăng cuối cùng ra khỏi lãnh thổ. Đây không phải là điều sai của ông mà công luận Hoa kỳ thì lại không chấp nhận . 

Ông Thiệu chống lại chúng ta(Hoa kỳ) bằng chiến thuật kiên trì…chúng ta cả hai đều đồng đến một kết luận, một miền Nam VN an toàn về lảnh thổ. Những ai trong chúng ta dự phần vào thương thảo hòa ước Ba lê đều không quá nghi ngờ cũng như không quá ngây thơ. Chúng ta nghĩ rằng Băc Việt sẽ gia tăng sức ép, nhưng chúng ta đã ngưng gia tăng mọi lực lượng và quốc hội chúng ta sẽ bỏ phiếu bắt buộc chúng ta bước ra khỏi cuộc chiến này vô điều kiện nếu chúng ta vượt quá giới hạn.Hoa kỳ hi vọng rằng thế bế tắc về quân sự ít nhất sẽ bảo đảm tính an toàn và có thể dẫn đến cuộc nói chuyện tay đôi giữa các phía VN với nhau. Ông Thiệu luôn nhìn vào chuyện trước mắt là quan trọng nhất.Cái gần nhất với ông không phải là hòa bình sau cùng mà địch quân trước mắt. Sau khi ngưng bắn, quân đội chúng ta sẽ rút về bên kia bán cầu; còn dân tộc của ông vẫn còn cảnh một đội quân tiếp tục hi sinh cho những hi vọng mong manh của nền độc lập tại Đông Dương. Chúng ta đã chắc rằng biện pháp của chúng ta sẽ kềm hãm tham vọng của Hà nôi ; Nhưng mắt của ông Thiệu chỉ chú mục vào những điều không chắc chắn về lâu dài. Về căn bản ông Thiệu có thể đúng , vì chuyện là nôi các tt Nixon không thể chống đối nỗi những quyết định từ quốc nội và nếu giá dư có thuận lợi chăng thì nội các đó cũng tránh né ý niệm về trách nhiệm của chúng ta. Ông Thiệu càng lúc càng ghét cay ghét đắng tôi vì vai trò kiến trúc sư của tôi về thỏa ước hòa bình này. Trong lúc này tôi chỉ biết thông cảm sâu xa về nỗi bực tức của ông , nhưng chúng ta không có chọn lựa nào khác. Hoa kỳ không thể phủ quyết khi Hà nội đã chấp thuận , những điều khoản rất hòa bình chúng ta đã đề ra với sự chấp thuận của ông Thiệu cho thời hạn ba năm. Cho đến hôm nay tôi kính trọng ông Thiệu như là một gương hào hùng của một kẻ dám chiến đấu cho nền tự do dân tộc của ông , một kẻ sau này đã chiến bại bởi những hoàn cảnh ngoài tầm tay cá nhân ông, đất nước ông và ngay cả ngoài vòng quyết định của chúng ta. 

Ông Thiệu viếng Hoa kỳ từ hôm 2/4/1973. Chúng ta chẳng được chút gì tự hào vê chuyến viếng thăm này. Suốt cuộc chiến vừa qua chúng ta chiến đấu vai bên vai với người dân đất nước ông , rất khó lòng chấp nhận ông vào thăm trong nội địa Hoa kỳ vì một nỗi e ngại sự chống đối của dân chúng. TT Hoa kỳ và ông đã kín đáo gặp nhau lần lượt tại Guam, Hawaii, và tại Midway. Ông Thiệu chưa bao giờ được phép đặt chân vào nội địa Hoa kỳ. 

Chuyến viếng thăm của ông Thiệu vào Hoa kỳ năm 1973 là cố tâm tạo dựng một biểu tượng về mối dây giao hảo trong giai đoạn hòa bình mới mà sự hi sinh của chúng ta dành cho một miền Nam tự do. Chuyện gần như hoàn toàn trái ngược. Sự chấm dứt chiến tranh chưa hẳn làm thôi nguy cơ chống đối của công chúng. Do đó chúng ta phải tiếp đón nhà lãnh đạo một nước đồng minh tại tòa ‘‘Bạch Ốc tại bờ Tây” tức là San Clemente, mà hàng chục ngàn sinh mạng người Mỹ cùng đồng minh và hàng trăm ngàn sinh mạng người VN phải hi sinh cho nền tự do của họ. Những buổi lễ tiếp đón và đưa tiễn phải bị thu hẹp lại cơ ngơi của TT cùng canh gác nghiêm nhặt. Ngay cả buôi tiệc tối quốc gia cũng phải chuyển đổi thành bữa tiếp tân gia đình . Lý do bào chữa của TT Nixon vì phòng ăn tối chỉ đủ chỗ không quá mười hai khách nhưng thực ra vì mời nhiều khách khứa sẽ mang lại nỗi e sợ những vị khách quá khích chống đối. 

Nhằm thực hiện lời hứa, phó TT Spiro Agnew được chọn làm vai trò chủ nhân tiếp đãi tại thủ đô. Tình cảnh buổi tiếp đó ông Agnew tiết lộ chớp nhoáng với tôi qua điện thoại trước khi phi cơ chở ông Thiệu hạ cánh. Agnew phàn nàn rằng chỉ có một nhân vật chính phủ là ông bộ trưởng lao động Peter J. Brennan đi theo để đón ông Thiệu thôi. Chỉ có một ít khách dự bữa tối đó với ông phó TT. Những nhân vật cao cấp trong nội các thì tìm cớ để ra khỏi thành phố lúc này. Đây là điều hổ thẹn vì những ngày tôi tùng sự tại Hoa thịnh Đốn mốt số nhân vật lãnh đạo Cộng Sản đã được tiếp đón một cách danh dự. Những giới chức cao cấp giành nhau đến dự cho được buổi dạ tiệc nhằm vinh danh những nhân vật trung lập đặc biệt họ từng chỉ trích nặng nề Hoa kỳ chúng ta. Nhưng một tổng thống chung thủy với một nước bạn bè thì chúng ta hững hờ phó mặc. 

Những kẻ này đã lấy lý do về những khiếm khuyết dân chủ của ông ta làm lý do bào chữa và đẩy đưa cả dân tộc ông về phía kẻ thù của dân chủ. Không có sự kiện thuyền nhân chạy trốn khỏi VN khi ông Thiệu còn tại chức. Rõ ràng hàng triệu bàn chân trốn chạy về vùng ông Thiệu kiểm soát tránh xa vùng đất CS chiếm đóng tức đã bầu cho ông ta rồi.Thói thường hay đổ tội cho việc dội bom của chúng ta nhưng sau này chắc hẳn một điều là đó là phản ứng đối với tính bạo tàn của chế độ CS. Ông Thiệu từng bước cố gằng mở rộng cơ cấu chính quyền – tuy chưa đầy đủ- ngay cả trong vùng CS kiểm soát nơi đó các giới chức của ông dễ thành mục tiêu.Theo phê phán của ông thì chuyện này chưa có lợi lộc nào cả. 

Theo cảm nhận từ chúng ta, điều có phần chắc miền Nam VN mới chỉ phôi thai tạo dựng một thể chế dân chủ. Cũng có những phê phán công bình về sự hà khắc cùng tham nhũng. Nhưng những khi phe đối lập của ông Thiệu trình bày những rắc rối từ nền chính trị đa nguyên tại Sài gòn tới giới báo chí chúng ta thì chúng ta chưa ai so sánh với Hà nội cả ; một nơi mà đối lập chưa bao giờ được chấp nhận , báo chí bị kiểm soát và sự liên lạc với truyền thông ngoại quốc hoàn toàn bị cấm đoán. Nói gọn đi,đòi hỏi này thật khó lòng đáp ứng cho được tình thuận lợi cho cách nhìn kiểu Mỹ đối với ông Thiệu. Kh tôi thăm dò bạn bè Âu châu về chuyến thăm của Ông Thiệu đến Hoa kỳ ngay cả khi kết hợp công du hay cá nhân , có một sự im lặng khó hiểu. Ông và ngay cả ngoại trưởng của ông cũng chưa bao giờ được tiếp đón tại thủ đô các nước đồng minh ngoại trừ Ba Lê nơi diễn ra hòa đàm- một tiến trình giải thể chính phủ ông Thiệu- bước đầu tiên trong việc bỏ rơi- diễn khá hay. Trong lúc đó , bà Nguyễn thị Bình , cái gọi là bộ trưởng ngoại giao cho chính phủ MA :CHÍNH PHỦ CÁCH MẠNG LÂM THỜI CỘNG SẢN , chưa hề có khả năng trình ra ngay cả một nơi làm thủ đô- thì lại được tiếp trọng thể tại Đông Âu. 

Thật là một hiện tượng lạ đời , ngừơi ta cứ tự ru ngủ mình bằng cách cứ thuyết phục những người đứng đắn và chân thiện hướng chuyện phẩn nộ về đạo đức vào cái gọi là bảo thủ. Trong cuộc chiến tại Âu châu có khẩu hiệu ” không có quân thù ở cánh tả ” Vào những năm sau chiến tranh báo chí Tây Phương dãy đầy chuyện vi phạm từ các chế độ như Tây ban Nha , Bồ đào Nha, Nam Hàn , Hy lạp , Ba tư , Nam VN và một số khác , Trong khi đó có nhiều nước những cái gọi là “dân chủ nhân dân ” đáng bị kiềm chế đáng phải hối cải về những chuyện tàn ác của họ vẫn tại Đông Âu hay chế độ chuyên chế thiên tả Thế giới Thứ Ba và dĩ nhiên có Cộng sản Bắc Việt. 

Đừng bao giờ cho rằng các chế độ “tiến bộ” là đầy tớ của nhân dân- các thử thách về lòng trung thành phục vụ dân chúng- bởi vì các chế độ này hoàn toàn là những thể chế toàn trị mà những chế độ bảo thủ thường gặp rối loạn vì họ không có cả lý thuyết lẫn công cụ để đàn áp có hiệu quả. Đừng cho là các thể chế bảo thủ sẽ để yên cho lân bang và có trường hợp sẽ tự phát triển thành các thể chế dân chủ(Tây ban Nha, Hy lạp , Bồ đào Nha) khi quân đội Sô viết áp đặt ý muốn họ lên thế giới lấy danh nghĩa chủ thuyết đại đồng. Chưa hề có ghi nhận nào về sự tiến triển tốt đẹp cho các chế độ chính trị ở Thế giới Thứ Ba vào thời hậu chiến. Làn sóng di dân ào ạt vào thời đại chúng ta luôn luôn phát xuất từ các nước CS chứ không hề theo chiều ngược lại. Thê mà vẩn còn những thói khinh mạng, xúc phạm cùng đối xử bất xứng để dành cho cho bạn bè Tây phương chúng ta như trường hợp ông Thiệu năm 1973 và sau này là Vua Shah của Ba Tư cùng trong cùng thập kỷ…

 

[skipped unrelated passages…] 

.Đất nước ông Thiệu bị tấn công bởi nhiều mặt trận, trước tiên là lực lượng du kích được Hà nội trang bị cùng huấn luyện và tiếp đến là sự xâm lăng ào ạt của lực lượng chính quy từ Bắc VN. Tuy thế chính phủ Hoa kỳ vẫn cố gắng gia tăng áp lực thúc đẩy vấn đề tổng tuyển cử và linh động trong thương thuyết phần nào tránh được sự lên án và xoa dịu chỉ trích dai dẳng tại quốc nội . Như là một phép lạ phát xuất từ lòng dũng cảm , ông Thiệu đã cố gắng lèo lái quốc gia trong giai đoạn cam go này, chiến đấu chống lại quân thù cố tâm xâm lấn và làm an tâm đồng minh nào chưa thông hiểu ông. Ông nổi bật với thỏa ứớc 1973 trong đó Hà nội phải từ bỏ những đòi hỏi về chính trị từ bao lâu nay mà quay lại cho vấn đề ngưng bắn còn tốt hơn chúng ta mong đợi, tuy còn bấp bênh theo kỳ vọng của ông. 

Về riêng tư tuy tôi dành ít cảm tình về ông Thiệu nhưng tôi rất kính nể ông vì ông là một người kiên tâm chiến đấu trong nỗi cô đơn ghê gớm(nguyên văn: terrible loneliness) sau cuộc rút quân của Hoa kỳ. Ông chấp nhận những cảm tình và thông hiểu ít ỏi dành cho ông. Chuyện đó không làm phẩm chất của ông hao mòn đi . Dù rằng nguyên thủ chúng ta đã tổ chức buổi đón rước ông với sự thiếu vắng từ phía công chúng ,phản ứng của ông xem như là chuyện thường tình trên thế giới này. Tại San Clemente, trong bài diễn văn lịch sự dành cho ông , TT Nixon có ám chỉ đến khả năng tự bảo vệ của miền Nam VN- một ý niệm nghi ngờ khi Hà Nội dốc toàn lực tấn công với vũ khí của Liên xô. Thật lạ như chuyện thần kỳ ông không vội suy sụp ngay khi so sánh với thực tế miền Nam với Châu Âu sau thế chiến Hai chúng ta đã duy trì 300,000 quân Mỹ ở lại tới một phần tư thế kỷ ! 

Sau các nghi thức buổi lễ , hai nhà lãnh đạo tiếp tục nói chuyện riêng với nhau. Thực sự, chẳng còn gì nhiều để bàn thảo thêm nữa . Ông chẳng hề kêu van về công chuyện chúng ta bỏ lại cho ông và ngay cả cái dã tâm từ phía Hà nội .Nhưng ông đưa ra một một sự kiện thưc tế trước mắt chúng ta là vi phạm từ phía Bắc Việt. Về riêng tư TT Nixon có bảo đảm với ông-cũng như TT đã từng công bố vào hôm 15 tháng Ba và vài nơi khác– rằng TT sẽ chống lại những vi phạm trắng trợn đó bằng vũ lực nếu thấy cần thiết. 

Cùng một lúc TT(tức Nixon) vừa năn nỉ vừa dọa dẫm ông Thiệu bắt miền Nam phải thi hành những điều khoản của hiệp định đề ra.Ông Nixon còn nhắn nhủ nếu có thất bại nào về Hiệp ước Ba lê thì rõ ràng trách nhiệm thuộc về cánh Hà nội. Ông Thiệu chỉ rõ trở ngại chính về sự thành lập Ủy Ban Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc do Hiệp ước đề ra là do Hà Nội từ chối cuộc tổng tuyển cử do ủy ban này giám sát. “Cuộc tranh đua về chính trị” này đã được một số người Mỹ nhiệt liệt tán thành cùng ủng hộ trong thời kỳ đang xảy ra chiến tranh nhưng sẽ không bao giờ được phía Hà nội thi hành lúc hòa bình . Cuộc tranh đấu bằng bầu cử, loại hình từng bị coi thường ngay trong chính quốc gia của nó nhưng nó không bao giờ gây mất mát cho cả một thế hệ nào. 

Sang ngày thảo luận thứ hai hai Ông Nixon và Ông Thiệu quan tâm vấn đề viện trợ cho miền Nam VN.Có một điều chưa thực tế cho lắm đối với các bên liên quan, vì người ta biết rằng sự ủng hộ của Quốc hội chúng ta ngay cả việc giúp đỡ phát triển về kinh tế cho miền Nam cũng thu hẹp lại quá mau.Phía Tự Do(Liberals) thì thấy không còn lợi lộc gì vì họ đã mất dần cam kết giúp cho Miền Nam sống còn , phía Bảo Thủ thì muốn tin rằng họ phải hoàn thành nhiệm vụ làm sao giúp cho cuộc chiến này chấm dứt trong danh dự. Hai phía đều biểu hiệu sự mệt mỏi của quốc gia. Ông Nixon hứa sẽ xem lời yêu cầu viện trợ của Sài Gòn làm mục tiêu trước mắt .Nhưng chuyện còn tùy thuộc vào ý kiến từ Quốc Hội. Ông Thiệu đã nhận được lời hứa trên thông cáo chung chính phủ rằng hai đồng minh sẽ duy trì “TÍNH CẢNH GIÁC” nhằm chống lại “SỰ TÁI TỤC TẤN CÔNG PHÍA CS SAU KHI LỰC LƯỢNG DIỆN ĐỊA HOA KỲ RÚT KHỎI NAM VN” và nữa, “BẤT CỨ HÀNH ĐỘNG NÀO GÂY ĐE DỌA TÍNH ỔN ĐỊNH CHO HIỆP ĐỊNH SẼ NHÂN LẤY PHẢN ỨNG MẠNH MẺ THÍCH ĐÁNG “đây là tuyên bố sau này trứơc công luận từ TT Nixon khi ông quyết tâm thi hành hiệp định. 

Sự mập mờ chưa dứt khoát về vấn đề viện trợ kinh tế không làm lu mờ lòng hưng phấn của ông Thiệu ngày ông rời San Clemente . Khi máy bay của ông cất cánh khỏi California , ông đã khui rượu uống mừng ghi nhớ sự hài lòng cùng khuây nguôi của ông từ cuộc nói chuyện với ông Nixon. Dù tánh ông hay nghi ngại cùng các dấu hiệu khó khăn tương lai đang tới dần–gồm thái độ do dự của chúng ta đối với sự vi phạm hiệp định của Hà nội và lưỡng lự viện trợ kinh tế cho miền Nam– thế mà lòng tin của ông không bao giờ thay đổi rằng Hoa kỳ sẽ đáp ứng viện trợ cho miền Nam trong trường hợp khẩn cấp. Đây cùng niềm tin từng được các đồng minh khác của Hoa kỳ ấp ủ xưa nay ,lòng trung thành từng tạo dựng nên một trong các giá trị căn bản của Hoa kỳ chúng ta đối với thế giới thế nên chúng ta gắng làm sao đừng để nó vuột mất.