NGÀY CỦA CHA,  VĂN THƠ LẠC VIỆT & THÂN HỮU

VTLV TRANG ĐẶC BIỆT MỪNG NGÀY TỪ PHỤ

**

**

**

THƠ CHÚC MỪNG NGÀY TỪ PHỤ

(Thủ nhất thanh – Nhị khúc)

CHÚC ngày tháng Sáu rộn ràng nha!

CHÚC khắp hoàn cầu mở tiệc hoa

CHÚC thọ Father dâng mỹ tửu

CHÚC an Từ Phụ hiến Tiên trà

CHÚC lòng trung hiếu luôn bền vững

CHÚC chữ nghĩa nhân mãi hiệp hoà

CHÚC hãy đừng quên ơn dưỡng dục

CHÚC toàn chốn chốn thảy mừng CHA

*

MỪNG Cha luôn được sống an nhàn

MỪNG kính Phụ thân thọ tuổi vàng

MỪNG nhận niềm vui thêm chất ngất

MỪNG mong hạnh phúc mãi đầy tràn

MỪNG trong gia đạo nhìn con hiếu

MỪNG chốn học đường thấy cháu ngoan

MỪNG Lễ Father’s xin ước nguyện

MỪNG chờ ngày trở lại giang san….

   Phương Hoa – HAPPY Father’s Day 

**

**

*Ngày Hiền Phụ tại Hoa Kỳ

Cách nhìn ngày nay về việc kỷ niệm Ngày Hiền Phụ có nguồn gốc từ Hoa Kỳ, sau đó truyền thống này lan truyền sang các nước trên thế giới. Thế giới mang ơn bà Sonora Louis Smart Dodd, một người con yêu thương ở Spokane (Washington) vì bà đã tranh đấu để có Ngày Hiền Phụ như ngày nay. Bà cho rằng chúng ta tôn vinh những người Mẹ mà lại quên công khó của những người Cha trên cương vị “chống mũi chịu sào”.

Ý tưởng về Ngày Hiền Phụ xuất hiện trong đầu bà Sonora khi bà tình cờ nghe bài giảng thuyết về Ngày Hiền Mẫu năm 1909. Lúc đó bà 27 tuổi, bà nghĩ: “Nếu có ngày tôn vinh Mẹ thì tại sao không có ngày tôn vinh Cha?”. Bà cảm thấy thương những người cha vì tình thương bà nhận được từ người cha của bà là ông William Jackson Smart, một cựu chiến binh. Mẹ bà qua đời do sinh con khi Sonora mới 16 tuổi. Ông Smart phải chịu cảnh “gà trống” nuôi 5 đứa con bằng tất cả lòng yêu thương và chăm sóc của người cha kiêm chức năng làm mẹ.

Được cảm hứng từ việc bà Anna Jarvis đấu tranh để có Ngày Hiền Mẫu, bà Dodd bắt đầu khởi xướng tổ chức Ngày Hiền Phụ tại Hoa Kỳ. Hiệp hội Chính quyền Spokane (Spokane Ministerial Association) và Hiệp hội Thanh niên Kitô giáo (Young Men’s Christian Association – YMCA) tại địa phương ủng hộ ý nguyện của bà Sonora. Kết quả là Ngày Hiền Phụ được tổ chức lần đầu tiên vào ngày 19-6-1910. Dù ban đầu có sự lưỡng lự, nhưng vẫn được nhiều người ủng hộ, và Ngày Hiền Phụ được tổ chức tại các thành phố trong quốc gia Hoa Kỳ.

Thấy rất nhiều người tụ họp kỷ niệm Ngày Hiền Phụ tại Hoa Kỳ, tổng thống Woodrow Wilson phê chuẩn việc này vào năm 1916. Tổng thống Calvin Coolidge cũng ủng hộ Ngày Hiền Phụ mang tính quốc gia của Hoa Kỳ vào năm 1924: “Hãy thiết lập các mối quan hệ thân mật giữa cha con và nhấn mạnh vào trách njiệm của họ”. Sau 40 năm đấu tranh, tổng thống Lyndon Johnson ký lệnh dùng Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu là Ngày Hiền Phụ từ năm 1966. Năm 1972, tổng thống Richard Nixon ký quyết định vĩnh viễn kỷ niệm Ngày Hiền Phụ vào Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu hằng năm. Bà Sonora Smart Dodd được tôn vinh vì bà đã góp phần vào Hội chợ Thế giới (World’s Fair) ở Spokane năm 1974. Bà Dodd qua đời năm 1978, hưởng thọ 96 tuổi.

father-7.gif

*Các giả thuyết về lịch sử Ngày Hiền Phụ

Có vài giả thuyết về Ngày Hiền Phụ. Một số người co rằng Ngày Hiền Phụ đầu tiên được tổ chức tại miền Tây Virginia năm 1908. Một số người khác cho rằng lễ này được tổ chức lần đầu tại Vancouver, Washington.

Chủ tịch câu lạc bộ Lions tại Chicago, ông Harry Meek, được coi là người tổ chức Ngày Hiền Phụ đầu tiên vào năm 1915 để nhấn mạnh vào việc tôn vinh những người cha. Ông chọn Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu để kỷ niệm, đó là ngày gần sinh nhật của ông Meek. Để đánh giá công việc của ông Meek, CLB Lions của Hoa Kỳ đã tặng ông chiếc đồng hồ bằng vàng, với lời đề tặng “Người khởi xướng Ngày Hiền Phụ” (Originator of Father’s Day) vào chính sinh nhật của ông, 20-6-1920. Một số sử gia tôn vinh bà Charles Clayton ở Tây Virginia là người khởi xướng Ngày Hiền Phụ.

Năm 1957, thượng nghị sĩ Margaret Chase Smith viết thư gởi quốc hội: “Dù chúng ta tôn vinh người cha hay người mẹ thì cũng đừng bỏ người nào. Người cha hay người mẹ bị bỏ quên cũng đều cảm thấy buồn vậy”.

Ngày Hiền Phụ được kỷ niệm vào những ngày khác nhau ở các nước khác nhau. Đa số các nước – kể cả Hoa Kỳ, Anh, Canada, Chilê, Pháp, Nhật và Ấn Độ – đều kỷ niệm Ngày Hiền Phụ vào Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu.

Mặc dù Ngày Hiền Phụ không cố định giống nhau tại các nước và cách kỷ niệm cũng khác nhau, nhưng ở đâu cũng chung một tâm tình là tôn vinh công lao của những người cha và bày tỏ lòng yêu thương đấng sinh thành. Vào ngày này, con cái gởi thiệp mừng, hoa và quà cho cha mình để bày tỏ lòng yêu thương và kính trọng.

Tại nhiều quốc gia có đa số là người Công giáo thì Ngày Hiền Phụ được mừng vào ngày lễ kính Đức Thánh Giuse, ngày 19 tháng Ba.

Ngày Hiền Phụ được coi là rất quan trọng vì ngày này giúp nhận thức về công lao của những người cha đối với gia đình và xã hội. Việc cử hành Ngày Hiền Phụ không chỉ giúp những người con có cơ hội bày tỏ yêu thương và kính trọng đối với cha mình, mà còn giúp củng cố quan hệ phụ tử và phát triển tình cảm của người con dành cho cha mình.

Không quân Lê Văn Hải sưu tầm

**

NGƯỜI CHA LAO CÔNG

Phương Hoa

Buổi trưa, bầu trời trên thành phố biển Berkeley trong xanh. Nắng thật đẹp. Ánh nắng rực rỡ nhưng khí hậu lại man mác, dịu dàng. Hơi mát len nhẹ vào phòng đợi tầng hai của bệnh viện từ cánh cửa tự động mỗi khi có người vào ra, mang theo mùi hương thoang thoảng từ vườn hoa đủ loại ngoài sân thượng bệnh viện.

Đột nhiên trời trở gió. Những cơn gió mạnh ào theo bước chân của khách tạt vào làm bay tốc các tờ tạp chí và làm chao đảo các cành hoa đầy màu sắc trong mấy chiếc độc bình lớn trên bàn, cạnh những bộ sofa khách đang ngồi. Từ phía sau, một người đàn ông Việt Nam mặc bộ đồ màu xanh xám của nhân viên bệnh viện đẩy chiếc xe chất đầy dụng cụ lau nhà phăng phăng đi ngang qua phòng đợi, vừa đi ông vừa cởi chiếc khẩu trang ra thảy vào trong giỏ rác.

– “Hey! Mr. Lac!” Già Lạc ơi! Cô y tá từ trong phòng lab bước ra gọi. – Ông có thể giúp chỉnh đốn lại mấy bình hoa kia được không? Và cả những khay trái cây luôn, làm ơn nha! Lát nữa đây có phái đoàn trên trung tâm chính xuống khảo sát, mà tất cả mọi người đều bận, kể cả các thiện nguyện viên, nên mới nhờ đến ông đó.

– “Yes Anna! No Problem!” Được cô Anna ơi! Không sao đâu! Ông Lạc cười xởi lởi, khoe hàm răng ngả sang màu ngà vì khói thuốc đã bị mất chiếc răng nanh bên trái. – Để tôi cất cái xe này vào kho đã rồi sẽ làm ngay.

Ông Lạc trở ra sắp xếp mớ tạp chí và lau dọn sạch các mặt bàn rồi ngồi xổm xuống trước một bình hoa, tỉ mỉ sắp xếp lại và đổ thêm nước cho đầy bình để sức gió không thể lung lay. Bình hoa thật lớn. Chen lẫn trong nhóm hoa hồng hoa cúc và hoa huệ, là những đóa hướng dương màu vàng sậm, to lớn giống những chiếc gương tròn, nặng quằn dường như quá sức chịu đựng của cuống lá mảnh mai. Nhưng dù bị gió làm cho nghiêng ngả, chúng vẫn ngoan cường tươi tắn ngạo nghễ nhìn đời, và vẫn luôn cất cao đầu hướng về phía cửa, nơi có ánh nắng mặt trời chói chang vừa bị mây đen kéo qua che khuất.

Ngồi cắm lại những bông hoa xiêu vẹo, ông Lạc tẩn mẩn nghĩ, bịnh nhân ung thư đang điều trị trong khu này cũng giống như những bông hoa mặt trời. Những lần xạ trị đốt cháy thịt da, bao đợt hoá trị phờ người vật vã ói mửa, họ vẫn kiên cường chống chọi. Dù mang bệnh hiểm nghèo, họ gắng sức chiến đấu để giữ lại sự sống. Không biết có phải do vậy mà bệnh viện mới đem chưng loài hoa này ở đây hay chăng, vì ông thấy hầu hết các phòng, chỗ nào cũng có chưng hoa mặt trời.

Những người ngồi chờ nhìn ông làm việc, gật đầu khen ông làm “good job” làm ông cũng thấy vui vui trong lòng.

Làm xong ông Lạc bước lại chỗ kệ để thức uống và trái cây. Trong khay chỉ còn có mấy trái chuối, ông ra nhà bếp bưng tới một rổ táo, chuối, và cam quýt, chất vào cho đầy. Tất cả đều là những loại trái cây hữu cơ “organic” trái nào trái nấy trông sạch sẽ và mạnh mẽ. Nhìn những cái khay đặt cạnh bình nước nóng chứa đầy các loại túi trà, cafe khác nhau kèm theo nhiều túi đường sữa bên cạnh, rồi những bì chips, bánh quy mặn ngọt lạt gì cũng có, ông Lạc thấy khâm phục cách chăm sóc bệnh nhân rất chu đáo ở đây. Ngày ba bữa sáng trưa tối họ cung cấp thức ăn với đầy đủ dinh dưỡng cho bệnh nhân, ai muốn ăn món gì thì có thể đặt hàng cho mình, y tá sẽ đem tới bất cứ lúc nào. Trong tủ lạnh của khu vực này lúc nào cũng đầy ắp sữa tươi, bánh mì kẹp thịt, cá thu, cheese, yorgut, và các loại kem là những thức ăn vặt cho bệnh nhân đỡ lòng khi nào họ cảm thấy đói mà chưa tới giờ ăn chính.

Làm cái job lao công ở đây mười mấy năm, ông Lạc quen biết tất cả mọi người, từ bác sĩ, y tá đến các chuyên gia dinh dưỡng. Người ta cũng rất thích ông vì sự vui vẻ, hiền lành, và làm việc với sự tận tâm. Bà Hạnh vợ ông bị bịnh ung thư cũng được chữa trị ở đây. Các bác sĩ đã hết sức tận tình cứu chữa cho bà lành bệnh. Chỉ tiếc là sau khi hết bệnh bà đã quá ỷ y nên mải lo đi làm không chú ý theo dõi thường xuyên về sức khỏe. Chục năm sau, khi biết bệnh tái phát thì đã quá muộn màng. Các bác sĩ rất giỏi nên họ cũng giúp bà kéo dài thêm được mấy năm.

– Bố Lạc ơi! Làm dùm cho con một ly cà phê với “đường không ngọt” (nonsweetener) đi!

Ông Lạc giật mình quay lại. Đó là Tazee, cậu bệnh nhân “con bà phước” người Mỹ Trắng trẻ nhất, điều trị lâu nhất trong khu này. Một đứa trẻ tội nghiệp. Ông thường nghĩ vậy mỗi khi gặp Tazee. Cậu chỉ mới hơn 20 tuổi đầu mà mắc chứng ung thư mũi vào gian đoạn III trong khi đang học năm thứ hai ở trường Laney College. Suốt mấy tháng điều trị, không hề thấy có thân nhân nào đến thăm, dù khi cậu bị thuốc hành phải nằm cả tuần trong phòng cấp cứu, cũng chẳng có ai chở dùm đến bệnh viện dù chỉ một lần. Cậu lúc nào cũng tự lái xe đến phòng xạ trị và hoá trị rồi chạy về. Mọi người từ bác sĩ đến y tá đến nhân viên nhà bếp, kể cả nhân viên vệ sinh như ông Lạc cũng đều thương Tazee, vì cậu rất can đảm, chấp nhận điều trị căn bệnh hiểm nghèo, không bao giờ tỏ ra sợ hãi hay than phiền.

Tazee lớn lên bất hạnh. Cha mẹ ly dị khi cậu vừa đủ 18 tuổi phải ra tự lập. Cậu vào học đại học vừa đi làm ở McDolnal để có tiền sinh sống và học phí. Cha mẹ cậu sau đó đã tái hôn và dọn đi tiểu bang khác. Mỗi người tự lo cho hạnh phúc của riêng mình, nên họ không hề nhớ đến đứa con đang bệnh hoạn này. Cậu kể, cả cha mẹ cậu ngày còn ở chung hai người đều hút thuốc lá uống rượu mạnh, cho nên chỉ mười tuổi đầu cậu cũng bắt chước làm theo. Bác sĩ nói, rượu mạnh và thuốc lá là nguyên nhân chính dẫn đến căn bệnh của cậu. Ông Lạc thương Tazee hơn ai cả vì cậu ta cũng cỡ tuổi thằng Jimmy con ông. Ông thường vô nhà bếp lấy thức ăn mỗi khi cậu nhờ. Chỉ cần nói cho Tazee là món gì cậu cần nhà bếp cũng cho.

Tazee nhìn ông lạc cười rạng rỡ. Một tay cậu cầm chiếc mặt nạ xạ trị màu xanh lá mạ, tay kia ôm một khung hình.

– Hey bố Lạc! Bác sĩ vừa mới cho con xuất viện khi nãy! Tazee nói, đưa chiếc mặt nạ ra trước mặt ông. – Còn đây là “tấm bằng khen” con đã hoàn thành tốt việc chữa trị! “Ngon lành” chưa! Tazee đùa thêm một câu.

Ở khu này, mỗi khi bệnh nhân nào lành bệnh thì bác sĩ cho xuất viện và cấp một tấm giấy chứng nhận việc chữa trị đã hoàn thành, mọi người gọi đùa đó là “tấm bằng khen” hay là “giấy khai sinh thứ hai.” Điều này rất đúng! Những căn bệnh ung thư chữa hết thì coi như được tái sinh lại lần nữa chứ còn gì. Bác sĩ cũng đưa cho bệnh nhân cái mặt nạ xạ trị được thiết kế riêng cho họ để mang về nhà làm kỷ niệm.

– Wow! Chúc mừng Tazee nha! Ông Lạc kêu lên, nhìn vào tấm bằng trong khung hình và đưa ngón cái lên ra dấu “number one” rồi suýt xoa. – “You did it!” Cậu đã làm được rồi! Giỏi quá! Tôi sẽ làm cho cậu ly cà phê ngon… nhất nước để chúc mừng nghe! Ông đùa xong vội lấy ly pha cà phê cho Tazee.

Nhìn cậu thanh niên, ông Lạc chợt xúc động. Sự can đảm đã cứu lấy cậu trai này. Nhớ lại những ngày chữa trị, Tazee đã trải qua những khổ đau thế nào. Cậu vật vã với ói mửa, đau đớn, mặt mũi bị cháy nám ra tới ngoài da, kể cả ngất xỉu phải đưa lên phòng cấp cứu. Dù chính ông cũng từng chịu đựng bị hành hạ khi ở tù, nhưng chứng kiến cái cảnh bệnh hoành hành, ông không biết mình có thể chịu đựng được như Tazee hay chăng.

Nhìn theo dáng đi thật thong thả, thật nhàn nhã của Tazee so với những ngày cậu mới vào đây bước đi không nổi, ông Lạc bất giác thở dài, nghĩ đến thằng con Jimmy của ông. Trong khi Tazee và bao nhiêu bệnh nhân ở đây phải ráng chiến đấu với thần chết để giành lại mạng sống thì thằng con ông lại đi đâm đầu vô chỗ chết. Mấy tháng qua, cuối tuần nào ông cũng lặn lội qua thành phố San Francisco để tìm thằng Jimmy. Có lần tìm thấy nó đứng chung với mấy đứa Mỹ, ông mừng quá chạy vội tới. Trong lúc lính quýnh vừa chạy vừa dòm chừng sợ nó bỏ đi, ông vấp phải cái bục xi măng cạnh lề đường và ngã sóng soài. Đến khi ông lò dò đứng dậy được thì chỉ còn mấy đứa kia, thằng con biến đi đâu mất. Ông chạy lại hỏi, tụi nhóc cười hô hố không trả lời.

Chiều thứ Sáu đi làm về, ông Lạc ăn vội miếng cơm rồi khoác lên bộ đồ đen nhem nhuốc rách rưới, đôi giày cũ mèm mòn hết đế, đội chiếc mũ lác Mễ ông mua ở chợ 99 cent về bôi cho loang lổ. Kỳ này ông thay đổi chiến thuật, giả dạng làm người ăn xin để qua San Francisco lần nữa. Trong mấy ngày nghỉ cuối tuần, ông nhất quyết phải kiếm cho bằng được Jimmy. Với cái bao rác màu đen to đùng, bên trong đựng tấm nilon cùng chiếc mền rách và vài thanh kẹo cốm để đỡ lòng khi đói, ông ra vườn sau vơ mớ đất cát trong chậu cây thoa lên mặt và hai tay phụ họa cho phần cải trang để thằng Jimmy không nhận ra ông. Đón xe Bart qua San Francisco, ông Lạc vác cái bao từ đường Market đi lần về hướng sau lưng Toà Thị Chính.

Trời đã xâm xẩm tối, bầu không khí của thành phố biển trở nên lạnh dần. Dãy đèn đường giăng giăng ánh sáng vàng vọt trên những ngọn cây dọc theo đường Ellis và Olive như rải chút niềm hy vọng chở che cho đám người cùng khổ có chỗ nghỉ ngơi, sau một ngày lang thang tản mác khắp nơi kiếm sống. Đó là lúc các tiệm quán hai bên đường bắt đầu đóng cửa, “trả lại” vỉa hè cho những kẻ không nhà. Quả thật đúng như người ta nói, thành phố San Francisco là nơi dung chứa tốt nhất cho “Homeless.” Trời càng tối thì người ta càng lũ lượt, kẻ đẩy xe shopping cart trên chất ngổn ngang các thứ quần áo chăn mền, người mang cặp, kẻ vác bao, trở lại vị trí cũ của mình, trải những tấm nilon, tấm bạt xuống vỉa hè chuẩn bị cho giấc ngủ.

Ông Lạc cũng chen vào gần với họ vì không muốn ngồi một mình sẽ bị cảnh sát đi tuần để ý. Thấy chỗ góc đường Ellis gần đường Larkin còn một khoảng trống chưa có ai ngồi, ông lò dò bước lại đặt cái bao xuống. Trải tấm nilon ra ngồi, qua chiếc mũ sùm sụp ông quan sát thật kỹ xung quanh. Gần đó, nhiều người đã chui vô chăn trùm kín mít, chỉ còn vài người đang phì phèo thuốc lá, những đóm lửa tỏa sáng trên đầu môi họ.

Thấy hơi đói, ông mở túi nilon lấy một thẻ kẹo trái cây nhai xong, cột túm cái bao lại đặt trên tấm trải và đứng dậy lững thững đi ngược về phía con hẻm bên cạnh. Đâu có gì quý giá trong đó mà lo. Những kẻ không nhà này chắc không ai đi trộm đồ “đồng nghiệp” của mình. Tới cuối đường, ông Lạc nhìn vào trong hẻm. Đó là một khu vực tối tăm của đường Eddy, nơi ông đã có lần nhìn thấy Jimmy sau lần gặp nó gần Tòa Thị Chính. Con đường vắng vẻ không thấy bóng dáng ai, ngoài những cụm người đắp chăn nằm lù lù rải rác từ phía xa gần đường Polk.

Trời về khuya, xe cộ lúc này đã giảm bớt qua lại, những kẻ không nhà quanh đây cũng đà ngon giấc. Khu phố thật yên ắng. Thỉnh thoảng một vài chiếc xe của những người đi làm về trễ chạy chậm chạp mệt mỏi ngang qua, trông buồn tẻ cô đơn như những con nhạn lạc bầy. Ông Lạc ứa nước mắt nghĩ đến thằng con.

Là một người trước đây dù kẻ thù hành hạ cỡ nào nước mắt cũng không rơi, mà từ dạo vợ qua đời rồi đến lượt thằng con giở chứng, ông đâm ra như người “mít ướt,” nước mắt cứ chảy thường xuyên…

**

Thằng Jimmy là đứa “con trai cầu tự,” là đứa con…đẻ ráng, sau ngày vợ chồng ông đến Mỹ diện HO.  Ông Lạc từng là một sĩ quan của Quân Lực VNCH, đi tù khi Mỹ Hạ con gái đầu lòng của hai vợ chồng mới lên bốn tuổi. Lúc sinh Jimmy, bà Hạnh đã ngoài bốn mươi. Thời gian sau theo dõi, bác sĩ nói đứa bé có vấn đề tâm lý, bị trầm cảm, cần phải được chăm sóc cẩn thận. Nghe lời khuyên, vợ chồng ông tìm đọc sách báo để biết cách nuôi con. Khi thằng bé bắt đầu đi học, ông Lạc gửi nó vào một trường bán công (Charter School) để họ chăm sóc cho kỹ càng. Nhờ vậy, Jimmy lớn lên ngoan hiền, học giỏi, chỉ tội ít nói chuyện ngoài ra không có vấn đề gì trầm trọng.

Đứa con gái lớn Mỹ Hạ của ông bà học rất giỏi.  Đó cũng là tấm gương sáng cho Jimmy. Thằng bé cũng như chị gái, thay phiên nhau đem về khoe thành tích nhất nhì lớp của trường Oakland với cha mẹ. Ông Lạc rất mừng, từ những thông tin ông tìm được trước đây, trẻ mắc bệnh trầm cảm hoặc tự kỷ nếu chăm sóc tốt từ nhỏ, lớn lên nó có thể trở thành nhân tài.

Mỹ Hạ học xong đại học, ra đi làm rồi lấy chồng và dọn qua New York sống.  Jimmy tốt nghiệp trung học loại giỏi, đứng trong nhóm đầu bảng Top 10 học sinh giỏi của trường Oakland Charter Highschool và được nhận vào Laney College.  Vợ chồng ông thở phào nhẹ nhõm, vất đi nỗi lo canh cánh bên lòng về Jimmy.

Jimmy vừa học college vừa đi làm ở tiệm KFC trong thành phố. Mọi thứ đều suông sẻ. Thằng con học giỏi lại đẹp trai nên dù nhút nhát, ít muốn tiếp xúc với mọi người, nó cũng có được đứa con gái cùng lớp tên Anna người Mỹ Trắng theo hò hẹn. Điều này làm vợ chồng ông vui lắm.

Nhưng rồi tai họa đã giáng xuống cho gia đình ông, khi Jimmy bước sang năm học thứ hai. Đó là lúc bà Hạnh qua đời. Jimmy từ nhỏ rất thân thiết và gần gũi quấn quít bên mẹ. Bà cưng chiều, chăm chút cho con trai từng tý từng ly vì nỗi ám ảnh từ lời bác sĩ là nó bị bệnh. Dù đã lớn, mỗi lần đi học về Jimmy đều chạy tìm mẹ, mỗi tối trước khi đi ngủ thằng bé luôn vô phòng hôn mẹ và chúc ngủ ngon. Cho nên cú sốc mất mẹ làm cho Jimmy trở nên hoảng loạn.

Sau đám tang vợ, ông Lạc dù buồn khổ cũng phải cố gắng trở lại đi làm. Nhưng Jimmy thì không dậy nổi. Nó nằm bẹp dí, khóc cả tuần lễ, dù con bồ Anna thường tới an ủi vỗ về, nó cũng không chịu dậy đi học lại. Vốn là đứa học giỏi, giờ bỏ lớp giữa chừng, nên khi biết mình bị điểm F, rớt hết các môn, Jimmy càng căng thẳng và hụt hẫng. Nó nằm lì trong nhà, không thiết cả ăn uống tắm rửa hay đi ra ngoài. Ông Lạc bận đi làm, ông cố làm thêm nhiều giờ cho quên đi nỗi buồn, nên không hề biết những diễn tiến tâm lý tồi tệ của Jimmy.

Rồi đến một ngày, khắp người Jimmy bỗng nhiên nổi toàn mẩn đỏ, ngứa và tróc từng lớp ở da đầu, ở mặt, cùi chỏ, đầu gối… Nó mắc phải chứng bệnh người ta thường gọi là “chứng vảy nến.” Và con bé Anna bỏ nó đi luôn từ đó.

Căng thẳng tiếp nối căng thẳng, khổ đau liên tục khổ đau, Jimmy bộc phát mạnh chứng bệnh trầm cảm mà lúc nhỏ bác sĩ đã phán đoán. Vì mặc cảm thân mình gớm ghiếc, nó trở nên khó chịu, chán đời, nhưng nhất quyết không đi bác sĩ để chữa trị. Mặc cho cha khuyên bảo năn nỉ để cha đưa đi, nó vẫn không nghe. Ông hỏi thăm những bác sĩ trong bệnh viện và các y tá, thì họ cho biết chứng vảy nến tuy khó trị nhưng không lây lan nên ông cũng tạm yên tâm.

Khi căn bệnh Jimmy trở nên nghiêm trọng, các vảy nến rơi ra từ người nó lâu ngày chúng biến thành những con giòi trắng ngà, bò ngổn ngang khắp ra giường và phòng ngủ của nó trông rất ghê rợn.  Và ông Lạc đau đớn khám phá ra nó lén dùng ma tuý. Đi làm về bước vào nhà, ông nhận ra cái mùi hôi tanh của ma túy. Giờ ông mới biết tại sao lâu nay thằng bé có thể chịu đựng được sự ngứa ngáy dơ nhớp khó chịu thế kia. Mỗi ngày ông đều năn nỉ Jimmy để ông đưa đi bác sĩ, nhưng vô ích, nó không thèm đếm xỉa tới cha nữa. Muốn nhờ cảnh sát giúp, buộc đưa nó đi chữa trị và cai nghiện, nhưng ông không nỡ. Vậy mà vài tháng trước, nó bỏ nhà đi mất.

Vừa đi vừa miên man suy nghĩ, ông Lạc vượt qua con hẻm Eddy lúc nào không hay. Thình lình ông nghe có tiếng nhốn nháo từ phía đàng sau. Ông dừng chân quay lại, kéo sụp cái mũ xuống và bước dần về hướng đó rồi đứng nép sát người vào góc tường của một ngôi nhà nhìn vào.

Dưới ánh đèn đường, ông Lạc thấy một đám ba thằng choai choai mỗi đứa tay cầm một khúc cây ngắn đang bao vây một đứa con trai vào giữa, chúng nói gì đó có vẻ như đe doạ. Đứa nạn nhân ngồi bệt dưới đất, hai tay bị trói ngoặt ra sau, hai chân cũng bị trói đang cố sức vùng vẫy, nhưng tuyệt nhiên nó không kêu cứu hoặc kêu than một tiếng nào.

Bỗng nhiên có một đứa con gái từ đâu chạy nhào tới la hớt hải:

– “Stop it! Thomas!” Dừng lại Thomas! Đừng có đánh nó! Tao đã bỏ nó rồi mà! Nó bị bịnh hoạn tội nghiệp lại dơ nhớp thế kia mày ghen cái gì cơ chứ!

Ông Lạc giật bắn mình. Đó là tiếng của Anna, con nhỏ bồ của Jimmy. Ông vẹt hẳn cái mũ lên nhìn cho kỹ đứa ngồi dưới đất và sém chút nữa ông bật kêu thành tiếng:

– Jimmy! Trời ơi!

Nhưng ông kịp cắn răng và ngậm chặt miệng lại. Ông nhìn quanh quan sát để tìm cách cứu thằng con. Bên cạnh bọn chúng là cái thùng rác, bên kia cách vài mét là cây trụ điện. Ba thằng Mỹ tuy cao to nhưng cũng chỉ là mấy thằng nhóc mới lớn, lẽ nào cái người từng là cấp chỉ huy của một đại đội oanh liệt thiện chiến, học diệt thù có bài bản từ trường Võ Bị Quốc Gia, mà địch không lại bọn chúng hay sao. Ông nghĩ vậy, nhưng cũng chợt nhớ ra là mình bây giờ cũng đã trên sáu mươi, chân bắt đầu run, gối cũng đã mỏi. Nếu là thuở xưa thì cái đám này nghĩa lý gì. Ông lùi lại rút điện thoại ra gọi 911, phòng ngừa nếu lát nữa có chuyện gì xảy ra cho hai cha con thì có người tiếp cứu.  Báo cho cảnh sát biết địa điểm xong, ông nhẹ bước tiến dần về phía chúng nó.

– Ê! Jim! “Son of a bitch!” Ê! Thằng Jim chó đẻ! Một thằng trong bọn lớn tiếng nói, tay hươi hươi khúc cây trước mặt thằng Jimmy. – Anna đã xin cho mày đó! Mày hãy “beg,” van bọn tao đi! Tao sẽ tha cho mày!

Thằng Jimmy vẫn không nói một lời. Nhưng khi thằng kia chồm tới gần

định dọa nó hay nói gì đó thì nó nhổ toẹt một bãi nước miếng vào mặt thằng đó.

Như chỉ chờ có thế. Cả bọn nhào vô dùng khúc cây trên tay quật liên tiếp vào thằng Jimmy. Con Anna la hét om sòm, nhào vô vừa lôi kéo, vừa kêu tụi nó dừng tay, nhưng một thằng trong bọn xô mạnh con nhỏ té lăn quay xuống đất và dọa:

– Tụi tao chỉ trừng phạt chứ không có ý định giết nó! Nhưng nếu mày còn bênh nó mà la lối thì tao sẽ đập cho nó chết luôn!

Con nhỏ hoảng hồn bỏ chạy ra ngoài gọi cảnh sát.

Ông Lạc không thể chờ được nữa nên phóng vội tới để cứu Jimmy. Thấy thằng con nằm cong lại, oằn người nhận những cú nện như trời giáng của ba thằng du côn mà không kêu la, ông hét lên một tiếng thật to, chộp lấy cái thùng rác đẩy mạnh về phía hai thằng bên phải. Bất thình lình bị cái thùng rác tông vào, một trong hai thằng té nhào xuống đất. Nhưng ông Lạc bị mất thăng bằng cũng ngã nghiêng qua một bên. Ông nhanh chóng gượng dậy, đứng theo thế võ xuống tấn để lấy lại thăng bằng, rồi bay vụt lên đá mạnh vào đầu cái thằng đang vung khúc cây lên chuẩn bị táng xuống Jimmy, làm cho nó văng ra xa nằm im không động đậy. Khúc cây rời khỏi tay hắn đập vào cái trụ điện rồi văng lông lốc ra giữa đường.

Thằng còn lại và thằng té ngã bây giờ đã đứng dậy. Mới thoạt đầu chúng kinh hãi khi có người tới cứu Jimmy. Nhưng giờ hoàn hồn nhìn thấy người tấn công chúng là một ông già Á Châu ốm nhách, chúng không còn sợ nữa. Hai thằng bèn bỏ Jimmy, cùng lúc nhào vô tấn công ông Lạc. Ông chẳng hề nào núng chút nào. Tình thương con đã làm ông mạnh mẽ, phát điên lên, ông xông thẳng vào đánh bọn chúng bằng tay không nhưng mạnh như bão táp. Chỉ trong nháy mắt, hai thằng nhóc Mỹ to kềnh bị ông Lạc đánh cho bò lê bò càng, rồi ngã lăn ra ôm bụng nằm oặt oẹo. Quay sang con, ông thấy Jimmy nằm im không cục cựa nên vội chạy lại.

– Jimmy! Con có sao không? Để ba mở dây trói cho con!

Ông vừa thở hổn hển vừa nói, rồi cúi xuống mở dây cho Jimmy.

Trong lúc ông loay hoay mở dây trói trên tay cho Jimmy, bất ngờ cái thằng nằm xỉu ngoài đường tỉnh lại. Nó bò tới nhặt khúc gỗ lên, đứng bật dậy thật nhanh và nhào tới nhắm ngay đầu Jimmy bổ xuống từ phía sau lưng. Ông Lạc trông thấy hét lớn:

– Jimmy!

Ngay lập tức ông nhoài người tới ôm thằng con đẩy nó ngã xuống, và ông lãnh trọn cú đập như trời giáng vào đầu. Ông Lạc đổ gục xuống trên mình Jimmy, vừa lúc tiếng còi xe cảnh sát chạy tới hú lên vang dội…

*

Đã hai ngày trôi qua, tại phòng cấp cứu của bệnh viện San Francisco, ông Lạc vẫn còn nằm bất động, dây nhợ máy móc chằng chịt trên người.  Cú đánh vào đầu đã làm ông bị chấn thương sọ não. Bác sĩ phải giải phẫu, hút hết máu tụ trong đó ra, nhưng họ nói vết thương quá nặng, cho dù cuộc giải phẫu thành công nhưng ông có tỉnh lại được hay không thì họ chẳng có nhiều hy vọng.

Con gái ông, Mỹ Hạ từ New York bay về từ hôm trước đang ngồi ủ rũ trong phòng.

Thằng Jimmy đầu đội chiếc mũ dìm che mái tóc bù xù và cái trán ửng đỏ, mặc bộ quần áo rộng thùng thình phủ cả cổ và hai cánh tay vảy nến Mỹ Hạ mua về bắt nó mặc, đang ngồi cạnh giường ôm lấy hai tay cha khóc rưng rức. Nó đã không ăn, bỏ ngủ từ hôm thứ Sáu đến giờ. Cú sốc mất mẹ, rồi mất người yêu, đã khiến tinh thần Jimmy bạc nhược, sa sút, lâm vào cảnh khốn cùng. Bây giờ sắp mất cha khiến Jimmy đột nhiên trở nên tỉnh táo.

– Daddy! Nước mắt Jimmy ràng rụa, chảy ướt đẫm bàn tay ông Lạc.  Nó gọi cha trong tiếng nấc nghẹn ngào. Khóc một hồi, bỗng nhiên Jimmy cảm thấy mấy ngón tay của ông Lạc cử động trong tay mình. Nó vui mừng kêu lên:

– “God!” Trời ơi! Cha đã tỉnh! Nó reo lên. – Chị ơi!  Cuối cùng cha đã

tỉnh! Vậy mà bác sĩ nói cha có thể sẽ không bao giờ tỉnh lại. Để em đi gọi bác sĩ! Nói xong nó đứng dậy, định chạy đi.

Bàn tay ông Lạc trong tay Jimmy bỗng giữ nó lại, đôi mắt yếu ớt của ông nhìn thằng con thật âu yếm, rồi nhìn qua con gái. Đưa tay gỡ cái mặt nạ oxygen ra, giọng ông thều thào như hơi thở:

– Các con đừng đi! Cha khỏe rồi, và cha rất mừng thấy Jimmy đã biết biểu lộ tình cảm, nghĩa là con vẫn còn thương cha. Điều cha mong mỏi nhất là con phải cai nghiện, đi chữa bệnh, rồi trở lại trường học. Cha qua đây không giỏi tiếng Anh nên phải làm lao công cả đời. Nhưng con thì…

– Cha yên tâm đi! Jimmy thấy cha nói chuyện được thì mừng quính ngắt lời.  – Con hứa là con nhất định sẽ chữa bệnh và đi học lại, cha đừng lo! Hai ngày nay con đã cố gắng, mỗi lần lên cơn thèm thuốc là con nhìn vào cha rồi lén chạy vô phòng vệ sinh cắn chặt mấy ngón tay chịu đựng, khi qua cơn con mới ra ngoài, bây giờ cũng tạm quen dần. Con nhất định sẽ bỏ được…

Ông Lạc nở một nụ cười méo mó vì vết mổ còn đau, nước mắt chảy dài, nhưng trong mắt ông ánh lên niềm hạnh phúc vô biên. Ông sờ đầu thằng Jimmy, rồi đưa bàn tay ra cho Mỹ Hạ và nói:

– Cha mừng quá, con gái Mỹ Hạ! Con hãy phụ cha khuyến khích em nha! Mẹ con mà biết được em thay đổi nên người thì bà ấy cũng sẽ ngậm cười nơi chín suối.

*

Và Jimmy đã làm được.

Bảy năm sau, ông Lạc về hưu. Đó cũng là năm Jimmy được nhận vào thực tập bác sĩ chuyên ngành ung thư trong bệnh viện nơi mà ông Lạc đã làm lao công hơn hai chục năm. Và cũng là nơi đã điều trị cho vợ ông. Jimmy nói, nó học ngành này để giúp cho những bịnh nhân giống như mẹ nó ngày xưa …

              Phương Hoa

**

Lời Tâm Tình Từ Phạm Phan Lang Và Bài Thơ Song Ngữ Việt + Anh

Nhân ngày Lễ Phụ Thân, trong niềm thương nhớ khôn nguôi dành cho người Cha kính yêu đã khuất, PLang xin được chia sẻ với quý vị một bài thơ nhỏ – “Nhớ Cha Ngày Lễ Phụ Thân” – như một lời thì thầm từ trái tim của người con xa xứ.

Hai mươi mốt năm trôi qua kể từ ngày Cha ra đi nơi quê nhà Việt Nam, nhưng ký ức về những ngày cuối cùng được trở về bên Cha – đút từng thìa cháo, xoa bóp đôi chân đau buốt, đẩy chiếc xe lăn quanh sân nhỏ – vẫn còn vẹn nguyên trong tim. Những ánh mắt dịu dàng của Cha, những cái nhìn lặng lẽ ngày ấy… đã hóa thành thơ.

Bài thơ này được nhạc sĩ Thái Phạm phổ nhạc thành ca khúc cùng tên, và qua giọng ca tha thiết, nghẹn ngào của Đông Nguyễn – từng câu, từng chữ như được cất lên từ chính tận cùng sâu thẳm của nỗi nhớ, làm PL không tránh được giọt lệ rưng rưng.  Xin chân thành cám ơn nhạc sĩ Thái Phạm và ca sĩ Đông Nguyễn.

Xin trân trọng kính mời quý anh chị cùng nghe nhạc phẩm “nóng hổi mới ra lò”:

🎵 Nhớ Cha Ngày Lễ Phụ Thân – Thơ: Phạm Phan Lang, Nhạc: Thái Phạm, Trình bày: Ca sĩ Đông Nguyễn
🔗 https://www.youtube.com/watch?v=X-SZV6F16dM

NHỚ CHA NGÀY LỄ PHỤ THÂN

Cha ơi, con gọi nghẹn lời

Mùa Cha trở lại, một trời nhớ thương

Bao năm biệt xứ dặm trường 

Ngày đi đòi đoạn quê hương xa dần

Nhớ xưa Hè chớm vào sân 

Hay tin Cha yếu, đôi chân rã rời 

Con xin gác lại việc đời 

Trở về quê mẹ sớm mơi phụng thờ

Ngày ngày đút cháo nâng cơ 

Xoa chân run rẩy, đẩy xe quanh vườn 

Cha nhìn con mắt lệ tuôn 

Ánh nhìn chan chứa tình thương thuở nào

Thấy Cha đỡ bệnh mấy phần 

Con đành tạm biệt cánh bằng bay cao 

Về chưa xong việc là bao 

Tin Cha hấp hối như dao xé lòng

Vội vàng trở lại đêm đông 

Vượt bao cách trở, cầu mong ơn Trời 

Kịp bên Cha phút cuối đời 

Nhìn con lần cuối, Cha rồi… lặng im

Cha đi… trời đất lặng chìm 

Lệ buồn nhỏ giọt đẫm tim não nề 

Bao năm bóng ngã trưa hè 

Lòng con vẫn thấy Cha kề đâu đây.

Dẫu Cha khuất nẻo mây bay 

Ơn Cha như biển đong đầy tim con 

Mỗi mùa Lễ Phụ Thân còn 

Con dâng giọt lệ, thay tròn chữ yêu…

phamphanlang

1/6/2025 

Xin chúc quý anh chị luôn an lành, mạnh khỏe, và những ai còn Cha Mẹ – xin hãy trân quý từng phút giây sum vầy bên Người.

Kính  mến,

Phạm PhanLang

TB.   Below is the bilingual poem,

NHỚ CHA NGÀY LỄ PHỤ THÂN             MISSING FATHER ON FATHER’S DAY

Cha ơi, con gọi nghẹn lời,                         Oh Father, I call, choked with pain,
Mùa Cha trở lại, một trời nhớ thương.                         As Father’s Day nears, I miss you again.
Bao năm biệt xứ dặm trường                          Long years away, I still remain
Ngày đi đòi đoạn quê hương xa dần.                        A child of a land I may not regain…

Nhớ xưa Hè chớm vào sân,                         That summer, just as flowers came,
Hay tin Cha yếu, đôi chân rã rời.                            I heard you grew weak, your legs tired and lame.
Con xin gác lại việc đời,                             I laid aside rank, job, and name,
Trở về quê mẹ sớm mơi phụng thờ.                       Returned to your side, no thought of acclaim.

Ngày ngày đút cháo nâng cơ,                         Each day I fed you, eased your frame,
Xoa chân run rẩy, đẩy xe quanh vườn.                        Massaged your frail legs, wheeled you through the lane.
Cha nhìn con mắt lệ tuôn,                            You looked at me with eyes that rained—
Ánh nhìn chan chứa tình thương thuở nào.                      Still filled with the love that through childhood remained.

Thấy Cha đỡ bệnh mấy phần,                           When you seemed better, less in pain,
Con đành tạm biệt cánh bằng bay cao.                        I left with regret to fly home again.
Về chưa xong việc là bao,                            Not long had I tried to maintain
Tin Cha hấp hối như dao xé lòng.                           My scattered tasks—then grief sliced like a chain.

Vội vàng trở lại đêm đông,                            I rushed through the cold night and rain,
Vượt bao cách trở, cầu mong ơn Trời.                        Through borders and skies, I whispered your name.
Kịp bên Cha phút cuối đời,                              One last breath you spent just the same—
Nhìn con lần cuối, Cha rồi… lặng im.                            You saw me… then silence. No word ever came.

Cha đi… trời đất lặng chìm,                             You left… and the earth lost its frame,
Lệ buồn nhỏ giọt đẫm tim não nề.                           My heart drenched in sorrow no words could tame.
Bao năm bóng ngã trưa hè,                             Years fall like sunlight, just the same,
Lòng con vẫn thấy Cha kề đâu đây.                        Yet I still feel you, beside me, so near.

Dẫu Cha khuất nẻo mây bay,                          Though clouds may hide you from me here,
Ơn Cha như biển đong đầy tim con.                         Your love fills my heart like oceans sincere.
Mỗi mùa Lễ Phụ Thân còn,                             Each time Father’s Day reappears,
Con dâng giọt lệ, thay tròn chữ yêu…                          I shed one more tear, for a love most dear.

phamphanlang

1/6/2025

*

CA KHÚC NHỚ CHA NGÀY LỄ PHỤ THÂNTHƠ PHẠM PHAM LANG

*

**

Như Một Thoáng Mây Bay

Đỗ Dung

Ông cụ nằm kia, khuôn mặt trắng mịn, hiền hòa, đôi mắt khép lại nhẹ nhàng như người đang nằm ngủ. Khuôn mặt kia, hình hài kia rồi sẽ biến đi, sẽ tan vào hư vô, chúng tôi không bao giờ còn trông thấy nữa. Ai cũng biết ngày này rồi sẽ tới, ai cũng biết đến lúc phải chia ly nhưng trong sâu thẳm của tâm hồn vẫn có những nỗi đau vò xé. Trong cái mênh mang, êm lặng tột cùng vẫn có những nỗi xót xa. Hơn tám mươi năm, một khoảng thời gian dài cho cả một đời người cũng chỉ như một thoáng mây bay. Bố tôi nằm đó, bình an như đang say ngủ, những hình ảnh xưa về Bố chợt ẩn chợt hiện, chợt gần chợt xa…

Trước năm 1954, gia đình chúng tôi sống hạnh phúc trong căn nhà nhỏ trên đường Mai Hắc Đế, Hà Nội. Những ngày tháng êm đềm, có Bà, có Mẹ, có cô Nga em của Bố và cậu Thắng em của Mẹ. Bố tôi chưa đầy ba mươi tuổi và chúng tôi từ em Tuấn còn bế ngửa, anh Dũng chưa lên chín, ở giữa là ba bé gái, Tí Bun, Tí Xíu và Ông Lý Hạnh (Hồi nhỏ Hạnh hay đội cái mũ thóp giống như khăn xếp của ông lý nên Bố yêu gọi là Ông Lý Hạnh). Phòng khách nhà tôi kê bộ ghế với tràng kỷ kiểu Tàu, bộ sập gụ và tủ chè khảm xà cừ óng ánh sự tích Bát Tiên. Buổi tối sau khi ăn cơm, chúng tôi quây quần, cha ngồi xem báo, mẹ ngồi đan áo ở bộ sa lông và chúng tôi bò trên sập để học bài như cảnh Phạm Duy mô tả trong bài “Kỷ Niệm”, chỉ khác là không có cây đèn dầu hao nhưng căn phòng sáng ấm nhờ bóng đèn vàng từ trên trần toả xuống.

Buổi chiều mấy con bé đợi Bố đi làm về để bám vào cánh tay rắn chắc của Bố đang cong lại đưa ra, mấy đứa nhún chân lên đu đưa rồi cười như nắc nẻ. Ngày mùng một ta, Mẹ tôi hay cúng Thổ Công cái chân giò luộc để cạnh ba chén rượu trắng và một đĩa muối. Khi cúng xong Bố lấy con dao nhỏ từ từ xẻo từng miếng thịt chân giò, chấm muối tiêu rồi cứ Bố một miếng lại cho mỗi đứa con một miếng.

Thời buổi nhiễu nhương tranh tối, tranh sáng sau hiệp định Geneve, vì an ninh nên gia đình chúng tôi phải dọn vào nhà thương Võ Tánh. Bà tôi ngày nào cũng khóc vì không muốn rời quê cha đất tổ, mồ mả tổ tiên. Bà muốn cả nhà ở lại hoặc để Bà ở lại với cô Nga, ngày đó mới lập gia đình và nhà chồng cô quyết định không di cư. Một hôm Bà cũng đang sụt sùi nài nỉ, Bố tôi rút cây súng lục để ra bàn nói: “Cụ muốn ở lại để con bắn hết các cháu, con bắn chết con luôn để Cụ ở lại một mình được không?” Bà tôi sợ quá, cuống quýt: “Thôi tôi xin cậu, tôi xin cậu, tôi đi, tôi đi!” Thế là từ đó Bà chỉ thút thít khóc thầm chứ không dám khóc trước mặt Bố tôi nữa. Về sau Bố nói phải dọa già thế Bà mới chịu đi chứ ở lại thì chết cả đám.

Vào đến Sài Gòn, gia đình gồm chín người, ngơ ngác nơi vùng đất lạ, tất cả phải làm lại từ đầu, Bà tôi ngán ngẩm cố nén tiếng thở dài. Chúng tôi định cư tại căn nhà ở đường Thành Thái, một căn nhà gỗ nhỏ, một tầng, xung quanh còn cây cối xum xuê. Mặc dù rất bận rộn trong sở làm, ưu tư về nơi ăn, chốn ở mới, ngày nào đi làm về Bố tôi cũng tắm rửa cho chúng tôi. Ông yêu các con và đó cũng là cái thú của ông, mặc dù nhà có người làm, có Bà, có Mẹ chúng tôi. Tôi còn nhớ cứ vào cuối tuần ông hay đem chúng tôi ra cắt tóc, cạo mặt, ngoáy tai, cứ từng đứa, từng đứa. Đứa nào nhúc nhích không chịu ngồi yên, tóc không đều, ông cắt lại, cắt nữa, đôi khi tóc chỉ còn như cái “mủng dzùa” úp lên đầu. Khi vào Nam tôi mới bảy tuổi nhưng có ba em nên coi như đã lớn, năm 1955 Mẹ tôi đi sanh Phương Nam. Rồi cứ cách một năm Mẹ cho ra đời thêm một đứa, tôi đưa Mẹ đi sanh và mỗi buổi sáng trước khi đi làm và buổi chiều trước khi về nhà Bố đều vào thăm Mẹ và em bé mới.

Nhân số gia tăng, nhà cũng được xây cất thêm, từ một căn nhà gỗ lụp xụp thành một căn nhà gạch bốn tầng, hai dãy. Bố tôi phải lập ra những luật lệ như nhà binh để cai trị bầy con của Bố. Nhà gắn một cái chuông điện to như chuông trường học ngay phòng khách. Mỗi người có một tín hiệu riêng, chuông bấm hiệu ai người đó phải có mặt. Riêng giờ ăn là ba tiếng chuông dài đến nỗi hàng xóm cứ nghe ba hồi chuông lanh lảnh là biết ngay nhà chúng tôi đến giờ cơm. Phòng ngủ là một trại nữ binh với một dãy giường và một dãy bàn học. Tuy là nhà binh nhưng Bố tôi rất nghệ sĩ và tâm hồn ướt át, lãng mạn. Chúng tôi cũng ít nhiều ảnh hưởng tính nết đó. Thuở còn bé Bố đã cho chúng tôi nghe những bản nhạc êm đềm, trữ tình như Suối Mơ, Con Thuyền Không Bến, Thiên Thai, Biệt Ly… Có một thời Bố tôi làm chủ bút tuần san Kiến Quốc, bác Nguyễn Xuân Đăng giữ việc trình bày. Bố viết văn, làm thơ… Ngày tôi học Trưng Vương, khi phải lên trần thuyết, nếu tôi về òn ỉ là Bố soạn ngay cho một bài, vào lớp chỉ việc đọc.

Nhà có ba người lớn, Bà bảo ban người làm và trông nom các cháu, Mẹ lo cái ăn, cái mặc còn Bố lo chuyện học hành. Tối nào Bố cũng giảng dạy và khảo bài chúng tôi. Bố và tôi rất thân, khi tôi mới mười hai, mười ba đã được Bố tôi đối xử như người lớn, việc gì Bố cũng cho tôi góp ý, chọn màn cửa, chọn kiểu bàn ghế, ngay cả việc bày biện đồ đạc trong nhà. Bầy con mười hai đứa của Bố lớn dần, lại là một bầy nhiều con gái. Trong cái vui vẫn có cái nghiêm, trong sự thân mật vẫn có những uy lực của ông Bố để hướng dẫn đàn con. Tôi là con gái lớn được hưởng những sự yêu thương, săn sóc đặc biệt của ông Bố trẻ nhưng ngược lại cũng bị những ngăn cấm khắt khe của Bố dành cho con chim đầu đàn. Hồi còn bé tôi được Bố tôi dắt vào nhà thương Võ Tánh xem những buổi tập duyệt binh, được diện quần áo đẹp để Bố đưa vào xem những buổi văn nghệ có Thanh Hằng, Thanh Hiếu đến hát ủy lạo chiến sĩ. Khi lớn lên, dù tôi đã vào đại học Bố vẫn đưa đón… Cho đến ngày tôi lập gia đình, Bố tôi đã khóc rất nhiều khi dặn dò con trước ngày vu quy và sụt sùi khi tiễn con về nhà chồng. Hai đứa con lớn của chúng tôi ra đời trong tình yêu thương đầy ắp của Ông Bà. Các cháu sang chơi Ông nằm xuống vạch bụng cho cháu bắn bi vào lỗ rốn, ông bò xuống làm ngựa cho cháu phi nhong nhong…

Tưởng cuộc sống cứ thế êm đềm trôi, Bố tâm sự với chúng tôi về những ước vọng của Bố. Chín đứa con gái của Bố đều học hành giỏi giang, đều là nữ sinh ưu tú. Bố đợi ngày Út Thùy tốt nghiệp Trưng Vương, Bố sẽ đặt tiệc lớn ăn mừng, Bố sẽ mời toàn ban Giám Hiệu và Giáo Sư Trưng Vương để tỏ lòng tri ân những người đã góp công lớn trong việc dạy dỗ các con của Bố. Rồi Bố Mẹ tôi ao ước có một ĐỖ GIA TRANG tại Đà Lạt, một dãy nhà hình chữ U gồm có mười ba phòng lớn, Ông Bà một phòng còn cho mỗi gia đình con một giang sơn nhỏ. Ngày giỗ tết, hội hè, con cháu về tụ họp, Bố sẽ cầm cái gậy chỉ huy của Bố để chỉ huy lũ cháu, chắt… Cả một gia trang sẽ rộn rã tiếng cười… Bố Mẹ chúng tôi đã mua mấy mẫu đất trên sườn đồi khu Mê Linh, Đà Lạt, trông ngay ra mặt hồ, phong cảnh thật hữu tình, nên thơ để thực hiện mơ ước đó.

Nhưng ai có ngờ đến cái ngày 30 Tháng Tư oan nghiệt! Tất cả các mộng ước nhỏ bé, giản dị của Bố tôi đều tan tành. Bố đã già sộc hẳn đi khi nhìn thấy tương lai mờ mịt của một lũ con bé bỏng, thương yêu. Bố đã bạc đầu vì tinh thần trách nhiệm quá cao đối với tổ quốc, với nhân viên thuộc cấp, với gia đình. Bố đã không bỏ chạy khi quân đội chưa rã ngũ.

Tất cả là định mệnh! Một tháng sau chồng tôi chở Bố tôi đến nơi tập trung và một tuần sau đó tôi cũng đưa nhà tôi vào đúng địa điểm ấy, để đi cải tạo không biết ngày về… Tôi đã khóc thật nhiều khi đọc những lời trong di bút của Bố: “Vì yêu Tổ quốc, mến quê hương nên tôi đã ở lại Việt Nam cho tròn trách nhiệm của sĩ quan cấp tá độc nhất của trường quân y còn ở lại. Chịu đựng cảnh tù đày suốt gần mười năm trong các trại lao tù ở Bắc Việt do Cộng Sản lập ra để trả thù những chiến sĩ quốc gia còn kẹt lại. Với bao cơ cực, đói khát của thời gian gọi là khổ sai cải tạo, tôi cố gắng giữ tinh thần bất khuất và nhân cách của một chiến sĩ khi thất thế, sa cơ.”

Và… Ngày 20/4/1990, chúng tôi, một bầy con cháu của Bố đã kéo nhau ra phi trường San Francisco để đón Ông Bà và dì Út. Bố đã già đi nhiều. Mười năm, từ năm mươi đến sáu mươi vẫn là tuổi sung sức của một đời người thì Bố tôi bị trong  vòng khổ ải.

Năm 1992 Bố tôi bị một cơn bạo bệnh tưởng khó vượt qua, sau khi Bố tôi thoát khỏi cơn hiểm nghèo, Bố Mẹ tôi được em Tuấn đưa đi du lịch vòng quanh thế giới để giải trí và cũng để phục hồi năng lực từ thể chất cũng như tinh thần cho Bố và đồng thời cũng để Bố đạt được những ước mơ của Bố thời niên thiếu.  Sau đó Bố tôi sống lặng lẽ như một cái bóng, chỉ vui với con cháu trong những dịp tụ họp đại gia đình, lâu lâu đi thăm các con cháu ở xa.  Bố không màng đến thế sự, không tham gia hội đoàn hay bất cứ một tổ chức nào.  Thì giờ rảnh rỗi Bố tôi đọc sách và soạn lại cuốn gia phả. Bố ngồi viết hồi ký về cuộc đời mình, kể lại cuộc đời truân chuyên của Bố, từ khi còn là thanh niên mắt sáng ngời ngời, theo kháng chiến lưu lạc khắp vùng núi đồi Việt Bắc, sang tận Trung Hoa rồi mới quay về, nhìn vợ dại, con thơ, nhìn lại lý lịch bản thân, thành phần tiểu tư sản thành thị… Bố đã ngao ngán quyết định đưa cả nhà hồi cư. Rồi cả một cuộc đời binh nghiệp, tận tụy với Tổ Quốc, với lý tưởng mình đã chọn lựa. Cho ra đời một bầy con.  Đến ngày đổi đời.  Đến ngày lạc lõng, cô đơn nơi xứ người mặc dù con đàn, cháu đống. Bố tôi đã viết với hy vọng con cháu sau này biết được dòng dõi cha ông, giữ lại những truyền thống tốt đẹp của dòng họ ĐỖ và cũng biết được một mảnh đời của một người Viêt Nam trong thời tao loạn.

Một đoạn trong tập hồi ký Bố tôi đã viết:

“… Tôi đang được sống quanh con cháu, tôi mong có ngày mà Trời Phật để cho tôi còn sống trên thế gian này, được thấy quê hương nhà thoát cảnh bị họa Cộng Sản ngự trị, được về sống tại quê cha đất tổ, bên cạnh phần mộ tổ tiên với họ hàng ruột thịt gần xa… ” và tôi nhớ một ngày trong quá khứ đã xa, khi Bố tôi còn tại chức, Bố đã nói: ” Cả một đời mặc áo nhà binh, lúc chết đi Bố muốn được an táng như một người lính theo lễ nghi quân cách…”

Bây giờ Bố tôi nằm đây… không lễ nghi quân cách, không được yên nghỉ trên mảnh đất quê hương.  Sau lễ hoả táng chỉ còn là tro, là bụi và tro bụi cũng sẽ tan vào đại dương.  Đời là vô thường.  Cuộc đời chỉ như một cơn gió thoảng, như một thoáng mây bay.

Đỗ Dung

**

**Bố tôi

Sao Khuê

Ba năm sau khi Sao Khuê chào đời thì bố mẹ Sao Khuê được ông bà cho ra ở riêng tại quê của bà nội, làng Đồng Xâm, tỉnh Thái Bình để trông nom ruộng đất mà bà nội được thừa kế từ các cụ. 

Làng Đồng Xâm thuộc xã Hồng Thái có đền thờ Triệu Vũ Đế tức Triệu Đà và hoàng hậu Trình thị,  hoàng hậu là người làng Đồng Xâm. Làng có nghề truyền thống là nghề chạm vàng bạc, thờ ông tổ Nguyễn kim Lâu.

Sao Khuê được ở lại với ông bà nội và hai cô tại làng Trình Phố. Thỉnh thoảng bố  trở về làng Trình Phố và chở SaoKhuê về thăm nhà của bố mẹ. Ở đó cái gì cũng nhỏ, căn nhà nhỏ có cái sân cũng nhỏ và có cái bể nước cũng nhỏ, cái cổng cũng sơ sài so với cổng tam quan nhà  ông bà nội và Sao Khuê cũng không lưu luyến gì căn nhà nhỏ này. Giản dị vì khi ở với ông bà nội thì Sao Khuê là cô công chúa nhỏ còn về ở vớibố mẹ thì  con bé nhỏ mới 4 tuổi hay bị sai vặt đi lấy tăm, lấy nước, quét nhà …sau đó còn phải bế em cho nên Sao Khuê chỉ mong mau mau được trở về nhà bà nội trên cái thanh ngang của cái xeđạp courses mà bố  dùng để di chuyển. Bố  kể lại rằng trên quãng đường đi không dài lắm đó, có lần bố hỏi:

– Nếu bây giờ mà ba chết thì con tính sao? 

 Lúc đó Sao Khuê bù lu bù loa khóc và nói bố phải cho con về nhà bà nội rồi mới được chết! 

Sau đó bố cũng hỏi y chang câu này với con em thì nó cũng bù lu bù loa khóc nhưng mà nó lại nói: 

– Ba ơi, ba đừng chết, ba đừng bỏ con một mình.

Bởi vậy bố thương nhỏ em này lắm.

Rồi Việt Minh nổi lên. Họ thủ tiêu những người trí thức không theo họ. Một đêm họ đến bắt bố, may quá, bố vừa đạp xe về thăm ông bà nội. Hôm sau thì xác ông lý trưởng, hàng xóm, bị thả trôi sông Trà Lý. Mẹ nhắn về Trình Phố. Và bố vội trốn ra tỉnh Thái Bình. Sau đó mẹ cũng bỏ nhà ra tỉnh với bố. Tất cả gia đình gồm gia đình bác cả,  gia đình bố mẹ Sao Khuê, gia đình cô  T và hai cô Út đều ở gần bên nhau.

Năm lên chín tuổi Sao Khuê mới thực sự ở với bố mẹ vì cả nhà đã phải từ bỏ ruộng vườn nhà cửa to lớn mà chạy ra tỉnh sống trong một căn nhà nhỏ xíu, đã vậy lại là nhà gianh vách đất. Thế mà có yên đâu, chỉ một năm sau lại phải bỏ hết để bồng bế nhau vào Nam.

Khi mới vào Nam, bố đi dạy học ở trường tư. Sao Khuê còn nhớ ngôi trường  nhỏ, mang tên là trường Phan đình Phùng nằm gần trường tiểu học Võ di Nguy ở Phú Nhuận, kế đó còn có lò mổ heo, bò…

 Thời gian ngắn sau, không đủ học trò, trường đóng cửa, bố Sao Khuê được bộ giáo dục bổ nhiệm dạy một trường trung học công lập  tại Sóc Trăng. Mẹ Sao Khuê làm thư ký đánh máy tại sở Công binh nên Sao Khuê lang thang tự đi xin học vào lớp đệ thất hết trường   nọ đến trường kia. Quý vị nhớ là con bé còm nhom, mắt thao láo. như đền pha, 10 tuổi, tự- tự- là mình ên à nghe, dẫn mình đi thi tiểu học rồi đi xin học. Sao Khuê di cư muộn, tháng 2, 1955 nên thi rớt kỳ thi tuyển vào đệ thất trường Trưng Vương. Sao Khuê phải lang thang xin đi học trường tư. Sau trường Phan đình Phùng là trường Thống Nhất có chú họ của Sao Khuê dạy học. Trường Thống Nhất đóng cửa, Sao Khuê  xin học trường Hoài An mới mở có chú ruột dạy nên chả phải đóng tiền học phí. Tại đây Sao Khuê an tâm dùi mài kinh sử đến khi đậu  trung học đệ nhất cấp thì vào trường Gia Long học tiếp, thi tú tài rồi vào trường dược học ra dược sĩ. Nhưng mà Sao Khuê học dốt lắm cơ, nói đúng ra Sao Khuê học cũng…giỏi nhưng lận đận khi thi cử. Chuyện, người ta đã nói học tài thi phận mà.

Có bao giờ quý vị tin là Sao Khuê thi rớt vì bài thi quá dễ không? Ỉ i mà, Sao Khuê chỉ ôn bài khó thôi. Một lớp có sáu mươi hai học trò, lớp giỏi của trường Gia Long hồi đó nghen, mà một đứa, “top” 10, lên bảng danh dự đều đều lại ở trong số 10 đứa thi rớt của cả lớp! Sao Khuê phải thi kỳ hai. Khi thi kỳ hai, gặp thầy toán đi ngang, thầy hỏi:  

-Đi đâu đây?  

Sao Khuê cúi gầm mặt  không dám trả lời.

Chưa hết đâu, Sao Khuê còn rớt nữa, rớt bốn lần trong đời lận. Hai cái rớt sau không oan tí nào vì không  học bài hay không  cách nào  học thuộc nổi  bài. Hừm, đang học toán ban B, bố bảo chuyển  sang ban A để đi học dược.

Sao Khuê nhớ mãi cái bài học đầu tiên của quyển vạn vật đệ nhất là bài  “Chất sống”, nó dài và khó hiểu, Sao Khuê học một tháng không cách nào thuộc nổi trong khi cả quyển sách toán Sao Khuê có thể thuộc từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Không thuộc nên Sao Khuê…quăng sách vào  vào gầm giường, khóc hu hu, không thèm học nữa. 

Sau khi thi rớt kỳ 1 năm tú tài 2, bố Sao Khuê bắt lấy giấy nháp viết lại bài và nộp cho bố.  Kết quả là Sao Khuê đậu bình thứ (năm 1962) bởi vậy “không bố đố mày làm nên”, không đậu tú tài thì lấy chi mà học dược. Vậy thì bố được điểm A+ bù cho điểm E- vì bắt Sao Khuê đi lấy chồng (SK dông dài để kể ơn bố).

  Như đã nói, bố Sao Khuê dạy học ở Sóc Trăng, bây giờ thuộc tỉnh Ba Xuyên cách Saigon cả ngày xe nên lâu lâu bố mới về thăm nhà. Mỗi lần về Saigon thì bố – Sao Khuê khi gọi là ba, khi gọi là bố, bố mang về, “chuối cau” từng buồng, trứng gà từng thùng sắt tây loại đựng dầu con sò, con gà gì đó 20 lít, bao nhiêu là trứng mà ba chị em phải ráng ăn vì trứng để lâu cũng hư. Kết quả là Sao Khuê có thể chế tạo nhiều kiểu ăn trứng.  Nhưng chuyện đặc biệt không phải thức ăn mà là chuyện bố bị các bà níu kéo xin làm bé!

Không hiểu sao mà bố Sao Khuê có nét lai nên đẹp trai tuy chưa cao bằng “ông Tây đen nằm trong cái đèn”. Đã đẹp trai lại còn xa nhà, đi ở trọ nên các bà goá,chủ nhà mê tít thò lò khiến bố cứ phải dời chỗ trọ. Bố kể có bà kia, mê bố quá, nhất định xin làm bé:

 – Ông về nói với bả, tôi xin làm bé, tôi nuôi ông, lương ông mang về nuôi vợ con, chừng ông về tôi bù thêm quà cáp cho xấp nhỏ, bả đâu có thiệt hại gì? 

Vậy mà ông già không ưng. Bà goá làm quá, bố phải viết thư kêu má xuống, lần đó má đi, có rủ cô Út theo.  

Bố dạy dưới tỉnh nên hai, ba lần bố đưavề Saigon mấy chị mà bố gọi là con nuôi.Thật ra không phải con nuôi, mà các chị đó muốn thay đổi hoàn cảnh nên nhờ bố đưa lên Saigon. Các chị làm công việc nhà, được trả công như người làm, nhưng được má hướng dẫn cho đi học nghề, học may, học chữ, học đánh máy… Khi đủ khả năng kiếm việc hay kiếm chồng thì các chị đó ra đi, bố lại mang về chị khác. Tóm lại hai bên cùng có lợi, các chị không sợ sa  vào ổ nhện và má Sao Khuê có người giúp việc. Ngay khi ở miền Bắc bố cũng từng nuôi hai chị em chị Nụ và khi lớn cho về lấy chồng chứ không bắt ở cả đời như nhiều nhà khác. Khi xưa, những nhà nghèo thường …

“cho” con, để con, ít ra cũng được no ấm  và mình cũng có một món tiền, nên có nhiều nhà giàu, khi con gái đi lấy chồng thì được mẹ tặng một bé gái, từ 7 đến 10 tuổi đế sai vặt. Bé này ở  với cô chủ tới già, thành u già…

Dần dần, từ Sóc Trăng xa xôi, bố được chuyển về quận Cần Giuộc rồi Cần Đước rồi Bến Lức,  thuộc tỉnh Long An và sau cùng về dạy trường Petrus Ký ở Sài Gòn.

Ở quận Cần Đước và Bến Lức, bố là hiệu trưởng nên bố kê cái giường nhỏ trong phòng để ngủ lại. Cũng “ghê ghê” vì ban đêm Việt Cộng có thể bắt ông “Bắc kỳ di cư” đi thủ tiêu, quăng  xác ngoài quốc lộ kèm bản án đeo vào cổ như chúng đã làm, nên bố, khi ngủ lại, khi về …thất thường và rất kín đáo như làm bộ ra về mà ngủ lại v..v..

Cái dở của bố là …cứng nhắc, không biết ngoại giao. Nắng Saigon mà không chịu mang ô, thanh liêm nên thanh bạch và hay bị đố kỵ. Ai mang quà biếu là Sao Khuê phải chạy theo trả lại cho bằng được.

Không học thuốc nhưng bố mát tay trị bệnh bằng “dầu nhị thiên đường” và “đánh cảm”. Mỗi khi có  đứa con nào bị cảm thì đứa khỏe được ăn lòng đỏ hột gà luộc. Bố má có mấy đồng tiền từ “thời Pháp thuộc”, làm bằng bạc. Luộc hai quả trứng gà, tách đôi, lòng đỏ cho đứa không bị bệnh “cho vào miệng”, đồng tiền bạc được đặt giữa lòng trắng sau đó dùng khăn sạch bao lại và chà như cạo gió khắp người  đến khi  lòng trắng trứng nát ra hết thì bỏ đi.

Nếu bị cảm, đồng bạc sẽ đen. Lấy muối chà cho đồng bạc trắng ra và cạo tiếp với con trứng còn lại. Thường hai con trứng là hết cảm …

Trong túi bố bao giờ cũng có một chai dầu “Nhị thiên đường” nhỏ xíu. Khi bị trúng mưa, sổ mũi chỉ cần cho một giọt dầu vào cái muỗng nhỏ, thêm tí nước, uống là bệnh tiêu tan.

Tội nghiệp bố, vất vả đi làm, nhưng phương tiện di chuyển chỉ có cái xe máy cũ trong khi hai ả tố nga, đứa nào cũng mua xe “gin” từ xe đạp đến xe gắn máy. Bố nhịn ăn, nhịn mặc, chăm lo cho con cái rất nhiều. 

Năm 1975, Việt Cộng vào. 

Trời! Sao Khuê phải len lén đốt bao nhiêu là giấy tờ sách vở thuộc loại phản động của bố. Má phải năn nỉ bố …im cái miệng đừng nói ngang hay công kích  chính quyền. 

Từ nhỏ bố đã không ngoan ngoãn hiền lành, chỉ biết học hành như bác Cả. Bố diện và sừng sỏ ra gì. Các cô, bác và bạn bố kể lại: xe đạp xịn, đầu bóng loáng brillantine đến nỗi ruồi đi ngang là khỏi bay được nữa. Học thì ít nhưng đua xe, bơi thi và đôi khi có dàn trận với bạn bè. 

Sau khi lấy vợ, bố tu tỉnh làm ăn. Đầu tiên, năm 1944 bố phiên lưu vào Nam, nghe nói trong đó dễ làm ăn. Chả hiểu tại sao lại không làm cũng chẳng ăn được, bố đổ tại trong Nam, nghe nói Tân sơn Nhất là họ ghét nên bố bị vây đánh, phải nói là Tân sơn Nhứt. Sức mấy mà ông già gân chịu uốn lưỡi nói theo. Nhất là nhất, chứ Nhứt là cái giống gì, lại còn Mèn đét ơi…Chu mẹc ơi…Thôi ta về ta tắm ao ta, bố về Thái Bình làm ăn.

Bố kể lại lần đầu bố đi buôn gạo. Gạo thì nhà ông bà có sẵn, chỉ đóng bao, xuống thuyền chở đi bỏ mối. Thế mà có xong đâu. Bao gạo lúc vào bao là hơn một tạ, lúc nhập kho, cân lại còn có 80-90 kí. Phu khuân vác khi vác gạo lên vai đã dùi vào bao để gạo từ bao tuôn vào cái túi họ đeo trong người nên qua hai ba lần khuân vác, bao gạo cứ hụt dần khiến không những mất tiền mà chủ thu mua cũng bực mình, không thu nữa. Nào, bây giờ hai bên nội ngoại chi viện cho bố mua xe đò. Coi bộ được à nghe, hợp với tính không điềm tĩnh của bố. Kết quả, bị tài xế và lơ xe lừa, tiền vé bị hao hụt  mà tiền mua xăng thì tăng lên… Tóm lại bố  không biết buôn bán, đó là lý do sau này bố cương quyết không gả con cho nhà buôn bán. 

Bác Cả mở trường trung học Bùi Viện ở Trình Phố nên khi ra riêng bố cũng mở lớp dạy học ở làng Đồng Xâm. Ông ngoại gửi hai cậu út cho bố đào tạo.Chiến tranh lan rộng, bố xém bị Việt Minh bắt thủ tiêu nên bỏ ruộng vườn nhà cửa, mọi người dắt díu nhau  chạy ra tỉnh Thái Bình. Bác Cả lại mở trường, trường mang tên trung học Trần Lãm, có bốn lớp từ đệ thất đến đệ tứ mà sau này nhà văn Duyên Anh có nhắc đến. Bác dạy toán lý hoá còn bố dạy Anh Văn, đôi khi Pháp văn. Sách dùng hồi đó và cả sau này khi Sao Khuê học trung học là quyển “Practice English” nên từ nhà, sát trường Trần Lãm, Sao Khuê nghe:

      Good morning class

      Good morning teacher

     How are you today .

Khi vào Nam, dân Nam kỳ nói tiếng Pháp như gió; với giọng  phát âm Bắc kỳ không Parisien mà lại giống dân đảo

Corsé  nên bố chuyển sang dạy Việt-văn rồi sau đó trong nhiều năm liền bố làm hiệu trưởng…khai phá (nghĩa là bố …dựng trường trung học từ  khi trường mới thành lập) tại quận Cần Đước và Bến Lức thuộc tỉnh Long An. 

Do thẳng tính, khí khái, thanh liêm và vụng về trong giao tiếp nên sau cùng bốkhông giữ  được chức hiệu trưởng và bộ giáo dục chuyển bố về dạy ở Petrus  Ký cho gần nhà.

Sau 1975, giáo sư trung học cũng gọi là giáo viên, bị bắt làm “giáo án”. Giáo án là bài soạn với 5 bước lên lớp, chủ trương mang chính trị Mác Lê vào bài giảng. Hừm! bực mình lắm, bố len lén làm mấy câu thơ, Sao Khuê nhớ có câu Giáo án hay là án giáo đây… Đấy, tính bố như vậy, ngang ngang, thơ thẩn nên con giống cha, đầu lòng hai ả tố nga, cũng ngang ngang và thơ văn…

Nào bây giờ đến chuyện “ Phi lạc sang Tầu”: ông Giáo sang Gia Nã Đại. 

Cuối tháng mười năm 1992, lá rụng gần hết, ông Giáo “dẫn” bà Giáo và hai con còn độc thân đi ngoại quốc do Sao Khuê bảo lãnh.  Căn nhà triplex Sao Khuê mua để đón gia đình với hai ấp đã không còn trống vì bà Giáo bị giữ lại một năm uống thuốc ngừa lao do khi chụp hình phổi bị mờ. Thế là tất cả chín   người chung nhau ba phòng ngủ, một phòng khách vì lúc đó basement còn chưa sửa (finition).

Ai đã từng bảo lãnh gia đình mới hiểu nổi nỗi khổ và cái vui của Sao Khuê.Thời gian đầu, chuyện trò râm ran, cười đùa ầm ý sau đó thì nhức cái đầu.

Mùa đông về, basement sửa xong, nhà mới toanh, trần cao nên sáng sủa, rộng rãi, khang trang cho ba, má và hai em ở. Ông chú họ từ Quebec lên Montréal chơi, ghé thăm cho  biết là bố đã than phiền với chú:

– “Nó” để bố nó ở dưới, nó đi trên đầu bố. Đã vậy còn phải ở gần chuồng xí!

Sao Khuê buồn cười nhớ lại ông vua Thái trong phim “Le Roi et moi”…

Trời lạnh:

– Bố ơi, hôm nay lạnh, bố đừng ra ngoài nhé.

Nhưng sau đó Sao Khuê nghe ầm ĩ dưới nhà, chạy vội xuống thì cái thảm mới toanh đang cháy: chả là bố ra đường, lạnh quá, vội trở về, cho vớ vào micro wave để sưởi nóng, khiến vớ bốc cháy,mẹ chỉ kịp gạt vớ khỏi micro wave.

– Con đã dặn bố đừng ra đường mà.

– Bố phải ra xem lạnh tới mức nào.

Việc này thì quả là bố bắt chước con. Mùa đông đầu tiên, năm mà  SaoKhuê mới   chui vào cái tủ lạnh khổng lồ Gia Nã Đại này, nó lạnh ơi là lạnh, không những thế còn vô cùng  trơn trợt. Cô em họ ở Toronto đã bị té gẫy tay…Ngày hôm đó, dự báo thời tiết nói trơn lắm, mọi người nên ở trong nhà. Vậy mà chả có việc gì phải ra đường, nhưng Sao Khuê vẫn mặc áo ra xem …đường trơn tới mức nào, may mà không té, không gãy tay.

Mùa đông, đường phố vắng tanh, bố bảo:

– Phố xá gì như tha ma buồn chết, sao cô không viết thư báo cho tôi hay?

– Con có nói bố đừng đi nữa, nhưng bố cứ đi đấy chứ.

– Tôi phải dẫn chúng nó sang chứ tôi đâu thèm ở cái xứ quái quỷ này…

Tin “Nó bắt tôi ở dưới hầm, gần chuồng xí” bay sang tận Mỹ, thế là hè năm đó cô Út bay sang xem cái  hầm con gái nhốt bố và sau cùng khi có người trả nhà Sao Khuê đã vội vã di chuyển bố mẹ lên lầu theo “ thỉnh nguyện thư “ hai trang bố viết cho trưởng nữ.

Sao Khuê mua nhà để sửa soạn đón gia đình và dĩ nhiên trả góp nhưng dưới mắt bố, Sao Khuê giầu lắm nên bố ra lệnh:

– Cô mở cho thằng Út một tiệm kha khá để nó buôn bán. 

Sao Khuê chỉ len lén liếc bố một cái thật dài.

– Cô xem có thằng bác sĩ nào thì gả em cô, nó cũng nhiều tuổi rồi.

– Bố à, nếu có bác sĩ chịu, con cũng lấy, đỡ cầy hai jobs trả nợ nhà. 

Hè sang, thay đổi không khí, Sao Khuê chở bố đi chùa.

– Chùa này tôi đi rồi, sao đi mãi một chỗ vậy? 

Sau cùng kiếm được cho bố cái computer cũ để bố làm việc và phải tạo điều kiện thuận tiện nữa cơ. Việc của bố là làm thơ, viết khảo cứu với bút hiệu là Trình Hương. Hương chắc là hương thơm, còn Trình từ tên quê nhà Trình Phố và chữ “cửa Khổng sân Trình” chỉ  về văn học.

Ngoài làm thơ thì bố viết những nghiên cứu về Phật Giáo. 

Hai năm sau, gia đình em trai lớn SaoKhuê, cũng do Sao Khuê  bảo lãnh, chui vào cái tủ lạnh, và khoảng 1 năm sau thìthuê nhà ở riêng. Từ đó bố mẹ ở với cậu trưởng nam. Sao Khuê rảnh rang đi cày liên miên trả nợ, một hay hai tuần mới đến thăm.

Vài năm sau thì đến lượt gia đình cô em gái, bốn người được bảo lãnh qua Canada. Cảm ơn Canada đã giúp Sao Khuê mang được 10 người thoát ách Cộng Sản. 

Vậy là trừ cô em kế, toàn nhà Sao Khuê chui hết vào cái tủ lạnh. Bố ở với em trai, rồi em gái và khi nào không hài lòng thì qua nhà Sao Khuê. 

 -Thỏ có ba hang, bố cũng có ba nhà, chạy đi chạy về.

Em gái bán được nhà ở Saigon, mang tiền sang cho bố mẹ. Nhà lúc đó rẻ nên chỉ được hai chục ngàn Mỹ kim, em mượn để mua nhà nên bố mẹ có phòng riêng tại nhà em. 

Khoảng năm 2002, bố làm chuyến Mỹ du thăm bà con bên Cali. Bố ở nhà cô Út, khi về bố than phiền:

– Ngày nào cũng đói. Nhà 4, 5 miệng ăn mà cái nồi cơm chỉ nhỉnh hơn cái niêu.

– Sao bố không nói cô nấu thêm? 

Đấy, người mình có lệ ăn nhiều cơm mà ít thức ăn. Ngày Sao Khuê  được anh chị chồng bảo lãnh qua Canada cũng vậy.  Hai gia đình tám, chín miệng ăn mà anh chị nấu mỗi người một chén cơm nhỏ, anh còn cười khì khì:

– Bên này ăn ít cơm lắm.

Cái nồi tí tẹo, muốn nấu thêm cũng không được, may mà chỉ ở chung có ba tháng.

Thiệt tình, ở Việt Nam thì “cơm ba chén, thuốc ba thang” và ông xã Sao Khuê ăn 6, 7 chén là thường nên từ ngày sang Canada ông mất bụng, ốm nhom…

Cuối tháng 2 năm 2005 là ngày giỗ bố chồng, Sao Khuê mời bố sang ăn giỗ.

 – Tôi bệnh, không đi được. 

 – Bố lại nhõng nhẽo!

Hôm sau, ngày 1 tháng 3,  Sao Khuê lúc đó cũng đang nghỉ bệnh và ngày hôm đó còn giữ cháu ngoại cho con đi làm thì  cháu trai gọi:

– Bác ơi, bác qua gấp. Mấy ngày nay ông không ăn và ông kêu mệt lắm.

Sao Khuê vội cùng cháu ngoại chạy sang. Thấy bố thở khó khăn: Bố hay bị nghẹt thở do khi trước hút thuốc lá nhiều. Sao Khuê xịt thuốc, bố dễ thở hơn, đói bụng và muốn ăn bánh mì chấm sữa đặc. Cô em gái mua thêm cả sữa ensure mang tới.

 – Bây giờ bố có muốn đi nhà thương không?

 – Cháu làm bác sĩ, sao phải đi nhà thương. Bảo chúng đến khám cho ông.

Sau đó bố kêu buồn ngủ và đi ngủ. Hai chị em rủ nhau đi ăn trưa. Khi Sao Khuê về nhà thì thấy cháu trai nhắn trong điện thoại:

 – Ông thức dậy, đi tiểu rồi té trong phòng tắm, cháu gọi 911, họ đưa ông vào nhà thương Jean Talon. 

Cùng cháu ngoại 5 tuổi, Sao Khuê chạy vội vào nhà thương. Họ cho biết đã chuyển sang nhà thương Saint Luc. Khi đến nhà thương thì thấy họ đang dùng “electrochoc” để hồi phục tim. Họ ấn cái máy như cái bàn ủi xuống ngực và người  bố lại giật tung lên.

Một bà y tá nhìn Sao Khuê ái ngại và lắc đầu, mươi phút sau bác sĩ cho biết sẽ ngưng điều trị vì cho dù cứu sống được bố sẽ sống như thực vật do máu đã ngừng lên não lâu rồi.

Họ chuyển  giường ra phòng ngoài. Em trai Sao Khuê cũng vừa đi làm về, chạy vào và hai chị em liên tục niệm Phật.Trong lúc miệng niệm “Nam mô  A di đà phật”, mắt Sao Khuê chợt thấy ngón tay bố còn cái nhẫn vàng một chỉ mang từ Việt Nam sang. Miệng vẫn “Nam mô” nhưng tay Sao Khuê thì tìm cách  tháo chiếc nhẫn ra (!). Tháo không được, xoa xà bông mấy lần cũng không xong. 

 – Bố à, bố để con tháo ra, lấy tiền cho người nghèo, bố giữ thì cũng sẽ bị người ta lấy mất thôi. 

Ấy vậy mà sau đó Sao Khuê tháo ra dễ dàng. Bây giờ cái nhẫn còn nằm trong tủ ở nhà băng nhưng Sao Khuê cũng đã làm từ thiện với số tiền tương đương hay hơn.  

Dù bố ra đi thình lình nhưng đám tang  cũng được tổ chức long trọng.

Vì bố mẹ Sao Khuê sang Canada do bảo lãnh nên phải sau thời hạn 10 năm mới được hưởng tiền già.  Sao Khuê đang   làm thủ tục xin tiền  thì bố ra đi. Bố vẫn mơ ngày có tiền già được tiêu pha thoải mái : “Vai mang túi bạc kè kè, nói quấy nói quá, chúng nghe rầm rầm …” 

Hồi đi “du học “ở Hà Nội, bác Cả và bố trọ học nhà cô Huyền, sau này cô là thanh tra sở Giáo dục và khá thân với gia đình, nhất là với bác Cả.

Nghe tin Bố mất, cô Huyền gửi lá thư trong đó có bài thơ:

             Tin bn

     Ôi thôi lão trượng đi ri

  Sao không gi lđôi li tri âm

  Lúc ti thế âm thm hđạo 

  Đạo quả ri, dch sách, in kinh 

  Thin sư dìu dt chúng sinh…

 Tây Phương thng tiến Niết Bàn gp nhau  

 Hn thiêng hn có anh linh 

 Xin về chng dám ti tình thứ tha

Trăng xưa còđó hng hờ …

Người xưđi mãi xin chờ kiếp sau

       Nguyn thị Huyn 

Con gái rượu và hai em gái, em trai của bố từ Cali sang tiễn bố. Bà con khắp nơi gọi, gửi thư hay phúng điếu. 

Sau khi cô chú ra về, cậu em Sao Khuê mới hội họp gia đình, trình lá thư bố viết ngày hôm trước khi ra đi, nội dung:

“ Tôi có 10 ngàn Mỹ, cô QA mượn mua nhà, số tiền đó chia làm hai, cho hai con trai là … “

(Bố thiệt, lúc nào cũng cưng con trai.)

“Cô P còn giữ của tôi vài trăm tiền Mỹ mà các anh chị, các cháu cho lúc tôi qua Mỹ, cô P giữ để lo chia vui, chia buồn bên Mỹ. Cô Sao Khuê còn giữ của tôi 2672 $ tiền Canada và 425$ tiền Mỹ. Cô dùng tiền này lo ma chay cho tôi, thừa thiếu bao nhiêu cô chịu”.

 Số tiền tang lễ thì nhiều nhưng Sao Khuê có mua bảo hiểm cho ba má và em trai cũng phụ một phần vào cho đủ. 

Hồi bố mẹ sang, Sao Khuê xem số tử vi của mình, thấy năm 1995 “Tang môn ngộ bạch hổ”, e có tang mà lúc đó nợ ngập đầu, lấy tiền đâu mà lo nên bấm bụng mua hai bảo hiểm cho bố mẹ. Vì tuổi tác và vì bố đã hút thuốc lại bị bệnh nên bảo hiểm rất đắt. Mỗi tháng đóng gần 100$ và đóng gần 10 năm, tiền nhận lại cũng bằng số tiền đóng. Đúng là thầy Sao Khuê… bói mò.

Bố Sao Khuê chưa muốn chết.Bố muốn sống thọ, ít ra thì hơn ông suôi gia,  mất vào năm 91 tuổi nhưng bố lại mất lúc 85 tuổi. Trừ chứng bệnh phổi, bố  Sao Khuê còn to lớn khoẻ mạnh, vững vàng và minh mẫn, bằng chứng là bố  nhớ rất rõ số tiền mà Sao Khuê còn giữ của bố. 

Những năm cuối đời , bố ăn chay trường trường, nhưng không tụng kinh mà chú trọng tìm hiểu về giáo lý của đức Phật. Bố có viết và muốn in tập khảo cứu “ Đường vào cửa Không”. Đáng tiếc, lúc đó Sao Khuê vừa bệnh vừa nợ nhà chưa xong nên không giúp bố hoàn thành tâm niệm và bố thì nhất định không dùng tiền của mình để in, mặc dù Sao Khuê đã hứa là khi bố nằm xuống Sao Khuê lo hết, do đã mua bảo hiểm… Bây giờ Sao Khuê mới giải mã là cụ muốn để giànhcho hai con trai.

Cũng như bà nội, bà nội biết rõ, rất rõ lúc ra đi. Bà vẫn khỏe mạnh và  đang ở chơi nhà con gái. Tối đó, tháng 10 năm 1974,  bà đòi con rể đưa về nhà bác Cả : 

 – Anh đón xe cho tôi về ngay, các “Cụ”cho người đến đón tôi rồi.

Khi về đến nhà, được đặt nằm trên giường, bà chắp tay và ra đi, thanh thản, bình an.

Bố, bố cũng có linh tính nên tối hôm trước bố đã viết và dặn dò hậu sự.

Khi bố ở nhà quàn, Sao Khuê có làm một bài thơ khóc bố. Ngày đó Sao Khuê viết và đưa in trong Đặc san Dược khoa  Montréal chứ không có lưu như bây giờ nên khó tìm lại.

Dù sao chăng nữa, Sao Khuê có linh cảm rõ ràng là bố đã đi một mạch, đi không vương thê nhi, bố về một nơi rất an bình nên chẳng bao giờ Sao Khuê thấy bố trở về.

“Father’s day” đến… Sao Khuê nhớ  bố. Chẳng bao giờ bố đánh đứa con nào, tuy la mắng khá dai khi Sao Khuê  thi rớt.

Coi kìa, bố đang la:

 – Cái con này, mang cả bố ra mà viết truyện, lại còn kể xấu nữa chứ… 

– Con chưa kể ra hết đó, khi có dịp con kể thêm nữa… 

Dù biết bố đi tuốt luốt nhưng lúc nào có trái cây mới, thức ăn ngon là Sao Khuê vẫn để trên ban thờ ông bà nội, ngoại, bố, bác, các chú, cậu em  cùng bố mẹ chồng.

Mỗi lần vắng nhà đi chơi xa là Sao Khuê lại giao:

– Con đi chơi đây, bác và bố trông nhà đấy nhé. 

Giao bác thì yên chí vì bác vốn cẩn thận.    Giáo sư toán mà lỵ, không vơ vẩn thơ thẩn như bố…

  Bố ơi! Con nhớ bố….

Sao Khuê 2023

**

Khóc Cha

Biết bao nhiêu bài viết về Mẹ, công ơn sinh thành, hy sinh của người Mẹ vào ngày lễ Mẹ, nhưng hôm nay là ngày Father’s Day, ngày của CHA, tôi tìm mãi chỉ được một vài bài đếm trên đầu ngón tay thôi. Tại sao vậy?

Người cha cũng có nhiều công lao dưỡng dục, mặc dù không là người trực tiếp mang nặng đẻ đau như người mẹ, nhưng người cha đổ rất nhiều công lao như đi làm kiếm tiền trang trải cuộc sống, gánh vác cả gia đình; cuộc sống có tốt đẹp, ấm no, con cái có học hành, phẩm hạnh đạo đức không, chính nhờ phần lớn mồ hôi, công sức nuôi dậy của người CHA.

Tôi là đứa con trai giữa trong gia đình năm chị em, ba gái đầu liên tiếp và hai trai sau, mà tôi là người anh đầu. Lẽ ra ba chỉ muốn có hai người con, một trai và một gái thôi, hoặc ba người là nhiều rồi, vì ba bảo có nhiều con vui thật nhưng trách nhiệm nặng nề, phải nuôi con đến nơi đến chốn, cho ăn học và đến khi chúng lập gia đình mình cũng còn phải lo!

Mỗi lần mẹ mang bầu là mỗi lần ba đặt nhiều hy vọng, mong một thằng cu! Ba hay kể với bác Tư, bạn thân của gia đình là ba cảm thấy rất phấn khích, khỏe mạnh khi “gần” mẹ, chắc chắn kỳ này phải là đứa con trai. Thế nhưng kết quả là… người chị cả ra đời!

Ba tự an ủi, nói với ông bà Nội rằng:

– Không sao, đứa đầu lòng là gái hay trai cũng được, là con gái thì sau này nó dậy dỗ trông nom em càng tốt hơn nữa, nhất là chỉ bảo em trai thì tốt đẹp biết bao.

Hai năm sau, mẹ mang bầu, ba đặt tất cả kỳ vọng vào cái bầu tròn căng vượt mặt của mẹ. Thuở ấy chưa có siêu âm ở những vùng tỉnh nhỏ, nên chỉ nhìn dáng bụng thì suy đoán là trai hay gái mà thôi; ông bà nội với nhiều kinh nghiệm, ngắm cái bầu của mẹ khi lên Dalat thăm gia đình nhỏ của chúng tôi:

– Nhìn cái bầu tròn như thế thì 80% là con gái rồi!

Ba cố chống đối:

– Nhưng sao kỳ này mẹ chúng nó lại thích ăn ngọt chứ không thích ăn chua như lần mang bầu đầu tiên, có thể nào là con …trai?

Đứa con gái thứ hai ra đời, ba có hơi thất vọng.

Đến ba năm sau, ba lại nhất định “thua keo này ta bầy keo khác”, không chịu thua số phận, hy vọng tăng trội hơn khi thấy khuôn bụng của mẹ nhỏ gọn hơn hai lần trước.

Ngày mẹ đi sanh chỉ có ông bà ngoại bên cạnh vì ba phải đi làm xa, ở Liên Khương, ba phone về thấp thỏm hỏi ông bà ngoại:

– Vợ con sanh có tốt không bố? Baby sinh ra có khỏe không? và có phải là con… trai?

Ông ngoại ái ngại, không dám trả lời liền, ngần ngừ:

– …Ưm… nhờ Trời thương mẹ tròn con vuông!… Con bé khỏe mạnh!

Ba thốt lên một cách thất vọng:

– …Lại là con gái ư?!

Một khoảng thời gian yên lặng, rồi ba nói tiếp :

– Con nhờ ông ngoại đặt tên cháu nhé.

– …Ừ được rồi, nhưng con bé này rất kháu khỉnh, có cặp mắt tròn to, da trắng và rất nhiều tóc!

– Vâng! Ông cứ đặt tên cho cháu đi nhé, con cám ơn ông bà Ngoại giúp con nuôi vợ con và các cháu nhé; con phải làm đến hết tuần này mới về nhà được ạ.

– Được rồi, con cứ an tâm đi.

Chỉ nói thế thôi, ba cúp phone tiếp tục làm việc.

Ông Ngoại trầm ngâm suy nghĩ, biết ba đã « ngán » con gái lắm rồi, nếu mẹ cứ tiếp tục cái đà này thì chắc ba ở luôn trên Liên Khương làm việc!

Ba chị gái đầu ra đời làm ba tôi chán quá, đổi nhà về Saigon làm việc để có thể thay đổi không khí, thay đổi sinh hoạt, biết đâu….

Lần thứ tư mang bầu, mẹ tôi chẳng thèm kiêng cữ gì như ba lần trước, bà ăn uống xả láng vì cảm thấy lúc nào cũng đói, nhất là rất thích ăn kem, ăn đồ lạnh.

Ngày mẹ đau bụng, mới đến nhà thương, chưa kịp vào phòng sanh, đứa trẻ đã muốn lọt ra ngoài, họ vội vàng đẩy mẹ vào phòng ngay; ba đứng bên ngoài chờ cho mọi chuyện êm thắm một chút, định bỏ về đi làm thì nghe tiếng khóc thé của tôi vọng ra; ba đã biết đó là thằng con trai!

Ba đã mừng đến rơi nước mắt và đã chắp tay cảm ơn Trời Phật ngay tại trước phòng sanh của mẹ!

Tôi được cưng chiều đến nỗi chỉ một tiếng khóc nhỏ cũng được chị vú ẵm bồng, dỗ dành.

Mỗi buổi chiều đi làm về, ba đều vào thăm thằng cu Thơm, vì hồi bé tôi thơm mùi sữa, mùi phấn lắm nên được đặt tên ở nhà là cu Thơm, ba mua đồ chơi, hôn hít, bồng bế tôi. Tôi đem niềm may mắn đến cho gia đình, ba được thăng chức, được chính phủ cấp cho nhà rộng to, rất đẹp.

Dù ba cưng chiều tôi nhất nhà, nhưng ba chị của tôi cũng được ba chăm sóc, lo lắng cho từng người. Tôi nhớ chị lớn nhất của tôi đến tuổi có bạn trai, mỗi lần anh ấy đến, ba đều hỏi gia cảnh nhà anh ấy tưởng chừng như cảnh sát hỏi cung phạm nhân vậy, đến nỗi anh ấy không dám vào nhà nữa mà hẹn chị ở góc đường, ba nói :

– Đứa nào có can đảm đối đầu được với ba thì mới xứng đáng làm con rể của ba!

Mỗi lần tôi bị bệnh thì khỏi nói rồi, ba thức đêm lo cho tôi uống thuốc đúng giờ thay vì là mẹ, ba cẩn thận đến nỗi sợ mẹ mệt ngủ quên nên ba để đồng hồ báo thức dậy đúng giờ đó, và tự tay cho tôi uống thuốc.

Sau tôi, em trai ra đời, ba rất vui mừng và ngưng tại đây.

***

Những ngày vui hạnh phúc chưa được bao nhiêu thì miền Nam bị nhuộm đỏ, công việc dưới chính quyền cũ không còn nữa, ba phải cơ cực làm những công việc chẳng phải là chuyên môn của mình, hy sinh tất cả cho các con từ hạt cơm bo bo đến miếng thịt heo cả tháng mới mua được một lần ở hợp tác xã.

Sau đó là những lần vượt biên không thành, ba bán dần dần những đồ đạc trong nhà, ba ít nói hơn, mái tóc bất ngờ chuyển màu trắng toát chỉ qua vài đêm, ngồi yên nhìn vào khoảng trống như suy tính mọi cách làm sao cho con cái thoát thân trước, rồi ba mẹ mới là người cuối cùng.

May mắn làm sao đúng vào lúc gia đình cạn kiệt nguồn vốn để dành bao lâu nay, giấy tờ bảo lãnh của người thân bên Canada về đúng lúc, chúng tôi sửa soạn rời xa quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn đến một xứ sở thứ hai với hai bàn tay trắng, tương lai mịt mờ, chỉ còn mỗi niềm hy vọng mong manh trong tim.

***

Ba mươi năm sống ở xứ Canada lạnh giá, 15 năm đầu ở Montreal, ba đã bỏ cả tự ái, quên đi cái chức giám đốc nha hỏa xa, xưa kia ở Saigon, một thời cai quản hơn cả mấy chục nhân viên dưới quyền, ba đã phải làm công nhân với mức lương 4$/ giờ trong hãng làm giầy da, sáng sớm dậy chờ bus lạnh lẽo ở đầu đường, làm cho đến chiều 5 :00 về nhà mệt nhoài. Với số tuổi không còn trẻ, 55, Ba cố gắng quên mình, bỏ tự ái để đi làm công việc tay chân với một mức lương tối thiểu mà không hề than trách, để cho chị em chúng tôi đừng bị dang dở việc học.

Vài ba năm sau, năm 1990 dù lớn tuổi, ba vẫn lấy thêm chứng chỉ học ban đêm, mỗi tối cả nhà chúng tôi đều yên lặng, ai nấy đều gục đầu vào quyển sách, chỉ nghe tiếng trang sách lật; ba thi vào một chức vụ hành chính về quyền con người của cấp thành phố Montreal, tỉnh Quebec nơi chúng tôi đang cư ngụ, chức vụ này có đến trên 10 người thi vào, chỉ một mình ba là người Việt tỵ nạn đến Quebec được ba năm rưỡi, còn những kia toàn là dân bản xứ, họ thi lên ngạch, làm lâu năm và có kinh nghiệm cả chục năm trong guồng máy hành chính này. Ba nói với chúng tôi:

– Cứ thử sức xem sao, không mất mát gì cả, nếu đậu thì cả nhà chúng ta sẽ được thay đổi đời sống, mâm cơm sẽ khác hơn, sẽ có xe đi và chỗ ở tốt hơn; nếu không được thì mình cũng học cho có thêm sự hiểu biết về luật pháp của Canada, không có gì mất công hết!

Chúng tôi rất cảm động vì thấy tuổi ba đã lớn, trên 55 mới bắt đầu học lại, ba không muốn cho mẹ phải đi làm, không muốn thấy chúng tôi phải bỏ học ngang để đi làm kiếm tiền, ba lúc nào cũng tự cho mình phải mang trách nhiệm này đối với gia đình.

Nhiều đêm thấy ba đọc sách mà quyển sách đã tự rơi xuống đất vì buồn ngủ và mệt quá, ban ngày đi làm từ sáng sớm, tối thức khuya đến 12 :00 đêm làm sao sức nào chịu nổi, tôi thương ba vô cùng, tự hứa với lòng sẽ ráng học ra trường kỹ sư để ba hài lòng.

Rồi một ngày, ba về nhà mang trên tay bao nhiêu giỏ xách, ba hớn hở nói như reo, lần đầu tiên tôi thấy ba vui như thế:

– Mẹ chúng nó này! Tôi đã… thắng rồi nhé, tôi được chọn vào làm văn phòng của chính  phủ rồi, thứ hai tới này tôi đi làm công sở mới!

Lúc ấy ở nhà chỉ còn hai anh em trai chúng tôi thôi, ba chị lớn đã lần lượt đi lấy chồng sau khi ba mẹ tôi sang được một năm, tôi và em trai đã chạy ra ôm lấy ba, chúc mừng:

– Ba giỏi quá! Chúng con phải noi theo gương ba!… Hôm ba đi thi có đông người phỏng vấn ba không?

– Cả một phái đoàn 6 người, mỗi người hỏi một vấn đề, người thì hỏi về luật lệ Canada, kẻ thì đưa ra những tình huống xem mình giải quyết thế nào, còn người thì hỏi về học vấn và công việc trong quá khứ của mình ra sao…rất stress lắm, mỗi thí sinh phải qua cả tiếng đồng hồ với họ đấy chứ không dễ ăn đâu!

– Chúng con rất hãnh diện về ba, ba giỏi quá, ba làm gương cho chúng con noi theo đó!

– Vậy mấy người kia thì sao hả ba? Họ trả lời không được hay sao?

– Họ không đủ kinh nghiệm sống và có người chưa làm qua chức vụ đó thì làm sao trả lời được, còn ba thì đã làm mấy năm giám đốc hỏa xa, lại đi tu nghiệp ở Mỹ, Pháp về thành ra đối với ba không là vấn đề gì to tát, chỉ có cái mình nói chuyện bằng ngôn ngữ của họ không nhanh bằng họ thôi, mình viết giỏi, nhưng nói thì chưa lưu loát lắm.

-B õ công ba học hành từ cả mấy tháng nay! Đây là món quà thật xứng đáng của ba!

– Cái gì cũng phải nỗ lực để đạt được, các con nhớ nhé, muốn gì phải đạt được bằng tất cả khả năng của mình, đừng từ bỏ, hãy theo đuổi mộng ước của mình đến cùng vì mình chỉ khổ vài năm thôi mà được hưởng cả đời.

Mẹ tôi chen vào:

– Ba nó mua nhiều thịt heo, thịt vịt quay quá, hôm nay tha hồ mà ba bố con nhậu với nhau!

***

Ba làm cho công sở cấp thành phố, tiểu bang Quebec này được 10 năm, đúng 65 ba về hưu, mọi người trong sở ai cũng quý mến ba, ba được thưởng bonus và được tiền hưu cao. Lúc ấy tôi và em trai đã tìm được một công việc khá ở Toronto về kỹ sư điện tử đã được trên sáu năm và cũng đã lập gia đình; ba mẹ muốn về gần con trai và các cháu nhỏ, nên đã từ giã Montreal, không muốn ở chung với các con, mà muốn ở riêng và thỉnh thoảng chúng tôi đến thăm.

Mẹ mất khi 70 tuổi, sự ra đi nhanh chóng của mẹ làm cuộc sống của ba bị mất thăng bằng, ba không còn thấy vui sống nữa, nhưng vẫn cố gắng giữ nụ cười khi gặp con cháu. Ba cố gắng tự mình di chuyển bằng xe đạp, bằng phương tiện giao thông công cộng như bus hay metro để đừng phiền đến ai, ba cũng tự học làm cơm mà từ trước đến nay ba chẳng bao giờ đụng đến bếp núc mà chỉ lo kiếm tiền cho gia đình mà thôi, ba ăn uống qua loa… Vì thế nên ba ngày càng gầy đi, mỗi lần gặp chúng tôi ba đều cố vui để chúng tôi đừng lo lắng, đừng mất công làm cơm đem đến cho ba:

– Ba khỏe mạnh lắm, không bệnh hoạn gì hết, các con cứ lo đi làm, lo cho các cháu là được rồi, đừng mất công đem gì đến cho ba, ba đặt đồ ăn ở gần đây, họ làm ngon lắm.

Đến một ngày, tôi nhận được phone của ba từ nhà thương, ba cố nói với giọng vui vẻ:

– Ba đã xin được một chỗ ở đây rất tốt, phải chờ đợi lâu lắm mới được chỗ này đó, họ làm cơm cho mình ngày ba bữa, nơi đây vừa gần chỗ các con ở, vừa gần … nhà quàn…

– Ba! Cái gì vậy? Tại sao ba lại vào nhà thương ở? Chỗ đó đâu phải…. Sao ba không bàn gì với chúng con? Cancer phổi của ba các bác sĩ nói vẫn được theo dõi ok mà? Ba có bị đau đớn không? Ba có buồn giận gì chúng con không?

– Không đâu, chính ba là người quyết định, các con không có lỗi gì ở đây cả! đời người cũng phải có cái hạn mà con, ba đã sống hết đời rồi; từ ngày mẹ con qua đời đến giờ ba sống thật bấp bênh, thấy thiếu thốn một cái gì đó, cuộc sống không còn vui, không còn chất lượng nữa… Ba muốn… đi gặp Mẹ!

Tuy nhiên, ba rất vui thấy các con đã thành công, tự lực, nuôi nấng và giáo dục các cháu rất tốt, đó là điều mà ba thấy hạnh phúc nhất. Ba thấy mình đã thực hiện được ước mơ, trách nhiệm đã xong, sống lâu quá chỉ làm phiền các con cháu mà thôi, ba chọn cách ra đi nhẹ nhàng nên mới vào nhà thương này….

Ba phone đến các chị lớn để “trăn trối”, dặn các chị phải làm gì sau khi ba ra đi, ba muốn được thiêu, tro của ba hãy để vào chùa, chỗ bên cạnh mẹ mà ba mẹ đã chọn mua, ba để lại gia tài cho đứa nào cái gì…

Chúng tôi chỉ yên lặng nghe quyết định của ba mà trái tim tan nát, nước mắt rơi không ngừng, không nói được điều gì khi thấy ba đã suy nghĩ, đã sắp xếp cho chuyến đi xa của ba được toàn vẹn. Các chị tôi lúc nào cũng túc trực bên cạnh nhà thương; khi vào thăm ba, thấy ba còn mạnh khỏe, vẫn tự mình làm vệ sinh cá nhân, ăn uống ngon miệng đồ ăn của nhà thương, nơi đây là chỗ để cho những người bệnh già ở, không bị bệnh nặng lắm, có những người ở đây đến hai năm vẫn chưa ra đi.

Chúng tôi nhắc lại những kỷ niệm xưa với ba, nói những chuyện vui để ba có thể quên đi cái thực trạng bệnh hoạn, ba chỉ cười mỉm và lúc nào cũng nhắc nhở chúng tôi:

– Nhớ trông nom các em, các cháu cho tốt nhé, ba ra đi sẽ phò hộ cho các con!

– Ba ơi, ba hãy đi đầu thai, hãy làm việc của ba, đừng vì chúng con nữa ba nhé, ba đã cho chúng con một đời này là được rồi ạ!

Đến tháng thứ hai ở nhà thương, lúc 3:00 sáng, tôi nhận được cái phone định mệnh reng lên giữa đêm, họ nói ba đã từ chối ăn uống, cũng như uống thuốc từ hai hôm nay, để được thảnh thơi ra đi… Ba tôi hưởng thọ 86 tuổi!

Cha đi, bóng xế bên thềm,
Lá rơi theo gió, nỗi niềm rụng theo.
Lặng thầm lệ ướt khăn treo,
Con ngồi thổn thức giữa chiều buốt tim.

Một đời cha gánh nổi chìm,
Cho con nắng ấm, cho tim yên bình.
Giờ đây trời đất lặng thinh,
Cha ơi… tiếng gọi chỉ mình con nghe.


Sỏi Ngọc

Montreal June’25

**

Lời Ba Muốn Nói

Minh Thúy Thành Nội

Mùa Hạ đã bắt đầu báo hiệu, các loài hoa thi đua nở đủ màu sắc tươi vui. Anh Quang bước ra sân theo tiếng gọi của vợ nhờ bưng phụ mấy chậu hoa quỳnh lên bệ cao, vì muốn ngắm nét đẹp của loài hoa trang đài đang nở hàng chục đóa hồng và vàng. Bé LiLy bước chân cao chân thấp đi theo cha cười hồn nhiên.

– Con tránh ra để ba phụ mẹ chút nha

Lily nghiêng đầu qua, nghiêng đầu về vẫn níu áo, anh đành dừng chân nói với vợ “chờ chút…con đang vui vẻ”. Anh gỡ nhẹ tay con dìu vào ghế dài dưới tàng cây phượng vàng nay đã tàn hoa, chỉ còn bóng lá xanh tỏa mát. Anh ôm con, đặt đầu LiLy áp vào ngực anh, nghe luồng tim đập ấm áp chứa tình thương bao la.

Nhìn con lòng anh như quên hết chuyện phiền não hôm qua.

Vợ chồng anh mua vé hai tháng trước cho chuyến bay qua Hawaii nghỉ mát như thường lệ. Đã làm thủ tục check-in và ký gởi hành lý xong xuôi, vợ chồng anh hân hoan xếp hàng, bỗng bé Lily ngồi sụp xuống, níu chân ba mẹ nhìn về hướng ngược, biểu hiện ý đòi trở lui. Anh dỗ con “Ngoan Lily nhé, con sẽ vui đùa tắm biển khi qua đó”. Bé hất tay anh ra, rồi nằm lăn dài khóc lóc. Anh chị thay phiên dỗ dành, dìu con lùi qua một bên nhường chỗ cho khách hàng đang bước từ từ lên. Thời gian như muốn đứng lại, Anh chị nhỏ nhẹ, vuốt ve con sau gần một tiếng đồng hồ, cháu vẫn la hét đến khàn cổ. Cuối cùng anh chị phải chiều ý con gọi Uber trở về nhà. Anh liên lạc với nhân viên Airlines báo cáo hủy chuyến bay dù hành lý đã gởi, và được cho biết sẽ nhận lại một tuần sau.

LiLy ngồi yên ép sát đầu vào ngực anh, trong khi chị nhổ cỏ dại mọc xen chung quanh các chậu hoa trong lúc chờ đợi anh giúp đỡ việc nặng.

Anh nhìn màu nắng rực rỡ, ký ức ùa về của khoảng thời gian gần 30 năm trước. Anh giật mình “thời gian trôi nhanh quá, mọi chuyện cứ ngỡ như mới đâu đây…” Anh để dòng sông êm ả trôi về miền kỷ niệm…

Sinh ra trong một gia đình có ba anh em, Anh là trai lớn, thủa nhỏ đi học luôn đoạt bằng khen, bằng danh dự. Theo gia đình vượt biên qua Mỹ, anh hội nhập mau chóng và tiến bộ trong lãnh vực học đường, suôn sẻ tốt nghiệp bằng kỹ sư. Anh làm việc đi qua nhiều hãng nổi tiếng, hiện tại làm cho hãng Cisco tọa lạc vùng San Jose, nhưng được làm việc ở nhà.

Anh nhớ một mùa hè năm đó…. trong vài buổi làm việc thiện nguyện tại San Francisco, Anh gặp Ái Thanh (vợ anh bây giờ) đang là sinh viên của trường San Jose State, nàng rất đẹp và xông xáo trong công việc. Anh đã bị hớp hồn ngay từ phút đầu và tìm cách làm quen, quyết chinh phục cho bằng được. Chị lúc ấy cũng mến anh, một kỹ sư có nét thanh tú với dáng cao và tánh tình hiền lành ít nói. Anh chờ chị tốt nghiệp bốn năm, chị có việc làm trong phòng thí nghiệm của trường Đại Học. Mọi việc đều vững vàng bảo đảm đời sống, vì anh đã mua nhà trước đó. Sau vài năm tìm hiểu, anh chị quyết định tiến tới hôn nhân và hiện là cư dân của vùng Milpitas.

Mọi sự đều chuẩn bị sẵn sàng, đứa con trai Robert đầu đời, Anh chị chào đón trong niềm hạnh phúc vô biên. Ba năm sau bé Lily được sinh ra, những giây phút chờ trông cháu Lily lật trở vui nhộn biết bò theo thứ tự bẩm sinh. Sau gần hai năm, theo dõi bước thay đổi và phát triển của con, chưa thấy bé Lily biết đứng, biết bập bẹ phát ra âm thanh của trẻ con, anh chị lo lắng đem con đi gặp bác sĩ và bệnh viện nhiều lần, kết quả bác sĩ cho biết cháu bình thường, hãy chờ đợi thêm thời gian nữa”. Anh chị bắt đầu sống trong tâm trạng lo âu hồi hộp vì chẳng có gì tiến triển, ngày tháng trôi qua trong mòn mỏi, nhìn con vẫn bò quanh nhà dù đã lên bốn, năm, sáu…tuổi.

Khi con đầu lòng chào đời, anh chị tìm được người trung niên độc thân tên Sâm, sinh hoạt các chùa (do bạn giới thiệu), sau thời gian quan sát tìm hiểu tánh tình chị Sâm này rất hiền từ nhân hậu. anh chị yên tâm để chị Sâm ở lại sáu ngày, cuối tuần về thăm nhà, vì vậy vợ chồng yên tâm cày cấy trang trải nhiều thứ nợ.

Trước đây chị Sâm trông nom em gái Natalie con anh kỹ sư Lâm. Chị kể lại: “Em gái này đã trên hai mươi tuổi, bị bệnh Autism (tự kỷ) rất hung dữ, qua nhiều người đến chăm sóc nhưng họ phải đầu hàng vì em không chịu ai cả. Có những lúc em bị kinh nguyệt, em vùng vằng không cho chị Sâm thay băng làm vệ sinh, cuối cùng anh Lâm phải tự tay làm công việc ấy cho con, bởi vợ chồng đã ly dị, mà anh là người nuôi con. Chị Sâm thương lắm cũng đành nghỉ việc, sau bà Nội đến ở lại chăm cháu. Thỉnh thoảng cuối tuần chị Sâm cũng ghé thăm vì thương những mảnh đời đau khổ, thương những đứa trẻ không được bình thường sống trong hoàn cảnh thật xót xa. Câu chuyện được kể khi chị Sâm chứng kiến bé Lily có nhiều dấu hiệu không được bình thường, nhưng chị Sâm may mắn trông cháu bền lâu vì tánh Lily hiền lành dễ chịu hơn.

Một hôm tình cờ xem hình cha con anh Lâm trong buổi tiệc gia đình có chị Sâm chụp chung, nhờ vậy anh Quang nhận ra người bạn học xưa. Họ liên lạc hỏi thăm, tâm tình tìm sự cảm thông nhau từ đó.

Một buổi hai anh hẹn gặp uống cà phê cuối tuần. Sự mệt mỏi hiện ra trên nét mặt, mỗi người như bị áp lực đè nặng trong công việc và con cái. Anh Quang kể về hãng Cisco, anh Lâm làm cho hãng IBM, trao đổi những mẫu chuyện về nghề nghiệp. Anh Quang hỏi thăm bệnh tình cháu Natalie.

– Cháu vẫn chơi và khỏe đó chứ?

– Càng ngày tâm tính cháu càng hung hăng chướng kỳ, giai đoạn này cháu không thích mặc quần áo, cởi bỏ hết đi khắp nhà. Bà nội không đủ sức mặc vào cho cháu, tôi phụ giúp thật khó khăn vì cháu vùng vẫy, phải cố gắng dùng sức mạnh kềm tay chân cháu. Mặc quần áo xong rồi tôi phát hiện có vết bầm trên cánh tay cháu, biết mình vô ý lỡ mạnh tay tôi thật đau lòng, hối hận muốn khóc vì thương con mình quá.

Anh Lâm kể lại với ánh mắt buồn bã. Biết hoàn cảnh bạn mình đã ly dị chịu cảnh gà trống nuôi con, anh Quang nhẹ nhàng:

– Ông cũng nên tìm người bạn mới cho khuây bớt

Anh Lâm lộ vẻ uể oải chậm rãi:

– Nói gì, tôi cũng có bạn gái chứ, tháng trước dẫn về chơi dò ý con, cháu Natalie lộ vẻ giận dữ hai mắt đỏ ngầu, tôi sợ quá nghĩ từ nay không đem về nhà nữa. Lòng tôi cũng chẳng hứng thú gì khi nghĩ đến con, chỉ muốn để mặc dòng đời trôi… Mỗi ngày đi làm về nhìn con, chơi với con bằng tình phụ tử thiêng liêng dậy lên những cảm xúc dạt dào khôn nguôi thật khó tả.

Một hôm người quen khuyên anh Quang xin tiền phúc lợi Social Security Disability Insurance (Bảo Hiểm Khuyết Tật An Sinh Xã Hội – SSDI). Anh gạt ngang nghĩ thầm “Làm gì có chuyện đó đối với anh, khi mức lương vợ chồng cao, lại đang làm chủ hai ngôi nhà, một ở và một cho thuê, trường hợp anh không thể được quyền hưởng phúc lợi”. Anh hoàn toàn không tin, nhưng nghe nhiều người bàn cãi quá, điện thoại hỏi bạn Lâm, bạn cũng không biết. Hai anh điền đơn thử thì được xác nhận: trẻ em bị bệnh tự kỷ được hưởng quyền lợi là đúng, dù cha mẹ có dư điều kiện tài chánh đi chăng nữa.

Anh Quang không thể ngờ được nước Mỹ có chính sách nhân đạo đến vậy. Chính phủ không quan tâm ai giàu hay ai lương cao việc lớn mà chỉ chú trọng việc chăm sóc, hỗ trợ cho trẻ em, nhất là các trẻ em đặc biệt. Chính phủ trả lương cho người chăm sóc bé Lily và được hưởng thêm quyền lợi bảo hiểm sức khỏe. Bé được đi trường học lớp đặc biệt có xe đưa đón tận nhà, được cô giáo người bản xứ về nhà dạy riêng hai tiếng ngoài giờ. Anh muốn hét to “American vĩ đại, nhân từ bậc nhất…” Cho dù lương của anh bị trừ thuế 40% vẫn xứng đáng, vui vẻ góp phần xây dựng đất nước này phát triển vững mạnh thêm.

Mùa đông đi qua, mùa xuân lại đến, mùa hè trở lại, mùa thu tuần tự. Anh chị vẫn sống bằng niềm hy vọng bệnh tình bé Lily có phần tiến bộ, dù đã qua mười hai năm cháu vẫn chưa biết nói, biết đứng dậy. Tới năm mười bốn tuổi, bỗng dưng cháu đứng dậy và từ từ bước tập tễnh, còn niềm vui nào lớn hơn. Anh chị đã ôm nhau khóc vì mừng rỡ, bám tiếp tục niềm hy vọng để sống.

Nghĩ đến vợ, anh cảm thấy thường quý vô cùng. Nàng nấu ăn rất ngon, dù có chị Sâm trong nhà, nhưng bà xã chỉ muốn tự tay nấu những món ngon cho chồng con ăn vừa ý. Sau giờ làm vợ tất bật về nhà đứng mấy tiếng đồng hồ trong bếp, tối dành thì giờ chơi với con. Bé Lily rất kén ăn, nàng theo chiều con sát nút. Có điều đối với chị Sâm, bé dễ chịu vui vẻ, nhưng khi vợ anh về là bé chướng hết cỡ, đòi lung tung đủ thứ, bắt nàng bồng bế dù LiLy rất nặng ký. Bé có dấu hiệu: thích ngồi một mình, sợ người đông và sợ âm thanh mở lớn. Khi vui bé ngồi cười một mình xoay đầu liên tục, cô giáo có kỹ thuật chuyên môn dạy cháu chơi game để phát triển não bộ, cháu biết mở ipad và biết nhiều trò chơi trong máy khiến anh chị thấy phấn khởi vô cùng.

Anh chị ngoài thì giờ sinh hoạt, cũng tìm đọc các trang mạng về bệnh tự kỷ để hiểu thêm tâm lý. Chị là người mẹ rất tuyệt vời, luôn dặn anh “đừng bao giờ lộ nét mặt buồn giận con, mà phải cố gắng tạo nét mặt vui vẻ, ánh mắt trao nhìn con thật trìu mến”. Anh nhớ bao nhiêu năm, vợ luôn đè nén những ước mơ riêng tư, chịu đựng hy sinh cho con hết mực, những khi cháu nổi cơn bất thình lình. Như lần qua Florida ăn cưới cháu, trong buổi tiệc Lily nằm dài la hét làm anh chị không dự được phải ẵm con về khách sạn sớm; lần đi máy bay qua Nhật, cháu nằm lăn trên sàn khóc lóc lăn lộn, hành khách thật lịch sự ngồi yên như không có chuyện gì xảy ra dù cháu quậy rất ồn ào; lần qua đảo Big Island bên Hawaii, Lily cũng nằm vạ trên lối chờ vào máy bay, hôm đó tình cờ một viên phi công đi ngang qua, cúi xuống cầm tay em dẫn đi vào máy bay, cháu ngưng tiếng khóc bước theo, may mắn chuyến đó anh chị được thoát nạn; mỗi khi đến nhà ai hoặc ra ngoài công viên dự tiệc, thường chỉ có mình anh đi dự, họa hoằn đôi bữa có chị nhưng chị cũng nửa chừng bỏ cuộc.

Tiếng chị đánh thức anh về vùng hiện tại:

– Anh để con chơi, phụ em cho xong việc, em còn đi chợ vì tủ lạnh trống trơn rồi

– Được em! 

Anh đẩy nhẹ Lily ra khỏi vòng tay.

– Con dạo ngắm hoa đi nhé, con có thấy hoa nở đẹp không?

Bé buông tay anh bước chậm nhìn hoa, không biết con có hiểu lời anh nói!!??

Sau một hồi phụ vợ các việc nặng, anh ngồi nhìn con chơi trong sân. Robert, anh Hai của LiLy đã tốt nghiệp Đại Học và có việc làm nơi xa. Anh chị vẫn tựa vào niềm hy vọng một ngày được nghe con gái nói, dù tiếng nói bằng ngôn, anh chị ngữ riêng cũng tốt. Năm nay quỹ An Sinh Xã Hội cắt giảm tài trợ việc cô giáo đến nhà bày vẽ chơi game cùng Lily hai tiếng mỗi ngày. Nhưng không hề gì, anh chị vẫn tiếp tục trả lương cho cô giáo, để cô hướng dẫn dưới hình thức chơi game bằng phương pháp trị liệu tâm lý và khai triển bộ óc.

Lily quay nhìn anh, cười tươi tắn, trở lại ôm anh sờ ngực, sờ áo. Anh vuốt tóc con thì thầm “Lời ba muốn nói với con, là ba mẹ yêu con nhất trên đời. Con là hơi thở, là sự sống của ba mẹ. Dù sao con cũng được sinh ra trên nước Mỹ, một đất nước nhân bản, có nhân đạo luôn đặt quyền lợi các trẻ em bị bệnh lên ưu tiên hàng đầu”.

Năm nay LiLy đã hai mươi tuổi. Tuần trước anh chị định dẫn bé đi chơi xa như món quà sinh nhật, vì anh chị thấy cháu rất thích chơi đùa với sóng biển, thích tắm nơi bờ biển vắng người, nhưng chuyến này không may nên bất thành. Con bé cao giống anh, khuôn mặt trái soan, nét mặt giống chị. LiLy sinh ra đời được bao nhiêu người yêu thương ngoài ba mẹ, hai bên nội ngoại, chị Sâm, người quen và nhất là anh Hai Robert của bé, cũng biết dỗ dành, chiều chuộng, đút cơm hoặc thay tả cho em mình.

Đã vào tháng Sáu, ngày Chủ Nhật đẹp trời. Anh chị tổ chức sinh nhật cho LiLy ngoài park gần nhà. Mùa hè đến, cây cỏ xanh um, quang cảnh mang bộ mặt tươi vui đầy sức sống. Bà con đến đông chúc mừng quà cho cháu. Tuần trước bé không vui cản trở chuyến đi chơi, hôm nay bé vui, ngồi yên cho mọi người chuyện trò ăn uống khiến anh chị mừng lắm.

Chiều dần xuống Lily chỉ về hướng xa vắng người, nắm tay ba kéo đi. Anh nhờ chị tiếp khách, hai ba con bước tới những mô đá bên kia đường, bé ngừng lại muốn ngồi xuống. Anh cũng ngồi theo bé nhìn bóng chiều lung linh hoa nắng nhảy múa trên vạt cỏ. LiLy nhìn quanh quẩn lộ nét mặt dễ chịu nơi có không khí yên tĩnh thoáng đạt. Mặc bên kia mọi người rôm rả nói chuyện, ăn uống tiếp tục, anh vẫn lặng lẽ ngồi bên con cả tiếng đồng hồ, nhìn mây trời trôi lãng đãng, nghĩ đến những mảnh đời khác nhau biến chuyển theo cuộc sống.

“Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”, nghĩ người bạn có con bị bệnh giống Lily, anh thấy mình được may mắn hơn, vì còn có đứa con trai thành đạt, có vợ bên cạnh chung nhau chăm sóc Lily. Anh nhớ điều đã đọc trong tài liệu về phương thuốc chữa bệnh Tự Kỷ Tâm Lý: “Tình yêu thương của người thân chính là phương thuốc hữu hiệu nhất cho người bị tự kỷ. Nên trò chuyện với họ nhiều hơn để tinh thần được thoải mái”.

Anh lẩm bẩm “Nhất định xóa tan đau khổ, thất vọng, chống phá căn bệnh trầm cảm chen vào. Con là giọt máu, là tình yêu thương lớn nhất trên đời. Ba Mẹ sẽ chiều ý con, dù lúc con vui hay khi con nổi chướng, miễn Ba Mẹ được sống bên con gái yêu quý …”

Minh Thúy Thành Nội 

2/

Nhớ Cha

Cha ơi ! Thấy họ quây quần tiệc

Con đã từ lâu thiếu cảnh này

Bởi Lễ Father’s Day ý nghĩa

Hương đèn nhang khói mắt cay cay

*

Tha phương chỉ giấu lòng thương cảm

Kỷ niệm ngày xưa nhớ những gì

Sớm cảnh mùa đông trời xứ Huế

Cha đèo xe đạp chở con đi

*

Đến trường nhắc nhở con vào lớp

Chớ nghịch cô la, chúng bạn cười

Cố học cho nên người hữu ích

Mặt trời sẽ tỏa chiếu vui tươi

*

Quê hương biệt xứ không về lại

Phụ mẫu xa lìa lúc ốm đau

Bất hiếu con quay cuồng xót dạ

Từng đêm nghĩ ngợi nặng trong đầu

*

Công Cha tựa núi nuôi con lớn

Vất vả trăm bề trải gió sương

Tổ Quốc vai mang tròn trách nhiệm

Gia đình gánh vác bọc tình thương

*

Người ta quà biếu dâng Từ Phụ

Họp mặt hân hoan khắp mọi nhà

Chỉ có mình con buồn lặng lẽ

Lệ trào nghe khúc nhạc “ Tình Cha “

Minh Thúy Thành Nội

Tháng 6/ 15/2025

*

3/

Màu Áo Tôi Yêu

Nửa thế kỷ rồi vẫn luyến thương

Tôi yêu màu áo chốn sa trường

Cộng Hoà anh lính ngày Quân Lực

Tháng sáu vào mười chín biểu dương

*

Một thủa anh hùng giữ núi sông

Bút nghiên xếp lại ý tâm đồng

Hy sinh đánh giặc cuồng

xâm chiếm

Hai chục năm trời mẹ đợi trông

*

Kỷ niệm Nội Thành các nữ sinh

Vòng hoa chiến thắng khoác ân tình

Vân Lâu áo lụa in hoa nắng

Anh lính cười tươi đối diện mình

*

Áo trận còn vương lắm bụi đường

Anh về phố thị dáng phong sương

Đứng chờ lấp ló giờ tan học

Gặp gỡ mừng vui trước cổng trường

*

Chẳng phận không duyên khóc lỡ làng

Ai làm thống khổ cảnh ly tan

Người đi biền biệt mờ tin tức

Mộng ủ buồn say, giấc mộng tàn

*

Dĩ vãng xa dần vẫn thiết tha

Xanh rừng bộ lính nhạc hùng ca

Bao nhiêu binh chủng cờ cao phất

Bước diễn hành oai dẫu tuổi già

Minh Thúy Thành Nội

Tháng 6/19/2025

**

NGÀY BA RỜI CALIFORNIA.

Ngày 16 tháng 7 năm 2021 Video quay cảnh Ba rời California đã làm chị em tôi vừa xem vừa khóc, hình ảnh một ông già dáng yếu bệnh đang sửa soạn hành lý, ba tần ngần lựa chọn và gấp mấy bộ quần áo cần thiết nhất thường mặc nhất trong số quần áo treo đầy trong closet và trong mấy cái va ly rồi để mớ quần áo ấy vào trong cái túi xách. Ba quay qua Thiện, con trai út đứng kế bên :

–          Chỗ còn lại con cho Goodwill giùm ba.

Giọng nói và đôi mắt ba buồn. Không như những lần trước rời California đi chơi xa Texas với đám con cháu bên ấy, ba cũng sửa soạn vài ba bộ đồ nhưng lòng vui vẻ vì sẽ trở về. Lần này ba biết là không thể.

Đi đâu ba cũng luôn ăn mặc chỉnh tề lịch sự dù lo âu phiền muộn như lúc này. Ba mặc bộ đồ đẹp, áo bỏ trong quần, khoác ngoài bằng chiếc áo  của cháu ngoại gởi tặng mùa Giáng Sinh năm trước, với chiếc mũ trên đầu, với chiếc gậy chống chân. Ba xách cái túi nhẹ tênh có vài bộ quần áo chậm chạp từng bước đi ra cửa, dường như ba chẳng muốn đi nhanh, chẳng muốn rời khỏi căn nhà thân thương.

Đến bên chiếc xe mở cửa sẵn ngoài sân, ba quay ra nói lời từ biệt chào từng người đang chờ đợi sẵn, toàn là người thân con cháu. Họ òa khóc trong khi ba lẳng lặng nhìn căn nhà mình từng ở bao nhiêu năm trước khi ngồi vào trong xe. Cánh cửa xe đóng lại. Thế là hết, chốc nữa hay ngày mai ngày mốt ba sẽ không trở về căn nhà này. Gương mặt ba khuất sau cửa kính xe, không biết ba có khóc không khi chiếc xe lui xuống đường và từ từ lăn bánh để đến phi trường LAX.

Chị em tôi cùng coi video đến đây càng khóc thêm, vì biết rằng đây là một chuyến đi buồn, buồn nhất đời của ba.

Ba đang bệnh nặng, không chỉ giã từ thành phố Westminster tiểu bang California mà ba có thể giã từ cõi đời bất cứ lúc nào, ngày đó đang tới, thật gần thôi.

Video do con tôi quay và gởi cho những người thân ở Texas, ở Canada. Coi như cả đám  con cháu gần xa cùng tiễn ba rời California và cùng theo ba trên chuyến bay về thành phố Dallas tiểu bang Texas.

Đến Mỹ năm 65 tuổi ba chọn sống ở miền nam California nơi chỉ có gia đình một con trai đang sinh sống và làm việc ở đó, ngoài ra còn có gia đình anh ruột của ba cùng đàn con của ông anh, trong khi đám con cháu còn lại của Ba đang ở Texas đông hơn. Nhưng ba chọn Cali vì điều kiện khí hậu ấm áp và vì cộng đồng người Việt đông vui.

Khi ba được hưởng quyền lợi trợ cấp của chính phủ ba cùng người anh ruột nộp đơn xin chung một căn nhà housing  2 phòng ngủ. Có 2 người sẽ dễ xin nhà housing và nhất là hai anh em cùng chung  sở thích sở trường chơi cờ tướng rất giỏi, ba và bác lại là handyman khéo tay. Hai ông già sống chung sẽ vui và bớt cô đơn lại càng thuận tiện cho con cháu gần xa viếng thăm.

Ba rất thích cuộc sống tự lập, chẳng lệ thuộc hay nhờ vả ai. Ở nhà thuê mà ba chăm chút giữ gìn như tài sản của mình. Nấu nướng xong ba lau chùi bếp, ba quét nhà sạch sẽ. Ba không muốn làm phiền chủ nhà, nhà cửa hư lặt vặt ba và bác tự sửa nếu có thể, cái bồn tắm cũ mèm tróc men hình thức bề ngoài xấu xí nhưng  vẫn  xài được thay mới làm gì tốn công tốn của. Ông chủ nhà này thật may mắn khi có người thuê nhà vô cùng dễ chịu như ba và bác, hầu như chẳng bao giờ họ phàn nàn hay đòi hỏi sủa chữa gì, ông chủ cứ việc ăn ngon ngủ yên chờ đến tháng thu tiền nhà.

Mỗi khi tôi rủ rỉ khuyên ba về Texas sống với chúng tôi để dễ bề chăm sóc lỡ khi ba đau yếu thì ba rất lạc quan:

–          Ba khỏe mạnh lắm, còn lâu ba mới đau ốm.

–          Bệnh hoạn có thể đến bất cứ lúc nào mà ba.

Ba vẫn cương quyết như khi đi một nước cờ trên bàn cờ tướng:

–          Khi nào ba cảm thấy yếu mệt thì sẽ về Texas với con cháu bên ấy

Đã có những dịp ba về Texas và ở chơi vài tuần, nơi đây chẳng có gì lạ để đưa ba đi chơi, hàng quán người Việt chẳng đông vui như khu Bolsa, chợ búa người Việt thì ba chẳng lạ gì. Ngày nào cũng thế, ăn cơm trưa xong ba nằm nghỉ ngơi, chợp mắt chút cho khỏe rồi lại tới cơm chiều, ăn xong xem ti vi chán rồi đi ngủ. Ba nói sống như máy móc, thậm chí sống như…tù binh vì ba chẳng thể đi đâu theo ý mình trong khi ở Cali ba có thể đi  xe đạp ra biển hóng mát, ra hàng quán người Việt, đi chợ người Việt, đi gặp bạn bè để đánh cờ tướng tại hội người Việt, tại khu Phước Lộc Thọ….

Một chị bạn thân hàng  xóm của gia đình tôi ngày xưa ở Việt Nam nay bạn lại là hàng xóm của ba sống cách ba mấy block đường, chị nói thỉnh thoảng thấy ba đạp xe trên phố chưa kịp chào hỏi thì ba đã đi qua cái vèo. Một ông già Việt Nam yêu đời  đạp xe trên các hè phố Bolsa, treo trên tay lái xe là một túi đồ ăn, ổ bánh mì thịt, gói xôi hay tờ báo Người Việt có thể là ba tôi đó.

Tuổi chạm 80 mà mắt ba chưa bị Cataract, vẫn đọc báo khỏi cần kính mắt, ba ít khi ốm vặt nên ít khi đi bác sĩ gia đình. Thỉnh thoảng văn phòng bác sĩ gia đình phải gọi ba nhắc nhở đi khám tổng quát hàng năm.

Có lẽ  khí hậu nam California thích hợp cho tuổi già như ba, tinh thần ba thoải mái vì sống trong cộng đồng người Việt, ba ăn nói đi lại dễ dàng và nhất là ba đã sống với tấm lòng cởi mở yêu đời  nơi mà ba thích, xem như quê hương thứ hai thân thương nên sức khỏe ba mới tốt như thế. Nhiều người già sống cùng con cháu ít nhiều cũng lệ thuộc con cháu, phải theo cách sống nhà nó. Nhiều người già ốm đau nằm trong nursing home phải ăn những món tây món Mỹ, nhớ và thèm những món ăn Việt Nam biết bao.

Nhưng đâu ai trẻ khỏe mãi với thời gian, tới ngoài 80 ba không thường xuyên đạp xe trên phố nữa, khi cần đi xa thì con cháu chở, gần thì ba đi bộ cho khỏe đôi chân. Tôi khuyên ba xin người chăm sóc tại nhà, họ sẽ giúp đỡ ba nhiều việc, nhưng ba từ chối ngay vì ba không muốn làm hao tiền của chính phủ và vì ba tự tin là vẫn có thể tự lực được. Tính ba là thế, không muốn làm phiền bất cứ ai: con cháu, chủ nhà cho thuê và không muốn làm phiền cả chính phủ. Ba thường nói:

–          Hàng tháng ba được “lãnh lương”, được chính phủ trợ giúp trả hầu hết tiền nhà, nhất là được miễn phí y tế là sướng như tiên rồi. Đòi hỏi chi nhiều.

Ba kể có những người già ở đây đã tận dụng xin hưởng mọi quyền lợi, họ xin xe lăn, xe chạy điện mà thật sự họ không cần thiết lắm nên chẳng mấy khi dùng đến, có khi họ phải kiếm người mà bán rẻ hay cho không vì để vướng bận nhà cửa.

Cho tới năm 2021 sức khỏe ba bỗng yếu dần, Ba xuống cân, ho và khó nuốt khi ăn. Lúc này ba không đợi văn phòng bác sĩ nhắc nhở nữa, Ba đi gặp bác sĩ gia đình, rồi bác sĩ chuyên khoa cuối cùng đã chẩn bệnh ba ung thư vòm họng giai đoạn cuối.

………………………..

Đón ba tại phi trường Dallas Fort Worth chúng tôi vẫn bồi hồi vì khúc video ba rời California lúc nãy, vì đã được biết rõ tình trạng bệnh và sức khỏe của ba. Khi ba vừa bước ra khỏi cổng security tôi đỡ cái túi xách cho ba và rươm rướm nước mắt, ba gầy đi rất nhiều. Nắm cánh tay ba mà không biết sẽ giữ được ba gần gũi mình bao lâu nữa.

Về nhà  ba nghỉ ngơi với con cháu vài hôm. Chúng tôi đưa ba vào bệnh viện trong thành phố Arlington trước rồi mới lo vụ chuyển giấy tờ của ba từ California đến Texas sau.

Những ngày ba nằm bệnh viện, ngoài những thân nhân bạn bè chúng tôi ở đây đến thăm hỏi, còn có những thân nhân ở California gọi phone đến. Mỗi khi nghe người gọi từ California hình như ba khỏe hơn, tỉnh ra hơn và nhận biết đó là ai, ba lắng nghe họ nói, hình như ba đang theo họ trở về nơi nhà cũ trên con đường Bushard, ba đang đạp xe đến  chợ ABC hay khu Phước Lộc Thọ gặp người quen.

Ba tuần ba nằm bệnh viện, các bác sĩ đã không cứu chữa được bệnh tình của ba. Từ lúc sang Mỹ cho đến giờ ba đã được sống như ý, có sức khỏe để tự túc, chẳng “làm phiền” con cháu cho đến những giờ phút cuối đời. Ba ra đi  94 tuổi.  

Sau khi ba mất, dù an táng ba tại nghĩa trang thành phố Arlington tiểu bang Texas nhưng em tôi cúng thất cho ba tại chùa ở California. Cầu mong rằng suốt 7 tuần cúng thất tại đây, hương hồn ba trước khi siêu thoát đã “trở về” thăm thành phố Westminster tiểu bang California, nơi ba đã có một cuộc sống an vui như ý, nơi ba đã  ở suốt 29 năm dài.

Nguyễn Thị Thanh Dương.

( June 1- 2025)

**

CÓ NHỮNG NGƯỜI CHA

Kim Loan

Có những người Cha tôi đã gặp

Hiến dâng đời, phục vụ tha nhân

Sáng danh Chúa, sống Phúc Âm

Gieo lời Chân Lý xa gần nơi nơi …

(KL)

Đó là những vị linh mục mà tôi đã có dịp tiếp xúc trong thời gian bốn năm sống ở trại tỵ nạn Thái Lan. Nói về các Cha thời tỵ nạn thì có rất nhiều điều muốn nói, nhưng có nói thêm trăm ngàn lời cũng vẫn chưa đủ.

Ở trại, chúng tôi may mắn có được các Cha người Việt Nam (cũng là nguời tỵ nạn vượt biên). Các Ngài là những người khởi đầu lập nên nhà thờ đơn sơ đầu tiên nơi trại cấm Panatnikhom, viết tắt là Panat, (gọi là Trại Cấm vì chúng tôi là những thuyền/bộ nhân đến trại tỵ nạn sau ngày Cao Ủy tuyên bố đóng cửa không nhận người tỵ nạn, nên chúng tôi bị xem là bất hợp pháp, phải ở Trại Cấm chờ nước sở tại thanh lọc, xét duyệt tư cách tỵ nạn).

Cuộc sống trong Trại Cấm khó khăn, dù Cao Ủy vẫn nuôi “báo cơm” nhưng nếu không có tiền viện trợ từ thân nhân nước ngoài thì làm sao chi phí cho những nhu cầu cá nhân, như xà bông, kem đánh răng, tem thư, nên các Cha đã liên lạcvới bên hải ngoại, vận động tài chánh cho trại mang tên “Hội Mekong”, phát tiền hàng tháng cho những gia đình tỵ nạn nghèo, không phân biệt tôn giáo. Dù số tiền ít ỏi, nhưng cũng trang trải phần nào cho đời sống trong trại. Cứ tới những ngày đầu tháng, tôi lại được nghe người ta hớn hở gọi nhau đến nhà thờ lãnh tiền Mekong, rất thân thương và ấm áp tình đồng loại, trong hoàn cảnh “một miếng khi đói bằng một gói khi no”.

Trong số các Cha ở trại (Cha Phan, Cha Hậu, Cha Lãm), thì tôi biết và gặp Cha Giuse Nguyễn Đức Hậu nhiều hơn. Biết Cha từ khi vào trại, nhưng từ khi tôi đậu thanh lọc trở lại Panat thì mới có nhiều dịp nói chuyện với Ngài. Ngoài việc hàng ngày đi lễ, thỉnh thoảng tôi và Cha có gặp nhau chuyện trò nơi văn phòng Cao Uỷ Định cư nơi tôi làm việc, và tôi thường xuyên đến nhà xứ mượn báo Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp về nhà đọc. Dù Cha đậu thanh lọc rất sớm, nhưng theo chỉ định của Tòa Thánh, Ngài phải hy sinh ở lại trông coi “giáo xứ tỵ nạn Panat” cho đến ngày trại chính thức đóng cửa hoàn toàn vào năm 1995-1996.

Khi tôi qua Canada, hai cha con lại có cơ duyên gặp nhau nhiều lần tại thành phố Edmonton khi Cha Hậu từ Oregon bay qua thăm Cha Giuse Đinh Văn Hoành (hồi ở trại là Thầy Hoành). Thầy lúc đó rớt thanh lọc, nhưng được Cha Hậu giúp giấy tờ bổ sung nên đậu tái thanh lọc và qua Canada tiếp tục vào nhà Dòng rồi thụ phong linh mục. Chẳng may, Cha Hoành mắc bệnh hiểm nghèo, và Cha Hậu từ Oregon nhiều lần qua Edmonton thăm Cha Hoành, tôi lại được dịp tháp tùng Ngài, nói chuyện xưa chuyện nay. Khi Cha Hoành mất, Cha Hậu cũng bay qua, đồng tế Thánh Lễ an táng tại giáo xứ Edmonton…biết bao nhiêu kỷ niệm biết nói sao cho vừa.

Cha Hậu cũng là người sốt sắng nhận lời viết giới thiệu cuốn sách Buồn Vui Đời Tỵ Nạn của tôi phát hành năm 2017. Ngài bảo, gì chớ, viết về trại tỵ nạn thì Ngài ủng hộ hai tay hai chân, bởi Ngài cũng muốn là một phần của quãng thời gian ấy, không bao giờ phai nhòa trong tâm trí của bất cứ ai đã từng trải qua, chia sẻ ngọt bùi đắng cay với nhau.

Nói về những linh mục ngoại quốc thì không thể không nhắc đến Cha Pierre Ceyrac, vị linh mục dòng Tên người Pháp đáng kính, với tấm lòng hiền hậu bao la. Tất cả những ai từng đến trại tỵ nạn Thailand, đường bộ hay đường biển, đã một lần gặp Ngài, đều quý mến yêu thương Ngài và âu yếm gọi Ngài là vị Thánh sống giữa trần gian.

Ngài có mặt ở trại tỵ nạn rất sớm, đầu thập niên 1980s, khi mà những xung đột ở đất nước Cambodia vào thời kỳ nhiễu nhương, quân đội Hunsen đánh bật thể chế Polpot và Khmer Đỏ, hàng ngàn người dân Cambodia lũ lượt chạy về vùng biên giới Thailand lánh nạn. Lúc đó, phong trào vượt biên bằng đường bộ và đường biển của người Việt Nam đang ở cao trào, và những trại tỵ nạn vùng biên giới được lập nên cho tất cả những người vừa đến bờ tự do.

Thời gian này, Cha Pierre đã có mặt giúp đỡ đồng bào mình. Vì chưa có bưu điện ở trại tạm biên giới, nên Cha dùng hộp thư của mình cho dân tỵ nạn Việt Nam liên lạc với thân nhân ở quê nhà cũng như ở nước ngoài. Thế là hàng tuần, người tỵ nạn mong ngóng chiếc xe truck màu nâu của Cha dừng trước cổng trại, chờ bóng cao gầy của Ngài bước xuống với nụ cười tươi rất hiền, đôi mắt trìu mến đầy yêu thương sau cặp mắt kiếng to, trên vai Cha là cái túi màu đen, có những lá thư, và đôi khi Cha còn mang thêm bánh kẹo cho trẻ con và thuốc lá cho thanh niên đàn ông.

Có một lần, những tên lính Thái dở chứng, kiểm tra túi thư của Cha rồi quyết định tịch thu những lá thư đó, không biết Cha năn nỉ gì với họ, nhưng nhìn mặt Ngài rất đau khổ vì sợ mất thư của người tỵ nạn, cuối cùng bọn họ quyết định, nếu Cha chịu chui qua gầm xe truck của Cha thì sẽ được vào trại đưa thư. Tội nghiệp thay cho Ngài, dù là người gầy gò, nhưng với dáng cao nghều, những người tỵ nạn đã chứng kiến vị Cha già 70 tuổi bò lê lết chui qua gầm xe mà xót xa. Đường đất đỏ và sỏi đá làm cho quần áo Ngài lấm lem và mồ hôi nhễ nhại, vậy mà khi chui qua xe xong, Ngài nhanh nhẹn đứng dậy cười tươi rạng rỡ mang thư đến cho những người đang mong chờ.

Câu chuyện nổi tiếng về hình ảnh người Cha già, cứu tinh của dân tỵ nạn ở vùng biên giới được loan truyền khắp nơi. Khi tôi đến trại Panat thì toàn bộ dân tỵ nạn người Việt vùng biên giới Thái-Miên cũng được đưa về đây, Cha Pierre Ceyrac không làm việc chính thức cho trại Panat nhưng thỉnh thoảng Ngài vẫn vào thăm đồng bào tỵ nạn kết hợp với chút công việc. Tiếng tăm và ảnh hưởng của Ngài được chúng tôi ghi nhớ và luôn khao khát được gặp Ngài.

Hôm ấy tôi đang ngồi bên phòng bưu điện làm việc, nhìn qua cửa sổ đối diện văn phòng Mental Health, một phụ nữ dắt theo đứa con gái nhỏ vừa bước ra khỏi phòng (chắc vừa lấy thuốc xong), thì Cha Pierre đi ngang qua, chị ấy mừng rỡ chặn đường Cha, ôm tay Cha vừa nói vừa khóc nức nở bằng tiếng Việt, Cha không hiểu gì, vẫn bình tĩnh mỉm cười, mời chị trở lại văn phòng với anh phiên dịch. Anh bạn tôi là người phiên dịch ấy, kể lại rằng, khi vào văn phòng, chị ấy tâm sự với Cha, chị đang rất đau khổ vì người chồng ở Mỹ vừa viết thư báo tin đã có người đàn bà khác nên không thể bảo lãnh mẹ con chị được, chị bị khủng hoảng tinh thần, phải vào phòng Mental Health lấy thuốc uống, tình cờ gặp Cha hôm nay, chị thấy nơi Cha toát ra sự nhân từ, đầy lòng ủi an, nên chị liều xin gặp Cha để giải tỏa nỗi lòng bởi chị không có đạo, không đi lễ nhà thờ và chưa bao giờ nghe về Cha! Nghe vậy, Cha lặng người đi, xúc động, nét mặt đăm chiêu trìu mến, ôm hai mẹ con chị, rồi thông qua người phiên dịch, Cha nói chuyện với chị, để chị tâm sự hết cõi lòng.

Mỗi lần đi trong trại, dáng cao gầy của Cha lập tức được mọi người nhận ra, trẻ con người lớn đứng hai bên đường giờ tay chào đón, Ngài luôn nở nụ cười hiền rất trong sáng ngây thơ, đáp lại tấm chân tình của đồng bào tỵ nạn, có khi còn dừng lại xoa đầu vài đứa trẻ rồi lại bước đi.

Sau khi rời trại tỵ nạn Thái Lan, Ngài qua Ấn Độ tiếp tục sứ vụ mới, sống giữa những mảnh đời nghèo khó và bất hạnh không phân biệt tôn giáo, vì đối với Ngài tôn giáo chính là con người.

Nơi đó cũng là hành trình cuối cùng của Ngài trên trần gian, Ngài được Chúa gọi về ngày 30/5/2012 tại Madras, India, hưởng thọ 98 tuổi, trong sự tiếc thương của các con chiên khắp nơi. Những dòng chữ này hôm nay là nén hương lòng tôi gửi đến Cha Pierre kính yêu, mà tôi đã may mắn được gặp gỡ, nói chuyện và chụp hình với Ngài, và lời nói của Ngài chúng con xin mang theo làm hành trang cuộc đời: “Cái gì không cho đi thì sẽ mất” (What is not given is already lost).

Cuối cùng, (như tiếng Anh có câu, last but not least-cuối nhưng không phải là hết), tôi xin dành sự ưu ái sau đây, cho Cha Peter Prayoong Namwong, cũng là một vị ân nhân khác của dân tỵ nạn Việt Nam tại Thái Lan.

Theo lời Cha kể, tổ tiên của Cha là người Việt Nam, từ 300 năm trước trong cuộc bách đạo, đã phải chạy trốn xuống Rạch Giá, rồi lưu lạc qua tỉnh Ratchasima, Thailand cho đến nay.

Những ai vượt biên qua Thái Lan sau ngày đóng cửa 14/3/1989 đều có một hành trình chung: ở trại Panat một thời gian, rồi được chuyển về trại Sikiew chờ thanh lọc, rồi sau khi có kết quả thì được về lại Panat chuẩn bị định cư nước thứ ba. Và tại Sikiew, Thiên Chúa đã mang đến cho chúng tôi một vị ân nhân mới, một mục tử nhân lành để ủi an, giúp đỡ chúng tôi qua những năm tháng khó khăn nơi đất tạm dung.

Những người đi đến trại sớm, đầu thập niên 1980s kể lại rằng, trên trại Sikiew lúc ấy, Cha đã tất bật xin tiền ở khắp mọi nơi trên thế giới để xây trường học “Our School” từ lớp 1 đến lớp 9, tiếp theo là xây bệnh viện chữa bệnh (có luôn khu vực sinh sản, phụ khoa). Cha còn thành lập Trung Tâm Minor để nuôi nấng các em dưới 18 tuổi qua trại một mình không có thân nhân, ngoài ra Cha còn có quỹ để trợ cấp cho những gia đình tỵ nạn khó khăn, có con nhỏ, và để phục vụ nhu cầu giải trí của dân tỵ nạn, Cha mướn Drive-in Movie Company vào trại mỗi năm vài lần chiếu phim, mỗi lần chiếu khoảng 5-6 phim liên tục, xem từ tối cho đến sáng, thực sự là ngày hội được mong chờ nhất của đời tỵ nạn ngày dài buồn tênh.

Những “di sản” đó, chúng tôi, những kẻ “trâu chậm uống nước đục”, đến trại tỵ nạn muộn màng, vẫn còn được hưởng ké. Đó là ngôi nhà thờ kiên cố khang trang, xây bằng gạch, nằm dưới chân bãi đá. Đó là bệnh viện có đầy đủ phòng ốc, dụng cụ y tế, là chương trình tiền trợ cấp hộ nghèo neo đơn. Nhưng “di sản” lớn nhất mà chúng tôi rất hạnh phúc đón nhận, chính là Cha Peter NamWong, người nuôi dưỡng đời sống tinh thần của tất cả người tỵ nạn, không phân biệt tôn giáo.

Tuy chúng tôi được bảo vệ bởi Cao ủy Liên Hợp Quốc, nhưng phép Vua vẫn thua lệ làng. Những lần Cha Namwong vào trại làm lễ thỉnh thoảng vẫn bị lính Thái làm khó dễ, và Cha lại luôn nhớ xã giao quà cáp để được vào trại suông sẻ với đoàn chiên. Chẳng ai quên được những buổi sáng Chúa Nhật, từ 10 giờ, nhiều người đã chỉnh tề áo quần, ngồi rải rác từ bãi đá cho đến cổng trại, trông ngóng chiếc xe của Cha Namwong dừng lại, tươi cười bước vào, cả trại rộn ràng xôn xao trở về ngôi nhà thờ bé nhỏ chờ đón Thánh Lễ.

Nhưng tỵ nạn cuối mùa cũng phải đến ngày kết thúc, những người may mắn đậu thanh lọc được chuyển về Panat chờ đi định cư, và những ai rớt thanh lọc ở lại Sikiew được khuyến khích tự nguyện hồi hương, và sau đó là cưỡng bách hồi hương năm 1996. Khoảng tám chục người, đã lần lượt trốn ra ngoài trại trong những khoảng thời gian khác nhau, tìm đến giáo xứ Cha Namwong, lập tức được Cha tận tình gửi gắm ở nhờ những gia đình con chiên trong xứ, giúp họ kiếm việc làm, sinh sống. Cha đã vận động Toà Giám Mục Bangkok can thiệp cho những đồng bào này được tạm trú (dù bất hợp pháp) tại Thái Lan.

Thời gian trôi qua hơn 20 năm, có người lập gia đình, sinh con cái, chuyển lên Bangkok hoặc các vùng phụ cận sinh sống, rất nhiều người trong số họ không phải đạo Công Giáo, nhưng mỗi năm vào ngày sinh nhật Cha, họ lại tụ tập về vùng Sikiew (Ratchasima), đến nhà Cha quây quần, dự Thánh Lễ, tâm tình với Cha, mong ngày được đổi đời ở xứ tự do.

Tạ ơn Chúa, cũng nhờ Cha kết hợp với các luật sư và thiện nguyện viên của tổ chức VOICE (Vietnamese Overseas Initiative for Conscience Empowerment) miệt mài vận động với chính phủ Canada, những gia đình tỵ nạn cuối cùng này đã qua đến Canada. Trong những chuyến bay này, Cha Namwong luôn đồng hành tiễn đưa bà con đến tận phi trường, lên máy bay, thậm chí có đôi lần Cha còn bay qua bên Canada rồi mới an tâm bay về Thái Lan.

Trong nhóm những người tỵ nạn đến Edmonton mà tôi cùng Hội Người Việt cùng ra sân bay đón chào, có lần tôi có hỏi một người bạn trẻ:

– Vậy là 25 năm sống trên đất Thái, cũng là 25 năm xa quê! Khi có quốc tịch Canada, em sẽ về thăm gia đình cha mẹ ở Việt Nam chứ?

Em ấy đã trả lời không cần suy nghĩ:

– Thưa chị, nơi đầu tiên em về thăm chính là Thailand và Cha Prayoong Namwong, bởi nếu không có sự đùm bọc che chở của Cha thì chúng em không có ngày hôm nay. Với em, Cha chính là người sinh ra em lần thứ hai.

Với truyền thống biết ơn của người Việt, năm 2013 những cựu thuyền nhân tỵ nạn Thailand đã mời Cha Namwong một chuyến Mỹ du (con chiên tỵ nạn của Cha ở khắp mọi nơi trên thế giới nhưng đông đảo nhất là ở Mỹ). Trong hành trình 25 ngày ở Mỹ, Cha đã đi nhiều tiểu bang, nhiều thành phố, thăm thú các con chiên (và kể cả những người ngoại đạo), nhắc lại bao kỷ niệm của thời gian ở trại tỵ nạn dưới bàn tay chăm sóc của Cha.

Ở hai thành phố lớn tại California, là Orange County và San Jose, những cuộc đón tiếp Cha rất tưng bừng, đậm tình thương yêu. Họ choàng cho Cha những vòng hoa nhiều màu sắc, mọi người vây quanh người Cha thân yêu nay đã già để tỏ lòng tri ân đậm đà sâu xa.

Tôi rất xúc động khi xem trên Youtube cuộc phỏng vấn Cha do đài Hương Quê tại San Jose thực hiện, không phải vì Cha đã già đi theo thời gian, nhưng bởi Cha đã trả lời phỏng vấn hoàn toàn bằng tiếng Việt, dù có phần phát âm và dùng từ chưa chính xác. Điều đó nói lên sự gắn bó mấy mươi năm qua của Cha với người Việt tỵ nạn ở Thái Lan, bởi thời gian ở Sikiew, Cha không biết nói tiếng Việt, vào trại phải có thông dịch, và khi làm lễ thì Cha giảng bằng Tiếng Anh rồi có Thầy giảng lại cho cộng đoàn.

Cũng trong chuyến thăm miền Bắc Mỹ, khi Cha đến Canada có đi qua Toronto, Calgary và đến Edmonton, thành phố của tôi trước khi bay qua Vancouver. Thật vui và xúc động khi tôi được đón Ngài, gặp lại Ngài, khi mà cả Cha và các con đều …có tuổi. Nhìn những nếp nhăn trên khuôn mặt Cha, tôi vẫn nhận ra một vị linh mục có nụ cười hiền, bao dung như đã từng thấy ở Sikiew thuở nào.

Năm 2022 Cha lại có một chuyến Mỹ du, mà Cha gọi là chuyến cuối cùng vì sức khỏe bắt đầu yếu kém. Cuộc đón tiếp và tiễn biệt Cha lần này có nhiều cảm xúc đặc biệt, ai cũng luyến lưu ôm Cha, nắm tay thật chặt, rồi nhìn theo bóng Cha già vẫy tay với nụ cười lặng lẽ mà rưng rưng.

Mới ngày nào đây, Cha còn trẻ trung khỏe mạnh, hoạt động dọc ngang nơi đất Thái, mười mấy năm trường, sau đó là hơn hai mươi năm bảo bọc chở che những người tỵ nạn “bất hợp pháp” cho đến ngày họ được tái định cư an toàn ở nước thứ ba.

Vậy là gần năm mươi năm của một đời người, Cha đã gắn bó với người tỵ nạn, một cơ duyên của định mệnh đã sắp đặt, là một sự may mắn lớn lao cho người tỵ nạn Việt Nam tại Thái Lan.

Những thông tin về Cha Pierre Ceyrac hoặc Cha Peter NamWong, ai cũng có thể tìm kiếm được trên internet, riêng tôi viết bài này như là một kỷ niệm nhỏ bé với hai vị Linh Mục đáng kính.

Trong những ngày này Giáo Hội Công Giáo vừa có Đức Giáo Hoàng mới, Cha Leo XIX, chúng con dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ, vì đã dẫn đưa những vị Linh Mục đến với chúng con trong giai đoạn khó khăn lưu vong trên mảnh đất trại tỵ nạn.

Cũng trong năm nay, tưởng niệm Năm Mươi Năm ngày mất nước, ghi dấu hàng hàng lớp lớp người Việt Nam chạy trốn Cộng Sản, ra khơi tìm tự do, chúng ta xin được tri ân những đất nước tạm dung đã mở rộng vòng tay chào đón những đoàn người tỵ nạn từ năm 1975 đến 1996.

Xin được tri ân những người thiện nguyện viên từ khắp nơi, những vị ân nhân, trong đó có những “Người Cha” mà tôi đã may mắn được gặp gỡ và có những kỷ niệm không bao giờ quên.

Edmonton, Tháng 6/2025

KIM LOAN

**

CA KHÚC TẠ ƠN CHA  – NHẠC SĨ VĂN DUY TÙNG

**

**

HAI  CHA  CON

Truyện của Phương Lan

Bữa cơm chiều hôm đó vắng mặt thằng Tuấn, nó nói đến nhà bạn học bài,  và sẽ về trước giờ ăn.  Nhưng ngoài trời đã tắt hẳn nắng, thành phố lên đèn đã từ lâu rồi, mà Tuấn vẫn biệt tăm.  Mọi người bắt đầu sốt ruột, không hiểu đã xảy ra chuyện gì.  Ông Bình cứ đi qua, đi lại trong phòng cả chục lần.  Sau cùng, khi chuông đồng hồ gõ tám tiếng, không thể chờ đợi lâu hơn, ông ra lệnh cứ ăn trước.  Mọi người cầm đũa một cách uể oải, mặt người nào cũng lộ vẻ lo lắng.  Thường thì bữa cơm chiều là lúc vui nhất, cả nhà quây quần bên bàn ăn, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện xảy ra trong ngày.  Nhưng hôm nay, mọi người đều im lặng, nhai, nuốt chậm chạp, mặc dù đồ ăn rất ngon.  Thằng Cường, con Dung thường ngày nói tía lia, ồn ào nhất nhà, bây giờ cũng chỉ cúi đầu ngồi ăn, thỉnh thoảng lại liếc nhìn cha mẹ với vẻ sợ sệt, làm như chính chúng là kẻ có lỗi.  Không khí trong phòng ăn có vẻ nặng nề, chỉ nghe tiếng lách cách của chén đũa, và tiếng máy lạnh chạy ù ù.

Ông Bình hỏi vợ:

–         Dạo này nó hay vắng nhà, mà bà có biết nó đi đâu không?

–         Làm sao biết được?  Bà Bình dè dặt trả lời, thấy nó nói là đến nhà bạn học bài, tôi nghe vậy thì chỉ biết vậy, chứ làm sao kiểm soát?

–         Hừ! bà là mẹ thì phải để mắt đến con cái chứ?

Sau cùng, gần 9 giờ, khi bữa ăn sắp chấm dứt, mọi người sắp sửa dùng đến món tráng miệng, thì có tiếng xe dừng ngay trước cửa nhà, một đứa bạn của Tuấn đưa nó về.  Bà Bình vui mừng đứng dậy, toan lấy thêm thức ăn, nhưng Tuấn lắc đầu nói:

–         Con ăn ở nhà bạn rồi.

Nói xong, nó đi một mạch lên lầu, không nhìn ai cả.  Ông Bình nhìn theo con, chăm chú quan sát một hồi, rồi cau mày nói:

–         Nó nói dối, đến nhà bạn học bài mà sao không đem theo sách vở chi cả?  Thằng này hỏng, phải phạt nó mới được, tôi sẽ không mua xe cho nó như đã hứa.

Noi xong ông cũng lên lầu, nhưng vào phòng riêng của ông, chứ không vào phòng Tuấn.  Bà Bình ngạc nhiên, rồi thở ra nhẹ nhõm. Tự thuở giờ, ông Bình vốn có tiếng là một người cha nghiêm khắc, bà chờ đợi một cơn thịnh nộ của chồng sẽ bộc phát dữ dội, nào ngờ chỉ có thế.  Dạo này, báo cáo của nhà trường cho thấy điểm số trong học bạ của Tuấn tụt xuống một cách thê thảm, gần như đội sổ.  Mặc dù Tuấn làm ra vẻ siêng năng, hay đi sớm về khuya, lúc nào cũng nói là đến nhà bạn để học nhóm.  Nhưng bà biết là Tuấn nói dối, linh tính của một người mẹ cho bà thấy là Tuấn đang có điều gì lo nghĩ, trông nó có vẻ chán đời mà bà không hiểu tại sao.

Năm nay Tuấn mười bảy tuổi và đang học lớp 12.  Ở Mỹ, mười tám tuổi là có thể sống độc lập, nên nhà trường và phụ huynh tiếp tay nhau sửa soạn cho học sinh vào đời.  Ngay từ lớp 11, nhà trường đã bắt đầu dạy học trò tập và đi thi bằng lái xe.  Nhiều đứa bạn của Tuấn đã được cha mẹ sắm cho xe hơi riêng, Tuấn cũng vừa mới đậu bằng lái xe, và được cha hứa sẽ mua cho một cái xe hơi cũ vào cuối học kỳ này.   Cả ba anh em nó đều háo hức, và Tuấn đã hứa sẽ cho các em đi ké.  Nhưng bây giờ thật là hết hy vọng, Cường và Dung tiu nghỉu, chúng lẻn vào phòng anh, báo tin chẳng lành, Tuấn chỉ nhếch miệng cười nhạt:

–         Cam đoan ông già sẽ không phạt tao đâu.  Đừng lo, ổng chỉ dọa  thôi.  Rồi tụi bây coi, ổng sẽ phải mua xe cho tao mà.

Hai đứa nhỏ nhìn nhau ngơ ngác, không hiểu gì cả, chúng cho rằng anh chúng nói ngông, nhưng Tuấn vẫn cười một cách tự tin:

–         Tao không xạo đâu, chúng mày cứ chờ coi.

Vì sao Tuấn có thể nói một cách quả quyết như thế?  Thật ra cũng chẳng có gì khó hiểu cả, chỉ vì Tuấn tình cờ biết được bí mật của ông bố.  Từ đó, cậu đâm ra xem thường, không còn kính phục cha như trước nữa.

Số là hôm đó, ông Bình có việc phải đi vội, và bỏ quên điện thoại di động ở nhà.  Tuấn đang ngồi học bài, tiếng điện thoại reo liên tục làm cậu bực mình vì bị chia trí, đến lần thứ năm, thứ sáu… thì cực chẳng đã, cậu phải bốc điện thoại lên nghe.  Những tiếng nói ở đầu dây bên kia làm cậu giật nảy mình, ngồi thẳng người lên:

–         A lô, anh Bình đó hả? em, Diễm Thu đây! anh khoẻ không? lóng rầy bị mụ vợ già kiểm soát chặt chẽ lắm hay sao, mà không thấy gọi cho em?  Bận gì thì bận cũng phải nhắn lại cho em vài lời chứ?  sắp đến sinh nhật em rồi đấy, liệu mà chuẩn bị quà cáp gởi về cho em.  Còn cái vụ căn nhà đã đặt cọc, anh phải lo tiến tới đi chứ? chủ bán cứ dục phải trả nốt, mà em thì làm gì có tiền?

Tuấn há miệng kinh ngạc, không nói được lời nào, cậu còn đang bàng hoàng thì tiếng nói bên kia lại tiếp tục, lần này đổi qua giọng nũng nịu, vòi vĩnh:

–         Tết này mình về với em được không?  Nhớ quá, có người yêu ở xa buồn chịu không nổi.  Hay là mình ly dị phứt con mụ khọm già ấy đi cho rồi? thu xếp công việc xong rồi về Việt Nam ở luôn với em, chịu không cưng?  Kìa! sao không thấy anh nói chi cả?

Bấy giờ Tuấn mới mở miệng được, lạnh lùng:

–         Tôi không phải là Bình.

Ngỡ ngàng một giây, rồi tiếng người đàn bên kia đầu giây vội vã:

–         Ồ xin lỗi, tôi gọi nhầm số.

Lập tức bà ta tắt máy nghe cái cụp, Tuấn cũng đặt điện thoại xuống, bàng hoàng như người vừa tỉnh dậy sau một cơn ác mộng.  Ngồi một lát, chờ cho tim bớt đập, Tuấn dò theo số điện thoại, và đọc được nhiều tin nhắn cũng của người đàn bà tên Diễm Thu ấy, toàn một giọng tình tứ lả lơi, và sau cùng là… nã tiền.  Không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là cha cậu đã có nhân tình.  Sau khi bình tâm nhớ lại, suy xét, và phối hợp mọi sự kiện, bây giờ thì cậu hiểu cả, cậu hiểu vì sao dạo này cha cậu hay tìm cớ để về Việt Nam nhiều như đi chợ.  Ông viện đủ mọi lý do: khi thì thăm người nhà đau yếu, khi về xây mộ ông bà, khi về nghiên cứu tình hình để sửa soạn cho một cuộc kinh doanh trong tương lai… Bà và các con nghe vậy thì chỉ biết vậy, chứ chẳng ai nghĩ tới việc tìm hiểu xem ông nói thiệt hay là nói dối.

Gia đình Tuấn thuộc loại khá giả, ông Bình là chủ nhân của hai tiệm buôn vải vóc, quần áo phụ nữ và một trung tâm băng nhạc khá đông khách, lợi tức đủ để gia đình sống một cách thoải mái, lại có của ăn, của để.  Ông Bình vừa chẵn sáu mươi, bà Bình mới ngoài năm mươi tuổi, ông bà có ba người con: hai trai, một gái, Tuấn là lớn nhất, đang học năm chót của trung học, hè tới sẽ thi vô đại học.  Ông Bình là một doanh gia thành công trên thương trường, con cái đều ngoan ngoãn, chăm học.  Người ngoài nhìn vào, ai cũng nói đây là một gia đình hạnh phúc, chính mẹ cậu cũng thường hãnh diện khoe với mọi người, rằng bà có ông chồng đàng hoàng, đứng đắn.  Ngờ đâu bà đã lầm, cũng như mọi người đều lầm, có ai ngờ con người trông đạo mạo, nghiêm trang kia, thật ra chỉ có cái vỏ bề ngoài, che dấu một tâm địa thấp hèn ở bên trong.  Còn đâu hình ảnh của một người cha đạo đức, mẫu mực, mà cậu vẫn tôn kính?  Những lời giáo huấn nghiêm trang cha cậu vẫn răn dạy con cái chẳng qua chỉ là diễn xuất mà thôi, như người đóng kịch trên sân khấu.  Khi bức màn nhung đã buông xuống, son phấn đã rửa sạch, bộ mặt thật của diễn viên mới lộ ra, khác hẳn.  Tuấn đau lòng nhận thấy bi kịch của gia đình cậu không phải mới xảy ra lúc gần đây, mà thật sự đã bắt đầu từ hai năm về trước.  Sau chuyến theo bạn bè đi du lịch Việt Nam về, Tuấn thấy cha có vẻ hơi khang khác, ông có vẻ lo ra, và luôn luôn than phiền dạo này làm ăn thất bại, tiền chỉ có ra, mà không vô.  Ông nói dạo này kinh tế xuống thấp, thất nghiệp đông, hàng hoá ít được tiêu thụ, phải giảm giá mới có người mua, vì vậy những nhà buôn không kiếm ra lời, cứ phải ăn vào vốn.  Ông nói vậy để giải thích cho bà vì sao tiền để dành trong chương mục tiết kiệm của gia đình cứ hao hụt dần.  Ông nói sao thì bà hay vậy, không hề nghi ngờ, bà vốn tin chồng, và thật ra lời lãi rất khó mà kiểm soát.  Nghe vậy, cả nhà đều lo lắng, nào ngờ ông đem tiền cho gái…

Từ lúc tình cờ khám phá ra những bí mật của cha, cậu thiếu niên mười bẩy tuổi, chưa bao giờ nhìn thấy mặt trái của cuộc đời này, đâm ra thất vọng não nề.  Từ nhỏ, cậu đã coi cha như một vĩ nhân, tượng trưng cho tất cả những gì  cao đẹp nhất.  Bây giờ ông vĩ nhân đã tự hạ bệ, Tuấn thấy ông sao tầm thường quá, cậu xót xa nhận thấy lòng kính trọng của cậu đối với cha không còn được như xưa.  Tuy trong tâm bất bình, nhưng Tuấn vẫn giữ kín, không hé môi cho ai biết, cậu không muốn thấy cảnh một gia đình đang đầm ấm, yên vui, bỗng dưng bị xáo trộn, cậu cũng không muốn thấy mẹ buồn.  Nhưng lòng cậu lại buồn vô hạn, vì đã mất hết niềm tin vào cuộc đời. Trong tâm trạng hoang mang, chán nản đó, Tuấn bị lũ bạn xấu rủ rê, và cậu đã buông thả, theo chúng bạn tập tành con đường ăn chơi, để trả thù đời.

Ông Bình, qua lời kể của cô nhân tình, cũng đoán biết là Tuấn đã rõ những bí mật của ông, nên trong lòng ông cứ bứt rứt không yên.  Ông hay lén rình xem thái độ của con, và nghĩ bụng nếu nó cũng bắt chuớc ông, đi vào con đường hư hỏng sớm như thế, thì nguy quá, phải cứu vãn tình thế mới được.  Ông chờ dịp bà vắng nhà, qua tiểu bang khác, thăm ông bà nhạc, mới gọi Tuấn vào phòng riêng, cho ông nói chuyện.

Chẳng cần thông minh, Tuấn cũng biết ngay là chẳng có chuyện gì ngoài chuyện cha có bồ nhí.  Không hiểu ông sẽ thanh minh, thanh nga thế nào để chối tội? hay là ông định hối lộ cho cậu một món tiền, để cậu khỏi mách mẹ?  Một ý nghĩ làm cho Tuấn mỉm cười, nhân dịp này tống tiền ông già cho bõ ghét?  Nhưng rồi cậu lại gạt ngay ý tưởng đó, dù sao cậu thiếu niên mới tập tành hư hỏng này cũng chưa đến nỗi đánh mất nhân cách.  Cậu chỉ muốn nhắc nhở cha thôi, rằng ông đang là tấm gương để con cái noi theo mà bắt chước, rằng con cái nên hay hư là tùy tư cách của người cha.  Nghĩ thế, cậu chuẩn bị thái độ, và ung dung vào phòng, ngồi đợi.

Ông Bình mở đầu câu chuyện bằng một giọng tra hỏi, nhưng không có vẻ gì gay gắt:

–         Tối qua, con đi đâu mà quá nửa khuya mới về?

–         Con đến nhà bạn học bài.  Tuấn nói dối tỉnh bơ.

–         Đứa nào?

–         Thằng Hùng.

Tuấn nói đại tên một đứa bạn chăm học, nào dè cha cậu đập tay xuống bàn đánh thình một cái, quát:

–         Nói láo!  Tối qua tao mới nói chuyện với ba thằng Hùng, mày đâu có tới nhà nó?

Tuấn giương mắt nhìn cha, không chút  sợ sệt.  Ông già đang tra gạn, hỏi tội cậu ư? thật là buồn cười, ông cũng dối trá, lại tra vặn thằng con về tội dối trá? Được, đã thế phải cho ông biết là cậu đã rõ hết mọi chuyện, để xem thái độ của ông ra sao?  Nghĩ vậy, Tuấn sửa thế ngồi ngay ngắn lại, điềm tĩnh:

–         Vậy thì con nói thật, hôm qua con đi vũ trường, nhảy đầm với bạn gái.

Ông Bình ngạc nhiên, không ngờ thằng Tuấn dám to gan đến thế, nó dám nói huỵch tẹt cả ra, mà không cần che đậy chi cả, chứng tỏ nó đã hết sợ ông rồi.  Coi cái bản mặt ngang tàng của nó kìa! sẵn sàng nghênh chiến đó, găng với nó bây giờ là hỏng hết, nó sẽ đương đầu cho tới cùng.  Mà đấu với nó, chắc chắn ông sẽ thua thê thảm, bởi vì nó đã nắm được cái tẩy của ông.  Ông xìu xuống ngay, thôi đành chịu lùi một bước vậy, ông cố nén tiếng thở dài, lần đầu tiên người cha lầm lỗi này cảm thấy nhục nhã, vì đã đánh mất oai quyền làm bố.  Ông xuống giọng, nhỏ nhẹ:

–         Năm nay con đang học lớp 12 là năm then chốt ở trung học, nếu điểm số kém, con sẽ không được lên đại học, vì không trường nào sẽ nhận con cả. Tương lai của con là do con quyết định, sau này con sẽ làm nghề gì? nếu không có chút vốn học vấn trong tay?  Còn nhỏ, sao con không học hành chăm chỉ, lại đi vào con đường ăn chơi sớm thế?

–         Vậy ba nói hễ lớn tuổi thì mới có quyền ăn chơi hay sao?

Tuấn hỏi một câu rất ngây thơ làm ông Bình bối rối, lúng túng mãi mới tìm ra câu trả lời:

–         Không phải vậy, nhưng… nhưng người già làm gì có tương lai mà sợ hỏng?

–         Con lại nghĩ khác, người già không có tương lai, nhưng có quá khứ, nếu không cẩn thận, họ có thể phá hỏng tất cả những gì họ đã xây dựng trong quá khứ.

Ông Bình giật mình, thằng Tuấn không còn con nít như ông tưởng, nó đã biết nhận xét, suy nghĩ như người lớn, cậu thiếu niên thông minh, can cường  này giống y chang hình ảnh của ông thời còn trẻ.  Ông nhìn con bằng ánh mắt thương yêu:

–         Con đã trưởng thành rồi đó!

Tuấn cười ngượng nghịu:

–         Con cũng nghĩ vậy, mà ba có biết cái gì đã làm cho con trưởng thành trước tuổi không?

Ông Bình lại giật mình, nét mặt hơi biến đổi. Thấy vậy Tuấn vụt hối hận và thôi ngay ý định khiêu chiến, vì thật lòng cậu cũng không muốn dồn cha vào thế bí.  Vội vã cậu sửa lại nét mặt hiền hoà:

–         Mà thôi con cũng chẳng nói, vì có thể là con hiểu lầm.

Ông Bình thở ra nhẹ nhõm, nhìn con bằng cặp mắt thầm cám ơn.  Người cha tội nghiệp này thấy cần phải nói một cái gì đó để vớt vát lại một chút sĩ diện, nhưng ông nghĩ không ra.  Hai cha con ngồi im một lúc lâu, sau cùng ông lên tiếng, ông nói với con như tâm sự với một người bạn:

–         Dạo này ba có nhiều chuyện lo nghĩ.  Công việc làm ăn của ba bị thất bại, vì kinh tế suy thoái là tình trạng chung, gia đình nào cũng bị ảnh hưởng, vì vậy ba có ý định dời đổi cơ sở làm ăn về Việt Nam…

Tuấn buồn cười và thương hại cho cha, ông đang cố tìm cớ để bào chữa cho những việc làm sai quấy của ông đây.  Cậu mỉm cười, hỏi:

–         Ba có chắc về Việt Nam làm ăn, ba sẽ thành công không?

–         Không chắc lắm, nhưng nếu không thử thời vận thì sao biết được? Đó là lý do dạo này ba hay về Việt Nam… Việc này tốn nhiều thì giờ lắm, trước hết là phải nghiên cứu tình hình, tìm địa điểm thuận lợi, tìm người hợp tác, rồi còn phải giao thiệp, phải xuất vốn nữa…

Tuấn lại cười thầm trong bụng, nhưng không nỡ làm cho cha bẽ mặt, cậu vờ tin thật và gật gù:

–         Con hiểu rồi, ba giải thích vì sao mà quỹ tiết kiệm của gia đình mình hao hụt và ba hay về Việt Nam.  Nhưng…Tuấn ngưng lại, cố lựa lời cho cha khỏi đau lòng, nhưng ba nên cân nhắc, suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi quyết định xem có nên đem tất cả vốn liếng mà ba má đã khổ công gây dựng, chắt chiu dành dụm trong hai mươi lăm năm trời, để đổi lấy một thứ mà chính ba cũng không biết chắc là sẽ thành công?  Ba có nghĩ đến hậu quả không? nếu thất bại thì gia đình mình tan vỡ là chuyện dĩ nhiên, mà tương lai của các con cũng sẽ hỏng cả, vì tụi con còn tâm trạng đâu mà học hành?

Ông Bình thầm phục đứa con khôn lanh, nó vừa giữ thể diện cho ông, nhưng đồng thời cũng không quên mục đích, nó đang gián tiếp ra điều kiện cho ông chọn đó, hoặc là gia đình, hoặc là mối tình phù phiếm, chứ ông không thể có cả hai.  Mấy lúc gần đây, ông đã suy nghĩ lại và thấy mình dại, chỉ vì một chút thú vui bất chính, ông muốn hưởng thụ để vớt vát tuổi già, mà ông đã đánh mất bao nhiêu thứ: uy tín đối với con cái, hạnh phúc gia đình và cả tiền bạc nữa chứ.  Ấy là chưa kể những tiếng thị phi, những khổ tâm nhọc trí mà ông phải lo đối phó che đậy, dấu giếm tội lỗi.  Bây giờ thì ông tỉnh ngộ rồi, ông nhất quyết làm lại, ông muốn nói cho con ông hiểu để nó yên lòng.  Dịu dàng mỉm cười, ông vỗ nhẹ vai Tuấn:

–         Con nói phải, đó chỉ là một việc làm hồ đồ nhất thời.  Mấy lúc sau này, ba đã bình tâm suy nghĩ lại, và thấy không thể tiếp tục một chuyện làm ăn bấp bênh như vậy được, nên ba đã quyết định chấm dứt.  Ba không còn ý định thay đổi công việc nữa, ba sẽ lo chấn chỉnh, tu bổ lại mấy cơ sở làm ăn của gia đình mình ở đây, con yên tâm.

–         Cám ơn ba!

Lòng Tuấn bừng lên một niềm vui khó tả, cậu cũng nhìn cha bằng cặp mắt vô cùng thương yêu:

–         Con cũng xin lỗi đã làm ba buồn lòng bấy lâu nay.  Con hứa từ nay sẽ chăm học và không lêu lổng nữa.

Ông Bình gật đầu, giọng cảm động:

–         Phải vậy mới đúng con ạ.  Đời người ai cũng có lúc lầm lỡ, nhưng phải biết tỉnh ngộ và dừng lại đúng lúc, đừng để sự việc đi quá xa. Thôi bây giờ con về phòng học bài đi!

Tuấn chào cha và bước ra cửa.  Nhìn theo bóng con đi khuất sau hành lang, ông Bình lẩm bẩm một mình:

–         Mong nó cũng rút được một bài học kinh nghiệm, để sau này đi trên con đường đời, khỏi vấp phải vết bánh xe cũ mà ta đã đi.

Ông thấy lòng nhẹ nhõm như vừa trút được một gánh nặng đeo đẳng làm ông bứt rứt, khó chịu cả mấy năm trời.  Ông thong thả bước ra vườn sau, nhìn mấy cây mai, cây đào đơm chi chít những nụ, ông mỉm cười:

–         Lại sắp tết nữa rồi.

Tết năm nào bà cũng gói bánh chưng. Tội nghiệp người vợ hiền đã đi bên cạnh ông suốt hai mươi lăm năm trường, tận tụy hy sinh, chăm lo từng miếng ăn, giấc ngủ cho chồng, con.  Năm nay bà không gói bánh chưng, cũng chẳng sửa soạn nhà cửa, vì bà tưởng ông không ăn Tết ở nhà, bà buồn nên đi thăm ông bà ngoại của xấp nhỏ cho khuây khoả.  Ông đang sốt ruột mong bà về, để nói cho bà biết rằng ông đã tỉnh ngộ rồi, bà không có gì phải lo buồn nữa.  Thay vì về Việt Nam với nhân tình, ông sẽ đưa vợ con đi du lịch một chuyến, sau khi ăn một cái Tết lớn ở nhà.  Tối nay ông sẽ điện thoại cho vợ biết quyết định ấy và dục bà về sớm.

–         Chắc má nó mừng lắm.

Vừa tỉ mẩn ngắt mấy cái lá mai, ông vừa mỉm cười một mình, mấy hôm nay thời tiết thay đổi rõ rệt, lại một mùa Xuân nữa sắp về.

PHƯƠNG – LAN

( Trích trong tập truyện Lấy chồng xa )

**

BA TUI – NGUYỄN THỊ THÊM

**

Đúng ra tui phải kêu ba bằng Cha vì đó là tên thường dùng ngoài quê nội ở Bình Định. Nhưng ba tui vào nam thuở còn thanh niên rồi bị đôi mắt lé kim của má tui hớp hồn. Nên “Khớp, khớp, khớp, khớp  con ngựa ô… ứ ư ư ừ theo nàng dìa dinh” ở Biên Hòa Xứ Bưởi cho tới ngày quy tiên.

      Tui đã viết nhiều bài về Mẹ. Má tui là người phụ nữ miền Nam có một không hai chiều chồng tới bến. Bà là mẫu đàn bà mà đàn ông nào cũng mơ ước có được. Tui tin chắc như vậy vì khi lớn lên anh em tui đứa nào cũng ấm ức tức thay cho má. Mấy bà chị dâu, em dâu tui cũng không hoan nghinh kiểu làm vợ giống osin như má tui. “Má làm gương kiểu này không công bình cho phe phụ nữ. Làm vợ như má tụi con chịu thua.”

      Má đã để lại cho các con dâu con gái một cẩm nang mà không đứa nào muốn rờ tới đừng nói chi thực hành. Chỉ có ông Khổng tử bên Tàu là vuốt râu gật gù khoái chí. Ổng vỗ bàn cái chách, uống cạn ly rượu Minh Mạng hả hê vì hậu bối làm rất tốt. Má đi đúng đường ông Khổng tử chỉ giống y như cái GPS gài trong xe bây giờ. (Chồng con nhỏ bạn tui có lần đã tuyên bố “Khổng Tử là kẻ thù của đàn bà”).

*****

      Ba tui người Bình Định, 1 vùng đất nhiều núi non lừng danh tam kiệt. Có Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ tức Quang Trung Đại Đế cho hậu thế tự hào. Vùng đất của Võ Bình Định nổi tiếng trong nước.

      Tiếc thay ba tui chẳng biết đánh võ Bình Định mà võ mồm ông cũng không có vì ông rất kiệm lời, hay khớp trước đám đông. Bà nội tôi xuất thân con nhà quan nên bàn tay tiểu thư mềm mại, đi đâu có người hầu không quen làm việc nặng nhọc. Nội lấy chồng, chồng cưng chiều cung phụng. Khi cha chết, chồng chết, bà bơ vơ như dây chùm gửi không có thân cây để leo. Thế là ba tui bỏ học theo người xuôi nam tha phương cầu thực. Ông tằn tiện làm đủ việc, nhiều nghề để kiếm tiền gửi về nuôi mẹ, nuôi em ăn học. Ông thề với lòng chỉ về quê khi thật là giàu.

      Khi đã lấy má tui và đã tạo lập 1 gia đình vững chắc, ba tui sai má tui về quê rước bà nội tui vào phụng dưỡng. Ông rước cả gia đình chú tui vào Nam sinh sống. Chú tôi văn hay võ giỏi nhưng cực kỳ sợ anh Hai vì ba tui đã lo cho chú như cha. Từ miền Trung khô cằn được vào miền Nam trù phú, ruộng lúa mênh mông, đời sống khá giả, chú tui bắt đầu tạo lập sự nghiệp bằng sự bảo trợ của ông anh tốt bụng.

      Ba tui cũng giúp đỡ một số người cùng quê vào Nam lập nghiệp. Cho nên lúc đó nhà tui rất là đông mà người nào người ấy sức dài, vai rộng. Chỉ lo cho họ ăn uống no đủ thôi má tui cũng đã đau đầu. Mới vào Nam họ rủ nhau làm kẹo kéo để bán. Đó là lần đầu tiên tui biết kẹo kéo làm thế nào. Lâu dần một số xin vào làm công nhân cao su, một số đi nơi khác tìm việc làm, nhà tui là điểm hẹn dừng chân mỗi khi họ gặp khó khăn. Tới mùa hột, má giao cho chú tui thu mua hột cao su, nhân lực đông đảo nên má tui cũng tạm an tâm. Chiều chiều chú tui múa gậy, đi quyền dạy võ Bình Định ở sân trước nhà tui. Nhà tui thật rộn rịp và vui. Tiếc quá má tui cương quyết không cho tui tập võ. Chắc má muốn tui phục tùng chồng tuyệt đối không động tay động chân. Nên câu:

Ai về Bình Định mà coi

Con gái Bình Định đánh roi đi quyền….. không hề có tui.

      Chú tui có ăn học, viết chữ tàu rất đẹp, chú thông minh và biết xoay sở. Chú từng bước quen dần với lối làm ăn nên sau đó đứng ra thầu mua mủ đất cao su. Cái thứ mủ chảy theo thân cây và dính dưới đất coi như bỏ đi, vậy mà chú tui vẫn tìm được mối thu mua. Chú ký hợp đồng với chủ tây và làm ăn phát đạt, cất nhà và ổn định cuộc sống. Ba tui trút được gánh nặng về gia đình và Bác Hai là một tấm gương cho con cháu noi theo.

      Tui nhớ trong nhà chú tui có treo một bức tranh khá to. Trên đó chú viết câu đối bằng chữ tàu và chữ việt rất trang trọng các hình vẽ hoa văn tỉ mỉ:

HUYNH ĐỆ NHƯ THỦ TÚC, PHU THÊ NHƯ Y PHỤC.

      Hôm đó 2 vợ chồng mới cưới, chúng tôi đến nhà chú để biếu quà lễ, đốt nhang bàn thờ ra mắt thân tộc. Chú chỉ bức hoành phi và giảng cho cháu rể 1 bài học về đạo làm người. Chú giữ đúng quan niệm của người xưa “Anh em như chân tay, vợ chồng như quần áo”. Chồng tui mới cưới vợ nên gân cổ cải lại về đạo vợ chồng “tôn kính như tân.” Tôi ngồi nhìn 2 người đàn ông vừa uống rượu vừa tranh luận mà không biết can thiệp cách nào cho không khí bớt căng thẳng. Tui biết chồng tui mới cưới vợ nên lập luận còn hăng để lấy điểm, chứ cũng dân miền Trung, nặng nề về gia tộc, đạo lý làm người chắc cũng giống y chang nhau. Ba tui còn 1 người em út nữa, nhưng chú không muốn đi xa, chú ở lại quê để giữ nhà từ đường, chăm sóc mồ mả tổ tiên. Chú làm nghề tráng bánh tráng gia truyền Bình Định. Chú út tui nhỏ con, lùn hơn ba tui nhưng chú đi bộ rất nhanh và khỏe. Chú nói ở quê, chú lội bộ đường núi từ nhỏ nên quen rồi. Chú rất hiền và chất phác. Chú uống rượu rất chì vì nhà chú nấu rượu, thử rượu thành quen. Những ngày chú tới thăm gia đình tui, chú tuyệt đối không uống rượu. Mấy ông anh ba xị đế của tui thấy vậy rất thương, lén lút dụ khị chú cụng ly nhưng chú cương quyết từ chối. Câu trả lời của chú là:

– Anh Hai không thích chú uống rượu, chú không dám uống.

      Nghe đâu hồi còn nhỏ, chú rất quậy phá và ba tui đã trị chú ra trò. Bây giờ chú vẫn còn kính, sợ anh Hai không dám làm trái ý. Chú tui là vậy, nhưng mấy ông anh tui tuy cũng sợ ba, nhưng lai rai ăn và nhậu tới bến không bỏ được. Có lẽ tại mấy ổng lai dòng máu Nam Kỳ.

      Ba tui lùn lùn, người rắn chắc và đẹp trai. Ông kiệm lời, chỉ cười cười khi vui và lắc đầu đi thẳng nếu bất bình hay không thích nói. Làm việc gì ông cũng tận tâm, trung thực và hết sức mình. Ông rất thích thể thao, dưới tay ông là đội tuyển đá banh khá giỏi. Ông là đoàn trưởng Thanh Niên Cộng Hòa hoạt động tích cực. Ông là người giao thiệp rộng, mấy món ăn chơi có lẽ thứ nào ông cũng thử qua nhưng không sa đà vướng vào. 

      Tuy không khá giả lắm nhưng ông rất chịu chơi, ông dám sắm giàn dĩa hát loại lớn có quay dây thiều, sắm cây đèn măng xông sáng rực. Tối tối nhà tui vang lên tiếng ca vọng cổ mùi tận mạng của Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Được, Út Bạch Lan, Thanh Nga. Nào Văn Hường đi chợ Tết, nào tiếng hát Út Bạch Lan “Ngày mai đám cưới người ta. Tại sao sơn nữ Phà Ca lại buồn”. Khi cô đào hát kéo hơi nhựa nhựa là ông vội vào nhà quay tiếp dây thiều. Vui quá một thời bình an.

      Bà nội tui được ông phái hiền thê là má tui về Bình Định rước vào Nam. Má tui lặn lội ra tận quê chồng, bà kể lại hành trình vất vả tìm mẹ chồng nghe mà thương. Để ra mắt họ hàng gia tộc bên chồng, má tui đi chợ làm tiệc đãi khách. Bà nói tiền đi chợ nhiều như gánh 1 gánh tiền đổi 1 gánh thức ăn vì lúc đó quê ba tui xài tiền cụ Hồ, đồng bạc rẻ rề.    Tui chẳng biết đúng sai  thế nào chỉ nghe bà kể lại. Muốn tới chợ phải đi bộ thật xa, vượt qua đồi núi rồi xắn quần lội nước qua hói. Ra chợ họ nói tiếng Bình Định má tui không hiểu gì hết, chỉ biết trả tiền và cười. Mọi việc mua bán đều do thím tôi quyết định. Tui nhớ lại lúc tui về quê chồng xứ lạ, tui cũng lơ tơ mơ như má của tui.

      Bây giờ quê nội tui đã khác, đường xá mở rộng, nhà cửa khang trang nên chuyện má kể y như chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa.

      Ba tui sinh sống lâu trong Nam, nhất là ở Sài Gòn nên tiếng nói đã thay đổi rất nhiều. Bà nội tui theo con dâu vô Sài Gòn. Nhìn nội chưa kịp mừng 2 chị em tui hết hồn chạy trốn. Da bà ngăm đen mà hàm răng cũng nhuộm đen thùi dễ sợ. Bà mặc bộ đồ đen quấn đầu cái khăn cũng đen. Một mắt bà che lại bằng một cái khăn xéo cũng vải đen. Thiệt tình bà nội tui giống Hắc y nữ hiệp quá đi.

      Nói thiệt không có tiếng nói nào quê và khó hiểu như tiếng Bình Định mà bà nội tui dùng. Thí dụ “Nẫu” là người ta. “Dẫy na” là vậy hả. “Dẫy á” là vậy đó. “Chu cha wơi” là trời đất ơi. “Dẫy nghen” là vậy đó nghen, “Đừng làm dẫy, nẫu cừ” là đừng làm như vậy, người ta cười cho.

      Kỷ niệm tui nhớ hoài là khi nội tui bảo tui lấy cái đòn. Tui xuống nhà dưới vác cây đòn gánh ra. Nội tui là bài hải:

– Chu choa wơi, không phải cái đòn này.

      Thì ra cái đòn nội tui cần là cái ghế thấp để ngồi. Tui không coi thường quê nội của tui, tui cũng không xấu hổ hay quê khi nói mình cũng là dân nẫu. Bởi vì quê cha tôi có những điểm đặc thù mà vùng miền khác không có. Ba tui là biểu tượng của tính tình người dân Bình Định: Chất phác, cần kiệm, cương nghị, gan dạ và trung thực.

      Ba tui có số đào hoa, nhiều người phụ nữ đã đến với ông. Cuộc đời ông chìm nổi trong chữ ái dục, làm khổ cuộc đời của má tui và ảnh hưởng không nhỏ đến 3 dòng con. Các dì tôi đều yêu ông tuyệt đối, chăm sóc và cung phụng ông không thua gì má tôi. Hồi đó, khi tui còn nhỏ, Việt Cộng cứ đắp mô hoài, ba tui bắt tui ở lại nhà dì ghẻ để đi học cho an toàn. Tui thương má, đương nhiên tui ghét dì ghẻ. Tui nghe thiên hạ nói dì ghẻ là yêu tinh quyến rũ chồng người nên tui cũng ngầm để ý theo dõi. Dì Ba tui bỏ nhà theo ba tui từ khi còn con gái. Ba của dì không lớn tuổi hơn ba tui bao nhiêu nên ông cương quyết chống đối. Ông đánh và nhốt dì lại. Thế nhưng dì vẫn tìm cách bỏ trốn theo ba tui và làm vợ nhỏ cho đến cuối đời.

      Nhà dì có 1 cái tủ đứng mà mỗi lần ba tui ghé nhà ngủ lại, dì trân trọng lấy đồ trong đó ra dùng. Đó là mùng, mền, khăn, gối, áo quần… những đồ dùng cá nhân của ba tôi dì cất riêng ở đó, ướp long não cẩn thận. Mỗi khi ba tui ghé nhà, dì mừng quá đi chợ nấu thức ăn thật ngon vui vẻ nói nói cười cười. Có một lần dì dọn cơm lên mà không có nồi cơm vì mừng quá quên nấu. Cho nên cái nghiệp duyên đó khiến ba tui làm kẻ phụ tình không chung thủy với má tui. Trái tim người đàn ông mềm yếu dễ đi sai hướng. Ba tui cũng vậy tình cảm bị lung lay, người đào hoa suốt đời bị tình lụy.

      Không hiểu sao, ba tui kiệm lời lại không biết nói lời hoa mỹ mà đàn bà vẫn bị ông quyến rũ. Sau 1975, khi ông đã trên 70, con cháu 1 bầy vậy mà cũng có người theo. Bà ta lấy lòng từ má tui, chị dâu tui, tui và mọi người để được lân la bên ba tui. Bà ta không ngại làm cỏ vườn, phụ làm cỏ lúa xen canh và nấu thức ăn đem đến tận nhà. Tui hỏi ba tui:

– Sao vậy ba, bộ ba có gì với dì ấy hả?

Ba tui cười cười:

– Ba có làm gì đâu! Ba già sợ đàn bà lắm rồi.

Tui hỏi má tui:

– Sao Má? Má thấy dì ấy thế nào?

Má tui cũng cười cười:

– Già rồi! Hồi xưa không ghen bây giờ còn gì nữa mà ghen. Thây kệ cô ta đi. Ba mày không có gì đâu. Ổng cũng tu rồi.

      Đối với con cái ba tui chưa 1 lần nào đánh anh em tui. Hồi còn nhỏ chỉ có má tui đánh con còn ba tui chỉ nhìn và nói mà con cái răm rắp nghe lời. Lớn lên, con cái làm sai, ông ngồi trên ghế, chỉ cái ghế đối diện bảo ngồi xuống và ông nói chuyện. Ông là nghiêm phụ, dạy con bằng chính những gì ông sống và thực hành. Bản thân ông là tấm gương để chúng tôi noi theo. Tất cả những ưu đãi má tui làm cho ông đều do má tui tự nguyện bằng trái tim yêu thương và tôn trọng chồng. Ba tui rất mực thương con nhưng không dùng từ ngữ để nói. Thương vợ nhưng không dùng hành động biểu lộ. Ông có cái uy mà cả nhà đều phải phục tùng kính nể. Tui nhớ ngày tui mới lớn, ngực đã có nhưng má tui nhà quê quan niệm của bà rất ư là cổ lỗ sĩ. Bà may cho tui một miếng vải khá dài và bắt tui cột lại đè cho cái ngực xẹp lép như trong phim mấy người con gái giả trai. Bà nói ngực nhô lên là xấu, đàn ông nhìn vào có tư tưởng không tốt nên phải giấu đi.

Ba tui trái lại, ông nói với má tui:

– Con gái đã lớn, bà đi mua cho nó mấy cái xú chiêng để nó mặc đi học.

Má tui ra chợ, bà mắc cỡ nói nhỏ với chị bán quần áo:

– Lấy cho tui mấy cái xú chiêng.

      Bà bán hàng nhìn ngực má tui bán mấy cái size bự của đàn bà đang cho con bú. Tui cầm mấy cái áo muốn khóc, tháo hết nó ra và may nhỏ lại. Cuối cùng có dịp đi Sài Gòn, ba tui mua cho tui mấy cái áo ngực đúng cỡ và một số quần lót. Ba tui là số một của con gái, là chỗ dựa khi tui trưởng thành.

      Ngày  tui còn nhỏ, Tết đến ông mua cho tui quần áo đẹp, đích thân đeo hoa tai, dây chuyền, kiềng vàng cho tui để tui làm 1 cô con gái nhà giàu. Ông đặt tui ngồi lên bình xăng chiếc xe mô tô đen, ngồi phía sau ông là các anh tui. Ông chở các con về đốt hương bên ngoại. Chiếc xe mô tô nổ máy, ông ngồi lên uy nghi, chúng tôi tự hào biết mấy.

      Khi tui bắt đầu đi dạy, ông cất cho tui nhà riêng sát vách nhà dì ghẻ. Tui có 1 căn nhà nhỏ với cửa rèm màu tím của riêng mình. Tui vào hướng đạo, làm thiếu trưởng, mỗi khi đi cắm trại xa, không gặp được ông để xin phép, tui chỉ viết mấy chữ dán ở cửa nhà riêng để báo tin. Vậy mà ông cũng không giận hay la. Ông tin con gái rượu của mình. Tui là niềm vui và tự hào của ba tui. Ngày xưa ông trọng nam khinh nữ. Ông quan niệm con gái không cần học cao. Con gái phải có công dung ngôn hạnh và biết phục tùng chồng. Nhưng sau này ông đã thay đổi, ông lo cho em gái tui ăn học đến nơi đến chốn.

      Ngày tui lấy chồng, ba má tui ở vùng xôi đậu nên tổ chức lễ cưới ngay tại nhà tui. Nhóm tráng và thiếu đoàn hướng đạo đến che rạp, chặt cây đùng đình làm cỗng Vu Quy, sắp đặt bàn ghế. Các em nữ sinh tui dạy đến trang trí phòng tân hôn, dán giấy kết hoa. Tui lấy chồng không có rước dâu vì nhà chồng ở tận Quảng Trị. Ba má tui cũng an tâm vì con gái không phải làm dâu, coi như mình bắt rể. Nhưng có ai ngờ rồi tui cũng bỏ ba má tui khăn gói theo chồng.

*****

      Kể từ ngày ba tui rước tăng đoàn đến tụng kinh cho bà nội tui trước lúc lâm chung, ba tui dường như hiểu ra hai chữ vô thường. Ông tin Phật Pháp và dốc tiền của công sức tái thiết lại ngôi chùa đã bỏ hoang. Ông cùng các bạn già trang lứa tổ chức lại hội chùa và thỉnh chư tăng về trụ trì.

      Ba tui rất cẩn trọng trong việc quy y Tam bảo. Ông đi tìm cho mình 1 vị minh sư mà ông kính phục để làm lễ quy y cho ông. Khi được quy y Tam Bảo và chấp hành Tam Quy Ngũ Giới ông dốc lòng niệm kinh học Phật. Ông tu tại gia và hay lên chùa tụng kinh, nghe pháp. Thật buồn cười, tới già ông vẫn được phụ nữ chiếu cố. Một số các bác lớn tuổi tu học như ông, tôn ông làm huynh trưởng và nhận làm tiểu muội. Ông hay kể cho tui nghe về các vị ấy. Một số theo con cháu ra nước ngoài định cư vẫn thường liên lạc thăm hỏi. Họ chăm chỉ học Phật và rất tôn trọng quý mến ba tui.

      Khi má tui mất và tui đi định cư tại Mỹ, trong căn nhà vắng vẻ ông thật sự sám hối và quyết chí đi tu.Anh em tui và 1 bầy cháu nội ngoại hết lòng can ngăn. Các anh tui thấy như mình bất hiếu vì ba đã già không thể chịu được cuộc sống kham khổ của người xuất gia. Thế nhưng ba tui đã quyết và ông xuất thế ly gia, vào chùa cạo đầu làm một Sa Di.

       Vị Sa Di già hiền lành ngày ngày niệm kinh học Phật. Ông rất an lạc và được thầy trụ trì các tăng ni và phật tử yêu mến. Anh tui can ngăn không được nên cho con đi theo làm thị giả cho ông nội. Cháu ở bên cùng ăn, cùng ngủ, săn sóc ông mỗi khi đau yếu. Khi ba tui mất, cháu chính thức quy y và bây giờ đã là 1 đại đức với 26 năm tuổi đạo.

      Hôm nay là ngày Father’s Day, tôi nhớ ba tui quá nên viết bài này. Đứa con gái ông yêu thương đã là một lão bà, nhưng có lẽ dưới mắt ông tui mãi mãi là con gái nhỏ ông yêu thương chiều chuộng.

Ba ơi!
Cỡi hạc ba về với đất trời
Bao năm trần thế đã rong chơi
Náo nương cửa Phật tìm chân lý
Biết rõ trần gian, đạo với đời.
Con quỳ bên gối vị Sa Di
Cha tôi trưởng lão đã quy y
Đoạn ly ái dục đầy phiền não
Tâm lành an tịnh sống từ bi.
Con gái bây giờ cũng đã già
Bao năm lặn ngụp chốn ta bà
Đốt nét tâm hương con kính lạy
Đức Phật từ bi độ cho cha.

Nguyễn thị Thêm.