TRANG TƯỞNG NIỆM THÁNG TƯ ĐEN,  Văn Thơ Lạc việt

TRANG TƯỞNG NIỆM THÁNG TƯ ĐEN -VTLV

THƠ XƯỚNG HỌA THÁNG TƯ – DUY ANH & THI HỮU

THÁNG TƯ THÊM NỮA

(Xướng)

Tháng Tư thêm nữa…gợi thương nhà

Vỡ tổ, niềm đau khó vượt qua

Chốn cũ, nhớ từng ân nghĩa trọng

Nơi xưa, ghi mỗi nợ tình xa

Đợi ngày đáo quốc, quê Cha bậu

Mong buổi hồi hương, đất Mẹ ta

Tiếng Cuốc gọi đàn như nhắn nhủ

Tấm lòng yêu nước, chớ phôi pha!

*

DUY ANH

30-4-2022

***********************

CÁC BÀI HỌA

*

ĐỢI MỘT MÙA XUÂN

*

Bốn bảy năm dư vẫn nhớ nhà

Tưởng rằng tạm biệt ngắn rồi qua

Ngờ đâu thăm thẳm đây còn cách

Nào biết mịt mù đó mãi xa

Hải ngoại ủ buồn chao bóng nhạn

Xứ người ngậm đắng nghẹn lòng ta

Tháng Tư mỗi độ nhìn quê cũ

Chờ đợi Xuân lành rộn sắc pha

*

Phương Hoa – APR 27, 2022

***

NHẮC LẠI NỔI ĐAU

*

Lại tháng Tư đen nữa nhớ nhà,

Lâu rồi ngày ấy tưởng trôi qua.

Lệnh truyền “buông súng” còn đâu đó,

Tiếng gọi “đầu hàng” vẫn vọng xa.

Bốn bảy lịch năm lưu sử Việt,

Trăm nghìn giọt lệ xót lòng ta.

Tiếng kêu Quốc thét rền tan Tổ

Tê tái ruột bầm khó nhạt pha.

*

HỒ NGUYỄN (27-4-2022)

THÁNG TƯ MỘT CHỮ BUỒN

(Xướng)

Buồn  nghe vọng cổ nhớ làng quê,

Buồn Tháng Tư xưa chẳng muốn về.

Buồn buổi ly hương sao vội vã,

Buồn ngày phục quốc lại lê thê.

Buồn đau vỡ tổ hờn vong quốc,

Buồn đắng tan hàng hận bội thề.

Buồn bốn bảy năm dân vẫn khổ,

Buồn thay chế độ họ lầm mê!

*

DUY ANH

Tháng Tư Buồn 2022

*************************

CÁC BÀI HỌA

*

BUỒN THÁNG TƯ VỀ

*

BUỒN Tháng Tư nhiều năm cách quê

BUỒN thương không chốn để đi về

BUỒN tha hương thấy sầu ai oán

BUỒN viễn xứ nhìn đau thiết thê

BUỒN đã mất rồi vùng biển hẹn

BUỒN khôn níu lại mảnh trăng thề

BUỒN tương lai vẫn đang mờ mịt

BUỒN biết bao giờ thoát khổ mê…

*

Phương Hoa – APR 27, 2022

***

NGHĨ THẦM

*

Thảm nén lòng tê buốt nhớ quê,

Thảm thương thân phận chẳng mong về.

Thàm sầu thấy cảnh dân đau khổ,

Thảm nặng quằn đau nướcthiết thê.

Thảm nổi héohon mòn gốc đức,

Thảm âm bội phản hủy câu thề.

Thảm cơn xã tắc suy vong sụp,

Thảm quẻ sai lầm dập bến mê.

*

HỒ NGUYỄN (27-4-2022)

***

BUỒN..!

*

Trăn trở bù đầu với nỗi quê

Tháng Tư lắm đứa rủ nhau về

Gọi làm từ thiện-ôi cay đắng..!

Canh cải nghĩa trang-rất thảm thê..!

Chửa hết việc nhe-đừng bội ước..!

Còn nhiều thứ nữa-chớ quên thề..!

Ra trò không đấy hay môi mép..?

Móng đỏ cào cho đến mết mê..!

*

Thái Huy 4/27/22

***

MẤT TÌNH QUÊ 

*

Tháng tư ngày ấy nhớ tình quê 

Biển cả bao la khó bước về 

Tỵ nạn giặc thù không thể sống 

Chung cùng đám ngố phận buồn thê 

Đau lòng mất nước càng căm hận

 Bức tử đồng minh gian dối thề 

Bốn bảy năm qua ăn bánh vẽ !

Có người không tỉnh vẫn còn mê !..

*

              Yên Hà  – 29/4/2022

Tìm Tự Do

Ngọc Hạnh

Hôm nay tôi đưa nhà tôi đi chợ Tết, còn vài hôm nữa là đến Tết Nguyên Đán.Tôi cư ngụ vùng Hoa thịnh đốn, Tết ta rơi vào mùa Đông Hoa kỳ, ra đường lạnh lắm, nếu mặc không đủ ấm có thể bị cảm, sổ mũi, ho hen hay nặng hơn thì sưng phổi. Nói là thế nhưng so với Canada hay Nữu Ước, cái lạnh thủ đô Hoa kỳ chẳng nhằm nhò gì.

Năm nào nhà tôi cũng bắt tôi đưa nàng đi chợ Tết để nhớ lại hình ảnh quê nhà và mua các loai thức ăn, cây cảnh đặc biệt dành cho ngày Tết như kim quất, hoa đào, hoa mai, hoa cúc đại đóa màu vàng rực rỡ vừa đẹp vừa lấy may theo quan niệm nhà tôi. Ngoài ra còn được xem thiên hạ mặc quốc phục cho đỡ nhớ quê hương. Các cụ ông, cụ bà trang trọng trong chiếc áo dài Việt Nam có lẻ chỉ được dùng đôi lần trong năm vào dịp Tết hay cưới xin. Trẻ con xúng xính với chiếc áo dài mới với đôi má trắng hồng xinh đẹp. Gian hàng báo Xuân, gian hàng bánh mứt, thức ăn của các cô Trưng Vương, Gia Long đông khách. Các cô bán hàng tha thướt trong tà áo dài màu tím, màu xanh. Gian hàng Văn bút là nơi nhà tôi hay tạt vào trò chuyện với người quen hoặc mua sách báo ủng hộ. Còn nhiều nơi khác trong chợ như khu văn nghệ, ca hát, múa lân, ảo thuật… giống chợ Tết Việt Nam thu nhỏ. Thế nào tôi cũng gặp vài người bạn để trò chuyện khi nhà tôi mua sắm hay hàn huyên với bạn bè. Các bạn cũ tôi đều đi tù cải tạo hoặc dài hoặc ngắn, nên cũng là lúc chúng tôi nhắc lại chuyện xưa, thăm hỏi tin tức bạn bè gần xa…

Tôi là sĩ quan Quân lực VNCH đơn vị nằm ở ngoại ô Saigon. Sáng xe đến đón đi chiều đưa về cùng với một số cố vấn Mỹ như một công chức. Nhà tại Saigon nên đi lại cũng tiện. Thời kỳ đó vùng xa dọc quốc lộ có khi bị đăt mìn, bắn sẽ nhưng thủ đô vẫn an toàn, không bị đich quân quấy nhiểu. Sinh hoạt bình thường, trẻ con đến trường, chợ đông người, buôn bán sâm uất. Các nơi giải trí vẫn tưng bừng náo nhiệt như thời bình dù các nơi xa xôi như cao nguyên miền Trung hay thôn quê các tinh nhỏ chiến cuộc có phần gia tăng. Thực tình chúng tôi cũng tư hào là chặn đứng được các kế hoạch xâm nhâp, phá rối thủ đô của địch quân, giữ thành phố  yên lành và xây dựng thêm cho thủ đô miền Nam ngày càng xinh đẹp hơn. Các binh chủng quân lực VNCH chúng tôi thực sự đã làm cho các cố vấn Mỹ khâm phục vì tình huynh đệ chi binh ở tiền tuyến và sự siêng năng chuyên cần của quân nhân các câp nơi hậu phương.

THÁNG TƯ ĐEN, TÙ CẢI TẠO

Mọi sự tốt đẹp cho đến ngày 30/4/75 chúng tôi gọi là tháng tư đen, có lệnh quân nhân buông súng đầu hàng, một số tướng lãnh tuẩn tiết, một số bỏ đi ra ngoại quốc. Cờ đỏ sao vàng bay trên cột cờ trước công sở, trường học. Các cô, các bà bỏ áo dài mặc áo bà ba đi làm, đi dạy giống như quý vị miền Bắc. Các công chức, giáo sư, giao viên, học trò…  bắt buộc đi làm thủy lợi. Các biểu ngữ “lao đông là vinh quang” được treo trên tường các công sở, trường học… Có lệnh đổi tiền, nghèo giàu cũng đổi số tiền bằng nhau. Già đình nào cũng nghèo. Công chức, quân nhân nghèo xơ nghèo xác.

Có lệnh quân nhân các cấp đi học tập, cấp úy học 10 ngày, cấp tá 30 ngày. Tôi cũng như các anh em khác chuẩn bị hành trang đến điểm tập trung theo lệnh chánh quyền đia phương. Tôi không trốn ra nước ngoài dù có phương tiên, chẳng phải vì gia đình mà vì các anh em thuộc cấp, không đành ra đi khi số lớn anh em còn ở lại. Đi học 30 ngày ngắn ngủi, tôi dặn dò gia đình, mang túi nhỏ đến trường Don Bosco trình diện. Chỉ ở đó ban ngày, tối họ dồn lên xe bít bùng chở đến trại tù Long Giao.

Nhưng không phải 30 ngày đâu các bạn ạ. Tôi ở tù gần 4 năm, trải qua 2 trại tù với cả ngàn sĩ quan khác. Quần áo tôi tả tơi, chúng tôi phải dùng bao đựng cát che quanh các công sự, may thành quần áo. Ban đêm gió rét buốt da may là có mang cái poncho thường dùng làm áo mưa nhưng chẳng thấm vào đâu. Ăn uống thiếu thốn, làm việc nặng, người nào cũng gầy gò xanh xao. Hàng ngày các bạn tù và tôi phải cho tay vào hố lấy phân người để tưới rau. Đó là công việc nhe nhàng. Chúng tôi còn dùng tay không đi gỡ mìn các nơi với sự chỉ định của bọn CS… Ngày trước chúng ta có máy dò mìn nên tháo gỡ an toàn, nay nhiều người chết vì công việc này.

Công việc sau cùng của tôi là vào rừng đốn tre ở Suối Máu. Mùa hè trời nóng như đổ lửa, mùa đông gió rét tận xương tủy nhưng anh em tù cũng tiếp tục công việc nặng nhọc lên dốc xuống đồi, ra vào rừng mỗi ngày đốn và mang tre về. Tuy nhiên được tự do hơn chút it, cán bộ CS không quá gắt gao, miễn hết giờ phải đạt chỉ tiêu, đốn đủ số cây ấn định. Có lẻ họ nghĩ bọn tủ chúng tôi sau 3 năm “cải tâo” đã chịu kỹ luật, vào khuôn khổ rồi nên không khắt khe như trước.

TRỐN TRẠI & VUỢT BIÊN

Một hôm tôi đang đi đốn tre chợt có người làm rừng chay xe Honda ngang dừng lại mừng rỡ chào và gọi tôi là “ông thầy”. Mới đầu tôi ngở công an chìm nhưng sau cuộc trao đổi ngắn ngủi tôi biết đúng anh là lính của đơn vị. Anh biết tôi nhưng tôi không biết anh ta vì đơn vị có nhiều binh sĩ. Anh hói có trốn trại thì anh giúp. Dĩ nhiên tôi đồng ý dù biết nếu bị bắt là tử hình. Anh ta vội vàng mở cốp xe lấy bộ quần áo tương đối sạch bảo tôi nhanh nhanh thay và bỏ bộ đồ cũ, lên ngồi phía sau xe gắn máy. Anh len lõi theo con đường vắng sau cùng đưa tôi đến bến xe lam Biên Hòa – Saigon, dúi cho 40 đồng để trả tiền xe lam. Anh nói đi xe đò có khi bị xét giấy tờ, xe lam tương dối ít bị  chặn  xét hỏi hơn. Anh không cho tôi biết tên có lẽ phòng trường hơp tôi bị bắt lại. Đến Saigon tôi ở nhà người bà con, mỗi nhà một ngày, không ra đường, không về nhà cho đến khi người bà con liên lạc đóng 12 lương vàng cho tôi vượt biên. Tôi được người dẫn mối đưa ra Vũng Tàu trốn trong nhà quen của họ 1 ngày trước khi vượt biên. Hôm sau khoảng 4 giờ sáng tôi lên chiếc thuyền dài 15 mét đậu ở Vũng Tàu cùng 80 người khác rời bỏ quê hương, giao tính mệnh cho chủ thuyền và biển cả.

Thuyền đi đươc gần 1 ngày bị tàu tuần phát giác. Tài công chạy hết tốc lực, thật là chạy trối chết cho đến hải phân quốc tế, máy hư. Chúng tôi thấy có nhiều tàu lớn xa xa nhưng chẳng tàu nào cứu vớt. Lại còn bị bão, thuyền trồi lên hụp xuống theo lượn sóng như chiếc lá tre giữa dòng sông. Các thanh niên lo tát nước ra khi sóng cao nước tràn vào thuyền. Môt số người say sóng ói mửa nằm xuôi xị. Được 7 ngày thuyền hết thức ăn, phải vớt rong biển và cá sống ăn cầm hơi. Những con cá duồng phóng lên rớt vào thuyền chia nhau ăn. Hết nước ngọt, lấy nước biển nấu thành hơi nước, chia cho mỗi người vài muỗng cà phê. Máy hư thuyền trôi lênh đênh trên biển. Chúng tôi lấy mền làm buồm căng lên cho tàu theo gió về phía Phi luật Tân. Tiếng niệm Phật, đọc kinh vang lên lúc đầu giảm dần vì mòn mỏi, không còn hơi sức.

Đến ngày thứ 29 mới có tàu vớt đưa về Singapore. Lúc ấy đã 20 người đã chết vì đói, bệnh và được thả xuống biển thủy táng sau khi gói gọn thi hài trong cái chăn rộng. Có người hỏi làm sao chúng tôi sống sót trong từng ấy ngày không thức ăn. Xin thưa người chết phần lớn là khách đóng tiền vượt biên và trẻ con. Chủ tàu, chủ bãi họ dấu thưc phẫm cho gia đình ăn lén tí chút cầm hơi.Tính ra chúng tôi đã thấy 49 chiếc tàu lớn trước khi được vớt.

Chúng tôi tất cả gầy gò, kiệt sức như bộ xương biết đi. Họ cho tắm gội, thay quần áo sạch trước khi đưa về Singapore. Lúc ấy tôi mới viết thư về gia đình cho biết là đến xứ tự do.

Nhớ lại năm xưa rời nước nhà,

Thuyền bé người đông giữa phong ba .

Bụng rỗng, môi khô người mệt lã,

Ngỡ là thần chết mang đi xa…

TRẠI TẠM TRÚ SINGAPORE

Trước khi đến trại tạm trú họ cho các thuyền nhân vào thẳng bệnh viện. Có lẽ họ thấy người nào cũng xanh xao ốm gầy như người bệnh. Sau khi khám và ăn uống đầy đủ, họ đưa mọi người về trại tạm trú vốn là cư xá sĩ quan ngoại quốc ngày trước, rộng rãi, sạch sẽ, vườn hoa, sân cỏ đẹp quá sức như cỏi thần tiên đối với chúng tôi.

Ngoài việc nuôi ăn chúng tôi được chu cấp 1,50 $ môt người mỗi ngày để đi xe bus thăm thú phong cảnh Singapore. Dân Singapore tự động mang bánh, trái cây, quần áo vật dụng đến tặng. Tôi may mắn liên lạc được với vị cố vấn Mỹ làm trong đơn vị ngày xưa. Ông lo tất cả giấy tờ và 3 tháng sau tôi rời Singapore đến Hoa kỳ. Chính vị cố vấn này giúp tôi buổi đầu, tìm nhà ở, việc làm ở vùng Hoa thịnh đốn.

Tôi đi làm sau 2 tuần đến xứ Cờ Hoa, có lẻ nhờ trước kia tôi đã du học tại Hoa kỳ rồi. Tính ra đến nay gần 40 năm nhưng kỷ niệm với gia đinh, các bạn đồng tù, người lính cũ vô danh cùng đơn vi giúp tôi trốn tù vẫn âm ỉ trong lòng nhất là vào những dịp đầu năm và ngày quốc hận. Việc làm liều lĩnh của lính cũ đã cứu mạng tôi.   Không có lòng  hào hiệp của anh chắc gì tôi sông sót nếu ở tù thêm 5, 10 năm nữa?

Với tình trạng đất nước hiện nay chắc tôi không còn cơ hội đưa nhà tôi về Việt nam ăn Tết, thăm phần mộ ông bà và tìm người ơn cũ. Tôi xin cầu nguyện cho đồng bào quê nhà gồm người lính vô danh luôn được bình an, âm no, hạnh phúc.

Ngọc Hạnh

GHI NHẬN TỪ NHÀ BÁO MẠC PHƯƠNG ĐÌNH

Vào hồi 3PM chiều nay, Chủ nhật 24/4/2022, Chủ nhiệm báo Thằng Mỏ Lê Văn Hải đã phối hợp với nhóm Văn nghệ tại địa phương San Jose, đã tô chức một buổi Ca nhạc, với chủ đề Tưởng Niệm Quốc Hận 30 tháng Tư. Chiều ca nhạc đã được tổ chức tại quán Cà phê LOVER trên đường Quimby với sự tham dự của khá đông anh chị em cựu quân nhân VNCH và đồng hương.
Chương trình ca nhạc thật phong phú, trong không khí ấm áp của một buổi chiều Xuân, nhắc nhở về một thời tươi đẹp 20 năm dưới chế độ VNCH, cùng tưởng niệm những chiến sĩ Việt Nam cùng đồng minh đã hy dinh, ngã xuống vì Dân chủ Tự do 
Sau đây là một vài hình ảnh chúng tôi đã ghi lại, xin được chia xẻ cùng Quý Vị và Các Bạn Xa gần, với thời gian chỉ còn mấy ngày nữa là đến 30 tháng Tư, ngày Quốc Hận và Nôi đau đớn của chúng ta với Quê Hương đã xa.

MẠC PHƯƠNG ĐÌNH

HÌNH ẢNH VÀ TRANH THƠ TƯỞNG NIỆM THÁNG TƯ ĐEN TỪ MINH THÚY:

Tháng Tư Đen Không Dễ Gì Quên

Lê Thị Hoài Niệm.

*
Ngày đó.Người di tản tràn đến, từng đoàn người, từng đoàn xe từ Ban mê Thuột, Pleiku, từ Phú bổn, từ các tỉnh miền Trung đổ về vào những ngày giữa tháng ba. Trường Nam tiểu học, nơi cô trò chúng tôi gặp gỡ hằng ngày, đã không còn bóng dáng học sinh, vì trường đã biến thành “trung tâm tiếp cư”. Các thầy cô giáo chạy đôn chạy đáo tìm thức ăn, gạo muối, quần áo, vật dụng cần thiết vv..vv để phân phối, giúp đỡ những người đang xơ bơ, xấc bấc, lếch thếch, hốt hoảng buồn rầu đang ngồi ủ rủ trong các phòng học làm nơi tạm trú.

Một buổi chiều, đang còn ở trường về, được bạn báo tin: “cháu chị U đã chết cháy rồi!”. Tin thật buồn với sự chết chóc đã đến gần sát. Người vừa ra đi là  một Pilot Trực thăng, và đơn vị đang hành quân ở BMT. Tàu anh đã trúng đạn phòng không của địch quân, bùng cháy như cột lửa ở trên không. Chạy đến nhà chị U, nhìn chị và bà con trong nhà khóc than, tôi và hai cô bạn thân vừa đến cũng chụm đầu lại khóc.

Về nhà lại gặp một người bạn không quân tìm đến thăm khi biệt đội của anh từ Cần Thơ, biệt phái ra để phụ giúp với các đơn vị bạn. Đáng lẽ ở căn cứ Pleiku, nhưng vì đơn vị trên đó cũng đã di tản, nên các anh lại kéo xuống phi trường Nha trang. Ngồi nghe anh kể những bữa đổ quân khó khăn với quá nhiều phòng không địch, những chuyến hành quân tiếp tế, và đặc biệt là cứu “dân chạy loạn”. Từng đoàn người, đoàn người từ các tỉnh cao nguyên chạy về, phải đi bằng đường rừng, vì quốc lộ 21 đã bị VC chiếm mất từng đoạn. Họ băng rừng, vượt suối bồng bế gánh gồng mà đi, có người đàn bà đã “sanh rớt” trên đường chạy loạn, may mà Trực thăng đã nhìn thấy nên đáp xuống chở về nhà thương. Có hôm anh phải bay thật thấp để hướng dẫn đoàn người đi lạc trong rừng sâu có thể đi ra con đường mòn lớn hơn mà về được Khánh Dương (anh Th/tá ĐS Phước-Công binh, là một trong số người di tản buồn đã nhận ra tài xế chiếc trực thăng cứu nạn” trong những ngày gian khổ đó, nên “quí anh nhiều” ở những ngày tháng sau này).

Nhiều người đổ dồn về và cũng có lắm kẻ ra đi. Người Nha Trang cũng bắt đầu tìm đường tháo chạy, bằng xe hơi, xe hai bánh và chủ yếu là ghe thuyền đường biển.

Một vài ngày cuối tháng ba, trung tâm tiếp cư đã vơi người, một phần người tị nạn có thân nhân đến đón về, một lớp nữa họ tiếp tục xuôi Nam, những Thầy cô giáo cũng xôn xao nhiều vì người đi kẻ ở,

Từ làn sóng radio phát đi chương trình tiếng Việt BBC Luân đôn, cho tin quân dân miền Nam đang …thua xiểng liểng, quá nhiều nơi giặc chưa đến đã không còn người lãnh đạo? cơ sở bỏ tan hoang. Và đường phố Nha trang vừa đón một lớp người mới đến, có  một số “hung hăng, dữ tợn” vô cùng. Có hôm lái xe trên đường về một mình, sau khi đưa người bạn trở lại căn cứ, tôi cũng rất sợ vì với súng đạn có sẵn trên tay, họ có quyền cướp xe, có thể bắt phụ nữ và làm nhiều điều xấu(?), người ta bảo “họ là toán lính” vừa đổ bộ lên bờ từ tàu hải quân cặp bến cảng Cầu Đá (?) Chẳng ai dám ra đường thường xuyên nữa.

Tâm trạng hoang mang giữa đi và ở. Ở lại sẽ như thế nào trước tin đồn quân giặc quá dã man, đàn bà  con gái sẽ  bị “rút móng tay”, bị bắt đi làm “hộ lý” cho bộ đội, đàn ông con trai sẽ bị bắt đi tải đạn. Nếu lính tráng bị bắt, mạng sống sẽ không còn, nhiều tin rất hãi hùng mà người thành phố phải để ý đến. Nhưng đi thì đi về đâu? bằng phương tiện gì, nơi chốn nào để đến, hay cũng lang thang lếch thếch như những đoàn người đang nối đuôi nhau trên quốc lộ số một kia đang được chiếu trên truyền hình. Cuối cùng Ba Má tôi chọn giải pháp có chết thì cũng sẽ chết chung ở nhà mình, vì gia đình quá đông người, lại có thêm mấy gia đình bà con ở vùng ngoài chạy vào tị nạn,  mặc dù cá nhân tôi đã được người bạn sẵn dành cho phương tiện trực thăng để ra đi đêm cuối cùng của tháng ba, khi đơn vị anh trở về căn cứ ở miền Tây..

Buổi sáng ngày một tháng tư, sau khi đưa người anh trai, nguyên là sĩ quan đang làm việc tại bộ Tổng Tham mưu, là một trong những thành viên của  phái đoàn về Nha trang dự họp với tướng Ph. mấy hôm trước. Cuộc họp không đi đến đâu và cuối cùng phải trở lại SG. Quang cảnh phi trường Nha trang hỗn loạn không thể tưởng tượng nổi. Cổng đóng, quân cảnh cầm súng lăm lăm, có thể nã đạn vào ai đó bất cứ lúc nào, nếu không tuân thủ mệnh lệnh, người và người chen lấn nhau, người la kẻ khóc, lớp trong lớp ngoài. May quá, anh tôi vào được bên trong vì còn “sự vụ lệnh” và đang đi bên cạnh một “ông quan lớn”.

Tôi quay đầu xe trở về nhà mà lòng buồn khôn xiết, chán nản tột cùng. Vừa về đến nhà, đã thấy người bạn phi công phản lực vừa từ Phan Rang chạy về, anh nói muốn đến…từ giã tôi! Anh hỏi tôi có muốn “di tản với anh” không? vì không còn nhiều thời gian nữa. Tôi đang nói lời chúc Anh trên đường về Sài Gòn được bình yênthì người chị bà con xuất hiện, tôi đẩy chị lên yên sau chiếc xe Lambretta cùng đi với anh, và “tặng” chị chiếc khăn quàng Hướng đạo sinh tôi đang đeo trên cổ để chị làm kỷ niệm (lúc này tôi đang là Sói già của đạo K.H.). Tôi nhìn theo họ mà mắt cay cay, miệng vẫn lầm thầm cầu nguyện cho hai chị em đến nơi an toàn,  dù gì, chị cũng từng là “chị kết nghĩa” của anh ấy.

Mới tối qua, ngay phòng khách nhà tôi, vài ông Tá cấp cao, vài ông úy cùng ngồi “bàn chiến sự”. Họ “trấn an” ba má và gia đình tôi rằng: cả nhà đừng có lo, nếu có chuyện xấu xảy ra, thì “Đèo Cả” sẽ là lằn ranh Quốc-Cộng, chia hai phần lãnh thổ như Bến hải ngày xưa. Chúng tôi nghĩ đó là những lời nói…vô thưởng vô phạt, nói để trấn an chứ họ cũng đâu biết gì hơn. (sau này đọc được trong “Cuộc Đời Binh Nghiệp của ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN- Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH do tác giả Đặng Kim Thu viết có đoạn nói đến chuyện chia đất từ Đèo Cả là có thật. Xin trích:

Ngày 13-3-73, Tướng Trưởng được lệnh vào Saigon họp. Trong phiên họp tại phòng hành quân ở dinh Độc Lập, có sự hiện diện của Thủ Tướng Khiêm, Trung Tướng Quang, và tôi (ông Viên) TT Thiệu lấy cây viết gạch trên bản đồ VN, xóa vùng Cao Nguyên và Vùng I, rồi vạch một đường từ Ban Mê Thuột đến Nha Trang, rồi nói rằng chúng ta sẽ còn giữ phần đất dưới đường này. Từ đèo Cả trở ra Quảng Trị là phần đất dành cho Mặt Trận GPMN. Ông Thiệu nói với ông Trưởng:

– “Đây là chỉ thị của tôi. Phải thi hành, nhưng giữ bí mật. Không được nói lại cho ai!” (có lẽ tin này rò rỉ ra ngoài.)

Xong buổi họp, Tướng Trưởng theo tôi về văn phòng, có ý trình bày thêm về lệnh của ông Thiệu. Ông Trưởng nói:

-“Tôi không thể thi hành lệnh vừa rồi của Tổng Thống, vì tôi đã hứa với đồng bào ở Huế là tôi sẽ giữ Huế. Xin Đại Tướng chỉ thị một tướng khác để làm việc đó.”). Ngưng trích.

Khi họ đi rồi, ruột gan tôi héo hon quặn thắt, nhất là mỗi khi nghe tiếng máy bay cất cánh rời phi đạo xé nát không gian, hay những tiếng trực thăng xành xạch rồi nhỏ dần về hướng Nam…

ng lúc cô bạn hàng xóm nhà đối diện, hối hả xách một túi hành trang chạy sang, rủ tôi cùng xuống bến cảng Cầu Đá, vì “tàu hải quân”, mà anh trai của cô là Hải quân thiếu tá trên đó, sắp rời bến cảng, tôi đành chúc cô thượng lộ bình an, tôi không nỡ bỏ gia đình mà đi được.

Buổi xế chiều đó, một người anh họ mặc đồ Lính đến gõ cửa, anh vô nhà mà cánh tay đang quấn băng trắng dính đầy máu khô. Thì ra, lúc di tản từ ngoài Tuy Hòa vào, cả đơn vị bị thất lạc hết, anh bị trúng đạn, tìm đường về nhà tôi để buộc lại vết thương. Nhưng chưa ngồi yên chỗ, anh đã nhìn dáo dác và bắt gặp mấy chị em tôi đang ngồi ủ rũ, anh hét lên: sao không tìm đường đi đi, bấy giờ ở dưới phố đang hỗn loạn lắm, cả một đám tù nhân hung dữ vừa phá cửa nhà tù và tràn ra đường cướp phá!

Cả nhà tôi thất kinh, chưa kịp có phản ứng gì, thì một người hàng xóm chạy về la toáng lên ngoài đường: “nhà ai có con gái lớn hãy tìm cách trốn đi, cả một đám tù ở quân lao vừa mới tràn ra đường, họ đang tủa ra nhiều đường phố cướp phá đó.”.

Không còn chần chừ nữa, ba tôi vội vàng dắt chiếc Yamaha của tôi ra cửa, chiếc xe tôi vừa đưa anh tôi đi buổi sáng, vẫn còn đầy bình xăng, chị lớn tôi chạy đi xúc vài ký gạo, hai em tôi đi bốc vội vài bộ quần áo, cái mền, thế là 3 chị em phóng lên xe, sẽ chạy vô Suối dầu, nơi ba má tôi có khu vườn  trồng nhiều cây ăn trái, với căn nhà nhỏ.

Trong cơn hỗn loạn, muốn tìm con đường sống, tiềm năng sức mạnh trong mỗi một con người đã thể hiện, vượt qua những sinh hoạt thường ngày mà không ai ngờ tới. Với cái xe nhỏ xíu, mang đến ba con người, thêm gối mền gạo mắm, vậy mà tôi cũng phóng nhanh qua mấy con đường để ra xa lộ số Một, rồi len lỏi, luồn lách qua một đoạn đường dài lên Thành với hằng hà sa số xe cộ từ xe GMC, xe Jeep, xe hàng, xe nhà, xe hai bánh đủ loại..…và một đoàn người gồng gánh, vai mang, gậy chống, võng khiêng… rồng rắn nối đuôi nhau. Họ âm thầm lặng lẽ lách qua đoàn xe đang nghẹt cứng trên đường.

Lách mãi, tôi cũng qua được đoạn đường Thành, đang dáo dác tìm lối lách nữa, bỗng nghe có tiếng gọi tên mình. Thì ra, nguyên cả một đoàn xe của Trung tâm huấn luyện Lam sơn cũng trong đoàn người di tản, và đang di chuyển nhích nhích nơi đây vì kẹt cây cầu đàng trước.

Chia tay với quí anh trong bịn rịn, những người đã từng đem mồ hôi và nước bọt để huấn luyện cho những tân binh trước khi ra chiến trường chống địch, giờ này cũng đang tham gia vào cuộc di tản vô trật tự, một cuộc “rút chạy” mà không biết sẽ ra sao ngày sau???

Mới lách luồn một đoạn ngắn, lại có ai gọi mình, quay lại gặp người anh là Đại úy làm trong …Quân sự bốn bên gì đó, con của người cậu ruột cũng trong đoàn người di tản, anh nói “ba đứa lui ra sau, anh…lái xe cho!”, nhưng anh vừa ngồi lên yên, thì cái bánh xe…xẹp lép, thế là anh…leo xuống, chúng tôi chạy tiếp.

Xe chạy và chen lấn mà chạy, qua ngang cầu Lùng, một cảnh tượng thương tâm xảy ra, một xe Honda đàn ông, hình như chở đến 7 con người ta lớn nhỏ(?), người tài xế bị lạc tay lái và ngã cái rầm, người văng tung ra, nhưng đoàn người đang ở trên cầu cứ tránh qua mà chạy, coi như chẳng thấy gì và cũng không thể dừng lại khi mà đoàn xe sau cứ lao tới. Tình nhân loại, lòng nhân ái đã “bị bỏ quên” khi chính mình cũng đang đi tìm lối sống? Hóa ra hình ảnh mấy hôm trước trên TV còn chiếu cảnh những người…đạp đầu nhau để tìm một chỗ ngồi trên tàu di tản là chính xác. “Mạnh được yếu thua” đang diễn ra mọi nơi mọi chỗ trên quê hương tôi? Và trong đó có cả chính bản thân tôi. Buồn thật!

Cơn mưa chiều hung bạo, xối xả tự nhiên đổ ập xuống. Mưa và gió đập rầm rầm vào mấy bức vách của căn nhà nhỏ, nơi chúng tôi vừa đến chẳng bao lâu. Những hạt nước mưa nặng nề rơi xuống như muốn cuốn trôi dùm nỗi uất nghẹn trong tim của những con người bất lực, đang thua chạy mà không biết tại sao mình bị thua? Nhìn ra đường, đoàn người ướt nhẹp vẫn lóp ngóp đi hai bên lề dưới cơn mưa, xe cộ vẫn chen nhau mà chạy. Đoạn đường Suối Dầu này, ngoài những khu vườn trồng cây ăn trái với căn nhà nhỏ để ở tạm, không có nhà cửa hai bên đường, nên người đi bộ không thể nào có chỗ núp mưa, nên họ cứ lầm lũi mà đi, như những đám ma trơi mùa tháng bảy…(?)

Chiều xuống dần, mưa tạnh bớt, một người nhà vườn bên cạnh chạy sang, họ yêu cầu chúng tôi góp tiền mua chiếu để chôn hai người vừa bị xe tông chết ở trên quốc lộ I. Lúc này đoàn người di tản đã đi về phía trước, chỉ còn những xe nhỏ chạy vụt qua. Thương thay hai người Lính đèo nhau trên chiếc xe Honda, và đã bị chiếc xe nào đó đụng phải, họ ngã xuống đường và chết liền tại chỗ, máu loang đỏ cả mặt đường trộn lẫn nước mưa, Dù sao hai người Lính này vẫn có được nén nhang cúng bái và nấm mồ dù chỉ đắp bằng đất, và cả tên tuổi ghi rõ bằng những mảnh gỗ đóng  trên đầu mộ.

Sáng ngày 3 tháng tư, anh lớn tôi vào gọi về vì “quân giải phóng” đã vào chiếm thành phố Nha trang hôm qua. Để hai em tôi ở lại trong vườn vì người đã đem thêm gạo mắm cho các em đủ sống một thời gian, vì về ngoài NT đang lộn xộn lắm. Riêng tôi phải về vì dưới phòng Giáo dục, “Chánh quyền mới đã tiếp quản” và cho người đi lùng sục từng nhà kêu gọi các Thầy cô giáo “không di tản” phải ra trình diện gấp. Anh tôi nói có một nhóm người đã ra tận đèo Rù Rì để đón mừng “Cách mạng”(?), và hú hồn vì chúng tôi đã đi thoát đêm đó. Nếu ở lại nhà, không biết chuyện gì sẽ xảy ra, khi mà đám tù nhân hình sự, chuyên cướp của giết người, lẫn những người tù “bất trị” ở quân lao họ túa ra đường phố, đến phá cửa những nhà buôn nào họ nghĩ là có thể cướp được, nhà nào có con gái họ bắt để hãm hiếp (?). Về sau có nhiều người kể lại, các cô gái phải chui trốn ở những nơi dơ bẩn nhất, trên gác xép, dưới gầm giường, nhà xí v..v…Cũng hên là sau khi vơ vét được mớ tiền của thì họ bỏ đi, cùng lúc, những căn cứ quân sự, những cơ sở chính quyền, nhà dân bị bỏ trống, đã bị nhiều nhóm người khác nhau đến “hôi của” đốt phá. Thành phố đã hỗn loạn giờ thêm cảnh điêu tàn, nhếch nhác..

Bấy giờ mới thật sự là những ngày hãi hùng của “tháng tư đen” khi bộ đội miền Bắc đã đem xe tăng vào thành phố. Những chiếc xe “molotova” kềnh càng, lù lù chạy ngang chạy dọc trên đường, trên xe chở đầy những bộ đội mặc quần áo màu cứt ngựa và nón cối đội đầu, cả người và xe đều cắm đầy lá cây như những “cánh rừng biết đi. Người dân bình thường đứng nhìn “quân giải phóng” xuất hiện trong lo âu sợ hãi, trong khi những tên nằm vùng xuất đầu lộ diện ăn mừng chiến thắng (?).

Giọng nói “chanh chua–chát chúa- the thé- sắc lạnh” từ miền Bắc xa xôi nào đó truyền đi qua làn sóng đài phát thanh, với “bảy điểm của ủy ban quân quản” cứ làm người nghe rờn rợn, nổi gai ốc cùng mình, và phát thanh những bài hát có lời “ca tụng bác Hồ” với giọng the thé đi lên, đi lên chói óc. Những lúc ra đường gặp phải những bộ đồ màu cứt ngựa, đôi dép râu và cái nón cối mặt ngơ ngơ ngáo ngáo, nhìn xiên nhìn xéo trầm trồ, xuýt xoa, ngước mặt nhìn lên cao thì…rớt nón cối, cứ vừa đi vừa nói chuyện với nhau bằng chất giọng lơ lớ như người miền núi mà thở dài ngao ngán và tự hỏi: những người chiến thắng đây sao?. Mặc dù người thành phố đã cải dạng, quần áo thường ngày đã đem giấu kỹ, chỉ còn những bộ đồ đen đúa hoặc nâu đà, nhưng vẫn bị nhìn với cặp mắt soi mói, ác cảm.

Chuỗi ngày tiếp theo thành phố bị tắt ngúm đèn điện ban đêm, nhà nhà đóng kín cửa, leo lét ngọn đèn dầu. Tháng tư đen đúng nghĩa. Thành phố trống vắng, hoang lạnh tiêu điều. Mới hôm nào những con đường phố đông vui nhộn nhịp, những bộ quân phục từ các quân trường, từ nhiều đơn vị về đây, trai thanh gái lịch dìu nhau đi trên phố, trên bãi biển những buổi chiều lộng gió, phố xá sáng trưng, sinh hoạt tấp nập, giờ còn lại một thành phố chết, vắng hoe. Đã vậy những tiếng súng phòng không được đặt khắp nơi cứ bắn lên nổ rền trời, tiếng súng đại bác bay xé không trung, xé trời và xé cả lòng người. Buồn đau và sợ hãi là tâm trạng của những người dân trong thành phố, dù mọi sách báo, tài liệu, của cải hiếm quí đã đem dấu cất, phi tang (nhà tôi đã chôn nguyên một “thùng phuy” sách báo cũ đủ loại ở sân sau nhà, về sau đào lên cho bạn bè…mượn coi, và bị …mất hết).

Những tiếng máy bay ầm ĩ bay trở lại thả bom vào mỗi đêm, nơi đã bị bắt buộc phải treo cờ “Mặt trận giải phóng miền Nam”. Những tiếng nổ long trời lở đất cứ dội lại, rền ra xa, những giấc ngủ chập chờn, khi trên đài phát thanh, “quân giải phóng” ra rả loan tin “bọn Ngụy” càng ngày càng thất trận. Lệnh của “ủy ban quân quản” ban ra: “cách mạng sẽ khoan hồng nếu quân dân cán chính Ngụy miền Nam ra đầu thú”. Một người anh họ, chỉ là một “cán bộ xây dựng nông thôn” của một xã ngoài Phú yên, chạy vào nhà tôi tạm trú, ba má tôi lo sợ đã bảo trốn đi vào Nam, nhưng vì nghe lời gia đình của vợ bảo ra trình diện sẽ được “khoan hồng”, đã bị “cách mạng dẫn độ” về T.Hoà và bị “chặt đầu” không chút nương tay. Ngày liệm xác phải chờ xin lại.. cái đầu bị chặt để ráp lại cho nguyên vẹn hình hài hầu mai kia còn… “ăn cúng giỗ”. Có người thanh niên ăn trộm vặt vì đói quá, bị “bộ đội” bắt đem ra bãi biển “xử tử” để làm gương, dù người bị mất cắp “năn nỉ van xin bộ đội khoan hồng đừng xử bắn”. Nhưng những con người vô cảm kia vẫn thi hành mệnh lệnh. Người dân thành phố cảm nhận được nỗi mất mát tột cùng nhưng không biết làm gì hơn.

Những Thầy Cô giáo như chúng tôi, vào những ngày sau đó, buổi sáng bị bắt buộc phải trở lại trường để “học tập chinh trị”. Nhưng buổi chiều không đến trường, cứ khoảng hai giờ là leo lên xe đạp, đèo theo chiếc mùng và vắt cơm nguội, đạp xe lên tận trên Thành, khu nhà ở “cải lộ tuyến” hoặc khu Đại Điền xin ngủ nhờ qua đêm, chọn những gia đình có “hầm trú ẩn”. Vì cha mẹ già sợ bom đạn từ “phe ta” trở về thả bom, tai bay họa gửi chẳng biết đâu mà tránh.

            Dù đã đi khỏi thành phố, nhưng nhiều khi đang ngủ chập chờn, còi báo động rú lên liên hồi, dai dẳng đến rợn người, thế là ba chân bốn cẳng phải chạy chui vội xuống hầm, ngồi bó gối chờ cho đến sáng, khi biết chắc rằng “máy bay Ngụy” không còn trở lại thăm viếng tặng bom.

Hỡi ơi! Khi “rút chạy”, những người “có thẩm quyền” đã không chịu hủy bỏ những gì cần hủy, như tài liệu văn phòng, những hồ sơ cần thiết, hay những cây cầu chiến lược để xe giặc khỏi đi qua. Giờ đã lọt vào tay giặc, họ ra lệnh đem bom về thả chính nơi họ vừa mới bỏ ra đi. Thành phố như đã chết, giờ càng ghi đậm thêm nỗi chết, khi quá nhiều nơi “ăn” bom đạn của chính quân mình, từ ngoài xóm Bóng, đến đường Tô hiến Thành, và cả ngôi trường thân thương của chúng tôi cũng lãnh nhiều quả đạn (Về sau có gặp lại một người bạn không quân tham gia cuộc đánh bom trong những ngày tháng đó nói rằng: chúng tôi có lệnh phải đánh bom phá sập cầu xóm Bóng, nhưng không thể xuống thấp hơn, vì phòng không địch nhiều quá, nên cứ ở độ cao..mấy chục ngàn bộ mà thả xuống nên mới ra…cớ sự”). Gia đình một người “tị nạn” chưa kịp tìm phương tiện trở về lại quê xưa, thì người vợ trẻ và đứa con trong bụng đã chết tức tưởi ngay trong phòng học lớp năm phía bên dãy trường Sư phạm Nha Trang, vì quả đạn trúng sập căn phòng.

Buổi sáng trên đường đi đến trường để dọn xác chết và gạch ngói ngổn ngang, chiếc xe đạp cà tàng của chị bạn tên T.(có chồng là sĩ quan Hải quân đã không liên lạc được) bị đứt dây sên, hai chị em vừa dắt xe chạy mà vừa khóc ròng vì đường vắng tanh đến lạnh người, lại tủi thân, xót phận của người bỗng chốc thành kẻ thua cuộc, lại phải đi ngang qua khúc quanh trước cửa trường Nữ trung học, nơi có ba xác chết nằm sấp, ruồi nhặng bu đầy thật hôi thối, mà chưa có người dọn dẹp khiêng đi mai táng….

Thú thật hồi đó cứ mỗi một đống gạch vụn khiêng đi đổ, là khiêng đổ cả mồ hôi và nước mắt, nhưng đã giữ lại trong tôi nỗi đau và sự tức giận đối với những người vừa là bạn, là phe mình mới hôm nào cùng dắt nhau đến những quán ăn Thọ Lộc, Hoài Linh còn ấm cái ghế ngồi, chẳng lẽ hôm nay đã trở thành…thù địch?. Thương và giận luôn giằng co theo từng bước chân đi. Bao nhiêu ngày của tháng tư đen, là ngần ấy ngày chúng tôi sống trong lo âu sợ hãi, khủng hoảng tinh thần. “Cách mạng” luôn đưa người đến tận nhà “bắt buộc” các thầy cô giáo phải đến trường, nhưng có lúc mới đi đến giữa đường đã phải chạy về vì tiếng súng phòng không nổ đụp đụp liên hồi. Có hôm tôi và cô bạn vừa đi gần đến chợ Đầm, đã phải vội vã ...phóng về lại nhà ở đường Trưng nữ vương, vì súng phòng không của “bộ đội” nổ liên hồi không dứt. Mãi đến khi trên làn sóng đài phát thanh chát chúa oang oang: “Mặt trận lâm thời giải phóng miền Nam thông báo là quân dân ta đã chọc thủng chốt cản của bọn Ngụy tại Phan Rang và đang tiến nhanh theo gót bọn chúng đang tháo chạy…” thì không còn nghe tiếng ù ù của “những chuyến bay đêm!”. Nhưng ngoài nỗi đau, sự hoang mang sợ hãi giờ mang thêm niềm thất vọng tột cùng.   

            Ôi tháng tư đen! đời đen như cục than đen bắt đầu từ những ngày tháng đó. Cho đến một ngày cuối tháng tư cả nước cùng nghe chung một tiếng loa của “phe thắng trận” với “đại thắng mùa Xuân”! Những ngày mà “đôi dép râu dẫm nát đời son trẻ, nón tai béo che khuất nẻo tương lai” bắt đầu một chế độ mới. Khi mà nửa đêm về sáng của ngày mồng một tháng 5, người dân thành phố Nha trang đã bị những “cách mạng 30” đến gõ cửa từng nhà, kêu gọi tập trung tại sân vận động để “chào mừng lễ lao động” nhưng thật sự là ăn mừng chiến thắng. Khi mà những loa phóng thanh bắt đầu chỉa vào nhà dân lúc 5 giờ sáng, bắt người dân phải nghe những lời ca…chói óc, the thé ca tụng “bác và đảng”( những Thầy Cô giáo về sau cũng phải hát thuộc lòng những bài hát đó ở trong trường để dạy lại cho học trò, nếu còn…đứng lớp). Những bản tin thắng trận, những “tội ác Mỹ Ngụy”…v…v được loan tải từng giờ, nghe mà ớn lạnh. Tiếp theo là những ngày ăn cơm độn với gạo mục, bo bo, mì sợi, với mỗi tháng một cái tem phiếu đi cửa hàng lương thực chờ chực cả nửa ngày mới mua được vài ký rau muống già….. Người thì bị đi tù mút chỉ không biết ngày ra, quá nhiều gia đình ly tán. Người tuổi trẻ bị bắt vào đội “thanh niên xung phong” lên rừng chặt cây lồ ô, đi lao động khổ sai tiếp diễn, chịu bao nỗi khổ ảỉ đắng cay. Đã vậy thêm lớp người mới mang băng đỏ, chuyên đi lùng sục bắt bớ những người “chưa chịu tuân thủ” lệnh của chính quyền mới, vào nhà vơ vét tài sản của dân lấy cớ tịch thu “sản phẩm đồi trụy của Mỹ Ngụy”…vv..vv,  đã tạo thêm nỗi kinh hoàng cho những người dân ở thành phố vừa bị đổi chủ…, những tháng ngày không thể nào quên, và mãi mãi không dễ gì quên….

Lê Thị Hoài Niệm.

*

Thơ Tháng Tư

Lê thị Hoài Niệm

Tháng tư một chín bảy lăm

Tháng  tư nghiệt ngã mãi nằm trong tim

Tháng tư dẫu chẳng kiếm tìm

Tháng tư vẫn cứ gọng kiềm ma trơi

Tháng tư uất hận không vơi

Tháng tư hủy diệt một thời TỰ DO

Tháng tư bóp chết ấm no

Tháng tư gieo rắc nỗi lo khôn cùng

Tháng tư di tản hãi hùng

Tháng tư chiến trận lan bùng khắp nơi

Tháng tư lửa khói ngập trời

Tháng tư bất hạnh cho người miền Nam

Tháng tư biển động, sóng gầm

Tháng tư trời đổ mưa dầm …quê tôi

Tháng tư thành phố mất rồi!

Tháng tư giặc đến châm ngòi hận sâu      

Tháng tư chồng vợ xa nhau

Tháng tư tang trắng quấn đầu bé thơ

Tháng tư người Lính sa cơ…

Tháng tư giặc cướp tung hô ăn mừng (?)

Tháng tư đau khổ tột cùng

Tháng tư người chết, người..khùng, hỡi ôi!

Tháng tư tắt hẳn tiếng cười

Tháng tư căm hận “vượn” ngồi lên “ngai”

Tháng tư tiêu hủy tương lai

Tháng tư không thể phôi phai trong đời!

Lê thị Hoài Niệm

LƯU Ý KHI ĐỌC FILE PDF: XIN BẤM VÀO GÓC DƯỚI (TRÁI) ĐỂ LẬT TRANG TỚI-LUI THEO MŨI TÊN

MTT-Noi-voi-voi-tuoi-tre-Final

2-Flyer-VAR-Viet-Museum

Thân gửi bằng hữu            

Giao Chỉ San Jose                                                     

Với máy quay phim tài tử và có khi là cell phone, chắp nhặt những đoạn phim của các bạn, anh Nam đã dựng lên một cuốn phim dùng giấy ra trại của ông bố HO liên kết áo tù và lễ phục ra trường của các con. Vừa quay phim. vừa viết bài vừa đọc bình luận thêm công tác đạo diễn và cắt ráp. Chúng ta gọi Phạm Phú Nam làm nghề gì. Giám đốc Dân Sinh Media. Một mình một chợ. Nghề dạy nghề sản xuất ra những DVD tâm huyết. Nhân mùa Quốc hận lần thứ 47 hãy xem DVD này một lần để thấy rõ cuộc đời bể dâu. Trên giấy ra trại ghi rõ tội trung úy Thủ Đức. Trên thế giới này có ai mang tội thầy giáo hay tội trung úy. Nhưng chính anh chàng tôi nhân HO này đã đưa gia đình qua Mỹ. Anh có hai con gái đều đỗ tiến sĩ tại các trường danh tiếng nhất Hoa Kỳ. Luật sư Thục Mình có hình ảnh trong phim này cũng sẽ là khách thuyết trình song ngữ vào ngày 1 tháng 5-2022 tại San Jose cùng với tướng Lương Xuân Việt. Hỏi rằng cháu đi HO năm 5 tuổi thì học tiếng Việt ở đâu. Là học trò xuất sắc của Harvard và Stanford tại mỗi nơi cô đều yêu cầu học ngoại ngữ Việt. Trường bèn thuê thầy giáo về dậy cô Việt Ngữ. Hãy đến Santa Clara County 10 giờ sáng chủ nhật 1 tháng 5-2022 để xem thế hệ thứ 2 của người Việt đã đóng góp những gì vào quê hương mới. Để biết rõ hơn về m  ối liên hệ giữa cái áo tù, tờ giấy ra trai và cái áo ra trường trung học đại học cho tới tiến sĩ.

Hãy xem DVD của Phạm Phú Nam

NGAY-QUOC-HAN3

Em Gái Bờ Sông Mã Và Người Tu ̀ Cải Tạo

Em là Em Gái Bờ Sông Mã
Ta là gì đây em biết không ?!
Hai ta đều xa lạ,
Nhưng chung một giống Lạc Hồng

Hằng ngày em làm rẫy ven sông
Ta trồng khoai sắn cũng bên dòng
Sáng chiều gặp mặt
Chỉ nhìn nhau…!! [1]

Em hiền mắt ướt buồn như mưa
Nét mặt thơ trinh mũi dọc dừa
Tay dắt trâu gầy vai vác cuốc
Sau lưng gùi nhỏ rung đong đưa

Nhìn em chợt nhớ đến em ta
Đã bẩy năm trời xa quá xa…!!
Chưa biết bao giờ gặp lại nữa
Nghe lòng chua xót tận bao la…!!

Em nhìn ta có nghĩ gì không
Có nghĩ rằng ta phụ giống giồng ?
Bán nước cầu vinh phường vong bản
Để rồi khinh miệt mãi hay không ?!

Em ạ, ta nào có vậy đâu
Vẫn hằng ôm ấp tấm tình sâu
Yêu nhà, yêu nước, yêu dân tộc
Vẫn muốn non sông sớm đẹp giàu

Bao năm chinh chiến để giờ đây
Lao lý khổ sai những tháng ngày
Để thấy đời em cơ cực quá
Quanh năm tay cuốc chuyền tay cày !!

Áo quần lam lủ pha màu đất
Chẳng có bông tai hoặc chiếc vòng
Nón lá bung vành màu xám mốc
Dao rừng lủng lẳng… cột ngang hông

Món ăn thường bữa là khoai sắn
Hoặc giả cơm ngô với muối ròng
Thịt cá làm sao mà có được
Hoạ hoằn mới thấy bát canh rong [ 2 ] !

Tuổi ngọc như em phải học hành
Để nhìn đất rộng chuyển xoay quanh
Tìm xem thế giới bao điều lạ
Để hiểu xuyên trời mấy lớp xanh !

Tội nghiệp cho em có biết đâu
Bây giờ thiên hạ khắp Năm Châu
Ăn ngon mặc đẹp đời hoa gấm
Nếp sống văn minh hưởng thái bình

Thương em, cũng chính thương mình
Màn đêm vạn lý vây quanh cuộc đời…!!
Chừng nào vui được em ơi
Như con khướu [ 3 ] hót trên đồi xanh mơ…!!

Sông Mã chiều nay nước biếc trong
Trùng sơn gợn sóng phớt mây hồng
Có ai ngồi ngắm dòng sông Mã
Mà ngỡ, đây: dòng sông Cửu Long !!

NGUYỄN – MINH – THANH
(Trại tù Thanh Cẩm 1981)

[ 1 ] Là tù, không được tiếp xúc với dân và ngược lại !
[ 2 ] Vào mỗi cuối Đông, nước sông cạn, đồng bào Mường, phụ nữ, thuờng rủ nhau đi mò rong dưới lòng Sông Mã đem về làm thức ăn phụ.
[ 3 ] Chim Khướu thuộc bộ Sẻ, lông dày, màu xám tro, cánh tròn, chân hơi cao, khỏe. Chúng sống thành đàn và hót rất hay ở các tỉnh miền Trung VN. Có nhiều loại Chim Khướu…        

Nỗi lòng Mẹ tháng Tư


Mẹ ngồi đốt mớ bòng bong

Mong con mong mãi vẫn không thấy về

Xa xôi muôn dặm sơn khê

Con đi từ dạo giặc về lầm than

*


Tháng Tư gẵy súng tan hàng

Nước non lâm cảnh điêu tàn vì ai?

Xứ xa con có đêm ngày

Quyết tâm quang phục một mai trở về?

*


Con ơi hãy nhớ lời thề

Chắp tay Mẹ nguyện ngày về không xa

Tháng Tư đã đến lại qua

Còn bao lâu nữa nước nhà an vui?

*
phamphanlang

Tháng Tư Đạn Lạc

*

*Tháng Tư đạn lạc cánh chim bay
Thê thảm ngày buồn chuyện đổi thay
Phố xá tình thân đành đứt đoạn
Ngày dài tháng muộn mấy ai hay.

Thương đau ngày cuối tháng tư về
Chia mối tình riêng đã hẹn thề
Đêm cúi mặt tuôn rơi lệ khóc
Nỗi buồn thổn thức dài lê thê.

*
Bóng chinh nhân huyền ảo trong mơ
Chiến sĩ hành quân giữ cõi bờ
Chinh chiến mịt mù bom lửa đạn
Lời thề xưa vẫn đợi mong chờ.

*
Tháng Tư vận nước đeo tang trắng
Đau nhói hồn ta vạn nỗi sầu
Chia cắt đời nhau trong góc khuất
Đôi bờ đôi hướng chạy về đâu.

*
Bờ yêu biển nhớ sóng vun đầy
Thấm nỗi lưu vong rượu uống say
Đã quá xa rồi ngày tháng cũ
Bây giờ nhớ lại buổi chia tay.

*
Nước non ngàn dặm vẫn chờ nhau
Số phận chia hai nối nhịp cầu
Vận nước bao giờ thay đổi mới
Ta về xây lại buổi ban đầu.

*
AET Lê Tuấn
Nỗi buồn tháng Tư

NGƯỜI CHIẾN SĨ VNCH

      Khói lửa chiến tranh tắt đã từ lâu.

      Trên bốn mươi Năm nước chảy qua cầu

      Súng còn đây, mũ sắt cũng còn đây

      Người chiến sĩ hy sinh đền nợ nước

      Hồn  bây giờ phảng phất ở nơi đâu,

     Bình Long, Đồng Tháp, hay  cầu Hiền Lương?

       Người mất rồi yên vui miền cực lạc

       Kẻ sống còn  phiêu bạt khắp bốn phương.

                  Hoa Đô, Tháng Tư đen 2022  

Trần Công/Lão Mã Sơn

NHỚ NGƯỜi TỬ SĨ

      Chiến tranh khói lửa tắt từ lâu.

      Mấy mươi Năm nước chảy qua cầu

      Hỡi những người trai đền nợ nước

      Hồn người tử sĩ giờ ở đâu?

        Hoa Đô, Tháng Tư đen.                            

Trần Công/Lão Mã Sơn

TAU GÁNH MẦY VỀ

Chiến trường  đến lúc vô cùng khốc liệt

Quân xâm lăng tiến đánh khắp mọi nơi

Mầy vội ra đi sớm bỏ cuộc chơi

Huynh đệ chi binh, lính không bỏ bạn.

 

Tau Gánh Mầy Về, đến chốn đến nơi

Để gia đình mầy gặp mầy lần cuối

Cho vong linh mầy ở nơi chín suối

Vẫn được yên vui không tủi không buồn

 

Ngày nay mầy đã đền xong nợ nước

Mầy hy sinh vì đất nước, nhân dân

Trách vụ người trai, mầy tròn bổn phận

Công lao mầy Tổ quốc sẽ tri ân.

                  Trần Công/Lão Mã Sơn                                 

PHỤ NỮ MIỀN NAM THỜI KHÓI LỬA

    

Phụ Nữ Miền Nam trong thời khói lửa

Đáng được vinh danh “Tiết Hạnh Khả Phong”

Chăm sóc Mẹ già, con dại  thay chồng

Để chinh phu yên lòng lo chống giặc.

 

Đêm cô đơn, nhớ chồng rơi nước mắt

Nhìn đám con thơ, ruột thắc gan bào

Lo lắng cho chồng, khi nghe tiếng pháo

Cầu xin Phật Trời che chở chinh phu.

 

Kẻ đón chồng về chân cụt, mắt mù

Người đổ lệ, nhận xác chồng tử trận

Vợ tù cải tạo vô cùng lận đận

Lặng lội thăm chồng ngàn dậm xa xôi.

Hoằng đôi vai gánh vác cuộc đổi đời

Cùng con trẻ đi vùng kinh tế mới

Trồng sắn, trồng khoai, mẹ đào, con xới

Thiếu áo cơm, đời chẳng thấy tương lai.

 

Phải cùng con vượt biên ra hải ngoại

Biết bao người nạn nhân quân cướp Thái

Chết trên biển Đông bỏ lại  con thơ

Lạc  lõng quê người, bọn trẻ bơ vơ .

 

Phụ Nữ  Miền Nam Trong Thời Khói Lửa

Đã góp công giữ đất nước non sông

Dù không cầm súng ra ngoài chiến  tuyến

Nhưng công lao chẳng kém chi chồng.

                                 Trần Công / Lão Mã Sơn

TRAI THỜI LOẠN

Khói lửa chiến tranh, nước nhiễu nhương

Vừa mới bước chân khỏi cửa trường

Vội khoác chinh y ra chiến tuyến

Chống quân xâm lược giữ quê hương.

Chân bước đi lòng luống xót xa

Bỏ lại sau lưng người Mẹ già

Lên đường tạm gác tình Mẫu Tử

Nặng tình sông núi, nhẹ tình nhà.                                   .

 Đem mạng sống chở che dân tộc

Thân trai giữ nước vẹn câu thề

Hy sinh xương máu vì Tổ quốc

Lắm kẻ ra đi chẳng trở về.

                              Trần Công/Lão Mã Sơn

NHO-THUONG-CHIEN-HUU

        NGƯỜI LÍNH NĂM XƯA

Nửa cuộc đời trước Anh là Lính chiến

Ngoài biên cương chống giặc giữ quê hương

Thời thế đổi thay, Miền Nam mất nước

Đất khách lưu vong,  sống kiếp tha phương.

 

Nửa  cuộc đời sau tóc đã nhuộm sương

Ôm mối hận lòng  là người thua cuộc

Đêm đêm lang thang nhớ về cố quốc

Buồn nỗi buồn người mất quê hương.

 

Chiến hữu ơi, hãy tạm quên quá khứ

Sống an vui khi tuổi thọ cuối đường

Chờ ngày nào đó lên tàu thiên cổ

Sẽ xuống Ga Sài- Gòn thăm lại cố hương.

 

  Hoa Đô. Mùa Tháng Tư Đen

     Trần Công Lão Mã Sơn

Để đọc trang kế tiếp trong tác phẩm “THÁNG TƯ GÃY CÁNH CHIM BAY”, xin vui lòng di chuyển mouse xuống dưới trang, phía bên trái và click vào đầu mũi tên.

An-Ban-moi-Thang-Tu-gay-canh-chim-bay-03-25-2022-new-edit

Chuyen-Ngan

Chùm Thơ Cao Mỵ Nhân

ANH, 30-4-1975.     

Anh trầm mặc suốt ngày ba mươi đó

Tháng tư đen, nay đã bốn sáu năm

Là quân nhân, thì phải đánh tới cùng

Là dân sự, phải chung chia trách nhiệm 

Ai đợi chờ ai, ai không tìm đến 

Ai bỏ ai đi, ai đã phân ly

Ai, ôi tất cả căm hận cuồng suy

Nhìn ai cũng sầu bi, tuyệt vọng 

Dương tướng cũ chết vì danh nghĩa sống 

Ông tưởng là bọn  chúng thương miền Nam 

Ông đã lầm trao tất cả giang san 

Làm tan vỡ tinh thần bao chiến sĩ 

Chúng cướp cuộc bảo rằng vô đánh Mỹ 

Đánh cho Tàu, cổ suý cho Liên Xô

Chúng nâng niu tư tưởng lão già Hồ

Theo chủ nghĩa tam vô đầy lệch lạc 

 

Lũ vô sản cộng thù bao tàn ác

Xoá niềm tin người xây dựng Tự Do

Dân Việt Nam trọng lý tưởng Quốc Gia

Muốn gìn giữ quê hương cho Dân Tộc 

 

Anh sấp mặt, mồ hôi hoà nước mắt 

Để mai sau con cháu vượt lên nhanh

VIỆT NAM CỘNG HOÀ phục quốc quang vinh

Xoá tháng tư đen, tô lịch vàng quốc sử .

 

      CAO MỴ NHÂN

ĐÈO HẢI VÂN  

3/ 1975

 

Câu chuyện 30 tháng 4

Nghe như nửa thực, nửa hư

Thực vì máu và nước mắt 

Ngập tràn xác người tản cư

 

Chạy bộ trên đèo Hải Vân 

Bộ hành xô xe xuống vực 

Đoàn sau ào lên phía trước 

Không kịp suy nghĩ, lần khân

 

Chạy lao vào nhau chết thảm

Già , trẻ , lớn , bé khóc la

Chạy từ Huế vô Đà Nẵng 

Có người lại lộn trở ra

 

Đại tá tỉnh trưởng Thừa Thiên 

Đậu trực thăng trên đỉnh núi 

Thét gào trong máy truyền tin

Một ngày mấy lần lui tới

 

Ông cũng như người tị nạn 

Không hiểu trung ương muốn gì 

Chưa ai quan tâm thù hận

 Chỉ cần vượt thoát chốn ni

Chẳng ai muốn dừng, dù đêm

Không ăn không ngủ, đau rên

Cứ đi như khùng, như dại

Người ôm thây ma cuồng điên 

 

Thế rồi cũng qua mọi sự

Rùng mình sợ hãi quẩn quanh

Chao ôi đâu là lịch sử 

Chỉ toàn máu lệ hôi tanh

 

Hải Vân gió hú đêm sương 

Chập chờn hồn ma tức tưởi 

Cuối 3/75 đau thương

Người người tả tơi, rách rưới 

 

Tôi trong ” phái đoàn cứu trợ “

Ấn vào tay họ chút quà 

Hất ngang, họ đi như sợ

Cản đường, không để họ qua

 

Trở về Nam Ô chở nước 

Đặt bên vệ đường ” tự do ” 

Đoàn người lênh đênh khốn khổ 

Trừng trừng mắt ngó hư vô…

 

    CAO MỴ NHÂN

GƯƠNG LƯỢC THÁNG TƯ.     

 

Anh vừa thấy tóc em rối bù gió cát 

Hay vì lời anh hát giữa tang thương

Đừng hét nữa, hãy nhìn ra bát ngát 

Rồi quay vào thực tại, ngó quê hương 

 

Nếu cứ mãi thét gào trong tuyệt vọng

Có hơn gì một tráng sĩ Kinh Kha 

E phải có những đầu rơi bi thống 

Bước em về hoa nở đất tha ma 

 

Em xa xứ, hay đang trong tù ngục 

Hãy về xem thiên hạ tự lưu đầy 

Bao thiếu nữ vẫn dịu dàng than khóc 

Cho hồn thơ bát ngát tỉnh cơn say 

Tháng tư buồn, lược gương xưa còn lại 

Soi mình rồi, trang điểm dùm ” người dân ” 

Chải chuốt thêm chân lý, xua ngang trái 

Mới vinh quang, không sai sót, lỡ lầm …

 

Bốn mươi mấy năm, trên đường tị nạn 

Làm được gì, xin hãy nói anh nghe

Bốn mươi mấy năm, đấu tranh vô hạn 

 Hãy điểm trang ” hoài bão ” đón nhau về …

 

          CAO MỴ NHÂN 

THƯƠNG TÍCH THÁNG 4

 

Em thức khi trời chưa sáng hẳn

Một làn mây mỏng rơi sau nhà

Em thương quỳnh mộng, nên ra cửa

Sương bỗng ùa vô, lạnh thấm da

 

Có bóng người đi ngoài lộ lớn 

Khách quen thể dục bước chân xa

Cả đời vận động, giờ như chán

Chỉ đợi anh từ đâu ghé qua

Ổ quạ trên vòm cây vỡ tổ

Tiếng kêu gọi nắng đổ chan hoà 

Anh chờ quyên hót bên trời cũ 

Bao cánh đại bàng cũng đã tra

 

Em ở hành lang sầu chiến dịch 

Tan hàng huynh đệ mất sơn hà

Tháng tư bi thảm đầy thương tích 

Một phút lòng chùng hát quốc ca…

 

      CAO MỴ NHÂN 

XÉ LỊCH THÁNG TƯ.    

Này là ngày tháng cô đơn

Tháng tư cùng với nỗi buồn phục sinh

Xưa anh thắp lửa biên đình

Đốt tan hoang những u tình chiến tranh

Núi mùa xuân thắm rừng xanh

Mầu chinh yên vẫn nhuộm thành quách tươi

Mai vàng bát ngát nắng phơi

Ngắt bông ” bạch tuyết ” tuyệt vời tặng em

Bỗng bầy dã thú cuồng điên

Từ phương bắc đến bôi đen sử vàng

Tháng tư lịch rớt ngàn trang

Còn trong anh nỗi uất tràn phút giây

Bom rơi, đạn nổ đó đây

Tháng tư tử hận từ ngày ba mươi

Bốn mươi bảy năm xa khơi

Ngó về cố tổ,  lệ rơi vạn trùng …

          CAO MỴ NHÂN 

ĐÀ NẴNG XA MỜ.     

 Vầng trăng đó to quá, tròn vành vạnh, mầu vàng rực rỡ, mọc ở bên sông Hàn Đà Nẵng . 

Trăng 16 nên không chê được, từ sắc diện đến dáng hình , cứ lồ lộ giữa không gian, vào cuối mùa xuân, nên trời mây quang đãng . 

Nhìn lên trời chỉ thấy một mầu xanh biếc, cùng rải rác vài ánh sao …

Trăng lên đã đứng đối diện mặt sông, lòng sông sáng rỡ như …ban ngày . 

Xe chúng tôi đã rời cư xá Trưng Nữ Vương ra đường, chạy tới đường bờ sông, nên phải ngang qua cổ viện Chàm, trường Trung học Sao Mai, và nhất là ngang qua một cây đa xà, cũng lớn dưới vầng trăng đang sáng tỏ trên trời . 

Đó là hình ảnh những đêm trăng tròn nơi thành phố mà tôi đã trưởng thành ở đấy: Tourane, hay Đà Nẵng .

Tuy trước 30 – 4 – 1975, quê hương đang chìm trong khói lửa chiến tranh, đại tộc KaKi đang luôn luôn đặt trong tình trạng báo động . ..giặc giã lộng hành . 

Nhưng xe đã đậu lại bên đường, nhập vào đoàn xe của các gia đình quân nhân khác, đậu thành hàng dài sát lề đường, để hóng gió mát bên sông, và ngắm trăng rực rỡ. 

Chúng tôi chơi ở bờ sông trước Toà Thị Chính. 

Khách đi câu giải trí , cũng đã tề tựu đông đủ bạn làng câu . 

Bạn làng câu có khi đi câu một mình, có khi đi cùng gia đình, vì đó là một hình thức thư giãn cuối tuần, chứ chẳng phải vì lợi lộc vài ba con cá . 

Gần toà thị chính là dãy khách sạn lớn từ thời tây để lại , nên cuốn hút du khách ngoại quốc  .

Vì nơi đó có phòng ăn lớn, nên du khách ăn ở tại chỗ, sáng đón mặt trời lên, chiều ngó mặt trời lặn trên dòng sông Hàn êm ả , thơ mộng . 

Nếu người vốn trữ tình, lãng mạn …thì Đà Nẵng là nơi đáp ứng đầy đủ không gian mát mẻ, đến phương tiện sinh hoạt dư dả nhất miền Trung . 

Thời quân đồng minh còn hiện diện ở miền Nam, Đà Nẵng được kể là thành phố lớn thứ 2 sau đô thành Saigon Chợ lớn .  

Không phải tôi trưởng thành ở miền địa đầu giới tuyến, mà ca tụng Đà Nẵng là một thành phố chiến lược  căn bản, đến nỗi nó, Đà Nẵng hơn hẳn Cam Ranh, và hơn cả Hải phòng sau này . 

Lý do : Đà Nẵng có sân bay cấp Quốc tế, có hải cảng cũng cấp Quốc tế, là nơi giao lưu đường bộ giữa Bắc Nam và có thể cả 2 nước  láng giềng phía tây là Laos và Campuchia . 

Xem như Đà Nẵng là một cửa ngõ,  có thể tiến sâu vào Đông Nam Châu Á.

Vì thế,  sau cuộc đổi đời, Bên Cướp Cuộc đã mở rộng đường số 9, từ Đông Hà sang tới Savanakhet Nam Lào . 

Chưa kể thời chiến tranh của riêng đất nước Lào , một số dân chúng Lào đã vượt Trường Sơn, qua tới núi rừng Tiên Phước  thuộc Quảng Tín, cách Đà Nẵng # 60 Km . 

Trở lại hình thái đất đai, Đà Nẵng có nhiều danh lam thắng cảnh  tự nhiên, không cần tô vẽ thêm . 

Trên nửa lố cửa biển, tính từ chân đèo Hải Vân vô thành phố , rồi ra căn cứ vùng 1 duyên hải , theo thứ tự là Nam Ô, Thanh Bình. 

Qua sông Hàn, rẽ tay phải, tính từ Non Nước, đi về Mỹ Thị , Mỹ Khê, Sơn Trà và cửa biển danh tiếng Tiên Sa. 

Sơn Trà nguyên xưa, dân chúng nói là Sơn Chà, vì người Chà  nuôi bò, nuôi dê ở chân rặng núi ” ấm áp ” đó. 

Tiên Sa, bờ biển quân sự, nơi đây là hải phận của Vùng I Duyên Hải, thuộc QĐI/QKI. 

Nay Bên Cướp Cuộc đã bắc qua sông Hàn gần chục cây cầu, từ Trẹm, cửa sông Hàn ngược về Cẩm Lệ, để ” lười biếng ” sự việc quá giang, cho là tiết kiệm thời gian nếu đi từ thành phố Đà Nẵng qua bán đảo Sơn Trà, vô biển Tiên Sa, bờ biển đẹp đúng với danh xưng của nó, và đi các bờ biển nêu trên. 

Nhưng hiện tượng một chục cây cầu đè lên dòng sông, thì quả là mất đi bao nhiêu tính chất thơ mộng của dòng sông lẫn thành phố vốn yêu kiều, hiếu khách. 

Khách làng câu có mặt khắp nơi , không chỉ dừng lại ở bờ sông Đà Nẵng , mà bay nhẩy tới các bờ biển nêu trên , có đi xa nhất là Nam Ô , Non Nước , hay Tiên Sa , vẫn có thể trở về trong vài tiếng đồng hồ . 

Tôi xa Đà Nẵng kể từ 29/3/1975 , nơi tôi đã quen thuộc từng …tấc đất địa phương,  kể từ những thói quen dân dã, tới những mơ ước riêng tư ở thành phố này .

Nếu tôi đã có một quê hương nào đó,  rất mơ hồ trong ký ức , thì Đà Nẵng là quê hương thứ  hai rõ nét nhất, và rất hiện thực trên hành trình cuộc đời tôi …

Thế mà có đâu ngờ tôi bị mất luôn cái quê hương đằm thắm, thiết tha, cũng là nơi tạo cho tôi những điều kiện dễ dàng để lập thân trong binh nghiệp. 

Tôi đã phải rời thành phố Đà Nẵng trước khi nó bị tan hoang, buổi sáng ngày 29 -3 – 1975, Hạm trưởng và thuỷ thủ đoàn lên boong tầu chào cờ mà họ gọi là ” Vĩnh biệt Đà Nẵng “.

Tầu đó là của Phi Luật Tân chở 3000 ngàn nhân viên sở Mỹ và gia đình họ, đi di tản qua Philippine, khởi hành từ Tiên Sa đêm 27 -3 – 1975, tôi được theo tầu tới Saigon, xin xuống bến Khánh Hội vì còn dở dang việc nhà. 

Ngay khi rời tầu, phần hành trách nhiệm trên tầu, đã thông báo tình hình VN trước, là sẽ khó có phương tiện ra đi nay mai…

Thế nhưng tôi vẫn cứ xuống bến Saigon, để rồi 16 năm sau tôi mới tới được bến bờ Tự Do, là qua Hoa Kỳ theo diện tị nạn, gọi vui vẻ là chương trình HO. 

43 năm trôi qua, hay sắp nửa thế kỷ, những đám mây lạnh thường bay nhàu nát trên bầu trời buồn bã, nhưng tôi chưa khi nào muốn về lại nơi mình tình cờ giã biệt, Đà Nẵng u hoài của tôi, thành phố duy nhất ở VN có biển nhiều hơn sông . Bây giờ tôi cũng đang ở một thành phố mà cũng có nhiều biển, nhưng không có dòng sông nào từ trời rớt xuống.

Vì biển tây Hoa Kỳ này kéo dài từ Alaska xuống tới San Diego, chặn cả một phần thành luỹ sóng nước trùng khơi, thì cần chi sông với rạch…

 Ôi, bên kia Thái Bình Dương …là Đà Nẵng xa vời yêu dấu đấy … 

                CAO MỴ NHÂN 

ÁNH SỬ VÀNG. – CAO MỴ NHÂN

*

 Tại sao tôi thích mầu vàng

Bốn mùa không đổi sắc hoàng kim xưa

Cho dù sáng nắng, chiều mưa

Cờ vàng tôi vẫn treo, chưa hề rời 

*

Mai vàng rực rỡ dưới trời

 Mây thong dong trắng tuyệt vời không gian

Đêm về ngắm bóng trăng tan

Như vô cùng tận ánh vàng đèn chong

Chứa chan hoa nở vàng đông

Còn nguyên bóng dáng chờ trông hình về

Kinh thành quyên thả lời thề

Từ đi, hoàng hạc trọn bề phò vua

*

 Lửa vàng đốt cháy hơn thua

Trong cơn bão loạn quân vừa tiến xa

Vinh quang trở lại quê nhà

Lá cờ vàng khắp sơn hà tung bay… 

*

CAO MỴ NHÂN (HNPD)

LY RƯỢU TRÊN TAY.     CAO MỴ NHÂN 

Từ ngày lập quốc tị nạn Bolsa, mà thủa mồ ma Tông Tông …tôi, ông có dịp từ đông bắc Mỹ rong ruổi hành phương tây nam Hoa Kỳ, để cũng gọi là thăm …dân, chứ chẳng lẽ biệt vô âm tín, thì bạc bẽo quá . 

Bấy giờ tôi còn kẹt ở VN xa xôi, buồn phiền, một người bạn thơ xưa, từ thủa còn đi học gởi về Saigon cho tôi tấm hình, anh ta mặc đồ lớn, cravat tiệp với bộ đồ suit đó, đặc biệt là ngồi cùng bàn với Tông Tông …tôi, mỗi người cầm một ly rượu trên tay.

Tất nhiên, Tông Tông … tôi cũng mặc đồ lớn như vậy . Người bạn cười có vẻ …hãnh diện một chút, nghĩ cho cùng thì nếu không …sập tiệm  30-4-1975, còn lâu mới có cảnh gặp gỡ  thân tình ấy. Tấm hình chỉ có 2 người, tôi hiện giữ đây, chụp ở ngay thủ đô tị nạn Bolsa. 

Mấy năm sau qua tới nơi, tôi hỏi bạn rằng sao vua quan dân dã quá nhỉ? 

Bạn cười : ở đây là một nước dân chủ, tự do, lại thực dụng nữa, chẳng những Tông tông VN lưu vong, mà Tổng thống Hoa Kỳ ngời ngợi kia kìa, nếu có dịp ông đứng gần mình, mình cũng mời được ông chụp hình với mình, chả khó khăn gì . 

Nhưng mới tái định cư, mải lo ra nhiều thứ chuyện quá, tôi không chạy theo được các hội hè đình đám, để có cơ hội  diện kiến quý vị tai to mặt lớn, những yếu nhân, đại gia, không phải chỉ tiền mà còn tiếng tăm nữa chứ …

Người bạn Văn nghệ của tôi, vốn xưa trước 1975, anh ta chủ trương phản chiến vì lý do học vấn, chứ không phải vì học thuyết từ bi, nhân đạo … Điều đó tổng thể bạn ta đều đã rõ, nên không cần giải thích . 

Cho nên khi tới xứ sở tự do, anh vẫn lập thân theo đường khoa cử. May mắn cho anh, anh đậu được mấy cái chứng chỉ thiết thực, đủ để đi làm nuôi thân, và nghĩ về một chân trời tươi sáng. 

Trước tiên anh ta có tên trong một tổ chức Cộng đồng , tất nhiên anh ta phải biết mục đích yêu cầu của Cộng đồng ấy. 

Bây giờ ở Mỹ rồi, việc tiến thân cũng chẳng đến nỗi nào, huống chi đi bên cạnh những người Mỹ đa tổ quốc, nhưng vẫn phải nắm bắt tới cái gì,  điều gì gần gũi nhất, mới mau chóng vượt lên. 

Anh đã có tên trong 10 / cả trăm đoàn thể VN lưu vong, ở đoàn thể nào anh cũng mờ mờ nhân ảnh một vai trò chức sắc, khiến chính anh cũng không biết anh nên dừng lại ở ngã tư nào đông đảo người ta nhất . 

Thế rồi, anh bạn đang làm chủ bút một tờ báo giấy chuyên văn, qui tụ toàn những tên tuổi …trầm kha sự nghiệp, tức là viết lách đã trở thành bệnh luôn . 

Nhưng chẳng sao, anh là chủ bút quyết định bài vở , trong hội ái hữu kia, anh là phó chủ tịch ngoại vụ. …vv và .. . vv. 

Anh chẳng cần nhớ ngày xưa cái gì với cái gì, vì thực dụng nên bây giờ phải thế nào  với thế nào mà thôi . 

Thật khổ cho những ai giữ mãi cái ngày xưa trong lòng, là một trở ngại cản đường thời nay đang tiến tới. 

Tông Tông …tôi nói với anh kiểu ngôn ngữ lính, vì ông vốn là tướng cơ mà, song tôi thử diễn tả… cách văn chương với anh rằng : 

” chúng ta chưa kịp yêu người này, đã bỏ ngay người khác, đó là cái cố tật của một số người làm lớn … Thà rằng không là  gì…như anh, anh có làm gì cũng không ai trách …” 

Mình thì chỉ biết làm văn làm báo thôi, ông ấy nói vậy là sao hở Mỵ ? 

Thì tôi cũng có hơn ông gì đâu, cứ xem như tôi chỉ thích làm thơ . 

Anh bạn thi sĩ xưa chợt mỉm cười: 

À, ông còn nói câu này: ” các anh biết không, qua đây có một sự đảo lộn đẹp mắt, những người làm văn xưa, thì ngồi luận binh pháp, tưởng như đã trưởng thành trong khói lửa đao binh . 

Thì hay chứ sao. 

Còn những chàng trai trấn thủ lưu đồn xưa, thì trở thành các nhà văn chuyên nghiệp .

Ô, thế thì lại càng hay chứ sao, để cho quý vị thấy là không có cái gì người này làm được mà người kia không làm được. Chỉ không có thì giờ và không học hỏi thôi. 

Thế cho nên ở thủ đô ta nói riêng, và ở khắp nơi trên thế giới nói chung, người Việt tị nạn đã không thua gì các danh nhân thế giới, ấy là ai cũng phải trang bị cho mình ít nhất vài ba nghề nghiệp để phòng thân khi cần thiết đấy. 

Tôi không hiểu bạn định nói gì ? 

Tôi đọc trên ” mạng ” kia, bắt gặp một danh tính trên đầu bài viết như đùa, thế này này: 

” bài của nữ thi ca nhạc hoạ điêu khắc gia vũ sư Bội Thất Đa Huyền ” 

Thật không bạn ? 

Người bạn thi sĩ xưa thốt, không dám xài chữ nói nữa, vì bạn đó đang có vẻ hầm, bạn mở toạch toạch cái IPad của tôi, bắt tôi phải đọc cái bài bất hủ đó . 

Tôi đưa cho bạn đọc lại, tức khắc bạn cười hô hố lên, rồi tội nghiệp là bạn tôi không phải phụ nữ, nên sẵn lòng tha thứ kẻ cầu danh, bạn tôi nói: 

” Nhỏ này được lắm ạ, cô chưa cổ lai hy, nên chưa biết mùi ốt dột, đợi lúc đã vô bảy chục, mới biết mắc cở như thế nào …” 

Thế cô ta biết tất cả những thứ ghi trên, nếu quả tình có được như vậy, bỗng biến sạch, cô sẽ tiếc là biết thế cô không ghi gì cả, những điều có phần nào, sẽ giống như nước lũ chảy về khơi …

Tôi cảm thấy giận tôi lúc này, là tôi đã làm phiền một người bạn khác, chắc bây giờ ông ta đang ở trong trạng thái tâm hồn…tôi, là thù ghét tất cả những gì đa quá . 

Chúng ta đã đi xa Tông Tông …tôi trong tấm hình rồi , hôm đó, tôi còn ở VN, tôi phục bạn quá, bạn chụp hình với Tông Tông chúng ta, lời cuối ông Uno ấy nói với bạn thế nào, ở đâu ( trong tấm hình). 

Ông ấy nói vầy nè: tôi tôn trọng anh chị em văn nghệ sĩ, báo chí lắm, anh là thi sĩ thì làm thơ đi, làm sao có một trường thi bất hủ, ghi nhận cái thảm cảnh trên biển khi một phần dân tộc phải đông tiến . 

Thực ra ai cũng cho là dễ, nhưng bạn ơi …khó vô cùng, vì những người trong cảnh khổ đó thì không tập trung được, mà những người có khả năng viết lách thì lại ngại tập trung, ngòi bút phải được tự do bay nhẩy , thôi chỉ cần ngó ảnh ông, tưởng nhớ một thời xưa đã là quá khứ,  cho có tình có nghĩa đồng bào …lưu vong với nhau được rồi …

            CAO MỴ NHÂN 

Để đọc trang kế tiếp trong tác phẩm “Đêm Hoa Đăng”, xin vui lòng di chuyển mouse xuống dưới trang, phía bên trái và click vào đầu mũi tên.

Dem-Hoa-Dang

QUÊ HƯƠNG

 ( Hồi ức về 30 tháng Tư 1975 )

Quê Hương ngỡ quên từ lâu ,

Nào ngờ nhớ lại vẫn sầu như xưa .

Nỗi đau ngày ấy Tháng Tư ,

Lá cờ Máu đỏ treo to  trước thềm !

Búa liềm cắt cổ dân đen ,

“ Nhà ta nó ở ,vợ ta nó sài “* 

Con ta nó cứ việc sai 

Thân ta tù tội không ngày hẹn ra .

 Ngày ngày khoai sắn bo bo ,

Vài kí gạo mốc …

bọ bò ra kinh hồn !

Con cái không được đến trường ,

Đành thôi chỉ có con đường Vượt biên …

Vượt biên,  nghe đã rất quen 

Rỉ tai nhau quyết một phen sống còn .

 Không tin mở Net mà xem …

Người thân cũng lắm người quen cũng nhiều .

Thân vùi nơi biển, trớ trêu

Quê Hương ơi ! biết bao điều đắng cay .

 Nay thì xin nhớ lấy ngày ,

Cái ngày mất nước, đọa đầy NHỚ Chưa ?!

THƯ KHANH – Seattle 3/ 26/ 2022 

 Nhớ Ngày 30 tháng Tư Đen

 *Cộng Sản vào Chủ trương với Quân Đội VNCH

 “ Nhà Nó ta ở – Con Nó ta sai – Vợ Nó ta Sài. Thân Nó tống cho đi  Cải Tạo mút mùa !!”

Bạn còn nhớ hay quên ??!!

THƯ KHANH

* Viết để tưởng niệm 47 năm ngày “Mất Nước”: (30/4/1975 – 30/4/2022)

                         THÁNG   TƯ   LẠI   VỀ

Tưởng rằng theo với tháng năm

Nỗi đau “Mất Nước” sẽ dần phôi pha

Tàn đêm mưa có nhạt nhòa

Cũng không xóa được trong ta nỗi buồn

Tháng Tư tang tóc đau thương

Tháng Tư ướt đẫm lệ tuôn lòng người

Bốn bảy năm một giòng đời

Quay nhìn trở lại xót đời lưu vong…

Vươn tay cố níu hư không

Của người lính trận sa trường bị thương

Nỗi đau xác thịt sự thường

Nỗi đau “Nước Mất” gậm mòn tim gan

                                Hoàng Mai Nhất

SAIGON  THÁNG  TƯ 

             Tullip nở mùa xuân ngoài cánh cửa

             Đổi giờ rồi đang bước vào xuân

             Tháng Tư lòng thấy bâng khuâng

             Tháng Tư năm ấy xe tăng vào thành

             Saigon đã mất yên lành

             Nước, nhà đổi chủ, các anh vào tù

             Saigon sống với lũ ngu

             Chế độ tem phiếu chẳng bù chừa ai

             Hợp Tác Xả thì lai rai

             Thu gom “quý phẩm” * về ngay “Hà thành” *

             Saigon chớp mắt tan tành

             Dân liều vượt biển, thoát nhanh đường rừng

             Saigon đau đớn tận cùng

             Tháng Tư gợi nhớ không ngừng dẫu Xuân

                                  Hoàng Mai Nhất

* Quý phẩm: đồ vật quý của dân Saigon.

* Hà Thành: Hà Nội. Ám chỉ cs chở đồ quý ở Saigon ra Hà Nội.

THƯ  TỪ  VIỆT  BẮC  **

Đánh đấm làm sao lại thế này

Chiến hào còn đấy, quân bám trận

Tướng, Tá đâu rồi cuộc thế tan!!!

Lệnh đâu đưa xuống _ôi oan nghiệt:

“Ai đâu ở đó chờ bàn giao”

Ngỡ ngàng_đau đớn_trào uất hận

Buông súng lặng nhìn “lũ ba mươi” *

Hống hách giở trò mồm hù dọa

Chiến sĩ kiêu hùng mới vừa đây…

Saigon thê thảm trưa ngày ấy

“Nước” đã mất rồi “tháng Tư” ơi!

Cộng Sản tràn vào…người trốn chạy

Nháo nhào hỗn loạn biết về đâ

Dân, Quân, Tướng, Tá chung một rọ

Cả nước chia nhau một chữ “tù”

Núi rừng Việt Bắc thâm u lắm

Chẳng thấy mặt trời chỉ thấy mây

Hàng hàng lớp lớp mây giăng đậm

Phủ cả đường đi nghẽn lối về

Nhiều khi muốn gởi theo làn gió

Nương áng mây trời những nhớ thương

Nhắn người xưa ở phương Nam ấy

Anh đã làm em khổ lụy đầy…

Thôi thì hãy gắng nuôi con trẻ

Đừng hổ mặt cha “lính Cộng Hòa“

Anh dẫu rừng sâu nơi đày ải

Đói lạnh triền miên chịu cực hình

Vẫn không vì vậy mà cúi mặt

Để nhục một đời người chiến binh

Vào sinh ra tử nơi hiểm địa

Gìn giữ quê hương chặn giặc thù

                          ……………

Thư ngắn_tình dài…ngôn bất tận

Em nhé! Ngày mai nắng chan hòa

                            Hoàng Mai Nhất

*”lũ ba mươi”: ám chỉ bọn cơ hội, xu thời nhào ra nịnh bợ bọn cộng sản khi chúng tiến vào cưỡng chiếm Saigon trong ngày 30/4/75.Chính bọn này đã tự đeo băng đỏ, cầm súng,chỉ điểm và dẫn cộng sản đi lùng sụt, bắt bớ các anh em Quân, Cán, Chính VNCH đang lẩn tránh để lập công với chúng.

** Thư Từ Việt Bắc: trích trong thi tập “Chút Đời Còn Lại Trong Thơ” của Hoàng Mai Nhất.

THƠ ĐƯỜNG XƯỚNG HỌA

THÁNG TƯ HOÀI NIỆM

(Xướng)

Liên tưởng cà phê khói hiển linh

Nền vàng sọc đỏ, lá cờ mình

Tan hàng bỏ nước nhiều cay đắng

Rã ngũ ly hương lắm nhục vinh

Nhớ bạn liều thân tròn nghĩa khí

Thương người sá mạng vẹn ân tình

Tháng Tư hoài niệm ngày tang tóc

Còn mất ai ơi, chuyện tử sinh!

*

DUY ANH 04/01/2022

CÁC BÀI HỌA:

MỘT KIẾP LƯU VONG

Hai vai chứng giám quỷ/thần linh,
Đầu bạc trơ vơ lũ chúng mình!
Nước mất còn đâu thời lẫm liệt,
Nhà tan… chi nữa thuở quang vinh!
Lưu vong miễn giữ tròn danh/tiết,
Tị nạn ở cho vẹn nghĩa/tình.
47 năm dài ôm gối mộng,
Đành sao ôi một kiếp phù sinh?!


Tháng tư đen 2022
HỒ CÔNG TÂM

Tháng Tư Mùa Quốc Hận 

*
Cờ vàng ảo giác khói lung linh

Buổi sáng cà phê uống một mình

Dẫu biết lòng sầu dâng nếm nhục

 Nhưng còn dạ nhớ ngập đầy vinh 

Đồng môn bấy thủa đời chân thực 

Bạn hữu bao khi sống nghĩa tình

“Lực bất tòng tâm” đầu muối bạc 

Ngày buồn tháng hận chuyện hồi sinh 

  Minh Thuý Thành Nội  – Tháng 4/1/2022

BÓNG CỜ TRONG TIM

*

Sọc Đỏ trên Vàng quyện ánh linh

Cờ bay khắp chốn, nhớ riêng mình

Bâng khuâng nhìn lại đời vong quốc 

Dào dạt mơ về thuở hiển vinh

Giọt lệ quý thương người trọn nghĩa

Câu thơ trân kính kẻ chân tình

Hồn thiêng sông núi cầu gia hộ

Cho nước non nhà phúc tái sinh

Phương Hoa – APR 1st 2022

ÔI THẤNG TƯ ĐEN
           (Hoạ 4 vần)

Tháng Tư ngày đó lắm anh linh…

Lính Việt cờ Nam đã bỏ mình.
Vì nước không hàng thân nhục nhã,  
Thương nhà phải giữ thế phồn vinh.
Tướng hùng tuẫn tiết hoài linh khí,
Binh dũng hy sinh trọng nghĩa tình.
Dân chúng đau thương liều tỵ nạn…
Nước non từ đấy quá điêu linh !

*
    Liêu Xuyên (Ngày 01/4/2022)

Thang-Tu-Bung-Ky-Uc

Những Chuyện Tình Sau Tháng Tư Đen

Minh Thúy 

          Mỗi buổi sáng dậy đi bộ phơi nắng sau vườn, ngắm hoa cỏ tốt tươi, trời trong xanh dịu mát, tôi luôn ý thức “hôm nay mình còn mở mắt, còn được sống thêm ngày nữa để ngắm cảnh đẹp của thiên nhiên, hãy tận hưởng những giây phút thảnh thơi nhàn hạ đầy an lạc và hạnh phúc này. Nhưng từ khi xé tờ lịch qua tháng tư, tim tôi thấy bồi hồi, xáo trộn những suy nghĩ mông lung, ký ức trở về miên man biết bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu câu chuyện ngày ấy, rõ in trong đầu như mới vừa xảy ra đâu đây ….

            Tháng 3 người dân Quảng Trị ồ ạt chạy vào Huế, nhà nào hầu như cũng có người quen hoặc bà con đến ở. Rồi người dân Huế lo sợ, hoang mang, mẹ tôi ngày nào cũng thu dọn đồ đạt gọn gàng, chờ có động tĩnh là đi thôi. Dân Quảng Trị tạm cư chưa nóng đất, lại cùng dân Huế tìm đường chạy tiếp. Gia đình nào có chút tiền hùn nhau thuê xe tải. Hình ảnh không bao giờ phai mờ trong tâm trí khi mẹ và chị em tôi ngồi trên xe tải, lúc lên đèo Hải Vân (từ Huế vào Đà Nẵng 100 km), chứng kiến dòng người đi bộ, vợ ẵm con nhỏ, chồng vác đồ đạc, hoặc đàn ông gánh mẹ một đầu gióng, con thơ một đầu gióng. Lúc ấy kẹt xe kinh khủng, đoàn người cắm cúi bước về phía trước như cái xác không hồn, sợ hãi VC quyết thoát đến miền tự do để được sống thanh bình, đúng như người dân thường nói sau 75 “Cái cột điện nếu biết đi cũng đã bỏ nước ra đi”.

            Vào ở nhà bà con vùng Phước Tường, khu dân cư ngay trước mặt căn cứ của Mỹ, mỗi đêm VC pháo kích nhiều lần trúng những nhà chung quanh, 3 mẹ con sợ hãi nửa đêm chạy tiếp đến thành phố Đà Nẵng sống nhờ nhà bạn mẹ gần ga tàu. Khi VC vào tới Đà Nẵng, chị tôi gào khóc lóc vì nghĩ sẽ không còn gặp người anh đang làm việc tại Bạc Liêu. Mẹ tôi mặt mày tái xanh, đôi mắt trũng sâu quầng thâm vì mất ngủ. Sáng hôm sau mẹ gọi tôi ra góc sân, móc tiền đưa với nét mặt bơ phờ” con tìm quán nào gọi món ngon ăn cho no, rồi tới tiệm thuốc Tây mua 3 ống thuốc rầy về mẹ con mình cùng uống, mẹ đã từng sống với bọn họ rồi, ông nội có tên trong danh sách đấu tố, may trốn thoát được vào Nam, sống không nỗi với họ đâu con ơi” …nói xong nước mắt bà chảy dài. Tôi xót xa đứt từng đoạn ruột nhưng không làm theo lời mẹ dặn. Gặp lúc VC mượn sân nhà để lập bàn ngồi đó, vài người lăm le chĩa súng những người trong nhà bắt ra ngồi tập trung ngoài sân, chúng tôi chưa hiểu chuyện gì thì thấy bao nhiêu đàn ông đang đi bộ, hoặc các xe Honda đang chạy ngoài đường đều bị thổi còi bắt tấp vào. Mấy cán bộ ngồi nơi bàn hỏi từng người khai báo lý lịch, xong họ lại đuổi chúng tôi vào nhà có 2 kẻ cầm súng đi theo canh chừng, nhường chỗ cho những người đàn ông tập trung nơi đó. Chiều gần tối mấy chiếc xe bít bùng đến chở họ đi đâu không biết, tôi đoán lờ mờ họ đã bị bắt, nhìn theo kẻ thua cuộc muốn ứa nước mắt.

            Trở về Huế là những ngày ảm đạm như để tang cho đất nước, bà con sống trong phập phồng lo sợ. Mỗi đêm họ bắt họp tổ đốc thúc mọi nhà đi kinh tế mới, từ từ mỗi tuần cưỡng bách vài gia đình có tên trong danh sách. Đầu xóm nhà cấp tá của QLVNCH bị tịch thu, vợ con chạy về quê ngoại tá túc. Liên (bạn tôi) được cha mẹ giao căn nhà nơi Huế vì cha đổi vào làm việc trong Đà Nẵng và ở khu nhà trong cư xá Đoàn Kết. Lúc học bên Văn Khoa thuộc  ban sử địa, bạn được hội sinh viên bầu làm thủ quỹ, họp hành tổ chức những công tác thiện nguyện, có tên là “ Nối vòng tay lớn “, họ thường hay mượn tiền Liên chi tiêu những công việc chung khi quỹ đã cạn. Anh Sinh học năm thứ tư quý mến thương yêu Liên, Liên cũng có cảm tình và cảm nhận hạnh phúc khi sinh hoạt những tổ chức cùng anh có ý nghĩa như vậy. Sau ngày 30/4  ủy ban thành phố có giấy mời Liên qua nói chuyện, ông cán bộ hỏi “ cha cô là Nguỵ tại sao cô lại đi ngược con đường của cha? Liên uất ức tức giận, nhóm sinh viên đã lộ diện của phe bên kia. Cha tù tội nơi đâu không nghe tin tức, nhà bị tịch thu, mỗi lần anh Sinh đến nhà ông nội thăm đều bị Liên hét vào mặt “ đồ lừa gạt” và đuổi thẳng tay, từ đó chỉ còn là sự ghét bỏ hận thù.

               Mai (bạn hàng xóm) có người yêu bị tù “cải tạo” vượt núi trèo đèo đi thăm, chỉ biết nhìn anh khóc, anh nhét lá thư viết tự khi nào, Mai sung sướng về nhà đọc tới thuộc lòng, đọc từng ngày như uống thuốc an thần chống chõi nỗi nhớ nhung đày đọa. Một hôm Mai vô ý để lá thư đâu đó chưa kịp cất, em gái 2 tuổi cầm được xé chơi nhiều mảnh, Mai hoảng hốt gom hết chạy tới nhà tôi nhờ chép lại sau khi các mảnh được dán chồng chéo. 

–  Lá thư sao chép cũng đã mất linh hồn của nó rồi, chỉ còn là cái xác nhưng vẫn muốn nhờ mi chép lại

Mai nói như muốn khóc, tôi nghĩ “răng mà gái Huế lãng mạn như rứa không biết”. Hoàn cảnh gia đình Mai quá nghèo, mẹ sinh chỉ một em trai, còn lại là 11 chị em gái, ba thất nghiệp buồn thời cuộc uống rượu đế giải sầu, trong cơn say thường nói “ con gái đông đề mạ bây buôn thúng bán mẹt nuôi hoài sao, kiếm chồng lấy hết đi cho rảnh nợ…” điệp khúc ngày nào cũng lập đi lập lại như cái gai trước mắt ông. Đúng lúc anh Dũng xuất hiện, nhà anh khá giả có xe đò chạy đường xa, anh trai làm tài xế và anh Dũng làm “ lơ” xe, anh quen ba Mai đến nhà chơi thường tiếp tế thực phẩm, lúc gạo, khi chè cháo hoặc bánh mì..v..v..Giai đoạn này nhà ai cũng đói rách tả tơi, nhà tôi mỗi trưa dùng miếng bột mì hấp muối, chiều ăn bo bo hầm, thỉnh thoảng có cơm độn khoai sắn, chờ nhai hết khoai sắn để ăn rau muống luộc kèm vào thì chỉ còn đúng một và cơm. Nhà Mai càng thê thảm hơn nữa mỗi lần tôi qua chơi, nồi cơm độn được chia mỗi người một chén chan nước mắm ăn cầm hơi, cho nên anh Dũng như vị cứu tinh, anh đang để mắt tới Mai nên càng bị sự thúc ép. Người yêu biết ngày nào trở về, có thương có nhớ biết làm sao trong hoàn cảnh này. Mai nhắm mắt, những giọt nước mắt lặng lẽ rơi dài” hết rồi mi ơi…bao nhiêu sự hiểu biết, bao nhiêu câu thơ từ đây chôn chặt dưới ba tấc đất…” Mai thốt ra trong nghẹn ngào, tôi chỉ biết tế nhị im lặng vì hiểu rõ 2 người là 2 tầng lớp chênh lệch xa, Mai sống với thơ văn mơ mộng, còn anh Dũng lại thô lỗ ít học, nói chuyện trần trụi hay kèm tiếng chưởi thề nói tục” đời buồn tênh như lỡ một cung đàn ….”Sau này nghe kể thỉnh thoảng anh còn dùng “ thượng cẳng chân, hạ cẳng tay”. Mai chỉ biết hướng về âm nhạc cho vơi bớt niềm tục khi ngồi ôm con ru ngủ, mơ màng về hình ảnh người lính chiến VNCH đang bị tù tội, len lén những giọt nước mắt nóng hổi tuôn trào ngậm ngùi 

“Người ơi, có những chiều xuân én bay xôn xao

Mong bóng ai kia hoàng hôn chìm dần trên phím tơ

Thu đến bơ vơ, Đông qua ngỡ ngàng, rồi Hè lại buồn sang

Có nhớ thương nhau xin đưa vào trong mơ…” (Lam Phương)

            Sau 75, có số chán nản chẳng muốn học tiếp vì không thích bị những ông thầy “ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản “chưởi cha ông và chế độ cũ,” hoặc đang học bị tống khứ vì lý lịch xấu. Thanh niên thiếu nữ bị hốt đi lao động, nhất là thanh niên thường bị đi rà mìn, đi Thuỷ Lợi, tôi cũng bị lên Bình Điền trồng khoai canh tác theo kế hoạch của họ, mỗi gia đình phải đóng góp tiền, khi có khoai đem về chia đều mọi nhà.Tả về sự đói khát thèm muốn thì ai cũng trải, suốt ngày chỉ mơ ly chè ngọt, mơ cục mỡ trong nồi bún bò, khi nhìn dưới gầm giường đống khoai lang mà muốn khóc vì ăn suốt ngày ớn lên tận cổ, biết như vậy mới thấu hiểu cái khổ, cái đói gấp 10 lần trong tù cải tạo các anh đã gánh chịu.

            Chuyện chị bạn khác tên Liễu ở trong Cầu Kho, trước 75 tôi thân Tuý Loan học chung lớp, thường hay đạp xe vào nhà bạn chơi, có lần gặp chị Liễu (hàng xóm) đang ngồi nhà Loan, chúng tôi quen nhau. Chị Liễu có vẻ hạp 2 đứa sau vài lần nói chuyện, riêng tôi rất mê lối nói chuyện của chị lãng mạn và sâu sắc. Chị thường điểm những phim ảnh nổi tiếng thời ấy như Những Kẻ Khốn Cùng, Kiều Giang, Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà, Công Chúa Sissi ..v..v…Chị rủ tới nhà chơi, anh là trung uý tác chiến, tôi chưa hề biết mặt chỉ thấy qua hình ảnh. Tuy đã có 3 mặt con, nhưng chị luôn kể, nhắc nhở về cuộc tình đẹp như mơ…

– Hai em biết không? lúc chị học năm đầu bên Văn Khoa, có 3 thanh niên để ý theo đuổi, nhưng chị chỉ mê anh Quân, chị thích hình ảnh hào hùng của người lính trận ngang dọc, để được mơ” anh đến thăm, áo anh mùi thuốc súng. Ngoài mưa khuya lê thê …” (Nguyễn văn Đông). Có lúc cũng mong một lần anh bị thương để chị được đi thăm theo cảm xúc hạnh phúc lẫn khổ đau. Lấy nhau rồi, anh vẫn đi hành quân chẳng gần chị bao nhiêu, chị sống trong lo âu hồi hộp theo dõi những cuộc chiến gay cấn, chỉ biết cầu nguyện hằng đêm anh được sống sót. Có lần anh trở về nhưng không vào nhà, đứng ngoài mái hiên nhìn lén qua khung cửa sổ trong khi bầu trời mưa đen tối mù mịt, chị ngồi đan áo linh tính điều gì ngẩng mặt nhìn ra phát hiện mừng rỡ vô tả, nhưng anh vẫy tay đưa dấu muốn chị ra ngoài, đừng làm thức giấc các con đang ngon giấc. Cả hai cùng ngồi dưới mái hiên nhìn mưa rơi, ngồi thì thầm nhiều điều. Anh nói vừa nhìn được hình ảnh chị ngồi đan áo, truyền qua anh cảm giác rung động tuyệt vời, và anh chỉ muốn làm kẻ phong sương thầm lặng ghi nhận hình ảnh này. Tụi chị rất mê đi uống cà phê nghe nhạc, nhiều hôm gởi con cho bà ngoại, ngồi trầm ngâm cả tiếng trong quán nhìn mưa rơi thả hồn vào bài hát, chị mê giọng Sĩ Phú, anh mê giọng Lệ Thu và hồn ai nấy giữ…

              Thời gian này sợ bị gọi đi lao động Thuỷ Lợi, Tôi vào Hợp tác xã thêu hàng xuất khẩu để được yên thân và kiếm cơm gạo, thêu ngày đêm không thấy ánh mặt trời muốn loà con mắt , từ đó tôi không hề gặp chị. Khoảng một năm sau, chị tìm tới Hợp tác xã thăm, tôi đang thêu hàng gấp cho kịp nên vừa thêu vừa nói chuyện. Tôi hỏi về anh, nhắc nhở chuyện tình của chị và bày tỏ rất ngưỡng mộ, chị trả lời bình thường” anh vẫn khỏe đang còn “cải tạo”. Tôi hỏi thăm về cuộc sống của chị, chị kể đại khái đang buôn bán nuôi con. Chị ra về, tối trở lại nhà tôi mượn… ít tiền. Chị kể hoàn cảnh con đói, con đau ruột thừa, nhiều lần chị phải bán máu bên bệnh viện Huế, mỗi lần họ lấy máu xong mặt mày chị tối sầm, phải lết ra cổng mua tô cháo lòng và ly chè ăn xong mới tỉnh táo, tôi xót xa thương tâm không ngờ chị khổ đến vậy và không quên gởi chút tiền giúp chị.

Ngày sau Phúc (bạn thêu) ngồi cạnh tự dưng hỏi tôi 

– Thuý quen chị Liễu lâu chưa?

– Lâu rồi trước 75 

Bạn do dự quan sát 

– Sau này Thuý có biết gì thêm về chị ấy không?

Tôi lắc đầu 

– Lâu lắm rồi giờ mới gặp chị, mà sao? 

Bạn kể nhỏ sợ mọi người chung quanh nghe 

            – Thuý biết ba mình đi tù, nhà bị họ lấy phía trước làm trụ sở, cho gia đình ở góc xó phía sau. Mấy tên đàn ông dẫn chị này về, không may một bà vợ biết được gọi công an và đến đánh ghen ầm lên, chị trả lời công an” tôi không cướp chồng ai, tôi chỉ trao đổi mua bán” rồi lầm lũi đi ra giữa hàng người đứng xem. 

Tôi tỏ vẻ không tin cố chống chế dùm chị Liễu, nhưng bạn là người đàng hoàng ít nói, nỗi hoang mang nghi ngờ theo mãi trong đầu nặng trĩu.

            Lần khác chị Yến (bạn chị tôi) ghé nhà chơi gặp lúc nhà bị cúp đèn, khi trời nóng nực của mùa hạ, chị nói chuyện trên trời dưới đất, vô tình cũng kể về chị Liễu “số hắn răng khổ quá, đi làm điếm chui các bãi cỏ tối um nơi khu Thương Bạc, khách chạy làng, cãi vả bị tụi nó đánh bầm mặt, công an bắt về khu phố chụp hình treo bảng” …Tôi bắt đầu run lên, tim thắt lại đau nhói không thể ngờ người phụ nữ thông minh có nhan sắc ngày nào nay phải chịu hoàn cảnh nghiệt ngả tới mức vậy. 

Bẵng thời gian lâu, lúc này tôi đã xin đem khung về nhà thêu. Đang cặm cụi mũi kim đường chỉ, thì Tuý Loan cùng chị Liễu đèo nhau chiếc xe đạp đến nhà tôi. Chị Liễu gởi cái xách tay hơi nặng, nói “giữ dùm chị nghe” rồi lật đật đi, tôi vui vẻ đón nhận và cất trong tủ. Khoảng 20 phút sau 2 người đổi ý trở lại lấy giỏ xách vội vã chào đi. Tôi nhìn theo chị lòng đầy xót xa suy nghĩ thầm “có ai muốn bị hoàn cảnh xô đẩy tới mức này đâu, nhất là với người đàn bà có học, có hiểu biết tận tường đạo lý làm người, có liêm sĩ và lòng tự trọng, em rất thông cảm chẳng xem thường chị đâu.”

Ngày kế Tuý Loan đến nhà tôi một mình, nét mặt có vẻ phân vân như muốn nói điều gì, vẻ nghiêm trang thoáng buồn. Rồi như bạn không thể đè nén được nữa, bạn tuôn ra 

–  tao thì bận rộn theo học ngành hội họa, mi thì vùi đầu với công việc chẳng ai gặp ai, nên có những điều mi không tưởng tượng cuộc sống bên ngoài đau thương tới mức độ nào đâu.

Tôi ngắt lời 

–  thì mi kể ra đi rào trước đón sau mà chi

Loan thở dài chậm rãi

–  mi có biết cuộc đời chị Liễu sau này ra sao không? Chuyện nhỏ chuyện lớn chị đều kể cho tao nghe hết…Bán áo bán quần, bàn đồ đạt hết sạch, nhà lại ở thuê, con đói con bịnh, không còn gì phải đi bán máu. Đặt tủ thuốc trên sân ga bán,10 người bán 4 người mua, có ngày không kiếm đồng nào, nghĩ đến mẹ và con đang chờ đem gạo về nấu cơm chiều, có người ve vãn xa gần, chị nhắm mắt gật đầu theo họ đến chỗ kín đáo bán dâm, rồi ghé chợ mua thức ăn chạy về trong tâm trạng nhục nhã đau buốt. Nhìn các con ngồi ăn chị đã nuốt nước mắt, nuốt nỗi cay đắng vào lòng. Chị thầm mơ ước được may mắn như bao người, có vốn buôn bán kiếm lời hầu thoát khỏi nghiệp số quá nặng nề.

Tôi im lặng ngồi thêu nhưng cảm giác như chết điếng, vậy là đúng sự thật 100% không thể không tin. 

–  con chị bệnh hoài, mẹ lại vừa mất, nghiệp chị nặng quá không thoát khỏi nghề tồi bại đó. Hôm qua chị gởi mi giỏ xách, mi có đoán cái gì trong giỏ không? là khẩu súng của tên công an chị bán dâm, lúc nó ngủ say chị vội lục bóp và lấy luôn khẩu súng trốn về. Chị rủ tao đến gởi nhà mi cất dùm luôn, nhưng đi nửa đường tao la chị 

_ không nên như vậy, Thuý ngây thơ vô tội không hề biết gì cuộc đời về sau của chị, lỡ có chuyện gì thì chị ác quá. Chị bảo tao dừng xe lại, chị rối trí ngồi xụp xuống bên lề đường nói “Thuý luôn đóng khung cuộc tình của chị, nhiều lần chị muốn kể nhưng Thuý cứ nhắc nhở ưa sống lặn hụp trong cái khung quá khứ ấy, vì vậy chị không thể tâm sự điều gì với Thuý, thôi cứ để Thuý giữ hình ảnh đẹp và không nên để nó bị liên lụy…”. Hai chị em ngồi thừ một hồi và quyết định quay lui lấy giỏ xách là vậy đó …”

Tôi thở phào nhẹ nhõm nhưng lòng buồn vô hạn khi Loan nói thêm “chị Liễu suy sụp cả thể xác lẫn tinh thần, chẳng muốn sống nữa, chị nói không còn mặt mũi nhìn chồng, có lẽ lúc anh về chị sẽ giao con và đi biệt xa…”

            Tôi lại bôn ba vào Nam tìm đường vượt biên nên đành xa bạn bè và những mẫu chuyện thương tâm, 5 năm đeo đuổi vào tù ra tội, hình ảnh Huế nhạt nhoà tạm thời cất giữ một góc trong tâm hồn. Qua Mỹ bước đầu cũng mờ mắt cày bừa, từ từ kỷ niệm được sống lại khi có phút thảnh thơi. Tôi liên lạc bà chị nhờ hỏi dò tin tức về chị Liễu để gởi quà, nhưng chị tôi báo tin chị Liễu đã mất vì bệnh cancel gan, hàng xóm chị Liễu cho biết anh đã học tập trở về, dẫn con vào Nam chẳng ai biết ở nơi đâu.

            Những cuộc tình tan vỡ sau tháng tư ngày ấy còn nhiều chung quanh, chuyện chị X có người yêu là lính đi tù tội, bị VC làm nhục uất ức quá treo cổ tự vận chết. Những cặp chia xa vì đa số tìm đường vượt biên, đang yêu nhau ngày mai thấy biệt tích diễn ra đều đều. Tất cả vì 2 chữ Tự Do mạnh mẽ phải buông bỏ tình cảm” Tự do ơi tự do! tôi trả bằng nước mắt. Vì hai chữ Tự Do! ta mang đời lưu vong” (Nam Lộc)

              Chỉ còn trong ký ức, nhất là mỗi tháng tư trở lại, ký ức diễn ra như cuốn phim của định mệnh…Ngày miền Nam mất nước, cuộc sống đảo điên bầm dập, trong đó có những người bạn của tôi buồn theo cuộc tình tan vỡ …

Minh Thúy Thành Nội 

2022

TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN LẦN THỨ 6

GIỮA RỪNG THÁI-LÀO

  • 1981 –

VÕ ĐẠI TÔN

30.4.1981  – Băng rừng trở lại Quê Hương – (Trích hồi ký Tắm Máu Đen, xuất bản tại Úc Châu 1992, tái bản tại Hoa Kỳ 2000).

Hôm nay là ngày tưởng niệm Quốc Hận lần thứ sáu. Tôi và Lộc thức dậy sớm, nhìn từng vệt nắng xuyên qua lá cây rừng, bâng khuâng. Từng vũng nước mưa còn đọng lại từ tối hôm qua, dường như đang mời đám muỗi rừng, sâu bọ kéo đến điểm tâm uống nước. Tôi nói với Lộc độ 10 giờ thầy trò mình sẽ làm lễ Quốc Hận.  

Cách nay 6 năm về trước, khoảng 10 giờ sáng, tướng Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng cộng sản và ra lệnh cho anh em quân nhân chúng tôi đồng loạt bỏ súng, trở thành những kẻ rã ngũ bơ vơ, không lối thoát, đưa nước Việt Nam vào chốn nghèo khổ tận cùng, bị đày đọa dưới một chế độ đảng trị độc tôn, đi thụt lùi hàng nửa thế kỷ trước sự văn minh phát triển của nhân loại. Và hôm nay, chúng tôi phải lạc loài trong khu rừng xa lạ này để mong góp công vào Cách Mạng Phục Quốc !.

Ở đây chúng tôi không có cờ để lập bàn thờ, không có nhang đèn, không có gì cả. Chỉ có những tấm lòng yêu thương Tổ Quốc và tưởng nhớ những người đã nằm xuống vì Lý Tưởng Tự Do. Tôi nói Lộc lục ba lô lấy gói đựng mấy trăm bức Tâm Thư Hải Ngoại, như một loại truyền đơn mà chúng tôi sẽ mang về quê hương, có in hình cờ vàng ba sọc đỏ, do anh Phạm Trúc Việt, ủy viên chính trị của Chí Nguyện Đoàn Hải Ngoại Phục Quốc, gửi qua khi tôi còn ở Bangkok. Thầy trò tôi mặc quân phục, cầm tờ truyền đơn, đi vào rừng sâu, treo lên một cành khô. Bàn thờ Tổ Quốc của chúng tôi đó.

Chúng tôi nghiêm chỉnh làm lễ chào quốc kỳ, mặc niệm, rồi đọc kinh cầu nguyện cho đoạn đường sắp đi và những ngày tháng sắp tới bớt chông gai, gian khổ, để làm tròn nhiệm vụ trở lại quê hương. Sau “buổi lễ” , chúng tôi đứng im lặng, ngậm ngùi. Sáng nay không có gió, lá cây rừng cũng đứng im phăng phắc. Chỉ có tiếng ve kêu như một điệu nhạc buồn, đều đều, u uất. Có lẽ trên toàn thế giới Tự Do hôm nay, đây là lễ tưởng niệm Quốc Hận Việt Nam lạ thường, ngậm ngùi và cô đơn nhất.

Tôi nhớ lại những năm trước, tôi đã chit khăn tang cùng đoàn tuần hành im lặng đi khắp thành phố Sydney ở Úc, trong những lần tưởng niệm 30 tháng 4.

Sau những phút tưởng niệm Quốc Hận cô đơn giữa khu rừng, chúng tôi quây quần ăn trưa với anh em kháng chiến Lào. Chúng tôi ăn cơm với muối mè, cá khô. Có nhiều thiếu niên du kích kháng chiến Lào chỉ độ 15. 16 tuổi, mang nặng ba lô và trang bị súng đạn đầy người. Có chú kháng chiến Lào được biệt phái giúp cơm nước cho chúng tôi, chỉ mới 17 tuổi, mà đã đi theo du kích kháng chiến Lào 6 năm rồi – 17 tuổi đời, 6 tuổi lính !. Chú tên là Prit-na, lúc nào cũng quanh quẩn bên tôi và gọi tôi là “Pho” (cha). Nghỉ trưa xong, tôi và Prit-na đi tắm, nơi một vũng nước vàng khè đầy muỗi mòng, lăng quăng và lá cây mục thối. Nước uống cũng nơi đó, mỗi lần múc lên nấu sôi vẫn còn thấy xác lăng quăng nát nhừ. Ngủ trên sập làm bằng nẹp tre rừng.

Chiều nay, bỗng nhiên tôi nghe đại úy Lào tên là Sisavang bảo lính làm thịt một con gà giò mời chúng tôi ăn, sau khi họp bàn gì đó với anh em trong trung đội dẫn đường. Ăn xong, Sisavang chậm rãi nói bằng tiếng Lào với tôi : – “Prung ní, pay Vietnam” (Ngày mai đi Việt Nam) !.

Nửa khuya, chú bé Prit-na đến chỗ tôi nằm, đòi đi theo. Tôi thương Prit-na như con, lại nghĩ đến vợ con tôi đang sống bơ vơ tại Úc, con trai tôi mới lên 2 tuổi. Vì thấy Prit-na còn nhỏ, tôi lo ngại nhiều gian lao bất trắc sẽ xảy ra, cho nên tôi không cho theo. Chú bé ôm tôi mà khóc. Tôi cũng ứa nước mắt, giữa đêm khuya rừng, Tôi lại nghĩ đến tương lai của thế hệ Trẻ, một trong những mục đích chúng tôi lên đường là để “lót đường” tìm tự do nhân bản cho tuổi trẻ mai sau.

Và… sau ngày Quốc Hận giữa rừng Thái-Lào, chúng tôi lên đường về hướng Hạ Lào (02.5.1981), trở lại quê hương…

Võ Đại Tôn.

NỖI BUỒN THÁNG TƯ

Nỗi buồn xa xứ tưởng nguôi ngoay

Ngờ đâu trở lại Tháng Tư nầy

Buồn vì thân phận người chiến bại     

Bỏ quê hương hải ngoại dung thân

Chưa biết ngày trở về cố quốc.

Tuổi đời nay đang đến cuối đường

Buồn cho ngày  giã từ trần thế

Thân xác thành cát bụi tha hương.

              Hoa Đô, tháng Tư, 2022   

             Trần Công/Lão Mã Sơn

KHÓC TRỜI NAM

*

 Lặng nhìn Quê Mẹ dấu tàn phai

Nhớ mãi Miền Nam lệ chảy dài

Vạn nấm mồ hoang đời cải tạo

Trăm nghìn tàn phế mất tương lai

Chỗ kia bom đạn vùi chôn xác

Nơi nọ điêu tàn thương tiếc ai

“Xáo thịt nồi da”_ sao lại thế ?

Chiến tranh “phi lý”_ đúng hay sai ??

*
MẶC KHÁCH

**

NÉN HƯƠNG CHO NGƯỜI NẰM XUỐNG

Tháng tư khổ nạn đau thương

Miền Nam tơi tả Thiên Đường mù sương

Gió mưa run rẩy lạ thường

Cánh chim hốt hoảng phố phường chìm sâu

*

Lá xanh bỗng chốc héo sầu

Vàng theo tiếng nấc…gót giầy xéo lên

Mừng vui ai hát thâu đêm

Trở cờ đón gió những tên đốn hèn 

*

Thương anh chiến sĩ trung kiên

Máu loang tô thắm khắp miền Quê Hương

Xác thân câm nín bên đường

Lòng dân thương xót, đâu phường múa may ???

*

Nhìn quanh trốn chạy xa bay…

Xác anh nằm đó phơi thây cản đừơng

Trong lòng xin đốt nén hương

Cầu mong siêu thóat Thiên đường thảnh thơi

*

(Tưởng niệm tháng Tư đen)
       MẶC KHÁCH

DẤN THÂN  

*

Xuân lại về ôi Quê Hương yêu dấu

Gửi chút lòng nhỏ bé tình hòai hương

Xuân lại Xuân, vẫn bao đời cùng khổ

Thương dân nghèo bất hạnh sống thê lương

*

Xin cho tôi nghiêng mình lòng thán phục

Gương Anh hùng nhi nữ đang Dấn thân

Chấp nhận hy sinh bước vào tù ngục

Hỡi hồn Sông Núi chứng giám tri ân !

*

Em nữ nhi dáng nhu mì hiền thục

Mà sao chí lớn tựa núi Thái Sơn

Mưa bão cuồng phong chẳng hề nao núng

Sống oai hùng không thẹn với núi sông

*

Thế hệ Em trắng trong, không vấy bẩn

Tâm quang minh phân định luận trí,ngu !

Những kẻ tội đồ “nồi da xáo thịt”

Khắc ghi vào sử liệu mãi nghìn thu

*

Thế hệ trẻ lòng vô tư bất khuất

Không cúi đầu, ô nhục trang sử xanh

Sống hiên ngang chẳng cúi lòn nịnh bợ

Quyết giữ lòng tiếp nối đấng hùng anh

*

Tôi bây giờ vẫn làm thân lữ thứ

Sống thu mình lạc lõng bước lưu vong

Cám ơn em ngọn Hoa đăng dẫn lối

Cùng bao người hào khí giữ non sông

*

Đêm nay…Giao Thừa hồn em có lạnh

Hãy nhìn Trời nghe tiếng vọng không trung

Biết bao người cùng dâng lòng ngưỡng mộ

Sưởi ấm tim em…những lúc lạnh lùng

*

  MẶC KHÁCH

GIÓ ĐÔNG SANG  

*

Tôi đứng lặng nhìn hòang hôn đến

Gió lao xao hờ hững trên cành

Dõi mắt xa xăm mờ sương phủ

Ẩn nấp bên đời nhớ tuổi xanh 

*

Cùng nương đất khách ai pha rượu ?

Sao chiết vào nước mắt đau thương ?

Cho tôi ly rượu đời lữ thứ

Thôi thúc trong lòng ôi ! Quê Hương 

*

Anh có buồn khi gió Đông sang ?

Chua cay gom đủ một đời trai

Hào khí tan tành theo mây khói

Tổ Quốc trong lòng trĩu nặng vai 

*

Rồi một ngày…xác thân tan rã

Trả về nơi cát bụi bẽ bàng

Cõi trần gian vô thường tạm bợ

Tiếng tơ đồng rồi cũng dở dang 

*

Tôi gửi anh chút lòng chia sẻ

Của một thời tuổi trẻ oai phong

Đã bao lần xông pha trận chiến

Cuối đời buồn tủi sống Lưu vong

*
MẶC KHÁCH

MỒ CHÔN TUẤN KIỆT

(Chiến tranh_Ngục tù)  

Áo rách thay hòm chôn xác bạn

Nghìn năm còn mãi lệ xót xa

Lòng dân run sợ hồn ta thán

Gió hú oan hồn tiễn thây ma 

*

Hồn dật dờ nương theo làn gió

Chập chờn bay về cõi hư vô

Rừng âm u cất lời ma quái

Giữa đêm khuya xào xạc đáy mồ 

*

Rừng sâu vùi chôn bao tuấn kiệt

Nơi đọa đày Cải Tạo cùm gông

Họ, những Anh hùng Thế hệ trẻ

Xếp bút nghiên trên dưới đôi mươi

*

 Vì Giang sơn Tổ Quốc Miền Nam

Xông pha trận chiến giữ lòng trung

Giờ vùi thây rừng sâu nước độc

Cho người đào tẩu sống yên vui 

*

Những hình ảnh bi hùng còn mãi

Từng thây người cản bước xâm lăng

Người giàu sang quyền cao chức trọng

Cùng nhau trốn chạy mặc tàn quân 

*

Tôi ước mong trái tim ngưng đập

Cho hồn nhẹ bước muôn nơi

Bay theo mây hòa cùng với gió

Quên, quên đi thống khổ kiếp người !
MẶC KHÁCH
(U.Minh 1981)

MỖI THÁNG TƯ VỀ VÀ NỖI RAY RỨC TRONG LÒNG TÔI!

Ngày nào còn Đảng, chén phở hóa thành…mơ!”

Chúng tôi cưới nhau vừa được hơn 3 năm thì Ngày 30 Tháng Tư ập đến! Đúng nghĩa là Ngày Đau Thương.

Lúc đó tôi vừa 28 tuổi và có hai con. Cháu gái vừa lên hai và cháu trai chừng 5 tháng. Cũng như hàng ngàn, hàng vạn người khác trước đây, đã từng đi lính hoặc làm việc với chính quyền cũ, chồng tôi cũng được gọi đi học tập về chế độ mới. “Chừng 10 ngày thôi!” họ trấn an chúng tôi như vậy. Sau này thì chúng tôi hiểu, họ nói 10 ngày, nhưng là 10 năm!

Nhưng may mắn, chồng tôi chỉ đi học tập cải tạo 9 năm thôi! Tôi đi thăm nuôi được khoảng mươi lần. Mỗi lần đi, tốn khoảng 10 đồng tiền xe, chưa kể tiền mua vật dụng lặt vặt và chuẩn bị thức ăn cho anh, trong khi lương giáo viên của tôi chỉ có 30 đồng một tháng. Thường là tôi mượn tìền của bà con và đồng nghiệp, để đi thăm chồng. Sau đó lãnh lương trả lại và xoay tua với nhau cho đỡ tốn, vì cũng có nhiều chị em khác cũng đồng cảnh ngộ như tôi.

Có lần, chồng tôi bị chuyển vào khu vùng sâu vùng xa tít mù khơi, mấy ngày mới có chuyến xe đi vào. Đi về mất cả tuần lễ, mà chỉ được gặp nói chuyện có 15 phút, rồi thân gái một mìnhlại phải lủi thủi đi về, có khi phải chờ cả năm mới có giấy báo được gặp lại!

Đồng lương giáo viên ít ỏi của tôi trở thành nguồn thu nhập chính, để nuôi bản thân, hai con nhỏ, bà ngoại già 90 tuổi. Và còn cộng thêm nuôi chồng trong trại cải tạo. Chưa bao giờ đời tôi cực khổ và nghèo đói như thế. Tối tối, tôi dắt hai con ra bến xe đò, bán vé số kiếm thêm tiền, hơn 10 giờ đêm mới dọn hàng về đến nhà.

Có lần, tôi đang lui cui dọn hàng thì nghe tiếng: “Thưa cô, chào cô!” Nhìn lên mới thấy đó là Huy, đứa học trò trong lớp, thường hay bị tôi rầy vì lỗi ngủ gật và thường xuyên nộp bài trễ. Em cũng đến bến xe hàng đêm để bán vé số, kiếm sống phụ gia đình cho nên không có thời gian ngủ và học bài. Ban đầu tôi còn thấy xấu hổ, nhưng sau đó hiểu nhau hơn và hai cô trò cùng ngồi tâm sự và rảnh là khóc với nhau cả tối!

Tôi ngẫm nghĩ đến câu danh ngôn thật chí lý: “Xã hội tư bản, có người giầu người nghèo, Xã Hội Chủ Nghĩa, thì ai cũng nghèo như nhau!”

Có một lần, tối hôm trước khi đi thăm nuôi chồng, tôi cố gắng chạy ra bến xe bán thêm vài tấm vé số, để có thêm tiền lo cho anh. Gần đến lúc dọn hàng đi về, thì có một người đến mua vé số. Họ mua đâu khoảng 2 đồng và đưa tờ 10 đồng. Tôi vét hết tiền lẻ trong túi mới đủ tiền thối. Về đến nhà tôi mới nhận thấy ra là tờ giấy 10 đồng đó là tiền giả! Đau xót quá, tôi bật khóc nức nở.

Chẳng những người ta đã không trả tiền vé số, mà còn gạt lấy hết số tiền thối của tôi, số tiền mồ hôi nước mắt mà tôi đã dành dụm lâu nay, để dự định cho ngày đi thăm nuôi chồng!

Tôi đã khóc suốt đêm! Sao cái khổ cực, cái nghèo khó, tôi đã quen, nhưng cái giành giựt, gian trá, lừa đảo, sau cái ngày “giải phóng” lại làm tôi chưa quen, rất đau lòng! Tại sao họ có thể nhẫn tâm gạt tiền của những người nghèo như tôi hỡi Trời! Rồi ngày mai đây, làm sao tôi có tìền xe đi thăm nuôi chồng? Nếu không gặp anh lần này, lỡ họ chuyển anh đến chỗ khác thì sao? Tôi chỉ còn biết khóc và cầu nguyện, cầu xin Ơn Trên cho con tìm ra giải pháp, bí lối này.

Ba giờ sáng, trời vẫn còn tối mịt, tôi đã vội ra bến xe. Khi xe nổ máy sắp lăn bánh, thì chạy mua 2 ổ bánh mì để đem theo. Tay tôi run run, ngập ngừng do dự khi đưa em tờ giấy bạc 10 đồng giả, mà tôi vừa bị gạt hôm qua. Vì gấp gáp và trời tờ mờ chưa sáng, nên em đã không phát hiện ra tiền giả. Em đã vét hết tiền trong túi để thối lại cho tôi, và vui vẻ đưa tôi hai ổ bánh mì, còn chúc tôi đi đường bình an!

Chưa bao giờ cuộc đời tôi có giây phút đối diện với lương tâm xấu hổ như thế! Tôi không dám nhìn thẳng mắt em, mà chỉ lí nhí nói lời cảm ơn, trong lòng chỉ biết nói thầm: “Cô xin lỗi em, cô xin lỗi em trăm lần! sau này cô sẽ kiếm cách đền bù lại cho em!”

Trên suốt quãng đường đi, tôi đã không ngừng cầu nguyện cho em cùng gia đình em được mạnh khỏe, lòng luôn sám hối chuyện xấu sa mà tôi vửa làm! Không những tôi đã không trả tiền bánh mì cho em, mà còn gạt lấy thêm cả số tiền thối của em nữa. Cả một gia tài nhỏ, mồ hôi nước mắt của em, sao mà nhẫn tâm quá! Để tôi có tiền đi thăm gặp chồng, nhưng em đó phải trả một giá quá mắc thay tôi? Trong lòng tôi cứ mãi vang lên lời xin lỗi em và cầu xin cho em được bình yên! Tôi cảm thấy có lỗi với lương tâm của mình, vì đã không làm tròn thiên chức và đạo đức của một nhà giáo, một người được xã hội trọng vọng xem là mẫu mực, là thước đo của đạo đức! Tôi cũng thấm xin lỗi cha mẹ và ngoại tôi, vì đã không giữ đúng lời dạy của ông bà: “Không được gian tham trộm cắp của ai, dù chỉ là một đồng, một xu!”

Trời ơi, XHCN này đã mau chóng biến tôi thành con người hư đốn, khốn nạn như thế!

Sau lần đó, tôi đã trở lại bến xe tìm em bán bánh mì đó, nhưng giòng đời đã đưa chúng tôi đi hai hướng khác nhau, biết đâu mà tìm!

Hơn bao nhiêu năm đã qua, nhưng tôi vẫn không quên được hành động lừa gạt khốn nạn đó của mình. Nó trở thành bài học thâm thúy, sâu sắc nhất trong cuộc đời tôi, cho tôi thấy rõ một người tốt, đôi khi vẫn có thể có hành động xấu, vì hoàn cảnh bắt buộc. “Túng thế phải tùng quyền! Nghèo đói sinh ra trộm cướp!” Tôi vẫn nhủ thầm trong lòng, sau này có được đến phương trời xa…sẽ làm nhiều điều tốt khác đền bù. Cố kiếm lý do ngụy biện, an ủi chính mình! Điều này, đã giúp tôi rất nhiều trong việc nuôi dạy con và giáo dục học trò, giúp tôi thông cảm hơn khi học trò ngủ gật trong lớp, hoặc không làm bài tập đúng hạn, và cũng giúp tôi tha thứ cho người nhiều hơn!

Cuối cùng may mắn, gia đình tôi được xuất ngoại theo diện HO. Có lần về lại Việt Nam thăm mẹ và người thân, cố nhiều lần ra bến xe, tôi đều mua bánh mì hoặc đậu phọng hay một món gì nho nhỏ từ các em, không quên dúi vào tay chút tiền đủ để các em ăn tô phở hay hủ tíu. Hành động này nhằm xoa dịu lương tâm mình, có thể tạm xem như là đền trả món nợ ân tình năm xưa. Nhưng lương tâm thì không bao giờ quên!

Có câu: “Người ta dù đã nhổ những cây đinh trên miếng gỗ, nhưng vẫn để lại những…lỗ đinh!”

Nên ngày nào còn Đảng, con người còn mãi mãi còn lừa gạt nhau để sống! “Đảng biến thanh niên thành trộm cướp! Biến phụ nữ, thành đĩ, thành trâu!”

Tôi vui mừng, giờ được sống trong không khí tự do, dù trên xứ người. Thoát khỏi phải sống trong vũng bùn nhơ nhớp của XHCN, thiếu tình người! Nhưng mỗi dịp vào Tháng Tư, làm cho tôi gợi nhớ về chuyện này.

(Theo chuyện của Đinh Trực)

CÂU CHUYỆN THEO CÁCH MẠNG CỦA MÁ NĂM

Má Năm có 2 đứa con, đều là Liệt Sĩ: Thằng út chết vì đạp nhằm chông do chính đơn vị gài. Trạm giao liên hết thuốc tây, chỉ chữa trị bằng lá thuốc dân tộc, rồi đổi qua Xuyên Tâm Liên, rốt cuộc bị hoại tử, nhiễm trùng ăn lên tới đùi thì chết! Còn thằng lớn, đơn vị tập kích đồn địch, chết nhiều quá, rút đi hết, quên không kêu nó. Từ đó không ai nghe nói gì về nó nữa! Mấy năm sau nó mới được truy tặng huy chương lên tới chức Liệt Sĩ! Vậy mà má vẫn như người máy Rôbô, không còn trái tim, không rung động thương tiếc! má vẫn hăng hái đào hầm nuôi quân. Từ du kích cho tới quân chủ lực, hễ đứa nào tới nhà má, đều được cho ăn, cho uống no nê. Má má, con con, nghe sướng lỗ tai lắm, thời “nuôi quân diệt gặc!” hồn má như sống trên mây!

Ngày giải phóng, má “hồ hởi” nghĩ chính quyền đã về tay nhân dân, hiểu ngĩa đen, tức là về tay má! Má bận bộ đồ bà ba đen, lăng xăng chạy lên uỷ ban xã để giúp “tụi nhỏ” điều hành… đất nước!

Chuyện gì má cũng hăng hái làm: Tới từng nhà kêu đi họp tổ, nhà nào mắc công chuyện không đi, má chửi cho tắt bếp. Thấy thanh niên để tóc dài, má nắm đầu kéo lên xã, giảng cho một bài học về con người mới, trong thời đại cách mạng. Mỗi khi có đợt đi lao động đào thuỷ lợi, đố đứa nào trốn được với má, trừ khi trốn lên trời.

Má làm riết, cả xã không ai ưa má, đến cả đứa con nít. Thấy má đi tới đâu, người ta tránh…như hủi. Đi ăn đám cưới, mấy bàn khác cười nói ồn ào, vui vẻ. Còn bàn của má ngồi, con ruồi bay cũng nghe tiếng. Chủ nhà sắp bàn 10 người, bàn của má, người ta trốn đi ngồi chỗ khác gần hết, chỉ còn chừng ba bốn người, mà mặt ai cũng gục xuống, buồn thiu như đang đi ăn đám cưới, mà tưởng là đi ăn đám ma!

Má lăng xăng đâu được vài năm, thì ở trên đưa một lớp cán bộ mới về xã. Những người này không muốn má lên uỷ ban nữa. Họ nói má già rồi, về nghỉ ngơi đi…cho khỏe! Cống hiến cho cách mạng đủ rồi! Má nói, má nói còn sức, muốn phục vụ cho đảng, cho nhà nước tới… hơi thở cuối cùng. Họ nói khỏi đéo cần! Đã thế họ còn hăm dọa, má mà cà chớn, tự ý lên đây, trụ sở xã, sẽ cho an ninh bắt nhốt, đi tù, điều tra xem má có phải là gián điệp Mỹ Ngụy cài lại hay không. Nghe là hết hồn! hết vía!

Má về nhà, buồn như mùa thu chết…không lá thu rơi! Sống với đứa con gái lớn bị vịnh tâm thần, nhưng lại có vẻ còn sáng suốt, biết suy nghĩ đúng sai hơn má nhiều. Vì thế hai má con suốt ngày chửi lộn với nhau. Ngoài việc gây lộn với nó ra, má không còn niềm vui nào khác nữa.

Khắp xóm làng làm như quên hẳn hình ảnh cách mạng vinh quang một thời của má rồi. Không nói ra, nhưng ai cũng coi má như là một miếng giẻ rách, cần phải xa lánh, lãng quên, bỏ vào thùng rác!

Nói cho ngay, họ cũng còn có chút tình nghĩa…đãi bôi! Lâu lâu vào dịp lễ lạc gì đó, nhà nước cũng nhớ tới má. Có thế chứ! Nhưng vài lần, theo má, thà đừng nhớ còn hơn.

Nhớ đến đó, má chửi đổng. Không biết trên rót ngân sách bao nhiêu mà xuống tụi xã ăn chặn hết. Đang đói, nó tặng quà cho má chỉ có mấy gói mì gói là ăn được, còn đủ loại hình bác hồ, nhìn nghiêng, nhìn dọc, lộng kiếng với hàng tá cờ đảng sao má ăn?

Rồi có lần nhân dịp kỷ niệm mấy chục năm giải phóng gì đó, má quên rồi, nó mời má đi coi duyệt binh. Hân hạnh quá, tưởng sướng lắm, ai dè đứng xếp hàng phơi nắng như con khô mực, nghe mấy thằng mập ú như con heo…nọc! đọc diễn văn ca ngơi cách mạng. Mà nó đọc lâu lắm, cho sướng cái miệng, trong khi má mắc tiểu thấy mẹ nội. Cuối cùng nhịn không nổi, má đái luôn trong quần, chảy ra mặt đường thành vũng! Tụi cán bộ xã giận lắm, nói má bôi bác cách mạng, làm mất thành tích đấu tranh, có âm mưu phản động! Tụi nó đuổi má về, không cho má ăn bữa cơm liên hoan luôn! Chai nước cũng không có.

Từ đó má nghỉ chơi với cái đám chính quyền khốn nạn này luôn. Thỉnh thoảng lòng căm thù trổi lên, má chửi tục: “Cách mạng cái quần què nhà tụi mày! Đồ ăn cháo đái bát! (má giật mình nhớ lại mình, thật ra, ăn cháo đái trong quần) đồ vắt chanh bỏ vỏ, tổ cha, tổ mẹ, tổ tiên nhà chúng mày, sao không chết hết đi!”

Mừng ngày chiến thắng 30/4 năm nay.

Má đang nằm ép bụng vào tấm vạt giường cho đỡ đói, thì đứa con gái, lúc này mắt nó gần như mù rồi, chỉ còn thấy lờ mờ, mò lại giường má kiếm chuyện:

– Bữa nay mừng ngày giải phóng nè, sao má không dậy sửa soạn đi coi bắn pháo bông cho no, rồi về kể con nghe, như những năm trước đây?

– Giải phóng cái thằng cha khốn nạn mày. Lúc trào ông Thiệu, ông Kỳ cục, tao nghèo chứ chưa đói bữa nào. Còn dư cơm gạo nuôi mấy thằng chó đẻ, chó má đó ăn. Ai dè gặp toàn thứ quỷ tha, ma bắt, lường gạt, qua cầu rút ván, vắt chanh bỏ vỏ….

– Thì má cũng vậy thôi. Tui thấy má mỗi lần làm nước mắm, má vắt chanh xong cũng bỏ vỏ, chớ má đâu có giữ lại đâu.

– Con ngựa cái nhà mày. Đừng chọc tao chửi nhe mày. Tao đang tức hai thằng con tao hy sinh xương máu cho tụi nó, để bây giờ tụi nó, xe to xe nhỏ, xây toàn biệt phủ…

– Xây biệt phủ nhằm nhò gì? Tụi nó còn chiếm cả chục mẫu đất để dành, mai mốt chết, xây mồ mả cho “hoành tráng” nữa kìa. Còn má mai mốt chết, tui không biết chôn má ở đâu nữa, hổng lẽ chôn trong cái chòi lá này luôn sao?

– Mày khỏi trù ẻo tao con quỷ cái. Tao còn sống lâu lắm. Tao phải sống, chống mắt, đặng coi cái ngày tàn mạt của tụi cướp công ơn của nhân dân này sụp đổ ra sao, lúc đó tao mới nhắm mắt.

– Thôi má đừng nói chuyện tào lao nữa. Nó vô nó còng đầu má bây giờ. Bất ngờ nói đổi chữ Má thành Bà ngon ơ! Bà ngu bà theo tụi nó, thì bà chịu đi. Nói thiệt, ổng chết là cũng tại bà. Bà không che giấu tụi nó, sao tụi nó ban đêm tự do đi lùng kiếm được ổng mà giết. Nói thiệt, nhiều khi tui cũng hận bà lắm, bà tiếp tay giết tía của tui!

– Mày đi chỗ khác đi. Con ngựa, con chó cái. Ngồi đó nói một hồi tao tức hộc máu chết bây giờ.

Chửi con gái xong, má Năm nằm nhắm mắt thở dốc, muốn đứng cả tim. Đã lâu lắm rồi hôm nay má mới nhớ lại hình ảnh người chồng lúc bị du kích giết, mắt mở trừng trừng oan ức. Mà ổng có làm lớn gì đâu, chỉ là thư ký ấp. Nhưng lúc đó má say mê lý tưởng phỏng giái, ý quên giải phóng, được nghe giải thích là vì lợi ích cách mạng, mọi người cần phải hy sinh, kể cả bản thân mình, cho nên má đã ngu ngốc bỏ qua luôn, không gây chuyện.

Một chút ánh nắng chiếu xuyên qua mái lều. Má Năm he hé mắt ra nhìn. Bên kia con lộ nhỏ là căn biệt thự to lớn năm tầng đang xây dở dang của Bí Thư đảng ủy xã. Căn biệt thự này xây ngay trên nền nhà cũ của má. Mấy năm trước, lúc phóng lộ, chính quyền đã cưỡng chế nhà đất của má. Sau đó họ chia lô, bán nền. Và má, tiền đâu mà mua, đành dựng tạm căn lều sống cho qua ngày, đoạn tháng, sống cho qua hết cái kiếp ngu như lừa, nên bị cách mạng gạt!…cả đời! Đã thế “Ngu mà còn tỏ ra nguy hiểm! nên cuộc đời má mới thê thảm như thế này!”

Nhìn lên trên vách, thấy hình “Bác Hồ Lộng Kiếng” mỉm cười thích thú.

Với tay lấy tấm hình, ném xuống đất, lần này thì khác, má cởi quần, trước khi đái!….

(Theo chuyện của Lộc Dung)

Ngày Đó Tháng Tư

*

Em hỏi tôi ngày đó tháng tư

Một thời thay đổi chuyện nắng mưa

Thời gian dịch chuyển từ hôm đó

Lịch sử còn ghi chuyện thắng thua.

*

Dĩ vãng qua rồi tưởng đã quên

Nào ngờ mắt lệ vẫn ưu phiền

Tình xưa như lá rơi về cội

Sông nước quê xưa, bóng mẹ hiền

*

Còn nhớ con đường chung lối đi

Sài Gòn nỗi nhớ ngày chia ly

Dòng sông nước chảy chia đôi ngã

Nỗi nhớ trong lòng bao nghĩ suy.

*

Đã biết từ nay sẽ vấn vương

Phương trời xa vắng cõi vô thường

Chia tay cách biệt, lòng buồn lắm

Non nước rồi đây lắm đoạn trường.

*

Đã mất nhau rồi xa thật xa

Người xưa có nhớ bóng chiều tà

Ngày đi vĩnh biệt đầy thương nhớ

Mắt lệ chan hòa nỗi xót xa.

*

Còn nhớ ngày xưa đã một thời

Chiến tranh lửa khói cắt chia đôi

Cho tình xuân chết, đời ngăn cách

Từ đấy tháng Tư, nước mắt rơi.

*

Chung bước bên nhau cả một đời

Dặm trường đất lạ vẫn chung đôi

Ngày buồn đánh thức hồn thương nhớ

Tháng Tư vận nước đã chuyển dời.

*

AET Lê Tuấn

Tháng tư buồn

Tháng Tư Mất Quê Hương

*

Lâu lắm rồi tháng tư buồn ngày ấy

Không hiểu sao tôi vẫn nhớ vẫn thương

Cuối tháng Tư tôi đã mất quê hương

Rồi xa mãi trong nỗi buồn biệt xứ.

*

Miền Nam Tự Do trong cơn đột tử

Triệu nén nhang buồn lịch sử sang trang

Ngày Quốc Hận, cõi hồn đau vô tận

Đất Mẹ buồn, phủ trắng một màu tang.

*

Miền Nam biến thành nhà tù cộng sản

Giam giữ trái tim, yêu chuộng hoà bình

Bắt người yêu nước giam vào ngục tối

Để văn thơ phá vỡ những nhục hình.

*

Tù cải tạo giam toàn những nhà thơ

Là đêm tối ánh sao trời rực rỡ

Bài thơ thức tỉnh thế giới loài người

Thoát khỏi u mê, phá vỡ đôi bờ.

*

Bắt hết tự do giam vào ngục tối

Tù nhân lương tâm, xứng đáng con người

Là tình yêu biết hy sinh cống hiến

Cho quê hương, lịch sử sáng ngời.

*

Lê Tuấn

Người lính già chưa giải ngũ

Tưởng nhớ ngày 30 tháng 4, 1975

Tháng Tư Chia tay

*

Tháng Tư về nắng hạ còn lưa thưa

Khói bụi hồng cơn mưa chiều rất lạ

Bóng chim hốt hoảng xa bay cuối phố

Gọi nhau về theo lối cũ em qua.

*

Tháng Tư nở muộn loài hoa tím dại

Chiến tranh về để lại những thương đau

Những mặt người lấp ló nơi đầu ngõ

Lo sợ điều gì? Muôn vạn nỗi sầu.

*

Lời nghẹn ngào bao điều chưa muốn nói

Chia cắt từ đây, nơi đất mẹ xa vời

Cho thương khóc một người đi biền biệt

Gói trọn trong tim ký ức bồi hồi.

*

Tháng Tư lại về gợi nhớ thêm buồn tủi

Biển chia xa đẩy lùi bóng chim bay

Ngày vĩnh biệt xa nhau là xa mãi

Sài Gòn buồn tháng Tư, ngày chia tay.

*

Lê Tuấn

Nỗi buồn Tháng Tư 2022

Xa Nhau Tháng Tư

*
Xa nhau ngày đó tháng tư về

Lạc mất tình xuân lỗi hẹn thề

Chia cắt đôi bờ xa khuất bóng

Cõi hồn thương nhớ buồn lê thê.

*
Dấu đi góc khuất một hồn thơ

Tiếng nấc chưa ngưng vẫn đợi chờ

Ngôn ngữ còn tuôn đầy nỗi nhớ

Lòng như chất chứa đầy trong mơ.

*
Người yêu biển nhớ mối tình đầy

Biền biệt tha phương giữa chốn này

Mỏi cánh chim bay trời gió lạnh

Buồn nào day dứt ngày chia tay.

*
Cơn đau thân phận cũng qua mau

Số phận chia đôi cả nỗi sầu

Năm tháng vấn vương ngày ly biệt

Tháng Tư, vận nước đã thay màu.

*
Lê Tuấn

Tháng Tư Lại Về

*

Tháng Tư buồn lặng lẽ

Nắng hạ còn đơn côi

Sương mù giăng khắp lối

Lòng xao xuyến bồi hồi

*
Em! Một thời để nhớ

Anh! Chinh chiến tơi bời

Sài Gòn thời hoa mộng

Lưu luyến một phương trời.

*
Con đường lá me bay

Đợi nhau mối tình đầy

Sông Sài Gòn dòng chảy

Cánh chim mờ chân mây.

*
Tháng Tư về hoang mang

Chiến tranh thật kinh hoàng

Đoàn người đi vội vã

Chia ly trong ngỡ ngàng.

*
Tháng Tư ta mất nhau

Hồn đau thấm nỗi sầu

Từ nay “Tự Do” mất

Chia đôi hai nhịp cầu.

*
Thái Bình Dương xa cách

Hai bên sóng vỗ bờ

Sóng thay màu tang trắng

Quê hương vẫn đợi chờ.

*
Em bây giờ mong đợi

Những yêu thương một thời

Sài Gòn ngày xưa ấy

Ta lạc nhau mất rồi.

*
Lê Tuấn

VĂN TẾ

NGÀY QUỐC HẬN 30 – 4

*Công dân tuấn kiệt, Chiến sĩ anh hùng.

Trung Quân diệt bạo, Ái Quốc trừ hung.

Nhớ linh xưa :

*Thời loạn lạc, thề chiến đấu bảo vệ quê hương,

Buổi hòa bình, nguyện hy sinh cứu nguy đại chúng.

*Theo gương Tiền Bối, gìn giữ Gia Quy, dạy cháu con gần chốn quế hòe

Nối chí Ông Cha, vun bồi Quốc Pháp, khuyên bè bạn xa nơi tham nhũng.

Bỗng đất bằng nổi sóng :

*Tà quỷ Hồ Mao dẫy đầy Nam Á, chém giết sinh linh,

Ôn thần Lê Mác tràn ngập Đông Âu, chôn vùi quần chúng.

*Nhờ hồn thiêng sông núi phù trì, chiến đấu triền miên, ý chí rất mực kiên cường,

Cậy tú khí chung linh bảo hộ, xông pha liên tục, tinh thần vô cùng anh dũng.

Thế nên :

*Khắp thế giới hoan nghênh, viện trợ khí nhuệ cơ tân, diệt Mác Lê xương trắng khắp đồi,

Cả hoàn cầu ủng hộ, tạo nên nhân hòa địa lợi, chống Cộng Sản máu hồng tràn vũng.

Hồi tưởng lại :

*Xứ Bắc phá hủy cơ ngơi, “HỒ” u mê chẳng dứt gài mìn,

Miền Nam dựng xây nhà cửa, “ĐẢNG” cuồng tín không ngừng bắn súng.

*Quân Dân thề gội tuyết, phơi sương, dù thịt nát, tinh thần không chút đắn đo,

Già trẻ nguyện giầm mưa, giãi nắng, dẫu xương tan, ý chí chẳng hề nao núng.

Nhưng hỡi ôi !

*Vì lợi quyền, bán đứng anh em,

nuốt lời bỏ cuộc, hết sức bất lương,

Bởi danh vọng, ngậm bả dâng thành, vô cùng trào phúng.

*Buồn, vì Nước hùng cường, phút chốc đành ngưng tiến, sau lệnh trao quyền,

Đau, bởi Quân thiện chiến, bỗng nhiên phải chịu lùi, trước quân xâm lấn

*Lòng căm hờn, bởi cảnh Quốc Phá Gia Vong,

Dạ sôi sục, vì nạn Dầu Sôi Lửa Bỏng.

*Nguyện sơn hà nhận lắm Phúc dầy,

Cầu xã tắc hưởng đầy ân sủng

*Sống chiến đấu vì nước, chí kiên cường anh dũng, để vang tiếng sử hồn,

Chết hy sinh theo thành, gương tuẫn tiết uy linh, làm rạng danh binh chủng.

Đau đớn thay !!

*Xã tắc khuynh nguy, tinh thần dù lồng lộng ngút trời, cánh hồng hộc khôn chặn nổi cuồng phong, phó mặc mây trôi,

Giang sơn nghiêng ngửa, ý chí dẫu bao la rợp đất, đuôi kình ngư khó tạo ra bão táp, đành như sao rụng.

*Cả nước giả trẻ hoang kinh tìm đường chạy giặc, nghìn trùng sóng cả, cướp biển hãm  hại, giết người, hết sức dã man, Toàn dân ngơ ngác, gái trai kiếm cách vượt biên, vạn dặm rừng sâu, hổ lang xé xác, vô cùng kinh khủng.

*Núi Trường Sơn, nơi chôn vùi mươi vạn trẻ già, cọp nuốt cành hông,

Biển Thái Bình, chốn thủy táng trăm nghìn trai gái, cá xơi đầy bụng.

Sau khi cưỡng chiếm Miền Nam :

*Trung Ương Đảng củng cố độc tài, kìm kẹp toàn dân, nói Tự Do, nhưng chôn chặt Tự Do, cướp đọat tài sản nhân dân, trong ngoài nhung nhúc cửa quyền,

Bộ Chính Trị duy trì chuyên chính, đọa đầy cả nước, hô Dân Chủ, lại vùi sâu Dân Chủ, tịch thu cơ ngơi Tôn Giáo, trên dưới dẫy đầy tham nhũng.

*Cắt Biên Cương Bản Giốc, hiến giặc Cộng nô, khắp thế giới khinh thường.

Nhượng Hải Đảo Hoàng Sa, dâng quân Hán tặc, cả hoàn cầu rẻ rúng.

*Công kháng chiến nhỏ bằng một cây tăm, miệng đời vẫn nói : Đoàn Mác Xít quá sức ngu đần,

Tội bán nước lớn như nghìn cổ thụ, sử sách còn ghi : Đảng Cộng Sản hoàn toàn xuẩn động.

Hỡi ôi !

*Sinh ly dạo ấy, oán quân thù tạo nạn binh đao, kìa xương trắng chất đống như cồn,

Tử biệt từ đây, hận giặc Cộng gây ra đấu tố, nọ máu hồng chảy dài tựa vũng.

*Hồn vẫn lãng đãng chốn rừng già, hương lạnh, khói tàn, ai thân nhân hoa quả khấn cầu,

*Phách còn vật vờ nơi biển cả, chuông im, mõ lặng, ai huynh đệ đèn nhang thờ cúng.

* Nơi đất khách xứ người, nhớ ân sâu nghĩa nặng, tạc tượng phụng thờ.

Chốn quê Cha, đất Tổ, tưởng công đức cao dầy, xây lăng trì tụng.

Nay toàn dân :

*Đốt tuần nhang Chính Nghĩa, cầu nguyện anh hồn Liệt Sĩ, Hội Quần Tiên muôn thuở cúng dường,

Dâng chén rượu Ân Tình, ước mong linh ảnh Lương Dân, Chốn Thiên Quốc nghìn đời thờ phụng.

Nguyện Cầu :

*Anh hồn giác ngộ đáp lời, phù cả nước đập tan chuyên chính, không âu lo vì nách mác, tay đao.

Linh ảnh thiêng liêng thuận ý, giúp toàn dân giải thể độc tài, chẳng run sợ trước luỡi lê, họng súng.

Rồi đây :

*Đất nước tăng cường thịnh, già trẻ vui mừng hưởng hạnh phúc ấm no.

Quê hương giảm bần hàn, gái trai hân hoan dứt đọa đầy tù túng

Thượng hưởng

TRƯƠNG GIANG biên soạn

Như một lớp áo mỏng che những vết thương vĩnh viễn không lành… 


Như chỉ mới hôm qua – ký ức 30 tháng Tư 

*
Đan Viên

*

Những gì được kể trong bài viết này không chỉ là thảm kịch sau ngày “giải phóng”, mà phải nói đó là sự thảm khốc của BI KỊCH HẬU CHIẾN, khi mà dù tiếng súng đã ngưng nhưng những viên đạn vô hình vẫn “bắn giết” và “tử hình” không biết bao nhiêu nạn nhân. Các cuộc “thảm sát” sau 1975, không đầy xác người như những trận giao tranh ác liệt thời chiến, nhưng đã gieo rắc nỗi thống khổ cho hàng triệu gia đình và làm mất đi tuổi thơ của vô số đứa trẻ, như tác giả trong bài viết. Ký ức đối với những tâm hồn non nớt trước những gì chứng kiến sau ngày 30 Tháng Tư không chỉ là quá khứ. Nó là những vết thương vĩnh viễn không lành…

Bài viết này đã đoạt giải ba cuộc thi Như chỉ mới hôm qua – Ký ức 30-4 do Saigon Nhỏ tổ chức vào năm 2021. Xin mời đọc lại…

_________

Trong suốt nhiều năm tôi luôn nhớ về dĩa cơm gạo trắng ở chợ Ái Nghĩa hồi tôi 10 tuổi khi má dẫn đi thăm ba ở trại An Điềm. Trên tôi còn có bốn ông anh chẳng hiểu sao năm đó má lại dẫn mình tôi đi thăm ba. Tôi cũng là đứa con duy nhất trong bảy đứa được đi thăm ba trong suốt thời gian ba ở trại. 

Đây là ba của tôi sao?

Trong trí nhớ của tôi, từ làng tôi phải đi bộ xuống Túy Loan rồi bắt xe đò lên Ái Nghĩa. Ở Ái Nghĩa đi qua sông bằng cano rồi mới đi tiếp bằng đường bộ. Ngủ lại đêm trên mấy sạp chợ Hà Nha. Sáng hôm sau tiếp tục đi bộ lên trại. Khi lên tới trại dưới má tôi cùng những gia đình thăm nuôi khác ngồi đợi được gọi tên, rồi lại đi bộ tiếp lên một khu trại khác, rồi lại đợi. Tôi chưa hết say xe, căng thẳng, sợ hãi. Mọi thứ đều có vẻ đe dọa. Rồi cũng tới lượt má tôi được gọi tên. Má dẫn tôi vô một dãy nhà dài.

Một dãy bàn bằng tre dài ngoằng theo gian nhà. Một tấm phên dựng chắn giữa bàn cao quá đầu người ngồi, cứ khoảng một mét lại chừa một ô nhỏ đủ nhìn thấy mặt người đối diện. Ở đó tôi thấy những người đàn bà ngồi vào trước những ô được chỉ. Phía bên kia cũng là người ngồi nhưng tôi không thấy hết được. Má cũng có một ô, giữ tôi đứng kế bên. Tôi nghe tiếng khóc nghẹn của đàn ông đàn bà… Tôi từng biết kiểu khóc này. Những đêm khuya tôi thường nghe má khóc vậy khi chợt tỉnh ngủ. Má biểu tôi nhìn vô ô vuông đó. Bên kia là gương mặt một người đàn ông lạ hoắc, ốm yếu, răng rụng rất nhiều. Tôi hoảng sợ.

Má biểu tôi, thưa ba đi. Tôi làm theo như cái máy. Sao người này lại là ba tôi? Chỗ ngồi của má là đầu dãy. Một cán bộ đang đứng ở đó quan sát mọi người. Có tiếng má tôi năn nỉ xin cho tôi được bước qua phía bên kia cho ba ôm tôi. Người cán bộ hơi chần chừ rồi cũng cho. Nhưng lúc đó tôi sợ, má giục mấy lần tôi mới rụt rè bước qua. Ba ôm tôi khóc không thành tiếng. Tôi sợ, không thấy quen thuộc với người mình vừa gọi ba. Người ba gầy xơ xác, bộ quần áo gần giống như kiểu pijama nhưng dày cộm, màu xám xám hay xanh gì đó. Một thứ mùi không chút thân thuộc, một nhân dáng xa lạ. Tôi gồng cứng người, sợ hãi.

Nhưng rồi tôi bắt đầu khóc khi hết cuộc thăm nuôi. Tôi khóc tức tưởi. Má chắc bận để tâm đâu đó nên chẳng thèm dỗ, chẳng thèm hỏi. Tôi tự khóc, tự nín. Khóc tức tưởi rồi nấc ư ử, rồi thôi. Tôi không biết vì sao mình khóc. Nhóm người cùng đi với má cũng trở ra. Họ thì thầm trò chuyện với nhau. Trẻ con im thin thít. Đi bộ xuống lại con đường cũ. Đến chợ Hà Nha, trời vẫn chưa tối hẳn nhưng về giờ này hết chuyến sang sông, người lớn quyết định ở lại sạp chợ một đêm nữa, sáng mai mới bắt xe về. Những người đàn bà chọn cái sạp lớn nhất để ngồi cùng và trò chuyện. Họ vẫn tiếp tục với giọng điệu cà rì cà rầm.

Những câu chuyện nghe như ác mộng

Trong số họ có người đã quen nhau từ lần thăm nuôi trước. Có người mới đi lần đầu. Có ba bốn đứa nhỏ cỡ tôi và lớn hơn. Má chỉ tôi leo lên cái sạp nhỏ kế bên. Đêm đó, trong giấc ngủ bị ngắt quãng mấy lần, tôi thấy một giấc mơ kinh hoàng. Giật mình mở mắt thấy vẫn đang ở trong câu chuyện của người lớn. Thì ra không phải mơ. Tôi nằm kế bên nghe người lớn kể chuyện rồi buồn ngủ thiếp đi, tỉnh dậy vẫn những người đàn bà ngồi đó kể chuyện. Họ không ngủ. Mấy lần như vậy cho tới khi trời sáng. 

Đọng lại trong tôi là hình ảnh bà vợ ông tá nào đó bị cọp ăn khi đi thăm chồng mà đi lạc qua đường mòn trong núi, chỉ còn lại cái đầu rũ rượi tóc lăn bên vệ đường. Vùng Ba Khe nổi tiếng có cọp dữ. Họ còn kể có gia đình bản địa phước đức khi cọp vô tới tận sân nhà, cha mẹ đi làm chỉ có ba đứa trẻ ở nhà, chúng sợ quá trùm cái mền lại rồi vì sợ mà cứ kéo qua kéo lại cái mền. Con cọp đứng nhìn một hồi rồi bỏ đi. Những chuyện khác tôi chẳng hiểu gì nên cũng không nhớ rõ được.

Sáng hôm sau, má đón xe đò về lại Ái Nghĩa. Cả buổi không được ăn gì. Đêm hôm trước cũng chỉ có cái bánh sắn nhỏ (bột sắn khô nhồi rồi làm thành những cái bánh, luộc trong nước sôi cho đến khi bánh nổi là chín; món ăn thường trực của nhà tôi những năm sau 1975). Tôi đói quay quắt mà không dám kêu. Má dẫn tôi vô chợ Ái Nghĩa.

Tới trước hàng cơm trong chợ, má mua một dĩa cơm trắng, xin chan chút nước thịt, hai mẹ con cùng ăn. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi biết được trong chợ có hàng bán cơm. Dĩa cơm trắng trưa hôm đó cho đến tận bây giờ, với tôi, vẫn là cực phẩm nhân gian. Tôi chưa được ăn cơm trắng suốt mấy tháng rồi, toàn sắn với khoai. Hạt gạo Ái Nghĩa trắng muốt, thơm lừng, cũng không giống cơm tôi nấu khi nhà có gạo. Không còn sợ hãi, không có con cọp núi ăn thịt người, chỉ có dĩa cơm trắng và tôi.

Năm đó ba ở trại An Điềm được gần ba năm…

Những mộng mị kinh hoàng thỉnh thoảng vẫn trở lại với tôi. Cũng từ lần đi thăm ba về, tôi mắc chứng bị bóng đè. Nhiều lần ngộp trong những giấc mơ kỳ lạ khác. Và kể từ chuyến đi đó, mọi ký ức của tôi về ba, về gia đình mình trong bảy năm đầu đời bị xóa sạch, cho đến tận bây giờ. Không chỉ về ba, mà tất cả những gì của bảy năm đã bị khóa chặt, chôn vùi đâu đó, trừ một chuyện – chuyện duy nhất mà tôi nhớ, nhưng thật ra cái tôi còn nhớ cũng chỉ là cảm giác, không một nhân dáng rõ ràng nào.

Làm cách nào để thôi nghĩ về tháng Tư?

Trước khi Đà Nẵng thất thủ, má may cho tụi tôi những cái quần bằng vải gì dày như nhung, có hai lớp; mấy cái túi ở giữa hai lớp quần, má may cả nắp túi có nút gài. Má chuẩn bị cho mỗi cái quần một ít vàng, là tư trang của má, cùng với mảnh giấy ghi rõ tên cha mẹ, địa chỉ. Một đêm, ba đã dẫn cả nhà chạy ra biển. Má mặc cho tôi cái quần hai lớp má may vội đó. Tôi nhớ cảm giác nặng nề, nhột nhạt của cái quần kỳ cục. Tôi nhớ mùi biển đặc quánh đêm đó. Nhớ nỗi sợ hãi của tôi giữa những lời thì thầm của ba má. Nhưng rồi ba dẫn cả nhà về lại, cho tới cái đêm người ta đập cửa nhà lúc rạng sáng bắt ba dẫn đi…

Một ký ức duy nhất cho bảy năm. Bây giờ ở tuổi ngoài 50, không biết tôi có cơ hội nào lấy lại bảy năm thơ dại của mình, để biết mình đã từng có gì, để khớp được tâm trí tôi với lời kể của ba má, anh em. Tôi cũng muốn một lần đi lại con đường ngày ấy mà không có nỗi sợ hãi nào… Từ lúc đi thăm ba về tôi thường lấy mấy tấm hình còn sót lại của gia đình so sánh người đàn ông trung niên đẹp đẽ với ông già tôi gặp ở trại An Điềm. Làm gì có chuyện chỉ mấy năm mà có thể biến đổi một con người thành như vậy? Tôi hoài nghi, tôi cố lôi trong ký ức của mình ra hình hài người đàn ông trong bức ảnh. Nhưng hoàn toàn trống rỗng…

… Thêm mấy năm nữa ba được ra trại. Má tôi làm ở đồng sau, nghe có người bà con chạy vô kêu hình như là ba tôi về. Má quýnh quáng lao ra con đường cái xuyên qua làng. Ba tôi. Đúng là ba tôi. Nhiều người đã như tôi, không nhận ra ba. Con Út khóc thét khi ba đưa tay về phía nó. Ngày ba đi, nó chưa đầy ba tuổi. Đứa em kế tôi cũng sợ hãi nép vào người má. Nhiều tiếng khóc khác, của người lớn, sửng sốt và thương cảm. Ai đó đã chạy vội về nhà đong cho má tôi mấy lon gạo. Ai đó đã chạy ra vườn hái bông đu đủ đực và mấy trái non xuống cắt sẵn cho má (thứ mà má sau đó đã nấu để ba ăn giải rừng thiêng nước độc). Mọi người cứ hỗn loạn như vậy. Chỉ có tôi là… bình thường. Thậm chí ngay lúc đó tôi còn thấy mình vênh mặt lên vì không sợ ba – người ba duy nhất mà tôi nhớ được.

Sau này, từ trong những câu chuyện của gia đình tôi, câu chuyện của những gia đình khác đồng cảnh ngộ mà tôi đọc được, nỗi thống khổ sau 1975 có rất nhiều điểm chung, có rất nhiều thấu hiểu. Trong khi ông bà, cha mẹ chúng tôi trải qua những hỗn loạn đau thương của nước mất nhà tan thì chúng tôi – những đứa con của “ngụy quân-ngụy quyền” – trải qua những đau thương kiểu khác. Đà Nẵng, Kho Đạn, An Điềm, trại cải tạo, phóng thích, trình diện, lý lịch, đại học, hợp tác xã…, với tôi, những từ ngữ này mang một thứ âm thanh khác.

Mấy chục năm rồi, trời Tháng Tư vẫn nhuốm màu ký ức thê lương. Thời gian và cuộc sống thường nhật, đôi khi chỉ như một lớp áo mỏng che đậy những vết thương vĩnh viễn không lành. Quá nhiều thứ đã mất. Quá nhiều tổn thương tiếp nối cho đến tận bây giờ. Có thứ vẫn còn phong kín thì làm cách nào để thôi nghĩ về tháng Tư…

WA, 4-2021

Quốc Hận trong lòng tuổi trẻ San Jose

Chương trình đặc biệt     

*

Ngày 30 tháng tư 2022 tại San Jose.

1)10 giờ sáng 30-4 Quốc Hận trong lòng tuổi trẻ Việt Nam.Lễ thượng kỳ tại San Jose City Hall và chương trình tưởng niệm trong nhà Vòm với trái cầu vĩ đại của kinh đô điện tử tại thung lũng Silicon.

2)12 giờ sáng 30-4 Tưởng niệm tại San Jose History Park. Tướng Lương Xuân Việt thăm Việt Museum. Lễ thả bóng vinh danh 7 anh hùng tuẫn tiết và ghi dấu sự hy sinh của các quân dân chính VNCH cùng đồng bào vượt biển.

Ngày 1 tháng năm 2022 10 giờ sáng ngày 1 tháng 5-2022                     

1)Tuyên dương sự nghiệp một đời dành cho ông Phạm Phú Nam, giám đốc Dân Sinh Media.             2)Thiếu tướng Lương Xuân Việt nói chuyện với quan khách và đồng hương. Một giờ mở đầu bằng Anh ngữ và một giờ phần sau bằng Việt Ngữ. Tổ chức tại hội trường Santa Clara County 70 W Hedding San Jose

Ngày 1 tháng năm 2022 Chương trình rất trang trọng và ý nghĩa. Ban tổ chức phối hợp chung của các đoàn thể thế hệ thứ hai miền Bắc California. Kính mới đồng bào từ Sacramento, San Francisco xuống đến Orange County cùng về tham dự. Tổng kết chương trình tháng tư tại San Jose kinh đô điện tử thế giới 

1)Chủ nhật 10 tháng 4-2022 khánh thành Trung tâm phục vụ Việt Mỹ tại Santa Clara xây cất 3 năm trị giá trên 70 triệu kiến trúc duy nhất tại Hoa Kỳ.

2)Cờ VNCH treo trên cột cờ San Jose City trong một tuần lễ kể từ 29 tháng 4-2022.  

3)Cuộc triển lãm nửa thế kỷ xây dựng cộng đồng Việt Nam bắt đầu tại Santa Clara County.                 Thời hạn 1 tuần.

3)Chiều thứ sáu 29-4 thiếu tướng Lương X. Việt đến San Jose.                                                     Thăm viếng Trung Tâm phục vụ Mỹ Việt. Cơm chiều do Việt Museum tổ chức

4)10 giờ sáng thứ bảy 30-4 lễ thượng kỳ và quốc hận tại San Jose City Hall do VAR một tổ chức của thế hệ thứ hai gồm các đoàn viên trí thức đảm trách. Thiếu tướng Việt là quan khách danh dự. Xin mời toàn thể đồng bào cùng đến để dự khán công tác của tuổi trẻ thế hệ thứ hai. Chú Tich VAR là giáo sư Philip đại học San Francisco

5)12 giờ trưa thứ bảy chương trình tưởng niệm tổ chức tại Việt Museum với lễ thả bóng manh danh hiệu 7 vị anh hùng tuẫn tiết.                                                                                                                 Xin mời quý quan khách tham dự. Vào cửa tự do. Có tiếp tân sau nghi lễ.

6)10 giờ sáng chủ nhật 1-5 thiếu tướng Lương Xuân Việt nói chuyện với quan khách và đồng bào. Đề tài: Cuộc đời của cậu bé Biên Hòa ty nạn 7 tuổi. Hội trường County 70 W Hedding San Jose.

Sau đây là đề tài và diễn giả:

Mục tiêu của Việt Museum là muốn giới thiệu cho người Hoa Kỳ đã mở vòng tay đón dân ty nạn Việt Nam từ 150 ngàn người năm 1975 đến nay 2022 đã có 2 triệu và 300 ngàn dân. Người tỵ nạn Việt Nam từ đâu đến Mỹ. Trong hoàn cảnh nào? Trong gần nửa thế kỷ vừa qua chúng ta đã làm gì và sau cùng tương lai sẽ ra sao?

Ông Lương Xuân Việt là người sẽ lấy tiểu sử bản thân để trả lời những câu hỏi đó. Ông là con thiếu tá TQLC /QLVNCH. Sinh quán Biên Hòa, theo gia đình di tản 1975. Đây là cậu bé ty nạn chính gốc. Theo học tại miền Nam CA và tốt nghiệp xuất sắc chương trình đại học trước khi nhập ngũ. Trải qua 34 năm binh nghiệp từ cấp thiếu úy trung đội trưởng lên đến cấp đại tá chỉ huy các đơn vị tác chiến lừng danh tại Trung Đông. Sau cùng ông là tướng tư lệnh phó quân đoàn 8 Hoa Kỳ tại Đại Hàn và thiếu tướng chỉ huy toàn thể US Army tại Nhật Bản. Với 34 năm trong quân ngũ ông là người xứng đáng nhất để trả lời câu hỏi người ty nạn Việt Nam đã làm gì tại Mỹ trong thời gian qua.

Giao Chi San Jose.   giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393

EM CÓ BUỒN TA

(Xướng)

*

Ba mươi ngày chẵn tháng Tư nầy

Em có buồn ta, ta vẫn say

Mấy bạn già xưa đang tị nạn

Mươi người lính cũ cũng lưu đày

Thất cơ, mù đã quin* thân hạc

Lỡ vận sương càng ủ tóc mây

Biển nhớ hay lòng sầu nhật nguyệt

Mà không nổi sóng gọi vun gầy…

*

Sao nhìn ta mãi tháng Tư buồn

Nào có chi hơn một mảnh hồn

Não nuột từ khi xa đất nước

Cô đơn ngay lúc biệt làng thôn

Em không hiểu nổi ta sầu thảm

Bạn chữa tin ư nỗi mỏi mòn

E chắc thiên thu tràn hận tủi

Đợi về lấp biển với san non…

*

Hawthorne, hạ tuần tháng 4/2019

CAO MỴ NHÂN

·         Quin : bao, quấn. Tiếng miền Trung

DẤU HẰN TỦI NHỤC

  • (Họa thơ Cao Mỵ Nhân)

Làm sao quên được cái ngày nầy

Rượu uống li bì vẫn chẳng say

Để nhớ, thân ta người lạc lỏng

Đừng quên số kiếp kẻ tù đày

Tình sầu ngơ ngẩn theo làn gió

Giọt đắng mơ hồ hướng cụm mây

Chẳng biết khi nào vui hội ngộ

Vẫn mang bóng dáng đã hao gầy.

*

Kỷ niệm kia ta chợt thấy buồn

Tháng Tư dạo ấy cướp linh hồn

Ngày Ba Mươi đó, tan thành thị

Năm Bảy Lăm này, nát xóm thôn

Tất cả tinh thần đều hoảng hốt

Người người tâm trạng thảy hao mòn

Dân Nam khởi sự luồng di tản

Khiến nửa cuộc đời vắng nước non!

Paris, 21/04/2019

Trịnh Cơ

SẦU LY HƯƠNG

*

Sao buồn thầm lặng nén tâm tư

Hình bóng quê xưa chẳng xóa mờ

Thao thức bao đêm ôm khắc khoải

Ngậm ngùi từng phút chạnh sầu mơ

Ra đi cách trở luôn buồn nhớ

Gặp gỡ bên nhau mãi ngóng chờ

Ôi! Tháng Tư đen đầy ngiệt ngã

Lòng này tan nát cả hồn thơ!

*

Trịnh Cơ

Paris, 24/04/201

Kính Chuyển: Tháng Tư Thắp Nén Nhang Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Ngọc Loan!

Tháng Tư! Vận Mệnh Đen Của Cả Một Dân Tộc Đã Cột Vào Một Tấm Hình!

Nhiếp ảnh gia Adams: “Tướng Loan bắn viên đạn vào đầu tên Việt cộng Bảy Lốp, tôi hối hận, vì đã dùng máy ảnh, bắn vào đầu Tướng Loan!”

Nỗi Buồn Adams!

Viên đạn xoáy đi phun máu óc

Tôi nhanh tay bấm tạch máy hình

Bức ảnh hành quyết hai người chết

Thiếu tướng Loan và gã đặc công!

Thơ Bắc Phong

Sự nghiệp kéo dài 45 năm của Eddie Adams, như là một phóng viên chiến trường lừng lẫy nhất thế giới. Ông đã tham dự 13 trận chiến khác nhau trong cuộc đời làm báo, diễn tả qua bài viết cũng như những bức ảnh của ông. Từ trận chiến Triều Tiên (Korean War) khi ông phục vụ như phóng viên chiến trường của Thủy quân Lục chiến (Marine Corps) Hoa Kỳ. Rồi chiến tranh Việt Nam, cho đến cuộc chiến Vùng Vịnh ở Kuwait năm 1991…Khi ông về hưu, đã đoạt hơn 500 giải thưởng cao quý đủ loại, dành cho một, trong những ký giả tên tuổi nổi tiếng nhất.

Những người hân hạnh, may mắn được lọt ống kính của ông, là những nhân vật nổi tiếng nhất  trên thế giới. Từ Mẹ Teresa, tài tử kiêm thống đốc tiểu bang California Arnold Schwarzeneger. Tổng thống Regan. Nhà lãnh đạo cộng sản Cuba Fidel Castro, tài tử Clint Eastwood, cho đến Đức Giáo Hoàng John Paul II…Nên một tấm hình của ông, khác gì hàng chục tấn bom! Như quyền năng một “thượng đế” nhỏ, người không ai biết, nhưng hễ lọt vào ống kiếng của ông, sẽ thành nổi tiếng hơn một minh tinh màn bạc! (Hồi đó chưa có máy vi tính, chưa có I phone, chưa có mạng, nên người làm báo mới có quyền năng tuyệt đối như thế!)

Sau năm 1975, khi làn sóng Thuyền nhân Việt Nam tị nạn cộng sản lên đỉnh cao, ông Adams đã hãnh hiện với tấm hình ông chụp năm 1979, mang tên “Con Tàu Héo Hắt Nụ Cười!” Tấm hình chụp cảnh 50 người tị nạn Việt Nam vượt biển, chen chúc trong một chiếc tàu dài chưa đầy 15 feet, mênh mông giữa đại dương bao la, như con kiến, trong chậu nước! Trên đường trốn chạy CS, đi tìm tự do. Sau khi đất nước “thống nhất,” hay gọi là sau ngày “giải phóng” và đảng Cộng sản, bắt đầu thiết lập chế độ độc tài, tù đày, bắt bớ, toàn trị trên đất nước Việt Nam.

Tấm hình thuyền nhân giá trị này, đã giúp thuyết phục chính phủ, Quốc Hội Hoa Kỳ, chấp nhận ngay khoảng 200.000 (hai trăm ngàn) người tị nạn Việt Nam được nhập cư vào Mỹ! Ông đã có một lần khiêm nhường nói: “Tôi không có khả năng đi cứu rỗi cả thế giới. Hình và tin, giúp tôi làm việc này!”

Ký giả Adams qua đời năm 2001 vì bệnh Lou Gehrig, (cơ bắp tê liệt, teo cứng) Thọ 71 tuổi.

Trở thành tấm hình oan nghiệt nhất trong cuộc chiến!

Nhưng tấm hình nổi bật nhất, gây tác hại nhất, CS đã dùng như một phương tiện hữu hiệu nhất, để tuyên truyền tối đa, bằng chứng quan trọng thổi thành phong trào phản chiến, được nhiều người biết đến nhất. Vẫn là tấm hình ông Adams chụp tại chỗ, hình Thiếu tướng Cảnh sát VNCH, Nguyễn Ngọc Loan, xử tử, bắn vào đầu một tên đặc công Việt Cộng, tên Nguyễn Văn Lém, tự Bảy Lốp ở Chợ Lớn, Việt Nam, vào dịp Tết Mậu Thân, năm 1968.

Theo tài liệu An Unlikely Weapon: The Eddie Adams Story, sự việc này xảy ra vào ngày thứ nhì, trong cuộc tổng tấn công toàn diện miền Nam của cộng sản Bắc Việt. Ông Adams thấy một người lính VNCH miền Nam, lôi một người đàn ông ra khỏi tòa nhà. “Họ nắm tay và lôi ông ta ra đường phố. Bất cứ một phóng viên nào, trong trường hợp này, theo bản tính nghề nghiệp, cũng đều phải đi theo, và đó gọi là săn hình! Dĩ nhiên tôi đã đi theo, cho đến khi người bị bắt đó, được thảy lên xe và được đưa đi.”

Nhưng lọt vào ống kiếng, khung hình của ông Adams, là tướng Nguyễn Ngọc Loan, đang rút súng ra, nâng lên. Thông thường, đó là một thủ thuật dùng để trấn áp đối phương khi thẩm vấn. Kề súng vào đầu và hỏi cung. Theo ông Hal Buell, người săn sóc phần hình ảnh cho thông tấn xã AP suốt 23 năm: “Ông (Tướng Loan) đưa súng dí vào đầu và Eddie chụp tấm hình phỏng vấn, chỉ có một điều không ngờ, là ông tướng… bấm cò!”

Một trong những tấm hình chụp được, là tấm hình viên đạn xuyên qua đầu của người bị bắn! máu phun thành vòi!

Sau khi bấm cò xong, ông tướng Loan bước đến nói với ông Adams:

“Họ đã tàn sát, giết rất nhiều người dân của chúng tôi và còn có nhiều người của các anh nữa.”

Ngay tối hôm đó, mồng 2 Tết Mậu Thân, Eddie Adams đã chuyển bức hình Thiếu tướng Loan xử bắn tên đặc công Bảy Lốp từ Sài Gòn đi khắp thế giới.

Tấm hình này đã đem đến cho ông Eddie Adams giải vinh dự báo chí Pulitzer. Cũng tấm hình này, đã giúp làn sóng phản chiến ở Hoa Kỳ và trên khắp thế giới bùng lên dữ dội! Lu mờ chính nghĩa chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa!

Ngày nhận giải, ông Adams nói:

“Tôi mặc đồ dạ hội sang trọng để lãnh giải thưởng và tiền thưởng, về bức hình đó tại Đại hội nhiếp ảnh Hòa Lan. Khi ban nhạc trổi bài quốc ca Hoa Kỳ, tôi bật khóc nức nở như một đứa trẻ. Ai cũng nghĩ là tôi cảm động vì giải thưởng nghề nghiệp, cả đời mới đạt được! Nhưng không phải tôi khóc vì sung sướng, mà khóc cho cuộc đời Tướng Loan! Cho tới giờ phút đó, tôi vẫn chưa ý thức đủ tai hại việc tôi đã làm. Khi chụp tấm hình đó, tôi đã hủy hoại đời một ông Tướng! Vì ông bị dân chúng ở việt Nam lẫn Hoa Kỳ và dư luận thế giới lên án, về tội tàn nhẫn thẳng tay giết tù binh chiến tranh! Ngay ban ngày, giữa đường phố, trong một đất nước xưng có luật pháp, có dân chủ tự do. Thật ra, trong bất cứ cuộc chiến nào, người ta cũng vẫn còn hành sự như vậy, là chuyện bình thường. Nhưng hiếm có nhiếp ảnh viên nào, chụp được giây phút hành động này mà thôi.”

Và chính tấm hình tai hại này, đã làm cho ông Eddie Adams nhức nhối và dằn vặt lương tâm trong suốt cuộc đời ông! Đối với ông Nguyễn Ngọc Loan.

Hệ lụy Tướng Nguyễn Ngọc Loan với tấm hình

Về phần Tướng Loan, ngày 5 tháng 5 năm 1968, khi Việt Cộng mở đợt II, Tổng công kích vào thủ đô Sài Gòn của miền nam Việt Nam, ông Nguyễn Ngọc Loan đã bị bắn trọng thương cả hai chân, ngay trên cầu Phan Thanh Giản, khi ông cùng binh sĩ của ông, cố bảo vệ và đánh bật đối phương ra khỏi Sài Gòn.

Ông được đưa sang Úc điều trị, nhưng bị dư luận Úc phản đối, không cho nhập cảnh. Người ta phải đưa ông sang điều trị ở quân y viện Walter Reed Army Medical Center, ở tiểu bang Washington DC, Hoa Kỳ. Ông cũng gặp nhiều sự phản đối gay gắt ở đây, vì tấm hình oan nghiệt của Eddie Adams, và nhằm lúc phong trào phản chiến Mỹ đang lên đến đỉnh cao, và ngay từ những nhà lập pháp phản chiến của Quốc hội Hoa Kỳ. Ông không được chữa trị, đành trở về nước với đôi chân tật nguyền!

Năm 1975, trước khi Sài Gòn mất vào tay cộng sản Bắc Việt, cựu tướng Loan đã yêu cầu người Mỹ giúp di tản ra khỏi Việt Nam, nhưng bị làm lơ! Nhưng may mắn, cuối cùng ông cùng gia đình cũng đi được trên một chuyến phi cơ của hãng hàng không Nam Việt Nam. Đã có tin đồn rằng ông cũng rất vất vả để được vào Mỹ, vì người ta không muốn nhận một người “tàn bạo, dã man, máu lạnh” như ông. Trong lúc tin này khó kiểm chứng, thì nguồn tin có thể kiểm chứng được là năm sau đó, 1976, hai dân biểu của Đảng Dân chủ là bà Elizabeth Holtzman và ông Harold Sawer nộp đơn giùm tên Việt Cộng “Bảy Lốp Nguyễn Văn Lém” kiện Nguyễn Ngọc Loan và yêu cầu Hoa Kỳ trục xuất ông Loan! như một tội phạm chiến tranh, ra khỏi Hoa Kỳ. Nhưng việc đã không thành.

Ông cựu tướng Loan, sau đó đã định cư ở thành phố Springfield, tiểu bang Virginia và mở một tiệm ăn nhỏ ở đó làm kế sinh nhai, mang tên Les Trois Continents. Ông Loan qua đời vì bệnh ung thư ở thành phố Burke, cũng ở tiểu bang Virginia, vào ngày 14 tháng Bảy năm 1988. Trước ngày qua đời của ông Adams 13 năm.

13 ngày sau khi cựu Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan qua đời, ngày 27 tháng Bảy năm 1988. Ông Adams đã cho đăng bài Ai Điếu, có tính cách thú tội, ăn năn trên báo Time, nơi ông đã từng cộng tác trước đó:

“Tôi được giải thưởng Pulitzer năm 1969, qua một tấm hình trong chiến tranh VN, của một người bắn một người. Đã có hai người đã chết trong tấm hình đó: Người nhận viên đạn và TƯỚNG NGUYỄN NGỌC LOAN! (tên tất cả được viết hoa) Ông tướng Loan giết tên Việt Cộng, tôi giết cuộc đời ông Loan! với máy chụp hình của tôi. Ảnh là thứ vũ khí có tính thuyết phục mạnh kinh hồn trên thế giới này. Người ta đã tin hoàn toàn vào những tấm hình này, nhưng hình ảnh không nói lên toàn vẹn sự thật, ngay cả những lúc không cần mánh khóe sửa đổi, tái tạo hình. Ảnh chỉ trình bày một nửa sự thật. Cái điều mà tấm ảnh không nói lên là, “Anh sẽ làm gì nếu anh là ông tướng chỉ huy mặt trận, ở chỗ đó và ở thời điểm đó, trong ngày oi bức đó, và anh bắt được cái gọi là kẻ bất lương, tàn bạo, sát nhân, máu lạnh, sau khi hắn ta đã lấy đi sinh mạng của cả một gia đình và một, hai hay ba sinh mạng người lính Mỹ? Tướng Loan là người, mà chúng ta có thể gọi là một người quân nhân chân chính thực sự, được kính trọng bởi những người thuộc cấp của ông ta. Tôi không nói cái điều ông làm là đúng, nhưng chúng ta nên phải đặt mình trong hoàn cảnh của ông, sẽ thông cảm hơn!…”

Lời kết

Ngày ông Adams chụp tấm hình “để đời” kia, ông Loan đang là Tư lệnh Cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa của miền Nam, ông Adams là phóng viên của hãng thông tấn Associated Press. Mỗi người đều có nhiệm vụ riêng của mình, “chuyện ai nấy làm”. Nhưng sau tai họa tấm hình đó, hai người đã thấu hiểu và vẫn liên lạc với nhau.

Ông Loan đã từng nói với ông Adams: “Nếu anh không là người chụp tấm hình đó, người khác cũng sẽ làm! Định mệnh đen của đời tôi thôi!” Ông Loan chưa bao giờ đổ lỗi cho ông Adams đã làm tan nát đời mình và gia đình mình. Đây là lời xác nhận của ông Adams.

Và ngày ông Loan qua đời, ông Adams gởi vòng hoa phúng điếu đến, cho gia đình tướng Loan, với lời xin lỗi chân tình từ đáy lòng ông: “Tôi xin lỗi ông! Nước mắt đang dâng tràn trong mắt tôi! Con tim tôi co thắt! Tôi nợ ông hơn một lời xin lỗi!” ông Adams viết.

Lời nhắn, ông Adams ơi, ông nợ tướng Loan hơn một lời xin lỗi chưa đủ, ông còn nợ lời xin lỗi với trên 58 ngàn người Chiến Sĩ Hoa kỳ, đã nằm xuống trong cuộc chiến. Xa hơn nữa, với cả gần nửa triệu thuyền nhân VN, đã lấy đại dương là mồ chôn. Chưa hết đâu, ông còn nợ lời xin lỗi với hàng trăm ngàn người Lính VNCH đã bỏ mình trong cuộc chiến, và cả vài chục triệu người dân miền Nam!

Ông vô tình đã trao con dao sắc bén, cho một kẻ ác! CS là kẻ sát nhân giết người không gớm tay!

Tấm hình, 47 năm sau, những người Việt tị nạn CS vẫn còn giận ông, nhất là vào dịp Tháng Tư Đen mỗi năm!

HAT-BUI-THA-HUONG-

KÝ ỨC THÁNG TƯ 1075

Tháng tư, tháng tư vừa đen vừa đỏ
Ký ức gợi về hỗn loạn mông lung
Một tiếng súng rơi, một dòng máu rỏ
Một nét mặt buồn – ngơ ngác – ngóng trông
*
Tháng tư, tháng tư vừa hồng vừa tím
Giữa tiếng reo hò có nét âu lo
Có vết xe tăng nghiến đời khốn khó
Có vạn u sầu cùm nhỏ, cùm to

*

Tháng tư, tháng tư vừa xanh vừa xám
Cuộc chiến đã tàn thù hận chưa nguôi
Giữa ngày hòa bình, đêm tù ngục mới
Giữa chủ nghĩa cuồng, thuyền trốn ra khơi…

*

Tháng tư, tháng tư vết thương đã khép
Vết sẹo vẫn còn đậm nhạt lâu mau
Bốn bẩy năm rồi tưởng chừng như thể
Cơn ác mộng dài đất nước về đâu?

*

Hi-Yên (Nguyễn Xuân Hiệp)

GIỚI THIỆU SÁCH THÁNG TƯ ĐEN

Tháng Tư Mất Quê Hương

*

Lâu lắm rồi tháng tư buồn ngày ấy
Không hiểu sao tôi vẫn nhớ vẫn thương
Cuối tháng Tư tôi đã mất quê hương
Rồi xa mãi trong nỗi buồn biệt xứ.

*
Miền Nam Tự Do trong cơn đột tử
Triệu nén nhang buồn lịch sử sang trang
Ngày Quốc Hận, cõi hồn đau vô tận
Đất Mẹ buồn, phủ trắng một màu tang.

*
Miền Nam biến thành nhà tù cộng sản
Giam giữ trái tim, yêu chuộng hoà bình
Bắt người yêu nước giam vào ngục tối
Để văn thơ phá vỡ những nhục hình.

*
Tù cải tạo giam toàn những nhà thơ
Là đêm tối ánh sao trời rực rỡ
Bài thơ thức tỉnh thế giới loài người
Thoát khỏi u mê, phá vỡ đôi bờ.

*
Bắt hết tự do giam vào ngục tối
Tù nhân lương tâm, xứng đáng con người
Là tình yêu biết hy sinh cống hiến
Cho quê hương, lịch sử sáng ngời.

*
AET Lê Tuấn
Người lính già chưa giải ngũ
Tưởng nhớ ngày 30 tháng 4, 1975

Tháng Tư Chia Tay

*

Tháng Tư về nắng hạ còn lưa thưa
Khói bụi hồng cơn mưa chiều rất lạ
Bóng chim hốt hoảng xa bay cuối phố
Gọi nhau về theo lối cũ em qua.

*
Tháng Tư nở muộn loài hoa tím dại
Chiến tranh về để lại những thương đau
Những mặt người lấp ló nơi đầu ngõ
Lo sợ điều gì? Muôn vạn nỗi sầu.

*
Lời nghẹn ngào bao điều chưa muốn nói
Chia cắt từ đây, nơi đất mẹ xa vời
Cho thương khóc một người đi biền biệt
Gói trọn trong tim ký ức bồi hồi.

*
Tháng Tư lại về gợi nhớ thêm buồn tủi
Biển chia xa đẩy lùi bóng chim bay
Ngày vĩnh biệt xa nhau là xa mãi
Sài Gòn buồn tháng Tư, ngày chia tay.

*
AET Lê Tuấn
Nỗi buồn Tháng Tư 2022

Xa Nhau Tháng Tư

*
Xa nhau ngày đó tháng tư về
Lạc mất tình xuân lỗi hẹn thề
Chia cắt đôi bờ xa khuất bóng
Cõi hồn thương nhớ buồn lê thê.

*
Dấu đi góc khuất một hồn thơ
Tiếng nấc chưa ngưng vẫn đợi chờ
Ngôn ngữ còn tuôn đầy nỗi nhớ
Lòng như chất chứa đầy trong mơ.

*
Người yêu biển nhớ mối tình đầy
Biền biệt tha phương giữa chốn này
Mỏi cánh chim bay trời gió lạnh
Buồn nào day dứt ngày chia tay.

*
Cơn đau thân phận cũng qua mau
Số phận chia đôi cả nỗi sầu
Năm tháng vấn vương ngày ly biệt
Tháng Tư, vận nước đã thay màu.

*
Lê Tuấn

Tháng Tư Lại Về

*
Tháng Tư buồn lặng lẽ
Nắng hạ còn đơn côi
Sương mù giăng khắp lối
Lòng xao xuyến bồi hồi.

*
Em! Một thời để nhớ
Anh! Chinh chiến tơi bời
Sài Gòn thời hoa mộng
Lưu luyến một phương trời.

*
Con đường lá me bay
Đợi nhau mối tình đầy
Sông Sài Gòn dòng chảy
Cánh chim mờ chân mây.

*
Tháng Tư về hoang mang
Chiến tranh thật kinh hoàng
Đoàn người đi vội vã
Chia ly trong ngỡ ngàng.

*
Tháng Tư ta mất nhau
Hồn đau thấm nỗi sầu
Từ nay “Tự Do” mất
Chia đôi hai nhịp cầu.

*
Thái Bình Dương xa cách
Hai bên sóng vỗ bờ
Sóng thay màu tang trắng
Quê hương vẫn đợi chờ.

*
Em bây giờ mong đợi
Những yêu thương một thời
Sài Gòn ngày xưa ấy
Ta lạc nhau mất rồi.

*
Lê Tuấn

BÀI VIẾT VỀ 30 THÁNG TƯ CỦA VĂN THI SĨ H.O. HOÀNG MAI NHẤT:

Có 30/4 mới có “Tù Cải Tạo”, có “Tù cải Tạo” mới có H.O. Hôm nay, Hoàng Mai Nhất xin gởi bài viết nói về sự chiến đấu của anh em QCCVNCH trong tù ngục cs để tiếp nối theo bài viết “Trận Thử Lữa Đọ Sức Của Tù Cải Tạo Với CACS Trong Tù Ngục” đến Quý Trưởng Bối và Quý VTH VTLV để biết và cùng chia sẻ những gì mà anh em “tù cải tạo‘ đã phải chiến đấu để sống còn và để không hổ nhục đời chiến binh, vì:

                                    “ Xích xiềng cầm giữ xác thân
                               Hùng anh tráng khí trong anh vẫn còn
                                     Nguyện lòng không để xói mòn
                            Ngục tù cũng thể chiến trường năm xưa
                                                  ………………
                             Cuộc chiến đấu vẫn còn đang tiếp diễn “

                       Hoàng Mai Nhất  
                      Trại 6, Nghệ Tỉnh (1979 – 1980)

*************************

CHUYỆN CHƯA HỀ ĐƯỢC BIẾT HAY NGHE NÓI
 ĐẾN TRONG NGỤC TÙ CỘNG SẢN

Sau cuộc nỗi loạn  chống  đối trên một ngọn  đồi  ở  trại 6 Nghệ Tỉnh  của  anh em chúng tôi, là những người tù cải tạo từ Trại 9 Yên Bái tức Trại Nguyễn Giáp Giá do quân đội nhân dân csVN giam giữ; khichúng vừa  đưa  chúng tôi về tới trại này (xin xem lại bài viết “Trận Thử Lữa Đọ Sức Giữa Tù Cải Tạo Với Công An Bò Vàng Cộng Sản” đã đăng trên các báo và trang Tưởng Niệm 30/4/2021 của VTLV).


Chúng  vôi vàng gom  chúng tôi lại  để thành lập Đội 15 Đập Đá Lò Vôi như: Nguyễn Thanh Vân (BB), Nguyễn Thiện Nhượng(KQ),Nguyễn Đức Lợi (HQ), Nguyễn Thanh Liêm (P7, có em gái là vợ của một ông  anh bà con với tôi, dân HQ), Tạ Văn Thành (Giáo chức biệt phái), Lê Tuấn (BB), Lê Anh Thượng (P2 TKGĐ), Nguyễn Thượng Dực (BB, nhà thơ Đại Lãn, dân Hòa Hưng với tôi), Dương Văn Chương (Sĩ Quan  Báo Chí), Nguyễn Ngọc Minh (P7, dân Hòa Hưng với tôi), Giáo Sư  Vạn Vật  Nguyễn Văn Trọng (nhà  ở Gò Vấp với  một trại  nuôi chim Cút thành công ở Gò Vấp khi đi tù về); Lâm Ngọc chiêu (LLĐB),Hoàng Thế Việt (QBKQ), nhóm Cao Đài gồm: Nguyễn Văn To, Kính, Trường, Lương, Nguyễn Văn Tính (BĐQ, biệt danh Tính chuột vì nhỏ con, cũng dân Hòa Hưng; tù về sống ở Bàn Cờ), Lê Minh Phát (Phát Em nhà ở Gò Vấp, để phân biệt với Phát Anh dân CG ở Trương Minh Giảng; có lúc làm đội trưởng Đội 15 ĐĐ).

Có thêm một số anh em ở các đội khác tăng cường cho đủ số 40 tù ở một đội như: T/T Sữ Hồng Xuân (Trưởng Trại Giam tù Phiến Cộng ở Pleiku), T/T Lê Văn Trước (P7, em  vợ B/S  Chiểu Giám Đốc B/V Chợ Quán), T/T  Nguyễn Công Luận  (Giám Đốc Nha Chiêu Hồi), T/T Đinh Thành Tiên  (nhà thơ Tô Thùy Yên),  Tr/T  Nguyễn Phú Thọ (K16 VB, em  cố  Tr/T  Robert lữa  Nguyễn Xuân Phúc TQLC, K16 VB), Phó Đức Thành (BB), Nguyễn Nhự (CTCT), Ngô Thanh Tùng (BĐQ tù binh sau năm 1973, hình như trong trận Tống Lê Chân) và một số các anh Xã Trưởng miền Tây như: Sáu, Đằng, Hòa, Tín  cộng thêm một số các anh mà tôi không nhớ tên.  

Mục đích chúng lập Đội 15 ĐĐLV là để  đày đọa  chúng tôi và đồng thời  để dễ kiểm soát chúng tôi vì: bãi đá là một ngọn núi đá nằm chếch phía sau trại 6, trên  con đường  đi lại  của  dân chúng  quanh đó và lúc nào  cũng có  đội tuần tra  của trại  thường xuyên qua lại kiểm soát tù; cộng thêm một vọng gác canh tù ở trong trại, nằm ở góc trái  sau trại trên vọng gác cao  nhìn  về phía  ngọn núi đá. Như vậy thì nhất cử nhất động của anh em tù chúng tôi không bao giờ thoát được sự theo dõi của chúng.Thế nhưng anh em  đã từng bước  một phá vở kế hoạch đày ải kiểm soát anh em mình của bọn chúng và  đồng thời còn khống chế bọn chúng, bắt chúng phải theo ý mình.

Ngày đầu tiên ra đập đá, chúng chia đội làm bốn tổ:

Tổ1:phụ trách đập đá núi cho nhỏ ra để bỏ vô lò nấu thành “Vôi”.Quân số tổ 1 nhiều hơn  các tổ khác vì  công việc này nặng nhọc và nguy hiểm nhất. Tổ1 chia làm 4 toán: toán đập đá, toán khiêng đá, toán chất đá,luân phiên thay đổi cho nhau.

Tổ 2: phụ trách đóng những bánh“than”như ở những lò làm gạch để bỏ vô lò, cứ một lớp đá là một lớp than.

Tổ 3: đẩy xe cút kích ra bãi đá lấy đá đẩy về bỏ vô lò để nấu thành vôi, lấy than để bỏ vô lò và trong coi lửa trên lò không bao giờ cho tắt.

Tổ 4: phụ trách móc “Vôi” ở phía dưới lò ra ngoài và đẩy vô kho chứa. Tổ này ít nhất, chỉ khoảng 4 người.

Chỉ tiêu giao cho Tổ1 Đập Đá: mỗi đầu người trong một ngày phải hoàn thành một  thước vuông khối đá, tức là chiều cao, chiều dài, chiều ngang của khối đá phải đúng một thước.

Đá đập ra đâu phải miếng nào cũng lớn, dài, to đều nhau…thường thì bể nhỏ ra  thì làm sao có thể  chất thành một thước khối trong một ngày cho một người được. Đã vậy, nếu không biết  cách đập đá là phải lấy chân chận  trên cục đá trước rồi mới đập,để tránh búa khi đập bị trợt sẽ nện vô chân, dập xương hay gảy chân  dễ như chơi. Sự  chận đá bằng chân này, còn là để tránh miểng đá bắn đui mắt (đã  có một vài  anh bị miểng đá bắn vào gần mí mắt, chớ không là bị đui rồi). Đã vậy, cạnh  của  miếng đá lại rất bén, bén hơn  dao cạo râu nên  dể bị thương do bị cạnh bén của mãnh đá cắt thịt, da gây nhiễm trùng. Trong đời tù tội không có thuốc, xà bông để rửa vết thương thì khổ lắm lắm…

*Tôi là nạn nhân của việc bị mép đá bén làm bị thương  mà  đến giờ qua 20 năm ở Mỹ , B/S Mỹ cũng không chữa dứt được:

                                           BỆNH  

                       Ý chí còn nhưng xác thân gần nát…
                       68 tuổi! Đời gọi lão ông chưa?
                       ……………………                     
                    _ cơn đau nhức
 * dồn dập đến rồi đi                     
                    _ móng tay hư thối
 * buốt đêm ngày 

                                         (thơ Hoàng Mai Nhất)                   

cơn đau nhức / móng tay hư thối: ngón tay bị tảng đá đè khi chất đá cất nhà lầu, chẳng may đá xập xuống,đè bẹp ngón tay. Giựt mình, giật tay ra , ngón tay trỏ của bàn tay trái mất  đi móng tay và thịt; nhờ  còn chút thịt mỏng  nếu không là lòi  xương ra rồi. Không  có thuốc ngừa  nhiễm trùng, mà chiều về, phải  tắm nước ao tù chứa  đầy vi trùng do dùng phân tù pha nước tưới thẳng lên rau cải trồng, chảy xuống hồ.

Anh em tù đập đá làm vôi, mỗi chiều trước khi vô trại, đều phải tắm; nếu không sẽ bị ngứa và lở loét.Do đó,ngón tay của tôi đã bị nhiễm trùng nặng.Móng tay bị biến dạng, sưng đỏ  và  rỉ nước vàng hôi thối; còn làm nhức thốn ở trong xương như có con gì bò rất là khó chịu đến không ngủ được.

Ở Mỹ hơn 20 mươi năm, uống trụ sinh liên tục  mà không hết. Có trụ sinh  thì móng tay  mọc trở lại bình thường, hết trụ sinh thì móng tay tái phát bịnh trở lại như cũ. Bác sĩ Mỹ chê rồi, không chữa được, chỉ trị dứt  được sưng rỉ nước vàng mà thôi.

Anh em biết ngay là  nó muốn hành hạ đày đọa  mình để trả thù việc nổi loạn  mấy ngày trước làm náo loạn, chấn động cả Trại 6 và tin nổi loạn này đã lan truyền gây ảnh hưởng đến các trại khác gần đó, nên nó rất tức giận và quyết tìm cách triệt hạ mình.

Vì biết vậy nên anh em cứ tà tà làm cho lấy có. Hai tên công an canh tù và tên cán bộ  quản giáo tên Lý tức lắm mà không làm gì được anh em mình hết. Nó nạt nộ, hăm dọa thì anh em nói rằng:“việc làm này nặng nhọc lại mới quá nên không quen, chỉ tiêu giao quá cao nên không sao hoàn thành được; yêu cầu Trại giảm chỉ tiêu xuống”. Và rồi anh em bắt  đầu tiến hành cuộc phản đối chống lại chỉ tiêu trời ơi đất hởi này của nó, theo từng bướcmột

Tên cán bộ Lý mặt non choẹt (quản giáo đội 15 chúng tôi, cấp bậc Hạ Sĩ) thì vẫn luôn hùng hổ nạt nộ, hăm dọa anh em đủ điều nên anh em đặt cho nó cái tên là cán bộ “nhí”; điều này làm nó càng điên tiết lên nhưng  vẫn không làm  anh em sợ hãi mà thay đổi cách làm. Dằng co như  vậy đâu cũng gần tháng trời, Trại bèn cho thay tên Nhí bằng một cán bộ khác tên Điển về làm quản giáo Đội15 Đập Đá.

Lúc này  anh em  đã  chán với trò dằng  co qua lại này nên một hôm, không biết anh em nào đã nghỉ ra sáng kiến tuyệt vời là: khiêng đá  đã có sẳn từ trước đang chất đống ở bãi đá,đem sang chổ mới sau khi đã dọn dẹp phát quang sạch và xóa dấu vết của bãi đá cũ, không cho thấy có dấu di chuyển đá ở đó. Đá đó  được anh em khiêng (cứ hai người khiêng một miếng đá) đem chất chồng lên chổ mới, là nơi sẽ báo cáo chỉ tiêu Đội chúng tôi làm ra trong ngày.

Cứ dựng đứng bốn phiến đá lại, bọc chung quanh  sao cho  đúng kích cở  một thước vuông như chỉ tiêu chúng đặt ra; còn ở bên trong trống thì đi luợm đủ thứ đá lớn, lớn vừa, nhỏ lòn hòn liệng vào trong cho nó đầy kín (không kín  cũng không sao  vì bốn mặt  và bên trên đã lấp kín rồi). Anh em đã  đặt cho cách sáng tạo này một cái tên nghe đầy vẻ văn minh hiện đại  của Tư Bản Dẫy Chết (từ  cs gọi  chế độ  miền Nam khi chiếm được Saigon) là: “cất nhà lầu”.  

Với cách sáng tạo mới này, anh em cứ thoải mái nghỉ ngơi, hút thuốc tán gẩu, đi bắt  cóc nhái dưới các gộp đá hay kiếm rau cải  để lắp đầy cái bao tử  đang  đói meo réo sùng sục trong bụng. Và rồi đợi đúng giờ hoàng đạo là  anh em  theo tiếng hô  của anh đội trưởng, nhào vào khiêng đá  từ bãi củ qua bãi mới để cất nhà lầu…chỉ trong thời gian ngắn, nhà lầu  cất xong; anh đội trưởng  chỉ việc  đi báo cáo cho tên quản giáo đi ra kiểm tra đặng cho đội về trại nghỉ.Đọc đến  đây chắc ai cũng sẽ  thắc mắc là  còn hai tên công an coi tù thì sao? Chẳng lẽ nó chịu đứng im để anh em mình quậy qua mặt nó như vậy sao?? Xin thưa, làm gì cũng có kế hoạch hết; biết tụi nó cũng đói vì lúc nào đội ra tới bãi đá, là nó đều bắt anh đội trưởng cử ra hai anh em đi qua đội tăng gia để đào khoai lang, khoai mì, bắp về nấu cho chúng nó ăn. Thế là, nắm bắt cơ hội này, anh em bèn chọn sẵn hai anh giỏi kể truyện (phần lớn là  anh em lớn  tuổi  tình nguyện) để mỗi sáng, khi ra tới bải đá là sẽ nhận làm anh nuôi phục vụ chúng vừa  ăn uống, điếu đóm vừa  nghe kể  chuyện truyền bá nọc độc Mỹ Ngụy cho chúng nó nghe.

Cả đời  tụi nó bị nhồi sọ tuyên truyền nào biết gì đâu…giờ biết được cái hay của một nền văn hóa tự do miền Nam (đủ thứ truyện) nên mê  tít thò lò  nằm  nghỉ miết  trong hang đá mà hưởng thụ, tội gì phải ra đứng phơi nắng cho cực tấm thân trong khi tên cán bộ quản giáo thì được thoải mái ngồi nghỉ mát trong nhà Lô (đây cũng là khía cạnh  mà  anh em triệt  để lợi dụng để khai thác tối đa sự  ganh ăn ghét ở của bọn chúng với nhau). Vậy là anh em mình cứ ngoài này thoải mái diễn tuồng. Anh Đội Trưởng chỉ việc đứng canh, hể thấy hai tên coi tù trong hang dợm bước ra là báo động cho  anh em ai vào việc nấy lăng xăng tới lui, cực nhọc đập đá cho có tiếng vang…Tôi và anh Lợi thường hay phụ trách việc đập đá, mệt thì nhường anh em khác thay thế.

Ăn uống thiếu thốn lại mất ngủ thường xuyên vì đói, vì lũ rệp muỗi cứ luôn cắn chích, tấn công liên tục lúc đêm về; nên chỉ đập ba, bốn búa là xây xẩm mặt mày muốn xỉu. Anh Lợi là người thuộc làu Truyện Kiều nên hể ngưng tay nghỉ ngơi là anh đọc và  dẫn giải cho anh em nghe như là để ôn lại những gì của văn học ngày xưa đã được học. Không biết bây giờ anh còn nhớ nữa không?!Tên Điền quản giáo mới, lấy làm lạ là tại sao  đội không bao giờ hoàn thành chỉ tiêu mà bây giờ lại báo cáo là làm xong và  còn  đủ vượt chỉ tiêu nên nó nghi ngờ và…bắt đầu rình…Hắn đi vòng qua ngõ đội rau và lần theo vách đá dựng đứng khuất phía sau bãi đá.Anh em mình đâu ngờ cú rình mò này của nó. Toán canh chừng đội tuần tra chỉ canh chừng con đường thường xuyên đi lại trước mặt bãi đá chớ khôg hề nghĩ là nó sẽ đi lối này vì rất khó đi nên ỷ y không đề phòng.

Thế là mánh của  anh em mình bị nó phát hiện, bắt tại trận…và nó mừng rỡ, vừa nhào ra vừa la:“náo…náo…các anh dám qua mặt lường gạt Trại như thế à!!!”. Không dừng lại ở đó, nó nhảy lên bề mặt của đống đá mà anh em đã chất chồng lên theo kiểu cất nhà lầu.Phiến đá  đập bể ra thì  cạnh của nó rất mỏng, chỉ  có lần lần vào trong là dày dần lên; nhưng vì  anh em chất gá lên mà không  có bỏ thêm thứ gì lên trên nên nó không bị  ảnh hưởng gì; nay tên  quản giao làm tàng nhào lên đứng  và còn dậm chân nghiến răng rủa xả anh em: ”các anh cất chuồng heo như thế này để  qua mặt Trại, qua mặt chúng tôi à!” Nưc cười! Miền Nam  sung túc dư  dã  nên  cách diễn đạt cũng đầy phóng khoáng sang giàu: “cất nhà lầu”. Trong khi  đỉnh  cao nhân loại  thì nghèo đói bần cùng nên chữ dùng cũng thấp kém, nghèo nàn…”cất chuồng heo”.

Thiên bất dung gian! Mặt phẳng  phiến đá khi không bị dẫm đạp, chịu  sao nỗi  nên xập xuống, chân nó vì mang dép râu nên bị mép đá bén cắt đứt chảy máu dầm dề;nó lồng lộn lên:“náo..náo!Anh đội trưởng đâu! Trưa nay đội không  được về trại ăn trưa, phạt ở lại làm cho đến tối, chừng nào tôi  cho phép mới được về”. Và rồi nó cà nhắc cà nhắc đi về trại để băng bó trong khi anh em mình cười vui hỉ hả vì được xem một màn kịch thị uy lãng nhách không giống ai.

Anh em mình bị đói quen rồi, bao tử teo tóp lại rồi nên có nhịn không ăn trưa bằng mấy củ khoai sùng, sơ sượng cũng đâu có sao, tối về ăn thành hai phần cũng được thôi; không nghĩa lý gì hết. Nhưng tụi nó thì không nhịn được, vì đã  có tù làm nuôi mập thây ra rồi; nên sáng hôm sau, khi ra tới bãi đá là nó bắt đội trưởng cử hai người đi lấy khoai về nấu cho nó ăn. Hai anh nuôi bất đắc dĩ  dò hỏi nó mới biết là tụi nó  ăn chung mâm bốn người, đến giờ  ăn mà không về, thì  những thằng về  ăn trước sẽ  xơi hết không chừa nên nó bị đói…Từ đó, nó không  còn dám bắt anh em làm đến tối mịt mới cho về mà phải cho anh em về đúng giờ quy định. Và thế  là mặc nhiên nó  chấp nhận  một luật bất thành văn là, việc  anh em  mình làm thì  cứ làm miễn đừng để nó bị Trại khiển phạt;cứ báo cáo đủ chỉ tiêu và nó cũng báo cáo lên trại như vậy và nó thì cứ ở miết trong nhà Lô mà không hề bước chân ra khỏi nhà Lô để đi kiểm soát việc đập đá của anh em.

Trại được báo cáo là đội nổi loạn khó trị này, giờ đã tích cực lao động và không có biểu hiện chống đối nào; đã vậy luôn làm đủ, vượt  chỉ tiêu nên không  đầy ba, bốn tháng sau gì đó, khi về  nắm chức  quản giáo đội thay cho tên cán bộ Nhí; cán bộ Điển được Trại cho lên Thượng Sĩ. Như vậy là cấp bậc của tên quản giao Điển là do anh em mình gắn cho nó. Điều này làm cho tên Lý  càng thù ghét  đội thêm lên và tìm mọi cách để hại đội cũng như hạ bệ tên Điển hầu nắm lại chức quản giáo Đội 15.

Chuyện  đấu tranh chống và làm thay đổi nội quy Trại 6 của Đội 15 Đập Đá Lò Vôi, còn nhiều tình tiết hấp dẫn  mà không  ai  có thể ngờ được; tuy nhiên vì  quá dài nên tôi mạn phép tóm gọn ở đây, xin mời xem để biết rõ hơn khi cuốn “Đoan Ký Tù “ viết xong và ra mắt.  

Bây giờ  xin nói về chiến thắng ngoạn mục mà không có Trại nào, Đội nào trong “tù cs” làm  được như Đội 15 Đập Đá Lò Vôi Trại 6 Nghệ Tỉnh này:

Sau khi  thống trị bãi đá  và làm  cho tên  quản giáo Điển phải chấp nhận thỏa hiệp, không dám bước ra ngoài bãi đá để kiểm soát, mà bỏ mặc cho anh em mình muốn làm gì thì làm,miễn sao cuối ngày cứ báo cáo hoàn thành chỉ tiêu để nó không bị phạt và giữ yên chức  quản giáo đội; còn hai tên công an canh tù thì coi như lúc nào cũng bị nhốt kín trong hang đá để hưởng thụ.

Anh em tiến tới bước nữa là tổ chức cho các anh em có thăm nuôi được gặp mặt Vợ Con, người Mẹ của mình ngay tại bãi đá:1/ Người đầu tiên là LâmNgọcChiêu (LLĐB).Thấy anh ra gặp vợ đi thăm nuôi về,mặt có vẻ bí xị, buồn xo; anh em mới hỏi:”ủa sao mới gặp đuợc vợ vô lại có vẻ buồn dữ vậy!?

Chiêu im lặng không trả lời. Anh em mới hỏi:”muốn gặp mặt vợ ở ngoài bãi đá không?”“Làm sao gặp!” Chiêu hỏi lại.

Anh em nói : ”thì nhờ người ngày mai ra gặp mặt vợ con nói dùm với vợ anh là: “cứ nhắm ngọn núi đá giả bộ như đi nhìn ngắm cảnh vật, rồi cứ đi vòng vòng, lần tới núi đá. Anh em sẽ canh cho anh gặp chớ gì đâu”.Mấy bà Vợ đi thăm nuôi chồng luôn chờ đợi nhau để đi về chung cho an toàn,nên chuyện vợ anh Chiêu đi gặp anh ở bãi đá quá dễ dàng; có điều là dám đi hay không mà thôi.Và vợ  anh Chiêu  đi thật. Quá nể luôn! Tình yêu  đúng là không  có gì cản nỗi!! Và rồi  anh chị  đã gặp nhau an toàn gần cả ngày trời ở bãi đá dưới sự canh chừng giúp đở  của  anh em đội đập đá.  Và chuyện này đã làm nảy sinh câu chọc ghẹo trong Đội 15 cho  quên đời tù tội là: “thằng Chiêu nó nói là thấy vợ ra thăm,mặt cái quần lãnh đen láng o..nên anh em động lòng tổ chức cho nó đuợc gặp vợ nhà cho thỏa lòng mong nhớ”.

Chiêu hả! Có  đọc đoạn này cũng đừng trách Lê Anh Thượng này xạo sự nhen huynh. Tôi không chế ra điều này đâu! Anh em có nói vậy cũng chỉ là để tìm niềm vui cho quên đời tù…Dù sao anh cũng còn có người thăm nuôi, còn tôi  con Bà Phước hoàn toàn vì: “người yêu thì tôi  đã nhắn về, xin em hãy  quên tôi và nếu thấy ai thương mà kết hợp được thì hãy tiến tới; vì tôi không biết có còn sống để về trong cái Mùa Hè Đỏ Lữa này không, dưới trời mưa bom bảo đạn của cs; khi mà đạn tránh mình chớ mình tránh đạn được đâu!”.2/ Người  thứ  hai là  anh Hòa (Xả Trưởng miền Tây). Ngày xưa, ở  miền Tây  mà lên Saigon, vô Trung Tâm Huấn Luyên Quang Trung để thăm là cũng trần thân khoai củ rồi; chớ đừng nói chi ra thăm chồng đóng quân ở miền Trung. Bây giờ lại khăn gói quà cáp ra tận miền Bắc cs, lại còn phải đi vào rừng  sâu núi  thẳm nữa thì gian khổ, nguy nan cở nào, thế mà vẫn đi; cho nên  anh em lại  giúp  anh Hòa thôi. Và cũng như  anh Chiêu, vợ  chồng anh Hòa được gặp nhau ở  bãi đá  dưới sự  canh chừng giúp đở của anh em.  

Hình do C/h Nguyễn Thanh Vân cung cấp

Ô hình chữ nhựt trong vòng tròn đỏ là toàn bộ Trại 6. Ngay đầu chấm màu đen ở trong vòng tròn đỏ, là nhà giam Đội 15 Đập Đá (mái nhà xưa). Vệt  xanh dài bên phải  vòng tròn đỏ là bức tường trại giam. Giữa bức tường trại giam và Ao tắm là con đường mà Đội 15 thường đi và về khi đi lao động, Và Má của C/h Tùng đã đi để ra thăm con ở bãi đá. Con đường ngoằn nghòe màu vàng là con đường mà vợ C/h Chiêu đi bọc vòng để thăm Chiêu,vì là chuyến đi đầu tiên nên phải đi như vậy cho an toàn.


3/ Người thứ ba là  C/u Ngô thanh Tùng (BĐQ). Vừa ra trường TĐ là bị bắt làm tù binh, bị  dẫn đi theo đường mòn HCM ra Bắc giam giữ cuối năm 1973(?),trận đánh nào thì tôi không nhớ.Hiện Tùng ở Nam Cali [nghe anh em cho biết, Tùng có thời gian làm Tổng Thư Ký  cho Chính Phủ NHC (?)]. Gia đình đã lập bàn thờ và đã nhận tiền tử tuất.

Nhóm tù binh bị bắt trước 1975, được đưa  về giam ở trại 6 Nghệ Tỉnh chung  với  anh em  mình  có ba người là: C/u Tùng (BĐQ), Rạng (binh nhì BB), Long (binh nhất, BB). Và Tùng về Đội 15 Đập Đá,Khi nhận được giấy báo cho thăm nuôi,Má Tùng và em gái vội vàng đi ngay ra Bắc để thăm Tùng.Tình thương  của người mẹ  quả lớn lao, nên vừa  ra tới trại;  được  gặp  con xong là hôm sau, hai mẹ  con đi thẳng ra bãi đá bằng con đường ngắn nhất, cập theo bờ tường trại giam là con đường mà Đội 15 thường đi về mỗi ngày lao động  chớ  không đi vòng như vợ anh Chiêu, vợ anh Hòa mà không hề sợ hãi gì hết.Tội nghiệp và  thấy thương cho Tùng, còn trẻ măng và đẹp trai nữa, tuổi đời chưa tới hai mươi mà đã bị giam giữ  mút mùa lệ thủy, lâu dài như vậy; cho  nên lâu lâu, đang lao động là Tùng ngưng làm và nhìn lên trời mà nói như hát: “Mẹ ơi! Con nhớ Mẹ, nhớ  gia đình! Bao giờ con mới được gặp lại Mẹ đây?!”. Anh em nói khẻ với nhau:Thằng Tùng nó tửng tửng như vầy là nó “mát giây thừng” rồi!”.Thưa quý vị, khi ngồi viết đến đây là tôi ứa nước mắt  vì thương  cho  cuộc đời  còn  quá trẻ  của Tùng và cho những người lính miền Nam VNCH…Chúng tôi dù sao cũng bảy tám năm lăn lộn chiến trường, còn Tùng vừa mới ra trường…

Mẹ và em gái còn đàng xa là Tùng đã chạy nhào ra để ôm Mẹ và vừa chạy vừa kêu:“Mẹ…mẹ…”, nước mắt tuôn rơi. Mẹ Tùng và em gái cũng vậy. Thấy vậy,  để tránh  cho  cảm  xúc lớn làm  mất đi niềm vui hạnh ngộ không ngờ được như vầy, nên tôi và Phó Đức Thành tranh nhau lên tiếng chọc ghẹo:“Má! Má con là Thượng nè! Con là Thành nè! Tụi con chưa có vợ! Má nhớ con nhen! Đừng tin thằng này, nó có vợ rồi đó Má”. Làm Má Tùng  cũng vừa vui vừa cười: “nhớ… nhớ hết!”. Còn  cô  em gái Tùng thì vừa cười cười trong sự bẻn lẻn vừa cúi mặt.

Thật không  có gì  để  diễn tả  được hết niềm vui gia đình Tùng  và cũng là của tất cả  anh em chúng tôi trong ngày hôm đó. Chúng tôi ồn ào như vở chợ như  vậy mà không sợ gì hết và thật sự  cũng không có một tên công an nào xuất hiện để làm khó  dễ hay bắt bớ một ai hết; ngay cả tên ngồi trên chòi cao canh gác cũng không có hành động báo động gì hết; điều này cho thấy, tụi nó đã bị  anh em mình khống chế, mua chuộc  và  chúng ta  đã đánh thắng nó ngay  trên trận địa (Trại 6) của  chúng nó và ngay tại hang ổ vùng Thanh Nghệ Tỉnh của chúng nó, nơi mà chúng luôn luôn ca ngợi là cái nôi của cắt mệnh…

Còn nhiều chuyện hy hữu mà khi biết được, sẽ không  ai tin là Đội 15 Đập Đá Lò Vôi Trại 6 Nghệ Tỉnh lại có thể làm được như vậy.

Xin đón xem Đoản Ký Tù “Cuộc Chiến Đấu Vẫn Còn Đang Tiếp Diễn” của Hoàng Mai Nhất, H.O. 26 Lê Anh Thượng sẽ ra mắt khi viết xong.

                                                                       Hoàng Mai Nhất
                                                               Mùa Quốc Hận 30/4/2022
                                                                 (Seattle, WA 15/4/2022)

CỤ TRINH SÁT  –  CAO MỴ NHÂN 

 Đại uý Quang, San Jose (số 1 từ trái ) nhà thơ Thiếu Tá Cao Mỵ Nhân (số 3 từ trái ) Đại uý Ánh (áo trắng)

Trời ơi có lẽ trời sinh ra mình để được bảo bọc, che chở …

Mới nghĩ thế thôi, và mỉm cười …thì từ kính viễn vọng, mình đã thấy anh cười diễu cợt rồi. 

Ý anh muốn bảo: ” Rứa từ hồi nào, Cao Mỵ Nhân tung tẩy ở chốn ba quân, phục vụ dưới trướng Trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh QĐI/QKI, mà nay ngán vài anh chàng lính kiểng, chuyên ru với gió và vơ vẩn cùng mây ấy à ? ” 

Không phải sợ, mà ngại họ giả vờ quên mình, không nhận mình là …thi sĩ. 

Ô hay, chứ không phải lâu nay, Cao Mỵ Nhân vãn quan niệm thơ văn là thú tiêu khiển nhất thời thôi, còn sinh hoạt huynh đệ chi binh mới là chính yếu đó sao ? 

Ố ô, tưởng anh lúc nào cũng ơ hờ công chuyện của mình, hoá anh như ” cụ trinh sát”, không một suy nghĩ gì của mình, anh không biết tới. 

Vậy thì mình tiếp tục về sân chơi KaKi, “tám” cho huynh đệ chi binh hay, mấy ngày nay mình ở trong nhà thôi, mà vẫn bị thiên hạ dòm…

Coi mình có về đại bản doanh HNPD họp chuẩn bị cho 2 ngày 30/4 bị Bên Cướp Cuộc đánh phá, và sinh nhật anh 19/6 vô cùng thương nhớ, kỷ niệm ngày Quân Lực VNCH không? 

Mình có hàng chục cuốn băng, đĩa các đơn vị QL/VNCH diễn hành, nên thay vì xuống khu chợ VN ăn bún chả cá Thăng Long, bún bò Huế vv…mình ngồi nhà vẳt mảy xem đường xưa lối cũ quân đi rầm rập dưới cờ. 

Đoạn nào, đoàn nào cũng có anh và các chiến hữu của anh. 

Từng đơn vị, từng đơn vị …cứ nhịp nhàng tiến bước theo nhịp quân hành . 

Chu choa, sao mà khí thế, sao mà quang vinh vô vàn, khiến tới bây giờ, mình vẫn còn phấn khởi, hoan hô chớ. 

“Mỗi Ngày Một Chuyện” anh nói rồi, mình có cơ hội viết lại biết bao kỷ niệm, mà chắc chắn không dứt được, vì dĩ vãng cứ tiếp nối thêm dĩ vãng, dĩ vãng nào cũng bắt mình nhớ nhung điều gì khắc khoải lắm. 

Thêm vào đó là những sự kiện mới mẻ xẩy ra đây kia…

Xưa người ta chỉ nói tới 2 chữ “quân phiệt”, nay có thêm đủ thứ phiệt, trong đó lại lởn vởn những từ văn phiệt, thi phiệt vv…mới kỳ cục, tức cười làm sao. 

Để thí dụ, tôi xin đan cử 2 “cas” cụ thể . 

Ở một khuôn viên kia, mặc dù nhóm nhỏ đã cơm bưng nước rót đón mừng vài ” thi tặc” (ngôn ngữ của nhà văn cao bồi Thế Phong xưa) ra mắt một cuốn “cộng cảo” viết từ thủ đô của “phẩm giá con người” (ngôn ngữ của cs bắc bộ phủ thời Điện Biên Phủ trên không cuối năm 1972) liệt kê các …thi hào hải ngoại ông A bà B theo “cảm tình viên đảng csvn”. 

Một thi sĩ miền nam thứ thiệt từ thời Ngô Tổng thống thành lập chế độ Cộng Hoà đệ nhất, lỡ đi dự buổi lễ hoà hợp văn hoá quốc cộng đó, về hơi buồn xa vắng, phone cho tôi : 

Này Cao Mỵ Nhân, sao mình thấy cái cuốn cộng cảo đó, toàn ghi tên ai lạ hoắc, à có được 2 ông thi sĩ cấp cao Cung Trầm Tưởng với Tô Thuỳ Yên vớt vát cho đội ngũ thi sĩ hải ngoại . 

Tôi buồn cười quá: ” Thì ông đi dự làm gì, thời nay phong danh văn nghệ sĩ theo cảm tính, ông là đại uý VNCH thi sĩ thứ thiệt, nhưng đưa ông lên, chẳng có lợi gì, chật chỗ”. 

Thế sao 2 vị tá của mình mà họ cũng đưa vô tuyển tập cộng cảo làm gì. 

Là vì quý vị ấy ” cung kiếm nghỉ ” lâu rồi, còn chúng mình cứ mặc áo lính cho tới giờ này, họ tránh, để sách “run”. 

Sách run là chạy hay run rẩy kiểu VN? 

Bà ở Mỹ mà cứ nói VN hoài à. 

Điều tôi muốn nói như vầy nè. Họ từ luống cày đi lên, không biết thì thôi, đằng này phe ta cứ làm như chỉ nó ( nguyên văn ) biết đọc biết viết tiếng Việt, còn hải ngoại xài ngoại ngữ không à. 

Họ mượn danh nghĩa hải ngoại, nhưng tên tuổi local chiếm lĩnh 9/10 trọng lượng cuốn sách, rồi khệ nệ bưng ra hải ngoại, mong có khách tới dự, để cho không, ý quên để kính biếu làm tư liệu một thời qua phân đất nước.

Bà thế nào, chứ tôi chủ trương không giao lưu, Muốn hoà hợp, e phải vài thế hệ sau. 

Tôi thì nghĩ là nên tuyệt giao luôn, đừng nói tương giao làm gì cho tốn nước bọt. 

Do đó tôi thấy xốn mắt, khi ngó tấm hình quý ông bà ngồi xen kẽ với đám mà Thế Phong dành cho danh nghĩa “tặc ” làm nền cho văn hoá giao lưu. 

Đồng thời quý vị thi phiệt ở đây cứ mơn man tư tưởng 90 triệu dân trong nước biết tới mình hơn là chỉ có 5 triệu độc giả ( đối với thơ văn nhạc hoạ ) Việt tha hương, kể luôn cả dịch vụ xuất khẩu người của Hà Nội.

Đó là cuốn cộng cảo năm ngoái.

Còn “cas” thứ 2 như thế nào? 

Một “thi tỷ” của …tôi  vì sắp hoàng hôn cuộc đời, đã cùng ái nữ ” thi sĩ tượng trưng ” biên sọan cấp tốc một thi cảo, phát hành trong nước. 

Nếu định làm ” kinh tế “thì hiếm gì nội dung .

Bạn  ta đã xài tiêu đề: ” giới mặc yếm cầm bút “, để phù hợp với chuyên chính vô sản, không xài tiếng Hán ” tài xế ” mà đổi thành “chiến sĩ lái”, thì cuốn thi cảo ” giới mặc yếm cầm bút, đã bất chiến trở nên thành công …dễ sợ. 

Một loạt các bà, cô mặc yếm được xếp hàng lên lãnh chứng chỉ “đàn bà viết” kèm theo cuốn vinh danh người nữ qua thi ca csvn.

    Tất nhiên Không phải công hầu khanh tướng gì họ …quên tôi. Song vì họ rất nhớ tôi là một lính Cộng Hoà,không muốn cho tôi vô cái tập cộng cảo thứ hai đó.

Thật ra đó chỉ là  chuyện thường trong viết lách.

Không chỉ bây giờ mà từ xưa rồi, nhưng bây giờ có vẻ đại trà hơn, người ta đã làm việc theo xu hướng cảm quan. 

Tôi được một vị tiên phong đạo cốt trong nghề thơ luật 

7 x 8 dặn rằng: ” có thấy sót tên mình ở cảo nào, đừng giao động,  phải hiểu trên một cành hoa xuân sơ khai, thịnh khai, hay mãn khai đi nữa, không bao giờ Thượng Đế để cho hai đoá hoa cùng nở một lúc”. 

Luật tạo hoá đã vậy, thì luật người, luật rừng còn chấp nê hơn thế cơ. 

Huống chi mình đang trưởng trụ trong chính nghĩa quốc gia, cho tên vô cái lò cộng sản báu gì, chưa kể còn xấu hổ với huynh đệ chi binh nữa đấy. 

OK rõ như ban ngày thì sẽ sống vui, sống khoẻ ngay …

CAO MỴ NHÂN (HNPD)

THƠ XƯỚNG HOẠ: MẤT NƯỚC – NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG  + CAO MỴ NHÂN:

ĐỔ LỆ  ( Bài xướng ) 

*

Bài thơ đổ lệ Việt Nam ơi

Cộng Sản ma vương đội lốt người

Chín đoạn lưỡi bò Tàu cướp đảo

Ba khu kinh tế Trọng thâu lời

Công an, Quân đội mau lên tiếng

Trí thức, Thanh niên chớ nín hơi

Cách mạng trong, ngoài cùng một nhịp

Biên cương phải giữ dẫu xương phơi…

*

    NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG

PHÁCH GỌI HỒN THIÊNG  ( Bài hoạ ) 

*

Thôi rồi Việt Tộc chúng ta ơi

Đốt lửa mau lên khắp xứ người

Lớp lớp quân về, bom đánh địch 

Hàng hàng bạn tiếp, súng thay lời

Đao pha lũ quỷ đang ôm đảng

Lính gọi đồng bào đến tiếp hơi

Tổ Quốc còn gì khi mất nước

Đừng chờ phách lạc với hồn phơi…

*

  CAO MỴ NHÂN  ( HNPD )

RỦ NHAU ĐÁNH TÀU.    CAO MỴ NHÂN 

*

Đảng phái đâu rồi, hội kín đâu

Mà không kết hợp đuổi quân Tầu 

Ông già bà cả và trai tráng 

Bia bọt nhạc sầu với mọt sâu 

Ra rả đấu tranh sao trốn biệt 

Trực chờ thay đổi ngại tù sao

Đứng lên đi chứ nam cùng bắc

Tất cả ta ra hết tuyến đầu …

*

      CAO MỴ NHÂN 

NEU-EM-KHONG-LA-NGUOI-YEU-CUA-LINH-KMD1

CHUYỆN TÀU TRƯỜNG XUÂN



Tháng 11/1974, tàu Trường Xuân ra Hòn Khói lấy muối để chở đi Singapore. Gió Đông Bắc thổi mạnh, lùa từng cơn gió giật vào vịnh, khiến những ghe nhỏ không thể cặp vào tầu để vợi muối. Số muối dự định chở sang Singapore phải bỏ lại đến 1 phần 3.

Tàu Trường Xuân rời Việt Nam đang lúc tình hình chiến sự nghiêm trọng. Giao kèo chuyên chở hàng hóa trong vùng Đông Nam Á đến hết tháng 6/75 mới có thể trở về Việt Nam. Tôi thật sự lo lắng miền Nam không thể đứng vững, vì đồng minh đã bỏ chạy, còn Bắc quân có cả một hậu phương rộng lớn: Trung Cộng và các nước trong khối Liên Xô.

Trường Xuân đến Singapore, ghé Bangkok, rồi đi Phi Luật Tân… Hết Cebu đến Manila, qua Ternate Nam Dương rồi đến Balik Papan thuộc Borneo. Tình hình đất nước ngày một khẩn trương. Qua đài BBC, VOA, hết Quảng Trị, Đà Nẵng, Qui Nhơn, đến Nha Trang, miền Cao Nguyên Trung Phần rơi vào tay Cộng Sản. Quân đội miền Nam tiếp tục di tản, cảnh dân chạy loạn thật hỗn loạn, bi thảm. Những sà lan, những ghe thuyền chở đồng bào tị nạn từ miền Trung trôi dạt ngoài biển, không lương thực, không nước uống.

Hình ảnh những bao rác đựng xác trẻ con đem từ các sà lan xếp thành hàng dài ngoài bãi biển Vũng Tàu cùng những hình ảnh bầy trẻ lạc cha mẹ trong các trại tị nạn đã gây nhiều bàng hoàng và xúc động mãnh liêt.

Tôi không phải là một sĩ quan trong quân đội cầm súng chống quân thù. Tôi là một nhà hàng hải, có thể giúp được gì cho Quê Hương, cho đồng bào trong cảnh khói lửa điêu linh này? Tôi rất muốn được giúp đồng bào tôi, được cùng chia xẻ với đồng bào trong giờ phút đau thương này. Ngồi trên con tàu cách xa quê hương ngàn dặm mà lòng tôi bồn chồn như lửa đốt…Tôi cố hồi tưởng và viết lại những sự kiện đã giúp cho 3628 đồng bào chúng tôi bất chấp hiểm nguy, cùng nhau vượt biển khơi để tránh khỏi rơi vào tay Cộng Sản và đi tìm Tự Do. Sau đây là diễn tiến của nhiều việc đã đưa đến chuyến đi định mệnh của tàu Trường Xuân. Những sự kiện mà sau này lúc ngẫm nghĩ lại thì tôi thấy dường như đã được sắp đặt một cách huyền diệu để đưa tàu Trường Xuân ra khơi, để thử thách mọi người trên tàu phải phấn đấu để đạt được niềm ước vọng quí giá là hai chữ Tự Do.

Bến kho 5 Khánh Hội Sàigòn, 30/4/1975

Tàu Trường Xuân rời bến Kho Năm, Khánh Hội, Saigon hồi 1 giờ 25 phút trưa ngày 30/4/1975 sau khi Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, và quân Cộng sản tiến chiếm Saigon hồi 10 giờ sáng…

(1) Ngày 3/4/75, đài phát thanh Úc loan tin: “Quân đội Cộng sản còn cách Thủ đô Saigòn 60 cây số và đang tiến về Thủ đô không gặp sự kháng cự nào.” Tàu cặp bến Pare Pare, tôi loan tin trên cho thủy thủ đoàn. Tất cả đều muốn về với gia đình. Tàu Trường Xuân quyết định chỉ ghé Singapore lấy hàng rồi quay trở về Saigon.

(2) Lúc ghé Singapore, Cơ khí trưởng tàu Trường Xuân đi phố chơi, ăn nhậu say, khi về đến cổng thương cảng thì bị vấp ngã, bị thương ở đầu bất tỉnh nhân sự. Cảnh sát phải chở đi nhà thương điều trị. Tàu Trường Xuân về đến Saigon, Cơ khí trưởng xin tạm nghỉ việc để điều trị vết thương. Vị Cơ khí trưởng này thường phát biểu ý tưởng có nhiều thiện cảm với phe bên kia cho nên tôi nghĩ rằng nếu anh ta không gặp tai nạn thì đến ngày 30/4 chưa chắc anh ta đã chịu xuống tàu để di tản và đến giờ phút cuối cùng thì không dễ gì tìm được một người Cơ khí trưởng.

(3) Tàu Trường Xuân về đến Saigon ngày 17/4/75, cặp bến Thương cảng Khánh Hội gặp nước ròng nên tàu cặp bến quay lái (phía sau tàu) ra biển. Tàu đã đến hạn lên ụ để tu sửa đại kỳ hàng năm. Vì công xưởng hải quân bận việc nên tàu chỉ tu sửa những bộ phận cần thiết ngay tại bến thay vì nằm ụ cả tháng trời. Tàu lấy hàng 300 tấn sắt vụn, lấy 80 tấn dầu, 100 tấn nước ngọt và 10 bao gạo để chuẩn bị đi Manila. Tàu có thể khởi hành ngày 24/4/75 nhưng tôi nấn ná chưa khởi hành vì tình hình đất nước mỗi ngày một nghiêm trọng…

(4) Tôi xin Công Ty Vishipco tuyển dụng Cơ khí trưởng Lê Hồng Phi. Mãi đến sáng ngày 29/4/75 Công Ty mới chấp thuận cho Cơ khí trưởng Phi nhận việc.

(5) 5 giờ chiều ngày 29/4/75, tôi xuống tàu không gặp Cơ khí trưởng Phi, và sĩ quan phụ tá cho biết là Phi đã về nhà đưa gia đình ra bến thương cảng để cùng di tản. Tôi dùng phấn viết lệnh rời bến lên bảng đen cho thủy thủ đoàn: “Tàu rời bến ngày 30/4/75 hồi 11:30 sáng.”

(6) 6 giờ sáng 30/4/75, Trần Khắc Thuyên chở tôi ra tàu cùng với Phạm Trúc Lâm. Đường sang thương cảng Khánh Hội bị chắn nhiều khu phố. Sau khi quan sát tàu, Thuyên đưa tôi về nhà để hướng dẫn hai xe GMC chở khoảng 200 người gồm gia đình, thân nhân và bà con lối xóm, ra thương cảng…

(7) Bình thường trước khi tàu khởi hành, sĩ quan phụ tá phải cho thử tay lái trên đài chỉ huy để bảo đảm chạy tốt, và chính tôi cũng thân hành tự kiểm soát lại. Tuy nhiên sáng 30/4/75, tôi nhớ là đã tự nhủ phải đi kiểm soát lại tay lái xem có gì trục trặc không, nhưng tôi lại quyết định không thử tay lái vì bụng bảo dạ: “Giờ này mà còn đi lo những việc nhỏ… Cộng quân đã tiến vào Saigon rồi… Việc thử tay lái đã có sĩ quan phụ tá lo…” Rồi tôi lại tự trách sao lại đi lo những chuyện không đáng lo. Và thực ra không hiểu vì sao chính sĩ quan phụ tá lần đó cũng quên thử tay lái trước khi nhổ neo, vì nếu được biết trước tay lái đã bị hỏng hay bị phá hoại thì tôi đã không dám cho tàu rời bến.

(8) 9 giờ sáng, Sĩ quan Vô tuyến điện Nguyễn Văn Diệt yêu cầu tôi ra cổng thương cảng để can thiệp với nhân viên cảnh sát gác cổng cho gia đình anh vào trong lên tàu để di tản. Ra đến cổng thì thấy đồng bào chạy nhớn nhác như một đại nạn đang ập đến. Không thấy gia đình, Diệt xin nghỉ ở lại tìm gia đình…

Một thủy thủ đoàn tối thiểu phải có Thuyền Trưởng, Cơ khí trưởng và Sĩ quan Vô tuyến, nhưng bây giờ Sĩ quan Vô tuyến đã xin ở lại. Tôi đành phải chấp thuận vì biết dù có ra lệnh buộc anh phải đi cũng chẳng được… (Ba năm sau anh Diệt di tản bằng thuyền, định cư ở vùng Virginia. Sau bị tai nạn xe cộ đã mất.)

Tôi buồn bã trở về tàu, trong lòng hoang mang lo ngại vì không biết tìm đâu ra một Sĩ quan Vô tuyến điện trong giờ phút này. Vừa về đến tàu thì gặp anh Nguyễn Ngọc Thanh, Sĩ quan Vô tuyến điện của một tàu khác đến xin nhận việc.

Tôi mừng rỡ nhận lời ngay và thầm cảm ơn Trời Phật sao đã khéo léo xếp đặt. (Anh Nguyễn Ngọc Thanh đã mất tại Pháp quốc.)

 (9) Khoảng 12 giờ trưa, dân cũng như quân ào ào đổ xuống tàu. Cầu thang để leo lên tàu đã bị gãy. Cơ khí trưởng Phi báo tin tàu có thể khởi hành và tôi ra lệnh khởi hành. Vừa mở giây buộc cho tàu tiến nhẹ, bẻ nhẹ tay lái sang phải, tàu chạy thẳng.

Tay lái không ăn! Tàu ngừng chạy, cặp lại bến. Tôi mới nhận ra là tay lái đã bị hỏng. Hệ thống tay lái dùng dầu ép để điều khiển bánh lái, nhưng sau được biết hệ thống điều khiển bánh lái đã bị kẻ nào phá hoại trút dầu ra và cho nước vào. Thật là một sự kiện kinh hoàng đến choáng óc. Tôi đã thoáng nghĩ đến việc hủy bỏ chuyến đi…

Cơ khí trưởng sau khi xem xét lại hệ thống lái, cho biết tay lái phòng hờ còn xử dụng được. Trong suốt cuộc đời làm Thuyền trưởng tôi chưa bao giờ phải xử dụng tay lái phòng hờ, mà bây giờ lại không có lấy được một người thủy thủ biết lái. Chưa biết đối phó với tình huống nan giải thì một người đứng gần đó tự nguyện nhận điều khiển tay lái phụ…

(10) Khoảng 13 giờ, nước bắt đầu lớn – thủy triều lên. Tôi cho mở giây ở phía lái tàu để tàu tự động xoay 180 độ trên sông, hướng mũi ra khơi… Ngay lúc tàu vừa rời bến, một cơn gió nhẹ thổi từ bờ đẩy tầu ra giữa sông. 13 giờ 25 tàu khởi hành. Từ đài chỉ huy, tôi ra lệnh lái tàu qua một ống loa dài chừng 20 thước dẫn đến người bẻ bánh lái ngồi trong một cái chòi ở phía sau tàu. Lúc đầu tôi ra lệnh sang phải 10 độ thì tàu lại hướng sang phía trái. Tôi chợt nhận ra ngay là núm điều khiển tay lái phụ chỉ ngược chiều với hướng tàu chạy. Bắt đầu từ đó, muốn tàu sang bên phải thì tôi lại ra lệnh ngược lại. Cứ thế mà đi trên sông.

(11) Đến khúc sông rộng, tàu đang chạy ngon trớn, bỗng Cơ khí trưởng hét lên qua ống loa: “Thuyền trưởng cho bỏ neo ngay! Phải ngừng máy đèn!” Ai bỏ neo bây giờ? Bỏ neo rồi làm sao kéo neo lên? Máy tàu ngưng, tàu vẫn chạy ngon trớn.

Đầu óc rối như tơ vò! Nhưng lúc này cần phải bình tĩnh, không thể làm một quyết định sai lầm. Tôi biết rằng không thể bỏ neo ngay lúc này khi máy trên tàu bị hỏng và sẽ không dùng máy để kéo neo lên được. Cũng không thể để tàu chết máy nằm dọc bờ sông vì khi nước triều xuống thì tàu sẽ mắc cạn và tầu sẽ lật nghiêng. Cách còn lại duy nhất mà tàu có thể tự cứu vãn là tìm cách cho tàu lên cạn, mũi ghếch lên bờ, chân vịt chìm dưới nước. Chờ máy sửa xong thì tàu sẽ tự rút ra được.

Chiều xuống, tàu vẫn đâm mũi vào bờ chờ sửa máy. Hỏa châu của Cộng sản mừng thắng trận nổ vang rền, sáng rực khu Rừng Sát. Tàu không thể rút ra được vì không còn hơi ép cho nổ máy. Cái nguy căn bản nhất là không còn hơi ép để cho chạy máy đèn. Máy đèn chạy mới có thể có hơi ép làm nổ máy cái. Cơ khí trưởng Phi cho biết nhân viên châm dầu đã tự ý khóa hệ thống làm nguội máy đèn… Đây có thể là một hành động vô ý thức hay là phá hoại, nhưng tôi nghĩ bây giờ không phải là lúc xét xử và điều tra mà phải làm sao cứu vãn được con tàu.

Tàu ở tình trạng hiểm nghèo. Tôi đã phải tự trấn an: “Cần bình tĩnh! Nếu tàu nằm mắc cạn ở đây chắc chắn Cộng sản sẽ bắt hết mọi người. Cùng lắm chúng xử bắn mình là cùng…” Tự nhủ như thế để tâm trí không bị rối loạn vì nếu làm những điều sai lầm trong giờ phút này là mất hết.

Tàu Trường Xuân chờ Tàu kéo Song An, Saigon, 30/4/1975

Tàu kéo Song An từ Vũng Tàu về đi ngang vào đúng lúc này. Nhiều người lên tiếng kêu cầu cứu nhưng Song An vẫn chạy thẳng. Trong lúc đó có một chiếc tàu Hải quân nhỏ chạy từ hướng Saigon đến. Tàu Hải quân thấy vậy bèn nổ một phát súng thị uy. Tiếng nổ ầm vang chấn dội lồng ngực, Song An quay trở lại. Sau nhiều lần cố gắng kéo tàu Trường Xuân giây kéo đều bị đứt. Đến gần tối thì nước lớn, Song An mới kéo được tàu Trường Xuân ra sông, rồi tiếp tục kéo cho mãi đến 8 giờ ngày 1/5/75 mới tới Vũng Tàu.

(12) Rút kinh nghiệm di tản từ miền Trung đã có bạo động trên những xà lan, cho nên tàu vừa rời bến Saigon, tôi đã kêu gọi thành lập Ban Trật tự và Ban Cứu thương. Nhờ sự tận tâm của Ban Trật tự nên không xảy ra bạo động. Nhờ Ban Cứu thương, đã có em bé sinh ra trên tàu, giữa biển cả, được mẹ tròn con vuông.

(13) Vừa tới hải phận quốc tế, lệnh hạ khí giới được triệt để tôn trọng. Tàu khởi hành ra khơi mà tám cần trục kéo hàng vẫn chưa được hạ xuống. Thật là may mắn khi chúng ta gặp biển lặng và sóng êm. Nếu biển động những dây buộc cần trục sẽ bị đứt. Cần trục nặng cả tấn sẽ rớt xuống tàu và nhiều người có thể bị thương hay bị thiệt mạng vì tai nạn khủng khiếp này.

(14) Gần tối ngày 1/5/75, sau khi vớt được anh Vũ Văn Thụ, tôi cảm thấy yên tâm hơn. Tôi tin tưởng đồng bào đều chứng kiến việc làm đầy thiện chí, lo lắng cho sự an nguy của một nhân mạng, mà mọi người cũng sẽ từ bỏ lòng vị kỷ và nghĩ đến những người đồng cảnh ngộ với mình.

Tàu Clara Maersk và Trường Xuân

(15) Nhờ có Sĩ quan Vô tuyến gửi đi những tiếng kêu cầu cứu nên con tàu thiên thần Clara Maersk đã đến cứu và đưa chúng ta đến bến bờ Tự Do.

(16) Ngày 2/5/75, khi tất cả mọi người đã được chuyển sang tàu Clara Maersk an toàn thì một người từ phòng máy đi lên, thấy tôi vẫn đứng một mình trên đài chỉ huy.

Lòng tôi vẫn luyến tiếc con tàu đã cứu bao nhiêu đồng bào và gia đình mặc dù họ đã phải trải qua những hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm. Thân hữu này nhìn tôi với cặp mắt thật buồn rồi nói: “Tôi vừa ở phòng máy lên, phòng máy đã ngập nước. Thuyền trưởng phải rời tàu ngay.” Nói xong anh lặng lẽ bước sang tàu Clara Maersk.

Tôi đã đi nhiều nơi và gặp nhiều thân hữu Trường Xuân, có để ý tìm gặp vị thân hữu này nhưng vẫn chưa tìm ra.

o

o o

Hội Ngộ Trường Xuân 30 năm ở Houston vào đúng ngày 30/4/2005, tôi đã gặp Đại Úy Cơ khí trưởng Nguyễn Thế Phiệt, người đã tự nguyện xử dụng tay lái phụ.

Ngày 12/6/2006, tôi được gặp lại Trưởng Ban Lực Lượng Đặc Biệt Bùi Đăng Sự đi trên chiếc tàu Hải Quân nhỏ từ Saigon chạy ra. Anh đã bắn phát súng thị uy bằng súng phóng lựu M79, nên tàu Song An đã quay lại đưa 3628 người chúng ta ra khơi. Anh Sự và một số người trên tàu Hải quân đã lên tàu Trường Xuân trong lúc tàu Song An buộc dây kéo tàu Trường Xuân ra khỏi cạn.

32 năm đã trôi qua mà hình ảnh và diễn tiến chuyến đi định mệnh của tàu Trường Xuân vẫn còn in rõ trong tâm trí tôi. Những sự kiện dường như đã được tiền định để cho tất cả chúng ta cùng gặp nhau trên con tàu để phải cùng phấn đấu và cùng đến được bến Tự Do.

Phạm Ngọc Lũy

TƯỢNG TIẾC THƯƠNG

*
Chúng giật sập rồi Tượng Tiếc Thương

Nghĩa trang Quân Đội quá thê lương

Trời ơi nước mất ngày bi thảm

Đất hỡi nhà tan buổi nhiễu nhương

Mộ phế điêu tàn buồn chửa dứt

Bia sờn lạnh lẽo hận còn vương

Nằm đây chứng kiến “đòn thù” giặc

Đau khổ cho người đổ máu xương !

*
DUY ANH

TƯỢNG TIẾC THƯƠNG  (Thể thơ S.T.L.B.)

*
Pho tượng lính, thế ngồi gác súng

Mắt nhìn xa, xuyên phủng màn đêm

Bạn ơi, hãy ngủ êm đềm

Có tôi canh gác bên thềm nghĩa trang…

*
Rồi vận nước tới màn bi đát

Giặc cộng vào chiếm đoạt miền Nam

Vì sao thua cuộc cho cam

Ván cờ ngang ngửa, hàng tan, hỡi trời!

*
Kẻ bại trận, thế thời phải thế

Nghĩa trang buồn hoang phế thê lương

Tan tành tượng línhTiếc Thương

Xác người nằm đó, hồn vương nỗi hờn

*
Người lính khổ trong cơn quốc biến

Vì non sông đã  hiến thân mình

Một đời tận tụy hy sinh

Đến khi nằm xuống, an bình được đâu

*
Bọn giặc đỏ còn lâu khoan nhượng

Chiến sĩ ta gắng gượng đòn thù

Hàng binh “cải tạo” bao Thu

Từ Nam chí Bắc, ngục tù thê lương

*
Giải phóng hả? Nhiễu nhương thống khổ

Chế độ gì?Dân bỏ miệt kh

iCột đèn đi được cũng đi

Tâm hồn hoang lạnh nói chi nấm mồ

*
Bao phế mộ cơ hồ buồn tủi

Không khói nhang thui thủi quạnh hiu

Nhắn bầy thắng trận ác kiêu

Luật trời quả báo gấp nhiều lần hơn!

*
DUY ANH

CHÙM THƠ THÁNG TƯ – VÕ ĐẠI TÔN

LỜI DÂNG LÊN MẸ VIỆT NAM

(47 NĂM QUỐC HẬN)

                                                                                                    VÕ ĐẠI TÔN

MẸ VIỆT NAM  ơi

47 năm rồi

Áo con đã rách.

Còn sợi chỉ nào, từ nguồn thiêng huyết mạch

Cho con xin, vá lại áo Đời.

Con đã đi, đường gai góc mòn hơi

Xuyên rừng núi, mồ hôi pha trộn máu.

Về  quê hương, nguyện lòng son chiến đấu

Nửa đường đi thành đêm tối lao tù.

Mười năm ôm hận nghìn thu

Lênh đênh chìm theo vận Nước.

Và hôm nay, vạn nẻo đường xuôi ngược

Con vẫn còn tiếp bước Cha Ông.

*

Bao nhiêu năm – Mẹ đã đau lòng

Nghe con khóc từ trùng dương sóng chuyển.

Huyền sử xưa năm mươi con theo Cha về biển

Giống Rồng Thiêng mở rộng cõi bờ.

Còn hôm nay vì hai tiếng Tự Do

Trăm ngàn thây vùi tan nơi vực thẳm.

Năm mươi con vượt rừng sâu muôn dặm

Theo Mẹ hiền – thơm nửa máu dòng Tiên.

Dựng quê hương hùng sử khắp ba miền

Nay Văn Hiến cằn khô cùng sỏi đá.

Những địa danh chôn xương tù gục ngã

Tên kinh hoàng, tủi nhục đến nghìn năm.

Hoàng Liên Sơn không nấm mộ con nằm

Cổng Trời  nghe máu khóc.

Dã thú vờn quanh, xiềng gông, tang tóc,

Nghĩa “Con Người” thua chữ sắn khoai.

*

Bao nhiêu năm – em bán hình hài

Tìm miếng cơm manh áo.

Đại Hàn, Đài Loan, xông xáo

Mua em về làm món đồ chơi.

Năm nghìn năm dù nước lửa dầu sôi

Chưa bao giờ mẹ bán con vì đói.

Bầy trẻ thơ còm cõi

Bươi rác nghèo, rách rưới lang thang.

Nghe quanh mình loa vẫn thét “vinh quang”

Đường Tương Lai đá cũng tan thành lệ.

*

Bao nhiêu năm tưởng chào vui thế hệ

Ngẩng cao đầu, tay vói đến năm Châu.

Nhưng cội nguồn và đạo lý chìm sâu

Lo sáng tạo những đua đòi vật chất.

Mùi kim tiền thơm hơn bánh mật

Giấc mơ vàng : – mong thoát khỏi quê hương.

Thúy Kiều xưa, rơi sóng nước Tiền Đường

Nay viết lại thành Tiền Giang, phản động !   (*)

Lũy tre xanh, cánh tay thần Phù Đổng

Bao anh hùng dựng Nước thuở ban khai

Còn lại đây hoang phế cả đền đài

Tên Hùng Vương đành thua tên Bill Gates.  (*).

Túi càn khôn đã nghèo, thêm rỗng tuếch,

Văn Hóa này còn lại tiếng “bia ôm” !

*

Bao nhiêu năm – răng hổ đói đỏ ngòm

Luôn gầm thét, xé tươi hồn Dân Tộc.

Từ địa đạo ùn lên bao cơn lốc

Thành “đại gia” chễm chệ một phương trời.

Miệng “vô sản” toàn men rượu nồng hơi,

Tay “chuyên chính” ôm bao đầy châu báu.

Dinh thự nguy nga, dựng lên từ máu

Của nhân dân khổ hạnh một đời.

Người thương binh ngẩng mặt nhìn trời

Nghe tiếng khóc trong tiếng cười vang vọng.

Chiếc xe lăn bánh mòn, gãy gọng

Lê thân tàn về cuối hẻm đơn côi.

*

MẸ VIỆT NAM  ơi

47 năm rồi,  niềm đau quặn thắt.

Đã có bao người lửa lòng nguội tắt

Dĩ vãng quên rồi, hiu hắt tình Quê ?.

Lớp già nua mơ ước nẻo về

Không nhắm mắt, cuối đời lên tiếng nấc.

Còn tuổi trẻ hồn nhiên hoa mật

Nơi xứ người chấp nhận quê hương.

*

Nhưng một ngày mai :

Đường hoa nở hướng dương

Hành trình thôi cúi mặt.

Sẽ có những đàn con vòng tay siết chặt

Kéo mặt trời về lại phương Đông.

Tổ Quốc sẽ tươi hồng

Giữa hào quang Dân Tộc.

Cây Tự Do sẽ đâm chồi nẩy lộc

Lửa Nhân Quyền bừng sáng nẻo thâm u.

Mái trường vui thay thế chốn lao tù

Cho con học từ cội nguồn Nhân Bản.

Không kẻ nào được quyền mua bán\

Thịt da em, nguồn sống của Rồng Tiên.

Hồn Tổ Quốc linh thiêng

Đài cao về chiếm ngự.

Cuộc hành trình từ quê hương – viễn xứ –

Chuyển xoay thành trẩy hội hoa đăng.

Từ phương Nam tung vút cánh chim Bằng

Thành Rồng thiêng Đông Á.

Từ núi cao nghiêng mình ra biển cả

Rạng ngời soi hai chữ : VIỆT NAM.

*

Lời trần tình bao nhiêu năm

Con viết bằng tim máu.

Từ nỗi đau âm thầm chôn giấu

Kính dâng lên TỔ QUỐC hằng yêu.

Mỗi chữ-vần mong gói trọn một điều :

Từ Tâm Thức xin góp chung Hành Động.

Đại cuộc Toàn Dân ban con Lẽ Sống

Hiến dâng đời cho trọn nghĩa Quê Hương.

MẸ VIỆT NAM ơi

Dù gian lao xin tiếp máu Lên Đường

Cho con về với Mẹ.

Vững chân đi, qua trăm ngàn dâu bể

Được quỳ ôm từng mảnh đất quê Cha.

Phút cuối đời xin biến lệ thành hoa

Giữa triều vui Dân Tộc.

Trong lòng con : – Vĩnh hằng TỔ QUỐC

Huy hoàng Văn Hiến – Tự Do !.

VÕ ĐẠI TÔN.

Ghi chú :

 * Văn Học – Trong kỳ thi tốt nghiệp trung học tại Việt Nam năm 2004, qua đề tài bình luận về truyện Kiều của Nguyễn Du, đã có nhiều thí sinh nộp bài viết : Thúy Kiều vì buồn chuyện gia đình đã tự vận tại sông Tiền Giang, may nhờ một nữ cán bộ cộng sản vớt lên, cải tạo tư tưởng phản động, Thúy Kiều giác ngộ, xin được kết nạp vào dảng.

 * Lịch sử – Trong cuộc thăm dò ý kiến sinh viên các trường đại học ở Việt Nam về các vĩ nhân thế giới và dân tộc, đa số sinh viên đều tuyển chọn Bill Gates làm thần tượng số 1 của giới thanh niên hiện nay trong nước.

30-4-SAO-BUON-QUA-KMD1

“CON ĐƯỜNG KINH HOÀNG” CỦA TUỔI THƠ QUẢNG TRỊ

Bài Viết Của Hùng Bi


“CON ĐƯỜNG KINH HOÀNG” CỦA TUỔI THƠ QUẢNG TRỊ 

Hùng Bi

Tháng tư năm 1972, tui mới chỉ là một con bé 8 tuổi học lớp 2 ở Trường Tân sinh 1 của thị xã Quảng Trị.

Tầm tuổi đó thì tui chẳng biết gì về chuyện chiến tranh hai bên đánh nhau có súng nổ đạn bay, có nhà cháy người chết…Tui chỉ biết một điều là người dân quê tui chạy giặc thường lắm!

Vốn là một cô nhi tử sĩ, từ khi mới lẫm đẫm biết đi tui đã sống với Ông Bà ngoại. Cả quê nội quê ngoại của tui đều ở thôn Thượng Trạch, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ba tui đầu quân đi lính Biệt động quân thời Ngô Đình Diệm cùng một số thanh niên trong làng, toàn đóng quân ở trong nam. Má tui do bà nội cưới cho Ba chớ hai người trước đó chưa biết chữ yêu đương. Thấy Má còn trẻ mà phải ở nhà làm dâu tội nghiệp, bà nội mới cho đi vô nam theo Ba. Nhờ gạo trắng nước trong, tôm cá đầy sông, giọng hò cấy lúa của miền nam, tui mới được hoài thai nên nói trong máu thịt và tâm hồn tui có dính dấp một chút miền nam thì cũng không có chi là sai.

Mới được 14 tháng tuổi thì Ba tui tử trận trong một trận công đồn rất lớn ở Đức Huệ-Hậu Nghĩa. Sau khi đem xác Ba về Quảng Trị an táng, má con tui ở lại nhà ngoại luôn.

Hồi ấy nhà ngoại đã dời lên Xóm Chuối trên thị xã. Theo như sau nầy tui nghe nói, lúc đó tỉnh Quảng Trị là địa đầu giới tuyến, là chảo lửa của chiến tranh hay gì gì nữa nỏ biết, nên chuyện chạy giặc đối với người dân khá thường xuyên. Có một số bà con của ngoại sống bên bờ bắc sông Thạch Hãn, cứ nghe có rục rịch là gồng gánh bồng bế sang nhà ngoại ở tạm ít bữa, nhắm tình hình coi bề yên yên lại quay lui về nhà cũ. Tui không rõ người quê tui mắc cái chứng chi mà lưu luyến mảnh đất quê nghèo nhiều như rứa? Đã chạy giặc hoài răng không chạy luôn một lèo vô Huế hay Đà Nẵng mà sống cho yên mà cứ thụt tới thụt lui?

Lần nầy thì tui nhớ mập mờ đâu khoảng mới mùng 10 tháng 3 âm lịch đã có người qua ở nhờ rồi.

Tháng tư! Không biết những cơn gió Lào khô hanh đã thổi về chưa? Tối qua không khí bức bối rất khó chịu, mồ hôi rịn ra xung quanh cổ làm tui cứ phải níu tay ông ngoại nhét cây quạt giấy vô bắt quạt suốt! Mãi tới quá nửa đêm, không khí bớt oi nồng và cơn buồn ngủ quá độ ập tới mới làm tui ngủ thiếp đi…

Ngày 13 âm lịch mới sáng bảnh mắt, còn đang nằm nướng trên giường trong giấc mơ được bận chiếc áo dài xẻ tà màu nõn chuối, mang đôi guốc gỗ gót cao, tay che cây dù nhỏ xíu màu tím hoa cà đỏng đảnh bước trên con đường làng về thăm bà nội trước những cặp mắt trầm trồ đầy ngưỡng mộ của bọn trẻ nít đồng trang lứa trong làng thì nghe tiếng ông ngoại lắc chân khua dậy:

  • Dậy! Dậy mau mà chạy giặc! Bọn nớ tới rồi!

Tui không biết bọn nớ là bọn nào? Chỉ muốn nằm ạch trở lại đặng tiếp tục giấc mơ đẹp nên phụng phịu không chịu bước xuống giường, cho đến khi có tiếng nạt lớn của ông ngoại. Chẳng kịp rửa qua cái mặt, tui bị ấn lên vai một cái túi nhỏ.

Tui không biết do có lịnh của chính quyền hay lời đồn đãi loan truyền mà nhà ngoại cũng gồng gánh chạy giặc xuôi vô Huế.

Ông ngoại thì gánh một đầu bầy vịt, một đầu mùng mền. Bà ngoại thì gánh một đầu quần áo, một đầu nồi niêu soong chảo mắm muối. Má tui thì bồng em bé và quảy thêm trên vai túi quần áo, mựa Gái vợ cậu Công cũng quần áo và một túi gạo, nách đứa con nhỏ. Riêng tui thì bà ngoại phân công mang một túi nhỏ đựng đâu khoảng mươi lon sữa bò gạo.

Cả nhà lật đật hoà theo dòng người chạy giặc, nhưng tui cứ lẫy rồi dùng dằng chẳng muốn đi vì phải mang túi gạo nặng chịch trên vai. Từ nhà ra tới lộ cái mấy trăm mét mà cả nhà cứ phải lựng xựng chờ con nhỏ cứng đầu…Gánh nặng thì phải bước sải theo đà đi cho mau lại nhẹ vai, nhưng ông ngoại cứ phải chậm lại để chờ những bước đi ngắn ngủn chứa đầy sự lôi thôi của tui nên gắt um lên. 

Mãi tới khi ra đụng bìa lộ, tui chộ một đứa con gái trạc tuổi mình bị trúng đạn nằm chết bên lề đường mới thất kinh hồn vía mà chạy lúp xúp theo cho kịp mọi người.

Trên đường đi cũng có thấy rải rác những xác người, nhưng chắc do phải lo chạy nên người thân chỉ đắp cho chiếc chiếu, hy vọng một vài bữa tạm yên thì quay về lo chôn cất. Tiếng súng phía trong xa vẫn đều đặn vọng tới như những nốt nhạc cao lạc điệu mang theo cái chết nổi lên trên nền cái bè trầm của một bản giao hưởng là những tiếng ồn ào đủ mọi âm sắc như họp chợ của đám đông hoảng loạn đang cố chạy càng xa càng tốt lưỡi hái của tử thần. Có những người lính vừa chạy vừa cởi áo trà trộn vào để…”giả dạng thường dân”. Những chiếc xe nhà binh bị bắn cháy lật nhào nằm chỏng chơ trên mặt đường hay lật nghiêng ven mé lộ.

Gánh nặng càng đi càng mệt nên ông bà ngoại cứ phải rút dần mền gối và quần áo quăng bớt đi cho nhẹ gánh. Trên đường đi, hai ông bà cứ cãi nhau mà tui là người đứng cửa giữa chịu trận. Tính ông ngoại thấy của lạ thì tham, cái gì cũng muốn lấy của người ta trong khi bà ngoại thực tế hơn, đâu biết phải chạy bao xa mà mang vác cho cố? 

Bất ngờ ông ngoại thấy một bao cát Mỹ nhẹ, nghĩ đó là bao tiền nên khiến tui quăng bỏ túi gạo mà ôm cái bao ấy. Nhiêu đó thôi cũng xảy ra một trận cãi lộn rân trời giữa hai ông bà, còn tui thì lại thích vì khỏi phải đeo cái túi gạo…nặng ngàn cân trên vai.

Lúc nầy bước đi đã nhẹ tênh rồi nên tui mới đưa mắt chộ xung quanh. Chợt thấy một đôi giày săng-đan da màu trắng của con gái lăn lóc trên mặt đường, ước chừng vừa chân mình nên tui…lượm luôn!

Vừa đi vừa chạy mà cái gánh càng ngày càng thấy nặng hơn. Thở hổn hển, mồ hôi chảy dài xuống hai bên gò má, bà ngoại quay qua gắt ông ngoại:

  • Răng ôn khôn bỏ bầy vịt đi cho nhẹ để chạy cho năng?
  • Kệ tui! Bỏ rồi vô trong đó lấy cái chi mà ăn hở Mụ?

Chạy trên nền đường cao, ngó qua bên trái hướng biển thì sau đụn cát trải dài, đụng cái rú rồi tới khoảng đất trống, tui thấy có những xác Việt cộng còn tươi rói nằm rải rác mà không thấy xác lính quốc gia, chắc là hậu quả của cuộc đụng trận đêm qua chưa lấy xác kịp. 

Tầm quá trưa, mọi người bàn nhau kiếm chỗ nấu cơm ăn. Rẽ về phía bên phải con đường, vẹt những vạt ớt sừng trâu của dân trồng rất tốt, bụi nào cũng lớn phổng phao ngang ngực tui và đầy lắc lĩu trái chín đỏ, đi về phía trong xa khoảng hơn trăm mét thấp thoáng có những ngôi nhà với cây cối rậm rạp. Trong ký ức mấy chục năm trôi qua, tui nhớ mài mại người ta kêu chỗ đó là Lùng Hưng.

Ông ngoại tìm được một chỗ giống như trường học trước đây bèn nghỉ chân, quơ đại mấy nhánh cây khô xung quanh nổi lửa nấu cơm. Gần đó có một con suối mùa khô nước đã cạn, chỉ còn rải rác những vũng nước đọng nho nhỏ. Khát khô cổ nên cứ lấy cái nón lá vục xuống uống đại rồi vo gạo luôn. Tới chừng ngước mặt nhìn quanh thì phát hiện có mấy cái xác Việt cộng nằm vắt vẻo trên bờ.

  • Chết cha! Mình uống nước có pha máu người rồi! Nhưng lỡ nuốt vô bụng làm sao ói ra? 

Ai lo âu, ai sợ hãi mặc kệ. Trong khi người lớn lui cui cho bữa cơm tốc hành, tui lấy đôi giày mới lượm ướm thử vào chân mình. Úi chà! Làm như Má mua đôi giày nầy cho tui vậy. Nó vừa vặn hết ý luôn! Tui tủm tỉm cười một mình khi nghĩ thì cứ coi như đôi giày ni bù lại cho giấc mơ đẹp hồi sáng sớm bị gãy ngang vậy!

Bẻ mấy nhánh cây mãng cầu làm đũa, mọi người hối hả lua đại bữa cơm chạy giặc, không kịp nghỉ mệt vội vã tiếp tục lên đường ngay.

Chạy tới khoảng Cầu Dài, tiếng súng bắn ra dồn dập. Đạn bay chíu chíu trên đầu nên không ai dám chạy trên mặt đường mà phải xuống mé lộ mấp mô vừa chạy vừa núp. Nghe có tiếng đạn bay qua đầu, bà ngoại quăng gánh nằm sải lai dưới đất vừa la biểu nằm xuống. Bà ngoại đâu có hiểu khi lỗ tai mà nghe được tiếng đạn bay ngang thì đầu đạn đã bay qua trước đó mấy giây rồi thì còn núp mà mần chi?

Lúc nầy, trên mặt lộ đã có khá nhiều xác người nằm không được đắp điếm chi, có cả một đứa nhỏ vẫn còn đeo bú vú mẹ trong khi bà mẹ với khuôn mặt bê bết máu đã tắt thở tự lúc nào. 

Đó là những hình ảnh đập vào mắt tui gây nên một cảm xúc kinh hoàng tuy tuổi tui còn quá nhỏ. Phần thì sợ, phần thì quá mệt mỏi sau khi chạy suốt buổi sáng nên tui chẳng còn tâm trí đâu mà chộ xung quanh nữa.

Tiếng súng ngày càng rộ lên, không biết nhằm vào lính hay vào dân?

Vừa chạy vừa núp tránh đạn được một khoảng khá xa thì thấy trước mặt có một chiếc xe nhà binh đầu hướng phía Huế đậu nổ máy chờ sẵn. Mọi người hối hả chạy tới trèo lên thùng xe trong khi tiếng đạn trong xa vẫn còn bắn ra.

Tui được đỡ lên ngồi ở góc trái cuối thùng xe kế bên má bồng đứa em. Ông bà ngoại vẫn còn đứng lựng xựng dưới đất, không biết họ vướng víu đôi gióng khó leo lên hay vì nguyên nhân gì mà cứ chần chừ?

Rồi do tiếng đạn bắn dồn dập hướng ra đường, chiếc xe nhà binh vọt chạy bỏ lại hai ông bà đứng hoảng loạn mà với gọi theo con cháu một cách tuyệt vọng trong ánh sáng chập choạng của bóng hoàng hôn đang tràn tới che khuất dần những hình bóng thân yêu?

Còn chút xíu nhưng cũng biết khôn, tui đè chóp nón lá của má xuống thấp khi nghe tiếng đạn réo ngang đầu. Thấy tui giỏi hôn? Mới thấy bà ngoại làm không lâu trước đó cái học theo được liền.

Mà cái bao tiền tui quăng mất khi mô rồi? Cả đôi giày trắng điệu đàng cũng không rõ giờ ở xứ mô? Rồi ông bà ngoại với mựa Gái mô rồi mà chỉ còn hai má con trên xe với toàn những người lạ?

Nước mắt bỗng lăn dài xuống hai gò má. Tui thút thít đưa tay gạt ngang trong thấp thỏm lo âu khi nghĩ là nỏ biết mình có còn gặp lại được ông bà ngoại sau cuộc chia ly chớp nhoáng bất ngờ trong chốn tên bay đạn lạc không?

Tui nhớ khi bình tĩnh lại, ngồi trên chiếc xe nhà binh thoát khỏi vòng vây thì trời đã muốn sập tối. Trời chiều không có những ráng màu rực rỡ, không có những chùm tia sáng bén ngót rọi qua rìa những đám mây, không có hình dạng những con thú trắng nõn luôn biến hoá bay ngang bầu trời mà chỉ có một màu xám xịt tang tóc u buồn!

Xe chạy vô tới Huế, đổ xuống chỗ tập trung dân chạy giặc ở Phu Văn Lâu. Má tui thấy một đám người lộn xộn với vẻ mặt thất thần trên bãi cỏ ngoài trời, nghĩ hai đứa con còn nhỏ chắc không chịu thấu, má con tui đi thẳng xuống nhà bà con dưới Phù Lương ở tạm. Không biết chạy bằng kiểu gì, mựa Gái đã có mặt ở đó rồi.

Dì Dỏ, cậu Công chạy đôn chạy đáo xuống chỗ tạm cư Phu Văn Lâu và những chỗ khác suốt ngày hôm sau đi tìm ông bà ngoại, nhưng vẫn không có tin tức chi làm trong nhà ăn không ngon ngủ không yên, cứ phập phồng lo sợ cho tánh mạng của họ.

Hai ngày sau, chiếc xe Jeep của một người quen đỗ xịch ngoài ngõ lúc đã đỏ đèn. Ông bà ngoại bước vô người đen kịt như mới chui ra từ lò than, chắc mấy ngày nay lội bộ rã giò không tắm rửa chi cả. Dù sao vẫn còn…có ông có bà.

Uý chu choa! Thiệt là cả nhà mừng như lượm được vàng! 

Trong khi bước thấp bước cao theo chỉ tay của chủ nhà ra cái giếng đằng sau tắm rửa để dội sạch lớp bụi trần ai, ông ngoại còn quay cổ nói vói lại:

  • Đứa mô rảnh tay làm mấy con vịt ăn mừng cả nhà tai qua nạn khỏi coi bọn mi.

Rồi ông quay về phía bà ngoại cười ruồi một cách đắc chí:

  • Đó! Mụ thấy chưa? Tui mà nghe lời mụ thì bây chừ răng có thịt vịt mà ăn?

Bà ngoại nguýt ông một cái bén ngót rồi trề môi thiếu điều muốn dài từ Huế ra thấu Quảng Trị luôn!

Tới ngày 18 âm lịch, ông dượng mới chạy vô được do còn kẹt song thân đã già và hai đứa em trai nên không kịp đùm túm đi chung. Ông kể, trên đường đi lúc đó xác người đã nằm la liệt sau mấy ngày lửa đạn. Vừa trèo được lên xe nhà binh chờ sẵn thì tiếng súng đủ cỡ phía trong xa hướng ra đường cái nổ chát chúa cộng với những trái đạn súng cối dội xối xả để lại những cụm khói đen nghịt và những xác người bị xé tan từng mảnh vụn rơi tung toé xuống mặt đường và hai bên bờ lề cỏ cháy xém úa vàng vì đạn pháo.

Tài xế không còn đủ bình tĩnh mà tránh những xác người nằm la liệt trên mặt đường đành phải nhấn lút ga cán tràn qua chạy trối chết. Thoát ra khỏi vùng hiểm nguy, dừng xe lại ngó thì da thịt và máu người đã nhầy nhụa cả mười bánh xe bốc mùi tanh tưởi khiến ai cũng lợm giọng. Mường tượng lại hình ảnh đó, sao tui nghe giống như một câu hát trong bài Ngụ ngôn mùa đông của Trịnh Công Sơn: “…người chết hai lần, thịt da nát tan…”

Sau nầy nghe người ta đặt tên đoạn đường đó là “Đại lộ kinh hoàng” trong Mùa hè đỏ lửa và ghi tên luôn vào lịch sử của cuộc chiến tranh Việt Nam, nhưng trong con mắt tui thì đó chỉ là con đường liên tỉnh nhỏ hẹp thời chiến ở một vùng quê nghèo, lởm chởm đất đá vì đạn bom chỉ vừa cho hai chiếc xe tránh nhau mà thôi. Người ta cứ hay tô vẽ màu mè rồi nói phóng đại cho quá sự thật!

Trải qua một cuộc bể dâu, tui có suy nghĩ như ri:

Bọn tui không phải chạy đi tìm một sự bảo vệ mà chỉ chạy trốn một nỗi kinh hoàng. Tưởng như mình đang chạy trên lằn ranh sinh tử, khẽ nghiêng một chút là đụng phải sự chết. Con giun, con kiến cũng còn muốn sống kia mà.

Bọn tui muốn được sống!

Một cuộc ra đi rời bỏ quê hương bản quán chưa biết ngày  nào sẽ trở về? 

Với bấy nhiêu của nả mang theo như rứa, tương lai nào đón đợi bọn tui phía trước?

Bao nhiêu năm dành dụm cất lên được mái nhà đụt mưa che nắng, có chắc khi trở về còn được một tấm tôle dưới bão lửa chiến tranh hay không?

Bao nhiêu người dân đã chết một cách oan uổng và thân nhân không thể tìm thấy người thân đã bị phanh thây mà an táng cho mồ yên mả đẹp?

Bao nhiêu đứa trẻ bị mồ côi? Bao nhiêu gia đình bị ly tán?

Bao nhiêu phận người bỗng hoá kiếp lưu vong?

Có ai đủ lãnh đạm mà đúc kết mấy đau thương ấy thành những con số mà lưu lại cho lớp hậu sinh để biết ngậm ngùi cho thân phận người dân bé mọn trong cuộc chiến tranh phi nghĩa là thế nào?

Mấy chục năm đã trôi qua, tui bây giờ đã là bà nội bà ngoại, nhưng trong ký ức của tui chưa bao giờ phai nhạt hình ảnh “Con đường kinh hoàng” của tuổi thơ Quảng Trị trong mùa hè năm một ngàn chín trăm bảy mươi hai.

SAU BỮA CƠM THƠ.     CAO MỴ NHÂN 

Bữa cơm thơ mới đó mà tính ra đã đúng 30 năm ( 1988 ) . Chủ nhân là nhà thơ hoàng phái Vĩnh Mạnh Thường Quân, khách mời gồm chính khách, tức khách chính, không phải là khách chính trị, gốc thi sĩ, Hoàng Phủ Ngọc Tường . 

Thêm một nhân vật đi cạnh họ Hoàng nêu trên, được giới thiệu tên Xuân Đài, cũng làm thơ, thuộc Hội Văn Nghệ GP/ Thành Hồ . 

Và tôi, Cao Mỵ Nhân, bạn thân của gia đình chủ nhà, được mời tới vì thân tình, vì không muốn nói ra, để làm chứng cho một bữa cơm thơ, đầy tính chất Huế sau 20 năm Tết Mậu Thân  ( 1968 – 1988 ), với một nhân vật thuộc giới trí thức, nhưng đã mặc nhiên mang tiếng ” đao phủ khét tiếng Tết Mậu Thân 1968 Huế “. 

Có nhiều lý do Thi sĩ hoàng gia Vĩnh Mạnh Thường Quân, nguyên có thời làm Trưởng phòng Văn Nghệ Đài Phát Thanh Saigon trước 30- 4 – 1975, muốn tôi có mặt trong bữa cơm thơ năm ấy, mùa xuân 1988. 

Trong đó có lý do rõ ràng nhất, là để tôi hỏi : ” Tại sao anh em nhà ông, Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngọc Phan, lại phản bội Huế, dằn vặt Huế, và đang tâm đánh Huế, như chính HPNT đã nói chữ đánh Huế nhiều lần rồi ” . 

Có thể quý vị lại sẽ hỏi, sau 1975, thì ai cũng có thể gặp anh em nhà Hoàng thiếu Phủ, như họ đã tự nhận. 

Hay là Hoàng Phủ Ngọc Tường, chỉ là một tên đao phủ, nôm na là một kẻ giết người, có hay ho gì mà gặp với gỡ . 

Đúng vậy, đâu có hay ho gì đối với một kẻ phản bội từ dòng họ, bằng hữu, đồng bào ruột thịt Huế, xã hội nhân bản VN.

Và cả, cho tới bây giờ, ông đã nhận ra, HPNT đã phản bội chính ông, một tâm hồn Huế thực sự, bởi lẽ đã sống với Huế từ lúc được sinh ra, lớn lên, trưởng thành nơi cố đô thơ mộng ấy . 

Hôm nay, trong thời điểm toàn thể dân chúng trong cũng như ngoài nước, đang sục sôi nộ khí căm thù chế độ cộng sản, bạo quyền đảng và nhà nước csvn, đàn áp, chà đạp cái xã hội VN đến tận cùng bằng số, biến quốc gia VN thành một nước tồi bại, hèn hạ, lạc hậu đến không thể vươn lên được với năm châu, thế giới. 

Bây giờ không phải là lúc tôi tò mò muốn hỏi ông về ” 20 năm Tết Mậu Thân năm 1988 “, rằng anh em nhà ông đã làm vỡ mộng bao cô gái Huế nữa. 

Tôi vẫn nhớ trước ” Bữa cơm thơ 1988 ” ở nhà thi sĩ Vĩnh Mạnh Thường Quân, HPNT đã chợt thoáng buồn, nhưng vẫn cố thanh minh qua loa, không chính thức trả lời về mình, mà cứ lái sang chuyện khác: ” Rứa có biết thằng Phan, là Hoàng Phủ Ngọc Phan, nó suýt chết vì máy bay Mỹ ở Bao Vinh không? ” 

Tôi buồn cười quá, ông vốn là giáo sư đại học, mà câu hỏi đơn giản của tôi, ông cũng đi lạc đề . 

Thể rồi, nhà thơ Vĩnh Mạnh Thường Quân nói: ” Cao Mỵ Nhân đi tù cải tạo về, nhưng cô ấy tính có vẻ ” hồn nhiên  “, tôi , ông Vĩnh Mạnh, khuyên cô ấy, trong trận chiến trước đây, cô làm công tác xã hội ở miền địa đầu giới tuyến, đã nhìn tận mắt Tết Mậu Thân Huế, giờ cũng nên đến Nhà Văn Hoá Thanh Niên tối nay, nghe các nhân vật ” đánh Huế “đó nói gì, những bí mật của giai đoạn hỗn loạn 1968 Huế, có quyền chất vấn chớ ” . 

Hoàng Phủ Ngọc Tường không còn làm dáng cách riêng của thanh niên Huế xưa, ông ta có vẻ lo ra, không phải sợ hãi lo âu chi,  mà như trầm tư, tâm hồn đi vắng…

Đoạn HPNT nói với tôi, vẫn có chút như muốn thanh minh điều gì, rằng: ” Thôi bây chừ thì không kể quốc gia, cộng sản nữa, là một …” 

Không nói dứt câu, 4 người trong bữa cơm thơ có vẻ suy nghĩ  niềm riêng. Tôi nhìn thấy vẻ ngạo mạn của người bạn HPNT khi hắn ta ngó cảnh nhà cửa  giàu sang của thi sĩ hoàng tộc : Vĩnh Mạnh Thường Quân .

Nhà thơ Vĩnh Mạnh Thường Quân nói tôi đọc bài thơ mới nhất của Hoàng Phủ Ngọc Tường : ” Đêm qua ” mới chép lại trong cuốn ” agenda 1988 ” bìa mầu đen của tôi.

Bài thơ lục bát gồm 7 đoạn, mà tôi chợt nhận ra nội dung mang cái vẻ rất… thi phong, thi cốt, nói chung rất thơ.

Chẳng kiểu bần cùng, vô sản như hằng loạt thơ csvn lăn mình từ bắc vô nam , đánh sập cửa dinh Độc Lập, leo lên cắm cờ trên nóc Lầu Tứ Phương của Tong Tông …tôi. 

Sau này bài thơ ” Đêm Qua ” đó được nhắc tới nhiều lần ở trong nước và vài xứ sở khác. 

Tôi cũng đã viết mấy lần về chuyện Hoàng Phủ Ngọc Tường và buổi ” 20 năm Tết Mậu Thân Huế ở Nhà Văn Hoá Thanh Niên thành Hồ “, cạnh Hồ Con Rùa Saigon năm 1988.

Nhưng tôi nghĩ rằng, đó là hơi thở cuối cùng của một sát thủ lừng danh, rồi lịm bặt lẽ sống ngay sau đó . 

Bởi vì quý vị và chúng tôi không hề nghe những cái gọi là 30 năm, 40 năm, và 50 năm tổng nổi dậy Tết Mậu Thân phía csvn nữa . 

Bản thân sự việc Tết Mậu Thân Huế , như một nỗi thù hằn, một tội lỗi đáng xấu hổ, một hối hận đáng tiếc mà không có gan nói ra, không mạnh bạo ăn năn hối cải được. 

Hay là lòng tự ái đáng nguyền rủa của Hoàng Phủ Ngọc Tường vậy. 

Thế nên, tôi nghĩ rằng cơ hội hiếm có nhất, là hãy dựa vào lịch sử để xin lỗi cho cuộc đời mình…chút gì trong sáng, những lỡ lầm đối với dân tộc , và đối riêng với Huế, nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn lỳ ra, không thể hiện chút gì ân hận, nói nôm na là ăn năn hối cải.

Nếu tôi là Hoàng Phủ Ngọc Tường , thì thời điểm này , trong nước đang tổng biểu tình phản đối chính sách đảng quỷ và nhà nước bạo quyền csvn, Hoàng Phủ Ngọc Tường nên đón mừng cơ hội chính đáng mấy hôm nay, toàn dân muốn thay đổi chính thể hiện hành .

Ông hãy nói với vợ ông, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ,  đẩy xe lăn tay đưa ông ra đường biểu tình phản đối nhà nước csvn, họ đã rắp tâm bán nước cho Trung Cộng bành trướng, chủ trương đánh cướp lãnh thổ, lãnh hải VN . 

Nếu tôi là ông, Hoàng Phủ Ngọc Tường, hãy kịp thời bầy tỏ lỗi lầm chính trị to lớn của ông bao lâu nay . 

Có nghĩa là sẽ mở đầu cho lời xin lỗi chính thức nhân dân Huế đã buồn lòng, không hết thù hận ông từ nửa thế kỷ rồi. 

Cố gắng tranh đấu , phản kháng để dân tộc đi lên theo đúng quy trình tiến bộ của thế giới văn minh trên địa cầu này. 

Không bao giờ Chủ nghĩa  cộng sản nhuộm đỏ được thế giới. 

Và, quốc gia VN chân chính vẫn rực rỡ trên bản đồ thế giới, sự hiện diện của một Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà từ xa xưa, tự chủ, tự do, nhân quyền, nhân bản .

             CAO MỴ NHÂN 

THÁNG TƯ EM VỀ.    CAO MỴ NHÂN 

*

Em về mang một sắc cờ 

Không thêm, không bớt mầu chờ đợi xưa 

Mầu chờ, sắc đợi nhặt thưa

Năm khô nắng hạn, mùa mưa nước cuồng

*

Em về sông núi mù sương

Trong tâm tư bạn chán chường trầm luân

Tháng vơi, ngày cạn phong trần

Còn nguyên bão lửa, chinh nhân cháy trời

*

Chiến hào ma quỷ rong chơi

Cỏ xanh che mắt bạn đời héo khô

Tuổi không thương nhớ mơ hồ

Em về gom nhặt dư đồ rách toang

*

Mộ phần chính nghĩa tan hoang

Hỡi anh yêu dấu máu loang sử buồn

Ba mươi tháng tư dập dồn 

Khói hương linh hiển sáng hồn quốc gia…

*

    Hawthorne  21 – 4 – 2022

           CAO MỴ NHÂN 

Tháng Tư Đen

Mỗi năm mỗi một Tháng Tư về
Sông chảy ngược dòng chạnh cố quê
Bão dữ đàn chim bay tán loạn
Nhìn trăng viễn xứ nguyện câu thề…

Tháng Tư tử biệt sinh ly
Nổi trôi mệnh nước người đi… không về
Tháng Tư mây mù lê thê
Thiên hôn địa ám… sầu… ghê gớm sầu
Tháng Tư dầm dề mưa Ngâu
Sóng xô cuộn sóng nhịp cầu tan hoang
Tháng Tư núi đá kinh hoàng
Đầu trâu mặt ngựa người ăn thịt người
Tháng Tư Thương Binh trời ơi
Đuổi ra khỏi viện máu rơi… đỏ đường
Tháng Tư sương trắng đồi xương
Trắng lên tóc Mẹ… thảm thương Vợ hiền
Bé thơ ơi biển oan khiên
Mắt xanh lai láng… ưu phiền bơ vơ
Tháng Tư tan tác màu cờ
Anh hùng tuẫn tiết… cơ đồ ngửa nghiêng
Tháng Tư ào ào vượt biên
Đường sông, đường biển, đường xuyên rừng già
Bàng hoàng… bại quốc vong gia
Người vào lao lý người ra… biên thùy
Hạ hồng nắng lửa lưu ly
Đồng khô cỏ cháy… chim Di dật dờ…!!!

Bấy giờ cho đến bao giờ
Thuyền xưa cập lại bến bờ… sông xưa??!!

NGUYỄN – MINH – THANH
( Mùa Quốc Hận )

THÁNG TƯ

Tháng tư máu trào lên óc
Tháng tư mưng mủ trong tim
Tháng tư bỗng đầu bạc tóc
Tháng tư oan khuất nỗi niềm

*

Tháng tư sao đành súng gãy
Tháng tư thành phố khăn tang
Tháng tư buồn dòng lệ chảy
Tháng tư vui nỗi cơ hàn

*

Tháng tư AK dạo phố
Tháng tư dã thú biết cười
Tháng tư Tự Do xuống hố
Tháng tư Công Lý chết tươi

*

Tháng tư chồng vô tù ngục
Tháng tư vợ đẩy vào rừng
Tháng tư cơm khoai ủ mục
Tháng tư mẹ nước mắt rung

*

Tháng tư tràn ra cửa biển
Tháng tư giông tố trùng khơi
Tháng tư hận ngày quốc biến
Tháng tư vang điệu ru Hời…

*

Phong Châu

HA-TUAN-THANG-TU

Xứng đáng là “Thủ Phủ Đấu Tranh” Của Người Việt Hải Ngoại!

Giới thiệu hàng loạt chương trình sinh hoạt đặc biệt tại San Jose, sau 47 năm ghi dấu 30 tháng tư 1975.

Ủy Ban Điều Hợp Sinh Hoạt Cộng Đồng Bắc Cali sẽ tổ chức:

*

Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận 30 tháng 4

Vào lúc 9:00 AM Sáng thứ bảy 30 tháng 4 năm 2022

Tại 1499 Roberts Avenue San Jose CA 95122

-Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn Cộng Sản Bắc California

Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận 30 tháng 4

Tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng

1141 East William St, San Jose, Ca 95116

Từ 10 giờ sáng, đến 2 giờ chiều

Thứ Bảy, 30 tháng 4 năm 2022.

-Chiều Thắp Nến & Văn Nghệ Tưởng Niệm Tháng Tư Đen

Lúc 6 giờ 30 chiều Thứ Bảy, 30 tháng 4 năm 2022

Tại Grand Century Mall.

Do Nhóm Liên Trường Quảng Nam Đà Nẵng tổ chức.

-Trường Windmill Springs

Sẽ tổ chức Tưởng Niệm Quốc hận 30 tháng 4

Vào lúc 9:00 AM đến 10:00 AM

Thứ sáu (hôm nay!) ngày 29 tháng 4 năm 2022 tại khuôn viên Trường.

2880 Aetna Way San Jose CA 95121

-Trường Trung Học YB (Yerba Buena)

Sẽ tổ chức Tưởng Niệm Quốc Hận 30 tháng 4 

Vào lúc 11:30 AM đến 12:00 PM ngày thứ sáu (Hôm nay!) 29 tháng 4 năm 2022

tại khuôn viên Trường:

1885 Lucretia  Ave San Jose CA 95122

-Tại Museum Of The Boat People & The Republic Of Viet Nam (Viện bảo tàng Việt) gồm những sinh hoạt:

1)Lần đầu tiên sau 47 năm được mang danh hiệu QUỐC HẬN TRONG LÒNG TUỔI TRẺ

2)Với sự hiện diện đặc biệt của thiếu tướng Lương Xuân Việt và luật sư Thục Minh

3)4 giờ chiều thứ sáu 29 tháng tư (Hôm nay!) Quan khách thăm viếng Trung tâm phục vụ Mỹ Việt. Trị giá 70 triệu US mới khánh thành tháng tư 2022

4)10 giờ sáng 30 tháng tư, thế hệ thứ hai với quan khách làm lễ chào cờ VNCH và tổ chức ngày quốc Hận tại San Jose

Tại City Hall tân kỳ nhất miền Tây, thủ đó điện tử thế giới.

5)12 giờ lễ giỗ các tử sĩ tại Việt Museum Phelan & Senter

6)10 giờ sáng 1 tháng 5-2022 tại Santa Clara County chương trình nói chuyện của luật sư Thục Minh và thiếu tướng Việt. Phần Anh ngữ mở đầu và phần Việt ngữ tiếp theo. Giữa 2 chương trình là phần chiếu phim 10 phút DVD Thank you America và trao tưởng lệ sự nghiệp một đời cho tác giả Phạm Phú Nam cấp Liên bang, Tiểu bang và quận hạt.

-Văn Nghệ Tưởng Niệm Đấu Tranh:

Địa điểm: Viện Bảo Tàng Việt Nam – Việt Museum (trong khu Công Viên History Park San Jose)

1650 Senter Road, San Jose, CA 95112

Thời gian: từ 11:00AM sáng đến 4:00PM chiều, sáng thứ 7, “đúng Ngày Quốc Hận 30 Tháng 4 Năm 2022”

Đặc biệt năm nay trong ngày Lễ Tưởng Niệm, sau khi phần nghi thức khai mạc và lễ truy điệu, sẽ có phần trình diễn một hoạt cảnh thật, về những giờ phút cuối cùng của một trong các vị Tướng Quân Lực VNCH trước khi tuẫn tiết.

Hạ Viện Quốc Hội California Thông Qua Dự Luật Của Dân Biểu Janet Nguyễn, Tuyên Bố Tháng Tư Năm 2022 là Tháng Tư Đen!

Sacramento, CA – Dân Biểu Janet Nguyễn vui mừng thông báo Dự Luật 113 (ACR 113) của bà đã được Hạ Viện Quốc Hội Tiểu Bang tuyệt đối thông qua ngày hôm qua. ACR 113 tuyên bố Tháng Tư là Tháng Tư Đen và tưởng niệm 47 năm Ngày Sài Gòn thất thủ cũng như công nhận những Cựu Quân Nhân đã hy sinh trong chiến tranh Việt Nam.

Dân Biểu Janet Nguyễn phát biểu : “Tôi rất vui khi các đồng nghiệp đã hôm nay tham gia cùng tôi để công nhận Tháng Tư Đen. Đây là cơ hội để chúng ta đến với nhau, vinh danh các Cựu Quân Nhân và tưởng niệm về chiến tranh Việt Nam với hàng triệu người đã bị ảnh hưởng, bao gồm cả Janet và gia đình”.

Tháng Tư Đen được tưởng niệm hàng năm vào Ngày 30 Tháng Tư để tưởng niệm ngày Sài Gòn thất thủ. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 cũng đánh dấu sự khởi đầu cuộc di cư của hàng triệu người Việt Nam vượt biển tỵ nạn để tìm tự do và dân chủ. Gia đình Dân Biểu Janet Nguyễn là một trong số những gia đình đã vượt biển, đến South Asia Sea trên một chiếc thuyền gỗ dài 10 mét và tìm tỵ nạn tại Thái Lan. Sau khi đi qua nhiều trại tỵ nạn khác nhau, gia đình Dân Biểu Nguyễn đã đến Hoa Kỳ vào năm 1981.

Nhiều người tị nạn cuối cùng đã đến California sau khi vượt biển. Quận Cam có số cư dân gốc Việt lớn nhất ngoài nước Việt Nam. Những đóng góp to lớn của cộng đồng người Việt cho nền kinh tế và xã hội trong tiểu bang California rất đáng kể.

Dân Biểu Janet Nguyễn chia sẻ: “47 năm đã trôi qua kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhưng chúng tôi chưa bao giờ quên những người đã vượt biển cũng như những người đã ở lại.”

Bằng cách tuyên bố Tháng Tư là Tháng Tư Đen, chúng tôi mang đến cho người Mỹ gốc Việt, các Cựu Quân Nhân và tất cả cư dân California cơ hội để cùng nhau tưởng niệm và ghi nhận công ơn của các Cựu Quân Nhân cũng như tưởng niệm về Chiến Tranh Việt Nam.

ACR 113 đã được đồng tác giả bởi các 62 Dân Biểu và bây giờ sẽ được chuyển đến Thượng Viện Tiểu Bang để bỏ phiếu chấp thuận.

47 Năm! Cả Nước Tiến Lên “Thiên Đàng Xã Hội Chủ Nghĩa!”

(Chuyện cười muốn khóc! Sau ngày 30 tháng Tư, dành cho Quý Vị nào có tí máu hài hước!)  

*

*Nhiều Nghĩa Viết Tắt Của Xã Hội Chủ Nghĩa

  XHCN: xấu hổ cả nước,  

  XHCN: xù hết chủ nợ, (quịt nợ!)

  XHCN: xếp hàng cả ngày,

  XHCN: xuống hố cả nước,

  XHCN: xuống hàng chó ngựa,

  XHCN: xạo hết chỗ nói,

  XHCN: xét hỏi cả ngày,

  XHCN: xâm hại con người,

  XHCN : xấu hơn cả ngợm,

  XHCN: xơi hết cả nhà,

  XHCN: xóa hết cội nguồn,

  XHCN: xì hơi chết người,

  XHCN: xóa hết chữ nghĩa…

*Còn Lâu Lắm!

Hai chàng say rượu nói chuyện với nhau:

– Say1: Này, làm sao biết đất nước ta tới Thiên Đàng Xã hội chủ nghĩa mày?

– Say2: Dễ ợt mà, khi nào ăn uống miễn phí, vào nhà thương không tốn tiền, phụ mữ và trẻ em được chăm sóc, là xã hội chủ nghĩa đó.

– Say1: Ôi thế còn rất, rất “nà” nà……. lâu, gần cả một thế kỷ rồi, mà một điều cũng chưa có! Mơ chuyện trên mây! Thôi dzô đi mày!

*Điều Ước!

Một cô gái ngồi dưới góc cây khóc?

Bỗng ông Bụt (ông Tiên) hiện ra hỏi:

-Sao con khóc?

-Dạ trai làng con bị xuất khẩu lao động hết trơn, nên con bị ế, không chồng!

-Vậy là con muốn có chồng phải không?

-Vâng, muốn lắm!

-Con muốn chồng như thế nào? Tiêu chuẩn?

-Dạ, giầu có, chức vụ lớn, lớn tuổi không sao. Nhưng đừng thông minh quá, ngu ngu một chút, để con dễ sai bảo.

Ông bụt cười, vung tay và biến mất!

Và điều kỳ lạ đã xảy ra! Bác “Trọng Lú” với nụ cười mỉm chi, hiện ra đứng trước mặt cô!

Cô gái nhìn thấy “Kim Trọng thời đại!” là… ngất xỉu!

Khi cô tỉnh dậy, Ông Tiên còn hiện ra lại, tức quá mắng:

-Tên nó là Lú, đủ thấy nó không thông minh rồi, còn đễ sai bảo, bao nhiêu năm nay, Tầu Cộng muốn gì, thì nó làm đó. Kể dâng cả nước, nó cũng làm! Đúng theo lời yêu cầu của con, còn đòi hỏi gì nữa?

*Họp Thượng Đỉnh!

Các lãnh đạo ngồi nói chuyện bên ngoài hội nghị. Ai cũng khoe về quốc gia mình:

-Tổng thống Mỹ: Iphone đã xuất khẩu đi khắp thế giới.

-Tổng thống Hàn Quốc: Samsung galaxy cũng không kém! Nơi đâu cũng có!

-Thủ tướng Việt Nam vênh mặt: Đừng coi thường chúng tôi! Kỷ lục trai xuất khẩu lao động đi khắp thế giới! Phụ nữ xuất khẩu là nô lệ tình dục …nơi đâu cũng có!

*Băng Đảng & Ăn Trộm

Ê thằng kia mày rình gì đấy?

Dạ em đang tính ăn trộm!

Trời tối đen, nhìn không rõ, biết phân biệt thứ nào đáng giá, thứ nào không, để mà lấy? Sao không trộm ban ngày hả?

Dạ ban ngày đã có băng đảng, trên 4 triệu tên trộm khác, hành nghề rồi ạ.

Lạ nhỉ, ăn trộm cũng còn có chia giờ hoạt động nữa à?

Dạ không, bọn trộm ngày, được cấp phép hoạt động, có cấp có bậc, có thẻ đảng, nên muốn sống, em tránh chúng nó.

Bọn trộm băng đảng nào mạnh dữ tợn vậy hà?

Dạ băng đảng cộng sản đó ạ! Từ 75 đến giờ, gần nửa thế kỷ, chúng trấn lột người dân cả nước! mà chẳng có ai dám phản đối gì cả.

Xin lỗi! tôi tối dạ quá, bây giờ thì hiểu rõ rồi. Công nhận, nên tránh nó ra! Tụi nó nổi tiếng vừa ăn cướp, lại còn có quyền mang về sào huyệt, đánh chết người, để bịt miệng nữa đó! Tụi nó hơn cướp nhiều, mà là Quỷ!…Đỏ!

*Tiêu Cực Là Gì?

Thủ tướng về thăm vùng mỏ than Hòn Gai, giả dạng thường dân, thăm cho biết sự tình, thủ tướng ghé vào nhà một công nhân. Sau khi hỏi mức lương của hai vợ chồng, ông chép miệng nói:

-“Lương cô chú thấp như vậy, đời sống chắc khổ lắm?”

-Anh chồng đáp: “Lương thấp chưa hẳn đã khổ, chỉ lương… thiện mới khổ thôi ạ!”

Thấy Thủ tướng ân cần lắng nghe, chị vợ mạnh dạn thêm:

-“Anh chị em công nhân chúng tôi rất tâm đắc, về chủ trương đấu tranh chống tiêu cực mà Đảng đang phát động, diễn ra rầm rộ trong cả nước.

Thủ tướng thấy vui trong lòng, bèn hỏi:

-Thế cô chú hiểu thế nào là đấu tranh chống tiêu cực? Và tiêu cực là gì?

-Thưa đồng chí, tiêu cực nghĩa là, bên trên các vị lãnh đạo đảng cứ tha hồ mà tiêu, còn bên dưới dân đen chúng ta cứ tha hồ mà cực!”…cực khổ, cứt khô!

*Không Chừa Cả Địa Ngục!

Một người chết phải xuống âm phủ, mới thấy có hai địa ngục: tư bản và cộng sản. Khi đi qua địa ngục cộng sản, ông thấy quỷ sứ đội mũ liềm búa gắn sao vàng, vai mang mã tấu đứng thẳng tắp. Ông thấy Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp ở bên trong cửa sắt giơ tay chào ông, vẫy mời mọc ông vào. Các ông ấy đồng thanh rao to như trẻ bán hàng ở bến xe đò xa cảng Miền Đông, Miền Tây: “Nhào dzô em trai! Nhào dzô! mau mau kẻo hết chỗ! Ở bên tư bản khổ lắm! nguyên liệu tràn trề, vạc dầu lúc nào cũng sôi ngàn độ. Còn bên này không không xăng, không dầu, nên vạc dầu mát rượi, như là tắm xông hơi nước ở nhà mà thôi! Sướng lắm! Nhào dzô! Nhào dzô!”

Ông này vốn là dân HO, cải tạo lâu năm, nên có kinh nghiện sống với cộng sản bèn trả lời: “Xạo quá! mấy cha nội! Thiếu xăng, thiếu dầu đốt, thì mấy ông lôi người ta ra, dùng dao cùn, búa liềm, rựa cũ, mã tấu chặt thành khúc nướng, “babecure!” Còn đau hơn cả trăm lần trong vạc dầu sôi! Mẹ xuống hỏa ngục, vẫn còn tuyên truyền! nói phét! Thôi các đồng chí ơi! 

*Được Đảng Đào Tạo Cả Cách Ăn!

Trong 1 cuộc hội nghị toàn thế giới, bên ngoài hội nghị các lãnh đạo đang khoe về đất nước mình.

-Mỹ: Đất nước chúng tôi, tạo ra những đồ ăn chứa trong hộp, để được rất lâu không sợ hư, rất an toàn!

-Trung Quốc: Thế còn gì là tươi ngon, dân nước tôi, chỉ cần pha chút hóa chất, là có đồ ăn tươi ngon, tươi cả mấy tháng liền, thậm chí cả năm nữa đấy!

-Mỹ: Như vậy rất nguy hiểm cho tính mạng con người quá!

-Trung Quốc: Chúng tôi hiểu chứ, nhưng tất cả những thứ đó, đều đem đi xuất khẩu hết. Nên dân chúng tôi không sao cả.

-Mỹ: Chà nguy hiểm thật, tội nghiệp cho quốc gia nào nhập khẩu thực phẩm từ Trung quốc ghê! Vậy Việt nam các ông thì sao?

-Việt Nam: Dân chúng tôi lại được đảng đào tạo rất kỹ lưỡng, nổi tiếng có chất kháng sinh trong người nhất thế giới! Nên ăn được mọi thứ thực phẩm nhập khẩu từ Trung quốc, ăn mãi mà không chết! Nặng lắm chỉ…ngộ độc, phát điên thôi! 

*Máy Chém Ở Đâu?

Ngoài Bắc, cộng sản tuyên truyền, Mỹ Ngụy tàn ác, đặt máy chép khắp nơi! Sau khi giải phóng miền Nam, các bộ đội tò mò, đua nhau đi tìm cái máy chém của chính quyền miền Nam ra sao.

Khi đến từng nhà dân, thật đúng như lời tuyên truyền của đảng, thấy nhà dân nào cũng có máy chém treo trên trần nhà! (quạt trần) Một chú bộ đội ngạc nhiên hỏi:

-Sao nhà dân nào, cũng có nhiều máy chém thế! Người đâu chém cho hết! Mà treo cao thế, chém thế….đéo, xin lỗi, thế chó nào được? Sao không đặt thấp xuống?

(Bộ đội cấp dưới, còn thông minh như thế, hướng chi là các lãnh đạo của đỉnh cao trí tuệ!)

*Nguồn Gốc Của Thủ Tướng.

Có tên ăn mày đi đường lượm được 1 cây đèn, liền lấy áo chùi sạch bóng, ai ngờ là cây đèn thần, liền có 1 vị thần hiện ra .

-Ta là thần đèn, con rất may mắn gặp được ta, nên ta cho con 1 điều ước.

-Chàng trai liền ước: Con không cần đẹp trai, hói, lùn, ăn nói lắp bắp, cũng được. Không cần thông minh, con chỉ muốn quyền lực, con nói ai cũng phải nghe, con nói sai họ cũng phải nghĩ đúng và tất cả nhất trí!

Bùm! “Con sẽ toại ước!”

Cậu liền biến thành thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc! của nước CS Việt Nam!

Thấy mình bỗng hóa thành Nguyễn Xuân Phúc, người mà cậu ghét nhất! cậu hét lên và…ngất xỉu! rồi…tắt thở!

*Số 1080 Tư Vấn:

Bắt chước số 911 của Mỹ, giúp đỡ người dân khi gặp chuyện khẩn cấp cần giúp. CSVN, (đầy tớ của nhân dân, ra vẻ chăm sóc chủ) cũng lập số 1080.

Một người đàn ông chạy xe trên đường bị công an giao thông thổi lại, và liền gọi điện thoại:

-A Lô có phải tổng đài 1080 không vậy?

-Dạ phải anh.

-Tôi có vấn đề xin cô giải đáp, giúp đỡ nhé.

-Vâng anh nói đi.

-Tôi đang đi đường, vẫn đúng luật, nhưng vẫn bị công an thổi! nói tôi chạy quá tốc độ, là 50km/h. Nhưng tôi đi xe đạp! lực sĩ cũng không đạt được tốc độ này, vô lý quá! Nhưng họ vẫn đòi tôi nộp phạt, hối lộ 500 ngàn đồng! Xin được can thiệp. Tôi có nên nộp phạt không vậy?

-Bọn họ có mấy người vậy anh?

-Họ có 6 người.

-Thế thì rẻ quá, tổng cộng mới có 3 triệu! anh nộp ngay và rời đi gấp! Không khéo, bao nhiêu người tiếc tí tiền, lại bị treo cổ chết trong đồn công an! Chuyện xảy ra hàng ngày, sao anh không biết!

***********

*Di Chúc Của Bác!

Những đồng chí chăm sóc xác ướp Hồ Chí Minh, rất ngạc nhiên, vì xác ướp thiếu con chim! Và được các đồng chí lão thành kể câu chuyện sau:

“Bác Hồ” khi đang nằm chờ chết, Trung Ương Đảng họp khẩn, để bàn về việc ma tang cho ông. Một vài đứa gợi ý mang ông vào núi chôn, một vài đứa khác bàn là nên vùi xác vào hốc hang Pác Pó, lại có vài đứa khác bàn là nên quẳng xác, lên ghe và thả cho nó trôi vào Biển Đông, để lạc sang Trung Quốc! Một đứa khác dõng dạc tuyên bố hỏa thiêu! Gọn nhất, sạch sẽ nhất!

Không đợi cho thằng đồng chí đề nghị hỏa thiêu dứt lời, gom hết sức tàn, ông Minh gào lên:

-Địt mẹ tụi mầy! Tao chưa chết mà, chúng mầy đui à! Địt mẹ… hỏa thiêu,.. hỏa… cái con C! tao nè!

Và ông Hồ chết. Trung Ương Đảng nhất trí rằng, lời trăn trối cuối cùng của Bác, chính là ước nguyện sau cùng! Cả đảng chúng nó đã ướp xác Bác, và hỏa thiêu con cu (chim) của Bác trên lò nướng! cháy đen thui…thành than!

*Hồ Tám Keo!

Tại sao Bác Hồ, còn có biệt danh là Hồ Tám Keo? Được truyền như sau: Lúc “bác hù” còn sống, bác ra lệnh phải cho phát hành tem có hình bác. (Tiên sư bác, bác mê bác quá!) Bác còn ra lệnh phải sử dụng giấy tốt nhất. Keo cũng phải dùng loại tốt nhất, để tem không bi tróc ra khỏi bì thư. Bưu Điện nhà nước vâng lịnh, cho phát hành ngay con tem có hình “Bác Hồ vĩ đại” trên loại giấy tốt nhất, mặt sau lưng, có tráng keo dính nhất.

Vài ngày sau, bác cho gọi cán bộ phụ trách Bưu Điện lên, Bác hỏi:

-Thế nào? Cậu đã cho phát hành tem hình Bác chưa?

Cán bộ: -Thưa Bác, rồi ạ!

Bác: -Thế cậu dùng giấy tốt nhất?

Cán bộ: -Vâng ạ

Bác: -Keo cũng loại tốt nhất chứ?

Cán bộ: -Vâng, thưa Bác, chúng cháu cho dùng loại keo nhập khẩu, tốt nhất.

Bác: -Chắc là nhân dân thích tem ấy lắm phải không?

Cán bộ: -Vâng thưa Bác, nhưng, xin báo cáo…

Bác: -Nhưng là sao, nói mau!

Cán bộ: -Thưa Bác có quá nhiều bì thư bị tróc mất tem!

Bác: -Thế cậu bảo tôi là đã dùng loại keo tốt nhất cơ mà!

Cán bộ: -Thưa Bác, chúng cháu có cho công an điều tra thì mới biết rằng: Nhân dân đã không nhổ nước miếng mặt đàng sau có keo, mà cứ nhổ lên mặt, có hình bác!…nên tem không dính vào phong bì là phải!

*Chuyện XHCN (Xếp Hàng Cả Ngày!)

Một du khách Ngoại Quốc qua thăm Hà Nội, Ông ta muốn đi thăm tất cả những nơi nổi tiếng nhất.

Ông ta tới nhà hàng sang trọng nhất Hà Nội.

Người hầu bàn bảo ông:

-Thưa ông, nhà hàng hết chỗ trống rồi!

– Thế anh làm ơn cho tôi đặt cọc 3 bàn, nhưng tôi chỉ cần 1 bàn và một ghế thôi, ghế trống và hai bàn kia, anh có quyền xử dụng tùy ý!

Ngay tức khắc, người hầu bàn tìm ra ngay chỗ ngồi, cho ông khách hào phóng này.

Sau khi thưởng thức một bữa ăn thịnh soạn, có bồi bàn đứng hầu, ông khách quyết định đi xem buổi trình diễn của đoàn ca múa Trung Ương có tiếng ở VN.

Tới trước của rạp, người gác cửa nói:

-Thưa ông, hội trường đã hết chỗ!

-Thế anh cho tôi mua mười vé, tôi chỉ xài một, còn chín cái anh muốn làm gì thì làm.

Đúng một phút sau, ông khách có ngay một chỗ ngồi tốt nhất, chỗ thượng khách trong rạp.

Vãn hát, ông khách lần này đi tới Ba Đình để vào thăm lăng Hồ chí Minh. Trước lăng, một hàng dài cả vài trăm người, đang phải nối đuôi nhau chờ đợi.

Ông khách nói với đám Công an:

-Thời gian tôi ở đây rất ngắn, các anh có cách nào giúp tôi vào thăm lăng mà khỏi xếp hàng không?

-Xin lỗi ông, đây là nơi thiêng liêng nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN! Rất tiếc, dù ông có là nguyên thủ quốc gia, ông cũng phải xếp hàng như mọi người khác.

Ông khách mỉm cười rồi nói:

-Nếu đã vậy thì trong khi chờ đợi, tôi xin mời các anh cùng uống với tôi một vài chai rượu ngoại quốc nhé!

Nói xong, ông khách lôi trong túi ra năm sáu chai Hennessy, đưa cho mỗi công an một chai.

Nhận rượu xong, đám công an vồn vã nói:

-Thưa ông, bây giờ ông muốn vào thăm lăng “Bác”, hay ông muốn, chúng tôi bưng… “Bác” ra đây cho ông thăm! Muốn sao cũng được! khách hàng là thượng đế mà!

*Con Két Biết Nói!

Nhà kia có một con két, lâu lâu nó lại nói:

-“Đả đảo cộng sản, DM đả đảo cộng sản.”

Thế là tiếng tăm của con két nói bậy đến tai cán bộ, công an. Ngày nọ, công an sắc phục, thường phục kéo tới vây quanh nhà có con két, để bắt nó và cả chủ nhà có con két.

Khi con két thấy cán bộ tới, linh tính có chuyện không hay, nó nói lãng qua chuyện khác. Cán bộ thay nhau chọc cho nó nói. Cho dù chưởi rủa nó, lấy cây chọc cho nó tức, nhưng nó vẫn nguýt xéo, chứ không hề chưởi lại gì cả. Suy nghĩ hết cách, tức quá, công an trưởng mới gài độ nó, bằng cách lặp lại câu nó thường nói vừa đủ nghe:

-“Ê- Đả đảo cộng sản! DM đả đảo cộng sản! Cả đảng CS chết đi!”

 Con két liền chắp hai cánh vào nhau và nói:

-“Đó là lời Chúa!”

*“Dừng Nghe Những Gì Cộng Sản Nói!”

Sài gòn. Sau ngày 30-4-1975, hai anh em, một Nam một Bắc gặp lại, sau bao nhiêu năm xa cách, cùng nhau ra quán nhậu lai rai.

Anh cán bộ miền Bắc nói:

-Nay hòa bình rồi, nước ta XHCN là đỉnh cao trí tuệ và trong một ngày rất gần, sẽ tiến mạnh và vượt xa các nước trên thế giới, vượt qua cả Mỹ nữa.

Anh miền Nam ở Sài gòn nói:

-Ấy, đừng nên vượt qua mặt Mỹ, chỉ nên đi ngang hàng thôi.

Anh cán bộ miền Bắc hỏi:

-Tại sao lại không vượt qua mặt, mà chỉ đi ngang hàng thôi, khờ thế!

Anh Miền Nam nói:

-Nếu vượt qua trước mặt Mỹ, Mỹ nó thấy quần mình rách lòi cả…lỗ đít!

Hết Còn Tin!

Một ủy viên Bộ Chính Trị đi xuống vùng quê thị sát tình hình. Xe của cán bộ cấp lớn này chẳng may bị lật nhào xuống hố. Khi công an và đội cứu hộ tới hiện trường, thì thấy một bác nông dân đứng chờ ở đó, nhưng không thấy cán bộ lớn đâu cả. Đại úy công an hỏi bác nông dân:

-Ông có chứng kiến việc gì xảy ra chứ?

-Dạ có

-Vậy ông tên gì?

-Ở đây người ta kêu tui là Chú Hai Già.

-Vậy ông hãy kể cho tôi nghe câu chuyện ra sao

-Dạ được chớ. Lúc tui thấy xe bị lật, tui liền chạy tới coi có giúp đỡ gì được không.

Tui hỏi “có ai còn sống không?”

Anh tài xế thì im ru đã chết, còn ông cán bộ kia thì trả lời là ổng còn sống. “Tôi còn sống! Cứu tôi với!”

Nhưng tôi có kinh nghiệm cả đời, sống với cộng sản quá mà! Đảng và mà mấy ông cán bộ lớn nhà nước mà nói, thì bà mẹ nó, ai mà tin cho nổi! Muốn đổ thóc giống ra mà ăn chắc! Nên tui mới đem cả hai người đi chôn luôn!

*Bí Quyết Sống Lâu

Bảy Búa (BB) cảm thấy khó chịu nên tới gặp BS để được khám bệnh! Sau khi khám BS cho biết BB bị ung thư óc và chỉ còn sống được một năm nữa thôi! BB kinh hoàng, xin BS chỉ cho hắn biết những gì nên làm!

-Điều mà anh nên làm, là trở về VN, rồi ra giữa đường đứng chửi đảng và Bác cho đã miệng đi!

-Làm như vậy giúp tui bớt bịnh hả BS?

-Không! Làm như vậy thì anh chắc chắn sẽ được đảng cho đi tù, vào trại cải tạo!

-Bộ trong trại cải tạo sẽ giúp tui sống lâu hơn phải không BS?

-Không! Quảng đời một năm còn lại của anh trong trại cải tạo, sẽ làm anh thấy như là sống muôn đời đó! Ông không nghe “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại!” sao.

*Thương Binh

Hai người đàn ông tuổi độ gần 70 đi ngược hướng nhau trên đường phố Hà Nội! Khi đi cả hai đều kéo lê chân phải trên hè phố!

Khi đối diện nhau, một ông nhìn ra ông kia vẻ hiểu biết và thông cảm, rồi hãnh diện chỉ vào chân mình nói:

-Vượt Trường Sơn! Trúng mìn, ở Đường Mòn HCM, năm 1969! Còn đồng chí?

Ông kia chỏ ngược ngón tay cái, về phía sau lưng mình nói:

-Cứt chó! 20 thước phía đằng kia!

*Thuốc Bổ B6

Hồi VNCH mất vào tay Cộng Sản, thì các nhà thương đều có các bác sĩ miền Bắc làm chủ tiệm hết. Một hôm cô y tá hớt hả vào nói với ông bác sĩ cách mạng:

-Dạo này tụi ngụy không hiểu tại sao không gửi thuốc tư bản về nữa, đồng chí bác sĩ ơi, mà tôi có một bệnh nhân cần phải uống gấp thuốc B6. Tôi xem lại tủ thuốc thì chỉ còn vài ống B2 và B12 thôi, mà chả còn ống B6 nào hết, bác sĩ tính sao.

-Ồ dễ ợt, Cô cứ đem cưa ống B12 ra làm đôi, là mình có 2 ống B6 rồi, còn gì nữa mà lo, còn không thì cho uống 3 ống B2! Đồng chí gái phải biết sáng tạo chứ?

*Đỉnh Cao Trí Tuệ (Tệ!)

Có 1 du khách nguời Australia sang VN du lịch. Tới Saigon ông ta mới kêu 1 anh Xích Lô chở anh ta đi tham quan thành phố. Vị du khách rất thú vị, vì anh Xích Lô nói tiếng Anh rất lưu loát.

Đi đến bất cứ chỗ nào thì anh Xích Lô cũng giảng giải rõ ràng lịch sử nguồn gốc cuả điạ điểm đó. Ông du khách rất ngạc nhiên, với kiến thức uyên bác cuả anh xích lô nàỵ

-Này, xin cho hỏi anh học tới lớp mấy rồi, mà uyên bác quá vậy?

-Thưa ông, tôi đã học xong đại học rồi. Vì thất nghiệp nên đành làm nghề đạp xích lô

-Truớc đây tôi nghe nói Cộng Sản Vietnam tự hào là “đỉnh cao trí tuệ của loài nguời”, mà tôi không có tin. Đến hôm nay thì tôi mới sáng mắt ra! Một người đạp xích lô phải có bằng đại học! Chắc tổng bí thư và chủ tịch nuớc phải có bằng đại, đại, đại, tiến sĩ ấy chứ nhỉ!

-Dạ không! Mấy ông ấy chỉ học tới lớp 3!…trường làng thôi! Nhiều ông làm nghề chích dạo và…thiến heo!

*VC Tìm Nghề Cho Vẹm Con

Trong một gia đình cán bộ Vẹm có 3 đứa con, cán bố thời nay cũng học đòi những phưong pháp thực nghiệm, để tìm cho con mình một nghề nghiệp thích hợp, với khả năng của chúng. Nhưng vẫn chưa biết cách nào, thì cán cái, không biết học được ở đâu cái tâm lý vặt, nên ra mặt phán:

-Thằng lớn, tính ngang ngạnh ngỗ nghịch, hay ăn hiếp chúng bạn, cho đi học làm công an, thì chắc sẽ mau thăng quan tiến chức.

-Thằng em kế, ai nói gì cũng ừ, lại có tật ngủ gật, nên chạy cho nó cái chân đại biểu quốc hội XHCN. Thằng này mà vào được QH, thì hắn sẽ được lòng đảng mà vinh thân.

-Còn thằng út thì tham lam, ai cho gì cũng không bao giờ vừa lòng, nên chẳng bao giờ nói tiếng cám ơn. À thằng này mà vào làm “hải quan” phi trường thì đúng năng khiếu! Không chê vào đâu được!    

*Thuốc Chạy Nhanh!

Một ông bác sĩ từ miền Bắc vô được cử làm Giám Ðốc một Bệnh Viện. Có một cán bộ mới vào miền Nam, lại được làm hải quan, có tiền rủng rỉnh, nên tập đòi học làm sang, đi đâu cũng dẫn theo con chó lông xù. Con chó thì yếu như sên, lại ham chơi, yếu sức, nên cán ngố cứ phải ra sức kéo hoài, nó mới chịu đi. Một hôm gặp đám phu lục lộ (người làm đường) đang đun nồi dầu hắc sôi sùng sục, cán bộ hách dịch hỏi:

-Các chú mày nấu gì mà đen ngòm vậy?

-Ồ thứ này, chúng tôi dùng để trát vào đít thuyền, cho nó chạy nhanh hơn ấy mà.

-Vậy thì tốt quá, con chó của tớ nó đi chậm lắm, các chú làm ơn trét vào đít nó một tí, cho đi nhanh được không?

-Mấy ông phu lục lộ nín cười trong bụng, dùng cọ quét vào đít con chó một phát. Thế là con chó bị phỏng đít, phóng ba chân bốn cẳng chạy như tên bắn, sủa la oải oải. Cán bộ chạy theo không kịp, bèn quay lại chỗ phu lục lộ, tụt ngay quần xuống, trật mông đít đầy ghẻ ra nói:

-Ề, mấy chú làm ơn quẹt cho tớ một ít, để tớ đuổi theo con chó của tớ, chứ nó chạy nhanh quá.

-Phu lục lộ có dịp trả thù cán bộ hỗn xược, bèn quẹt ngay vào mông cán bộ một cục nhựa đường nóng! Cán bộ đau quá nhảy cẩng lên và dzọt chạy như bay, miệng la ơi ới…bác hồ cứu con! đinh tai, nhức óc!

*HCM: Tên Trùm Mafia!

Một người Sài Gòn vừa bị công an tống giam vào ngục. Trong lúc anh đang ngơ ngác thì các người tù khác vây quanh anh và hỏi:

-Tại sao anh bị vào tù?

-Tôi là nhân viên bán hàng ở 1 tiệm sách và bị tù về tội đã bày trong tủ kính chân dung tổng bí thư Đỗ 10.

-Như vậy có gì đáng bị tù đâu? Ngưỡng mộ lãnh tụ là tốt sao lại bị tù?

-Tại tôi vô tình đặt dưới chân dung tổng bí thư Đỗ Mười cuốn “Thằng Ngốc” của Dostoevski.

-Tại sao anh không làm kiểm điểm và xin lỗi, rồi dẹp cuốn “Thằng Ngốc” đó đi.

-Tôi đã làm như thế và thay vào đó bức ảnh chụp tổng bí thư và vợ cùng các con ông ấy.

-Như vậy càng quí chớ có tội tình gì đâu?

-Nhưng kỳ này tôi lại sơ ý đặt dưới bức hình đó cuốn sách “Gia Đình Bất Hạnh”.

-Rồi sau đó ra sao?

-Công an đến cảnh cáo tôi, tôi dẹp cuốn sách đó ngay và thay bằng bức hình của toàn bộ chính trị của đảng cộng sản Việt Nam.

-Lần này anh có đặt phía dưới cái gì không ?

– Có mới chết chứ! Tôi lại sơ ý để cuốn “Alibaba và 40 tên cướp” dưới bức hình của toàn bộ Chính Trị của đảng cộng sản Việt Nam.

-Thế nên, anh bị họ đưa vào đây?

-Chưa, sau khi đút lót ít tiền, tôi được bỏ qua và lần này tôi để hình “bác Hồ” vào đó.

-Thế thì tuyệt quá. Vậy tại sao anh còn bị đưa vào đây?

-Vì sơ ý, tôi đã để quên cuốn sách “Tên Trùm Mafia” dưới chân dung bác Hồ!

*Phong Cấp!

Một ông bác sĩ từ miền Bắc vô Nam, được cử làm Giám Ðốc một Bệnh Viện nọ. Một hôm quan đốc ta thả bộ xuống sân và đến gần một lao công hỏi chuyện:

-Này Ông, ông làm công việc này bao lâu rồi?

-Thưa Ông Giám Ðốc, tôi làm công việc quét dọn này từ ngày xây bệnh viện này, ít ra cũng gần được 25 năm đấy.

Ông bác sĩ Giám Ðốc giơ tay lên trời:

-25 năm năm! tắc trách thật! Thế tại sao người ta chưa phong cho ông bằng bác sĩ à!

*Sống Mãi Trong… Quần Chúng!

Một ông nông dân bị cướp mất đất, liền viết thư khiếu nại gửi cho đồng chí Phạn Văn Đồng! Một tháng sau chính quyền gọi ông nông dân lên. Tại sao ông lại gửi thư cho đồng chí Phạm Văn Đồng? Ông không biết đồng chí Đồng đã chết lâu rồi sao? ” .

–Chết! sao công hàm bán nước cho Tầu vẫn còn hiệu lực? Mẹ kiếp, tại sao lúc không cần, thì các đồng chí cứ sống mãi trong quần chúng ta! còn lúc nhân dân cần, thì đồng chí ấy lại chết mất mẹ từ lâu rồi?

*“Đỉnh Cao Trí Tuệ!” Nôn Ra Máu!

Có anh nông dân hút nhiều thuốc lào viêm phổi. Một bữa nặng quá ho ra máu. Người nhà thấy thế đưa đến trạm xá.

Đến nơi ông bác sĩ già trực bảo: -Nó làm sao?

-Dạ…nôn ra máu bác sĩ ạ.

Thế là ông hý hoáy ghi vào sổ khám bệnh

…”Lôn ra máu…”

Rồi ông nói ráo hoảnh, lên Huyện, nặng lắm.

Đến huyện, bác sĩ trực nhìn qua sổ y bạ càu nhàu:

-Mẹ, ngu quá, có dấu huyền cũng không đánh vào, “lôn” là cái khỉ gì mà ra máu.

Rồi quát, lên Tỉnh ngay, sau khi thêm cho một dấu huyền to đùng.

Đến tỉnh bác sĩ trực chửi tục:

-Cái bọn thất học, dùng từ bố láo, học mãi mà không biết gọi một từ “âm hộ” cho đàng hoàng.

Rồi quát: -Y tá đâu, sắp đẻ rồi, băng huyết này…

Xe băng ca chạy rầm rầm quýnh quáng, không ai nhìn bệnh nhân, cô y tá đẩy xe vào phòng cấp cứu thò tay khám giữa hai chân “sản phụ” rồi hét lên:

-Đẻ ngược rồi, em đã túm được một chân đứa bé!..

*Tự Do Ngôn Luận!

Một nhà báo phương Tây đến một nước CS và tranh thủ hỏi xem người dân suy nghĩ gì về chế độ. Nhà báo gặp một người dân ngồi chơi ngoài vỉa hè liền đưa micro ra và hỏi:

-Anh có thể cho biết ý kiến của mình về đ/c lãnh đạo, cao nhất của nhà nước mình không?

Người này nhìn trước nhìn sau kéo nhà báo vào nhà mình rồi nói thì thầm:

-Nói thật với anh tôi quý đ/c đó lắm.

-Sao khen lãnh đạo mà anh lại phải lén lút, thì thầm như thế?

– Anh thông cảm, ở đây, chê lãnh đạo thì bị công an bắt đi tù…mọt gông! Mà khen lãnh đạo, thì dễ bị người dân đánh…vỡ mặt!

*Vô Tội!

-Anh bị mấy năm tù?

-25.

-Vì tội gì?

-Tớ vô tội.

-Nói láo! nói xạo hoài! Vô tội, theo luật XHCN, thì chỉ bị 10 năm tù thôi! Như cô Phạm Thị Đoan Trang, được bớt một năm, chỉ còn 9 năm!

*A Lô, Đồn Công An Phải Không?

-Đúng. Có chuyện gì vậy?

-Xin thưa, con vẹt của tôi bay mất rồi.

-Thì sao?

-Nếu chẳng may tìm thấy nó, xin các đồng chí viết vào biên bản khẳng định rằng, tôi hoàn toàn không dính dáng gì đến những quan điểm chính trị trong lời khai của nó. Lần trước tôi đã bị đi tù mút chỉ, vì lời khai của nó đấy!

*Lý Do Đi Tù!

Dưới XHCN, mới có chuyện đi tù vô lý như sau:

Ba anh công nhân đang ở trong tù ngồi trò chuyện. Họ hỏi nhau lý do bị đi tù “cải tạo”.

Anh A cho biết: Hàng ngày tôi thường đến xí nghiệ̣p trước 30 phút, tay Giám đốc kết tội tôi là gián điệp.

Anh B: Trái lại, tôi thường hay đi làm trễ, tên Giám đốc nói tôi phá hoại sản xuất.

Anh C cười chua xót: Ngày nào tôi cũng đi làm đúng giờ. Tay Chủ nhiệm kết án tôi xài đồng hồ của bọn Tư bản!

*Chuyện XHCN Mới Nhất! Thời Covid 19.

Dưới đây là 2 chuyện xảy ra tại Việt Nam gần đây, trong thời cách ly “Covid Lockdown”:

1/ Bánh mì không phải là thực phẩm, lương thực!

Anh công nhân Trần Văn Em, làm việc trong công trường của một dự án du lịch phía Bắc thành phố Nha Trang. Chạy xe ra ngoài mua bánh mì và nước uống. Trước khi đi, anh có xin phép người Quản lý. Thế nhưng, anh công nhân tội nghiệp này, hoàn toàn không biết “cái thứ” mà anh đang đi mua, vì nó giúp cho anh no bụng, để sống, để làm việc, không phải là “lương thực!” Mà cả thế giới thì công nhận, chỉ riêng có CS VN, là không công nhận!

Anh công nhân hàn nhôm, với mức lương 200,000 đồng/ngày, ngơ ngác khi được “khai sáng” một bài học, bởi ông đồng chí Trần Lê Hữu Thọ, Phó Chủ tịch UBND phường Vĩnh Hòa, thành phố Nha Trang: “Ðồ ăn không phải thiết yếu, bánh mì không phải là lương thực? Mày ở trên núi mới xuống, đúng không?” Chưa hết, sau khi “dạy” cho công nhân Trần văn Em định nghĩa “bánh mì không phải lương thực!” Ông Thọ còn tặng thêm hình phạt: “Mai cho mày nghỉ việc luôn!”

Mà đúng vậy thiệt. Sáng Thứ Hai, 19 Tháng Bảy, anh Trần Văn Em nhận được thông báo nghỉ việc! Đến nay, anh Trần văn Em vẫn còn thất nghiệp. Vì tội lầm lẫn bánh mì là thực phẩm!

Bài học định nghĩa về “bánh mì” mà anh công nhân hàn nhôm, có được quả là đắt giá! Chỉ có người dân sống với CS mới học được!

(Hèn gì có lớp lãnh dạo như thế, Xuống Hố Cả Nước là điều dĩ nhiên. Kể từ 75, sau gần nửa thế kỷ, việt Nam, trở thành những quốc gia nghèo đói nhất thế giới! trên đường tiến lên Thiên Đàng Chủ Nghĩa!)

2/ Đảng phán: Bao cao su không phải là hàng thiết yếu!

Mạng xã hội TikTok mấy ngày qua đã chia sẻ một video clip. Cho thấy cô gái bị tổ công tác thi hành Chỉ thị 16, yêu cầu dừng lại để kiểm tra, xuất trình giấy tờ và trình bày lý do ra khỏi nhà vào thời điểm ban đêm. Cô gái chấp hành lệnh, xuất trình món đồ thiết yếu mình vừa mua là 2 hộp bao cao su! (condom).

Những người thực thi lệnh của cơ quan chức năng tức tối, nghiêm mặt, trước khi phạt, chất vấn cô gái rằng, đây không phải đồ dùng thiết yếu.

Cô phản bác: “Thiết yếu chứ sao không? Không có rồi dính thai sao?” Đảng có chính sách nào nuôi người dân không?

(Những đỉnh cao trí tuệ của lũ khỉ Trường Sơn, mà cai trị đất nước như thế, thì…đéo khá! thật!)

Giọt lệ khóc cho quê hương

*
Em cúi xuống để rơi ngàn giọt lệ
Khóc cho đất, cho mộ đá không tên
Cho đêm về lung linh ngọn nến trắng
Tấm thẻ bài chợt lóe sáng trong đêm.

*
Em cúi xuống thắp nén nhang tình nghĩa
Ngọn gió chiều làn khói tỏa bay cao
Đời chiến sĩ, linh thiêng còn vọng lại
Giữ Quê hương. Hồn bất khuất tự hào.

*
Em cúi xuống chắp tay quỳ bái lậy
Lệ tuôn trào vị mặn thấm trên môi
Thời chinh chiến viết đầy trang Quân Sử
Sao còn nghe lòng trĩu nặng khôn nguôi.

*
Em cúi xuống lệ tuôn trào thương xót
Khóc cho người vì Tổ Quốc Vong Thân
Việt Nam ơi ! Lắng nghe hồn sông núi Ngọn lửa thiêng, thắp sáng bóng chinh nhân.

*
AET Lê Tuấn

****
Ta và Em

*
Ta và em, cùng đau lòng uất hận
Hận chiến tranh, hận Cộng Sản vô thần
Hận những tháng ngày lưu đầy biệt xứ
Em bơ vơ giữa nhịp sống nhân quần.

*
Ta và em, bao chua xót đắng cay
Đau nỗi đau của thân phận làm người
Tim ứa máu, nhìn lá cờ cuốn lại
Tự Do mất đi, để lại kiếp lưu đầy.

*
Ta và em, bao ngăn cách đường về
Bị tù đày nơi địa ngục trần gian
Nơi loài người, với trái tim nhuộm đỏ
Khối óc mù loà, vì chủ nghĩa Mác Lê.

*
Ta và em, đã vượt qua ngàn dặm
Qua đau thương, qua cả nỗi âu lo
Vượt biển Đông, vượt muôn trùng bão táp
Đến bến bờ, một đất nước Tự Do.

*
Ta và em, cùng quay đầu nhìn lại
Nắng Sài Gòn, sao mờ bóng tương lai
Hồn Sông Núi, cơn đau tim rướm máu
Mơ Tự Do. Trong đêm vắng thở dài.

*
AET Lê Tuấn

***


Bạn Tôi

*
Bạn tôi đôi mắt đăm chiêu
Dường như muốn nói đôi điều cùng ai
Vết nhăn vầng trán thiên tài
Gánh bao phiền muộn, đôi vai phong trần.

*
Binh đao loạn thế chia phần
Buồn theo vận nước xoay vần đổi thay
Đoạn trường ai bước mới hay
Nâng ly uống cạn đắng cay phận người.

*
Nỗi đau không nói thành lời
Nửa đem chôn dấu, nửa khơi trong lòng
Quên đi gánh nợ tang bồng
Nghiêng theo chiến sử, nát vòng trầm luân.

*
Bạc màu áo trận quân nhân
Trai thời ly loạn thế nhân vô thường.
Một thời oai dũng xa trường
Ngày nay an phận thủ thường mà đau.

*
Từ khi non nước thay màu
Trong tim uất nghẹn, lệ sầu nhẹ rơi.
Hồn thiêng sông núi gọi mời
Từ nay ta sẽ dựng trời đất riêng.

*
AET Lê Tuấn
người lính già chưa giải ngũ
Xin Mời nghe ca khúc
Giọt lệ khóc cho quê hương

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 thời gian đã đi qua 47 năm.

Có hàng triệu người vui thì cũng có hàng triệu người buồn.

Có những đốm sáng pháo hoa trên bầu trời thì cũng có những ánh lửa trên đầu nén nhang đang thắp sáng nơi mộ địa hay trên bàn thờ của từng gia đình.


Xin chia sẻ những vần thơ và ca khúc Giọt Lệ Khóc Cho Quê Hương ở trên.

error: Content is protected !!