Biên khảo,  Mai Thanh Truyết

CÂU CHUYỆN MỘT DÒNG SÔNG – Mai Thanh Truyết

Câu Chuyện Một Dòng Sông

Xin thưa ngay, tựa đề của loạt bài viết dưới đây là “Câu chuyện một dòng sông” không giống như “Câu chuyện dòng sông” của Hermann Hesse nói về của cuộc đời của Đức Phật qua ba giai đoạn khác nhau. Cũng không phải là “Dòng sông định mệnh” của Doãn Quốc Sĩ nói về anh chàng Thiệu với dòng sông Đuống êm đềm, nhưng rốt cuộc phải rời xa để vô Nam vì cộng sản…

Mà câu chuyện của dòng sông ở đây là “Dòng sông Mekong” với những nghiệt ngã hiện tại do tham vọng cuồng điên của Trung Cộng xử dụng sông Mekong như một vũ khí nước nhằm áp đảo cả vùng Đông Nam Á Châu, trong đó, Việt Nam với Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là nạn nhân chịu nhiều thiệt thòi và hậu quả khắc nghiệt nhứt.

Bài viết gồm ba Phần: – Phần I: Sông Mekong: Nỗi đau bất tận; – Phần II: Tình trạng hiện tại của sông Mekong; – Phần II: Những gì cần phải làm.

Sông Mekong: Nỗi đau bất tận – Phần I

Sông Mekong, con sông dài thứ 11 thế giới, cũng là con sông đa dạng sinh học thứ 2 thế giới. Được nuôi dưỡng bởi tuyết tan trên dãy Himalaya Tây Tạng và mưa gió mùa ở Đông Nam Á. Sông Mekong dài 4200 km là nơi sinh sống của hàng nghìn loài động thực vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. Dòng sông chính và vô số phụ lưu của nó nuôi dưỡng và hỗ trợ hơn 100 triệu người từ Trung Hoa ở phía bắc đến Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cambodia, và cuối cùng là gần 20 triệu người sống ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam Việt Nam.

Nói về tên, Sông Mekong có những tên khác nhau khi chảy qua từng quốc gia một. Khi chảy qua Trung Hoa, Mekong có tên gọi là Lancang Jiang nghĩa là “Dòng sông hỗn loạn hay “cuồn cuộn” – Turbulent River”. Khi qua Lào, lại có tên Mae Nam Kongi; khi chảy xuyên Thái Lan, sông có tên Mae Kong tức Mother of Water. Sông chảy xuôi Nam xuyên qua thác Khone ngay biên giới Lào (Laos) và Cao Miên (Cambodia). Sông không có tên riêng ở Miên. Nhưng khi vào Việt Nam, sông lại chia thành hai nhánh Sông Tiền và Sông Hậu và  được gộp chung lại là Sông Cửu Long, để rồi chảy ra biển qua chín cửa: Tiểu – Đại – Ba Lai – Hàm Luông – Cổ Chiên – Cung Hầu – Định An – Tranh Đề (hay Trần Đề) – Ba Thắc (Bassac). Hiện tại, cửa Ba Lai đã được che lại làm cống ngăn nước mặn, và cửa Bassac bị lấp lại do phù sa dầy đặc.

Những tổ chức quốc tế về sông Mekong

Cho đến nay, có 4 tổ chức quốc tế liên quan đến sông Mekong và một Định ước LHQ quy định chung về những sông có dòng chảy xuyên qua nhiều quốc gia như sau:

  1. Mekong River Committee – MRC – Ủy ban Sông Mekong

Mục đích của Ủy ban là cùng nhau thương thảo và có sự đồng thuận trong bất cứ đề nghị hay dự án nào của mỗi thành viên liên quan đến dòng sông hay ảnh hưởng đến lưu vực hai bên sông. Dự án hay đề nghị sẽ bị hủy bỏ ngay tức khắc nếu có một thành viên phản đối (giống như 5 thành viên thường trực trong Hội đồng Bảo an LHQ). Ủy viên trong Ủy ban là các thành viên của các quốc gia có con sông Mekong chảy qua như: Trung Cộng, Miến Điện (Myanmar), Thái Lan (Thailand), Lào (Laos), Cao Miên (Cambodia), và Việt Nam. Ủy ban nầy bị giải tán từ năm 1995 vì Trung Cộng rút ra khỏi để tiến hành những đập thủy điện bậc thềm và đập chứa nước trên dòng chính của sông. Và con đập gây ra nguyên nhân trực tiếp cho sự hạn hán và nhiễm mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long có tên là Cảnh Hồng – Jinhong nằm trên dòng chính sông Mêkong và cách biên giới Vân Nam – Lào khoảng 60Km.

  • Mekong River Commission – MRC – Ủy hội Sông Mekong

Ủy hội Mekong được thành lập vào ngày 5 tháng 4, 1995 với mục đích:” Hiệp định này đã đưa bốn quốc gia lại với nhau nhằm thúc đẩy và phối hợp quản lý và phát triển bền vững nguồn nước và các nguồn tài nguyên liên quan vì lợi ích chung của các quốc gia và hạnh phúc của người dân”.

Hiện tại, chỉ còn lại bốn thành viên là Thái – Lào – Miên – Việt cùng hợp tác với nhau, trao đổi tin tức qua hai trạm quan trắc ở Tân Châu và Châu Đốc như dòng chảy đo đạc hàng tuần, các thông số hóa học và vật lý như độ mặn (Sodium), độ pH, độ đục (turbidity), vi khuẩn coliform. Riêng trạm quan trắc nằm bên kia biên giới tỉnh Vân Nam do TC quản lý không chịu trao đổi các tin tức đo đạc kể trên tại đây cho dù phải chịu nhiều áp lực quốc tế về phương diện nầy.

  • Lower Mekong Initiative – LMI – Sáng kiến Hạ lưu Sông MeKong

Sáng kiến Hạ nguồn Mekong (LMI) được thành lập để hưởng ứng cuộc họp ngày 23 tháng 7 năm 2009 giữa Ngoại trưởng Hillary Clinton và Bộ trưởng Ngoại giao các nước Hạ nguồn Mekong – Cambodia, Lào, Thái Lan và Việt Nam – tại Phuket, Thái Lan.

Sáng kiến ​​Hạ nguồn sông Mekong (LMI) là sự hợp tác kéo dài một thập kỷ giữa Hoa Kỳ, Cambodia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững trong khu vực. Sáng kiến ​​hỗ trợ sự hợp tác giữa các nước thành viên thông qua các chương trình giải quyết những thách thức chung trong khu vực. LMI được hỗ trợ thông qua hai trụ cột liên ngành: Trụ cột Nexus (Nexus Pillar) bao gồm môi trường, nước, năng lượng và thực phẩm, và Trụ cột kết nối (Connectivity Pillar) và Trụ cột phát triển con người (Human Development) bao gồm giáo dục, sức khỏe, trao quyền cho phụ nữ (women’s empowerment) và hội nhập kinh tế.

Thông qua lịch sử gắn bó lâu dài của Hoa Kỳ với các quốc gia Đông Nam Á, ngày càng có nhiều nhận thức về các vấn đề xuyên biên giới quốc gia. Các quốc gia thuộc tiểu vùng hạ lưu sông Mekong có nhiều mối quan tâm chung khác nhau, bao gồm quản lý tài nguyên nước xuyên biên giới (quản lý tài nguyên nước vùng biên giới), các bệnh truyền nhiễm như sốt xuất huyết và đại dịch cúm, và tính dễ bị tổn thương trước các tác động tiêu cực của khí hậu thay đổi. LMI tìm cách hỗ trợ sự hiểu biết chung của khu vực về những vấn đề này và tạo điều kiện cho các phản ứng phối hợp cho có hiệu quả hơn.

USAID hỗ trợ LMI thông qua chương trình Kết nối Mekong thông qua Giáo dục và Đào tạo, một khoản đầu tư đặc biệt vào phát triển lực lượng lao động theo sáng kiến ​​này.

  • Lancang-Mekong River Cooperation – Hợp tác Sông Lancang – Mekong

Hợp tác Sông Lancang – Mekong ra đời dưới sự đề xướng và tài trợ của TC ngày 17 tháng 3 năm 2016. Hợp tác sông Lancang-Mekong đã được thêm vào … sáu quốc gia nguyên thủy của Mekong River Committee ngay từ lúc ban đầu cho thấy sự phối hợp hiệu quả, hợp tác khẩn cấp …

Thủ tướng TC Lý Khắc Cường tham dự Cuộc họp các nhà lãnh đạo Hợp tác Lancang-Mekong lần thứ ba qua liên kết video tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh, thủ đô TC, ngày 24 tháng 8 năm 2020. Cuộc họp do Lý Khắc Cường và Bộ trưởng Thongloun đồng chủ trì Sisoulith của Lào, và có sự tham dự của Thủ tướng Hun Sen của Cambodia, Tổng thống U Win Myint của Myanmar, Thủ tướng Prayuth Chan-ocha của Thái Lan và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc của Việt Nam.

Trong cuộc họp lần thứ ba của các nhà lãnh đạo Hợp tác Lancang-Mekong (LMC) vạch ra toàn diện kế hoạch hợp tác trong tương lai giữa các thành viên LMC dĩ nhiên dưới sự điều động của TC. TT TC Lý Khắc Cường đưa ra một loạt đề nghị nhằm thúc đẩy hợp tác Lancang-Mekong trong các lĩnh vực như tài nguyên nước, kết nối và các nỗ lực chống đại dịch toàn cầu.

Với tư cách là một đối tác có trách nhiệm, TC chia xẻ dữ liệu thủy văn trên sông Lancang kịp thời và minh bạch hơn với các nước hạ lưu, đồng thời thực hiện hợp tác khẩn cấp để ứng phó với lũ lụt và hạn hán. Xin nhấn mạnh ở đây điều nầy đã được ghi trong Ủy ban Sông Mekong, nhưng TC đã không thực thi! Bây giờ lại hứa! Và cho đến nay (2021), TC vẫn chưa công bố kết quả đo đạc hàng tuần ở trạm thủy văn nằm ngay biên giới TC-Lào, mặc dù các thành viên của UH Mêkong yêu cầu nhiều lần.

Trong năm 2016, 2019, và 2020 các nước Mekong đã phải hứng chịu nhiều đợt hạn hán nghiêm trọng. TC hứa (lại hứa!) tăng cường vận hành khoa học các hồ chứa trên sông Lancang để giảm hạn hán, điều này đã được chính phủ các nước Mekong, trong đó có Lào, cũng như cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Phải chăng vì bị áp lực của TC, dù bị thiệt hại nặng nề do việc đóng đập Jinhong trong các năm kể trên, CSBV vẫn im hơi lâng tiếng?

  • UN Convention on the Law of the Non-navigational Uses of International Watercourses 1997 – Công ước LHQ về Luật Xử dụng Phi Hàng hải ở các nguồn Nước quốc tế

Công ước LHQ nầy quy định những Điều khoản xử dụng nguồn nước sông Mekong như các Điều khoản sau đây:

  • Điều 3-Khoản 4 ” Khi một thỏa thuận về nguồn nước được ký kết giữa hai hoặc nhiều Quốc gia có nguồn nước, từ đó sẽ xác định các vùng nước ghi trong ký kết. Một thỏa thuận như vậy có thể được ký kết đối với toàn thể nguồn nước quốc tế hoặc bất kỳ phần nào của nó hoặc một dự án, chương trình hoặc việc xử dụng cụ thể ngoại trừ trong chừng mực thỏa thuận có ảnh hưởng bất lợi, ở một mức độ đáng kể, việc sử dụng bởi một hoặc nhiều Quốc gia có nguồn nước khác của nước của nguồn nước, mà không có sự đồng ý rõ ràng của họ”.
  • Điều 7-Khoản 1: Bổn phận không gây ra thiệt hại đáng kể –  Các Quốc gia có nguồn nước, khi xử dụng nguồn nước quốc tế trong lãnh thổ của mình, PHẢI thực hiện tất cả các biện pháp thích hợp để ngăn chặn việc gây ra thiệt hại đáng kể cho các Quốc gia có nguồn nước khác.
  • Điều 8-Khoản 1: Trao đổi dữ liệu và thông tin thường xuyên – Các Quốc gia có nguồn nước PHẢI thường xuyên trao đổi dữ liệu và thông tin sẵn có về tình trạng của nguồn nước, đặc biệt là về bản chất thủy văn, khí tượng, địa chất thủy văn và sinh thái và liên quan đến chất lượng nước cũng như liên quan dự báo. (Điều nầy TC chưa bao giờ thực hiện).
  • Và Điều 33 -Khoản 1: Giải quyết tranh chấp – Trong trường hợp có tranh chấp giữa hai hoặc nhiều bên liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Công ước này, các bên liên quan, trong trường hợp không có thỏa thuận Điều 13 có thể áp dụng giữa họ, tìm cách giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với các quy định Khoản 2:” Nếu các bên liên quan không thể đạt được thỏa thuận bằng thương lượng do một trong số họ yêu cầu, họ có thể cùng tìm kiếm văn phòng tốt của, hoặc yêu cầu hòa giải hoặc hòa giải bởi bên thứ ba, hoặc xử dụng, nếu thích hợp, của bất kỳ tổ chức nguồn nước chung nào có thể đã được thành lập bởi họ hoặc đồng ý gửi tranh chấp ra trọng tài hoặc Tòa án Công lý Quốc tế”.

Tóm lại, qua 5 tổ chức quốc tế về sông Mekong, chúng ta nhận thấy thái độ và sự hợp tác của TC hoàn toàn dựa trên quyền lợi của nước nầy, và phủ nhận mọi trách nhiệm trong việc khai thác dòng sông Mekong chảy xuyên qua đất nước của họ như:

•           TC đã đứng ngoài Ủy hội Mekong dù quốc gia nầy phải có bổn phận và trách nhiệm vì dòng sông Mêkong chảy xuyên đất nước họ hàng ngàn cây số;

•           TC dựng ra Hợp tác Sông Lancang – Mekong chỉ nhằm mục đích kết hợp về kinh tế lưu vực theo ý kiến của họ mà thôi, hoàn toàn phủ nhận trách nhiệm đã xây dựng các đập bậc thềm ngay trên dòng chính, trái với quy định của công ước LHQ năm 1997.

Từ hai lý do trên, chúng ta có thể kết luận rằng Trung Cộng là tác nhân chính trong việc tàn phá môi trường và hệ sinh thái của sông Mêkong và phải chịu sự tài phán của hai cơ quan quốc tế dưới đây:

•           Qua những quy định trong Công ước LHQ 1997, chúng ta có thể kiện TC ra Tòa án Công lý Quốc tế – The International Court of Justice qua các Điều khoản:-  Điều 3-Khoản 4; – Điều 7-Khoản 1; – Điều 8-Khoản 1; và – Điều 33 -Khoản 1 như đã nói ở phần trên.

•           Về Tòa án Hình sự Quốc tế – The International Criminal Court. Vào năm 1990 khi  ICC – Tòa án Hình sự Quốc tế thường trực đầu tiên được thành lập trên thế giới. Với tư cách là tòa án cuối cùng, ICC được thành lập không phải để thay thế các tòa án quốc gia mà nhằm bổ túc cho các tòa án đó, tạo ra một tòa án toàn cầu sẽ xét xử những tội ác nghiêm trọng nhất mà cộng đồng quốc tế quan tâm trong đó ICC nâng mức độ tàn phá môi trường lên ngang với tội ác diệt chủng nhằm đưa ra một Bộ luật hủy diệt môi trường và hệ sinh thái là truy tố các tội phạm về môi trường nằm ngoài khu vực tài phán quốc gia. Dựa theo tiêu chuẩn trên của ICC, đối với những vi phạm qua việc khai thác dòng sông Mêkong bất hợp pháp, TC có thể bị kết án về “tội diệt chủng qua việc hủy hoại môi trường” (ecocide) sông Mêkong ảnh hưởng lên hàng trăm triệu người dân sống dọc theo lưu vực sông, trong đó có trên 17 triệu người Việt ở Đồng Bằng Sông Cửu Long.

Xin mời xem tiếp Tình trạng hiện tại của sông Mekong – Phần II

Mai Thanh Truyết

Viết trong những ngày Quốc hận Tháng tư 2021

****

Câu chuyện một dòng sông – Phần II

Tình trạng sông Mekong hiện tại

  1. Trong quá khứ
  • Việc phá rừng trên dòng chính ở thượng nguồn làm đất bị xói mòn hai bên bờ sông, do đó không giữ nước lại trong mùa nước lớn (từ tháng 6 đến tháng 10) để rồi điều tiết trong mùa khô (tháng 12 đến tháng 3) hạn chế một phần nào việc thiếu nước cho đồng bằng ở thời điểm nầy. Rừng là một thảm thực vật thiên nhiên lớn nhứt và hữu hiệu nhứt trong nhiệm vụ điều tiết dòng chảy của sông Mêkong. Rừng qua rễ cây và lớp đất thịt bao phủ sẽ hấp thụ và giữ nước trong mùa mưa, và trong mùa khô sẽ điều tiết và cung cấp nước cho hạ nguồn để tiếp tay với dòng chánh ngăn chặn nước mặn xâm nhập sâu vào ĐBSCL. Đây là một đặc ân của thiên nhiên. Theo thống kê, trước Đệ nhị thế chiến, diện tích rừng nguyên sinh của Việt Nam chiếm 43% tổng diện tích, nhưng đến năm 1995, rừng chỉ còn lại 28%, nghĩa là mất trắng 55.000 Km2. Bắt đầu sau đó, với sự trợ giúp của Liên hiệp quốc, việc trồng rừng mới được bắt đầu; tuy nhiên, tính đến năm 2005, tỷ lệ rừng tăng lên đến 32%, trong đó những vùng trồng cao su, trà, cà phê… vẫn được tính toán trong việc “trồng rừng” do đó con số mới tăng. Nhưng thực sự, việc phá rừng vẫn tiếp tục gia tăng với nồng độ phi mã, tính đến năm 2005, rừng nguyên sinh (rừng già) ở Việt Nam chỉ còn 8%.
  • Việc phá rừng tràm, rừng đước ở vùng ngập mặn: Tại vùng ĐBSCL, rừng ngập mặn chiếm khoảng 300.000 Km² bao gồm các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Cần Giờ. Nhưng sau hơn 15 năm khai thác việc nuôi tôm, diện tích rừng hiện nay chỉ còn khoảng 200.000 Km², và phần diện tích mất đi đều bị bỏ hoang vì vùng đất nầy bị ô nhiễm sau vài mùa tôm. Chỉ tính riêng cho vùng Cà Mau, trước 1975, rừng ngập mặn chiếm độ 200.000 Km2, mà nay, chỉ còn độ 70.000 km² mà thôi.

Rừng tràm, rừng đước bao bọc tạo thành một vùng ưu đãi của thiên nhiên nhằm:

–           Giữ chân thảm phù sa bồi thêm cho mũi Cà Mau hàng năm trên 1km trong quá khứ (hiện nay, vì thiếu rừng bờ biển vùng nầy ngày càng bị xói mòn ước tính trên dưới 0,5 km/hàng năm); 

–           Vừa ngăn chặn sóng gió, bão nhiệt đới hàng năm;

–           Là vùng trú ẩn và sinh sản cho tôm cá trong thiên nhiên;

–           Rừng ngập mặn cũng là một vùng đệm (buffer) để hạn chế việc nhiễm phèn sulphate và giảm thiểu việc ngập mặn trong mùa khô. (Vào tháng 3/2016, lưu lượng sông Cửu Long chì còn 800 m3/giây ở Tân Châu, do đó, nước mặn đã vào sâu hơn 100Km).

Một khi những nhiệm vụ bảo vệ ĐBSCL do thiên nhiên đã mất đi, nguy cơ làm cho vựa lúa của một vùng rộng lớn ngày càng giảm vừa diện tích, và vừa giảm năng suất. Nhiệm vụ của rừng ngập mặn rất quan trọng;

  • Việc khai thác cát

Hàng năm, hàng chục triệu mét khối cát được khai thác từ hạ lưu sông Mekong, chảy qua Lào, Thái Lan, Cambodia và Việt Nam.

Một nghiên cứu của Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) cho thấy hầu hết các hoạt động khai thác đang diễn ra ở Cambodia và Việt Nam.

Lưu vực ĐBSCL, có hơn 150 mỏ cát, trải rộng trên 8.000 ha (80 km2) bề mặt sông, đã được cấp phép ở 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.

Theo ước tính cho việc phát triển ở khu vực nầy, phải cần một tỷ mét khối (35,3 tỷ feet khối) cát vào năm 2020 để đáp ứng nhu cầu vật liệu xây dựng. Có vài nguồn tin cho biết CSBV ồ ạt khai thác cát trong khoảng 10 năm vừa qua nhắm vào việc cung cấp cát cho TC để …bồi đắp các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa(?)

Tứ giác Long Xuyên

Tứ giác Long Xuyên là một vùng đất hình tứ giác thuộc Vùng đồng bằng sông Cửu Long nằm trên địa phận ba tỉnh thành Kiên Giang, An Giang và Cần Thơ. Bốn cạnh của tứ giác Long Xuyên là biên giới Việt Nam – Campuchia, vịnh Thái Lan, kênh Cái Sắn và sông Bassac (sông Hậu). Bốn đỉnh góc của tứ giác này ứng với bốn thành phố: Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá và Hà Tiên.

Vùng Tứ giác Long Xuyên có diện tích tự nhiên khoảng 489.000 hecta. Địa hình trũng, tương đối bằng phẳng với độ cao tuyệt đối từ 0,4 đến 2 mét.

Mùa lũ (nước nổi) (từ tháng bảy đến tháng mười hai), vùng này thường ngập trong nước với độ sâu từ 0,5 đến 2,5 mét. Mùa khô, vùng này thường khô hạn và bị nước mặn xâm nhập. Chương trình thủy lợi thoát lũ qua vịnh Thái Lan của Chính phủ Việt Nam đã phần nào giải quyết tình trạng ngập lũ và đất bị nhiễm mặn của vùng này.

  • Việc xây dựng đê bao: Xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang chính sách đê bao vào ứng dụng trong việc làm tăng diện tích trồng lúa, trong việc biến “sỏi đá thành cơm”, cho nên người dân ĐBSCL phải gánh chịu hậu quả ngày hôm nay là lũ lụt xảy ra thường xuyên hơn và không có chu kỳ tương đối cố định như trước kia nữa. Nguyên do là khi dòng chảy từ Mékong xuống khi mùa nước bắt đầu lên cao ở Tân Châu và Châu Đốc, nước sông hoàn toàn di chuyển ra biển, đợi đến khi nước lớn hơn nữa mới bắt đầu làm đầy hai vùng Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười.

Nhưng hiện tại, hiện tượng nghịch lý đang xảy ra là, với đê bao, dòng nước của Sông Cửu Long chảy thẳng vào hai vùng trên ngay khi chưa tới mùa nước lớn để khai thác nông nghiệp; do đó, khi mùa nước lớn (nước nổi) đến, một lượng nước khổng lồ sẽ chảy vào hai vùng đã ngập nước từ trước. Hiện tượng ngập lụt xảy ra là vì thế.

Cống Trà Sư xả lũ, cung cấp phù sa, góp phần tháo chua, rửa mặn, vệ sinh đồng ruộng cho vùng Tứ giác Long Xuyên.

Qua nạn lụt vào năm 2000, chúng ta thấy hậu quả của đê bao rõ ràng nhứt trong mùa nước nổi tức mùa lụt. Thiết nghĩ việc xây đê bao chính là nguyên nhân quan trọng nhứt so với những nguyên nhân kể trên. Vì sao? Vụ lụt lớn nầy ở ĐBSCL kéo dài qua tận tháng giêng năm 2001 tại nhiều vùng từ Châu đốc và một vài nơi ở khu Tứ Giác Long Xuyên. Lý do là mỗi địa phương quyết định xây dựng đê bao để che chắn cho khu vực. Thành thử khi nước xuống, nhiều nơi nước còn tồn đọng vì đê bao ngăn chận…làm cho nước không có lối thoát. 

Việc xây dựng đê bao để chuyển vận nguồn nước cho nông nghiệp hoặc chống lụt là một công trình nghiên cứu quan trọng, cần phải mất nhiều năm để tính toán lưu lượng nước cần phải chuyển hướng, đâu phải có thể do quyết định của lãnh đạo địa phương ra lịnh đắp đê chung quanh địa phận xã để tránh ngập lụt và, dĩ nhiên hậu quả tất nhiên là các xã chung quanh phải gánh chịu.

Thí dụ điển hình thứ hai về tại hại của đê bao trong mùa khô tháng 4/2010, một số vùng miền Bắc tỉnh Hậu Giang, vì vấn nạn đê bao, nguồn nước không thể thông thương vào được. Do đó, một số hệ lụy đang xảy ra cho vùng nầy từ mấy năm sau đó như:

–           Vì không có sự luân lưu của nguồn nước cho nên đất ngày càng chai mòn vì dư lượng của phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, và nhứt là phù sa không vào được hàng năm như trước kia, vì vậy năng suất lúa không còn như xưa nữa.

–           Đê bao hạn chế nguồn nước, cho nên nhiều nơi nông dân chỉ trồng lúa cho gia đình, phần thời vụ còn lại thì phải trồng hoa màu để kiếm sống.

–           Thời gian thiếu nước kéo dài ra, do đó thu nhập của nông dân ngày càng giảm sút.

Tóm lại, vấn đề đê bao ở vùng ĐBSCL cần phải nghiên cứu lại như một số đề nghị của các chuyên gia nông nghiệp và thổ nhưỡng hiện đang làm việc ở hai Đại học Hậu Giang và Cần Thơ.

Đồng Tháp Mười là tên phần trong lãnh thổ Việt Nam của một vùng đất ngập nước của Đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích 697.000 hecta, trải rộng trên ba tỉnh Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp trong đó Long An chiếm hơn phân nửa, thủ phủ vùng là thị xã Kiến Tường.

Đồng Tháp Mười là một đồng lụt kín được bao quanh bởi các giồng đất cao ven biên giới Việt Nam-Campuchia, đê tự nhiên dọc sông Tiền và giồng biển cổ dọc theo  quốc lộ 1A (Tân Hiệp – Nhị Quý, Cai Lậy) và chặn lại bởi sông Vàm Cỏ Đông (Long An).

Đồng Tháp Mười là một cánh đồng rộng lớn, hằng năm bị ngập lụt lối bốn, năm tháng khi nước sông Cửu Long dâng cao. Biển Hồ Tonlé Sap ở Campuchia và Đồng Tháp Mười ở Việt Nam là hai nơi lưu trữ nước thiên nhiên, nên đến mùa nước nổi, sông Cửu Long từ từ dâng cao, sau đó nước sẽ lần lần rút ra biển.

Tuy nhiên, trong mùa đông xuân năm 2016, do dòng chảy rất thấp nên lượng phù sa bồi đắp cho ĐBSCL rất thấp, làm ảnh hưởng đến vụ lúa Đông Xuân. Tính đến hiện tại, số thiệt hại lên đến hơn 200 trăm ngàn hecta lúa bị khô cằn như sự việc đã nêu trên. Bên cạnh đó tình trạng xâm nhập mặn sẽ tăng cao. Dự báo, theo thời gian, hiện tượng ngập mặn đang và sẽ diễn ra sớm hơn, trầm trọng hơn như đã nói ở phần trên. Đợt hạn hán lịch sử đã khiến cho người dân miền Tây trở nên khốn đốn. Theo nhiều chuyên gia, với tốc độ xâm nhập mặn như hiện nay sẽ khiến nông nghiệp tại nơi này bị ảnh hưởng nặng nề trong vòng 3 năm nữa. Và hiện tượng nầy đã xảy ra cho mùa Đông Xuân năm 2020 và 2021.

Cá ở hồ Tonle Sap, Khu dự trữ sinh thái của UNESCO và sông Mekong là nguồn cung cấp 80% protein cho hàng triệu người Campuchia và Việt Nam sống trong vùng. Đồng bằng, “vựa lúa” của Việt Nam và cây trồng nơi đây đang nuôi sống người dân nhiều nước, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới.

  • Việc “cắt xé dòng Cửu Long” qua dự án Dự án Luồng: Nhằm chuyển dòng nước chảy ra Cửa Trần Đề (Tranh Đề), xây dựng kinh Tắt cho tàu biển có trọng tải lớn vào sông Hậu. Chủ đầu tư là Cục Hàng hải Việt Nam. Tổng dự toán trong Báo cáo Nghiên cứu tiền khả thi là 3148,5 tỷ đồng. Tổng kinh phí đầu tư được duyệt là 10319,2 tỷ đồng. Cửa Kênh Tắt là một thành phần của Dự án Luồng cho tàu biển có trọng tải lớn vào sông Hậu. Dự án này là một câu chuyện dài, khởi đầu năm 2005 đến nay vẫn còn dang dở. Mục tiêu của dự án là:
  • Tàu có trọng tải đến 20.000 tấn sẽ vào đến cảng biển Cần Thơ;  
  • Từ đó, sẽ không phải chi cho nạo vét luồng vì bồi lắng không đáng kể.

Luồng hiện nay gồm có (1) một đoạn luồng sông Hậu trước khi đến Kênh Quan Chánh Bố tại cửa Định An dài 16,2 km; (2) 20 km luồng theo Kênh Quan Chánh Bố kể từ đây: (3) 8,7 km Kênh Tắt đào mới; (4) cửa Kênh Tắt trổ ra Biển Đông và một luồng biển đào tiếp ra đến phao số 0 dài 7,7 km. 16 năm qua rồi, dự án vẫn còn dang dở! Và hai cửa Định An, Trần Đề (Tranh Đề) đang dần dần bị thu hẹp…

  • Kênh Tắt được đào mới hoàn toàn, cắt đôi huyện Duyên Hải, cắt đứt QL 53 và ĐT 931, thông ra Biển Đông ở một vị trí mà Cục Hàng Hải Việt Nam được các công ty tư vấn cho là ít bồi lắng nhất dọc theo bờ biển của huyện Duyên Hải, từ xã Trường Long Hòa đến xã Đông Hải. Nơi trổ ra là xóm Mù U, thuộc xã Dân Thành.
  • Đáy Kênh Tắt rộng 85 mét. Bề rộng mặt kênh hiện nay rộng hơn tính toán ban đầu do mái bị sạt lở vì nền đất yếu. Đáy của luồng biển mở rộng dần từ 85 ra 150 mét.

Việc cắt đất đào kinh để tẻ nước sẽ làm đảo lộn dòng chảy của sông Hậu, từ đó có thể hủy hoại cả hệ sinh thái ở hai bên dòng sông và có nguy cơ gây nhiều thiệt hại cho việc canh tác nông nghiệp. Nên nhớ, TC đã cắt đất đào kinh dẫn nước sông Hoàng Hà ở phía Bắc nhằm canh tác vùng Mãn Châu và chính hành động nầy đã chận dòng chảy của sông và sông Hoàng Hà không còn chảy ra biển Bắc Trung Hoa nữa. Và tại Hoa Kỳ, dòng sông Colorado cũng không còn chảy vào vịnh Mexico nữa nữa vì việc chuyển nguồn nước cung cấp cho miền Nam California. Hai hệ lụy hiện tai trước mắt cần cho nhà cầm quyền CSBV đáng suy gẫm vì: – Cửa Bassac đã bị bít kín từ hơn 10 năm qua, – Và hai của Tranh Đề và Định An có khả năng cũng bị bít lại. Và sau cùng dòng Hậu giang cũng sẽ không còn thông thương với biển cả nữa…

  • Và hiện tại

Nhưng ngày nay, Biển Hồ và khu vực đồng bằng sông Cửu Long, và tất cả những người trú ngụ trong lưu vực sông Mekong đang bị đe dọa bởi sự phát triển các đập thủy điện  trên thượng nguồn. Các mối đe dọa mới lớn hơn nhiều so với bất kỳ trận hạn hán hoặc lũ lụt nào trong lịch sử tồn tại của chính con sông.

Các dự án chuyển hướng và phát triển nguồn nước dọc theo sông Cửu Long và các nhánh của sông không chỉ đe dọa đến đời sống, nghề cá và nông nghiệp của cư dân Đồng bằng mà còn đối với hệ sinh thái sông và Đồng bằng. Các nhà khoa học và kỹ sư trên khắp thế giới đang lo ngại về sự tàn phá môi trường đối với Đồng bằng do các dự án phát triển ở xa thượng nguồn gây ra. Các dự án này bao gồm phát triển thủy điện quy mô lớn ở Vân Nam thuộc TC tức đập Jinghong, và Lào, đập Xayaburi cùng với các dự án chuyển dòng nước sông Mekong lớn do Thái Lan đề xuất.

Tuy nhiên, chi phí kinh tế và hậu quả môi trường của các dự án đang phải gánh chịu nặng nề nhất bởi những người sống và canh tác xa hơn ở hạ lưu Đồng bằng sông Cửu Long. Những người này không có tiếng nói trong quá trình ra quyết định dự án, không thu được lợi ích nào từ các dự án này và chịu gánh nặng lớn nhất về tác động của họ.

Chuông báo động hiện đang vang lên ở Biển Hồ và Đồng bằng sông Cửu Long (Dân số theo thống kê 2019 ở ĐBSCL là 17.273.630 sống trên một diện tích 40.547 Km2. Mực nước tại trạm quan trắc Tân Châu, vào cuối mùa mưa năm 2010, đã xuống mức kỷ lục 95 năm. Cùng với việc giảm mạnh mực nước sông Mekong là sản lượng khai thác đánh bắt thủy sản cũng giảm tương tự và làm mất đi lượng phù sa sông giàu dinh dưỡng của sông Mekong vốn cần thiết cho canh tác lúa và rất quan trọng để kiểm soát xói mòn. Mực nước ngầm ở đồng bằng hiện đang giảm xuống do thiếu nước sông có sẵn để nạp lại tầng chứa nước. Nước mặn đã xâm thực tới 90 km vào đồng bằng sông Cửu Long ở nhiều nơi (Nhiễm mặn đo đạc ngày 10/3/2021: – Vàm Cỏ Đông và Tây (90Km) – Cửa Tiểu, Cửa Đại (60Km) – Cổ Chiên (75Km) – Sông Hậu (65Km) – Sông Cái lớn (55Km)), đe dọa làm ô nhiễm nguồn cung cấp nước ngầm hiện có và khiến hàng triệu ha đất canh tác không thể sản xuất).

Các dự án chuyển dòng nước và đập thủy điện hiện có và được đề nghị sẽ làm thay đổi vĩnh viễn chu trình thủy văn của lưu vực sông Mekong. Ở thượng nguồn, hàng nghìn km vuông rừng chung quanh đập có thể bị ngập do các hồ chứa. Ở hạ lưu, đất trồng trọt của vùng ngập lũ có thể bị thiếu nước và phù sa màu mỡ do lũ lụt hàng năm cung cấp. Tính từ năm 2010 cho đến 2020, có khoảng 1,3 triệu người đã phải di dời vì hạn hán và nhiễm mặn (tỷ suất di cư 39.9% năm 2019). Mực nước ở hai trạm quan trắc Tân Châu và Châu Đốc đo đạc ngày 1/3/2021 lần lượt là 1,45 m và 1,60 m so với trên dưới 2,50 m vào năm 2010!

  • Thí dụ điển hình: Tỉnh Bến Tre

Qua bản đồ độ mặn ở tỉnh Bến Tre vào đầu tháng 4/2021, và 3 bản tin dự báo khí tượng của Đài Khí tượng Thủy văn Tỉnh Bến Tre dưới đây, chúng ta có thể hình dung một cách rõ nét tình hình hạn hán và ngập mặn ở tỉnh nầy, một tỉnh miền duyên hải nằm trên dòng chảy của sông Tiền. Mùa mưa thường bắt đầu vào những ngày cuối tháng ba, nhưng những cơn mưa trên cũng không thể nào “đuổi mặn” ra biển cũng như “tẩy bớt mặn” trên các đồng ruộng nơi đây. Hiện tượng nầy cũng tương tự như các tỉnh ven biển như Gò Công, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau v.v…Việc nhiễm mặn, theo bảng dưới đây cho thấy, tháng ba vẫn là tháng nghiệt ngã nhứt cho vụ mùa lúa Đông Xuân hàng năm, từ đó kết quả của ba mùa khô tháng ba năm 2016, 2020, và 2021 đưa đến hậu quả là trên 200.000 mẩu lúa và hoa màu bị chết trắng, chưa kể các cây trồng lâu năm như sầu riêng, măng cụt, chôm chôm cũng bị đốn bỏ …làm củi chụm lửa!

Tóm lại, chúng ta thấy rằng, về độ mặn, nếu lấy định mức mặn 4 phần ngàn là điểm tới hạn (threshold limit) của cây lúa có thể chịu đựng và tồn tại dù cho thu hoạch rất thấp, thì nước mặn từ biển Đông đã vào sâu hơn 80 Km. Nhưng nếu lấy định mức mặn 0.5 phần ngàn cho nước uống thì mặn đã chạm đến hầu hết các nhà máy nước toàn vùng. VÀ một ngày nào đó không xa nữa, nước mặn sẽ lên tới các nhà máy nước ở Châu Đốc và Tân Châu, để rồi từ từ lên tới Nam Vang. Sự việc nông dân vùng Châu Đốc đánh bắt được cá thu nước mặn tại đây vừa qua trong tháng 4/2021 không phải là một điều đáng mừng, mà chính là một cảnh báo cho sự xâm nhập mặn trong một tương lai không xa!

Và sau cùng, cũng báo hiệu cho tương lai nông nghiệp của các vùng trên sẽ ngày càng tệ hại thêm lên:

•           Đất càng ngày càng thiếu dinh dưỡng tự nhiên;

•           Đất sẽ bị khô cằn ra (aridness);

•           Đất sẽ bị sa mạc hóa (desertification);

•           Và cuối cùng đất sẽ “chết” hẳn, không còn được khai thác nữa!

Chúng ta sẽ hình dung tương lai của những cư dân sống ở các vùng đất kể trên như thế nào!

Và cũng không ngạc nhiên khi tình trạng di dân ngày càng tăng thêm, ước tính trên 1,1 triệu trong khoảng thời gian từ 2010 cho đến 2019. TS Huỳnh Thế Du là giảng viên cao cấp của Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright nhận định:”Quá trình di dân ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay là hợp tự nhiên. 10 năm gần đây, hơn 1,1 triệu dân ở đây đã di dân đi nơi khác (chính yếu là vùng TPHCM). Trung bình mỗi năm 100 nghìn người rởi khỏi kênh rạch miền Tây để tìm cơ hội đổi đời mới, hoàn toàn đáng ủng hộ. Đó là một điều tốt, chứ không có gì bất lợi”. Nhưng đối với văn quá và thói quen của người nông dân, có ai muốn “tha phương cầu thực” nếu không là một sự bắt buộc.

Tương lai hết sức mù mịt cho những người con Việt chất phác sống ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, vùng đã từng được mệnh danh là “vựa lúa của Việt Nam” mang vị trí xuất cảng gạo Việt Nam đứng vào hạng thứ hai trên thế giới.

  • Lời cuối cay đắng cho một dòng sông

Mặc dù, trong nhiều năm qua, đã có hơn 15.000 người đã ký tên vào lá đơn gửi tới lãnh đạo các nước trong khu vực yêu cầu ngừng các dự án thủy điện để cứu sông Mekong, nhưng mọi dự án xây đập ngay trên dòng chính của Mekong vẫn tiến hành tuần tự trên đất Lào và Cambodia. Lá đơn do tổ chức Liên minh “Save the Mekong” khởi xướng đã được gửi tới thủ tướng các nước Cambodia, Lào, Thái Lan và Việt Nam, yêu cầu dừng ngay 11 dự án thủy điện tại vùng hạ lưu sông Mekong. Trong đó có 7 đập thủy điện sẽ được xây tại Lào, hai tại vùng biên giới Lào-Thái Lan và hai tại Cambodia. Đâp Xayaburi vừa khánh thành cách đây 2 năm ở Lào (cách Vientiane khoảng 60 Km) do đầu tư của Thái Lan và Trung Cộng nhằm mục đích dẫn nước qua vùng Bắc Thái với 600.000 mẩu đất trồng lúa càng làm cho tình trạng hiếm nước ở hạ lưu như Cambodia và ĐBSCL ngày càng trầm trọng hơn.

•           Lý do chính là tuy các công trình thủy điện này sẽ cung cấp điện cho phát triển kinh tế, nhưng chúng có thể gây hại trầm trọng cho môi trường và đa dạng sinh học của dòng sông Mekong, đồng thời ảnh hưởng xấu tới cuộc sống của những người sinh sống nhờ dòng sông Mẹ này.

•           Nhà cầm quyền Việt Nam đã nhận nhiều tài trợ của Ngân hàng Thế giới để trồng rừng. Nhưng những khó khăn trong việc nầy là do các vùng đất bị bỏ hoang không khai thác nữa đã có chủ hay được cho TC thuê hàng 50, 70 năm, vì vậy không thể thực hiện lại việc trồng rừng như đúng với ý nghĩa của công việc nầy.

•           Một hiện tượng tiêu cực khác nữa là do ý thức của người dân vì không được giải thích tầm quan trọng của sự hiện diện và hữu ích của rừng ngập mặn cho nên nhiều nơi đã được trồng lại nhưng sau đó lại bị phá đi…

•           Một yếu tố không nhỏ nữa là do quản lý yếu kém, hiện tượng tham nhũng và ăn chận tiền viện trợ. Chính những điều trên khiến cho việc tái tạo rừng ngập mặn trở thành khó khăn hơn và không thể nào thực hiện được trên thực tế.

Và tại một cuộc họp quốc tế về Mekong, vấn đề hạn hán và ngập mặn cũng được đề cập đến. Nhiều chuyên gia nói hồ chứa ở thượng lưu tham gia giải quyết chuyện hạn hán cho ĐBSCL là tốt và cần thiết. Tuy nhiên, nhận định này không chính xác vì các hồ chứa chỉ cắt được lũ trung bình còn lũ lớn như năm 1991 và 2000 thì không cắt được lũ. Việc làm cho lũ trung bình thành không có lũ là không tốt vì ĐBSCL là vùng cần nước ngập tự nhiên, sống nhờ mùa nước “nổi” (nước lớn), phát triển nhờ “nước ngập tràn bờ”. Vai trò của Biển Hồ là một hồ chứa thiên nhiên đã điều tiết nước cho ĐBSCL vào mùa khô và hạn chế lưu lượng lớn của sông Mekong vào mùa nước nổi, hiện nay không còn hiệu quả nữa.                                

Cũng cần nên biết, lượng phù sa bồi đắp cho ĐBSCL khoảng 150 triệu tấn cho một mùa lũ trung bình. Nếu lũ nhỏ cũng đạt khoảng 100 triệu tấn, riêng tháng 8 -9 (cực điểm của mùa nước nổi hàng năm), lượng phù sa đạt khoảng 60 – 70 triệu.

Các chuyên gia trên khắp thế giới đã xác định rằng nếu một người cướp nước của một con sông và làm thay đổi các chu kỳ tự nhiên của nó, thì con sông đó sẽ chết.

Nghề cá, sự phong phú về nông nghiệp và môi trường của Biển Hồ, và Đồng bằng sông Cửu Long phải được bảo vệ thay mặt cho tất cả người dân Đông Nam Á.

Tóm lại, Hệ sinh thái sông Mekong ngày hôm nay hoàn toàn bị đảo lộn, theo Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) và Ủy ban sông Mekong, cao độ lòng sông của hai nhánh chính của sông Mekong tại đồng bằng sông Cửu Long đã thấp đi tới 1,4m trong 10 năm tính từ năm 2008, còn nếu tính từ năm 1990 đến nay, cao độ này thấp hơn từ 2-3 m.

Một nghiên cứu được công bố hồi tháng trước, có tên Research in Nature, cho rằng, việc khai thác cát trên một đoạn sông dài 20 km “không bền vững” bởi lượng trầm tích từ thượng nguồn đổ về không đủ để thay thế lượng cát bị lấy đi.

Lưu vực ĐBSCL, có hơn 150 mỏ cát, trải rộng trên 8.000 ha (80 km2) bề mặt sông, đã được cấp phép ở 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.

Hệ thống cống được thiết kế với mục đích ngăn mặn, thoát lũ ra biển Tây trước đây, giờ chỉ làm nhiệm vụ điều tiết nước và ngăn mặn vào những tháng mùa khô. Việc vận hành đóng mở cống phải đảm bảo giữ được nguồn nước ngọt phục vụ cho sản xuất, ngăn mặn không xâm nhập vào hệ thống sông, kênh mương nội đồng.

Sông Mekong – hệ sinh thái ven sông lớn không bị cản trở cuối cùng còn

sót lại trên thế giới cần phải được bảo tồn và an ninh lương thực của

100 triệu người nghèo cần được bảo vệ.

Do đó, mọi lời kêu gọi hành động trong lúc nầy là rất cần thiết để bảo vệ hệ sinh thái sông Mekong và người dân của trong vùng, cũng như chuyển đạt các thỉnh nguyện thư đến:

  • Chính phủ Trung Cộng, Thái Lan, Myanmar, Lào, Cambodia và Việt Nam cùng Chương trình Phát triển LHQ (UNDP) và Ủy hội sông Mekong (MRC).
  • Ngân hàng quốc tế – World Bank – WB.
  • Ngân hàng Phát triển Châu Á – Asian Development Bank – ADB.
  • Các quốc gia tài trợ và các cơ quan viện trợ quốc tế.
  • Các tập đoàn kinh tế và nhà đầu tư đa quốc gia.

Xin xem tiếp Phần III: Những gì cần phải làm

Mai Thanh Truyết

Viết trong những ngày Tháng Tư 2021

***

Câu chuyện một dòng sông

Phần III – Những gì cần phải làm

Sau khi phân tích về hiện trạng sông Mêkong và Sông Cửu Long, đứng về phương diện quốc tế, mọi cải sửa hay thay đổi tình trạng trên hết sức khó khăn vì ba lý do chính sau đây:

  • Mặc dù TC là nguyên nhân chính yếu gây ra tình trạng hạn hán và nhiễm mặn thường xuyên cho ĐBSCL, nhưng TC lại là một Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ, cho nên mọi tố cáo hay nghị quyết bất lợi cho TC đều bị…phủ quyết ngay;
  • Trong các quốc gia trong Ủy hội Mêkong, Thái Lan mặc dù nằm trong Ủy hội, nhưng vì quyền lợi của quốc gia cho nên tiếp tay hợp tác với TC trong việc xây dựng đập Xayaburi trên dòng chính Mêkong ở Lào nhằm mục đích dẫn nguồn nước chuyển qua lưu vực Bắc Thái cung cấp cho 400.000 hecta đất nông nghiệp cho xứ nầy;
  • Còn Lào, và Cao Miên có thể nói hiện là hai quốc gia hoàn toàn lệ thuộc vào TC. Cho nên Việt Nam hoàn toàn không có tiếng nói trong Ủy hội Mêkong và TC toàn quyền tự tung tự tác. Cho đến nay, chỉ riêng đập thủy điện Xayaburi (Lào, 1260 MW, 2019) đã gây thiệt hại đáng kể cho vùng hạ lưu qua việc chuyển nước cung cấp cho vùng Bắc Thái Lan. Và mức tàn phá và hủy hoại ĐBSCL lớn nhất về lưu lượng nước và thủy sản phải kể tới đập Sambor (Cam-Bốt, 980 MW), đứng cuối trong bậc thang, đang được trình duyệt xây dựng vào năm 2019. Nỗi đau của dân tộc là chính CSBV đã đầu tư vào dụ án đập Sambor nầy, nhằm mục đích chia phần điện để cung cấp cho tỉnh Đăknông với Khu khi thác Bauxite Nhân Cơ từ hơn 10 năm qua. Có thể nói tỉnh Đắknông ngày hôm nay là một khu tự trị của TC, người thiểu số Gia Rai, chiếm đa số ở tỉnh nầy giờ đây phải tha hương cầu thực, qua vùng cao nguyên Boloven bên Lào, hoặc chạy qua tỉnh Rattanakkiri, phía Bắc Cambodia. Hiện đã có hệ thống giáo dục tiểu học hoàn toàn dùng tiếng Tàu dạy cho con cái của công nhân Tàu với vợ là người bản địa hay Việt. Cái đau của dân tộc là ở đây! Chính CSBV đã bán nước một cách lặng lẽ không ai biết!

Từ đó, những gì cần phải làm để giải quyết tình trạng bế tắc của dòng Mêkong thật khó khăn vì sự tiếp tay đắc lực của CSBV trong việc triệt hạ nguồn sống của người dân ĐBSCL.

Nhưng, mặc dù khó, chẳng lẽ chúng ta lại ngồi yên thụ động chấp nhận. Vì vậy, những đề nghị dưới đây xin được chia xẻ cùng quý vị hiện diện trong diễn đàn để cùng suy gẫm.

Đó là việc đề nghị các cơ quan liên quan đến nguồn nước sông Mekong và quốc tế, các nhà hoạch định chính sách và cư dân của lưu vực sông Mekong và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tuân thủ và duy trì các nguyên tắc dưới đây để phát triển và khai thác lưu vực sông Mekong một cách nghiêm chỉnh và có trách nhiệm:

1. Rằng lệnh cấm được áp dụng ngay lập tức đối với các dự án chuyển dòng nước, đập và thủy điện trên sông Mekong, ưu tiên hàng đầu của các cơ quan quốc gia và quốc tế là phát triển dữ liệu cơ sở khoa học về sông Mekong, thủy văn và hệ sinh thái của sông.

2. Rằng tất cả các nhà phát triển dự án Mekong đều phải đánh giá tác động môi trường toàn diện và một hệ thống quản lý môi trường tuân theo tiêu chuẩn ISO 14000 sẽ được yêu cầu đối với tất cả các nhà phát triển dự án Mekong. Nghiên cứu Tác động Môi trường (Environmental Impact Assessment – EIA) sẽ được thực hiện bởi các nhà khoa học độc lập và có trình độ, không có xung đột lợi ích nhóm thực hiện dự án.

3. Rằng tất cả các dự án phát triển và chuyển hướng sông Mekong, bất kể nguồn tài chính và quyền sở hữu của chúng, phải được tôn trọng và trao “quyền được giáo dục” (right to be educated) cùng với “quyền được biết” (the right to know)  cho tất cả người dân bị ảnh hưởng. Những người dân bị ảnh hưởng phải được cung cấp đầy đủ tin tức tin và kiến ​​thức cần thiết để hiểu thiết kế của dự án, xem xét chi phí và lợi ích, đồng thời tự đánh giá các tác động lâu dài của dự án.

4. Rằng tất cả các nhóm dân cư bị ảnh hưởng trên toàn lưu vực, không liên quan đến biên giới quốc gia, đều có quyền tham gia vào bất kỳ quyết định của bất cứ dự án nào.

5. Rằng tất cả các cơ quan tiến hành hoạt động kinh doanh của mình theo nguyên tắc minh bạch và công bố đầy đủ như:1 – Tất cả các kế hoạch phát triển, thỏa thuận, 2- Dữ liệu cơ bản về môi trường, 3- Báo cáo đánh giá tác động môi trường, 4- Nghiên cứu khả thi phải được công khai và có sẵn để cộng đồng khoa học quốc tế xem xét các tổ chức phi chính phủ và bởi các công dân tư nhân.

6. Rằng việc xây dựng tất cả các chính sách và quyết định, dự án cũng như các quy tắc và quy định của Ủy hội sông Mekong và tất cả các cơ quan quốc gia thành viên sẽ bao gồm một chương trình tham gia của công chúng với quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí được đảm bảo.

7. Các chủ đầu tư, chủ sở hữu và các cơ quan phát triển phải chịu trách nhiệm về tất cả các tổn thất và thiệt hại về môi trường theo kế hoạch và ngoài kế hoạch do các dự án của họ gây ra và những thiệt hại về tài sản, thu nhập và sinh kế của người dân.

8. Rằng bốn quốc gia hạ lưu sông Mekong: Lào, Thái Lan, Cambodia và Việt Nam sửa đổi thỏa thuận năm 1995 để tuân thủ chặt chẽ ngôn ngữ của Luật Quốc tế về Xử dụng Phi Hàng hải của LHQ năm 1997

9. Rằng Trung Cộng và Myanmar cần phải gia nhập trở lại Ủy Hội Sông Mekong (Mekong River Commission – MRC) như trước năm 1995 trong Ùy ban Sông Mekong (Mekong River Committee – MRC) vì đã có chung dòng sông Mekong chảy xuyên qua. Hai quốc gia nói trên cần tham gia với bốn nước hạ lưu sông Mekong nói trên, và cùng nhau đàm phán một thỏa thuận về phát triển và bảo vệ sông Mekong trong thế kỷ 21.

Thưa Quý vị,

Qua những nhận định trên, chúng ta dù nhìn qua lăng kính nào đi nữa thì ảnh hưởng của việc xây đập thủy điện trên thượng nguồn sông Mekong sẽ thay đổi toàn diện hệ sinh thái ở vùng hạ lưu. Và hai quốc gia phải gánh chịu nhiều tác hại nhứt trong Ủy hội Sông Mekong là Cambodia và Việt Nam.

Song song với việc trên, sự cố ý hay vô tình của các nước ở thượng nguồn càng làm cho vấn đề trở nên trầm trọng và sông Cửu Long của chúng ta ngày càng bị tác hại lên môi trường càng quyết liệt hơn nữa. Đặc biệt những nguy cơ ảnh hưởng lên đời sống hiện tại và tương lai của người dân sống ở Đồng bằng Sông Cửu Long ngày càng nặng nề hơn do những chính sách phát triển thiếu điều nghiên kỹ lưỡng về các tác động môi trường trong từng kế hoạch. Đó là: – Hạn hán – Nhiễm mặn – Sạt lở hai bên bờ sông do khai thác cát – Đất bị hoang hóa và sa mạc hóa do việc tận dụng khai thác đất – Xây dựng đê bao làm nước bị bị chuyển dòng, một nguyên nhân làm tăng thêm việc sạt lở v.v…

Cũng cần nên nói thêm về một tội ác có thể nói là “diệt chủng” của CSBV đối với người dân vùng ĐBSCL bắt đầu ngay từ khi họ chiếm miền Nam năm 1975. Đời sống người dân ở ĐBSCL ngày hôm nay có thể nói là vô sản đúng nghĩa trong chính sách bần cùng hóa và cố triệt tiêu khả năng tư duy của người dân bằng cách hạ thấp trình độ giáo dục của người dân. Đó là:

  • Về kinh tế: Người dân ngày hôm nay, từ vị trí người chủ mảnh ruộng đã biến thành con nợ của ngân hàng nhà nước triền miên vì những món nợ liên tục từ phân bón, lúa giống, thuốc trừ sâu rầy là những món nợ mà nông dân phải “gối đầu”. Đây là một chính sách hết sức sâu độc;
  • Về giáo dục, theo thống kê của World Bank, trình độ học vấn của nông dân ĐBSCL từ 14 đến 25 tuổi trước năm 1975 là lớp 7 ½, so với lớp 5 ½ đối với người dân cùng thời điểm ở Hà Nội. Ngày nay (2021), trình độ hiện tại của người dân nơi đây là lớp 5!  

Vì vậy, trước những nguy cơ hủy diệt môi trường và an toàn thực phẩm của ĐBSCL, chúng ta chỉ mong tiếp tục gióng lên tiếng chuông báo động kêu gọi tất cả những đối tác có liên quan trực tiếp hay gián tiếp cùng nhau ngồi lại để cứu nguy Sông Mekong hầu gìn giữ cân bằng nguyên thủy cho hệ sinh thái của dòng sông nầy. Làm được như thế chúng ta sẽ bảo vệ được sự ổn định kinh tế và chánh trị của hơn 17 triệu người con Việt sống trong vùng.

Trước những vấn đề sống còn của người Việt, các đề nghị và góp ý của chúng tôi trong hiện tại và tương lai đều đặt trọng tâm vào các căn bản lý luận sau đây để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của nhân loại. Hơn tất cả, vì lợi ích lâu dài của người dân sống trong vùng hạ lưu, mọi người trong chúng ta đều nhận thấy rằng Việt Nam cần phải hợp tác trong công bằng và hợp lý để bảo vệ quyền lợi của đất nước.

Mục đích của bài nói chuyện hôm nay nhằm đánh động sự quan tâm của thế giới qua phương tiện truyền thông. Cũng cần vận động bằng bất cứ khả năng nào trong mỗi chúng ta để nêu lên sự diệt chủng của TC qua việc kiểm soát dòng luân lưu của sông Mêkong hầu áp đặt lên các quốc gia ở hạ nguồn. Và cũng không quên tố cáo CSBV qua việc tiếp tay với TC trong việc làm đảo lộn dòng chảy của sông Tiền và sông Hậu, phá vỡ cân bằng sinh thái ở Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười, hai hồ tích trữ nước thiên nhiên nhằm điều tiết lưu lượng nước dùng cho nông nghiệp của ĐBSCL ở miền Nam.

Đó là những vấn đề trôi chảy xuyên suốt cho mọi chế độ chính trị, mọi khung cảnh kinh tế và môi trường. Trên căn bản đó, các chính sách và kế hoạch khai thác đồng bằng sông Cửu Long cần phải hữu hiệu về mặt kinh tế và hài hòa về mặt môi sinh và xã hội là những mối quan tâm và trách nhiệm chung của mỗi người con Việt.

Là những chuyên viên ở nước ngoài có cơ hội tiếp cận với các thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và nhất là có sự độc lập trong suy nghĩ khoa học:

  • Chúng tôi không khỏi quan ngại đến tình trạng khai thác phản kinh tế và phi khoa học trong vùng đất phi nhiêu này của CSBV cho dù  là vô tình hay cố ý, hoặc thiếu nghiên cứu về tác động môi trường trong các dự án phát triển?
  • Căn cứ trên những phân tích khoa học kinh tế, xã hội và môi trường. chúng tôi nhận thấy rằng vùng châu thổ này đang đối diện trước những nguy cơ to tát lâu dài. Nếu không có quyết tâm và định hướng đúng đắn thì trong tương lai người dân ĐBSCL sẽ phải hứng chịu nhiều thiệt hại nặng nề.

Dựa trên hai quan điểm này, qua những chủ đề đã được đề cập đến trong bài viết chính là lời cảnh báo cho dân cư châu thổ và đóng góp cho những chuyên viên có trách nhiệm trong nước.

Chúng tôi hy vọng từ nay, chúng ta sẽ có một cách nhìn đúng đắn và can đảm hơn về thể cách bảo vệ và phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long.

  • Ngày xưa ta nói:                           Uống nước phải nhớ nguồn
  • Ngày nay ta phải nói:                 Uống nước phải bảo vệ nguồn.

Mọi chính thể rồi cũng qua đi.

Mọi chính quyền rồi cũng phải chấm dứt.

Cuối cùng chỉ còn lại Đất và Nước của chúng ta.

Và thế hệ tương lai sẽ nhìn lại và phán xét hành động của chúng ta ngày hôm nay!

Trân trọng và cám ơn Quý vị đã lắng nghe.

Mai Thanh Truyết

Hội Bảo vệ Môi trường Việt Nam – VEPS

Viết cho Ngày Quốc hận 30/4/1975

Ghi Chú:

Nước tôi cũng có một giòng sông

Giòng sông đó đã trải qua hơn 4000 năm lịch sử

Cuốn trôi đi những gian trá hận thù

Cuốn trôi đi bọn gian tham bán nước

Cuốn trôi đi bọn ác bá cường hào

Nhưng giòng sông đó đã tạo nên bao anh hùng thục nữ

Ngày nay tôi không còn niên thiếu

Chuyện chàng trai ngày đó đã lãng quên

Thế hệ hiện nay những chàng trai của thời đại mới

Nhớ về dòng sông lịch sử của quê hương

Sẽ cuốn trôi bọn thù trong giặc ngoại

Tạo phù sa để nhiều đời con cháu sẽ vươn lên

Đặng Quang Chính

error: Content is protected !!