Truyện Ngắn NGUYỄN THỊ THANH DƯƠNG: LẤY CHỒNG THI SĨ
Những bài thơ anh làm em rung cảm,
Em lúc nào cũng như sống trong mơ,
Khi bất chợt thấy lòng mình trống vắng,
Em yêu rồi, hình ảnh một nhà thơ.
Tôi đang đứng giữa gã ba đường, phải quyết định lấy chồng, một trong hai người : Anh Thi sĩ và anh Business, hai anh đều bằng tuổi, ngang ngửa nhau về “sự nghiệp”. Anh Thi sĩ đang nổi tiếng, thơ anh đăng trên nhiều tờ báo địa phương, còn anh business thì đang thành công trong nghề, nói chính xác hơn anh đang làm chủ một nhà hàng cơm phở đắt hàng.
Hai anh đều là người tử tế, đàng hoàng, và chẳng hiểu sao hai ngành nghề khác nhau thế, nhưng hai anh lại giống nhau ở một điều là cùng yêu tôi và muốn cưới tôi làm vợ.
Mẹ tôi cứ lo lắng, sợ tôi ế chồng, nay thấy một lúc có hai thằng đòi làm con rể, bà vui mừng cuống cuồng lên, cứ làm như…chính bà đang bị ế chồng. Bà cân nhắc, so sánh hai người và giục tôi:
– Con đã lớn tuổi rồi, sắp thành gái già rồi, khỏi phải suy nghĩ cho mất công, phí thời gian, cứ lấy ngay anh …Phở cho ấm thân.
Mẹ tôi cứ gọi tắt tên anh bằng chính cái nghề của anh cho tiện, cho dễ nhớ. Bà nói tiếp:
– Anh thi sĩ, gàn gàn, dở dở nên ế vợ cho đến bây giờ. Dẹp nó qua một bên đi con.
Tôi cãi:
– Như thế thì anh Phở cũng gàn gàn dở dở nên đến bây giờ cũng chưa có vợ đấy !
– Người ta lo làm ăn, lo làm giàu, còn anh thi sĩ thì bận rộn gì ngoài mấy bài thơ vớ vẩn đăng báo?
Mẹ tôi hứ lên một tiếng, kết luận:
– Trông người cứ lừng kha lừng khừng, ai mà chịu nổi ?
– Con chịu nổi !
Tôi tự ái giùm anh và bênh vực cho anh. Là một người yêu thơ anh, từng thổn thức vì thơ anh, nay được “thần tượng” yêu lại và muốn cưới làm vợ, tôi hãnh diện lắm, nhưng đắn đo một tí chỉ vì anh quá nghèo so với anh chủ nhà hàng phở.
Sau vài đêm suy nghĩ, tôi quyết định chọn anh thi sĩ, vì tôi không biết làm thơ, lấy anh tôi sẽ có cả một trời thơ cho riêng mình và vì tôi có thể tự nấu phở để ăn, nên…khỏi cần lấy anh chủ tiệm phở nữa.
Tôi phải hi sinh, tranh đấu với nội tâm mình và với gia đình, cha mẹ, để chọn anh, tưởng rằng khi nhận được tin anh sẽ mừng vui lắm, nhưng anh thi sĩ chỉ… lừng khừng:
– Cưới em thì chắc chắn anh sẽ cưới, nhưng anh …chưa đủ tiền.
Tôi mơ mộng thề thốt:
– Em sẽ chờ. Không có gì ngăn cản được con đường tình của em đến với anh đâu !
Anh ngẫm nghĩ, tính toán một lúc rồi nói:
– Vậy em chờ anh …mượn tiền nhà bank xem sao.
Tôi ngao ngán:
– Đợi anh mượn nợ, làm thủ tục cũng lâu lắm. Thôi, em sẽ bỏ tiền ra, chúng mình sẽ là vợ chồng, tiền của em cũng là của anh.
Lấy được người mình yêu và nể phục thật là hạnh phúc. Những bài thơ tình của anh đăng báo đều được các bà, các cô ưa thích, họ gởi thư đến toà soạn báo nhờ chuyển đến cho anh. Đọc những lời thư ái mộ đó, tôi càng cảm thấy hãnh diện và hạnh phúc thêm, bất cứ sáng tác mới nào của anh, tôi đều được đọc trước khi đăng báo, trong thơ anh ít nhiều có hình bóng tôi, có ý kiến tâm tư tôi đóng góp vào.
Mải mê trong hạnh phúc, tôi quên mất anh Phở, anh thất tình tôi, chểnh mảng trong công việc làm ăn, nên hình như phở anh …kém ngon đi?. Kể cũng tội, giá mà ngoài tài nấu phở, anh cũng biết làm thơ hay nữa thì lý tưởng biết mấy! Tôi thích ăn phở và cũng yêu thơ. Nhưng tôi không thể lấy một lúc hai người.
Ít lâu sau tôi nghe tin anh Phở lấy vợ, chị này chắc có tâm hồn ăn uống chứ làm gì có một tâm hồn mộng mơ như tôi?
Tôi đi làm, chồng thi sĩ của tôi cũng đi làm, vì thơ anh có hay cách mấy cũng chẳng kiếm ra tiền. Thơ là mộng mà, nên phải lấy thực nuôi mộng. Khi cuộc sống yên ổn, có tiền trả nợ nhà, nợ xe, có cơm ăn, áo mặc, tâm hồn anh mới thoải mái nghĩ ra thơ.
Ở với anh, tôi mới biết điều đó, tính anh lừng khừng đủ thứ, nhưng sáng sớm, vừa nghe cái alarm reo báo thức là anh lập tức ngồi nhỏm dậy, nhanh như cái lò xo, nhảy xuống giường, sửa soạn đi làm. Chẳng lừng khừng tí nào cả.
Ngoài 8 tiếng làm việc, anh lại hiện nguyên hình là một nhà thơ… gàn gàn dở dở như mẹ tôi đã nhận xét.
Cái vòi nước trong bồn tắm bị rỉ nước, nước cứ chảy nhỏ giọt cả tuần nay mà anh không hề hay biết, tâm hồn anh để ở tận đâu đâu, mỗi ngày tôi hứng được mấy thùng nước, thấy nước chảy mà tôi xót cả ruột, tháng này chắc trả bill nước cũng mệt. Tôi nhắc nhở mãi anh mới chịu vác búa, vác kìm vào phòng tắm, anh hì hục gì trong đó không biết, một lúc lâu sau, anh cầm búa, cầm kìm ra hớn hở ….khoe:
– Không sửa được em ơi, vòi nước vẫn chảy nhỏ giọt. Nhưng nhờ thế mà anh đã làm được bài thơ “ Khi em khóc”.
Tôi vào phòng tắm, chẳng những không sửa được, mà anh còn làm hư hỏng thêm, nước chảy nhỏ giọt nhiều hơn, nhanh hơn Nhưng tôi cũng sung sướng, ngạc nhiên và khâm phục hỏi anh:
– Anh nhìn giọt nước chảy mà tưởng tượng ra giọt nước mắt người yêu ư?
Anh hớn hở khoe tiếp:
– Đúng thế, làm thơ thì phải giàu tưởng tượng mà em. Như tuần trước, trong lúc cắt cỏ vào một buổi chiều nắng, trời nóng đến chảy mồ hôi, bụi và rác bay tối tăm cả mày mặt, nhưng anh cũng vẫn tìm được ý cho bài thơ “ Gió bụi cuộc tình ” đấy.
Trời ơi, tôi đâu có ngờ những bài thơ tình ướt át của anh ra đời trong những hoàn cảnh thực tế “phũ phàng” như thế !
Những hôm thời tiết giở chứng, âm u và mưa gió, chồng tôi ngồi trong nhà, suy tư, và ghi ghi chép chép được mấy câu thơ ( mà tôi tin chắc là hay ).Tôi bỗng chạnh lòng…thương hại cho anh Phở , chắc càng nhìn mưa rơi, anh càng sốt ruột…lo nồi phở ế chứ lòng nào mà thơ với thẩn.
Thơ của chồng tôi làm ra nhiều quá, không biết để đâu cho hết. Tôi bàn với anh nên in thơ để bán, tôi hào hứng lắm, nếu thơ anh được đi vào văn học sử thì tôi cũng ..ngang nhiên được vào theo, vì tôi là vợ của anh mà.
Nhà thơ mộng mơ cao ngất trời mây nhưng khi động đến tiền cũng vội vàng…rơi xuống đất, trở về thực tế :
– Anh xin em, nhà mình vẫn đang túng quẩn, em đừng có ý nghĩ ấy nữa, in thơ là điên rồ, là lỗ vốn, em biết chưa?
– Em biết rồi, mở một quán nhậu còn hi vọng khách đông, chứ thử mở một quán bán sách, toàn là thơ, truyện thì sẽ chẳng có ma nào đến mua. Nhưng mình vì mục đích văn nghệ, để góp mặt với đời, để mang thơ đến với khách mộ điệu bốn phương. Ai in thơ cũng đều thế cả, chứ có ai sống bằng “nghề” làm thơ đâu. Em hứa sẽ nhịn ăn nhịn xài cho anh in thơ.
Tôi hớn hở nói tiếp :
– Em đã hỏi nhà in rồi, không tốn bao nhiêu đâu, nếu in càng nhiều thì giá thành mỗi cuốn càng rẻ. Anh đừng lo, mình sẽ tổ chức buổi ra mắt sách, mời tất cả bà con họ hàng bên nội, bên ngoại, bạn bè xa gần, ít nhất cũng lấy lại vốn.
Chẳng bao lâu sau, 1,000 cuốn thơ tình của chồng tôi ra đời, hai vợ chồng tôi chở sách từ nhà in về chất đầy trong phòng ngủ, thương mến và trân trọng chờ ngày ra mắt sách.
Thi sĩ chồng tôi xôn xao rạo rực cũng không bằng tôi, ngày nào tôi cũng soi gương ngắm nghía xem mình có “dễ thương”, có xứng đáng là vợ của một nhà thơ không? Tôi đi mua sắm quần áo rộn rịp, làm chồng tôi ngạc nhiên:
– Cứ làm như em đang sửa soạn đi thi…hoa hậu ấy !
– Chúng mình đang sửa soạn ra mắt sách mà !
– Nhưng ra mắt sách của anh chứ có phải của em đâu!
– Em là vợ anh. Nhân vật số 2 cũng quan trọng lắm anh à. Em đã chẳng cho anh những nguồn cảm hứng làm thơ đó sao?
Chồng tôi gật gù:
– Ừ nhỉ, bằng chứng là những lúc em sai anh sửa cái vòi nước, khi cắt cỏ, anh đã viết nên thơ, và ngay cả khi em…quát mắng anh cũng nghĩ ra thơ nữa, những bài thơ nỗi đau cuộc đời.
Ngày ra mắt sách đã đến, ngoài anh em, họ hàng, em, cháu, bạn bè thân không sót một ai của hai vợ chồng, tôi còn mời được một đống khách nhằng nhịt, mà tôi…chẳng nhớ tên nhớ mặt, chỉ quen biết sơ sơ lúc đi chợ, đi chùa v..v..do tôi moi óc mãi mới nghĩ ra, mới liên lạc dây mơ rễ má từ người này đến người nọ để xin được số phone địa chỉ của người kia và gởi giấy mời một cách… thống thiết, nên chẳng ai nỡ từ chối cả.
Nói tóm lại, không một người quen dù thân dù sơ nào “ thoát” khỏi tay tôi trong dịp này.
Bạn bè lần lượt đứng lên giới thiệu anh và ngâm thơ anh, dĩ nhiên họ cũng không quên giới thiệu tôi là vợ của nhà thơ, tôi cảm động quá.
Các bạn bè anh, phụ giúp anh tổ chức buổi ra mắt sách này, chắc đã nhiều kinh nghiệm, họ kê một cái bàn dài ngay gần cửa ra vào, sách thơ chất đầy trên đó, không người khách nào…dám ra về tay không cả, ai cũng…phải dừng lại bàn, cầm cuốn thơ lên ngắm nghía, lật qua lật lại làm như quan tâm lắm, trong khi vợ chồng tôi đứng đó, mỉm cười liên tục…mỏi cả miệng và chờ đợi họ… móc túi trả tiền, xong họ xúm vào mở trang bìa ra xin nhà thơ chữ ký, cứ làm như mê thơ anh lắm, trân trọng anh lắm, nhưng biết đâu, chốc nữa về đến nhà, cuốn thơ có chữ ký ấy sẽ bị quăng vào một xó, không bao giờ họ nhớ đến nữa.
Có những người bạn thân chơi rất đẹp, mua một lúc cả chục cuốn thơ và trả tiền cao hơn giá bán, coi như vừa mua vừa”donate”, những người mua lẻ tẻ từng cuốn cũng trả hào phóng như thế, cuốn thơ ghi giá 15 đồng, họ trả luôn 20 đồng cho chẵn, cứ làm như cho thêm tiền “típ” vậy.
Trời ơi, làm ở nhà hàng, làm nail có tiền “tip” đã đành, làm… thơ như chồng tôi cũng có tiền “tip” nữa, vậy thơ cũng đồng nghĩa với bán buôn rồi sao?
Sau buổi ra mắt sách và “cưỡng bức” khách mua thơ, có cả lòng “xót thương” và lòng “hậm hực”, vì phải tốn tiền để vác những cuốn thơ – có khi chẳng bao giờ thèm đọc- về nhà, thì vợ chồng tôi coi như lấy lại vốn, được “lời” hơn mấy trăm cuốn sách lù lù trong nhà.
Không thể tổ chức ra mắt sách lần thứ hai trong cùng thành phố này nữa, giá mà thơ…ăn được thì khách mời còn đến. Trong giây phút xao lòng, tôi hiểu ra rằng…phở còn hấp dẫn hơn thơ, hôm nay ăn no ăn chán rồi, mai đói lại thèm ăn nữa, còn cùng một cuốn thơ, mấy ai đọc lại lần thứ hai ?
Thơ của chồng tôi đăng “rao vặt” trên báo để bán, bao nhiêu khách ái mộ thơ anh, từng viết thư khen anh nức nở thế mà chẳng ai thèm gọi phone hay gửi thư đến order thơ anh cả, chỉ lác đác như vài giọt mưa khan hiếm trong cơn nắng hạn, vài người gởi check đến mua thơ, thì lại có hai cái check…rổm, đã không có tiền mà lại bị nhà bank phạt mấy đồng, chẳng lẽ viết thư…cãi nhau, lại tốn thêm mấy chục cent tiền tem. Mà thôi, bớt được cuốn sách nào rộng nhà thêm chút đó, cho nên vợ chồng tôi coi như mở rộng tấm lòng…cho không biếu không, vì…văn học nghệ thuật.
Ngày tháng trôi qua, tôi không đăng “rao vặt” bán thơ nữa, chỉ tổ tốn tiền quảng cáo cho chủ báo mà thơ vẫn chẳng ai mua, những cuốn thơ bỗng trở thành…chướng ngại vật trong nhà, vợ chồng tôi đành phải di chuyển chúng xuống garage. Tôi xót xa nhìn những bài thơ trữ tình của chồng tôi nằm một xó, bên cạnh cái máy cắt cỏ, cái bình đựng xăng và bao thứ lỉnh kỉnh không tên khác để trả căn phòng ngủ về vị trí của nó.
Không còn người bạn nào để tặng thơ nữa, vì họ đều là “nạn nhân” trong hôm ra mắt sách rồi !
Trong lúc thất vọng này, tôi chợt nhớ ra một người, đó là anh Phở, người duy nhất không…bị mời, chỉ vì tôi ngại ngùng anh còn buồn còn giận tôi, bây giờ tôi tin là anh đã nguôi ngoai, nên tôi muốn đích thân sẽ mang tặng anh một cuốn thơ của chồng tôi.
Tôi bước vào nhà hàng của anh Phở lúc đang đông khách, có một người đàn bà xinh đẹp ngồi trong quầy tính tiền trông ra dáng bà chủ, chị ăn diện lịch sự, xắc xảo, tính tiền với khách xong lại quay ra chỉ huy đám nhân viên đang bận ríu rít gần đó.
Nhìn đám khách đông đang ăn uống, họ thưởng thức những tô phở nóng hổi, những dĩa cơm thơm ngon của anh làm ra một cách nhiệt tình và yêu thích. Anh Phở không phải tổ chức buổi ra mắt hàng quán của anh, không phải gởi giấy mời ai cả, không “cưỡng bức” ai cả, khách thích và cần thì tìm đến, ăn xong trả tiền, sòng phẳng và vui vẻ đôi bên.
Còn những tác phẩm tim óc của chồng tôi -của nhà thơ- là những bài thơ nằm lặng lẽ trên một góc báo, không phải ai cầm tờ báo lên cũng đọc, không phải ai cũng muốn bỏ tiền ra mua một cuốn thơ. Sao mà vô lý và buồn đến thế ?
Lựa lúc bà chủ rảnh, tôi đến gần và để cuốn thơ lên quầy:
– Thưa chị, chúng tôi là bạn của anh nhà, tôi muốn tặng anh chị cuốn thơ này.
Chị nhìn tôi dịu dàng:
– Thơ của chị à ?
– Không, đây là thơ của chồng tôi.
Chị nhìn tên tác giả và nói như reo lên:
– Đây là nhà thơ mà tôi và chồng tôi đều yêu thích, chúng tôi tuy bận rộn nhưng thỉnh thoảng đọc báo, cứ thấy bài thơ nào của anh ấy là cả hai vợ chồng cùng đọc. Không ngờ hôm nay lại được anh chị tặng cuốn thơ này, cám ơn chị, cho chúng tôi gởi lời thăm nhà thơ và mong anh sáng tác đều để chúng tôi được đọc.
Tôi đã đọc thấy trong lời nói, trong cử chỉ của chị sự chân thành của một người yêu thơ, chị và chồng chị không phải chỉ biết buôn bán với bạc tiền, suốt ngày tính toán lời lỗ như tôi đã nghĩ.
Thì ra ai cũng có hai con người trong một, nhà thơ mộng mơ lãng mạn đến đâu cũng có phía đời thường cơm áo, hay một người sống thực tế đời thường đến đâu cũng có lúc tâm hồn lắng đọng, mộng mơ. Họ không thể viết thành văn, thành thơ, nhưng biết rung động, chia xẻ với những vần thơ, câu văn, những cảm xúc ấy không thua gì người viết.
Tôi chào chị ra về, lòng hân hoan vui sướng, đây là một cuốn thơ biếu tặng, nhưng tôi đã nhận được cái giá lớn nhất, trân trọng nhất, kể từ hôm ra mắt sách cho đến gìơ.
Nguyễn thị Thanh Dương
GS/TS MAI THANH TRUYẾT: Triết lý Mujō của Nhựt – “Vô thường” – Phần I – PHẦN II – PHẦN III
“Mujõ của Nhựt” khác với Vô thường trong Phật giáo Trung Hoa và Việt Nam như thế nào? – Phần II
“Mujõ của Nhựt” khác với Vô thường trong Phật giáo Trung Hoa và Việt Nam như thế nào? – Phần II
TIN BUỒN: VTLV VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC NỮ PHI CÔNG GỐC VIỆT NGUYỄN ANH THƯ TỬ NẠN MÁY BAY.
KQ Lê Văn Hải
*
KHÓC NGUYỄN ANH THƯ
Vô cùng thương tiếc một tài hoa
Kỳ nữ Phú Yên xứ Nhạn Đà
PILOT Á Châu vừa gãy cánh
ANH THƯ gốc Việt đoạn ly nhà
Vòng quanh thế giới danh vời vợi
Bay khắp hoàn cầu tiếng vút xa
Vũ Trụ Hàng Không lìa vĩnh viễn
Người dân Hồng Lạc nỗi đau oà.
*
Đau òa máu lệ khóc ANH THƯ
Bốn bốn năm dương thế kiếp người
Sáng lập “AWAA” nâng soải cánh
Mở ra Học viện giúp tung trời
“Thứ mười” cả nhóm bay toàn cõi
Thân lẻ một mình lượn khắp nơi
Thương tiếc tiễn em về Cực Lạc
Phân ưu Nguyễn Tộc nghẹn bao lời…
*
ĐỒNG HƯƠNG PHÚ YÊN KÍNH VIẾNG
Phương Hoa – California, AUG 2nd, 2025
*
Cả cộng đồng, bàng hoàng thương tiếc: Khi hay, nữ phi công gốc Việt thiệt mạng, gẫy cánh! trong lúc đang thực hiện giấc mơ, bay vòng quanh thế giới!
– Cô Nguyễn Anh Thư, phi công gốc Việt, vừa tử nạn trong một tai nạn máy bay ở Greenwood, Indiana, trong lúc thực hiện chuyến bay một mình vòng quanh thế giới hôm Thứ Tư, 30 Tháng Bảy.
Giới chức giảo nghiệm tử thi ở Johnson County xác nhận danh tính cô Anh Thư, một người dạy lái máy bay và tốt nghiệp đại học Purdue University, bị thiệt mạng khi chiếc máy bay nhỏ cô lái bị rớt sáng sớm Thứ Tư, theo báo IndyStar.
(Nữ phi công Nguyễn Anh Thư. Hình: Twitter pilot anh-thu womeninAA)
Lúc đó, cô Anh Thư đang bay ở chặng thứ nhì trong chuyến bay một mình vòng quanh thế giới. Máy bay của cô cất cánh tại phi trường Greenwood lúc 10 giờ 45 phút sáng, và đang trên đường bay tới Pennsylvania, theo dữ liệu của Flightaware.
Vài phút sau khi cất cánh, chiếc máy bay Lancair IV-P 2005 của cô bị chao đảo trên bầu trời và rớt xuống một ngọn đồi phỉa sau một trạm xăng Circle K trên đường Main Street ở Greenwood.
Ông Frank Williams, nhân chứng vụ rớt máy bay, nói rằng chiếc máy bay rớt từ từ xuống đất.
“Không có tiếng nổ, và không có cháy. Sau khi chứng kiến, tôi tấp xe vào và ngửi thấy mùi khói. Rồi tôi tiến gần đến chiếc máy bay và có thể nói là không ai sống sót,” ông nói.
Hiện chưa rõ vì sao máy bay của cô Anh Thư rớt. Cơ Quan Quản Trị Hàng Không Mỹ (FAA) và Cơ Quan An Toàn Giao Thông Mỹ (NTSB) đang điều tra. (NV)
=====
Thương tiếc nữ phi công gốc Việt, vừa thiệt mạng trong tai nạn phi cơ: Bất ngờ ngọn gió dừng lại giữa trời xanh, mang theo một sứ mệnh lịch sử, làm rạng danh con cháu Hai Bà Trưng,…còn dang dở!
-Chuyến hành trình bay vòng quanh thế giới của nữ phi công gốc Việt Nguyễn Anh Thư – người sáng lập tổ chức AWAA – đã kết thúc đột ngột vào sáng 30 tháng Bảy, khi chiếc máy bay nhỏ của cô rơi xuống thành phố Greenwood, bang Indiana. Cô ra đi ở tuổi 44, để lại sau lưng một sứ mệnh còn dang dở, nhưng đã kịp thắp lên ngọn lửa cảm hứng cho biết bao thế hệ phụ nữ châu Á theo đuổi ngành Hàng Không Vũ Trụ. Vụ tai nạn xảy ra khi cô đang một mình điều khiển chiếc máy bay Lancair IV-P 2005, bay từ Indiana đến Pennsylvania – một chặng trong hành trình mà cô từng mô tả là “Không chỉ là một chuyến bay, mà là lời hiệu triệu gửi tới những cô gái châu Á mơ ước được bay cao!”. Theo Đại học Purdue, nơi cô từng học, hành trình 2024 của Anh Thư đã ghé qua 25 điểm, khởi hành từ thành phố Oshkosh (bang Wisconsin) hôm 27 tháng Bảy.
Anh Thư sinh ra tại một làng quê nghèo ở tỉnh Phú Yên, sau này là Đắk Lắk, và cùng gia đình di cư sang Mỹ khi mới 12 tuổi. Con đường đến với nghề phi công của cô không hề trải hoa hồng. Trong những năm đầu học bay, cô từng phải dạy kèm toán để có tiền chi trả cho giờ bay đắt đỏ, thậm chí ngủ qua đêm trong xe hơi, để tiết kiệm chi phí. Sau này, một người thầy thấy hoàn cảnh của cô, đã cho phép cô tá túc tạm thời trong sân bay.
Bằng ý chí kiên cường, cô không chỉ tốt nghiệp Thủ Khoa trung học, mà còn nằm trong top 10 sinh viên xuất sắc của Đại học Purdue. Khi đang là nghiên cứu sinh ngành Hàng Không Vũ Trụ tại Georgia Tech, cô thành lập tổ chức Asian Women in Aerospace and Aviation (AWAA) vào năm 2018, rồi mở học viện huấn luyện bay Dragon Flight, tại bang Florida năm 2020. Năm 2024, cô trở thành người phụ nữ gốc Á thứ 10 trong lịch sử, bay một mình vòng quanh thế giới!
Ở Dragon Flight, Anh Thư không chỉ là giảng viên, mà còn là người truyền cảm hứng, giúp các học viên nữ nhận ra rằng, bầu trời không dành riêng cho bất kỳ ai, nhất là phụ nữ! Cô tập trung vào huấn luyện kỹ năng đánh giá rủi ro và đưa ra quyết định, những yếu tố sống còn trong ngành hàng không.
Cái chết của Anh Thư là một mất mát lớn, không chỉ cho cộng đồng người Việt tại Mỹ, mà còn cho cả một thế hệ nữ sinh châu Á, nhất là Việt Nam, đang dõi theo cô, như biểu tượng của nghị lực, sự độc lập và khát vọng bứt phá khỏi định kiến.
Tổ chức AWAA viết trong thông cáo ngày 30 tháng Bảy: “Anh-Thu Nguyen không chỉ là nhà sáng lập của chúng tôi, mà còn là người bạn, người dẫn đường và nguồn cảm hứng sống động. Cô ấy đến từ một gia đình nghèo tại Việt Nam, và đã trở thành ngọn hải đăng cho hàng ngàn phụ nữ khắp thế giới! Cầu mong cô sẽ tiếp tục bay cao trên bầu trời , như cách cô vẫn từng làm, dẫu chỉ bằng một đôi cánh!”
Câu chuyện của Nguyễn Anh Thư, không khép lại bằng cái chết, mà mở ra như một di sản sống động về ước mơ, về sự bền bỉ, và về niềm tin rằng người Việt, nhất là phụ nữ Việt, dù “chân yếu, tay mềm” cũng có thể viết tên mình giữa tầng mây! tung cánh gió! “Bầu trời nào đó, cô đã bay cao!”
Vĩnh biệtNGUYỄN ANH THƯ!!!
VTLV Trân Trọng Giới Thiệu Thi Tập Sách Online: KÝ ỨC – Trở Về – Từ Cõi Chết – Thơ MẶC KHÁCH
VTLV CHÀO MỪNG Văn Thi Nhạc Sĩ MŨ NÂU: HUY TÂM/DƯƠNG THƯỢNG TRÚC
Đón anh Huy Tâm tại San Jose, CA
*
VTLV CHÀO MỪNG THÀNH VIÊN MỚI- HUY TÂM/ DƯƠNG THƯỢNG TRÚC
*
VĂN THƠ vui đón khách vào nhà
LẠC VIỆT khu vườn thêm quý hoa
THƯỢNG TRÚC quê xưa chàng lính trẻ
HUY TÂM Hải ngoại gốc thơ già
Mũ Nâu nghệ sĩ danh lừng lẫy
Biệt Động truyền thông tiếng chói lòa
Thung Lũng Hoa Vàng chào bạn mới
Xin mời… Texas, trỗ tài nha!
Phương Hoa – VTLV, AUG 1st, 2025
*
THƠ HỌA
*
CHÀO MỪNG VĂN NGHỆ SĨ TOÀN NGÀNH
CHIẾN SĨ HUY TÂM – DƯƠNG THƯỢNG TRÚC .
cmn
Lừng lững Sơn Lâm chúa viếng nhà
VĂN THƠ LẠC VIỆT rực trời hoa
Chào mừng chiến hữu thời Xuân sắc
Ngưỡng mộ thi nhân thủa Bạn già
Thì vẫn mũ quan treo sáng rỡ
Lại thêm áo lính xếp soi lòa
Sa trường chữ nghĩa in tiềm thức
Phục hoạt đa năng trướng hiệu nha …
Los Angeles 2 – 8 – 2025
CAO MỴ NHÂN
*
CHÀO MỪNG ANH HUY TÂM
( Hoạ 4 vần )
Nghệ sĩ Huy Tâm nhập một nhà
Chương đàn nở rộ sắc màu hoa
Hòa phong lính tráng khi đầu trẻ
Xõa phím thi nhân lúc tuổi già
Tửu nhạc lưu dòng không bụi phủ
Trà câu khắc chữ khó năm nhòa
Văn Thơ Lạc Việt chung chào đón
Thượng Trúc đa tài nổi tiếng nha.
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 8/2/2025
**
ĐÓN MỪNG ANH THƯỢNG TRÚC
(Hoạ 4 vần)
Lấp lánh đèn treo rực rỡ nhà
Khu vườn Lạc Việt trổ ngàn hoa
Vần gieo lai láng nghe còn khỏe
Nhạc trỗi du dương chửa thấy già
Bấy kẻ yêu vì khi cởi mở
Nhiều anh ngưỡng mộ phút xuề xoà
Cali, Texas nay đồng hội
Gặp gỡ nơi nầy tuyệt lắm nha!
Như Thu
08/02/2025
Xin chào mừng VTNS Huy Tâm/Dương Thương Trúc vào gia đình VTLV
Mong VTNS Huy Tâm vui sinh hoạt với anh chị em VTLV, có thêm nhiều sáng tác mới…
Xin chúc VTNS Huy Tâm và quý anh chi em VTLV dồi dào sức, niềm vui, vạn sư như ý.
Qúy mến
Ngoc Hạnh
TÓM TẮT TIỂU SỬ
Dương Thượng Trúc là người lính Mũ Nâu trấn đóng Cao Nguyên Pleiku, TĐ 11/BĐQ.
Hiện định cư tại Texas
Sở thích: ca hát, viết văn, làm thơ và soạn nhạc.
Cộng tác với các phương tiện truyền thông qua bút hiệu Huy Tâm.
Xin chúc anh sinh hoạt vui vẻ với quý anh chị em trên DĐ và mong được đón nhận những sáng tác của anh.
Quý mến,
Pham Phan Lang
*
CHÀO MỪNG BẠN THƠ VĂN
Văn chương diễn đạt chính do HUY
TÂM ý từ đây khởi phát tùy
Lạc bước bên trời vì nước bại
Rời chân Việt quốc bởi thời suy
Mừng anh chữ THƯỢNG vào chung hội
Đón bậc họ DƯƠNG đến bút đài
Vị thế gần xa vang tiếng TRÚC
Tài danh khắp nẽo vọng từng ngày.
Hoàng Mai Nhất 4/8/2025
*
**Welcome Hội Viên Mới HUY TÂM – DƯƠNG THƯỢNG TRÚC!
Chúc anh tìm được niềm vui nơi đây và mong rằng với sự đóng góp tích cực cúa anh thì VĂN THƠ LẠC VIỆT sẽ Phong Phú, Khởi Sắc, các Hội Viên sẽ hăng hái sáng tác và VƯỜN HOA VTLV sẽ TƯNG BỪNG RỘN RÃ THƠ VĂN!
ĐỖ DUNG
*
**
Tin Thật Là… Dzui! VTLV Có… Cọp!
K/QLÊ VĂN HẢI
Từ nay, Quý Thành Viên VTLV đi đâu cũng không sợ bị ai ăn hiếp nữa, vì đã có “Cọp Rằn!” Huy Trâm / Dương Thượng Trúc… nhập đàn bảo vệ!
Ông Cọp! Người Việt mình còn gọi bằng nhiều tên thân quen khác, như: Ông Hổ, Ông Hùm, Ông Kễnh… Ông Ba Mươi này, ngày xưa thuộc Binh chủng “Mũ Nâu” QLVNCH (*). Ngoài tài vồ địch quân, ăn thịt hàng loạt, giờ rảnh, Ông còn viết văn, làm thơ, làm nhạc nữa! Rất nổi tiếng ở xứ xao bồi Texas. Ít thấy Ông Hổ nào đa tài, văn nghệ như vậy! Chắc trên đời này chỉ có một mình Ông!
Đây là một niềm hãnh diện với các Anh Chị Em trong VTLV. Trong tư cách là Hội trưởng, xin có lời chào mừng, đón rước! Từ nay, xin Ông cứ tự nhiên như… trong rừng! – À xin lỗi, viết lộn! – Trong nhà!
Hân hoan chúc mừng Thành Viên Mới!
Ủa? Các Anh Chị trong VTLV sao không thấy xuất hiện, chào mừng Chúa Sơn Lâm? Đi đâu hết trơn rồi?
Kính chúc Văn Thi Nhạc Sĩ Huy Trâm / Dương Thượng Trúc nhiều an vui, sức khỏe, và sẽ đóng góp vào… rừng – à quên, lại lộn nữa – vào vườn hoa VTLV thêm phần khởi sắc!
Hân Hoan Chào Mừng!
LVH
(*) Mũ Nâu – Biệt Động Quân, còn gọi là Cọp Rằn – rất đặc biệt, nên xin phép mượn hình ảnh này trong lời chúc mang tính vui nhộn. Xin TVNS vui lòng bỏ qua cho!
________________________________________
Xin được giới thiệu một bài thơ của Tác Giả, kèm theo Lời Giới Thiệu Tác Phẩm, Tác Giả của Nhà Văn Diệp Mỹ Linh
Một bài thơ của Huy Tâm – Dương Thượng Trúc
Mồng bốn Tết, tuyết giăng đầy ngõ
Đường vắng hoe con phố buồn tênh
Một màu trắng đục mông mênh
Làn mây xám ngoét bồng bềnh nhẹ trôi
Xuân nơi đây đất trời hoang lạnh
Chim lạc bầy nghe chạnh niềm đau
Vùi trong ký ức thâm sâu
Những mùa Xuân cũ xanh màu cỏ hoa.
Xuân năm nay mình ta một bóng
Nghe thanh âm xưa vọng về tim
Tiếng nô đùa của đàn em
Pháo vang đầu xóm, mà thèm hương Xuân
Kỷ niệm cũ cũng dần phai nhạt
Những thương đau mất mát cũng qua
Chỉ còn lại nỗi xót xa
Bao giờ đón tết quê nhà, người ơi!
Mồng 4 Tết Tân Sửu
Houston TX, 15/02/2021
LỜI GIỚI THIỆU TÁC PHẨM MẮT NGỌC của Dương Thượng Trúc
ĐIỆP MỸ LINH
-Cách nay khá lâu, bất ngờ, tôi nhận được một youtube âm nhạc Việt Nam, chuyển vào email box của tôi. Tên người gửi là Mũ Nâu 11.
Hai chữ Mũ Nâu gợi lại trong lòng tôi hình ảnh người em chồng – Thiếu Úy Biệt Động Quân Hồ Quang Trung, tử trận tại Bình long, năm 1972 – mà tôi đã viết cho Trung một bài với câu cuối: “Từ nay, chị sẽ tìm hình bóng em qua nhân dáng oai hùng của Người Lính Mũ Nâu!” Tôi mỉm cười và biết chắc chắn rằng người gửi youtube tặng tôi phải là một “Ông Biệt Động Quân”! Từ hình ảnh của Trung, tôi cảm thấy thân thiết ngay với anh Mũ Nâu.
Sau khi nghe youtube với những tình khúc mà ngày xưa tôi thường đàn và hát, tôi emailed cảm ơn anh Mũ Nâu đã chuyển cho tôi một tác phẩm âm nhạc có giá trị nghệ thuật cao.
Emails qua lại nhiều lần, tôi mới biết anh Mũ Nâu cũng là một ngòi bút nhà binh, bút hiệu Dương Thượng Trúc.
Lúc này tôi mới nhớ là tôi đã thấy bút hiệu Dương Thượng Trúc trên nhiều tờ báo có giá trị tại Hoa Kỳ như Kỷ Nguyên Mới, Thế Giới Mới, nguyệt san KBC, v. v…
Giao tiếp lâu hơn nữa tôi mới được biết, ngoài việc viết văn xuôi, anh Mũ Nâu Dương Thượng Trúc còn sáng tác nhạc và thơ.
Trong địa hạc văn học nghệ thuật, về nhạc, tôi biết vài nhạc sĩ mặc quân phục, như: Nguyễn Văn Đông, Nhật Trường Trần Thiện Thanh, Lam Phương, v. v… Về thơ, chúng ta có những nhà thơ mặc quân phục, như: Luân Hoán, Trang Châu, Hà Huyền Chi, Tô Thùy Yên, Hữu Phương, v. v…Về văn xuôi, chúng ta có Phan Nhật Nam, Thế Uyên, Hoàng Khởi Phong, Trần Hoài Thư, v. v…
Nhân vật từng mặc quân phục, có biệt tài cả văn, thi, họa, tôi chỉ biết có ông Tạ Tỵ. Và nhân vật từng mặc quân phục, có biệt tài cả về văn, thơ và âm nhạc, tôi chỉ biết anh Mũ Nâu Dương Thượng Trúc.
Về nhạc, tôi chỉ là người chơi đàn Accordéon chứ không phải là một nhạc sĩ sáng tác; thơ thì tôi chỉ biết thưởng thức chứ tôi chưa bao giờ sáng tác; vì vậy, tôi chỉ xin góm ý về văn của nhà văn Mũ Nâu Dương Thượng Trúc.
Tôi được hân hạnh đọc tác phẩm văn chương thứ hai của nhà văn Dương Thượng Trúc, tựa đề Mắt Ngọc.
Lật vài trang trong tập truyện Mắt Ngọc, tôi thấy truyện Anh Tango. Nhờ đã tham dự nhiều cuộc hành quân hỗn hợp của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa trên sông rạch, tôi nhận ra ngay: Anh Tango là ám hiệu truyền tin của một “thẩm quyền”. Đã là ám hiệu truyền tin thì tôi nghĩ, có lẽ đây là một câu chuyện hừng hực lửa chiến trường như những tác phẩm mang tính cách phóng sự của Phan Nhật Nam; nếu không hừng hực lửa chiến trường thì cũng phần nào nói lên tâm trạng của tác giả trong cuộc chiến như truyện dài Tiền Đồn của Thế Uyên; hoặc như Tạ Tỵ trong tác phẩm Đáy Địa Ngục, viết lại những khổ đau, nhục nhằn khi bị Cộng Sản Việt Nam đày đọa trong các trại tù.
Nhưng không, truyện ngắn Anh Tango rất dễ thương. Tác giả đưa vào văn chương sự nghịch ngợm đáng yêu của “mấy ông Lính” làm chao đảo trái tim của nữ sinh.
Đọc 12 truyện ngắn trong tập truyện Mắt Ngọc, tôi cảm thấy rất gần gủi với nhân vật và tình cảnh trong truyện; bởi vì, trong vài truyện, tác giả đã viết bằng giọng văn bình dị miền Nam. Và trong những truyện khác, tác giả lồng vào câu chuyện những danh từ nhà binh rất thân thương như: “Thằng ông nội”, “nhầm nhò gì ba cái lẻ tẻ”, “thẩm quyền”, “ông thầy”, v. v…
Là sĩ quan của một trong các binh chủng ưu tú của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, có khẩu hiệu là “Biệt Động Quân, sát!” nhưng văn phong của anh Dương Thượng Trúc lại dịu dàng và lênh láng tình cảm. Tình cảm giữa cấp chỉ huy và thuộc cấp; tình cảm của người lính chiến và em gái hậu phương; tình cảm của người lính chiến với những địa phương mà người lính đã dừng quân, đã xung trận.
Một trong những địa phương mà người lính chiến Mũ Nâu Dương Thượng Trúc không thể không nhắc đến trong tác phẩm của anh, đó là Pleiku trong truyện ngắn Mắt Ngọc.
Hình ảnh người lính chiến trong truyện Mắt Ngọc qua ngòi bút của Dương Thượng Trúc thật dễ thương và lãng mạng: “Cài lại khuy áo Field Jacket, Thụy xốc ba lô, vác Guitar lên vai, lửng thửng đi ra cổng phi trường…” Khi đọc những dòng chữ này tôi tưởng như hình ảnh phi trường Pleiku hiện rõ trong mắt tôi và văng vẳng trong không gian im vắng là tiếng Violon lảnh lót cùng tiếng hát mượt mà của Elvis Phương: “…Em Pleiku má đỏ môi hồng. Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông; nên tóc em ướt và mắt em ướt…Phố núi cao phố núi trời gần…Một buổi chiều nào lòng bỗng bâng khuâng…”
Nếu trong truyện Mắt Ngọc tác giả “vẽ” nên hình ảnh lãng mạng tuyệt vời của Người Lính thì trong truyện Thằng Cọp Con, cuộc sống bấp bênh của người dân ở những vùng “ngày Quốc Gia, đêm Cộng Sản” cũng được tác giả diễn đạt rất trung thực: “…vùng đất này khá phì nhiêu, nếu không có chiến tranh thì cuộc sống không đến nỗi nào. Mùa màng thất bát vì chiến cuộc, lại còn thuế má cho bên kia…Cha em tham gia kháng chiến chống Pháp mong có Tự Do Độc Lập để cuộc sống đỡ vất vả hơn. Ông đem ước vọng ‘Ngày Mai Tươi Thắm’ đặt tên cho bốn chị em tụi em. Nhưng ước mơ đó chẳng bao giờ đạt được, vì Ông đã hy sinh trước đó vài tháng, ngay trong cái năm hòa bình được tái lập. {…} Chị hai Ngày lấy chồng là xã đội du kích, chết trong trận Mậu Thân. Anh ba Mai làm giao liên, lọt ổ phục kích chết năm kia. Giữa năm rồi, họ tấn công đồn, nhà em nhận nguyên trái mọc-chê, vì ở gần đó. Má em với chị Hai chết cùng ngày. Đến cuối năm, chị tư Tươi bị họ lùa đi gài mìn đắp mô ngoài lộ cái, chẳng may mìn nổ, chết không nhìn được xác…”
Đời sống của người dân ở vùng “xôi đậu” thì thê thảm như đoạn văn đã trích dẫn bên trên; còn đời sống của người dân sau khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam thì như thế nào? Kính mời độc giả đọc truyện Dị Mộng để thấy những thảm trạng trong thời “bao cấp”: “… Ngày ấy, tôi đang bị sốt nặng, nằm liệt giường vì vừa không có thuốc vừa không có thức ăn. Trong nhà chỉ còn nửa bơ gạo, u tôi đang định nấu cháo thì trời đổ cơn mưa. U bảo để u đi bắt còng về ram cho tôi ăn cháo. {…} Tôi nằm thiêm thiếp với giấc mơ cháo còng. {…} Mưa càng to bụng tôi càng cồn cào. Tôi nghĩ đến lúc được cắn cái chân còng dòn tan mà ứa cả nước bọt. Còng chỉ rang muối thôi chứ nhà làm gì có mỡ! Tôi thiếp đi trong cơn đói là như thế với những cái chân còng rang muối.
Giật mình tỉnh dậy thì trời đã sáng, gọi mãi chả thấy u trả lời. Tôi chạy vội ra sân và la to cầu cứu. Mọi người xúm lại đi tìm. Và phát hiện u tôi chết đuối tự lúc nào bên một bờ ruộng sâu…”
Thật ra không phải tất cả truyện trong tác phẩm Mắt Ngọc đều được tác giả đưa ra bề trái cuộc đời; có vài truyện tác giả viết rất duyên dáng, dí dỏm, chỉ vừa đủ vui để độc giả mỉm cười, như truyện For Rent và Nhất Quỷ Nhì Ma…
Không hiểu tác giả Dương Thượng Trúc có bị ảnh hưởng câu: “There is no real ending. It’s just the place where you stop the story.” của Frank Herbert hay không mà tác giả thường không kết thúc câu chuyện một cách “tròn trịa” như lối kết thúc cổ điển. Tác giả thường “bỏ lửng” câu chuyện để độc giả tự tìm kết cuộc cho câu chuyện tùy theo cảm quan của độc giả.
Đọc truyện của nhà văn Dương Thượng Trúc, tôi thường khó nhận ra những tình tiết pha lẫn giữa hư cấu và sự thật. Đây là biệt tài của một ngòi bút đa dạng.
Dù viết dưới dạng thức nào thì tác phẩm của nhà văn Dương Thượng Trúc cũng chinh phục được người đọc bằng những vần thơ của chính tác giả hoặc là của bạn hữu và lời ca của vài nhạc khúc.
Trước khi dừng bút, tôi xin mượn lời của Stephen King để gửi đến nhà văn đa tài Dương Thương Trúc: “A little talent is a good thing to have if you want to be a writer. But the only real requirement is the ability to remember every scar.”
Tác ngày càng thăng hoa, kết nối nhiều tri âm, tri kỷ – Chung vui
Viết tiếp tháng ngày mộng mơ!
Thân ái,
Tuyết Nhung
CÙNG BẠN THƠ VĂN
Thân gửi bạn thơ đã mến thương Văn Thơ Lạc Việt tỏa ngàn hương Muôn lời cầu chúc chân thành nguyện Đạt mọi thầm mong ước tứ phương.
Có thể chúng ta chưa biết nhau Nhưng đà đồng cảm ? bởi vì đâu Văn thơ trao chuyển lời tâm sự Thu khoảng xa xôi sơ khởi đầu .
Huu-Thien Paul Pham
Hạnh ThảoXin chào mừng Thành viên mới đã đến với Đại gia đình VTLV.
Xin kính chúc sức khỏe niềm vui trong mỗi ngày.
TỪ NƠI XA XÔI ẤY
BỖNG DƯNG HOÁ THẬT GẦN
QUA TÂM TƯ DỂ MẾN
KẾT NỐI SỰ THÂN QUEN.
HT Xin gởi vài dòng thơ bất chợt để được Chào mừng, xin Anh Chi Đại gia đình VTLV bỏ qua nếu ko đúng theo luật bằng trắc 🙏🏼
Hạnh Thảo
======================
Thân chào Gia đình VTLV
Mấy hôm nay đại Gia đình VTLV rộn ràng vui qua đi
Rất mong được gặp anh Huy Tâm – Dương Thượng Trúc
Chuc vui
Thúy Nga
============
Lời Đáp Lễ
Kính Gửi Quý Thành Viên Văn Thơ Lạc Việt
Ân tình nhận được từ xa, Tay chưa dịp bắt, lời hoa đã đầy. Văn chương là mối duyên này, Đưa đường tâm thức về đây họp quần.
Rồng Tiên chung một nghĩa nhân, Câu thơ đượm thắm ân cần thật chơn. Lời chào như thể cao sơn, Khiến lòng bối rối, mấy hôm vẫn còn!
Nay xin đáp lại tình son, Bằng vần lục bát cội nguồn nước non. Cảm xúc như suối trào tuôn Gởi vào thi tứ, vẽ hồn quê xưa.
Thuyền thơ neo bến bốn mùa, Xin cho góp mái hiên mưa nắng cùng. Một lời đáp lễ khiêm cung, Mong sao chan chứa nghĩa chung ngọt ngào.
HT Dương Thượng Trúc
Houston, 08/03/2025
KIỀU MỸ DUYÊN – Chương Trinh “CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA”
BÀI SƯU TẦM – Có Tiếng Chim Ca: Trần Thị Diệu Tâm
Có tiếng chim ca Trần Thị Diệu Tâm
Tháng Bảy /2022
Posted by GLN Sau khi Anh ấy mất đi, Chị lo dọn dẹp lại tất cả những vật dụng đồ dùng của chồng, xem thứ nào để lại thứ nào bỏ đi. Trước đây, không bao giờ chị dám sờ tay động chạm vào những thứ đồ vật ấy, Anh nói ” Đừng xáo trộn thứ tự của anh”.
Chị biết, chồng mình là một người sống nghiêm túc, cẩn thận, đôi lúc trầm mặc và lạnh lùng. Chị yêu quý Anh đến mức làm cho các bà bạn phải ghen tức vì lòng tuyệt đối ấy. Họ ghen tức vì thấy Chị có một người chồng tốt và gương mẫu đến vậy. Giờ đây, sau khi chết, thể xác hình hài của Anh trở thành tro bụi phể thải và vất bỏ, dù có linh hồn hay không có. Chị ngậm ngùi, tuy nhiên chỉ riêng một thứ không bao giờ phế thải vất bỏ, đó là lòng yêu kính ngưỡng mộ của Chị với Anh. Chị cho rằng chính Anh là nguồn sống làm cho đời Chị trở nên có giá trị hơn, tình thần và vật chất. Khi động chạm vào những kỷ vật của chồng, Chị tưởng như anh đang sống lại . Chiếc iphone của Anh, chiếc máy vi tính cũng còn đó, dù chúng đã bị xóa hết tất cả dữ liệu bên trong. Có lúc Chị muốn nhờ con tái tạo những dòng điện thư giữa chồng và bạn hữu để cảm giác cha vẫn còn sống với mẹ. Nhưng đứa con gạt đi, chết là hết rồi.
Chết là hết, như câu nói của người bạn trai cũ, thỉnh thoảng gọi thăm sức khỏe chị, sợ Chị cứ sống mãi với hình bóng xưa, mà quên đi thực tại.
Chị không muốn nghĩ như vậy, nhớ Anh trong tâm tưởng, đó là lúc Chị cảm thấy mình không lẻ loi. Chị dọn dẹp một vài thứ, đọc lại vài trang sách, vài bức thư cũ mà anh từng đọc. Một bao thư cũ kỹ gấp nhiều tờ giấy bên trong . Chị ơ hờ mở ra, bức thư của một người đàn bà nào đó gửi cho chồng chị. Rất đỗi ngạc nhiên, bức thư với lời viết quá thân thiết, còn hơn thế nữa, bức thư kể lại đôi điều. “Em nhớ anh, em nhớ lần gặp nhau sau này. Em không bao giờ quên được hơi ấm nồng nàn khi anh ôm em. Anh ôm em với cả một thể xác đậm đà yêu thương, anh mời gọi em bằng những cái hôn ngọt ngào, mơn trớn trái tim em để em có thể hiến dâng toàn vẹn ân ái cho anh, cho riêng một mình anh thôi …
Chị hoa mắt, ngộp thở, và đọc tiếp … Em biết anh không được hạnh phúc với chị ấy, thứ vui thú mà em cho rằng rất cần thiết cho anh, cho mỗi một người đàn ông, điều này anh từng nói với em khi gần gũi nhau. Chị xinh đẹp và sang trọng, nhưng đó chưa phải là điều cho anh thấy mình viên mãn. Đó chỉ là thứ vỏ bọc đắp lên cho xã hội nhìn ngắm. Một người đàn ông như anh có đầy đủ điều kiện để cho người khác quý nể tôn trọng, anh không cần sự bồi đắp của chị. Chị không hiểu được thứ anh đang cần, điều anh đang thiếu. Em là người đem lại thứ ấy cho anh, đó là lời anh đã từng nói thật lòng anh, em nhớ mãi câu nói đó, khi chúng ta trao nhau. Anh không có lỗi gì khi đến với em. Chị vợ anh mới có lỗi. Em chỉ là một người đàn bà giản dị sống thực với đời thực, biết và hiểu người đàn ông mình yêu, thích gì muốn gì. Anh gặp em và em đáp ứng được cái nhu cầu ẩn giấu trong anh chưa bao giờ bộc lộ bên ngoài. Khi gần em, anh là một người đàn ông hoàn toàn tự do không bị ràng buộc bất cứ điều gì, những giây phút ấy thật đáng quý biết bao.”
Điều làm Chi đau đớn hơn cả, chính vì Anh không còn sống để Chị có thể tra vấn. Chết rồi mà vẫn còn năng lực chém Chị một nhát dao mạnh, cả người chị như ứa máu. Từng dòng máu tươi nồng đang tuôn ra từ trái tim một cơ thể đàn bà yếu đuối. Trái tim ấy đã từng nuôi dưỡng sinh lực yêu thương. Đã từng nghĩ rằng không ai có thể thay thế Anh, trước và sau. Tượng đài ấy nay bỗng dưng đổ ập xuống vỡ vụn từng mảnh nhỏ dưới chân Chị. Cơn ghen giận bùng lên, Chị muốn trả thù. Chị muốn đập tan tành và lôi xác Anh từ nấm mồ chôn, cho dù Anh chỉ còn là bộ xương thối rữa. Quên rằng Chị đã hỏa táng Anh trong lò thiêu xác với nhiệt độ trên 1000 °C. Phạm nhân ấy nay đã chết, trở thành vô tội, dù Chị có là công tố viên, cũng vô ích. Chết là xóa tan một bản án. Chị thẫn thờ nhớ lại mình, không phải người khác. Có lẽ chính Anh đã trở thành người đàn ông khác, rất xa lạ với mình mà mình không hề hay biết. Chị nhớ lại ngày Anh mất trong bệnh viện, Anh im lìm không nói năng chi, chỉ thở ra vài hơi mệt nhọc rồi nhắm mắt. Thế mà trong trí tưởng của Chị, Anh sẽ cầm lấy tay Chị nói như thế này : “Thôi em ở lại, sống với nhau lâu nay, nếu có chi không vừa lòng, em hãy bỏ qua tha thứ cho anh “. Nếu Chị được nghe anh nói như vậy, sẽ bỏ qua hết, dù cho Anh để lại thêm những lá tình thư người khác nữa, hoặc Anh có đứa con rơi con rớt nào đó chưa được khai báo. Anh chẳng nói được một lời giã từ hay đẹp dịu dàng cho em, người ở lại. Phải chăng những lời hay đẹp chỉ có thể nghe qua phim ảnh, hay đọc trong tiểu thuyết, đời thực không hề có. Chị thấy vị chua, vị đắng trào lên cổ họng.
Vậy mà trong bức thư kia, Anh tỏ ra nồng ấm và dịu dàng biết bao với người không phải là vợ mình. Bỗng Chị nhận ra cái ngu ngơ của mình, vừa ngu lại vừa khoái lãng mạn. Nhớ lại, lúc mới quen nhau, lúc mới hẹn hò thương nhau, Anh từng nói “Anh thích cái ‘vẻ ngu ngơ’ của em.» Lúc đó Chị tưởng thật, đàn ông thường thích cái vẻ ngây thơ không biết chi, cái vẻ ngây thơ trong trắng còn rất toàn vẹn, chưa hề chia xẻ tình ái với ai. Nhưng bây giờ Chị biết rồi. Có người đàn bà khác hiểu chuyện đời hơn Chị, không ngu ngơ mà thu hút đàn ông, biết cách chiếm đoạt một người đàn ông sống nghiêm túc mẫu mực. Nhớ khi Anh còn sống, luôn tỏ ra là một người can trường, can đảm đương đầu với mọi khó khăn để giải quyết nhiều chuyện. Một con người có khả năng lấp biển vá trời nếu như trời có rách toang, một con người luôn tự tin ở chính mình. Tự tin nhưng lại cần sự hỗ trợ của người đàn bà khác trong vấn đề tình ái. Tình dục hay tình yêu ? Sợi dây tơ đó đã quấn quýt lấy tâm hồn Anh từ lúc nào ? “Từ khi nào anh lừa dối em ? ” Chị hỏi thầm, nhưng người chết không trả lời. Nếu còn sống, có thể Anh nói ” Không, Anh không lừa dối, nhưng đó là một nhu cầu của tình ái đàn ông, thích chinh phục và chiếm hữu.” Phải chăng tình ái là chiếc kính vạn hoa chiếu vào trái tim, óng ánh muôn sắc màu cho lòng người đắm say.
Rồi Chị lại lẩn thẩn suy xét, nếu Chị không bắt gặp bức thư đó, chẳng biết gì, Anh vẫn là người chồng thủy chung kiếp này cho tới kiếp sau. Nhưng bức thư hiện ra dưới mắt, sự việc bị phơi bày, Anh bỗng dưng biến thành một kẻ lừa dối xấu xa. Tốt hay không tốt, xấu hay không xấu tùy thuộc vào chuyện biết hay không biết điều bí ẩn đó. Thật là huyễn hoặc. Chị nghĩ xa xôi về một điều giản dị thường khi xảy ra, giữa đời sống gia đình chồng vợ vợ chồng. Tuyệt vọng thẫn thờ với một sự thật phũ phàng. Ngày nào Chị cũng ra khỏi nhà, đến công viên ngồi suốt buổi, suốt ngày. Nơi đây Chị thảnh thơi nhìn ngắm trời xanh mây trắng, hít thở không khí trong lành của vườn cây hoa lá. Đám cỏ non xanh mướt mềm mại, tàn lá bóng mát hiền hòa như ôm ấp và xoa dịu tâm hồn. Thiên nhiên luôn sẵn sàng giang đôi cánh tay rộng lớn bao bọc che chở, và hòa giải phiền muộn.
Trong khu vườn nhỏ, Chị mua nhiều chậu cây đem về nhà chăm sóc từng mỗi sáng mai sớm, từng mỗi chiều xuống thấp. Thật thú vị biết bao, chúng đã trổ từng nhánh hoa với sắc màu tươi thắm cho mỗi bình minh, khi mặt trời vừa chiếu sáng loáng trên dòng sông xanh biếc phía trước. Tím hồng cam đỏ vàng chen lẫn trong đám chồi lá xanh non, rộn ràng như cùng nhau lễ hội. Chị nhận ra mỗi loài hoa có một linh hồn. Chúng có một ngôn ngữ riêng bày tỏ với tấm lòng yêu thương vô hạn thủy chung. Chúng chưa hề làm Chị thất vọng. Mỗi mùa mỗi loại, thay phiên nhau đem tới niềm vui sống từ đất và từ trời bao la. Ươm lên từ đất, lớn lên theo ánh sáng mặt trời, đón lấy tinh túy của vũ trụ mà trao tặng người đời. Và hơn thế nữa, chúng còn lan tỏa hương hoa của mình cho cuộc sống chung quanh, vốn đượm mùi cay đắng. Rồi chen lẫn trong đám lá xanh, rộn ràng vang lên tiếng chim ca hót trên vòm cây cao ngợi khen một ngày mới bắt đầu.
Chị hân hoan đem về nhà một chú chim màu vàng. Ngày đầu Vàng Anh lo sợ chỗ ở mới, không biết tương lai ra sao, đứng một chỗ quan sát. Ngày hôm sau, khi ánh nắng ban mai chiếu qua cửa, là lúc Vàng Anh cất tiếng hót báo tin bắt đầu một ngày mới. Cả đám hoa ngoài kia đang ngái ngủ, cũng vội vàng thức tỉnh, mở mắt, lay động theo gió, như chào mừng ngày vui với thành viên xinh đẹp líu lo. Từ đó, Vàng Anh luôn ríu rít hót ca mỗi khi Chị tỉnh giấc, và ngủ yên khi Chị tắt đèn chìm vào giấc ngủ say. Đúng là một người bạn thân yêu đồng cảm với niềm vui nỗi buồn, tuy Vàng Anh không nói được tiếng người, nhưng chừng như nó hiểu Chị. Bởi vì mỗi khi Chị nói chuyện với bạn hữu qua điện thoại, nó cũng ríu rít góp chuyện như một người thứ ba đang có mặt. Vàng Anh là một loài chim thích nghe tiếng người.
Mỗi ngày Chị mở lồng chim cho Vàng Anh bay ra khắp phòng để thư giãn đôi cánh, lần đó, quên không đóng cửa sổ. Nó bay sang đậu trên cánh cửa đang mở rộng, Vàng Anh do dự ngập ngừng nhìn quanh quẩn, hình như nó nghĩ ngợi. Chị chăm chú hồi hộp theo dõi, chắc chắn nó sẽ bay ra ngoài bầu trời xanh tự do bên ngoài. Nhưng, nó bỗng dưng bay trở lại cái lồng chim xinh xắn của mình, trèo vào trong và cất tiếng hót. Có lẽ Vàng Anh suy nghĩ đây là nơi chốn an toàn nhất cho đời mình, không lo sợ mưa nắng bão tố hay sấm sét. Chị cảm động lấy ít hạt thức ăn đưa vào lồng, nó sà xuống mổ từng hạt nhỏ trong lòng bàn tay. Chị nhận lấy hơi ấm tỏa ra từ thấm thân nhỏ bé mềm mại, len vào mạch máu trái tim mình. Vàng Anh không bỏ Chị, toàn vẹn thủy chung. Chị muốn bật khóc vì cảm xúc. Cả hai cần có nhau. Chị đã tạo ra một thế giới riêng của mình, tự chủ tự tin và an toàn. Đời thực giữa người với người sao huyễn hoặc quá, từ nghi hoặc này tới mơ hồ khác.
Chuông điện thoại reo lên từng hồi, Vàng Anh nghe thấy trước tiên, nhanh chóng gọi Chị đang cho cây Dạ Quỳnh uống nước ” nhanh lên nhanh lên”. Chị bắt máy, tiếng người bạn trai cũ, giọng ngọt ngào hỏi thăm sức khỏe, và rồi đề nghị đi du lịch cùng nhau một chuyến về vùng Địa Trung Hải nắng ấm. Chị ngần ngại ậm ừ qua điện thoại. Người ngồi bên kia bờ sông đang chăm chú nhìn chiếc phao chìm xuống là nhấc cần câu lên. Nếu cá đớp mồi, mắc vào lưỡi câu, nó sẽ mãi mãi vĩnh biệt dòng nước trong xanh mát rượi, nó không còn tự do tung tăng bơi lội nhởn nhơ, nó sẽ giẫy chết trong chiếc rọ sắt. Chị nghe Vàng Anh cất tiếng hót, tưởng chừng như có ý nhắn nhủ dặn dò “giải thoát, giải thoát “. Chị quay nhìn nó và cúp máy. Chiếc phao vẫn nổi lềnh bềnh trên mặt nước xanh.
ReplyForwardYou can’t react with an emoji to this message
ÂM NHẠC – Kỷ Niệm Buồn – TRẦN ĐẠI BẢN
VĂN – ĐỖ DUNG: HƯƠNG NGỌC LAN
Hương Ngọc Lan
Đỗ Dung
– Ạ bà, thưa bà con mới đến!
Tôi còn đang nằm nướng trên giường, con bé nhảy tót lên ôm bà, dụi đầu vào ngực bà nũng nịu:
-Michelle muốn ngủ bà, Michelle muốn ôm bà…
Tôi ôm con bé hít một hơi thật dài:
-Cục cưng của bà thơm … thơm … thơm … !
Hai bà cháu ghiền nhau một lúc thì con bé nhổm lên, giương đôi mắt tròn xoe
-Bà ơi, nại nại!
Tôi vươn vai ngồi dậy nói vọng ra:
-Ông! Nại nại.
Chỉ đợi có thế ông đã xuất hiện ngay ở cửa phòng với bình sữa trên tay. Chúng tôi có ba người con, năm đứa cháu. Ba thằng cháu ngoại, Kobe lên chín, Carter lên bảy, Logi hai mươi tháng. Hai cháu nội, Michelle gần ba và Kenneth hơn một tuổi. Cô con dâu của chúng tôi người Việt gốc Hoa, buổi tối con bé ở nhà với bà ngoại, bà ngoại gọi con chị là Chể Chế còn thằng em là A Chảy. Chúng tôi ở nhà cô con gái, ban ngày con bé sang nhà bác chơi với các anh để ông bà trông nom một thể. Hai thằng lớn đã đi học nên nói chuyện với nhau bằng tiếng Mỹ, còn ông bà nói giọng đặc sệt Bắc kỳ. Con bé đang ở tuổi học nói, không biết trong cái đầu bé tí hon của nó có bị lộn xộn ba thứ tiếng không. Con bé sang dậy mấy thằng anh « phán xẻ », « phan cao », « xực phàn »… muốn uống sữa thì đòi « nại nại ».
Có những lúc thật buồn cười, khi ngồi vào bàn ăn, nó bảo Logi « xực phàn à », chỉ vào bát cơm nói bà « ăn cơm », quay qua hai thằng anh hô « eat! ». Buổi chiều khi mẹ nó đến đón, gọi con: « Chể chế phán xẻ! », nó quay lại khoanh tay: «Thưa ông bà con đi về».
Kenneth, thằng đích tôn ra đời sau cùng trong bầy cháu, ông bà đã «overload» nên phải nhờ bà ngoại cháu sang trông nom. Thằng bé kháu khỉnh, bụ bẫm, hiền lành… không lém lỉnh, ranh mãnh như con chị. Con chị làm thủ lãnh còn thằng em chỉ lúp xúp theo sau. Khi thằng bé sắp ra đời, bố mẹ nó cuống quýt tìm tên. Các cháu dù được gọi tên Mỹ nhưng trong khai sinh vẫn giữ nguyên tên Việt. Bố mẹ cháu tên Khôi và Linh, muốn bộ tên L.U.C.K., Michelle đã có tên Minh Uyên, ông con xin ông bố chọn tên vần C, ông bố tủm tỉm trêu: Vần C thì có Cục … ! Cuối cùng cháu cũng được ông nội đặt tên là Khiêm Cung và cả nhà đồng ý nếu các cháu có theo gương chị thêm đứa thứ ba thì đứa bé sẽ có tên Thiên Ý nếu là trai và Minh Yến nếu là gái để hoàn thành bộ L.U.C.K.Y.
Nói về con đầu cháu sớm phải kể chuyện Kobe – Minh Kha. Tôi vào phòng sanh với mẹ nó và tôi là người đầu tiên ôm thằng bé vào lòng, cảm nhận sự thiêng liêng, màu nhiệm và kỳ diệu của Hóa Công. Thằng bé to con, nặng hơn chín pounds. Mẹ nó nhỏ nhắn nên khi sanh xong bị hơi đuối sức, anh chồng phải ở cạnh săn sóc vợ. Tôi bám theo thằng bé để khỏi lo bị tráo con. Nhìn thằng bé lòng tôi lâng lâng, nao nao khó tả, như có một sợi dây vô hình ràng buộc hai bà cháu. Tôi yêu thằng bé vô cùng, xa thì nhớ quắt, nhớ quay… Khi cháu mới bập bẹ, vỗ tay vào miệng oa oa qua điện thoại với bà, tôi thu lại và giữ mãi mẩu băng đó, nghe hoài mà không biết chán.
Carter – Bảo Đăng kém thằng anh hai tuổi, gầy, cao, bảnh trai, láu lỉnh, thông minh và là « pet » của ông. Hai ông cháu rất tương đắc, ông nói gì cháu hiểu liền, cháu lại biết chiều ý bà, biết nịnh nọt ông. Ngặt một điều cháu rất biếng ăn, nếu không thúc thì bữa ăn kéo dài, dây dưa cả tiếng. Ra đường cháu nhanh nhẹn, luôn miệng hỏi và giải thích hết chuyện này tới chuyện kia, luôn bày đặt tài khôn với thằng anh to xác nhưng bộc tuệch như con gà tồ. Tiếng Việt cháu rất giỏi khi còn ở nhà với ông bà, nay học đến lớp hai thì cũng gửi gió cho mây ngàn bay gần hết.
Út ít Logi – Minh Khang hóm hỉnh, cười khẽ cũng rõ hai cái lúm đồng tiền. Bố mẹ cháu đã có hai thằng con trai, cố sanh thêm để kiếm một mụn con gái nhưng lại vẫn ra cái thằng cu! Mới bập bẹ nói mà ông hay bà hỏi : «Con có yêu ông bà không?» thì cu cậu toét miệng ra: “ Dạ tó!”. Hai thằng anh thì cao, thằng em nhỏ bé nên ông gọi là con vịt đẹt. Ông bà ráng vỗ, mua Pediasure, ngày nào cũng xay xay, giã giã … làm đồ ăn cho cháu, giả làm hề, làm tàu bay, tàu bò… để dụ nó ăn mà nó cũng chẳng lớn nhanh cho. Kenneth thì ăn như hùm, như hổ, chả phải dỗ dành và cứ lớn nhanh như thổi. Cô con gái trêu mẹ, phân bì: « Bà ngoại mình ơi, sao bà ngoại Kenneth nuôi nó bự quá, bà ngoại mình nuôi thằng Còm, bà ngoại mình dỏm rồi, bà ngoại mình ơi!»
Hè vừa qua bà ngoại Michelle về Việt Nam hơn một tháng, hai vợ chồng tôi quay cuồng với đám cháu từ sáng sớm đến tối khuya. Cả buổi sáng chỉ lo thay tã lót cho ba đứa nhỏ rồi lo ăn uống cho cả bầy, ăn xong ông cho hai thằng lớn ra sân dợt banh, bà bầy trò chơi cho ba đứa nhỏ. Đồ chơi đầy một nhà mà đôi lúc oái oăm thay cả ba cùng thích một thứ, eo sèo tị nạnh. Tôi nhớ hoạt cảnh gia đình tôi ngày xưa và nhớ bà nội tôi luôn luôn nói «xem tí, xem tí, chị phải nhường em» để bắt đứa lớn chịu thua. Ngày ấy tôi là lớn nên luôn phải chịu phần lép. Nay lịch sử tái diễn, tôi ở vị trí của bà và Michelle lại như tôi.
Nhãng đi một chút là ba đứa kéo nhau vào bếp, ôi thôi nồi niêu, xoong chảo đem ra khua inh ỏi, chúng rủ nhau mở ngăn kéo lôi hành tỏi vứt đầy ra sàn nhà, ông vào hét lên như còi tàu hỏa. Bà quýnh quáng thu góp, lôi ba đứa cho vào « family room » mở phim nhảy múa con nít. Thế là như một ban nhạc trẻ tài danh, ba đứa cùng múa may, nhảy nhót. Logi là vua phá, tất cả những gì có nút bấm là nó bấm loạn xạ, những “remode control” vào tay nó là kể như tiêu tùng.
Nhà tôi không bao giờ biết thay một cái tã hay pha một bình sữa cho con, bây giờ làm ông lại hóa giỏi. Chẳng qua tại ông thương vợ, không nỡ để tôi một mình vất vả nên phụ đỡ một tay, ông tiếp thu phần pha sữa cho mấy đứa bé, từ từ cho cháu ăn, cho cháu bú, khéo hồi nào chẳng biết. Mẹ chồng tôi nếu còn sống chắc Cụ không thể tưởng tượng ra cảnh này!
Đến bữa ăn trưa hay chiều mới rắc rối, năm đứa năm kiểu, thằng lớn nhất mới chín tuổi đã cao gần bằng bà, số cân cũng chẳng kém, bố mẹ nó nhắc ông bà bắt nó « diet ». Khổ nỗi thằng bé cứ thấy đồ ăn là thèm. Thằng thứ nhì hơi gầy, lại biếng ăn ông phải hò, phải hét. Hai thằng bé con cũng vậy, chưa đút cho thằng còm xong thì thằng ù đã há mồm sẵn đợi. Có Michelle là ngoan, cho phần ăn ngồi xúc lấy, chỉ đôi khi gặp món không thích là nhất định chẳng chịu ăn.
Ngày cuối tuần mới là ngày của bà … Có những buổi chiều êm ả, tôi ngả mình trên chiếc ghế xích đu trong bóng rợp ở vườn sau. Màu nắng của buổi chớm thu hanh vàng và bầu trời thì xanh trong với vài cụm mây trắng trôi lờ lững. Mùi Ngọc Lan thoang thoảng theo gió mơn man khứu giác… đưa ký ức tôi bềnh bồng, bềnh bồng trôi về dĩ vãng. Tôi nhớ bà nội tôi, nhớ xót xa. Năm tôi bé như Michelle bây giờ mà đã có hai em, Minh Thuận và Vân Hạnh. Những món đồ chơi ngày ấy chỉ là những con búp bê nhựa hay mấy con thú nhồi bông. Các em muốn chơi bà bắt tôi nhường nhưng khi thấy cháu phụng phịu, hậm hực bà lại ra cửa mua cho cái bánh giò nóng ngồi xúc cho ăn.
Năm tôi lên ba, học vỡ lòng ở trường Hồng Bàng, sau chợ Hàng Da. Bà đưa cháu đi học, tôi đòi bà phải ngồi ở cửa lớp chờ. Bà dỗ từ từ, bà nói ra ngoài hàng quà ở cổng trường ngồi đợi rồi bà lén về để đến giờ mới đi đón. Một hôm bà bận việc gì đó, sai cô Nga, em út của bố tôi đón cháu. Tôi im lặng không nói gì, về nhà gặp bà thì òa lên khóc bắt đền, khóc đến nỗi bà phải bắt cô đưa đến cổng trường để rồi bà lại đi đón. Không hiểu sao cả bà và mẹ tôi hồi ấy lại chiều tôi một cách vô lý như thế. Bà và mẹ tôi kể mãi chuyện này và nói là tôi đáo để.
Mẹ tôi cứ đều đều sản xuất, cách năm lại cho ra đời một đứa bé, mẹ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ. Cứ hễ có em là đứa bé vừa mới thôi sữa được chuyển sang bà. Khi em Tuấn ra đời, hai đứa bé được chui vào màn rúc nách bà là Thuận với Hạnh, tôi phải nằm ngang phía dưới chân. Lâu lâu bà lại với chân xuống nhè nhẹ lấy chân xoa lưng cháu. Những đêm hè bà phe phẩy chiếc quạt nan, thỉnh thoảng lại quạt xuống phía dưới an ủi cô cháu gái. Tối tối bà bắt anh em chúng tôi rửa mặt mũi chân tay, thay quần áo sạch sẽ, sắp hàng ngồi sau lưng bà nghe bà tụng kinh. Sau khóa lễ được chui vào màn nghe bà kể chuyện đời xưa, chuyện Tấm Cám, chuyện Thạch Sanh Lý Thông, chuyện Bà Chúa Ba, chuyện Quan Âm Thị Kính… Khi tôi lên mười, đã có năm em, đã là chị lớn, bà bắt đầu dạy đi chợ nấu ăn, dạy sao để chọn con gà cho ngon, con vịt cho béo, rau quả cho tươi.
Ở nhà bà mặc quần sa tanh đen, áo cánh lụa trắng, đầu vấn khăn nhung. Đi đâu bà khoác chiếc áo dài nâu thêu những bông cúc vàng nho nhỏ. Đặc biệt bà rất thích hoa Ngọc Lan, bà chẳng bao giờ phấn son, mỗi khi đi chùa hay đi ra khỏi nhà bà chỉ dắt bông hoa Ngọc Lan tươi trên vành khăn để làm dáng. Năm 1965, cha tôi đổi làm việc trên Thủ Đức, được cấp một căn nhà xinh, trước nhà có một cây Ngọc Lan lớn, chi chít hoa. Bà mừng lắm, ngày nào tắm xong bà cũng ngồi xõa tóc cho các cháu nhổ tóc sâu rồi khi vấn lại khăn không quên dắt một bông Ngọc Lan. Ở lan can trước nhà chúng tôi có một dàn Dạ Lý Hương, buổi tối hương thơm ngào ngạt nhưng bà không thích bằng hoa Ngọc Lan và chê mùi hương hắc quá. Chúng tôi biết ý nhờ chú làm vườn trèo lên cây cắt từng cành hoa cho bà lễ Phật. Nghĩ đến bà là tôi nhớ đến những chùm hoa trắng muốt cũng như khi nhìn thấy hay ngửi hương Ngọc Lan thoang thoảng tôi lại nhớ đến bà. Và… năm ấy bà tôi mất … bà mất vào tháng tám, tiết thu, những bông Ngọc Lan trắng muốt vẫn còn chúm chím ở trên cây.
Bây giờ tôi đang o bế một cây Ngọc Lan, cây ở đây trồng hơi khó. Mùa đông tôi phải quây buồng và mặc áo cho cây để tránh sương lạnh, giá buốt. Mỗi đợt cây cho được hơn chục nụ hoa, đủ hương thoang thoảng cho tôi tìm về quá khứ… Một ngày xa xôi nào đó trong tương lai, hoa nở đầy cành và hương thơm dịu ngọt tỏa xa, bầy cháu yêu quý của tôi có nhớ đến bà của chúng như tôi đang nhớ xót xa về bà của tôi không!
Đỗ Dung
ENGLISH VERSION
Fragrance of the Magnolia Đỗ Dung
Hey Grandma, Grandma, Michelle is here! I was still lying in bed when the little girl jumped up and hugged me, nestling her head into my chest and whining: “Michelle wants to sleep with Grandma, Michelle wants to cuddle with Grandma…” I hugged her tightly and took a deep breath: “My precious girl smells so… sweet… sweet… sweet!” We cuddled for a while, and then she sat up, eyes wide: “Grandma, milk, milk!” I stretched and called out: “Grandpa! Milk!” And just like that, Grandpa appeared at the door with a bottle in hand.
We have three children and five grandchildren: three grandsons—Kobe, nine; Carter, seven; Logi, twenty months—and two grandkids from our son: Michelle, nearly three, and Kenneth, just over one. Our daughter-in-law is of Chinese-Vietnamese descent. In the evenings, Michelle stays with her maternal grandmother. That grandma calls the girl “Chể Chế” and her little brother “A Chảy.” We live with our daughter, and during the day, Michelle goes to her uncle’s house to play with the boys, so my husband and I take care of all the kids together.
The two older boys speak English since they go to school, but we speak with a thick Northern Vietnamese accent. Michelle is at the age where she’s learning to talk—who knows if her little head is getting all jumbled with three languages! She teaches her cousins phrases like phán xẻ (go home), phan cao (go to bed), xực phàn (eat rice)… and asks for milk with “nại nại.”
Sometimes it’s hilarious: when sitting down to eat, she tells Logi “xực phàn à,” points at her rice bowl and says “ăn cơm,” then turns to her brothers and shouts “eat!” In the evening, when her mom comes to pick her up and calls “Chể Chế phán xẻ!” she turns around, folds her hands and says, “Thưa ông bà con đi về” (Goodbye Grandpa and Grandma, I’m going home).
Kenneth, the youngest and the only grandson from our son, came along last, when we were already overloaded, so we had to ask his maternal grandma to help. He’s chubby, sweet, and calm—not mischievous like his sister. She’s the bossy one, and he’s always tagging behind.
When he was about to be born, his parents frantically searched for a name. Though they use English names, their Vietnamese names are still on the birth certificates. His parents—Khôi and Linh—wanted their kids’ names to spell out L.U.C.K. Michelle’s Vietnamese name is Minh Uyên. So, Grandpa suggested a “C” name. Jokingly, the father said: “C? Like Cục (chunk)?” In the end, Grandpa named him Khiêm Cung, and the whole family agreed: if there’s a third child, the names would be Thiên Ý for a boy and Minh Yến for a girl—completing the word L.U.C.K.Y.
Speaking of our first grandchild, I must talk about Kobe – Minh Kha. I was in the delivery room with his mom, and I was the first to hold him. It was a sacred, magical moment. He was a big baby—over nine pounds. His mom is petite and exhausted after labor, so her husband had to care for her. I stayed with the baby, afraid he’d get switched at the hospital. Looking at him, I felt a deep emotional bond—an invisible thread connecting us. I loved him immensely, missed him constantly.
When he was just babbling and clapping while talking to me on the phone, I recorded that moment and kept the tape forever—I could listen to it endlessly without tiring.
Carter – Bảo Đăng is two years younger than his brother. He’s tall, slender, good-looking, clever, and Grandpa’s pet. They’re a perfect pair. He understands everything Grandpa says, flatters him, and is sweet to Grandma too. But he’s a very picky eater. Meals can drag on forever unless he’s constantly reminded. Outside, he’s quick-witted, always asking questions, trying to outsmart his older brother who’s big but slow like a goofy chicken.
He used to be fluent in Vietnamese when living with us, but now that he’s in second grade, he’s forgotten most of it—“sent it off with the wind.”
Little Logi – Minh Khang, our youngest grandson, is charming with dimples that show even with a tiny smile. His parents had hoped for a girl after two boys but ended up with another boy. Though he’s just started talking, if you ask “Do you love Grandma and Grandpa?” he’ll beam and shout: “Dạ tó!” (Yes!).
The older two are tall, and he’s the small one, so Grandpa calls him our little duck. We try everything—Pediasure, grinding, blending, coaxing, clowning, flying spoons—to feed him, but he’s still growing slowly. Kenneth, on the other hand, eats like a lion and grows like a weed.
Our daughter teased me, “Grandma! Why is Kenneth’s grandma raising him so big, but our grandma’s raising a skinny boy? Our grandma’s no good!”
This past summer, Michelle’s grandma went back to Vietnam for over a month. My husband and I were run ragged from morning to night with the grandkids. Mornings were filled with diaper changes for the three little ones and meal prep for the whole gang. After eating, Grandpa played soccer with the older boys while Grandma made up games for the younger ones.
The house was full of toys, yet somehow all three would want the same thing and fight over it. I remembered my childhood home and my grandmother constantly saying: “Let your sibling have it” and making the older one give in. I was always the older one—always had to sacrifice. Now history repeats itself—I’m the grandma, and Michelle is the oldest just like I was.
Look away for a second, and all three kids are in the kitchen, banging pots and pans, raiding drawers, throwing onions and garlic on the floor. Grandpa comes in yelling like a train whistle. Grandma scrambles to clean up and herd them into the family room, putting on a dancing cartoon.
Then it’s like a kiddie pop concert—the three of them jumping and spinning together. Logi is the king of chaos—any button he sees, he presses like mad. Any remote he touches—gone!
My husband, who never changed a diaper or made a bottle when our kids were little, is now a pro grandpa. Out of love for me, he pitches in—makes bottles, feeds babies, burps them… he’s become surprisingly good at it. If my mother-in-law were still alive, she’d never believe it!
Lunchtime and dinner are the real battle: five kids, five appetites. The oldest is already almost as tall as me and weighs nearly the same. His parents want him on a diet—but he’s always hungry. The second is skinny and a picky eater, so Grandpa must beg and yell. The two little ones are a tag team—you can’t even finish feeding the skinny one before the chubby one is already mouth open, ready. Michelle is the only easy one—feeds herself unless it’s something she dislikes, then she flat out refuses.
Weekends are Grandma’s moments… On peaceful afternoons, I recline on the swing chair under the shady garden trees. Autumn sunshine is golden and soft, the sky a clear blue with wisps of clouds drifting by. The gentle scent of magnolia lingers on the breeze, brushing my senses and carrying me back into the past…
I remember my own grandmother, and I miss her deeply. When I was Michelle’s age, I already had two younger siblings—Minh Thuận and Vân Hạnh. Our toys were simple: plastic dolls, stuffed animals. When my siblings wanted to play, Grandma made me give them my toys. But when I pouted, she’d go out and buy me a hot sticky rice cake to make it up to me.
When I was three, I started kindergarten at Hồng Bàng school, behind Hàng Da market. Grandma took me to class, and I made her wait at the door. She promised she’d sit at the snack stall outside the gate but would sneak home and return in time for pick-up.
One day she sent my aunt Nga to get me, and though I said nothing at first, I burst into tears when I got home, demanding Grandma come herself. I cried so hard she had to bring my aunt back to the school gate and pick me up again. I don’t know why my mom and grandma spoiled me so much, but they always recalled this story and said I was sharp-witted.
My mom had a baby every two years, breastfeeding each one. Every time she had a newborn, the recently weaned child was sent to sleep with Grandma. When Tuấn was born, Thuận and Hạnh slept tucked beside Grandma, and I had to sleep sideways at her feet. Every now and then, she’d gently stroke my back with her foot. On summer nights, she’d fan us and comfort me with a breeze from time to time.
Each evening, she made us wash up, change into clean clothes, and sit in line behind her while she chanted scriptures. Afterward, we’d crawl into the mosquito net and listen to fairy tales—Tấm Cám, Thạch Sanh, The Lady of the Temples, Quan Âm Thị Kính…
When I turned ten, with five younger siblings, I became the big sister. Grandma started teaching me how to shop and cook—how to pick the best chicken, the fattest duck, the freshest vegetables.
At home, Grandma wore black satin pants and a white silk blouse, with a velvet scarf on her head. When going out, she wore a brown áo dài embroidered with tiny yellow daisies. She loved magnolias and never wore makeup—just tucked a fresh magnolia flower into her scarf when going to the temple or leaving the house.
In 1965, my father was transferred to Thủ Đức, and we were given a lovely house with a big magnolia tree out front, full of blossoms. Grandma was thrilled. After bathing, she’d sit and let us pick her gray hairs, and always tucked a magnolia flower into her scarf when tying it back.
We had a trellis of night-blooming jasmine on the balcony, fragrant at night, but she didn’t like it—said it was too sharp. She loved the soft scent of magnolia. We would ask the gardener to climb up and cut branches for her to offer at the altar.
Thinking of Grandma, I always picture white magnolia blooms. And every time I see or smell a magnolia, I miss her. That year, she passed away… in August, in the autumn, while magnolias still bloomed quietly on the tree.
Now, I’m tending to a magnolia tree of my own. It’s hard to grow here. In winter, I have to wrap it in a shelter to protect it from frost. Each time it blooms, with just a dozen flowers, the fragrance gently drifts and takes me back in time…
And I wonder: One distant day in the future, when the tree is full of blossoms and its sweet scent spreads far and wide—will my dear grandchildren remember their Grandma the way I so tenderly remember mine?
—Đỗ Dung
THƠ TRẦN CÔNG/TIỀN GIANG TỬ: Thu Nhớ Người Đã Khuất
(Thương tặng hiền phụ quá cố Nguyễn Thị Ngọc Sương)
Đang ở nơi nào Em có hay? Một mùa Thu nữa lại về đây Thu trước Em còn xem lá đổ Em đi chẵng đợi đến Thu nầy.
Chiều Thu chạnh nhớ người đã khuất Buồn dâng khóe mắt, mắt cay cay Nhìn chiếc lá vàng bay theo gió Nhớ người khuất bóng cuối chân mây.
Nhiều đêm nghe tiếng mưa trên lá Ngỡ bước chân Em trở về đây Tĩnh giấc, Anh nhìn qua song cửa Ngoài kia chỉ thấy gió lay cây.
Hơn nửa đường đời ta chung sống Nay Anh cô độc tháng năm dài Quãng đường còn lại,Anh một bóng Vui buồn sang sẻ, biết cùng ai.
Thu nầy, Anh nhớ Em Thu trước Thắp nén hương trầm, khói quyện bay Anh gởi nhớ thương vào hương khói Đang ở nơi nào, Em có hay?
Hoa Đô (Lockwood House) Trần Công/Tiền Giang Tử
BÀI SƯU TẦM: Lựa chọn – La Thị Ánh Hường
1.
Đây là lần thứ mấy, nàng quyết định xoá số anh khỏi máy. Lần nào cũng thế, trước khi xóa, nàng lén lút ghi lạị ở một nơi nào đó. Một lần nàng ghi ngay ra bàn phím trong lúc ngồi lướt web, chẳng may, nhân viên của nàng tổng vệ sinh mỗi tuần một lần. Lần thứ hai nàng ghi ra một tờ giấy trên bàn làm việc, lơ đễnh thế nào, trong một lần dọn dẹp, nàng đã nhét hết chúng vào sọt rác. Đúng ra thì nàng thừa biết để ghi vào những nơi cho an toàn, nhưng khổ nỗi đó lại là những nơi mà nàng dễ có được nó. Để trong một lúc nhớ anh, nàng lại dùng những ngón tay mình bấm từng con số…
Điều may mắn nhất cho nàng đó là nàng không nhớ bất cứ con số nào trong đầu.
Lần này nàng quyết tâm để nó trong hộp email. Như thế, nếu muốn có số, ít nhất nàng cũng phải trải qua vài thao tác trước khi lấy được số anh. Biết đâu trong thời gian đó, nàng nghĩ lại, có thể kềm chế được mà bỏ ý định gọi cho anh.
2.
Chiếc xe dừng lại trước một ngọn đồi heo hắt, nhả ra hơn hai chục gương mặt hốc hác sau một ngày ngủ vật vờ trên xe. Ánh đèn đường vàng vọt nghiêng ngả theo bóng người lác đác bên đường. Anh phụ trách chuyến đi người gốc huế, ăn nói nhỏ nhẹ, viết thơ hay và rất chu đáo. Anh ôm đồm xách hết túi to túi nhỏ cho đám con gái. Tất cả đều mệt mỏi sau hơn mười tiếng ngồi xe. Nàng cố mở mắt to, nhìn quanh quất chỉ thấy toàn núi đồi. Không phân biệt được cảm giác yên tâm hay lo lắng khi mà ở nơi đây, nàng không thể mở email được để lấy số điện thoại, phòng khi nỗi nhớ anh ập về…
Ở chung phòng nàng là một chị nhạc sĩ, rất trẻ. Nàng biết chị hôm dự lễ trao giải “nhạc sĩ có nhiều bài hát phổ từ thơ trong năm”. Chị khó mà biết đến nàng chỉ với vài truyện ngắn xuất hiện rất mỏng. Và chị càng không biết nàng có mặt trong chuyến đi này chỉ vì nhờ chút tình cảm than thiết với anh trưởng đoàn, và nàng muốn trốn chạy khỏi thành phố này, nơi có anh, chứ hoàn toàn không nằm trong “những cây viết trẻ nổi bật trong năm” như báo chí đưa tin.
Đêm cao nguyên lạnh. Trong vòng tròn được sưởi ấm bằng đám củi khô dòn. Nàng ngồi ể oải như muốn dựa hẳn vào chị. Chiếc áo len cổ cao không ngăn nổi cái lạnh của núi đồi. Chẳng mấy chốc, tay nàng tê cứng. Chị giật mình khi chạm phải tay nàng. Bàn tay chị đan lấy tay nàng. Lúc đầu, như một phản xạ, nàng rụt tay lại rất nhanh. Anh từng trì chiết nàng chỉ vì một lần, nhìn thấy nàng để cô bạn vòng tay ôm ngang lưng nàng khi đi xe máy trên đường. Nàng cảm thấy khó chịu, và sợ khi phải giải thích những chuyện vớ vẩn như thế, nên – dù chẳng có lỗi gì – nàng vẫn ý tứ hơn trong mọi hành vi của mình, nhất là khi có anh. Chị chưa kịp nhận ra thái độ của nàng, vẫn hồn nhiên: “Như thế này sẽ bớt lạnh hơn đấy nhỏ!”. Nàng nhẹ gật đầu.
Anh trưởng đoàn lần lượt giới thiệu người trong đoàn với chủ nhà – vị chủ tịch hội văn học tại đây – hầu như ông chỉ cười khề khà, hiền lành nhìn mọi người. Hiền như cái nhìn của anh khi nhìn nàng lần đầu trong một buổi hội thảo về lãnh vực xuất bản. Cái nhìn xoáy sâu, ấm áp lạ kỳ, đủ để nàng tin rằng đấy là người đàn ông của mình, thuộc về mình. Trong đời, không biết nàng có từng gặp lại một cái nhìn nào ấm áp như thế không? Nhưng chắc chắn nàng sẽ lấy chồng và chắc chắn đó không phải là anh.
Nàng giật mình trong tiếng gọi của anh trưởng đoàn, hình như anh đang nhắc về một tác phẩm nào đó của nàng in trong thời gian gần đây, với mọi người. Nàng hơi bất lịch sự khi không mấy tập trung vô buổi giao lưu tối nay, chủ yếu cũng đọc thơ và hát hò. Dưới ánh lửa, có tiếng hát nho nhỏ bài Trăng sơn cước “lòng còn hoài mơ một đêm. Điệu nhạc rền vang rừng thẳm. Rượu cần càng vui càng uống…”
.
Bình rượu cần cạn dần. Trước lúc chia tay để về phòng nghỉ, một cô bé dáng người nhỏ nhắn tiến đến phía nàng, giọng cô ta nhẹ: “Em là Hân, sống tại vùng này, các chị cần gì cứ nói với em nhé!”. Chị quay sang nhìn nàng, ý dò hỏi. Nàng lắc đầu. Nhất định nàng sẽ không hỏi bất cứ ai câu “Nơi này có internet không?”.
Chị nhạc sĩ quả là người bận rộn, điện thoại chị không ngừng có tín hiệu gọi đến. Nàng để ý, cứ khoảng năm cuộc gọi thì trong đó, có ba cuộc chị mở đầu bằng câu: “Em đây!” – mặt chị có vẻ giãn ra. Câu chuyện hình như có cả nàng trong ấy, khi thì “Em đang chuẩn bị ngủ, hai chị em thôi ạ, bé kia viết văn”, khi khác lại “Tụi em vừa mới đi cà phê về, đông vui lắm ạ!”, “Bàn chân em nay sưng lên rồi…”…v…v… Chẳng hiểu sao, đầu nàng bắt đầu căng ra, như chờ trực vào một cớ gì đấy để nổ tung. Nàng muốn gào lên trước khi nó vỡ ra thành từng mãnh nhỏ.
Nàng nghĩ, nếu mình kể những chuyện như thế cho anh nghe, liệu anh có thôi không soi mói, hạch hỏi. Một lần duy nhất, khi anh nhắn tin hỏi, biết anh hay ghen nên nàng nói dối anh đang học khi thực tế đang ngồi cùng xe một anh bạn học trên đường về nhà – nàng không hề hay biết anh đang chạy theo sau nàng. Mất lòng tin. Anh càng trở nên gắt gỏng “Anh chỉ cần em nói thật, dù có xấu xa mấy anh cũng bỏ qua!”. Thêm một lần nhẹ dạ, khi mà nàng gọi cho anh báo “Tối nay em đi ăn liên hoan với lớp. Anh đi ăn một mình nhé!”. Khi ấy, anh đã nói gì nhỉ, đại khái là em cứ đi với người khác, khi nào cô đơn, buồn chán thì về với anh… Bằng một giọng rất mỉa mai đến khó chịu, chẳng giống như những người yêu và hiểu nhau.
Bên góc cửa sổ, chị nhạc sĩ vẫn say sưa kể từng chi tiết cho đầu dây bên kia nghe. Nàng chưa từng được như thế! Nàng lan man nghĩ, nếu giờ nàng thủ thỉ kể với anh: “Chuyến đi vui lắm ạ, anh trưởng đoàn chu đáo và mọi người đều hòa đồng, thân thiện”. Anh sẽ liên tưởng đến một gã con trai mà nàng gọi ngọt ngào là “anh trưởng đoàn”, gã ấy suốt ngày bám theo nàng để tán tỉnh, có khi còn lợi dụng nắm bàn tay nõn nà của nàng giữa vùng đồi núi heo hắt, sau đó anh còn nghĩ gì nữa, chỉ biết anh kết thúc bằng câu khiến nàng bật khóc vì bị xúc phạm: “em làm gì chỉ có em biết thôi!”.
Nàng cho là xúc phạm, quá xúc phạm. Thế là thôi, nàng không bao giờ kể với anh nghe về những chuyến đi, về những mối quan hệ nghiêm túc từng bị anh bóp méo một cách vô chứng cớ. Bây giờ thì nàng thấy căng thẳng thật sự. Nàng vùi đầu trong mền trước khi nhận ra bên ngoài màn đêm đã loãng dần. Chắc sương đang rơi nhiều lắm!
3.
Anh trưởng đoàn gõ cửa, nói vọng vào “Dậy thôi, sao nướng kỹ thế!”. Nàng choàng tỉnh, thấy chị gác một chân lên người nàng, thở đều. Bao giờ ngủ dậy nàng cũng nghĩ: giá như đây là một ngày mới thì thật tuyệt!
Sẽ là một ngày mới nếu như điện thoại chị nhạc sĩ không tiếp tục ngân lên, một điệu nhạc mà với nàng đã trở nên quen thuộc sau vài ngày ở chung.
“Anh ạ, hôm nay thời tiết cực đẹp. Tụi em đến nhà già làng của Bản Đôn từ sáng. Ở đây thật tuyệt, khung cảnh núi đồi đúng như trong bức tranh anh vẽ tặng em ấy! Không ngờ có ngày em được “hưởng thụ” trong không gian lý tưởng như thế này! Nhìn kỹ em mới phát hiện ra trong đoàn toàn là những nam thanh, nữ tú. Họ rất trẻ trung và năng động, trái với hình ảnh người viết văn chỉ ngồi “bị động” trên bàn máy như anh nghĩ nhé! À, mà tối nay đoàn sẽ ngủ đêm tại nhà Rông của Buôn làng này. Chắc thú vị anh nhỉ?”. Một lần, nàng cũng kể cho anh nghe như thế, đến đoạn “tụi em sẽ ngủ lại đêm tại…” thì đầu dây bên kia anh la lên đầy sửng sốt: “Trời ơi! Thật là lố nhăng, thế mà em bảo là nghiêm túc đấy à?”. Sau đó anh lại kết thúc bằng câu “Em làm gì chỉ có mình em biết chứ sao anh biết!”. Nàng tắt máy và hẳn sẽ khóc một mình ở nơi nào đấy.
Buổi tối, anh trưởng đoàn đưa cho nàng mấy túyp chống muỗi dạng kem, giọng vui: “Dành cho mấy em nữ. Ở đây muỗi rất hiếu khách đấy nhé!”. Nàng lại nghĩ về anh, nếu anh có mặt trong chuyến đi này thì sao nhỉ? Thay vì đưa kem chống muỗi và yên tâm để nàng ngắm trăng sao, hít thở màn đêm tịch liêu của núi đồi, anh sẽ mua hẳn cái mùng, nhốt nàng vào ấy và đe câu quen thuộc: “Sức khỏe em quan trọng hay viết văn quan trọng, em nói đi?”. Khi ấy, nàng lại tìm một nơi nào đó để khóc, một mình…
Bốn năm quen nhau, có đến ba năm nàng chịu đựng như một kẻ nhu nhược. Nàng an ủi mình rằng, có khi tình yêu chỉ là thứ cảm xúc mà họ còn nuôi dưỡng được. Nàng sống vị tha đến chán ghét. Hay do cảm xúc tình yêu thưở ban đầu anh dành cho nàng quá lớn, đủ để nàng nuôi dưỡng nó tồn tại trong ba năm tiếp theo. Giờ thì sao? Mới hôm qua thôi nàng còn nhớ anh – trong – cảm – xúc – của – thưở – ban – đầu như thế nào. Cái thời mà nàng hạnh phúc khi có anh. Anh nhẹ nhàng bước vào cuộc đời nàng như một chuyện hiển nhiên phải thế. Anh tham gia vào cuộc sống mà từ lâu nàng đã quen với sự một mình; một mình ăn, một mình ngủ, một mình trên đường, một mình đi du lịch… Nàng đã thích nghi ngay với sự có anh mà không chút luyến lưu những thứ đã tưởng thuộc về thói quen. Giờ đây, có thật là nàng lại thích nghi với sự một mình mà không hề nuối tiếc???
4.
Nàng đã về lại thành phố sau một tuần dự Trại sáng tác. Trước khi chia tay, anh trưởng đoàn nhắn nhủ: “Nhớ ghi lại những cảm xúc trong chuyến đi nhé! Cho dù không viết thành cái truyện thì cũng sẽ giúp ích cho em trong một chi tiết nào đấy trong truyện sau này!”. Nàng gật đầu. Từ lâu, những lời anh nói luôn là rất chí lý với nàng. Có thể, nàng chẳng thể viết thành cái truyện như anh nói thật, nhưng ít ra, nàng vượt qua được chính mình đó là: không cuống cuồng mở mail để lấy số anh. Mà không đúng, biết đâu do nơi ấy không có điều kiện để nàng có thể nên net? Mà sao nàng lại tự bào chữa cho mình ở những chuyện không đâu thế này?
Chị nhạc sĩ nắm tay nàng thân thiện: “Sẽ gặp lại em trong một ngày gần để café nhé!”. Nàng gật đầu, cười đùa: “Nhất định, vì em nghiện tiếng chuông điện thoại của chị mất rồi. À, mà anh chị khi nào cưới thế?”. Chị nhạc sĩ cười hạnh phúc “Tụi chị cưới nhau ba năm rồi em ạ!”, chị nói và lên xe một người đàn ông, để lại cái vẫy tay và ánh nhìn của người đang hạnh phúc.
Nàng lại lan man nghĩ, nếu anh và nàng cưới nhau, liệu nàng còn có được những chuyến đi như thế này không, hay anh lại bắt nàng phải lựa chọn bằng câu “gia đình quan trọng hay Trại sáng tác quan trọng, em nói đi!”. Bất giác nàng rùng mình mà chẳng hiểu vì gì.
Tối đó, nàng mở mail và bình thản click chuột vào cả hai mail gửi và nhận, chọn Delete, trong tích tắc số điện thoại của anh vĩnh viễn không còn tồn tại trong cuộc đời nàng, giống như anh.–
La Thị Ánh Hường
BÀI TỪ THÂN HỮU – SƯƠNG LAM: “MỘT CÕI THIỀN NHÀN”
Bạn Thật – Bạn Ảo – Bạn Thân – Bạn Quen
Đây là bài số bảy trăm bảy mươi hai (772) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ ORTB
Trong cuộc sống, chúng ta có rất nhiều người quen, nhưng bạn thì rất ít. Có sự khác nhau giữa bạn và người quen.
Người quen là người mà ta biết tên, ta gặp gỡ hàng ngày, có vài điểm tương đồng với ta và ta cảm thấy thoải mái khi trò chuyện với họ.
Nhưng họ là người mà ta không thể chia sẻ cuộc sống của mình, đôi khi ta không thể hiểu được cuộc sống của họ, bởi vì ta chưa hiểu về họ.
Còn bạn thân là người mà ta yêu quý, luôn nghĩ về họ. Bạn thân là người mà ta cảm thấy an toàn khi ở bên cạnh họ, vì họ luôn biết quan tâm, chăm sóc ta. Khi ta có niềm vui hay nỗi buồn, thì bạn là người mà ta muốn chia sẻ.
Bạn là người mà không bao giờ cười vào nỗi đau của ta. Nếu bạn làm ta đau khổ, họ sẽ cố gắng tìm mọi cách để làm lành vết thương đó.
Bạn là người kéo ta ra khỏi những lỗi lầm và giúp ta trở thành người tốt. Là người luôn nắm chặt bàn tay ta, luôn theo dõi từng bước đi củ ta.
Trong cuộc sống, chúng ta có rất nhiều người quen, nhưng bạn thì rất ít. Vì vậy, hãy cố gắng tìm ra những người bạn thực sự tốt với mình.
Trong cuộc sống thường nhật, chúng ta thường nghe nói đến bạn đạo, bạn tri âm, bạn tri kỷ, bạn sơ giao, bạn cố tri, bạn vàng, bạn đời, bạn đường, bạn lòng, bạn trăm năm, bạn vàng, bạn nối khố, bạn chiến đấu, bạn lý tưởng, bạn văn nghệ, bạn thơ văn, bạn đọc v..v..
Khi bạn cần một người để sưởi ấm trái tim tình cảm của mình, bạn thích “tìm bạn bốn phương” qua sự trung gian của báo chí, của các dịch vụ phụ trách việc kết bạn cho bạn với một lệ phí nho nhỏ.
Gần đây, nhờ sự phát triển của kỷ thuật điện toán, quý vị nào thích dạo trên mạng lưới toàn cầu để tìm bạn để đấu hót, để học hỏi, để chia sẻ tâm tình thì bạn sẽ có thêm những người “bạn ảo” trong cõi ảo “internet” mịt mù nữa. Bây giờ có nhiều người tham gia vào mạng lưới xã hội Facebook, Tik Tok, Instagram …. để kết thêm bạn, đa số là những người trẻ. Riêng người viết, thật là “nhà quê” vì không tham gia vào các mạng lưới này. Tôi vẫn còn e ngại sẽ vướng bận thêm những điều phiền toái khác, mặc dầu đã được mời gọi tham gia nhiều lần. Người xưa thường bảo “lắm đa mang, nhiều phiền não” là thế. Chúng ta bớt được chuyện nào hay chuyện đó.
Theo Thánh Kinh, Thượng Đế khi thấy ông Adam sống cô độc một mình buồn quá nên Ngài bèn lấy cái xương sườn của ông Adam mà tạo ra bà Eva để ông Adam có bạn chuyện trò cho vui.
Như vậy, có thể kết luận: Bạn là một thực thể rất cần thiết trong đời sống con người, phải không Bạn?
Thật tình mà nói, với cái tánh “thích xã giao” của tôi, tôi có rất nhiều bạn thật và bạn ảo. Đó có thể là bạn đồng môn, bạn văn nghệ, bạn làm việc xã hội, cộng đồng v….v… Nhưng người bạn
thân thật mà tôi tin tưởng để tâm tình đếm chưa đầy 5 ngón tay vì không phải ai cũng cảm thông tâm tình của tôi. và chắc bạn cũng thế. Tình bạn kiểu Bá Nha Tử Kỳ ngày xưa chắc cũng khó kiếm trong cuộc sống hiện tại. Bạn đồng ý chứ!
Cách đây mấy ngày, một người bạn ảo văn nghệ đã chuyển chia sẻ tài liệu “”Khác nhau giữa …Bạn và Bè”. Tôi đọc xong thấy cũng hay hay, xin được chuyển tiếp đến quý bạn hữu nhé.
Mời bạn đọc cùng tôi.
Khác nhau giữa …Bạn và Bè.
Hai từ “Bạn bè” người đời hay dùng để gọi những người mà chúng ta quen biết. Nhưng tại sao người ta không dùng một chữ bạn thôi, mà lại phải dùng thêm chữ bè? Vì trong số những người chúng ta gọi là bạn, chắc chắn phải có một ít người chỉ là bè.
Vậy bạn và bè khác nhau ở chỗ nào?
Bạn là để cùng nhau chia sẻ vui buồn. Bè là để vui, để ăn, để nhậu.
Bạn là để nâng đỡ và động viên nhau trong cuộc sống. Bè sẽ quay lưng bỏ đi khi ta gặp khó khăn.
Bạn sẽ thường xuyên hỏi thăm và quan tâm. Bè chỉ gọi để rủ rê đi chơi, đi quậy phá.
Bạn không bao giờ xúc phạm, nói xấu hay bán đứng ta. Bè thì khi vui sẽ không sao, nhưng khi buồn sẽ đâm thọc sau lưng ta.
Bạn sẽ chửi vào mặt ta khi ta sai. Bè sẽ luôn khen ta đúng trong khi ta… sai bét.
Bạn sẽ không xa mặt, cách lòng. Bè khi đi xa sẽ chẳng còn biết ta là ai nữa.
Bạn sẽ luôn nhớ đến ta khi họ vinh quang. Bè sẽ cắt đứt liên lạc vì sợ ta nhờ vả.
Bạn sẽ đứng cạnh ta khi tất cả mọi người quay lưng. Bè sẽ tránh xa khi ta xuống dốc.
Bạn thì hạt muối chia đôi. Bè thì cục đường… lũm hết!
Một người BẠN đích thực sẽ có giá trị gấp hơn 1.000 lần BÈ.
Vì vậy, hãy trân quý BẠN mà buông bớt những BÈ, vì đó là cách duy nhất để bạn không lãng phí thời gian của mình và tránh những phiền não không cần thiết trong cuộc sống!
ST
( Nguồn: Email bạn gửi. Cảm ơn mynga b)
Mèn ơi, nói chuyện về Bạn thì đã có rất nhiều danh nhân trí giả đã để lại nhiều “lời hay ý đẹp” liên quan đến hai chữ “Tình Bạn” này.
Danh ngôn Đông Phương đã có những câu như sau:
“Tứ hải giai huynh đệ”
Khổng tử
“Người chê ta mà chê phải là thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, người nịnh hót ta là kẻ hại ta”
Tuân Tử
“Có ba hạng bạn hữu ích: Bạn ngay thẳng, bạn thật thà, bạn học vấn uyên thâm”
Nho Giáo
“Không phải tất cả những người cười với anh đều là bạn, cũng không phải tất cả những người làm anh bực mình đều là kẻ thù của anh”
Ngạn ngữ Mông Cổ
Danh ngôn Tây Phương đã có những câu như sau:
“Hãy cho biết anh giao du với những ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là người thế nào”
Cervantes
“Tôi yêu những gì đã cũ: bạn cố tri, thời gian xa xưa, nếp sống cũ, sách cũ, rượu lâu năm”
Goldsmith
“Tình bạn làm niềm vui tăng gấp đôi và nỗi khổ giảm đi một nửa”
Francis Bacon
“Cách duy nhất để giữ bạn bè là không bao giờ mắc nợ họ một tì gì và cũng chẳng bao giờ để họ mắc nợ mình một tí gì”.
Paul De Kock
Xin chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.
(Nguồn: tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi-MCTN 772-ORTB 1202-7272025) Sương Lam
KIỀU MỸ DUYÊN – NHÀ THỜ SALOONG ĐANG XÂY DỞ DANG Ở RỪNG NÚI KONTUM
KIỀU MỸ DUYÊN – Chương Trình CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA.
CAO MỴ NHÂN – VĂN: 2 Truyện Ngắn Và CHÙM THƠ CAO MỴ NHÂN.
**
CHUYỆN HÔM KIA. CAO MỴ NHÂN
*
Chuyện hôm qua đã cũ rồi, nên “Chuyện hôm kia” còn cũ rích hơn nữa.
Anh đang mỉm cười xem thử mình định nói gì ?
Có gì đâu mà …nỏi chớ, đó là một cụm từ, tưởng giống như một chùm hoa trong bài thơ ” Chiêm bao” của thi sĩ Bùi Giáng .
Anh lặng người đi một thoáng, anh biết lúc này mình đang buồn lắm, anh có thể khiến mình vui tức khắc, nhưng anh vẫn không làm.
Tại sao thế?
Người ta rất thương một tha nhân hấp hối, có thuốc cứu sẵn trong tay, nhưng vẫn nhất định không đưa cho kẻ hấp hối đó uống.
Vì nếu kẻ hấp hối đó sống lại, tha nhân đó sẽ biến thành thân nhân của vị đại phu ngay.
Nên đã quyết liệt thề, là cùng thiên nhiên bỏ mặc khách hấp hối bên trời, nếu Thượng Đế cho người hấp hối đó sống, thì được sống, mà nếu không tự lực được, như cánh chim không vươn lên nổi, phải tan ra thành cát bụi vô thường…
Thì cũng đành thôi…
Anh, chẳng lẽ anh lại ” tàn bạo ” thế sao ?
Anh trầm tư, rồi ung dung trả lời: ” sao không bảo là tôi ác, còn cố tránh tiếng ” ác ” này ? Có phải vì quá đắm say tôi đó không?”
Tại sao anh cứ đọc được ý nghĩ của mình, tôi phải nghe trọn một ngày những bài thơ của Bùi Giáng, do đủ các thành phần các giới trong nước bàn soạn,tán tụng ông thi sĩ cuồng chữ này.
Khởi sự, nhà thơ họ Bùi chỉ gàn bướng, khinh khi thế nhân, trong phạm vi khả năng khiêm tốn nhất, là ” điên ” cho thiên hạ khỏi thắc mắc.
Người ta có thể điên theo mức độ bất như ý của mình …
Điên vì thời cuộc, vì danh dự, vì tự ái, vì bị áp bức, ganh ghét, xấu hổ, mất mát, ân hận…vv…
Chắc tôi có thể bị điên vì mức độ nhẹ nhất trong những lý do nêu trên, vì mất mát và ân hận.
Anh thở dài: ” có thể chỉ vì ân hận thôi, nhưng trong tâm tư vẫn như vương vấn một điều là tiếc nuối phải không ?
Lại hình như đúng quá. Song nếu chờ anh đưa linh đan cho uống, thì, có lẽ mình đã ở đỉnh tháp ngàn thương rồi.
Do đó cả 2 người : anh và mình, phải đào huyệt chôn cất cuộc tình buồn…
Ngắm mộ tình bơ vơ trong nỗi sầu tư thơ Bùi Giáng kể lại “chuyện hôm kia “, mình đành tự bạch với thinh không, và thấm nhuần tư tưởng hư vô ngay khi mình đang có tất cả .
Thế nhưng, mình có thể tìm anh trong nỗi nhớ, ấy là mình tiết lộ cho anh hay:
Thực ra, riêng bài thơ Chiêm Bao của thi sĩ Bùi Giáng, có cái tên tức cười lắm : ” Tặng Lyn Rô “, tức là ông nhà thơ cuồng chữ đó tặng Nữ tài tử điện ảnh Mỹ Marilyn Monroe từ năm 1962 lận .
Sao anh không cười vậy ? Này nhé :
Màu xuân trắng mơ màng pha in mặt
Khắp môi hường nhắc lại chuyện hôm kia
( Lyn Rô. Bùi Giáng 1962 )
Anh không cười, nhưng cũng không trách mình sao hoang phí thời gian, thay vì mình học thêm computer, English …để không la hoảng lên mỗi lần Ipad lung tung xoè, mà nay không hỏi được anh, vì đang bị cấm vận IPhone .
Ca tụng một ngôi sao rực rỡ, nữ tài tử da trắng xoá, mà thép bút vẫn không xa nghiên mực cổ thư:
Màu tô tỉnh sáng bừng tờ phương cảo
Đã từng soi bóng nguyệt lạc tin hoa
Giờ bất tuyệt giậy ngần trong thủy thảo
Dừng âm thanh ngoài cõi sóng thu loà
( Lyn Rô – Bùi Giáng )
Có phải quan võ đang ” hỡi ôi”, nghĩ rằng có thể người đang kể chuyện này, cũng may ra chỉ hiểu một phần nào ý thơ Bùi Giáng, còn thì cứ Ma Ma, Phật Phật …trong đầu thôi .
Đúng vậy, nhất là đoạn thơ tiếp :
Thành đất quạnh vàng rêu mưa thấm liễu
Nẻo Thương lương làn sóng động đêm ngà
Vừng phơ phất loà xoà em có chịu
Giục Đào Nguyên anh ngó hẳm Liêm Hà
( Lyn Rô – Bùi Giáng )
Bao nhiêu đấy, đủ rồi câu “chuyện hôm kia” của thi sĩ Bùi Giáng, thành cặp vấn đáp :
Hỏi người quê ở nơi đâu ?
Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà ! ( Bùi Giáng )
Một học giả uyên bác thế, mà vẫn đơn sơ, mộc mạc, chân chất, nhưng có chút ưu phiền, nên cuộc chia tay chỗ ông đến chơi một vài ngày, như trong thơ tặng Lyn Rô, đã kết thúc thật cảm động:
“Ồ ly biệt tơi bời bờ lảo đảo
Em ra đi, đời bưng mặt khóc oà …” ( Bùi Giáng )
Anh thở dài thực sự rồi, anh đang thương cảm Bùi Giáng , bậc hiền triết tài hoa.
Vị thi sĩ này rất hiền, rất triết, không khổ tâm, không chán ghét đời…
Thi sĩ Bùi Giáng đã đạt tới đỉnh điểm của hư vô, sao mình không có được một chút nhỏ an nhiên tự tại ?
Chẳng lẽ lại nói rằng: anh đang là mặt bằng suy tưởng, là vị thần xúc cảm của mình mà lâu nay mình vẫn tôn thờ…
Nhưng mình phải bình thản hơn nữa, để căn bệnh bồn chồn lo lắng không trầm kha thêm.
Hình như anh gật đầu ….
Có phải anh đang gác kiếm, để luyện linh đan cho mình dưỡng khí, dưỡng chí …không ?
Để anh sẽ từ thật xa, xa lắm, thổi luồng gió mát phương nam tới, cho hoa lá quanh mình hồi sinh .
Thế thì, mình bắt chước thi sĩ Bùi Giáng, viết thử :
Hỏi mình khổ não vì đâu
Xin thưa chính tại xưa, sau một người
Nên chi cứ giữ nụ cười
Mai kia tái ngộ vạn lời bâng quơ… ( thơ CMN ).
CAO MỴ NHÂN
**
CUNG KIẾM NHỚ. CAO MỴ NHÂN
Trời đang giữa hạ mà sao lòng mình cứ ẩm ướt như sắp sửa vào thu .
Ngó lên bầu trời xanh, những đám mây trắng đứng lại ngoài cửa sổ lớn, bên hông căn phòng của mình.
Buổi trưa khô ráo, nhưng mát mẻ lạ lùng …
Anh đang ở đâu rồi? Giờ này thì nhất định đang ngồi trên chiếc tàu, bay về hướng đông .
Anh lúc nào cũng quay lưng lại mặt trời …người ta bảo nếu không phải vô tình, thì anh là một cánh chim đi trốn …hiện tại .
Anh đừng có bĩu môi chê bai nhé, vì mặt trời biểu hiện cho hiện tại, chúng ta phải nhiệt tình với hiện tại, đưa tay ôm lấy mặt trời, để cái hiện tại này không bị bôi xoá bởi thời gian .
Nói thì ” trạng ” thế, chứ thực tình mình cũng không muốn mặt trời đổ nắng chan hoà xuống cái nơi, mà mỗi ngày mình nhớ anh ít nhất một lần…
Nghĩ tới đây, mình thấy như …hờn anh quá . Mình chẳng bao giờ giận anh cả, còn hờn anh là vì không chịu tin anh, trong lúc anh rất thành thật .
Anh với mình lại đang trong tình trạng không là gì của nhau, nhưng vẫn cứ như là không thể vắng nhau được một ngày .
Mình thử quên anh một buổi xem thế nào, thì chính mình lại kiếm cách đi tìm anh, như người vô rừng đi tìm ” trầm “, mà không dám ngậm ngải .
Tại sao anh không biết điều đó nhỉ ?
Lầm rồi, chẳng những anh biết như mình nghĩ, mà còn biết rõ hơn mình nghĩ nữa. Ôi , thời gian quý hoá này, như đã xế trưa, sang chiều, có lẽ nào anh với mình đuổi bắt một cánh chim lạc trong mây ?
Sáng nay, mình đã nghe chỉ một trường ca ” Hòn vọng phu ” của nhạc sĩ Lê Thương, do người ca sĩ gốc Quảng Trị trình bày .
Nghe 2 tiếng đồng hồ luôn, tưởng là mình sắp hoá đá.
Chẳng lẽ mình ” thân kính ” anh đến độ nghĩ anh là chinh phu của mình, dẫu đó chỉ là chinh phu trên sân khấu kịch đời, mà mình lại là diễn viên khổ lụy nhất.
Không thoát ra được vai diễn, đành phải sống với mộng mơ, hư huyễn vậy thôi.
Phía chân mây xa kia, mây trắng cứ mịt mù như hàng trăm ngàn cuộn khói bốc lên, thấy hình như có một cánh chim mầu sáng bạc đang mải miết bay …
Nỗi hờn giận, hơi giận thôi, vừa xẫm mầu chiều lệch, bỗng tan ra thành những sợi tơ mềm vương vấn hồn thơ, giọng anh quyện chặt lấy cái IPhone của mình, anh đã tới nơi anh hẹn đến .
Ngày mai, tiếng trống khai quân sẽ vang lên ở phương trời viễn mộng, lòng anh sẽ nôn nao mênh mang, hồn anh sẽ mở rộng tới chân trời …
Chắc chắn vậy rồi, những hội ngộ của một thời lửa đạn xa xăm, mà ai cũng biết là chỉ còn trong ký ức .
Anh cứ sống thật với đời anh đi, lúc này, vì đã sống thật nơi quá khứ, để không phải nuối tiếc ở ngày mai, lỡ chẳng còn dịp gặp nhau …
” Quan với quân lên đường, đoàn ngựa xe cuối cùng…” chao ôi, đẹp quá, ngọn cờ vàng phấp phới trong không gian …dẫn đầu hành trình đó .
Ông nhạc sĩ Lê Thương tác giả bài nêu trên, hiện diện trong cuộc đời trước thế hệ chúng tôi .
Khi ông đứng trước mặt tôi vào một năm cuối thập niên 80 thế kỷ trước, ở Câu Lạc Bộ Dưỡng Sinh Viện Y Dược Học Dân Tộc Saigon xưa, thành phố đã bị đổi tên, tôi thưa là: ” trường ca Hòn Vọng Phu nhạc sĩ đưa nhiều địa danh VN vào huyền thoại, nhưng vẫn có Thiên San, Man Khê vv …trong thi thoại đó, thành người nghe vẫn mang cảm xúc mơ hồ ,cổ điển …
Thời gian đó tôi đang làm Huấn luyện viên Dưỡng Sinh kiêm phụ trách chương trình văn nghệ Câu Lạc Bộ DS, nên nhạc sĩ tác giả Hòn Vọng Phu xuất hiện như hình ảnh một lão phu, mang truyền thuyết sử ca …
Tuy nhiên, thế hệ anh và các chiến hữu anh, những chàng chinh phu thiệt thọ, khi quan với quân lên đường, không cần phải trường đình, tửu quán …mới tác động tinh thần kẻ ở, vì những người đi năm ấy, rồi năm ấy vv…đã mỗi người là một trang sử sáng chói trên nền Cộng Hoà rực rỡ ở bên này sông Bến Hải rồi .
Vì thế cho nên, những ngày xa xứ của thế hệ lưu vong chúng ta hôm nay, còn mãi hận thù khi kể chuyện …ngàn năm, dù ngàn năm khác sẽ qua …
Phải gặp nhau ở những đại hội thao trường, mới vuốt ve được nỗi sầu quyết tử, hun đúc chí anh hùng …một thời đã yêu cung kiếm nào xưa, để hoài tiếc nhớ ngày nay…
Anh “Thân Kính ” , chúc anh cùng quý ông hăng say, nhiệt thành nơi đại hội huynh đệ chi binh, cùng thương mãi …nghiệp lính dở dang của chúng mình …
CAO MỴ NHÂN
****
CHÙM THƠ CAO MỴ NHÂN
ÁNH HÀO QUANG. CAO MỴ NHÂN
Em giống loài thiêu thân
Mê si anh thật gần
Rất cần như ánh sáng
Đang rực rỡ tình xuân
*
Anh có là hào quang
Hay lân tinh mơ màng
Tóc tơ em ướt rối
Khóc cuộc tình dở dang
*
Người yêu dấu xa xưa
Hay tình nhân bây giờ
Hỡi người anh thân quý
Bóng đèn hiu hắt mưa
*
Trong vũng nước hào quang
Một lần thôi bẽ bàng
Hồn thơ em say đắm
Cánh sầu rơi mênh mang …
*
Hawthorne 22 – 7 – 2025
CAO MỴ NHÂN
*
ĐƯỜNG THÁNH CHIẾN. CAO MỴ NHÂN
Đó là đạo “ Tình Yêu “
Tuy ngó chung một chiều
Anh với em thánh chiến
Không rao giảng tín điều
*
Anh giành ngôi Giáo chủ
Ban phát khắp thế gian
Hiến dâng phù sinh đạo
Cho tất cả giai nhân
*
Đứng trên bờ ma giáo
Lằn ranh hú chính, tà
Trái tim sa chú nguyện
Lời mật tông quá đà
*
Thần sầu, quỷ khốc ơi
Thiêu đốt cả mặt trời
Lửa càn khôn cháy đỏ
Anh Vĩnh Cửu tuyệt vời …
*
Rancho Palos Verdes 8 – 7 – 2025
CAO MỴ NHÂN
*
CHUYỆN NHÀ THƠ. CAO MỴ NHÂN
Anh nói với em rằng:
” Nếu không làm được một bài thơ hay
Thì chẳng bao giờ nên nhân danh Thi Sĩ “
Em mắc cở quay đi …
*
Bài thơ hay phải viết thế nào
Các thi sĩ chưa từng hỏi : ” làm sao ? “
” Làm sao ư, chỉ là tưởng tượng
Một bài thơ trong ý nghĩ xôn xao…”
*
Đã có người hỏi Thi Sĩ Tô Thuỳ Yên
” Xin cho biết bài thơ hay nhất của ông ? “
Nhà Thơ tên tuổi ấy lắc đầu ngay:
” Tôi chưa vừa ý bài viết thực sự “
*
Thi Sĩ Thanh Tâm Tuyền tư lự
Mỗi lần ai hỏi về thơ
” Rằng thơ tác giả X đó hay, hay dở ? “
Lặng yên, nói: ” Mỗi thơ một riêng tư “
*
Mùa thu năm 1994, ở Praha Tiệp Khắc
Thi Sĩ Cung Trầm Tưởng suốt đêm nói Thơ
” Này, Thơ là cái Đạo
Tuỳ theo người tôn sùng tôn giáo …vẩn vơ …”
*
Vậy thì, thơ là vu vơ, riêng tư
Đừng đưa ra bàn luận
Hay thích tỏ bày cảm nhận
Hãy ngâm lên, coi thử tha nhân
Rung động hay thản nhiên
CAO MỴ NHÂN
*
BÓNG THỜI GIAN. CAO MỴ NHÂN
*
Vừa thấy bóng thời gian đua ngoài cửa
Tung bụi mù trong khoảnh khắc hoang mê
Đoàn xích thố cuồng phi ngang biển lửa
Nhưng ngựa anh vĩnh viễn quên đường về
*
Người yêu hỡi tháng năm qua lãng đãng
Con đò tình thủa đó trôi lang thang
Sa trường nào xô anh vào dĩ vãng
Để hồn thơ em xa xót điêu tàn
*
Như điệp khúc tuyệt tình ca bất tận
Rượu hoàng hoa thấm ướt đất trời này
Non sông nào gầm lên câu uất hận
Nỗi kinh hoàng khổ lụy tựa cơn say
*
Rồi tất cả biến tan vào hiu quạnh
Những lời câm hoang phế huyễn hư trào
Bầy ngựa chiến ngủ yên ngoài đất lạnh
Thời gian nằm thổn thức khóc chiêm bao…
CAO MỴ NHÂN
*
BẠN VÀ TÔI. – CAO MỴ NHÂN
Lâu nay tôi bạn hiếm khi gần
Lỡ sống in tuồng một … cố nhân
Cạnh biển, nhìn xa : đâu cũng thích
Bên non, ngó cận : đó là thân
Thơ như lũ lụt, càng thương bút
Chữ tưởng hạn khô, mới nợ vần
Hỏi đã bao giờ nghe xúc cảm
Tâm viên ý mã vụt qua sân …
CAO MỴ NHÂN (HNPD)
5 – 7 – 2025
*
NƠI BÁT QUÁI ĐỒ. – CAO MỴ NHÂN
*
Một nửa trăm năm em nhớ anh
Nhưng thôi, nói mãi cũng không đành
Thời gian như mối thù truyền kiếp
Nó khiến mình già cỗi, mỏng manh
*
Tơ tóc ngày xưa hết mượt mà
Tâm tình thì vẫn rộng bao la
Chỉ không êm ả, mà khô khốc
Ngó mãi đâu còn vẻ thướt tha
*
Xuân sắc chưa phai đã nát tan
Bao nhiêu ưu ái bỗng than van
Ô hay chân thực, thành hư huyễn
Duy có điều thương xót chẳng tàn
*
Thế kỷ thường ca tụng vĩ mô
Ôi thôi vạn sự xếp trong mồ
Thế nên tất cả đều an nghỉ
Nơi chốn ngàn thu “ bát quái đồ “
*
Rancho Palos Verdes 12 – 5 – 2025
CAO MỴ NHÂN (HNPD)
18 – 5 – 2025
*
GIÓ THÌ THẦM. CAO MỴ NHÂN
*
Mỗi ngày anh gọi tên em
Một lần, rồi cũng anh quên nhiều lần
Bởi vì danh tính phù vân
Nghe như hơi gió thì thầm bên tai
*
Thôi thì địa ngục, thiên thai
Kêu tên thay tiếng thở dài, thưa anh
Mỗi ngày tình muộn mong manh
Gió lên, mây nổi cuốn thành biển khơi
*
Tháng ngày cõi thế rong chơi
Có anh, nên đất với trời dửng dưng
Hồn chơi vơi giữa núi rừng
Lòng hoang liêu giữa đón mừng, chia phôi
*
Mỗi ngày anh hỡi chung đôi
Mà sao sương khói đơn côi đi về
Thở than hay tự vỗ về
Thiên thai, địa ngục cận kề tình ơi…
*
CAO MỴ NHÂN
*
CHO TÀN TẠ XƯA. CAO MỴ NHÂN
*
Năm năm thêm muộn màng hơn
Vẫn trong song cửa, sao hờn chân mây
Đông tây chất ngất sầu cay
Niềm tin mòn mỏi, tháng ngày triền miên
*
Năm năm xa xót oan khiên
Chén buồn tri kỷ từng phiên dặn dò
Để rồi dang dở hồn thơ
Vừa mong hạnh ngộ, đã chờ quan san
*
Năm năm trúc vọng thở than
Bỏ sông núi lại cho tàn tạ xưa
Bây giờ thời cũng qua trưa
Quyên kêu khản giọng, quốc chưa hẹn về
*
Năm năm buông thả lời thề
Ai mang trống lệnh đặt kề binh đao
Chiêu quân, khai hội chiến hào
Năm năm đã trễ tuyến đầu sử xanh…
Suối Bạc 28 – 11 – 2014
CAO MỴ NHÂN
VTLV CHÚC MỪNG THÀNH VIÊN 103 TUỔI: TRẦN CÔNG – LÃO MÃ SƠN – Được Văn Bút VNHN và VBVNHN VĐBHK Viếng Thăm & Tặng Quà – Vinh Danh Nhân Dịp Tưởng Niệm 50 Năm Văn Học Hải Ngoại.
*
VTLV CHÚC MỪNG VTS TRẦN CÔNG/LÃO MÃ SƠN
*
VĂN THƠ LẠC VIỆT kính xin mừng
Bách Tuế thêm ba đẹp quá chừng
LÃO MÃ SƠN – thơ tràn ngút biển
TRẦN VĂN CÔNG – chữ trải đầy rừng
Thương dân – thuở ấy luôn phò trợ
Giúp nước – ngày xưa cũng đã từng
Guinness chúc người giành kỷ lục
VĂN THƠ LẠC VIỆT tiệc tưng bừng!
Gia đình VTLV kính chúc thọ ANH HAI
Phương Hoa – July 23, 2025
VĂN THI SĨ TRẦN CÔNG – LÃO MÃ SƠN
Cựu Sĩ quan Hiến Binh Quốc Gia.
Cựu Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia VNCH
Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương (Quân sự)
Chương Mỹ Bội Tinh (Hành chánh).
NHỚ ĐỂ MÀ BUỒN
Ngồi buồn nhớ lại chuyện năm xưa
Tôi bỏ quê hương một chiều mưa
Lang thang xứ lạ đời vô định
Buồn tha hương nói mấy cho vừa
*
Năm tháng qua mau trên đất khách
Quê hương bỏ lại mấy thu rồi
Khi ra đi đầu còn xanh tóc
Nay mái đầu đã trắng như vôi
*
Tuổi tôi đã một trăm lẻ mấy
Tuổi càng cao càng nhớ quê hương
Nhớ thật nhiều, nước mắt tuôn rơi
Khóc cho quê nhà (và) khóc cho tôi
Hoa Đô (Lockwood House)
Trần Công – Lão Mã Sơn
KIỀU MỸ DUYÊN – TỊNH XÁ GIÁC LÝ: CHUẨN BỊ TRÙNG TU
VTLV TƯỞNG NIỆM 100 NGÀY ANH CHINH NGUYÊN LÌA TRẦN.
Tưởng Niệm 100 Ngày Cố Chủ Tịch Chinh Nguyên:
Một Buổi Sáng Đầy Xúc Cảm
San Jose, California – Sáng thứ Tư, ngày 16 tháng 7 năm 2025, khoảng 20 thân hữu và thành viên trong Văn Đàn Văn Thơ Lạc Việt đã cùng tụ họp tại tư gia cố Chủ tịch Chinh Nguyên để tham dự buổi lễ tưởng niệm 100 ngày kể từ ngày anh vĩnh viễn ra đi.
Trong không khí trang nghiêm và thấm đượm nghĩa tình, các văn hữu lần lượt phát biểu những lời chia sẻ ngắn gọn nhưng chân thành, đầy xúc động. Hiện diện trong buổi tưởng niệm có các vị: Lê văn Hải (Chủ tịch Văn Thơ Lạc Việt), Bác sĩ Phạm Đức Vượng, Giáo sư Nguyễn Đức Lâm, Ký giả Mạc Phương Đình, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Dũng, Ca sĩ Đồng Thảo, cùng nhiều thân hữu khác.
Mặc dù lời mời của anh Lê Văn Hải, tân Hội trưởng Văn Thơ Lạc Việt, chỉ mới được gửi ra trong vòng 24 giờ, nhưng tình cảm mọi người dành cho cố Chủ tịch Chinh Nguyên đã vượt qua mọi khoảng cách. Rất nhiều anh chị em văn hữu ở xa tuy không thể hiện diện đã nhanh chóng gửi email chia sẻ cảm xúc, bày tỏ lòng thương tiếc và kính trọng đối với người bạn văn khả kính, người đã từng góp mặt và để lại dấu ấn sâu đậm trong sinh hoạt văn học hải ngoại.
Anh Chinh Nguyên không chỉ là một người bạn văn, một người anh tận tụy trong sinh hoạt văn học nghệ thuật hải ngoại, mà còn là một nhà thơ và nhà văn, tác giả của nhiều tác phẩm song ngữ Việt–Anh mang chiều sâu tư tưởng và đậm đà bản sắc dân tộc. Qua ngôn ngữ và tâm huyết, anh đã góp phần nối liền tâm hồn người Việt ly hương và giới thiệu văn hóa Việt đến với bạn đọc khắp nơi trên thế giới.
Một trong những khoảnh khắc khiến nhiều người không khỏi rưng rưng là khi chị Thanh, phu nhân của cố Chủ tịch, nghẹn ngào không cầm được nước mắt trong lúc nói lời cảm tạ đến mọi người hiện diện. Nỗi đau mất mát vẫn còn đó, nhưng tình cảm ấm áp của bằng hữu văn chương là nguồn an ủi quý báu cho gia đình.
Buổi tưởng niệm thêm phần sâu lắng khi thi sĩ Minh Thúy, một thành viên kỳ cựu của Văn Thơ Lạc Việt, đã xúc động xuất khẩu thành thơ, kính viếng người bạn văn khả kính bằng bài thơ:
100 Ngày Cựu Hội Trưởng Chinh Nguyên
Văn Thơ Lạc Việt viếng trăm ngày Kính mến Chinh Nguyên nghĩa trọng đầy Cả hội yêu thương cùng tưởng nhớ Dầu rằng anh đã bước lên mây
Có Thầy, Tiền Bối với anh em Hội trưởng Hải Lê, bạn hữu kèm Thắp nến dâng hương màn khói tỏa Hoa Lan, hoa Cúc trắng xinh mềm
Dung nhan hiền hậu đẹp tâm hồn Anh vẫn bên đời trọng ngữ ngôn Thi Phú bút chương còn để lại Văn Thơ Lạc Việt quyết lưu tồn
Minh Thúy Thành Nội Tháng 7/16/2025
Không dừng lại ở đó, thi sĩ Thái Huy cũng góp mặt bằng một bài thơ đầy suy tưởng mang tựa đề “Niềm Nhớ Dâng Đầy”, tưởng niệm cố thi sĩ Chinh Nguyên:
NIỀM NHỚ DÂNG ĐẦY
Một thoáng vèo bay tợ bóng câu Tròn trăm Trung Chính đã qua cầu Ý xin sớm đạt nơi thiên quốc Lời nguyện mau qua chốn vực sâu Lỗi tội dương trần Cha xóa giải Hồng ân cõi phúc Nguyễn gom thâu Gia đình thân hữu hằng mong vậy Xa đó nhưng lòng chẳng cách đâu.
Thái Huy – 7/16/2025
Đáp lại thâm tình đó, thi sĩ Minh Thúy đã tức cảnh họa lại bài thơ bằng một thi phẩm mang tựa đề “Nhớ Anh Chinh Nguyên”, theo thể họa hoán vận – bốn vần:
Nhớ Anh Chinh Nguyên (họa hoán vận – bốn vần)
Lại đến trăm ngày vụt vó câu Thời gian tựa nước chảy bên cầu Mầm chương mấy thủa hài kho rộng Ý mộng bao mùa thỏa mộ sâu
Nắng rực khung trời chờ Phượng thắm Cây xinh khóm lá đợi Ve sầu Chinh Nguyên ngủ ấm vòng tay Chúa Lạc Việt văn đàn nghĩa đậm thâu.
Minh Thúy Thành Nội Tháng 7/16/2025
Sau phần lễ, mọi người cùng ngồi lại bên nhau, ôn lại những kỷ niệm thân thương với anh Chinh Nguyên — từ những buổi sinh hoạt văn nghệ, những lần ra mắt thơ văn, đến những buổi họp mặt đầy tiếng cười và tinh thần gắn bó.
Cố Chủ tịch Chinh Nguyên, với tâm huyết và những đóng góp bền bỉ, đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong lòng anh chị em văn nghệ sĩ. Sự ra đi của anh là một mất mát lớn, nhưng tình cảm và di sản tinh thần anh để lại vẫn sẽ còn mãi trong lòng những người ở lại.
— Tường trình từ ký giả Mạc Phương Đình
TƯỞNG NIỆM 100 NGÀY ANH CHINH NGUYÊN
*
Hôm nay vừa đúng Trăm Ngày
Chinh Nguyên anh đã chia tay lìa trần
VĂN THƠ LẠC VIỆT họp quần
Nén hương hoa kính muôn phần tiếc thương
*
Từ anh rời cõi vô thường
Những người ở lại tiếp đường anh đi
Văn Thơ Lạc Việt khắc ghi
Chinh Nguyên căn dặn hãy vì quê hương
*
Mặc cho thế sự nhiễu nhương
Văn Hoá Việt Ngữ khuếch trương không ngừng
Hôm nay kỷ niệm tưng bừng
Rằng anh an lạc trên từng mây xanh
*
Cùng nhau nhắc nhở về anh
CHINH NGUYÊN đức trọng tâm lành biết bao
Người rơi lệ kẻ xuyến xao
Nhìn lên đi ảnh dạt dào nhớ thương
*
Ngẫm ra cuộc sống vô thường
Người đi kẻ ở vấn vương tấc lòng
Chúc anh đất Chúa thong dong
Hộ trì LẠC VIỆT tiếp dòng VĂN THƠ…
Phương Hoa – July 16, 2025
100 NGÀY CỰU HỘI TRƯỞNG CHINH NGUYÊN
*
VĂN THƠ LẠC VIỆT viếng trăm ngày
Kính mến CHINH NGUYÊN nghĩa trọng đầy
Cả hội yêu thương cùng tưởng nhớ
Dầu rằng anh đã bước lên mây
*
Có Thầy, Tiền Bối với anh em
Hội trưởng HẢI LÊ, bạn hữu kèm
Thắp nến dâng hương màn khói tỏa
Hoa Lan, hoa Cúc trắng xinh mềm
*
Dung nhang hiền hậu đẹp tâm hồn
Anh vẫn bên đời trọng ngữ ngôn
Thi Phú văn chương còn để lại
VĂN THƠ LẠC VIỆT quyết lưu tồn
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 7/16/2025
*
THƠ ĐƯỜNG XƯỚNG HỌA NHÂN TƯỞNG NIỆM 100 NGÀY ANH CHINH NGUYÊN
*
NIỀM NHỚ DÂNG ĐẦY
Một thoáng vèo bay tợ bóng câu
Tròn trăm Trung Chính đã qua cầu
Ý xin sớm đạt nơi thiên quốc
Lời nguyện mau qua chốn vực sâu
Lỗi tội dương trần Cha xóa giải
Hồng ân cõi phúc Nguyễn gom thâu
Gia đình thân hữu hằng mong vậy
Xa đó nhưng lòng chẳng cách đâu.
Thái Huy 7/16/25
THƠ HỌA
NHỚ ANH CHINH NGUYÊN
(Họa hoán vận – Bốn vần)
Lại đến trăm ngày vụt vó câu
Thời gian tựa nước chảy bên cầu
Mầm chương mấy độ hài kho chất
Ý mộng bao mùa thỏa mộ sâu
Nắng rực khung trời chờ Phượng thắm
Cây xinh khóm lá đợi Ve sầu
CHINH NGUYÊN ngủ ấm vòng tay Chúa
Lạc Việt văn đàn nghĩa đậm thâu.
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 7/16/2025
*
VỜI TRÔNG BÓNG NHẠN
(Họa cùng thi huynh Thái Huy)
Trăm ngày như gió thoảng bờm câu
Chớp mắt từ anh vượt thế cầu
Cố Vấn Văn Thơ lưu nghĩa đậm
Chinh Nguyên Lạc Việt khắc tình sâu
Người đi ái luyến đà buông xả
Kẻ ở thương buồn mãi níu thâu
Vọng tưởng trông vời theo bóng nhạn
Những ngày xưa cũ biết tìm đâu.
Phương Hoa – July 16, 2025
*
KHÔNG ĐỀ
Bóng nguyệt trôi nghiêng vạt gió sầu,
Trăm ngày qua vụt như bóng câu.
Văn gieo vạn chữ hồn thơ cũ,
Ý kết muôn điều mộng bấy lâu.
Phượng thắm đợi ai trong khung nắng,
Ve ngân nhớ bạn đẫm hàng châu.
CHINH NGUYÊN giã bạn về tiên giới,
LẠC VIỆT hồn xưa nối nhịp cầu.
Yên Sơn
THƠ SONG NGỮ – RƯỢU TIỄN: HUYỀN CHI – THANH THANH Chuyển ngữ.
SƯU TẦM – CHUYỆN NGẮN CẢM ĐỘNG: Giấc Mơ Trên Bãi Ngàn Sao – Tác Giả Vương Hà
Giấc Mơ Trên Bãi Ngàn Sao Vương Hà
Posted by GLN Cả bản Phiêng Đao ồn ào, kháo nhau bởi chuyện ông Hom quyết định nhận nuôi bé Nhủm: Con bé thật tội nghiệp, bố mẹ chết vì đi đãi vàng bị sập hầm, họ hàng lại chẳng còn ai. Thân hình Nhủm gầy còm nhom, người ngợm lem luốc, duy chỉ có đôi mắt là đẹp như mắt thiên thần, con ngươi tựa viên ngọc trong veo,
Phong cảnh Phiêng Đao vô cùng quyến rũ, đẹp như một ngôi sao sa xuống mặt đất và mãi mãi không muốn trở về bầu trời. Vì thế, những người đầu tiên đến đây lập bản đã đặt tên bản là Phiêng Đao với ý nghĩa là bãi sao. Bãi ngàn sao.
Nhưng dân bản Phiêng Đao nghèo lắm, họ vẫn thường nửa đùa, nửa thật nói với nhau: “Bản ta nghèo đến mức con Bọ hung không chịu được, chỉ muốn chuyển tổ đi nơi khác”. Vậy mà nhà ông Hom lại còn nằm trong số những người nghèo nhất bản Phiêng Đao, cho nên mọi người mới bàn tán, ái ngại cho chuyện ông đón bé Nhủm về nuôi.
Tuổi ông Hom đã ngoài sáu mươi, da nâu, tóc bạc, khuôn mặt gầy cùng với rất nhiều nếp nhăn. Vợ ông đã mất từ lâu, có đứa con trai duy nhất thì lại mắc căn bệnh hiểm nghèo rồi cũng vĩnh viễn bỏ ông mà đi. Giờ đây ông sống cùng Hạnh cô con dâu và đứa cháu nội: Thằng Đức.
Ông Hom hiểu vì sao mọi người lại ồn ào, bàn tán. Dân bản thương ông, lo cho ông: Ông biết. Ông cũng do dự, nhưng khi nhìn Nhủm ngồi thu lu, run rẩy như con thú non lạc mẹ, lòng ông đau như ngày mất vợ, mất con.
Ông bàn với Hạnh chuyện nhận nuôi Nhủm, cô con dâu của ông không đồng ý.
– Nhà mình còn bữa no, bữa đói thì làm sao có thể nuôi thêm được nó hả bố? – Hạnh gàn.
Nghe nói vậy, Nhủm cúi đầu, đôi mắt buồn như một lỗ hổng không có đáy. Nhủm không khóc, nhưng dáng vẻ nom thất vọng đến tột cùng. Thà Nhủm cứ khóc thì người chứng kiến sẽ thấy dễ chịu hơn.
Ông Hom thở dài, trên khuôn mặt gầy lại có thêm những nếp nhăn. Ông suy nghĩ mung lung lắm.
– Cháu cứ ở lại đây với ông. Từ nay ông sẽ đặt lại tên cháu là Đao, là một ngôi sao để sau này cháu gặp được những điều may mắn. – Ông nói với Nhủm như thế và kiên quyết không thay đổi ý định.
Gia đình ông Hom sống chủ yếu nhờ nghề đan lồng gà đem bán hoặc đổi chác. Bãi vườn nhà ông trồng đủ các loại tre: Tre đắng; tre ngọt; tre bương; tre “mợi”; tre gai… Dưới bàn tay chăm sóc của ông Hom, tre mọc san sát nhưng đều thành hàng, thành lối. Những bụi tre lên cao thẳng, không bao giờ chịu gục đổ trước gió bão chính là tất cả tài sản quý giá nhất mà gia đình ông Hom có. Măng trên rừng thường mọc theo mùa, nhưng vườn tre nhà ông thì măng mọc quanh năm. Ngon nhất là măng tre ngọt, chiếc nào cũng bụ mập to như bắp vế, ăn sống ngọt tựa khoai lang trồng trên đất cát pha.
Nhà ông Hom, bữa cơm nào hầu như cũng có măng. Ông thường nói: “Nhà mình sẽ không bao giờ lo bị chết đói vì có măng”. Nhưng măng thì không thể cứ ăn mãi một món. Vậy là ông làm rất nhiều kiểu món để ăn cho đỡ chán: Măng chua; măng gio; măng khô; măng ngâm ớt;… măng nướng; măng xào; măng ỏm; măng nấu canh chảo; măng kho cá suối… Ông Hom hết sức tự hào: Nếu mỗi bữa chỉ ăn một món thì mất cả tháng cũng không thể nếm hết những món măng của ông. Có lẽ vì thế mà quần áo ông quanh năm bốc lên mùi măng chua hăng hăng, trái hẳn với cái tên Cha, Mẹ đã đặt cho ông: Hom có nghĩa là hương thơm.
Đao quấn quít bên ông Hom như hình bóng, bé theo ông ra ngoài bãi vườn chọn tre bương về đan lồng gà. Những thân tre mềm mại uốn theo làn gió hiu hiu. Lớp lá tre khô phủ dầy trên mặt đất thực sự là một tấm thảm êm. Khi chọn tre, bao giờ ông Hom cũng trở đằng sống dao gõ lên thân cây tre bương rồi dỏng tai nghe. Thân cây nào nghe gọn gàng tiếng cốc cốc là có thể hạ được, còn nếu nghe bộp bộp là tre chưa đủ độ, mang về đan lồng gà sẽ nhanh mọt hỏng.
– Đao, cháu xem, cây như thế này là chặt được! – Ông Hom chỉ tay vào cây bương trước mặt.
Bé Đao nhìn ngước lên ngọn bương, đôi mắt thiên thần thấy ở đó có một tổ chim. Ngoài tiếng gió xua cành tre đập vào nhau, bé còn nghe thấy cả tiếng chim non kêu rất khẽ. Chắc là lũ chim non đang đói và mong đợi bố, mẹ. Chim cũng như người, trẻ con khi khát sữa bao giờ cũng khóc.
– Ông ơi! Đừng hạ cây này, trên cây đang có tổ chim. Để cho chim non thành chim lớn đã hãy hạ ông ạ! – Bé khẩn khoản.
Ông Hom nheo mắt, nhìn vút lên tổ chim rồi nở nụ cười đôn hậu. Dân Phiêng Đao vẫn có tục lệ: Khi vào rừng đi săn, không bao giờ được bắn, giết thú đang có mang hoặc đang nuôi con. Vì vậy, lẽ nào ông lại có thể hạ cây, phá tổ chim non. Ông bước từng bước khoan thai chuyển sang bụi tre khác, tiếp tục trở sống dao gõ thử lên từng thân tre. Đao vui lắm vì tổ chim đã được an toàn. Bé nhìn lại tổ chim lần nữa rồi đi theo sau ông. Gió thổi lá tre reo như khúc hát ru khiến Đao lúc nãy chân còn nhảy tưng tưng, nay mắt bỗng buồn díp lại, muốn ngả mình lên thảm lá tre khô ngủ một giấc thật êm đềm.
Đao là đứa trẻ chẳng lúc nào chịu ngồi yên: Bao giờ bé cũng nghĩ rằng mình cần phải giúp ông, giúp cô Hạnh làm một việc gì đó. Thế là trong nhà có mấy chiếc nồi đen sì, cáu bẩn muội bám, bé mang ra cạo sạch bong. Mình còn có thể giúp ông làm gì nữa nhỉ? À! Vẫn còn những mảnh giẻ ông thường dùng quấn các ngón tay khi chuốt nan đan lồng gà. Đao nghĩ: Cần phải đem chúng đi giặt thật sạch, nếu không lỡ bị đứt khi chuốt nan, tay ông lại nhiễm trùng thì khổ. Đao mang giẻ ra suối ra sức vò thật kỹ, lòng bàn tay của bé đỏ ửng vì bị cọ xát, những ngón tay con con thì trắng hồng lên. Sau đó bé thử xem giẻ có thật sạch không bằng cách hái lá khoai môn đặt lên hõm đá, rồi vắt nước vào đó để xem đã trong bằng nước suối hay chưa? Đao vô cùng hài lòng: Sạch quá rồi đấy! Thế giới trong tâm hồn Đao thật hết sức đơn giản: Bé yêu quý mọi người trong gia đình và luôn muốn được làm việc để giúp mọi người.
Đưa Đao về ở cùng được một thời gian, ông Hom nghĩ đến việc cho Đao đi học. So với độ tuổi bắt đầu vào lớp 1 thì Đao đã muộn mất 2 năm. Hạnh làm căng, bảo là lấy tiền đâu cho con bé đi học. Không thể để cho con trẻ phải thất học vì cuộc sống khốn khổ, rồi sẽ lại phải sống khốn khổ vì thất học, ông Hom quyết tâm đến nhà trường xin cho bé Đao được đi học.
Đến lớp thì phải có túi đựng sách. Ông Hom ngắm nghía chiếc quần dài của mình, ông chắt lưỡi: Ống quần mặc dẫu có ngắn đi một chút cũng chẳng sao. Vậy là ông cắt bớt hai cái ống quần dài, chập lại để khâu thành túi đựng sách cho Đao. Đàn ông khâu vá bao giờ cũng vụng về, không khéo như đàn bà. Mắt ông Hom kém, lại không có kính, kim đâm phải tay ông chảy cả máu. Ông không dám nhờ Hạnh. Bây giờ con dâu đang giận, nhờ nó làm khác nào chất thêm củi, thổi thêm gió vào đám cháy. Sẵn còn có ít chỉ màu, ông nghĩ cần phải thêu thêm hình mây và núi làm đẹp cho chiếc túi. Đao chăm chú nhìn ông kiên nhẫn vắt từng mũi chỉ. Đường thêu rất vụng, nhưng chiếc túi nom cũng có vẻ đẹp hơn. Ông không tự tin lắm, ngượng ngập nói với Đao là ông thêu núi, thêu mây. Còn Đao sau khi ngắm nghía lại quả quyết rằng những hình đó chính là măng và nấm.
Buổi đầu tiên Đao đến lớp, ông Hom hồi hộp chẳng khác gì ông mới là người đi học. Ông ngồi đan lồng gà, nhưng chốc chốc lại dừng tay, ngóng ra cổng. Đao tan học vừa về đến nhà, ông đã sốt ruột lấy ngay vở của bé giở ra xem. Nhìn chữ Đao viết, dù không biết đọc nhưng ông Hom vẫn cười nghiêng ngả, bởi chữ nét như tóc rối, nét như giun oằn, nét lại xiên dọc, xiên ngang giống những cành tre gai tấp ngoài bờ rào. Nói tóm lại, đám chữ cứ búi vào nhau không gỡ ra được. Cười xong, sợ Đao xấu hổ, ông động viên: ” Làm cái gì lúc mới bắt đầu mà chẳng khó. Cháu cố gắng thì thể nào cũng sẽ học được hết các con chữ”.
Đao học rất chăm. Nhờ được đi học mà Đao nhận thấy mọi thứ xung quanh mình thật tuyệt vời: Đường đến lớp có rất nhiều hoa dại và bướm, mặt đất thì hiền hoà và xanh rợn cỏ non. Đao học giỏi nhất lớp, ông Hom vui không biết để đâu cho hết. Ông sung sướng trào nước mắt khi nhìn Đao trực tiếp nắn nót viết hai chữ: Ông Hom. Nước mắt vui của người già cũng trong như nước mắt của con trẻ và nhẹ như bông.
Nhưng cô Hạnh thì không vui. Cô cho rằng: Nuôi Đao ăn thôi cũng đã là quá sức lắm rồi, nay còn bày vẽ chuyện đi học. Trong Hạnh như có nuôi một tổ ong đất. Đừng bao giờ đùa với ong đất, những con trâu to khoẻ nhất cũng có thể chết khi đã sa phải vào tổ ong.
Sự căng thẳng trong nhà ông Hom ngày càng trở nên tồi tệ, lũ ong đất xui Hạnh làm những điều không nên làm: Cô rắc cát vào gạo rồi nấu cơm. Cơm chín, cô dọn lên bình thường coi như không có việc gì xảy ra.
Nhai miếng cơm, ông Hom nhăn mặt:
– Sao cơm hôm nay ăn lại có nhiều sạn cát thế này?
– Nhà tự nhiên nuôi thêm người, phải độn thêm cát mới đủ ăn! Không ăn được thì đem đổ đi! – Hạnh nói, đồng thời hai tay chống nạnh với tư thế sẵn sàng thả đàn ong đất.
Ông Hom tê tái, cố và thêm miếng nữa. Nhưng cơm độn cát, ăn sao nổi. Vậy là cả nhà cùng nhịn đói. Thương nhất thằng Đức, bị đói oan bởi cái tội của người lớn. Đôi mắt nó đặt những dấu hỏi: Tại sao???. Không còn biết phải làm gì, ông Hom ngồi lặng như người câm, mặc kệ nước mắt chảy. Nước mắt buồn của người già, đùng đục và nặng như đá.
Mọi chuyện còn tiếp tục tệ hơn nữa, bắt đầu từ việc Hạnh hỏi:
– Tiền bán lồng gà dạo này đi đâu? Sao ông không đưa cho con?
Ông Hom dè dặt:
– Tiền lồng gà bán được, bố đã cho bé Đao đem mua hết sách vở rồi con ạ!
Hạnh quắc mắt, đá mạnh vào chiếc lồng gà phơi trên sân. Không tin nổi, chiếc lồng gà bay lên mắc vào bờ rào dựng bằng những cành tre gai.
– Đã bảo đừng cho nó đi học mà ông không chịu nghe. Người dưng như con khỉ trên rừng thì ông thương. Cháu nội ruột già máu mủ ông lại coi là cục đất. Gà không cần học cũng đẻ ra trứng. Nếu người nhờ đi học mà đẻ được ra trứng thì hãy cho đi – Hạnh vừa nói, tay vừa tự đấm thùm thụp vào lồng ngực.
– Con dâu à! – Tiếng ông Hom nhẹ nhàng – Con trách Bố không thương thằng Đức là không đúng. Bố chỉ nghĩ, nhà mình nghèo nhưng vẫn cố gắng nuôi thêm cái Đao được con ạ! Nếu mình đuổi đi thì nó biết cậy nhờ vào ai?
– Ông đã nói như thế thì từ ngày mai con với thằng Đức sẽ khắc nấu ăn riêng! Còn ông muốn làm gì thì làm, con mặc kệ! – Giọng Hạnh nặng nề, tưởng như không thể bay thoát được lên khỏi mặt đất.
Ông Hom ngồi lặng thừ, thở dài. Ông vô thức vớ lấy cái điếu ục, nhồi một mồi thuốc lào thật to, châm lửa rít lấy, rít để. Thứ thuốc lào được trộn thêm râu ngô phơi khô, mùi khét át đi cả mùi thuốc lào. Miệng ống điếu rộng, ông phải nghiêng hẳn một bên má để bịt cho kín miệng ống. Khi rít, má ông tóp lại nom thật tội nghiệp. Nhưng thuốc lào cũng không giúp gì hơn được cho ông. Ông tủi thân. Ông buồn. Ông hy vọng: Chắc tại con dâu nóng giận nên mới nói thế thôi, chứ thực ra nó vẫn là đứa con dâu tốt. Từ khi chồng nó mất, đã có mấy đám đến hỏi, vậy mà nó từ chối ở vậy nuôi con, nuôi bố chồng. Tính khí con dâu nay trở thành như vậy, cũng là do cái đói, cái nghèo đưa đẩy, khiến người ta phải ích kỷ, tính toán chi ly – Nghĩ thế, ông thấy đỡ tủi thân đi một chút.
Bếp lửa nhỏ nhà ông Hom đã phải chia ra làm đôi. Ông Hom chỉ nhận lấy hai chiếc nồi: một chiếc còn khá tốt, một chiếc hết sức méo mó. Chiếc nồi còn khá tốt ông dùng nấu cơm, chiếc méo mó ông để đun thức ăn.
Bữa nay, ông Hom dùng chiếc nồi méo luộc hai quả trứng gà, một quả ông mang cho bé Đức: Dù có chia ra ăn riêng thì Đức vẫn là đứa trẻ, là cháu nội ông. Một quả ông bóc sẵn bỏ vào bát cho bé Đao. Còn phần ông là bát ớt tuơi giã muối và đĩa măng luộc. Màu măng luộc cũng trắng tinh như màu lòng trắng trứng. Nhưng ở bản Phiêng Đao, một quả trứng có thể đổi được mười đĩa măng luộc.
– Cháu ăn đi! – Ông Hom cầm bát cơm có quả trứng đặt vào tay Đao.
Đao ngần ngừ, không nỡ nào ăn quả trứng, bé muốn nhường lại cho ông.
– Cháu không ăn trứng đâu! – Đao cười, chỉ vào đĩa măng luộc – Cháu thích ăn măng này cơ ông ạ!
Ông Hom dùng đũa ấn quả trứng sâu vào trong lòng bát cơm.
– Không, cháu phải ăn! – Ông nói dịu dàng nhưng kiên quyết – Trẻ con ăn trứng gà mới mau lớn chứ!
Đôi mắt Đao nhìn quả trứng gà. Miệng lưỡi Đao có nước bọt tiết ra. Quả trứng này không phải là trứng vàng trứng bạc. Lòng đỏ và lòng trắng của nó cũng như mọi quả trứng khác. Nhưng mình không thể ăn! Ông đã vất vả nhiều, cái gì ngon cũng đều nhường cho mình. Mình không thể ăn! Mình phải làm thế nào bây giờ nhỉ? Trí óc non nớt của Đao chợt nghĩ ra một cách mà bé cho là tốt nhất. Đao đưa hai tay ôm lấy bụng, khuôn mặt giả vờ nhăn nhó, rên rỉ:
– Ối, ông ơi! Cháu đau bụng quá, không ăn cơm nữa đâu!
Đao chạy lên nằm trên giường, úp mặt xuống gối. Ông Hom lo lắng chạy theo. Thấy Đao nằm úp sấp, rên khe khẽ, thỉnh thoảng lại quằn quại sang hai bên, ông nghĩ bé đang đau lắm.
– Cháu cứ nằm im đây nhé! Để ông đi hái búp ổi non cho cháu nhai xem có đỡ đau không – Ông nói.
Đao vẫn nằm úp, sấp mặt xuống gối, chẳng dám ngẩng lên bởi xấu hổ vì đã trót nói dối. Bé thì thầm trong miệng không để ông Hom nghe: “Ông ơi! Cháu chỉ giả vờ để nhường ông quả trứng. Ông ăn quả trứng đi là cháu sẽ hết đau bụng ngay thôi!”. Ôi! Không phải tất cả mọi lời nói dối đều xấu xa. Đôi lúc vẫn có những lời nói dối xứng đáng được tha thứ.
Phải sống và lớn lên trong điều kiện khó khăn thì chuyện mắc bệnh cũng không có gì lạ. Bệnh suyễn lúc đầu còn chầm chậm rồi sau đó ngang nhiên chặn bàn tay lên ngực thằng Đức. Cứ cách vài ngày, thằng Đức lại lên cơn hen. Lúc đó, mặt Đức tái ngắt, thân thể mềm oặt như cụm rêu trong lòng suối. Đao thương lắm, nó rất muốn được xoa giúp cho em Đức bớt khó thở. Nhưng Đao không dám đến gần em vì sợ cô Hạnh, bé chỉ dám đứng nem nép ở sau khe cửa để ngó vào. Ngồi bên cạnh em Đức, cô Hạnh xù lên như con gà mái bảo vệ con trước lũ quạ. Nhưng cô Hạnh không phải là gà. Cô Hạnh là Người nên cô khóc, nước mắt ướt hết hai vạt áo đằng trước. Đứng ở sau khe cửa, nhìn thấy vậy Đao cũng trộm khóc theo. Nếu Mẹ còn sống, mình bị ốm chắc chắn Mẹ cũng sẽ thương mình như thế!
Không ai bảo, nhưng Đao luôn để ý xem có ai biết cách chữa bệnh của em Đức. Ngay cả trong giấc ngủ Đao cũng thường hay mơ thấy em Đức khoẻ mạnh, rồi hai chị em được cô Hạnh dắt tay cùng đi hái sim trên bãi ngàn sao. Đao tin mãnh liệt: Một ngày nào đó chắc chắn sẽ có người chữa khỏi được bệnh cho em Đức!
Một buổi, Đao được ông bảo đem măng đến biếu bà Pòm, bà sống độc thân không con cháu trong một căn lều dựng ven chân đồi. Căn lều của người sống cô độc không cần có cửa. Vừa mới bước vào trong Đao đã cảm thấy mùi nồng của bã trầu xộc lên hăng mũi. Mùi này có chút gì đó hơi giống mùi măng chua mà Đao chưa nghĩ ra.
Bà Pòm giữ Đao ở lại ngồi chơi.
– Cháu phải về ngay thôi bà ạ! Lúc này ở nhà em Đức đang lên cơn hen. – Đao lễ phép từ chối.
– Ôi dào! Tưởng gì, bệnh hen suyễn thì chỉ cần bắt lấy 1000 con “Đuổng khem”, đem nướng lên ăn là sẽ khỏi! – Bà Pòm vừa nhai trầu vừa nói, đồng thời nhổ toẹt xuống đất một bãi nước bã trầu đỏ quạch.
Chính Bà Pòm cũng không ngờ rằng mình đã vô tình mở toang cho Đao biết một điều bí mật. Đôi mắt thiên thần sáng rực. Đao mừng quýnh, nhảy cẫng lên. Hay quá! Hóa ra chỉ cần ăn 1000 con sâu chít là chữa khỏi bệnh hen suyễn. Chủ nhật này được nghỉ học cả ngày, mình sẽ đi bắt 1000 con sâu chít chữa bệnh cho em Đức.
Nghĩ là làm. Tinh mơ chủ nhật, Đao nhẹ nhàng rút then cửa, rồi rón rén ra khỏi nhà. Đao nhằm hướng núi đá tai mèo mà đi. Chỉ có chỗ núi đá tai mèo mới mọc nhiều cây chít.
Chít mọc thành từng bụi, Đao chặt, rồi lễ mễ ôm dồn thành đống, và sau đấy chẻ chúng tìm sâu. Thoạt đầu, Đao nghĩ mỗi cây chít sẽ đều có một con sâu. Nào ngờ, chẻ tước cả đống may mới được 1, 2 con. Nhưng Đao không nản: Mình sẽ chặt thật nhiều để kiếm đủ 1000 con.
Trưa, nắng rọi đúng đỉnh đầu, Đao đổ lũ sâu chít kiếm được ra đếm: 100, 100,… lại 100 con nữa. Bao nhiêu 100 thì được 1000 nhỉ? Đao đã đi học nhưng mới chỉ biết đếm đến con số 100, chưa biết thế nào là 1000. Đao nhìn chỗ sâu chít: Ít như thế này chắc là vẫn chưa đủ. Đao nhìn kỹ xung quanh, những bụi chít dễ lấy thì Đao đã chặt hết, chỉ còn lại những bụi mọc cheo leo trên vách đá. Đao bặm môi trèo lên, đá tai mèo nhọn và sắc đâm vào chân trần buốt đến tận đỉnh óc. Đao nghiến răng cho khỏi bật tiếng kêu. Để chữa khỏi bệnh cho em Đức, dù đau hơn nữa mình vẫn chịu được.
Trong lúc Đao đang vật lộn, leo lên những vách đá tai mèo thì ông Hom lại lo lắng đi tìm cháu. Từ trước đến nay, chưa bao giờ con bé đi đâu mà không nói cho ông biết. Ông đến từng nhà để hỏi. Sau khi hỏi hết nhưng không ai nhìn thấy Đao, ông Hom liền trèo lên ngọn đồi cao chắn trước bản. Đứng từ trên đỉnh đồi, ông khum lòng hai bàn tay vào nhau, vòng trước miệng rồi ra sức hú dài, mong nếu bị lạc thì Đao cũng sẽ nghe thấy, theo tiếng hú mà về. Mỗi lần ông cất tiếng hú, dưới lớp da nhăn nheo, gân cổ nổi lên chằng chịt như đám rễ cây. Ông chợt nghĩ: Hay là sáng nay con bé ra suối, sau đấy bị ngã trượt chân…
Ông rùng mình không dám nghĩ tiếp, rồi cuống cuồng đi mượn ngay chiếc thuyền độc mộc của hàng xóm vẫn dùng đánh cá. Mình trần, mặc mỗi chiếc quần đùi, ông tất tưởi chống thuyền xuôi theo dòng nước tìm Đao.
Chiều chạng vạng, Đao mới về đến nhà, bụng đói, mặt bê bết mồ hôi và tái xanh vì mệt, nhưng tay thì vẫn giữ chặt miệng túi đựng những con sâu chít. Vừa nhìn thấy Đao, không thèm để ý đến những điều đó, Hạnh vơ ngay lấy chiếc chổi đập chan chát vào vách tường, bức vách được trát bằng bùn rơm bong ra từng mảng.
– Khốn nạn! Mày đi chết dấm, chết dúi đâu cả ngày nay bây giờ mới thấy mặt? – Thái độ Hạnh hung dữ đến mức Đao nghĩ rằng trời sắp sập.
Đao co rúm người lại, khuôn mặt đã tái xanh lại càng tái thêm. Hạnh nhào tới, giằng lấy chiếc túi thái bé đang khoác trên người ném mạnh xuống chân. Từ trong túi rơi ra một gói sâu chít trắng ngà và béo nẫn, chúng tung toé lên mặt đất. Hạnh lấy mũi bàn chân di lên từng con cho hả cơn tức. Sâu chít nát bét, chảy ra một thứ nước trắng nhờ như sữa.
Đao quỳ xuống, mếu máo:
– Cô ơi! Cháu xin cô đừng đánh cháu! Cháu biết lỗi rồi. Chỉ tại cháu nghe thấy người ta bảo nếu ăn 1000 con sâu chít nướng thì sẽ chữa khỏi được bệnh hen suyễn, nên… nên cháu đi kiếm để mang về nướng cho em Đức ăn. Cháu… cháu sợ cô mắng nên không dám nói.
Chiếc chổi giật mình, cứng đờ, nó chỉ muốn được rời khỏi tay Hạnh, trốn vào một góc nhà nào đấy đứng yên tĩnh một mình để suy nghĩ.
Cũng vừa đúng lúc ấy ông Hom trở về, từ ngoài cửa ông đã nghe hết những lời Đao nói. Ông ôm chầm lấy bé và nghẹn ngào thốt lên hai tiếng “cháu tôi”. Mùi măng chua bốc lên từ quần áo của ông đem lại cho Đao cảm giác an lành. Chỉ có những đứa trẻ như Đao mới cảm nhận được rằng mùi măng chua cũng là một thứ hương thơm thân thiết. Ôi, hương thơm… mùi măng chua. Ông Hom bật khóc. Chiếc chổi thẳng đuỗn, vì không kịp lẩn tránh vào bất kỳ một xó xỉnh nào đó, nó đành phải lặng lẽ chứng kiến những giọt nước mắt buồn của người già: Đó là những giọt nước mắt đùng đục và nặng như đá.
Cả đêm hôm đấy, Hạnh nằm trằn trọc mãi không tài nào ngủ được. Chốc chốc cô lại trở mình, chiếc giường tre dưới lưng kêu rin rít như hơi thở khó nhọc. Chính vì không ngủ được mà Hạnh mới phát hiện ra rằng giường có rệp. Những đêm khác, làm việc quần quật suốt ngày mệt lử, nằm xuống là lập tức ngủ ngay nên rệp đốt cô cũng không biết. Hạnh ngồi dậy, thức soi đèn bắt rệp, được con nào cô đều đặt lên viên đá nghiền cho đến khi không còn nhìn thấy tí dấu vết nào nữa. Vừa bắt rệp, cô vừa tự trách mình cũng ác không khác gì con rệp. Gần sáng, mệt quá Hạnh ngồi bệt xuống đất, đầu gục vào thành giường rồi thiếp đi. Cũng vẫn trên chiếc giường đó, thằng Đức đang ngủ ngon lành say sưa, hơi thở đều đều, nhẹ nhàng. Đêm nay nó không lên cơn hen.
Hạnh thức dậy muộn hơn mọi khi. Cô mở toang cánh cửa để ngắm mặt trời mọc. Nắng bình minh tô hồng lên khuôn mặt mất ngủ của cô. Rồi đây thằng Đức sẽ có một người chị tốt và biết yêu thương nó – Hạnh nghĩ như thế. Cô rút mớ tiền lẻ nhàu nhĩ từ trong túi ra, rồi vuốt cho thật phẳng phiu. Hạnh quyết định: Chiều nay sẽ đi chợ mua món gì đó ngon ngon về nấu cơm cho cả nhà cùng ăn. Cũng khá lâu rồi, Mẹ con cô, ông Hom, bé Đao đã không ngồi ăn cơm cùng nhau.
Hạnh đến chỗ ông Hom đang ngồi giữa đám lồng gà ngổn ngang.
– Chiều nay ông đừng thổi cơm. Con sẽ đi chợ mua thức ăn về nấu cho cả nhà. – Cô nói mà mặt cúi gằm xuống đất, mắt không dám nhìn thẳng.
Ông Hom sốt sắng nhận lời. Vậy là con dâu ông đã thông. Ông vẫn luôn luôn cầu mong điều này, nay thì nó đã đến. Ông thở phào: Cơn mưa bão nào dù dữ dội đến mấy cũng có lúc phải tạnh.
Ông còn dặn Hạnh:
– Con dâu nhớ gánh theo chục chiếc lồng gà đi bán. Nếu bán được, con dâu mua thêm cho bố cút rượu!
Hạnh đi bộ hơn chục cây số đường rừng để đến chợ, có bao nhiêu tiền trong túi cô bỏ ra mua thức ăn bằng hết. Hạnh dường như đã phá bỏ, thoát khỏi được tổ ong đất, cả buổi chiều cô dành thời gian để chuẩn bị cho bữa cơm. Cô đi ra, đi vào, tất bật nấu nấu, nướng nướng. Bữa cơm chiều hôm nay phải thật ngon.
– Mẹ ơi! Hôm nay nhà mình có khách quý à? – Bé Đức hỏi.
Hạnh không trả lời, chỉ nghĩ: Còn quý hơn gấp nhiều lần khách quý!
Cả nhà ông Hom ngồi cùng nhau ăn một bữa cơm không có món măng. Thằng Đức là người vui nhất, bởi nó rất yêu quý ông nội và chị Đao. Hạnh tuy vẫn còn ngượng ngập nhưng vẫn luôn tay gắp những miếng ngon cho bố chồng và Đao. Ông Hom mỉm nụ cười nhẹ nhõm: Ông bao giờ cũng nghĩ con dâu là người tốt.
Ăn cơm xong, Đao cùng với Hạnh ngồi ngoài sân rửa bát. Bé kể cho Hạnh nghe những chuyện ngộ nghĩnh khiến cô phải bật cười. Đến tận hôm nay Hạnh mới ngắm nhìn Đao thật kỹ. Con bé thật nhanh nhẹn và xinh xắn. Tại sao mình không nhận thấy điều này sớm hơn nhỉ?
– Cháu có ra suối tắm cùng cô không? – Hạnh hỏi, giọng trìu mến.
Đao đưa mắt nhìn ông Hom như muốn hỏi ý kiến. Ông gật đầu. Đao phấn chấn chạy vụt ngay vào nhà lấy quần áo, gió tung mớ tóc dài mượt của bé vẽ vào không gian hình một suối sao băng.
Đây là lần đầu Đao đi tắm cùng cô Hạnh. Chắc chắn cô không còn giận mình và ông nữa. Đao hát líu lo, giọng bay lên cùng những giọt nắng cuối của một buổi chiều vàng rất đẹp, đàn suối hoà theo những âm thanh trầm bổng. Hạnh vui lây, lòng cô đã rũ bỏ được tổ ong đất, giờ đây nó như dòng mương được khơi thông, êm êm trôi chở nước cho những chân ruộng bậc thang.
Hai cô cháu cùng tắm khoả thân. Nước suối thượng nguồn vô cùng trong sạch và mát, tắm mình dưới làn nước ấy bao giờ cũng có cảm giác bình yên và thanh thản. Bàn tay Hạnh nhẹ nhàng kỳ cọ lên tấm lưng gầy gò của bé Đao, nơi xương sống nổi gồ lên như những gióng trúc cằn. Lòng cô dâng lên cảm xúc kỳ lạ: Trẻ con, bất kể chúng là đứa nào cũng đều hết sức đáng yêu! Hạnh xoay bé Đao quay mặt về phía mình rồi nhìn sâu vào đôi mắt đó. Đôi mắt thiên thần, con ngươi như viên ngọc trong veo.
Chợt Bé Đao rụt rè cất tiếng:
– Cô ơi! Từ nay cô cho cháu gọi cô là Mẹ, cô nhé!
Mũi Hạnh cay như sặc nước, cô choàng ôm lấy cơ thể bé Đao đang ướt sũng và thốt giọng nghèn nghẹn:
– Ừ! Ngay ngày mai Mẹ sẽ mua cho con bộ quần áo mới để con đi học. Con phải cố gắng học thật giỏi để mai kia có thể trở thành Cô giáo dạy chữ cho người dân trong bản Phiêng Đao.
Bé Đao “vâng” thật ngoan rồi dụi đầu vào bầu ngực Hạnh. Bầu ngực của những người mẹ bao giờ cũng rất ấm và êm ái. Chiều không còn nắng. Và lúc này, bầy côn trùng hoạt động về đêm đã bắt đầu tấu lên những thanh âm huyền diệu của sự sống. Trên trời cao lấp lánh đầy ánh sáng của muôn vì tinh tú, soi mênh mang xuống bãi ngàn sao.
Rất có thể về sau này, bản Phiêng Đao sẽ có một cô giáo chính là bé Đao ngày nào vẫn đến lớp với chiếc túi sách được khâu từ 2 mảnh ống quần thấm đẫm mùi măng chua./.