Mời các bạn đi… xem hát. Đúng hơn là xem chữ hát (h)… của tiếng Pháp. Lại chuyện Ăn cơm nhà vác ngà voi! Ngà voi còn nhẹ chán. Ngà mammouth cũng đành phải xông vào mà vác. Vác giùm cho… lịch sử, địa lí Việt Nam. Ủa ! Trời đất ! Đùa hay thật vậy ? Xin phép các vị khoa bảng văn chương Pháp cho " múa rìu " bằng vài câu… biết rồi, khổ lắm, nói mãi. Tuy bảng mẫu tự của tiếng Pháp chỉ có một chữ h nhưng mẹo văn phạm lại phân biệt " h câm " (h muet), và " h kêu " (h aspiré). – " Hcâm " chỉ có mặt lấy lệ. Có miếng chứ không có tiếng. – " H kêu ", gọi là kêu nhưng thực tế thì cũng im hơi lặng tiếng như… " h câm " ! Chuyện người Pháp không phát âm chữ h đứng đầu một từ thì ai cũng biết rồi, mắc mớ gì phải đem ra phân bua với người Việt ? Xin lỗi hơi dài dòng. Ai nóng tính hãy khoan bực mình. Các cụ có câu Câm hay nói, què hay đi. Câm như La baie d’Along thì Vịnh Hạ Long cũng hết chỗ nói. Chịu thua. Tiếng Pháp "hát " như vậy mới chướng tai người Việt. Bây giờ xin qua chuyện… đáng nói. Nói về vài địa danh của nước ta. – Hòn Gai. Hòn Gai (Từ điển Larousse (1986) viết là Hôn Gai, Hongay) thuộc tỉnh Quảng Ninh, được nhiều người biết tên từ ngày có Công ti than Bắc kì của thực dân Pháp (Société Française des Charbonnages du Tonkin) đến khai thác than đá. Tên Hòn Gai rất quen thuộc này gốc gác ra sao?
Trong Việt Nam văn hóa sử cương, Ðào Duy Anh nhận xét người Việt "bắt chước, thích ứng và dung hóa (…) rất tài."(2) Trong Tư tưởng phương Ðông…, Cao Xuân Huy cho rằng người Việt "có cái đặc tính mềm mại, uyển chuyển, linh hoạt, lưu động, như nước", "Nước (…) dễ tính (…) không phải là vì nó không có cá tính. Trái lại, đó là cái khả năng thích ứng vô hạn của nó (…) chính cái khả năng thích ứng (…) là cái tính ưu việt, cái bí quyết sinh tồn của dân tộc ta."(3) Hai học giả, hai cách nói, nhưng không có gì để nghi ngờ: Ðào Duy Anh và Cao Xuân Huy chính đang phát biểu về cùng một nét nền tảng quan trọng trong bản tính dân tộc. Cả hai hẳn đã dựa vào diễn biến lịch sử, quá trình phát triển xã hội, và nề nếp sinh hoạt mà rút ra kết luận ấy. (…)
Vừa qua ngày Cá tháng tư (1/4) trời đã đổ cơn mưa đầu mùa. Mưa chợt đến chợt đi như "Nàng thơ tình", đủ ướt mà không lạnh… gợi nhớ đến những cơn mùa đầu mùa (mối tình) lướt qua đời, ai muốn quên mà vẫn nhớ? Tôi sinh ra, lớn lên từ giồng cát, ruộng, vườn nên càng có nhiều kỷ niệm với mưa.
Vì sao gọi bánh khoái? Tồn tại 2 cách trả lời. Cách thứ nhất là lúc chế biến bánh trên bếp, khói xông nghi ngút, tỏa làn hương bay xa hấp dẫn muôn người. Khói, dân Huế phát âm khoái. Tên bánh hình thành từ đó. Cách thứ nhì là cảm giác của thực khách thu nhận khi thưởng thức món bánh này: khoái nhãn, khoái nhĩ, khoái khẩu, khoái chá, khoái lạc, khoan khoái, sảng khoái. Cổ nhân bèn gọi bánh khoái, vừa tiện, vừa gọn, vừa chính xác, vừa dễ nhớ.
Trong nhiều thế kỷ, nghệ thuật Phật giáo không trình bày đức Phật qua hình dáng con người mà biểu thị Ngài qua hình thức một chiếc lọng, một cái ngôi, một vết chân hay con ngựa của Ngài. Qua đầu Công nguyên, phong cách Hy-Ấn Gandhara và những trường phái điêu khắc Ấn Độ cùng lúc thực hiện những hình tượng Ngài cũng như những vị Bồ Tát qua nhiều bộ điệu khác nhau với những cử chỉ được xếp thành quy tắc. Những mudra mà người Tàu gọi là yin, người Nhật in-zô, ta dùng chữ ấn, thủ ấn, hay thành ngữ ấn quyết, tiêu biểu cho quyền lực và hiện hình thần thánh. Thật ra, những cử chỉ nầy đã có từ trước vừa trong tranh ảnh Ấn giáo, vừa trong kỹ thuật du già hay yoga, được xem như là một phương pháp giải thoát, nghĩa là chúng không thuộc về một tôn giáo nào. Người ta thường gặp chúng trong những tranh vẽ, những hình tượng điêu khắc cũng như trong những cuộc hành lễ tinh thần, thờ cúng, nghi lễ, định tâm…
Vì tôi may mắn nắm được bộ Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ – KĐĐNHĐSL (1) cùng bài « La Capitale du Thuân-Hoa » của Cụ Võ Liêm, đăng trên Bulletin des Amis du Vieux Huê – BAVH, tháng Juillet 1916 (2). Nhận thấy những tài liệu rất hiếm : bài của Cụ Võ Liêm cho tên các nhân vật, các công trình bằng chử Hán, còn bộ KĐĐNHĐSL thì có nhiều chi tiết về kích thước, thời điểm, nhân công, lương hướng. Lấy ưu điểm của hai bên mà bổ sung cho nhau, có thể cho ta một cái nhìn khá chính xác về việc xây cất Đô-Thành. Cũng vì thế, tôi đã viết bài nầy, hầu cống hiến qúy vị độc giả một tài liệu đáng qúy cho ngày nay. (…) Kinh thành Huế bây giờ không phải là vị trí đầu tiên của Đô-Thành Thuận-Hóa…
Vương triều nhà Nguyễn từ khi mới lập nghiệp ở phương Nam đã sớm biết sử dụng nghệ thuật âm nhạc để "di dưỡng tinh thần" và để biện chính cho sự nghiệp bá vương của mình trong thế đối lập với nhà Trịnh ở Đàng Ngoài. Ngay từ đời chúa NguyễnPhúc Nguyên (1613 – 1635) Lộc Khê hầu Đào Duy Từ đã lập raHòa Thanh thự luyện tập một ban vũ và nhạc để múa hát vàonhững ngày khánh lễ. Hòa Thanh thự gồm 3 đội…Đội Nhất và đội Ba trông coi về nhạc, đội Nhì trông coi về ca và vũ. Cố nhiên, đây chưa phải là Nhã nhạc, nhưng đã tạo dựng nền tảng nghệ thuật chuyên nghiệp, làm tiền đề cho âm nhạc cung đình các vương triều sau. Sang thế kỷ XIX, dưới các triều vua nhà Nguyễn, các loại hình nghệ thuật cung đình mới thực sự phát triển theo mô thức, quy phạm của Nhà nước Phong kiến. Ngay từ khi Gia Long lên ngôi (1802) mặc dù còn bận sắp đặt lại chính quyền trong nước, chỉnh đốn lại sinh hoạt cho nhân dân nhưng không vì thế mà ít quan tâm đến âm nhạc. Nhiều sử liệu cho biết vua Gia Long đã cho thành lập hai đội Tiểu nam và Tiểu hầu chuyên trông coi về nhạc và luyện tập múa hát trong cung. Năm Gia Long thứ ba, hai đội này được hợp nhất lại dưới tên Việt tương đội….
hùa Một Cột ở Hà Nội hiện nay là tên quen thuộc của Liên Hoa Ðài dựng trong khuôn viên của một quần thể kiến trúc chùa, gồm chính điện thờ Tam Bảo, nhà Tổ, nhà khách v.v. được gọi chung là chùa Diên Hựu (lấy tên đầu của Liên Hoa Ðài). Chùa Một cột nổi danh vì kiến trúc độc đáo là một lầu gỗ hình vuông đặt trên một cột đá trồng giữa một hồ nước. Lầu được củng cố bằng một hệ thống con sơn sóc nách bằng gỗ. Tất cả tượng hình cho một bông sen vươn lên khỏi mặt nước, do đó mà có tên là Liên Hoa Ðài. Liên Hoa Ðài theo sử biên niên đã được dựng vào thời Lý năm 1049. Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi: "Mùa đông tháng 10 âm lịch, dựng chùa Diên Hựu ở vườn Tây cấm (bên phía Tây cấm thành Thăng Long). Trước đấy vua Lý Thái Tông (1028-1054) chiêm bao thấy Ðức Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen, dắt vua lên tòa. Khi vua tỉnh dậy, vua đem việc đó nói với bầy tôi, có người cho là điềm không lành. Có nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa hồ, làm tòa sen của Phật Quan Âm đặt trên cột trụ như đã thấy trong mộng. Cho các nhà sư đi vòng lượn chung quanh tụng kinh, cầu cho vua trường thọ". Vì thế gọi là chùa Diên Hựu (kéo dài tuổi thọ)…
Tác giả Bồ Tùng Linh (P’u Sung Ling/1640-1715) là người đất Tri Xuyên (hay Chuy Xuyên), tỉnh Sơn Đông, sinh vào năm 1640, cận những năm cuối cùng của nhà Minh (1368-1644). Tự là Lưu Tiên, Kiếm Thần, hiệu là Liễu Tuyền. Dưới triều vua Thuận Trị (Thanh Thế Tổ, nhà Thanh 1644-1911), đậu tú tài (đồng tử) năm 1658 lúc 18 tuổi, đậu cử nhân (cống sinh) thời Khang Hy năm 1711 khi ông được 71 tuổi. Dù đậu tú tài năm 18 tuổi, nhưng sau đó thi hỏng liên miên nhiều lần. Vì sinh kế, ông cất một ngôi nhà nhỏ, đơn sơ, ở nơi vằng vẻ, đặt tên là Liêu Trai (phòng học, phòng đọc sách sơ sài tạm bợ). Nơi này ông dùng để mở lớp dạy học, họp mặt, uống rượu ngâm thơ với các bạn. Trong suốt thời gian hơn 40 năm từ khi thi hỏng liên miên đến khi đậu cử nhân, ông trước tác nhiều bằng cổ văn, nhưng nổi tiếng nhất là bộ chuyện ngắn thần tiên ma quái Liêu Trai Chí Dị. Viết theo lối thuật lại, những chuyện kể thường xẩy ra vào thời gian cuối nhà Minh và sau đó là đầu nhà Thanh, ở những vùng quanh quẩn nơi ông ở. Nhiều bản dịch sau này không phản ảnh đầy đủ nội dung, chỉ trú trọng vào nội dung ma quỷ, yêu quái mà đặt nhẹ những ngụ ý về nhân tình thế thái.
Lã Bất Vi ( ?-235 trước CN), là người Bộc Dương nước Vệ thời Chiến Quốc, nguyên là một thương gia, tại kinh đô Hàm Đan của nhà Triệu, Lã Bất Vi gặp Tần Công Tử là Dị Nhân, lúc đó bị nước Tần phái sang làm nhân chất ở nước Triệu. Lã Bất Vi cho rằng Dị Nhân có thể là " kỳ hóa khả cư ", nên Lã Bất Vi vào nước Tần du thuyết Hoa Dương Phu Nhân, ái thiếp của An Quốc Quân, lập Dị Nhân làm Thái Tử. Đến khi Tần Trang Tương Vương, tức Dị Nhân, lên nối ngôi cha, bổ nhiệm Lã làm Tướng Quốc, phong làm Văn Tín Hầu. Khi Tần Trang Tương Vương qua đời, Tần Vương Chinh mới có 13 tuổi lên Kế Vị, Lã Bất Vi kế tục giữ chức Tướng Quốc, hiệu là Trọng Phụ, thực ấp hai huyện ở Lam Điền, và 20 hộ ở Lạc Dương Hà Nam. Lã Bất Vi còn lợi dụng sự mâu thuẫn của hai nước Yên và Triệu, được Triệu, được Yên hiến cho mười thành trì ở Hà Giang để làm phong ấp ( vùng đông nam huyện Hiến tỉnh Hà Bắc. ) Trong thời kỳ chấp chính, Lã Bất Vi tấn công các nước Chu, Triệu, Ngụy và chiếm đất của những nước này để thành lập các quận Tam Xuyên, Thái Nguyên, Đông Quận. Trong nhà Lã Bất Vi, môn khách có đến ba ngàn người, gia đồng có cả vạn đứa.
Ông đi dọc theo bờ biển, ngược chiều gió. Mái tóc hoa râm bay loà xoà xuống trán. Áo sơ mi mỏng dán lên khuôn ngực còn nở nang vạm vỡ. Bầu trời xám xịt, ngoài khơi vẫn mịt mù, gió bắc thổi từng cơn. Sóng biển ào lên tung bọt trắng, liếm vào bờ xoá đi dấu chân ông vừa để lại trên cát. Hình như ông chẳng để ý gì đến sự hoang dã của biển cũng như sự hiện diện đơn độc của mình trên bờ biển chiều nay. Nhưng kia, phía trước nơi kè đá, lại vẫn cô gái trẻ tóc cắt ngắn như con trai đang đứng nhìn hút ra tít ngoài khơi. Dáng đứng bất động, sự chờ đợi của cô gái khiến ông phải chú ý. Cô xuất hiện như thế đã ba buổi chiều liên tiếp. Ông không biết cô có hẹn với ai, chỉ thấy hôm nào cô cũng lặng lẽ quay về một mình với dáng vẻ buồn buồn xa vắng.
Khi cưới tôi về ở với gia đình trong Nam, chồng tôi chỉ có mẹ, chị, và anh thứ hai đã ra ở riêng. Bố và anh lớn của anh ở ngoài Bắc, đã mười tám năm không gập mặt.
Mẹ người tầm thước, vừa người, vấn khăn vải, ăn trầu và còn răng đen. Mẹ là người cổ kính, ăn nói nhỏ nhẹ, không thấy to tiếng bao giờ. Mẹ rất hiền và nghe theo ý của các con, nhất là ý chị lớn. Việc mẹ bằng lòng cho con trai lấy tôi, một cô bạn học của anh, theo đạo Phật, và chấp nhận tôi không phải theo đạo Chúa, được xin "miễn chuẩn dị giáo ", là do các con khuyên được. Mẹ chăm lo cho các con, dù đã lớn, từng miếng ăn, giấc ngủ. Chưa bao giờ tôi thấy mẹ khóc, ngay cả khi tiễn con cháu đi xa không biết bao giờ mới trở lại. Mẹ nói mẹ không còn nước mắt…
—>
. Lê Hoài Nam :
Tuổi thơ của tôi trôi qua trong chiến tranh. Thủa ấy miền Bắc chưa có nhiều phương tiện nghe nhìn. Chúng tôi chưa trông thấy cái ti vi bao giờ. Chiếu bóng thì xem ở ngoài bãi cỏ, sân đình, mà cả năm cũng chỉ vài ba lần. Cả cái làng Nam Phú của tôi chỉ có hai cái đài bán dẫn: một của gia đình người từ Tân-thế-giới mới về nước, một của ông chủ tịch xã. Âm thanh thường xuyên dội vào thính giác của tôi là ba thứ rất đối nghịch nhau: tiếng bom, tiếng chuông nhà thờ Thiên Chúa và tiếng hót của các loài chim. Có thứ giọng hót của loài chim đã trở thành một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của tôi, nó ám ảnh tôi cho đến tận bây giờ, đó là tiếng hót của chim hoạ mi.
Trong Đại Nam Nhất Thống Chí (ĐNNTC) quyển V trang 217 có chép như sau : "Cách huyện Cửu An 22 dặm về phía nam có một con sông gọi là Sông Song Ma. Tương truyền ngày trước người con gái nhà giàu, tuổi cập kê, mê người học trò họ Nguyễn, mà người học trò thì người nhà nghèo, không dám nhờ mối lái nói việc kết hôn, vì thế người con gái mắc bệnh tương tư trầm trọng rồi chết; cha mẹ cô rất đỗi thương tiếc, không nỡ chôn vội, bèn làm cái rạp sau nhà làm chỗ quàn; vì cô gái đã chết, cậu học trò bèn thắt cổ chết ở cạnh chỗ quàn, người ta quàn chung họ lại với nhau. Do đấy âm khí kết tụ lâu ngày thành yêu tinh. Sau đó cha mẹ cô gái ấy đều chết, không ai chôn cất thành ra chỗ quàn xác 2 người, cây cối mọc lên như rừng, yêu khí càng ngày càng thịnh, người ta khó chịu, bèn gọi chỗ ấy là xứ Song Ma, để bảo nhau xa tránh. Sau quân Tây Sơn đánh chiếm cứ khu vực này cho thiêu hủy nhà quàn, yêu quái mới hết hẳn".
Sáng nay thức giấc, mở máy vi tính ông bạn vàng của tôi bên bang Penn Siu, thành phố Phila gửi sang bảo là muốn xơi món cơm Gà Siu Siu, một món ăn quốc hồn quốc túy bên gia đình nhạc gia của tôi. Kể từ khi cuộc sống của tôi bị nàng Kiều gốc Bông đô hộ, tôi dần dà bị lôi cuốn bởi những món nghe như một bầu trời Quảng Đông rộng mở. Này nhé, cơm chiên cá mặn, cơm diệp nấm đông cô, cơm vịt xí muội, cơm đào trần bì, cơm kình ngư ngũ vị, cơm vịt hầm tứ bửu, canh gà thiện rong biển,…
1969, tụi tôi năm ấy mới 17 tuổi. Và còn đồng trinh. 17 tuổi mà còn đồng trinh cũng chẳng phải là chuyện gì đáng tự hào hoặc đáng xấu hổ, nhưng đấy là chuyện quan trọng. Mùa đông khi vừa được 16 tuổi, tôi đã bỏ nhà ra đi. Lý do là cảm nhận được mâu thuẫn đối với thể-chế-học-thi-lên-đại-học, muốn thoát ly gia đình và trường học để xuống đường phố mà chiêm-nghiệm về ý nghĩa cuộc đấu tranh trong năm ấy của 3 hệ-phái thuộc Liên hiệp Sinh viên Học sinh Toàn quốc chống Hàng không Mẫu hạm nguyên tử Enterprise của Mỹ vào cảng, …… là nói dóc, thật ra, chỉ vì tôi muốn trốn khỏi cuộc chạy đua trong trường mà thôi. Bởi chạy đua đường trường thì từ xưa đã vốn là chỗ yếu của tôi. Từ hồi trung học cấp hai đã ghét chạy đua rồi. Tất nhiên là ở tuổi 32 hiện giờ, tôi lại càng thậm ghét.
Nhân vào trang của cơ quan nghiên cứu Réseau-Asie trên mạng, tôi tình cờ gặp bài tham luận bằng tiếng Pháp của nhà nghiên cứu trẻ Frédéric Roustan (đọc tại cuộc hội thảo khoa học về Á Châu do Réseau-Asie qui tụ các học giả và chuyên gia về châu Á ngày 28-29-30 tháng 9 năm 2005 tại Paris). Lúc đó, tác giả hãy còn là nghiên cứu sinh tiến sĩ sử học tại Đại học Ngoại Ngữ Ôsaka. Trong tinh thần cầu học, chúng tôi mạn phép ông để chuyển ngữ hầu các bạn đọc quan tâm có thêm thông tin về lịch sử ngành nghiên cứu Việt Nam ở Nhật Bản dưới cái nhìn của người thuộc một nước thứ ba. Ông Roustan đã viết một luận án tiến sĩ vào niên khóa 2006-2007 nhan đề "Xã hội sử cuộc di dân của người Nhật vào miền bắc Việt Nam từ năm 1885 đến 1954" (Socio-histoire de l’immigration japonaise à Tonkin entre 1885 et 1954) dưới sự đồng chỉ đạo của hai giáo sư Gérard Noiriel (EHESS, Paris) và Sakurai Yumio (Đại học Tôkyô).
Có thể nói nội dung bài này phản ánh khá trung thực quan điểm của tác giả Frédéric Roustan ở thời điểm 2005. Dĩ nhiên những sơ sót về mặt kỹ thuật dịch và cách trình bày là trách nhiệm của người dịch.
Theo gia phả dòng họ Nguyễn Tiên Điền: Nguyễn Du (1765-1820) lấy bà họ Đoàn, con quan ngự sử Đoàn Nguyễn Thục, quê ở Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam nay là tỉnh Thái Bình vào năm 1783. Đến năm 1786, khi Tây Sơn Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhất dẹp chúa Trịnh, hai anh lớn là Nguyễn Khản và Nguyễn Điều bị bệnh chết, Nguyễn Du về Quỳnh Côi lánh nạn, ở đó suốt mười năm, thời gian này được gọi là thời kỳ Mười Năm Gió Bụi (1786-1796). Tới 1796 mới trở về quê mình ở Châu Hoan, dưới chân núi Hồng Lĩnh.
Nhưng, đọc các tác phẩm của Nguyễn Du trong thời kỳ Mười Năm Gió Bụi này, rõ ràng những năm đầu, ông không sống ở Quỳnh Côi, và có vẻ ông chưa lấy vợ.
Hơn 4 thập niên về trước, hồi còn "mài đủng quần" ở ghế nhà trường, học chết bỏ, chưa dám làm quen với rượu, chữ nhàn còn quá xa lạ ,được học đôi câu thơ của Cao Bá Quát lòng đã lấy làm thích, nhìn và nghe giáo sư văn chương của mình mê say giảng bài hát nói "Thú Nhàn" trên bục gỗ rước bảng đen trong lúc mà mỗi trang nhật báo lại đầy tin chiến sự lại có ảnh minh họa vầng khăn sô trên đầu người thiếu phụ, lòng biết bao cảm xúc, bài này có mấy câu : "Gõ nhịp lấy, đọc câu "Tương Tiến Tửu" "Quân bất kiến, Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai, Bôn lưu đáo hải bất phục hồi" Làm chi cho mệt một đời! " Tương tiến tửu dịch nôm là mời nâng ly, cũng là tên một bài thơ nổi tiếng của Lý Bạch. Trong Cổ nhạc phủ có điệu Tương tiến tửu, nghĩa là cùng uống rượu. Lý đã mượn tên riêng của điệu này mà viết nên khúc này …
Bài thuyết trình của GS André Bareau (Giáo sư Collège de France) tại Trung Tâm Văn Hóa Tin Lành dòng Luther, Paris, ngày 11 Tháng 12 năm 1984. "Giê-su qua cái nhìn của người Phật tử": đây là một đề tài lý thú, nhưng quả thật là khó. Trước hết, trong tất cả những đạo lớn của thế giới, có lẽ đạo Phật là đạo xa cách đạo Ki-tô nhất trong giáo lý cơ bản và trên nhiều điểm quan trọng, mặc dù vẫn gần gũi, hay có vẻ gần gũi, trên nhiều điểm khác. Thứ đến, với thời gian, trên con đường phát triển, đạo Phật đã mang rất nhiều hình tướng khác nhau, hội nhập vào nhiều nền văn minh khác nhau, vào nhiều dân tộc khác nhau, do đó giữa những người Phật tử có thể có những "cái nhìn về Giê-su" rất khác nhau. Sau hết, nếu chúng ta biết khá rõ về cái nhìn của người Phật tử, nhất là Phật tử thời nay, về đạo Ki-tô, chúng ta rất hiếm khi được nghe nói đến quan niệm của họ về cá nhân Giê-su …
Mở đầu hội thảo đầu tiên, năm 1987, đức Đạt Lai Lạt Ma đã có lời nhắn nhủ:
"Trước hết, xin quí vị hãy nghiên cứu về những tác dụng tích cực của thiền định. Nếu thấy kết quả tốt, xin hãy dậy lại điều đó cho xã hội, trong tinh thần hoàn toàn thế tục, để cho mọi người đều lợi lạc". Ngài còn bổ túc thêm: "Đây không phải là một vấn đề đức tin và tín ngưỡng, mà đúng hơn là một ưu tư về đạo đức và luân lý. Trách nhiệm làm người thúc đẩy chúng ta phải dùng trí tuệ để hiểu biết thiên nhiên và sự vận hành của tâm thức".
Trong tinh thần đó, đã có một số đóng góp tích cực của các tăng sĩ, thiền sư vào các thí nghiệm khoa học, như ghi và đo hoạt động các vùng não trong khi thiền định, bằng những máy móc tối tân như điện não đồ (EEG) đa điện cực, cắt lớp phát positons (PET-scan) và cộng hưởng từ chức năng (fMRI).
Những trao đổi, cộng tác này đã đưa tới những kết quả, tuy còn hạn hẹp vì mới tiến hành từ khoảng hai chục năm nay, nhưng rất thực tiễn và đầy triển vọng. Đồng thời hai bên cũng không tránh khỏi gây nên tương quan ảnh hưởng lẫn nhau, đạo Phật trên khoa học cũng như khoa học trên đạo Phật.
Trong bài này, chúng ta sẽ lần lượt xem xét: 1- Định nghĩa của neurosciences và một vài từ gần cận 2- Tổng quan về sự hình thành và tổ chức của hệ thần kinh 3- Tầm quan trọng của cảm xúc trong đời sống thường nhật 4- Những điểm tương đồng và những khác biệt giữa đạo Phật và khoa học thần kinh 5- Những kết quả nghiên cứu về tác động của thiền định trên sự vận hành của tâm não 6- Chiều hướng nghiên cứu trong tương lai về thiền định.
—>
. Phanxipăng :
Phất phơ ngọn trúc trăng tà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mùng khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày An Thái, mặt gương Tây hồ. Lâu nay, hầu hết mọi người đều đinh ninh rằng đấy là một bài ca dao do dân chúng ở kinh thành Thăng Long – Hà Nội sáng tác và truyền khẩu tự đời nảo đời nao. Bài lục bát ấy đã được đưa vào các công trình sưu tập "văn chương bình dân", gồm nhiều dị bản. Sách giáo khoa trung học lẫn giáo trình đại học cũng chọn bài lục bát ấy làm khúc ca dao tiêu biểu để giảng bình về cảm hứng thiên nhiên của quần chúng nhân dân "có tính chất là những niềm vui, niềm tự hào, những cảm xúc dạt dào trước vẻ đẹp của giang sơn đất nước thân yêu" (Giáo trình Văn học dân gian, tập II, NXB Đại Học Và Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1973, tr.375) và được thể hiện "như một bài Đường thi tuyệt tác" (Giáo trình Văn học dân gian, tập I, phần 2, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1976, tr. 22). …
Mấy câu lục bát vừa dẫn được xem là một trong những sáng tạo đáng kể của thi hào Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều. Bởi thiên tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện do Thanh Tâm Tài Nhân chấp bút bằng văn xuôi chữ Hán trước Nguyễn Du hơn trăm năm hoàn toàn chẳng có đoạn trên. Thanh Tâm chỉ phác gọn lỏn: "May sao một ngày trong tiết Thanh minh, con cái họ Vương cùng đi tảo mộ, nhân tiện xem hội đạp thanh." (Bản dịch Việt ngữ của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm được ấn hành bởi Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hoá, Sài Gòn, 1971). Vậy mà Tố Như ngẫu hứng triển khai thành trường đoạn tả cảnh với bao chi tiết sinh động, nên được đông đảo dân Việt yêu văn chương lấy làm thích thú và thuộc nằm lòng. Phải chăng vì quá thuộc câu 43 trong áng Nôm kiệt tác kia khiến bấy lâu nay hầu hết mọi người – kể cả các nhà nghiên cứu của nhiều thế hệ – cứ đinh ninh tiết Thanh minh luôn rơi vào tháng ba âm lịch? Thực tế đúng thế chăng?
Con cháu sẽ hỏi ta về những tháng năm này Như ta từng hởi cha ông ta về những ngày thủa trước Tại sao Chu Văn An phải dâng sớ chém bảy gian thần ? Tại sao ba tộc nhà Ưc Trai mắc họa ? Sự thật ?… Sự thật có khi không được ghi trong sử Nhưng lại được nhân dân chuyên chở đến muôn đời Con cháu sẽ hỏi ta về những tháng năm này Như ta từng hỏi cha ông về những ngày thủa trước…
Tôi yêu chuyện cổ nước tôi Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa Thương người rồi mới thương ta Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm
Ở hiền thì lại gặp hiền Người ngay thì gặp người tiên độ trì Mang theo chuyện cổ tôi đi Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi
Đời cha ông với đời tôi Như con sông với chân trời đã xa Chỉ còn chuyện cổ thiết tha Cho tôi nhận mặt ông cha của mình Rất công bằng, rất thông minh Vừa độ lượng lại đa tình, đa mang.
—>
. Cát Hoàng :
Học người Tây Nguyên hết năm cũ thay lửa mới,… Thơ thắp lên ngọn phù sa hát khúc bồi tụ bao đời sông Người châu thổ yêu sông như người cao nguyên yêu rừng Thơ dắt hồn người về sâu cội nguồn để quay về cuộc sống với cõi lòng trinh nguyên
Thơ thắp lên ngọn lòng Cảm ơn khổ nghèo trả tôi về với nông dân nghèo khổ Không cám nổi phù vinh tôi lộn kiếp về ruộng đồng Tắt lửa bội phản Thay lửa thức tỉnh Thơ sám hối thơ
—>
. Bùi Thụy Đào Nguyên :
Ngày ấy Trả câu thơ. Em đi…
Sự thật đột ngột hiện ra trần trụi Căn hộ mười hai mét vuông Bốn bức tường ám khói, Hôm nào, em bảo màu mây.
Sự thật ngày ấy mới hay Có tổ tò vò khuất nơi kẽ cửa Đêm đêm côn trùng cựa mình trăn trở, Đợi mùa tiết đổi thay. … —>
. Bảo Quyên :
thu dấu ưu phiền sau áng mây ngỡ ngàng chiếc lá úa trên tay mưa rơi lất phất mờ cuối nẻo nghe những phôi pha lạc tháng ngày
bãi cát mềm in chân lữ thứ nước trong veo dòng mắt ngây thơ lung linh thấp thoáng muôn diệu vợi vệt nắng nhạt phai lạnh bến bờ … —> . Bùi Văn Bồng :
Bến đợi chiều hôm sóng lững lờ Nắng buồn như thả những sợi tơ Neo đậu bến quê con thuyền nhỏ Một mình tha thẩn bến mộng mơ
Hoàng hôn buông tím pha màu nhớ Gió rung ký ức lá vàng xưa Sóng gợn ánh chiều lay trăn trở Tĩnh lặng vườn ai trái đung đưa
Người đi buổi ấy mờ sương núi Cánh én vờn bay níu mây xa Giờ đây trong gió hồng cát bụi Hình bóng người xưa có nhạt nhòa …
—>
. Hoàng Hoa :
Đêm lạnh nẻo về sao lưa thưa Bóng ai lạc lối phút giao thừa Nguyệt quế tỏa hương không gian lắng Lộc biếc cành non nhẹ sợi mưa
Ta vẫn đi về lối ven sông, Độc hành trong những đám bụi hồng Đường khuya mờ ảo màn sương trắng Lay động cành khô cơn gió đông
—>
. Phan bá thụy dương
1- ghé quán bên đường cạn một ly cơ hồ tiền kiếp gợi sân si rót thêm chai nữa – thêm chai nữa thì chuyện tới lui có xá gì
tôi – tôi chỉ là người khách ly hương dừng chân nghĩ lại quán ven đường tìm nỗi hoài tình hương thắm cũ cùng bạn xưa nhắp chén hồ trường rồi mai rồi mốt về bên ấy còn một chút gì để vấn vương … —> . Hoài Ziang Duy :
Từ một ngày ấy anh đi Xa miền đất không chốn dung thân Không thể sống gần tội nghiệp Buồn theo như chiếc lá Đậu ở sân Hiên nhà Ta đứng lặng hồn nhen chút ấm Đôi bờ vai thương nhớ bao ngày … – . Khaly Chàm :
ngày tàn vuốt mặt đam mê đêm như dao nhọn… bốn bề vực sâu cội nguồn thao thức về đâu hú vang tiếng gọi linh cầu vỡ tan hôn trầm mộng mị địa đàng ta như sợi khói ngỡ ngàng phù vân xin em giây phút thật gần dường như chợt biết vẫn cần có nhau
Năm một-ngàn-chín-trăm-bảy-lăm ta thoát được thế trường-xà-bát-quái bèn cắm cổ cắm đầu chạy đại trên điêu tàn, trong thương hải tang điền vào tới Sài Gòn thấy con cháu Rồng, Tiên nửa theo Mẹ, nửa theo Cha đoàn tụ ta cũng gặp lại người yêu dấu cũ…
chẳng thể cầm tay suốt đời nhau được ơi con người long đong đi tìm kiếm thiên đường cơn bão chết giữa nhọc nhằn của đất tôi lặng lẽ miền cát bụi cô đơn
hoa Thạch Thảo tím quanh hồ nước cũ mùa thản nhiên trên mảnh vỡ đời người tôi nhặt những u mê của sóng xếp nỗi mình trong thăm thẳm xanh tươi …