Anh Hùng Tử – Khí Hùng Bất Tử

Vinh Danh Những Chiến Sĩ Anh Hùng Đã Tuẫn Tiết Trong Ngày 30 Tháng 4 năm 1975.

Tháng 4 đen ngày quốc hận 30 tháng 4 năm 1975. Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử trong bàn cờ quốc tế. Đã để lại nhiều hệ luỵ rất đau buồn, khiến cho gia đình ly tán. Chúng ta nên tự hỏi đã có bao nhiêu chiến sĩ anh hùng đã tự sát, không chịu đầu hàng trong ngày mất nước 30 tháng 4 năm 1975. Những vị Anh Hùng những chiến sĩ QLVNCH đã tự sát trong ngày cuối cùng của Quân Lực VNCH.

Tôi thử đi tìm và nhận ra một danh sách khá dài, những vị anh hùng đã tuẫn tiết không chịu đầu hàng cộng sản. Tôi nghĩ danh sách này cũng chưa đủ, có thể sẽ còn nhiều hơn nữa, những vị anh hùng đã tuẫn tiết hy sinh trong ngày mất nước mà chúng ta chưa biết đến, không phải chỉ có những cấp Tướng, cấp Tá, hay Sĩ quan trong quân đội, mà ngay cả những chiến sĩ không cấp bậc, những người lính rất bình thường như Địa Phương Quân, Nghĩa Quân cũng đã tuẫn tiết hy sinh, không để bị rơi vào tay cộng quân.

Chính những người chiến sĩ can trường này, đã trở thành những vị anh hùng thắp sáng ngọn lửa oai hùng cho QLVNCH.

Sau đây là danh sách các vị Anh Hùng đã tự sát trong ngày cuối cùng của miền nam Việt Nam.

Hãy vinh danh các vị Anh Hùng của QLVNCH.

Anh Hùng Tử – Khí Hùng Bất Tử

Danh sách các quân nhân Quân Lực VNCH đã tự sát trong những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa.


Cấp bậc    –     Họ tên    –    Chức vụ   –    Đơn vị    –    Ngày tự sát.

1- Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Đoàn II 30/4/1975
2- Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn IV 30/4/1975
3- Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh phó Quân Đoàn IV 30/4/1975
4- Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, tướng tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh 30/4/1975
5- Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh 30/4/1975
6- Đại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng 42 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Khóa 16 Đà Lạt. 31/31975 tự sát tại Quy Nhơn
7- Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ông đã bị Việt Cộng xử bắn ngày 14 tháng 8 năm 1975 mặc dù ông không tự sát, như những vị anh hùng khác nhưng khí tiết anh hùng hiên ngang gục chết trước pháp trường đã làm cho cộng quân phải khiếp sợ, cái chết của ông là bản anh hùng ca còn lưu giữ mãi trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
8- Thiếu Tá Hải Quân Lê Anh Tuấn (bào đệ của Trung Tướng Lê Nguyên Khang). 30/4/1975
9- Thiếu Tá Không Quân Nguyễn Gia Tập, đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ.
    Tự sát30/4/75 tại BTLKQ
10- Trung Tá Nguyễn Văn Long CSQG 30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Sài Gòn
11- Trung Tá Nguyễn Đình Chi Phụ Tá Chánh sở 3 An Ninh Quân Đội.
      Tự sát 30/4/1975 tại Cục An Ninh Quân Đội
12- Trung Tá Phạm Đức Lợi, phụ tá Trưởng Khối Không Ảnh P2/ Bộ TTM 30/4/1975
13- Trung Tá Vũ Đình Duy, Trưởng Đoàn 66 Đơn Vị 101 Bộ TTM. Tự sát ngày 30/4/1975
14- Trung Tá Nguyễn Văn Hoàn, Trưởng Đoàn 67 Đơn Vị 101 Bộ Tổng Tham Mưu. Tự sát ngày 30/4/1975
15- Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương, Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Tự sát ngày 28/4/1975 cùng vợ, 2 con và cháu (bằng súng)
16- Thiếu Tá Đặng Sỹ Vĩnh, trưởng Ban Binh Địa P2 Bộ TTM, sau biệt phái qua Cảnh Sát. Ngày 30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con
17- Thiếu Tá Mã Thành Liên (Nghĩa), tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu- khoá 10 Đà Lạt. Ngày 30/4/1975 tự sát cùng vợ.
18- Thiếu Tá Lương Bông, phó ty An Ninh Quân Đội Phong Dinh. Tự sát ngày 30/4/1975
19- Thiếu Tá Trần Thế Anh, Đơn vị 101 Bộ Tổng Tham Mưu. Tự sát ngày 30/4/75
20- Đại Úy Vũ Khắc Cẩn, Ban 3, Tiểu Khu Quảng Ngãi. Tự sát 30/4/1975
21- Đại Úy Tạ Hữu Di, Tiểu đoàn phó 211 Pháo Binh Chương Thiện. Tự sát 30/4/1975
22- Trung Úy CSQG Nguyễn Văn Cảnh, trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8. Tự sát ngày 30/4/1975
23- Chuẩn Úy Đỗ Công Chính, TĐ 12 Nhảy Dù. Tự sát ngày 30/4/1975
      tại cầu Phan Thanh Giản
24- Trung Sĩ Trần Minh, gác Bộ Tổng Tham Mưu. Tự Sát 30/4/1975
25- Thiếu Tá Đỗ Văn Phát, Quận Trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên 1/5/1975
26- Thiếu Tá Nguyễn Văn Phúc, Tiểu đoàn trưởng ĐPQ, Tiểu Khu Hậu Nghĩa.

       Tự sát ngày 29/4/1975
27- Trung Tá Phạm Thế Phiệt tự sát ngày 30/4/1975
28- Trung Tá Nguyễn Xuân Trân, Khoá 5 Thủ Đức, Ban Ước Tình Tình Báo P2     

       Bộ TTM.Tự sát ngày 1/5/75
29- Trung Tá Phạm Đức Lợi, Phòng 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả, nhà văn,

      thơ, soạn kịch, bút danh: Phạm Việt Châu, cựu giảng viên SNQĐ, Trưởng phái  

      đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội. Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975

30- Đại Úy Nguyễn Văn Hựu, trưởng Ban Văn Khố P2/Bộ TTM. Tự sát sáng         

      30/4/75 tại P2/Bộ TTM
31- Thiếu Úy Nguyễn Phụng, Cảnh sát đặc biệt, tự sát ngày 30/4/1975
      tại Thanh Đa, Sài Gòn
32- Thiếu Úy Nhảy Dù Huỳnh Văn Thái, khoá 5/69 Thủ Đức. 30/4/1975 tự sát tập

      thể cùng 7 chiến sĩ Nhảy Dù tại Ngã 6 Chợ Lớn.
33- Trung Úy Đặng Trần Vinh (con của Thiếu Tá Đặng Sĩ Vinh), P2 BTTM. Tự  

       sát cùng vợ con 30/4/1975
34- Trung Úy Nghiêm Viết Thảo, An Ninh Quân Đội, khóa 1/70 Thủ Đức. Tự sát

       30/4/1975 tại Kiến Hòa
35- Thiếu Úy Nguyễn Thanh Quan (Quan Đen), phi công PĐ 110 Quan Sát (khóa

       72). Tự sát chiều 30/4/1975
36- Hồ Chí Tâm B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau). Tự sát bằng

      súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau
37- Thượng Sĩ Phạm Xuân Thanh, trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày

       30/4/1975 tại Vũng Tàu
38- Thượng Sĩ Bùi Quang Bộ, trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày

      30/4/1975. Cùng gia đình 9 người tại Vũng Tàu.

Danh Sách Những Anh Hùng Cảnh Sát Quốc Gia Đã Tuẫn Tiết

1- Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, cựu Tổng Giám Đốc CSQG, tuẫn tiết tại Bản

     doanh Sư Đoàn 7 Bộ Binh lúc 6 giờ chiều ngày 30/4/1975.

2- Trung Tá Nguyễn Văn Long, Chánh Sở Tư Pháp BCH/CSQG Khu 1, tuẫn tiết   

     duới chân tượng đài TQLC trước trụ sở Hạ Viện Sài Gòn sau khi Ông Dương  

     Văn Minh tuyên bố đầu hàng CS Bắc Việt sáng 30/04/1975.

3- Trung Tá Đặng Sĩ Vĩnh, Quân Nhân Biệt Phái, Trưởng Phòng Trung Ương Kỹ

     Thuật trực thuộc Văn Phòng Tư Lệnh CSQG, cùng vợ và 7 con uống thuốc độc   

     tự vẫn tại nhà riêng ở Ngã Ba Ông Tạ Sài Gòn sáng 30/4/1975, trong đó có con  

     trai trưởng là Trung Uý Đặng Trần Vinh, Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu.

4- Trung Tá Nguyễn Văn Đức, nguyên CHT Biệt Đoàn Cảnh Sát Lưu Thông

     BCH/CSQG Thủ Đô, tuẫn tiết bằng súng lục tại VP của Thiếu Tướng Đỗ Kế  

     Giai, CHT Biệt Động Quân, khi Ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng CS.

5- Trung Tá Đỗ Thanh Liêm, BTL/CSQG, tự sát tại trại giam ở biên giới Việt

     Miên.

6- Trung Tá Võ Tuyết Hồ, Khối ĐB, BTL/CSQG tự sát trong lúc di tản qua khu

     rừng Sát khi nghe tin Ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.

7- Thiếu Tá Đỗ Minh Hoàng, Chỉ Huy Trưởng BCH/CSQG Quận Bình Phước,

     Tỉnh Long An, tự sát tại Cầu Quay Mỹ Tho ngày 30/4/75.

8- Trung Uý Ngô Văn Cho, Phó Trưởng Cuộc Võ Tánh, BCH/CSQG Quận Nhì

     Sài Gòn và 6 người trong gia đình đã tự sát bằng súng lục đêm 2/5/1975 tại Cư

     Xá Quận Nhì, Sài Gòn.

9- Trung Uý Nguyễn Văn Cảnh, Phó Trưởng Cuộc CSQG Phường Xóm Chiếu,

     BCH/CSQG Quận 4 Sài Gòn, tự sát trong ngày 30/4/1975 tại Văn Phòng Cuộc.

10- Trung Uý Du, không rõ họ, Trưởng Cuộc CSQG, tự sát cùng gia đình ngày

      30/4/1975 tại Sài Gòn.

11- Thiếu Úy Nguyễn Phụng, Khóa 6 Học Viện CSQG, Cơ Quan D6 (Trung Tâm

      Thẩm Vấn) Khối Đặc Biệt BTL/CSQG uống thuốc độc tự tử tại nhà riêng ở Cư

      Xá Thanh Đa Sài Gòn, được gia đình phát giác đưa đi bệnh viện cứu sống,

      nhưng sau đó Thiêu Uý Nguyễn Phụng đã quyết tâm tự sát lần nữa bằng cách

      cắt đứt gân máu tay của mình.

12- Thiếu Úy Nguyễn Thiếu Liêm, không rõ nhiệm sở, tự sát ngày 30/4/75.

13- Thiếu Uý Nguyễn Văn Lung, BTL/CSQG, kê súng bắn vào đầu tự sát ngày

      30/4/75 nhưng được cứu sống.

14- Thượng Sĩ Võ Văn Cẩm, BCH/CSQG Biên Hòa, tự sát tại Nhơn Trạch, Biên

      Hòa ngày 30/4/75.

15- Thượng Sĩ Bùi Văn Mương, G.ĐB Quận Củ Chi, tự sát 30/4/75.

16- Thượng Sĩ Trần Văn Phát, Sĩ Quan Phụ Tá G.ĐB Quận Củ Chi, tự sát

      30/4/75.

17- CH Dung, không rõ họ, cấp bậc, nhân viên CSĐB Tân Thông, tự sát 30/4/75.

18- CH Trần Khả, không rõ cấp bậc, Trưởng Cuộc Hoà Thắng, Phú Yên tự sát tại

      nhà ngày 31/3/75.

19- Trung Sĩ 1 Nguyễn Xuân Ba, BCH/CSQG Tỉnh Bình Định, tự sát ngày 2/4/75

      tại Bình Định.

20- Trung Sĩ 1 Lê Thành Chương, BCh/CSQG Tỉnh Bình Định, tự sát ngày

      2/4/75 tại Bình Định.

21- Trung Sĩ 1 Ngô Xuân Lạc, không rõ nhiệm sở, tự sát ngày 2/4/75 tại Bình

       Định.

22- Trung Sĩ Nguyễn Du, không rõ nhiệm sở, tự sát ngày 2/4/75 tại Bình Định.

23- Thượng Sĩ Trần Thi, G.ĐB Quận Tư Nghĩa Quảng Ngãi, tự sát trong đêm

      Quảng Ngãi di tản 24/3/75.

24- Thượng Sĩ Nguyễn Hồng Lạc, Cựu Trưởng Cuộc Tư Quang, Quận Tư Nghĩa,

       tự sát trong đêm Quảng Ngãi di tản 24/3/1975.

25- Trung Sĩ 1 Huỳnh Vĩnh Bá, G.ĐB Quận Sơn Tịnh, tự sát bằng súng cùng với

       gia đình trong đêm Quảng Ngãi di tản 24/3/75.

26- Trung Sĩ 1 Nguyễn Văn Quế, G.ĐB Quận Sơn Tịnh Quảng Ngãi, bị Cộng Sản

       bắt và dẫn về nhà để lấy tài liệu mật báo viên. Tại tư gia, trong lúc giả vờ đi

       đem hồ sơ MBV, TS Quế lấy lựu đạn đã được cất dấu tại nhà, mở chốt tự sát

       và gây thương tích cho hai tên VC áp giải và vợ con.

27- Trung Sĩ 1 Lâm Tài, F. ĐB Quảng Ngãi, chiến đấu và tự sát trong một cái

       chòi ở Xã Sơn Long, Quận Sơn Tịnh, Quảng Ngãi khi bị VC phát hiện tấn

       công, trong đêm Quảng Ngãi di tản 24/3/75.

28- Trung Sĩ 1 Lê Minh Xuân, nhân viên G Nghiên Cứu F Đặc Biệt Quảng Ngãi,

       tự sát tại nhà.

29- Trung Sĩ 1 Huỳnh Trần Bá, G.ĐB Quận Đức Phổ, Tỉnh Quảng Ngãi, ném lựu

       đạn gây cộng quân tử thương tại Bình Liên, quận Bình Sơn sáng ngày 25/3/75

       và đã tự sát sau đó.

30- Trung Sĩ 1 Nguyễn Tiền, Cuộc Bình Hoàng, Quận Bình Sơn, tự sát trong đêm

      Quảng Ngãi di tản 24/3/75.

31- Thiếu Uý Đinh Văn Hường, Trưởng Cuộc Ba Xuyên, Quận Ba Tơ, tự sát tại

      Trại Gia Binh Thiết Giáp Xã Tư Chánh, Quận Tư Nghĩa trong đêm Quảng

      Ngãi di tản 24/3/75.

32- Thượng Sĩ Đoàn Văn Nhược, Phó Trưởng Cuộc Nghĩa Hưng, Quận Nghĩa

      Hành tự sát trong đêm Quảng Ngãi di tản 24/3/75.

33- Trung Sĩ 1 Trần Đức Một, Biệt Phái Toà HC Tỉnh Quảng Ngãi, tự sát trong

      đêm Quảng Ngãi di

34- Thượng Sĩ Bùi Đức Tôn, F.ĐB Quảng Ngãi, tự sát trong đêm Quảng Ngãi di

       tản 24/3/75.

35- Trung Sĩ 1 Huỳnh Quang Thông, Thẩm vấn viên F. ĐB Qủang Ngãi, tự sát

       trong đêm Quảng Ngãi di tản 24/3/75.

36- Thượng Sĩ Vũ Phúc Loan, Trại Tạm Giam BCH/CSQG Tỉnh, tự sát trong

      đêm Quảng Ngãi di tản 24/3/75.

37- Nguyễn Văn Tiểng, Đại Đội 106 CSDC, tự sát trong đêm Quảng Ngãi di tản

      24/3/75.

38- Trung Sĩ 1 Trương Vận, G.ĐB Quận Bình Sơn, tự sát trong đêm Quảng Ngãi

      di tản 24/3/75.

39- Trung Sĩ 1 Phạm Văn Tuyển, Trung Đội Phó, Đại Đội 106 CSDC Quảng

       Ngãi, tự sát tại Bình Liên, Quận Bình Sơn trong đêm Quảng Ngãi di tản

       24/3/1975.

40- Trung Sĩ 1 Nguyễn Phú, G.ĐB Quận Điện Bàn, Tỉnh Quảng Nam, tự sát cuối

       tháng 3/75.

41- Trung Sĩ 1 Nguyẽn Văn Tố, G.ĐB Quận Cai Lậy, Tỉnh Định Tường, tự sát tại

      Trại Mỹ Phước Tây, Cai Lậy.

42- Thiếu Úy Võ Công Hạnh, BCH/CSQG Quảng Nam, tự sát tại Trại Phú Túc,

      Quảng Nam.

43- Trung Uý Mã Phúc Hiệp,Trưởng Cuộc CSQG, trốn trại và tự sát tại nhà trong

       khi bị VC truy bắt.

44- Thiếu Uý Nguyễn Văn Lắm, Khóa 4, Trưởng G ĐB Quận Đức Thịnh, Tỉnh Sa

       Đéc, tự sát 30/4/1975.

45- Trung Úy Trần Văn Kha, K2 HVCSQG, tự sát trên đường số 7 Tuy Hòa trong

      di tản.

46- CSV Trần Hữu Viên, G. Đặc Biệt Quận Phước Ninh, BCH/CSQG Tỉnh Tây

       Ninh, tự sát tại Khách Đình, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh tối 30/4/1975.

47- Thiếu Úy Hoàng Xuân Lân, Trưởng Cuộc Bình Tân, BCH/CSQG Quận Hòa  

       Lạc, Tỉnh Gò Công, tự sát lúc 11 giờ sáng 30/4/1975.

Danh sách bao gồm 47 chiến sĩ trong lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia thiết lập. Tôi đã sưu tầm trên trang Website Cảnh Sát Quốc Gia VNCH.

Tôi nghĩ danh sách này có thể còn dài hơn, vì chúng ta không có đủ dữ liệu để cập nhật theo danh sách “Anh Hùng Tử – Khí

Những anh hùng vô danh của Quân Lực VNCH được nhắc nhở đến với tinh thần “anh hùng tử, khí hùng nào tử”. Người anh hùng chết nhưng chí khí anh hùng không chết. Các vị tướng lãnh đã tuẫn tiết được nhớ đến như “sinh vi tướng, tử vi thần” Sống làm tướng, chết thành thần.

Tưởng niệm, vinh danh những anh hùng đã vị quốc vong thân không gì bằng chúng ta hãy tiếp bước theo ý chí của những vị anh hùng, để nêu cao ý chí bất khuất trong cuộc chiến mới. Đó là đấu tranh trên mọi bình diện “Văn Hoá” để đem đến nền dân chủ, tự do cho đồng bào Việt Nam trong cả nước. Mang lại những quyền tự do căn bản được ghi trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (The Universal Declaration of Human Rights) được Đại Hội Đồng LHQ thông qua ngày 10 tháng 12, 1948 tại Palais de Chaillot ở Paris, Pháp.

Đảng Cộng Sản Việt Nam không xứng đáng lãnh đạo đất nước vì đảng, độc tài đảng trị, tham nhũng, nhất là thái độ hèn với giặc, ác với dân, nhưng tội nặng nhất là truyền thống bán nước của đảng, từ Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đến Nguyễn Văn Linh, đến Đỗ Mười, đến Lê Khả Phiêu và sau đó là Lê Đức Anh, đã dâng hiến các đảo ở Trường Sa cho Trung Cộng.

Tội lớn nhất của cộng sản là đưa cả dân tộc Việt Nam vào chế độ độc tài, tàn bạo, vô nhân bất nghĩa, đã bị kết án về tội diệt chủng và tội chống loài người, một chủ thuyết đã bị lịch sử ném vào sọt rác của nhân loại.

Cuộc chiến tranh Việt Nam, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, có một câu hỏi được đặt ra. Cuộc Chiến này ai thắng ai thua?. Nếu chúng ta nhận xét yếu tố thắng thua theo (Binh Pháp Tôn Tử). “Chiếm được thành quách chưa phải là người chiến thắng. Mả chiếm đượ lòng dân mới là người thật sự chiến thắng”.

Trên thực tế mọi người Việt Nam đều nhận ra. Cộng Sản Việt Nam đã xâm chiếm, giải phóng Miền Nam. Nhưng ngược lại, chính tinh thần của người miền Nam đã giải phòng tình thần và nền văn hoá (gông cùm) của miền Bắc.

 Cuộc chiến tranh Việt nam tuy kết thúc những đã để lại nhiều hệ luỵ về đời sống và ngay cả trong suy nghĩ của cả hai bên. Đối với những con người chân chính, những người bên thắng cuộc, không phải họ không biết gì, họ vẫn nhận ra sự sai lầm, khi chính họ đã bị lừa, bị đảng bịt mắt dẫn đưa vào một cuộc chiến tương tàn của dân tộc Việt Nam.

Hay đọc câu nói này từ (bên thắng cuộc)

Nếu ai đó hỏi cha tôi 30/04 là ngày gì? Cha tôi sẽ trả lời, đó là ngày mà ông nhận ra mình đã bị lừa dối. Ông và các đồng đội của ông là “Thế hệ bị lừa dối”.”

“Còn nếu ai đó hỏi ông muốn gọi 30/04 là ngày gì? Thì tôi xin phép được trả lời thay cho cha tôi, hãy gọi 30/04 là ngày phán xét.

Cuối cùng, tôi muốn thay mặt cha tôi gửi lời xin lỗi chân thành đến những người lính ở phía bên kia.

30/4 – Ngày phán xét của Việt Nam

Chúng ta hãy thắp lên nén nhang buồn, hãy thắp sáng nén nhang lòng, để gửi đến Những Anh Hùng bất Khuất, những lời cầu nguyện, cho Hương Linh của các vị sớm siêu thoát, yên nghỉ trên cõi Niết Bàn hay Thiên Đàng

Nỗi đau lòng không của riêng ai, nỗi đau lòng là của chung mọi người, những con người chân chính, với tấm lòng trắc ẩn về một quá khứ đau thương, mà mỗi năm người Việt Quốc Gia tại Hải Ngoại luôn luôn tưởng niệm.

Ngày phán xét 30 tháng Tư Đen.

Viết và sưu tầm, để tưởng niệm ngày 30 tháng Tư Đen.

AET Tê Luấn