LÊ XUÂN NHUẬN – HỒI KÝ

VÙNG CHIẾN-TUYẾN của LÊ XUÂN NHUẬN

        Thế là tôi đã trở thành Giám-Đốc An-Ninh Và Phản-Gián của Miền Trung.

Trước kia, thủ-phủ của Vùng này là cố-đô Huế; Đà-Nẵng chỉ là một Thị nhỏ, nhượng-địa, chịu nhiều ảnh-hưởng của Pháp hơn là Nguyễn-triều.

Lần đầu tiên tôi đến Đà-Nẵng là vào năm 1954.

Tôi được động-viên vào Quân-Lực với tư-cách chuyên-môn – văn-nghệ-sĩ & ký-giả – từ tháng 4 cùng năm.  Sau Hiệp-Định Geneva, tôi cùng đi với nghệ-sĩ Tô Kiều Ngân, nhà-báo Huy Vân, nhà quay phim Lê Đình Ấn, thuộc đoàn phóng-viên chiến-tranh, tháp-tùng Bộ Tư-Lệnh Đệ-Nhị Quân-Khu trong cánh quân xuất-phát từ Huế vào, trong chiến-dịch tiếp-thu các Tỉnh Quảng-Nam, Quảng-Ngãi, Bình-Định, Phú Yên, khi cộng sản rút ra khỏi Miền Nam.  Trên đường đi, tôi có ghé vào Đà-Nẵng, nhưng vào ban đêm, và trong chốc lát, nên chỉ nhìn thấy Đà-Nẵng khiêm-nhường, dè-dặt, trong buổi giao-thời phức-tạp của tình-hình chung: Ô. Ngô Đình Diệm về nước nhậm-chức Thủ-Tướng; Trung-Tướng Nguyễn Văn Hinh, Trưởng Tổng-Tham-Mưu, chống-đối Diệm; Đệ-Nhị Quân-Khu, dưới quyền tư-lệnh của Đại-Tá Trương Văn Xương, chuẩn-bị bích-chương, biểu-ngữ, trứng thối, cà chua… để đợi Diệm từ Sài-Gòn ra chủ-tọa lễ tiếp-thu là tổ-chức dàn chào đả-đảo Diệm, với khẩu-hiệu “Mười vé phi-cơ cho tập-đoàn họ Ngô [đi ra nước ngoài], hay là hằng trăm ngàn [mạng sống của] chiến-sĩ quốc-gia!”; quân-lực Pháp đã chấm dứt hành-quân nhưng cố-vấn quân-sự Pháp vẫn còn hoạt-động trong quân-ngũ Việt-Nam; chính-đảng Đại-Việt mà lực-lượng vũ-trang hậu-thuẫn là các tiểu-đoàn Nghĩa-Dũng-Quân tinh-nhuệ, chống Cộng mà cũng chống Diệm, đồng-minh giai-đoạn của Hinh…

Chỉ mấy tháng sau, Đà-Nẵng, cùng với toàn-quốc, đã đổi khác hẳn – trong đó có phần công-trạng của tôi.

Lần này, tôi cùng đi với bạn tôi, là Thompson A. Grunwald, Giám-Đốc Phòng Thông-Tin Hoa-Kỳ, trụ-sở tại Huế, đại-diện chính-thức đầu tiên của Mỹ tại Miền Trung.  Ảnh-hưởng trực-tiếp của Mỹ đối với Việt-Nam bắt đầu lan dần.  Tôi được đồng-bào nồng-nhiệt khen-ngợi Chương-Trình Phát-Thanh “Tiếng Nói Quân-Đội tại Đệ-Nhị Quân-Khu” mà tôi là Trưởng Đài, và phần “Anh-Ngữ Thực-Hành”, lớp dạy tiếng Anh đầu tiên bằng phương-tiện vô-tuyến dành cho thính-giả Việt-Nam, mà tôi chủ-trì thực-hiện với sự hợp-tác của Tôn Thất Đát bên cạnh Thompson…

Kế đến, sau vụ cộng-sản tổng-công-kích Tết Mậu-Thân 1968, nhạc-phụ tôi mất, tôi từ Pleiku đáp phi-cơ Air America ra Đà-Nẵng dự lễ tang.

Các viên-chức tình-báo Trung-Ương Hoa-Kỳ (CIA) sắp xếp các chuyến bay đã giúp-đỡ tôi rất tận-tình, nhưng tôi thấy rõ là họ đồng-thời bận-rộn liên-tục với khá nhiều công-tác khác,  hòa nhịp với quang-cảnh rộn-rịp náo-nhiệt của các giống người – mà nổi bật nhất là da trắng, da đen -, các loại vũ-khí, xe-cộ, máy-móc, dụng-cụ, hàng-hóa – trên đất – cùng với các loại phi-cơ quân-sự và dân-sự gầm rú – trên không – và những tiếng súng đại-bác, đại-liên từ xa vọng về từng hồi…  Đà-Nẵng với phi-trường lớn có thể đón phi-cơ B-52 đáp cánh khẩn-cấp, với hải-cảng lớn phục-vụ cho toàn Miền Trung, với các cơ-quan chính-quyền cấp Vùng và Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn/Quân-Khu từ Huế dời vào, đã phát-triển mạnh, xứng-đáng là thủ-phủ chiến-lược của Miền Bắc Trung-Nguyên Trung-Phần…

Lần này, tôi đến thì Đà-Nẵng lại có một bộ mặt khác.

Từ mái nhà trở xuống là những bộ quân-phục nhiều màu như cũ, nhưng chỉ khoác trên những thân người chung một da vàng và chung một tiếng nói, Việt-Nam – Việt-Nam-Hóa? – và từ mái nhà trở lên là ngót cả tá đảng-kỳ, giáo-kỳ, đoàn-kỳ, hội-kỳ, hiệu-kỳ…; nhưng nổi bật hơn hết là những dãy bốn lá quốc-kỳ của các nước trong Ủy-Hội Quốc-Tế, sặc-sỡ, tạo thành hai cặp, có cùng sắc màu mà vị-trí đối-nghịch nhau, như muốn nói lên cái thói trớ-trêu của một trò chơi quốc-tế về quốc-kỳ: Ba-Lan thì trắng-đỏ, Nam-Dương thì đỏ-trắng, đỏ-trắng-lục là Hung-Gia-Lợi, và lục-trắng-đỏ là Ba-Tư…

A red and white flag

AI-generated content may be incorrect.
Flag Indonesia.png

Cờ Poland (Ba Lan)                     Cờ Indonesia (Nam Dương)

A red white and green flag

AI-generated content may be incorrect.
A flag with a red white and green stripe

AI-generated content may be incorrect.

Cờ Hungary (Hung Gia Lợi)       Cờ Iran (Nam Tư)  

Chính trước bối-cảnh chung đụng và đụng chung của những con người và của những nhóm người được tiêu-biểu bằng những màu cờ sắc áo đó, mà tôi bị bắt-buộc và cũng tự mình bắt-buộc mình phải đóng một vai trò “thiêu-thân” dưới ánh đèn sân khấu rọi sáng một khung không-gian và một quãng thời-gian nghiêm-trọng nhất trong lịch-sử của nước Việt-Nam Cộng-Hòa.

Con thiêu-thân thì nhỏ, nhưng khán-giả không thể không trông thấy, vì cái bóng của nó đã được phóng lớn, chập-chờn trên các lớp phông màn.

LÊ XUÂN NHUẬN 




THƠ PHỤC SINH – CAO MỴ NHÂN

NẮNG PHỤC SINH.      CAO MỴ NHÂN 

Cả không gian cháy bùng rừng lửa đỏ

Khi mùa xuân khép dần đôi cánh vàng

Tiếng gào thét gọi hồi sinh đất vỡ

Bầy quạ đen hãi hùng kêu kinh hoàng

Về đâu nữa tinh cầu buồn dĩ lỡ

Khắp nơi nơi nghe đạn nổ, bom rơi 

Cả bầu trời xé toang mây sầu khổ

Khiến sông xưa, biển cũ bốc thành hơi

Nắng Phục Sinh về tưới xanh đồng cỏ

Bóng Thiên Thần trải mộng nước non xa

Cuốn Thánh Kinh trên tay đang rộng mở

Chúng ta chào lễ nhạc đón mừng Cha

Đường Thánh Giá lui sâu vào quá khứ

Người thương yêu, vạn vật sống thanh bình

Hồn tĩnh lặng, ánh hào quang rực rỡ

Thế gian vui bước tiếp cuộc hành trình…

          CAO MỴ NHÂN 




KIỀU MỸ DUYÊN – NHỮNG BẤT TRẮC CÓ THỂ XẢY RA KHI MUA BÁN BỞI CHỦ (FOR SALE BY OWNER).




CHÙM THƠ THÁNG BA – ĐÔNG RY NGUYỄN




CHÙM THƠ CAO MỴ NHÂN – LẺ HÀNG.

Nguồn hình: Internet

LẺ HÀNG. CAO MỴ NHÂN

Chỉ có một người nghĩ: chắc người yêu
Hóa ra không phải, chỉ là tưởng tượng
Bởi lẽ người đó thường hay nuông chiều
Hóa ra mộng mị vô tình vui sướng

Hóa ra tình đời cũng nhiều điều chướng
Từ khi ươm nụ tới lúc hoa tàn
Hương chưa kết tụ đã vội vỡ tan
Thế là chia tay, quay lưng bình thản

Thế là nhìn nhau, vô cùng chán nản
Có lẽ vì mình không hợp ý thôi
Thủa còn vô tư tình tự chơi vơi
Nhìn về một hướng vui cười thích thú

Nhưng nay tám hướng, mười phương dĩ lỡ
Đổ lỗi tình buồn khổ lụy riêng ai
Nào có ai đâu, muốn xếp hàng hai
Thành ba nhân vật, một người bị lẻ …

Rancho Palos Verdes 7 – 3 – 2025
CAO MỴ NHÂN

=

NẮNG PHỤC SINH. CAO MỴ NHÂN

Cả không gian cháy bùng rừng lửa đỏ
Khi mùa xuân khép dần đôi cánh vàng
Tiếng gào thét gọi hồi sinh đất vỡ
Bầy quạ đen hãi hùng kêu kinh hoàng

Về đâu nữa tinh cầu buồn dĩ lỡ
Khắp nơi nơi nghe đạn nổ, bom rơi
Cả bầu trời xé toang mây sầu khổ
Khiến sông xưa, biển cũ bốc thành hơi

Nắng Phục Sinh về tưới xanh đồng cỏ
Bóng Thiên Thần trải mộng nước non xa
Cuốn Thánh Kinh trên tay đang rộng mở
Chúng ta chào lễ nhạc đón mừng Cha

Đường Thánh Giá lui sâu vào quá khứ
Người thương yêu, vạn vật sống thanh bình
Hồn tĩnh lặng, ánh hào quang rực rỡ
Thế gian vui bước tiếp cuộc hành trình…
CAO MỴ NHÂN

=

HƯƠNG CỎ HOA . CAO MỴ NHÂN

Vẫn còn dáng dấp thân quen
Đài trang, huyền hoặc, ưu phiền, dửng dưng
Nhưng trong buồn bã, vui mừng
Lại tìm ra được dấu dừng chân xưa

Vẫn còn ân nắng, nghĩa mưa
Trong ta tình tự lưa thưa nỗi sầu
Ngập ngừng xoá bỏ niềm đau
Bâng khuâng hoa nở mùa đầu chưa phai

Cầu sương, điếm cỏ đơn sai
Nghe như có tiếng thở dài trong thơ
Trăm năm huyễn mộng thực hư
Ngạt ngào hương cỏ tỏa dư ngát trời …

Rancho Palos Verdes 29 – 6 – 2023
CAO MỴ NHÂN

=

MÊ CUNG KHÓI LỬA. CAO MỴ NHÂN

Đất trời trong lúc giao thoa

Nước dâng nguồn vỡ, non nhòa khí thiêng
Trăm năm sông núi ước nguyền
Tinh khôi trái đất lưu truyền thế gian

Cây nhân sinh mọc vô vàn
Nở hoa thân ái ngập tràn yêu thương
Nước kia trôi nổi đại dương
Còn trong tay chút hoang đường thiên sơn

Người ngồi thầm lặng cô đơn
Châu thân rã rượi u hờn mây bay
Chơi vơi tâm sự bão đầy
Vòng ôm trống rỗng tháng ngày phiêu linh

Từ phen cúi mặt tạ tình
Áo khăn để lại trường đình mê cung
Dấu chân rối loạn mịt mùng
Đắm say chiến sử ngựa hồng chinh yên …
Utah 3 – 3 – 2025
CAO MỴ NHÂN

VỀ NGUỒN. CAO MỴ NHÂN

Nguồn ơi, nước chảy trong xanh

Mây tha hương bỗng bay nhanh vào rừng
Mùa xuân đứng sát sau lưng
Đá thiên thu chợt reo mừng hồi sinh

Suối vang âm điệu thanh bình
Trôi ngang trận tuyến thủa mình trẻ trai
Thác xô thân phận u hoài
Mấy mươi năm trước bao người dấn thân

Công danh giờ đã phù vân
Nguồn xuôi châu thổ thành sông êm đềm
Văn chương lưu thuỷ đôi miền
Bờ xô cát lở, bờ thêm đất bồi

Nguồn ơi, chữ nghĩa bên trời
Thoắt như vô tự sóng rời biển xa
Từ đây vọng tưởng quê cha
Quyên thương quốc tổ, lệ sa nối dòng…
CAO MỴ NHÂN

CUỐI TUẦN. – CAO MỴ NHÂN

Cuối tuần, gió mở cửa trời
Bao nhiêu mây nổi thả rơi xuống trần

Áo em ai vẽ hoa xuân
Mầu vàng rực rỡ đông quân vạn mùa

Cuối tuần, chắc sẽ không mưa
Bờ lau trắng ngọn hoa chưa nở nhiều
Bởi vì sông chở tình yêu
Đang qua mấy vạt cầu kiều lênh đênh

Cuối tuần, anh dành cho em
Tháng năm còn lại nỗi niềm tiêu sơ
Hoang mê một chút bơ thờ
Đắm say chỉ thấy trong thơ tình buồn

Cuối tuần, gió khép cô đơn
Sau then cửa mộng tủi hờn lạt phai
Em ơi rực rỡ hoàng mai
Làm sao phai lạt tình ai mà buồn …

CAO MỴ NHÂN (HNPD)
6 – 2 – 2025

MÙA XUÂN VỪA MỚI HẾT. – CAO MỴ NHÂN

Trên đỉnh núi mây hồng

Đã tan ra thành suối
Mầu hoa đào chập chùng
Em gặp anh lần cuối

Anh tìm em muộn màng
Giữa không gian cô tịch
Áo em rực rỡ vàng
Đón kỷ nguyên thanh lịch

Khi gặp lại người tình
Mùa xuân vừa mới hết
Mang đi của chúng mình
Cành hoa đào cánh kép

Chapa bỗng u buồn
Đào hoa ươm nỗi nhớ
Bước chân sau lưng dồn
Đẩy anh vô quá khứ …

CAO MỴ NHÂN (HNPD)
4 – 3 – 2025




KIỀU MỸ DUYÊN: CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA ANA REAL ESTATE MAR 12 2025.




NỬA ĐỜI HAY MỘT ĐỜI?




KIỀU MỸ DUYÊN CHUYỂN BÀI VIẾT: VĨNH BIỆT KIM THANH NGUYỄN KIM QUÝ. Tác Giả Vương Trùng Dương




KIỀU MỸ DUYÊN – TIẾT KIỆM, LÀM GIÀU VÀ LÀM VIỆC TỪ THIỆN




MINH THÚY Thành Nội – TẾT RƯỢT CON CHẠY, MẠ ƠI!




CHU LYNH – VIETNAM FILM CLUB

Các Video mới nhất của Vietnam Film CLub:

Văn Hoá và Ngôn Ngữ Việt tại Hải Ngoại

Thông Điệp 50 – A Message for 50 Years

Theo Giòng Sử Việt

https://youtu.be/alp78zryY9o

My South Vietnam Part 7 – Nền Kinh Tế VNCH

Vietnam Film mClub

www.vietnamfilmclub.org




Bút Ký PHƯƠNG HOA – Tết Tây Và Tết Ta – Người Mỹ Không Nhà Vui Quà Tết – Chuyện Người Việt Ở Hoa Kỳ.




THƠ THANH THANH – LÊ XUÂN NHUẬN.

LỆ-CHÂU

Đã  mấy  xuân  rồi,  hả  bể dâu ?
Những hình bóng cũ nay về đâu ?
Có  ai  đốt  lại  lò  hương  ấy
Mà nhớ vô cùng, hỡi Lệ-Châu !

Ta nhớ em như nhớ tháng ba*:
Ngày giờ có đó, nghĩ không ra!
Chính ta chẳng hiểu mơ hay tỉnh;
Ta  ở  đây  mà  nhớ  chính  ta!

(*) 29/03/1975: Đà Nẵng (thủ-phủ Miền Trung) thất-thủ.

Ta  nhớ  ta  là  một  tiếng  im,
Con thuyền không bến, máu không tim,
Không hoa cho một làn hương quyện,
Không tổ nương nhờ một cánh chim!

Ta có đầu ta – một thánh-thư:
Biết đường, đâu ngại ngã ba, tư!
Lòng ta có lửa mà không bếp,
Như thiếu trùng-dương cho hải-ngư!

Thiếu một thần-giao, một cảm-thông;
Đời không tri-kỷ, không tâm-đồng;
Bơ-vơ như trận kình+nghê-chiến:
Biển cả tung-hoành một lão-ông!

Rồi bỗng đâu đây giữa gió khơi
Có em bỗng gọi, có ta “ơi!”
Thuyền như nhắm bến, chim tìm tổ,
Đêm muốn hừng đông, hận muốn vơi …

Em đến – gần mà như muôn trùng,
Không tên, không lấy cả hình-dung…
Nhưng em đã đến, bằng xương thịt,
Đã  sưởi  lòng  ta …  ấm  lạ-lùng!

Em  có  là  tiên… hay  là… ma
Thì  em  cũng  đã  có  yêu  ta!
Tình em là một nguồn thi-hứng:
Bút rỉ mười năm… lại nở hoa!

Em đã theo ta mỗi bước chân,
Hòa trong hơi thở, nhập trong gân!
Có em là bạn… nên từ đó
Ta có niềm vui tự bản-thân…

Nhưng, bỗng tư bề nổi bão đêm:
Kình-ngư còn lại bộ xương lem!
Đất thành hoang đảo! dân thành rợ!
Ngư-phủ vào tù, lạc dấu em..

.

Nỗi nước khôn khuây, lại nỗi nhà,
Nỗi mình khắc-khoải một mình ta!
Bao nhiêu kỷ-niệm vào tro bụi
Như những kê vàng, quá-khứ xa …

Ôi! Những ngày xanh, những ước mơ
Tan như ảo-ảnh mống trời mưa!
Thời-gian liệm lấp vào quên-lãng
Những mộng vàng son hóa mộng hờ!

Rồi có hôm nào như hôm nay:
Gió nào gợn sóng, lá nào bay …
Cho ta gợi lại trong tâm-tưởng
Một thoáng ân-tình, thoáng rượu say …

                       Trại Kho Đạn (Đà Nẵng), 1980-81

                               THANH-THANH

Thanh-Thanh.com




CA KHÚC VÌ SAO – THƠ PHẠM PHAN LANG – Nhạc NguyễnTâmHàn Giang -Ca Sĩ Hương Giang

VÌ SAO – MỘT KHÚC NHẠC CỦA KÝ ỨC VÀ TÌNH YÊU

Hôm nay, một ngày đẹp trời ở Hawaii. Từ khung cửa kính, tôi lặng ngắm vịnh Kaneohe xanh biếc, nơi những đám mây lững lờ phản chiếu trên mặt nước lung linh như một bức tranh huyền ảo. Trong không gian yên bình ấy, những giai điệu xưa vang lên, mang theo bao ký ức ùa về. Bất chợt, nhạc phẩm Vì Sao do nhạc sĩ Nguyễn Tâm Hàn phổ từ thơ của tôi, với giọng ca đầy cảm xúc của Hương Giang, vang lên, khiến lòng tôi nghẹn ngào xúc động.

Ngược dòng thời gian, khoảng mười năm trước, vào dịp giỗ 30 năm của người chồng vắn số, tôi đã viết hai bài thơ Vì Sao và Mộng Tưởng để tưởng nhớ anh – một người đã ra đi quá sớm nhưng tình yêu và ký ức về anh vẫn mãi khắc sâu trong tim. Trong những dòng thơ ấy là nỗi nhớ khôn nguôi, là những câu hỏi không lời đáp, là niềm tiếc thương day dứt theo năm tháng.

Sau đó, tôi đã chia sẻ những bài thơ cùng hình ảnh buổi giỗ đến một số người bạn Hải Quân cùng khóa 14 với chồng. Không ngờ, trong số đó, nhạc sĩ Nguyễn Tâm Hàn đã đón nhận những vần thơ ấy bằng cả trái tim. Anh kể lại rằng, khi đọc thơ, anh xúc động đến mức không sao chợp mắt. Suốt đêm hôm ấy, anh lặng lẽ chắp nối những cảm xúc của hai bài thơ, để rồi từ đó, Vì Sao ra đời – một bản nhạc trầm buồn nhưng tha thiết, như một lời tự sự từ sâu thẳm tâm hồn.

Hôm nay, giữa khung cảnh thanh bình của biển trời Hawaii, khi giai điệu ấy vang lên một lần nữa, tôi như thấy mình quay về những năm tháng cũ. Nỗi nhớ vẫn vẹn nguyên, tình yêu vẫn đong đầy, và câu hỏi “Vì sao?” vẫn mãi ngân vang trong lòng.

Xin được chia sẻ cùng mọi người nhạc phẩm Vì Sao cùng hai bài thơ đã khơi nguồn cảm xúc cho ca khúc này.

Vì sao -Hương Giang – Thơ Phạm Phan Lang – Nhạc NguyễnTâmHàn

VÌ SAO

Ba mươi năm rồi sao?
Nghe như mới hôm nào
Một buổi mai nắng nhạt
Sóng nộ cuồng vì sao?

Anh đi rồi thật sao?
Thời gian trôi như vèo
Sao lòng còn sầu nhớ
Vẫn thẫn thờ vì sao?

Vắng anh, đời lao đao
Môi nhạt, má bớt đào
Miệng cười, mắt rưng lệ
Lòng hỏi lòng, vì sao?

Anh về trong chiêm bao
Nhìn em như thuở nào
Vòng tay ôm thắm thiết
Tỉnh mộng hỏi, vì sao?

Ba mươi năm rồi sao?
Nỗi nhớ vẫn dạt dào
Vẫn thương về người cũ
Xin đừng hỏi, vì sao?

phamphanlang

MỘNG TƯỞNG

Anh đi, đi mãi không về
Phòng khuê lẻ bóng, não nề thâu canh
Trăng khuya rọi bóng bên mành
Lung linh trên gối, tưởng anh nằm kề

Mùi hương ngày cũ chợt về
Vòng tay ôm bóng, cơn mê vội tàn
Ngẩn ngơ giấc mộng bẽ bàng
Ôm hồn cứ tưởng như chàng còn đây…

phamphanlang

LỜI CUỐI

Thời gian có thể trôi đi, nhưng có những nỗi nhớ chẳng bao giờ nhạt phai. Cảm ơn nhạc sĩ Nguyễn Tâm Hàn đã thổi hồn vào thơ, để những cảm xúc này trở thành giai điệu, lan tỏa đến những tâm hồn đồng điệu. Và cảm ơn những ai đã lắng nghe, đã cùng tôi chia sẻ những phút giây hoài niệm này.

Kính chúc an lành và hạnh phúc.

Pham Phan Lang




KIỀU MỸ DUYÊN – CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA.




GS/TS MAI THANH TRUYẾT –




SƯƠNG LAM – Bạn Có Yêu Tuyết Không?


Bạn Có Yêu Tuyết Không?

 winter-weather-snowplows-ice-storm_1288929721_iwovsz.webp

 (Nguồn:Hình tuyết  Portland sưu tầm trên internet)

Đây là bài số bảy trăm bốn mươi chín (749) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ ORTB.  

 Bây giờ là mùa Đông  xứ Mỹ, thời tiết rất lạnh, đặc biệt ở tiểu bang xứ lạnh như Portland, OR  của chúng tôi thường có những ngày tuyết rơi.  

Thứ Năm 2-13-25  và Thứ Sáu 2-14-25, Portland có 2 tuyết rơi trắng xóa đầy đường.

 Những ngày đầu tiên mới đến  ở Portland vào tháng 1 mùa Đông, tôi hăm hở đón chào tuyết vì thấy tuyết rơi đẹp quá. Tôi mặc áo khoác lạnh, đội mũ, choàng khăn rồi chịu khó chạy ra ngoài sân trước nhà, cười duyên dáng, kêu ông xã ơi ới  ra chụp  cho tôi vài pô hình với tuyết để gửi về cho ba má, thân nhân, bạn hữu của tôi  ở Việt Nam xem cho vui.

Rồi thời gian trôi qua, niềm vui chào mừng tuyết bớt dần theo tuổi đời, theo sức khoẻ, tôi không dám chạy ra chụp hình với tuyết nữa vì sợ té, sợ lạnh, chỉ biết đứng qua khung cửa sổ chụp hình, quay cảnh tuyết rơi, rồi làm thơ về tuyết để làm kỷ niệm mà thôi.

 Mời bạn đọc bài thơ dưới đây:

 20250214_100341~2.jpg

Bên Song Cửa Nhìn Tuyết Đổ

Bên song cửa nhìn tuyết rơi nhè nhẹ

Từ trên trời bông tuyết trắng bay bay

Chẳng bao lâu bông tuyết trắng phủ đầy

Trên vườn cỏ, trên khóm hoa, khu phố

Nghe đâu đây lời kinh buồn phổ độ

Cho kiếp người nay hợp lại mai tan

Như tuyết kia, như hoa nở sẽ tàn

Khi nắng đến, khi mưa về! Tan tác!

Con người vốn có sẵn mầm thiện ác

Tùy cơ duyên hiển lộ cái Thiện Tâm

Như hoa kia vẫn trẩy nụ âm thầm

Trong Đông lạnh chờ Xuân về hé nụ

Dưới tuyết trắng cỏ non kia im ngủ

Tuyết tan rồi cỏ sẽ hiện liền ra

Như vô minh ở nơi cõi ta bà

Trí Tuệ đến Tâm Phật kia hiển lộ

Sẽ hướng dẫn người thoát ly biển khổ

Bằng từ bi, bằng nhân ái, thương yêu

Bằng bớt tham, sân, hận, dục lạc nhiều

Biết tri túc, thân tâm ta an lạc

Bát Chánh Đạo! Hãy làm lành lánh ác

Lục Hòa cùng tăng chúng với tha nhân

Dẫu lạ quen, tôi, bạn cũng vẫn cần

Lời thân ái trao nhau khi gặp gỡ

Nơi trần thế cửa thiên đường rộng mở

Đón chào người nhân ái có thiện tâm

Biết ăn năn, biết sửa đổi lỗi lầm

Tuyết Đông lạnh nhưng Tình Người vẫn ấm

Sương Lam

Tôi cũng mới thực hiện một youtube về 2 ngày tuyết trong tháng 2 năm 2025 vừa qua, mời quý bạn cùng vui đón tuyết năm nay với gia đình chúng tôi qua youtube dưới đây:

Tuyết ở Portland 2 -13 -25 và 2- 14- 25 – MSL Youtube    


20250214_101156.jpg

 Mời bạn đi xa hơn nữa để ngắm tuyết ở nơi giáp ranh Trung Nga trong chuyến du lịch của FAHOKA (Xê Dịch Khắp Thế Gian)  mà tôi vừa tìm được trên internet qua youtube dưới đây:

Nơi giáp ranh Trung Nga trông thế nào? Băng tuyết cực mê

FAHOKA (Xê Dịch Khắp Thế Gian)

Hôm nay người viết vừa mới nghe  xong bài thuyết giảng của Hòa Thượng Tịnh Không trên internet  về đề tài  “Thay đổi cách sống”, xin được chia sẻ cùng các bạn.

 Hòa Thượng đã nêu lên quan niệm giáo dục đạo đức đời sống của Đông Phương Trung Quốc và Tây Phương Âu Mỹ. 

 Đông Phương cho rằng đời người có bốn giai đoạn như bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông của đất trời.

1. Dưới 20 tuổi như Mùa Xuân  con người cần phải được giáo dục đạo đức.

2. Từ 20 – 40 tuổi như mùa Hạ con người cần phục vụ xã hội.

3. Từ 40 – 60 tuổi như mùa Thu con người cần truyền trao kinh nghiệm cho người kế thừa.

4. Sau 60 tuổi như mùa Đông con người cần về hưu để hưởng phước.

 Trong khi đó Tây Phương lại quan niệm:

1.  Tuổi trẻ là tuổi để hưởng thụ cho nên tuổi thơ được ví như đang sống trong thiên đàng.

2. Tuổi trung niên sống trong chiến trường tranh đua danh lợi

3. Tuổi già  sống buồn thảm  đi vào phần mộ.

Theo lời trình bày kể trên chúng ta cần phải chọn lựa và thay đổi cách sống như thế nào để có thể sống một cuộc đời an vui hạnh phúc, bạn nhỉ?

  Mùa Đông tuyết lạnh mà bạn nhận được nụ cười dưới đây của mẹ Teresa , chắc chắn bạn sẽ thấy vui lên một chút mà quên đi cái giá lạnh của mùa Đông. Mời bạn đọc cho vui nhé.

 Me Teresa 2.jpg

Bạn và tôi chắc chắn cũng đã từng gặp nhiều người cho ra thì ít mà muốn nhận lại thì nhiều. Những người này tiết kiệm từng nụ cười, từng lời nói ngọt ngào không chịu trao cho bạn bè thân hữu, thân nhân quyến thuộc mà lại đòi hỏi người khác phải đối xử tốt với mình, phải ngọt ngào với mình. Dĩ nhiên, nếu là một người có lương tâm trong sáng, bạn sẽ cho đấy là không công bằng (unfair) rồi đấy nhỉ? 

Nói theo kiểu bình dân thông thường là “tiền trao cháo múc”, ít ra bạn phải đưa ra một số tiền nào đó thì mới nhận được tô cháo kia, chứ tại sao lại muốn nhận vào mà không chịu đưa ra. Lạ thật!

Cũng vậy, muốn nhận nụ cười, tình thương mến nơi người khác thì chúng ta phải trao cho họ nụ cười và tình thương mến trước chứ đừng đòi hỏi họ phải trao cho mình nụ cười, tình thương mến trước rồi mình sẽ trao lại sau hoặc là không trao lại gì cả. Hãy cho đi rồi bạn sẽ được nhận lại thì đời sống sẽ tốt đẹp hơn như câu chuyện của Mẹ Teresa dưới đây:

Hãy cho nhau nụ cười

Có lần mẹ Têrêsa thành Calcutta kể lại câu chuyện như sau:

Nhiều người đến thăm tôi tại Calcutta và trước khi ra về thường ngỏ ý với tôi: “Xin cho chúng tôi một lời khuyên để chúng tôi sống tốt đẹp hơn”.

Tôi liền bảo họ: “Quý vị hãy về và hãy ban tặng cho nhau những nụ cười. Một nụ cười cho vợ của ông. Một nụ cười cho chồng của bà. Một nụ cười cho con cái của ông bà. Hãy cười tươi với tất cả mọi người, bất luận người đó là ai. Với những nụ cười tươi như thế quý vị sẽ lớn lên trong tình yêu hỗ tương”.

Nghe vậy một người trong nhóm hỏi tôi:

– Bà có lập gia đình không?

Tôi gật đầu và nói:

– Ðôi khi tôi cũng cảm thấy khó nở một nụ cười với vị hôn phu của tôi.

Và mẹ Têrêsa kết luận:

– Ðúng thế, Chúa Giêsu có thể đòi hỏi rất nhiều. Và chính khi Ngài đòi hỏi như thế thì không gì đẹp cho bằng nở một nụ cười thật tươi với Ngài

Lạy Chúa! Nụ cười không mất tiền mua, không phải vất vả cực nhọc để đi xa mang về… Nụ cười thật dễ dàng để xuất hiện trên môi miệng và trên khuôn mặt nhưng sao con lại thấy thật khó khăn vất vả để trao tặng nụ cười trên khuôn mặt của con cho những người xung quanh… Con đã thay thế nụ cười bằng những cái nhăn mặt méo mó, bằng những ánh mắt giận dữ, bằng những cái lắc đầu xua tay và đôi khi bằng những lời nói làm đau lòng người khác. Xin cho con luôn ý thức rằng: mỗi khi con mang nụ cười đến cho những người xung quanh chính là lúc con dâng lên Thiên Chúa tình yêu và nụ cười, sức sống và hy vọng của đời con. Amen.

 (Nguồn: Sưu tầm trên internet)

Mời Bạn xem Youtube dưới đây để làm kết luận cho bài tâm tình hôm nay của người viết nhé.

Youtube Một Cõi Thiền Nhàn Suong Lam – Mùa Đông Portland

Chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé. 

 Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn

Sương Lam

(Tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi-MCTN 749- ORTB 1180-2-19-25)

Sương Lam

Website: www.suonglamportland.wordpress.com

http://www.youtube.com/user/suonglam




SA CHI LỆ: MỜI QUÝ THÂN HỮU CHIA SẺ CHANNEL NHỮNG DẤU ẤN LỊC SỬ: Đổ bộ vào Thanh Hoá – Hồi ức chiến tranh – Tác giả: Nguyễn Văn Kha (RESPECTFULLY INVITE FRIENDS TO SHARE THE CHANNEL OF HISTORICAL IMPRESSIONS: Landing in Thanh Hoa – Memories of war – Author: Nguyen Van Kha)




THƠ LÊ TUẤN – TẾ LUÂN – Tôi Nợ Em – Bài thơ tình

image.png

Tôi Nợ Em
Tôi nợ tình em thời nữ sinh

Nợ thời áo trắng gái đoan trinh

Nợ em nụ tím cài trên tóc

Nở cả trời thơ những đoạn tình.

*
Nợ em thuở ấy còn trong trắng

Cả nét ngây thơ chiếm cõi hồn

Nợ trái tim hồng hay loạn nhịp

Nợ tình chiếm hết cõi lòng son.

*
Tôi nợ tình em cả giấc mơ

Nợ thời con gái cả hồn thơ

Ngôn tình hoa bướm đầy trang giấy

Nắn nót thêu hoa những đợi chờ.
Tế Luân

image.png

Đồng Cảm Yêu Thương

Nâng ly cạn chén rượu đầy

Thanh âm vang động tình này riêng em

Đôi môi khát vọng cơn thèm

Áo em tơ lụa rũ mềm vấn vương.

*
Hồn thơ uốn lượn mười thương

Men say tình ái miên trường chơi vơi

Em cùng ta cả một đời

Bên nhau cùng bước rong chơi tháng ngày.

*
Nhánh hoa xuân nở trên tay

Đem thân hiến trọn tình này trăm năm

Lắng nghe tiếng gọi xa xăm

Từ nơi sâu thẳm mù tăm phận người.

*
Buồn vui theo tiếng khóc cười

Thời gian điểm hóa bước dời tuổi xuân

Sợ gì một đóa phù vân

Tình thôi ngấn lệ còn ngần dáng hương.

*
Ta tìm trong cõi vô thường

Lật trang thánh sử hiến chương huy hoàng

Chữ yêu chạm khắc dát vàng

Đem vào cung điện bảo tàng tình nhân.

*
Trăm năm theo bước đường trần

Ngẩn ngơ quên mất mang thân phận người

Vàng phai gió núi mây trời

Ngẫm ra mới biết cuộc đời hoang sơ.
Tế Luân

image.png

Nhớ Ngày Xuân

Nỗi buồn

níu bước chân ai

hư vô bỏ trống

nối dài mộng du

hồn đi xuyên thấu sương mù

qua thu gió thổi

lạnh từ đông sang.

một mình

vẫn bước lang thang

nhờ em săn sóc

mùa màng nở hoa

lửa cuồng nhiệt muốn bôn ba

đường chiều xa tít

mù sa ngại ngần

dính vào nhau hết mùa xuân

theo cơn đồng thiếp

bước chân nhịp nhàng

trời xuân vàng cội gốc xanh

môi son đỏ thắmmột vành đôi mươi.

nhớ về em

mím môi cười

da thơm lụa mỏng

bước dời gót xuân.
Tế Luân




KIỀU MỸ DUYÊN: NGƯỜI ĐẾN TỪ RỪNG NÚI KONTUM: LINH MỤC PHAN TỰ CƯỜNG – BIẾT NGƯỜI BIẾT TA, TRĂM TRẬN TRĂM THẮNG – LẠC QUAN, YÊU NGƯỜI, YÊU ĐỜI MÀ SỐNG. GIỚI THIỆU VỀ VIỆC CHA PHAN TỰ CƯỜNG SẼ GHÉ SAN JOSE & gặp gỡ đồng hương.




VĂN THƠ LẠC VIỆT- ĐẶC SAN XUÂN ẤT TỴ-2025

***

***

Tưởng Em Còn Đang Ở Huế

**
Vẫn cứ tưởng em đang còn ở Huế
Nên anh về tìm lại chút hương xưa
Để đứng chờ bến Thừa phủ chiều mưa
Và lóng ngóng bên cổng trường Đồng Khánh

*
Mưa vẫn mưa chẳng bao giờ thấy tạnh
Em vẫn lạnh lùng muôn thuở trời đông
Anh đã đi và quay lại chốn lọt lòng
Vẫn không thấy nơi em duyên tình cũ

*
Vẫn cứ tưởng Huế còn em Tôn nữ
Bến đò xưa hai chuyến đến và đi
Áo trắng dài mang bao mối tình si
Anh tinh khiết đợi chờ và vỡ mộng

*
Vẫn cứ tưởng Huế trời cao đất rộng
Chốn dung thân không nỡ bỏ mà đi
Tưởng là em khép kín tuổi xuân thì
Ôm chặt Huế cho muôn đời còn Huế

*
Vẫn cứ tưởng nên trở về (dù trễ)
Còn may ra tìm lại chút dung nhan
Của riêng em và của Huế muộn màng
Cho mình thấy được mình còn hạnh phúc

*
Em còn ở Huế sao vẫn buồn ly hận
Nét ưu tư chìm đắm cả mày ngài
Em ở đó còn có chút ngày mai ?
Hay đã mất thiên thu trời phố thị

*
Nếu còn ở Huế, xin đừng trách anh tệ
Nắng vàng phai, anh cũng lắm vàng phai
Quay trở về tìm qúa khứ dông dài
Xin em cứ thay anh gìn giữ Huế

*
Em vẫn còn ở Huế thì tim anh không bi lụy
Không pha màu ngang trái chuyện chia ly
Để bên này bên nớ chẳng hề chi
Có em ở huế sông xưa xanh mát mãi

*
Tưởng em còn ở Huế nên năm chờ tháng đợi
Vẫn tìm ra dấu vết bước thăng hoa
Trong khóe mắt dầu pha trộn nhạt nhòa
Vẫn tìm thấy bạt ngàn màu sắc Huế

Nếu em còn ở Huế. Anh về. Sẽ ghé
Con đường xưa áo trắng bóng em qua
Núi Ngự kia. Sông Hương nọ. Hẹn hò
Dành cho Huế (và em) đời miên viễn

*
Dẫu em còn ở Huế (hay không) . Anh vẫn đến
Để biết mình còn máu Huế trong tim
Để đất trời dù mưa gió ngã nghiêng
Về với Huế trong nghĩa tình hoài vọng

*
Xin em đừng bỏ Huế với mùa Xuân bất tận
Để anh về còn hoa nở tối ba mươi
Để nhìn em trong lòng Huế rạng môi cười
Cho Huế mãi ngàn thu là Huế cũ

*
NGUYÊN PHƯƠNG

Chợt Nghĩ

Môt chiếc lá vàng rơi
Một mùa đông băng tuyết
Một tuổi đời nổi trôi
Một đời người cạn kiệt

Tháng ngày qua kẽo kẹt
Mưa nắng buổi hoàng hôn
Tối trời trời tối sớm
Nhăn nhó nước da mòn

Hong tuổi già chờ đợi
Gió lùa nhẹ chơi vơi
Liu riu đêm chờ sáng
Ngày đến rồi vội trôi

Xoa tay còn mười ngón
Ngón cái hãy còn suông
Sao không tìm ngón út
Để nắm lại vuông tròn

Nay còn nhìn nhau nói
Mai chẳng nói chẳng nhìn
Chiếc lá vàng cỏn rụng
Chợt nghĩ đến niềm tin

NGUYÊN PHƯƠNG
Xuân 2023

Chiến Thắng Đống Đa, Mồng 5 Tết, Xuân Kỷ Dậu!

Họp Khóa trên trời

Giao Chỉ báo cáo họp khóa quân trường

Cương Quyết Đà Lạt 1954.

Chúng tôi đã báo cáo bằng hữu quá nhiều lần. Có thể đây là lần cuối. Thứ bảy vừa qua anh em chúng tôi hợp khóa 3 người. Bác Lộc, bác Đôn và thêm bác Đạt. Vũ Văn Lộc, Vũ Thượng Đôn và Phạm Mạnh Đạt nhập ngũ khóa trừ bị tại trại Ngọc Hà, Hà Nội tháng 3 năm 1954. Cùng tuổi trên dưới 20. Bây giờ ngoài 9 chục. Thêm bác Trịnh Tùng không quân đã lên đường trước 2 năm. Bác Tùng là niên trưởng đã 95. Vào Đà Lạt chỉ có tôi và bác Đôn. Bác Đạt bị bệnh nên được trả về Hà Nội để làm nghề nhạc sĩ. Tay chơi hạ uy cầm nổi tiếng một thời, nay lưu lạc về San Jose gặp lại anh em bèn tham dự ngày họp khóa cao niên. Con gái bác Đôn tổ chức họp bạn đầu xuân để tuổi 60 toàn áo dài chúc thọ các ông già 9 chục. Giữa thế giới chiến tranh và nước Mỹ chính trị điên đảo, chúng tôi tạm quên thế sự để vui xuân Ất Tỵ bước vào năm 2025 vừa tròn nửa thế kỷ lưu vong. Dù tạm vui với tuổi cao niên nhưng mãi mãi không quên nhiệm vụ. Bác Giao Chỉ xin nhắc lại các mẩu chuyện đáng ghi nhớ của cả khóa một đời.

Ba trăm anh em chúng tôi trong tuổi động viên trình diện tại Ngọc Hà, Hà Nội. Phần lớn tuổi 20 và một số nhỏ có cả vợ con. Máy bay Tây chở anh em ta vào Sài Gòn nhưng trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức hết chỗ nên GMC đưa khóa sinh Cường Quyết động viên vào học trường hiện dịch Đà Lạt. Xin nói lại một lần cho đúng, Khóa Cương Quyết Thủ Đức vốn là khóa 4 của ông trung tướng Ngô Quang Trường và ông trung tá Nguyễn Mộng Hùng tức Hùng sùi. Khóa 4 phụ Cương Quyết Thủ Đức vào sau 4 tháng là khóa của đại tá Lê Khắc Lý và trung tá Đỗ Hữu Nhơn. Riêng khóa chúng tôi có thể gọi là khóa tư phụ trừ bị Cương Quyết học tại Đà Lạt. Sau này thì chiến tranh kéo dài nên chẳng còn phân biệt trừ bị hay hiện dịch.

Điểm danh Cương Quyết tại San Jose. Như vậy vào đầu năm 2025 điểm danh Cương Quyết trước sau tôi được biết có anh Hùng Sùi khóa tư chính. Khóa Cương Quyết Đà Lạt còn anh Đạt, anh Đôn, anh Bùi Quý Chiến và Giao Chỉ. Đặc biệt tôi đã có dịp đi thăm 3 anh rất đáng ghi lại. Anh Lê Văn Bang nằm trong trại cao niên của bác sĩ Ngãi. Cả hai vợ chồng đều ở trong này. Hôm nay vào thăm không thấy chị Bang. Tôi hỏi vợ đâu. Bang cố trả lời. Về rồi. Tôi hỏi về đâu. Bang nằm im lặng. Không còn nói năng chi. Tôi buồn bã bắt tay anh rồi từ giã. 

Bước qua khu bên cạnh tìm lối vào thăm Ngô Văn Định, đại tá lữ đoàn trưởng một thời mũ xanh đánh trận Quảng Trị. Tôi hỏi có nhận ra ai không? Định nói Lộc. Và hỏi tiếp. Ngoài đó còn tay nào không? Tôi nói. Cũng chẳng còn ai. Tôi đọc tên các bạn. Có người anh biết. Có người cũng không biết. Tôi nhắc chuyện các bạn ra đi. Định có nhớ Nghiêm Kể. Trung tá Công Bình Nghiêm Kể bị địch bắt trận Tân Cảnh năm 72. Qua năm 73 được thả về ở Quảng Trị. Trung tá nhảy dù Nguyễn Thế Nhã đi đón tù binh Nghiêm Kể trở về đã nói rằng: Kế ơi, sao đời mày khốn nạn thế này. Kế nói. Chúng nó hô: Hàng sống chống chết. Hôm nay chúng mày thấy tao còn sống chưa chết. Chỉ 2 tháng sau trung đoàn trưởng Nguyễn Thế Nhã của Sư đoàn 1 bị đại bác nổ mất đầu. Đám ma chôn tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Sài Gòn. Tôi làm cho đại tá Nhã vòng hoa cườm Thương tiếc Nguyễn Thế Nhã Anh hùng. Nghiêm Kế khóc bạn nói rằng Nhã ơi Nhã, sao đời mày khốn nạn thế này. Tôi chia tay với Đồ Sơn, Ngô Văn Định sau khi nhắc lại 3 anh bạn cùng khóa đánh trận Quảng Trị đều là SVSQ của đại đội 6 Đà Lạt.

Đại tá Phạm Văn Chung mũ xanh và đại tá mũ đỏ Trần Quốc Lịch. Anh em đi cả rồi. Ngay cả trung tá Đỗ Đình Vương trước làm phó cho Định rồi về làm trung đoàn trưởng cho Sư đoàn 5 cũng đi rồi. Sau cùng chúng tôi nhắc đến Nguyễn Hữu Luyện, đại uý nhảy Bắc từ 1966. Tôi cho Định biết Luyện hiện nay vừa yếu vừa mơ màng chẳng còn biết gì nữa. Trong số anh em tôi biết chỉ còn Bùi Quý Chiến cũng ở San Jose vẫn tinh tường tuy điếc nặng, Tôi bắt tay Định rồi ra về. Hẹn sẽ gặp lại vào 30 tháng tư. Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Tuổi này thời gian không tính năm tính tháng. Chỉ tính bằng ngày. Nào biết có còn đến tháng tư hay không. Sợ thì ông đếch sợ. Nhưng buồn thật là buồn. Bạn bè chẳng còn ai cũng trang lứa. Bèn gọi cho cô Hồng Phượng bàn giao chức hội trưởng Cương quyết Đà Lạt cho người phụ nữ trường đầm. Phu nhân của trung tá Lê Xuân Định nguyên giám đốc USCC LA. Giao Chỉ sẽ lên hợp khóa trên trời.

Bài thơ họp khóa 20 năm trước 

Giao Chỉ San Jose.

Thôi rồi. Lại thêm 1 đêm mất ngủ. Tôi không bao giờ là thi sĩ. Nhưng 20 năm trước có làm một bài thơ. Tháng 3 năm 2004 tôi tổ chức họp khóa 50 năm tại quận Cam. Cái khóa lạ lùng của chúng tôi có 300 thanh niên 20 tuổi Bắc Kỳ động viên vào khóa Tư Phụ trừ bị nhưng Thủ Đức hết chỗ nên đưa lên học Đà Lạt. Kỳ đó tập hợp được 70 người. Tất cả 8 trung đội, mỗi trung đội cũng còn khoảng dưới 10 người. Tuổi trung bình trên 70. Còn phong độ và còn hào hứng. Tôi viết một bài thơ kể cuộc đời của cả khóa. Rất hãnh diện và tự cho là bài thơ rất hay. Nhưng mấy năm nay lạc mất tiêu. Đêm nay lục trong hồ sơ Việt Báo đã tìm thấy. Nếu còn nước mắt là khóc đấy. Cả khóa 300 sau 50 năm về họp 7 chục. Chỉ có 20 năm qua mà tôi viết lời phân ưu quá trời. Tưởng mình trở thành nhân viên nhà đòn hay thuộc đơn vị Chung Sự. Trong bài thơ này có một câu tôi viết tự cho là xuất sắc nhất. Hỏi rằng Chết nhiều như vậy có sợ không. Đáp rằng: Sợ thì ông đếch sợ nhưng buồn thật là buồn. Lại hỏi rằng: anh em còn ít quá hội hè làm sao. Lại đáp rằng: Còn thằng nào chơi thằng đó. Năm vừa qua họp mặt lèo tèo chẳng bao nhiêu. Chỉ còn toàn quý bà quả phụ. Ông hội trưởng mời quý phu nhân ra chụp hình hàng ngang. Một bà nói rằng anh có lấy hết được không. Tôi đáp chụp hết thì được, lấy hết không được. Một vài người thôi. Mời các bạn vui lòng đọc bài thơ họp khóa của tôi. Một lần làm thi sĩ. Thơ rằng:

Thưa chư liệt vị. 

               Khóa chúng tôi đây. Dở giăng , dở đèn.  Môn chẳng ra môn, khoai chẳng ra khoai.  Cầm giấy khai sinh Thủ Đức, chẳng phải đấng sinh thành.  Công ơn dưỡng dục mẹ nuôi, đàn con nhớ về Đà Lạt. 

              Năm hai mươi tuổi, anh đi quân đội.  Ngày vào trường, năm Năm Mươi bốn. Tổ quốc còn đủ hai đầu Sài Gòn-Hà Nội. Khi mãn khóa ngày Một Tháng Mười.  Genève cưa đôi đất nước, chia ra hai mảnh Bắc Nam.  Đang thụ huấn, Điện Biên Phủ, Tây kéo cờ hàng. Trong quân trường, điểm trung bình, đôn lên hai nấc.  Lúc quỳ xuống, vẫn còn là sinh viên sĩ quan. Khi đứng lên, có anh chỉ còn cặp lon trung sĩ.  Chân dậm đất, tay đấm ngực, miệng kêu trời. Rồi sau cùng, Dù lính dù quan, cũng chia nhau mà về đủ các vùng chiến thuật.                                                         .                    

Anh đội mũ đỏ nhảy dù, tôi về mũ xanh lính thủy. Đi tới đi lui cũng quanh quẩn Cà Mau-Bến Hải.  Sáu mươi phần trăm lấy vợ Nam Kỳ…Bỏ lại nửa mối tình đầu Hà Nội. 

Hai mươi mốt năm, chinh chiến ngược xuôi.  Anh đi tàu suốt, tôi ốm yếu xanh xao…Nhận sổ quân y ba mươi ngày tái khám.                      .                    Người lên lon lá huy hoàng, ngực đỏ huân chương cứu quốc. Có cậu lả lướt dăm bảy mảnh tình. Có anh hiền lành, giữ mãi tơ duyên một chỗ.

   .                Vào cuộc chiến, tôi đánh Bình Xuyên. Xuống miền Tây, ông vây Hòa Hảo.  Vào trận Mậu Thân, bị đánh phủ đầu, Quân ta đã huy hoàng đứng dậy.  Mùa Hè đỏ lửa, bị địch quân đập trúng ngang lưng. Mà sao lính Cộng Hòa vẫn còn gân mạnh mẽ phi thường.

.                   Từ Bình Long anh dũng, Nguyễn Kiếm Diệm gan lỳ ngồi trên nóc hầm, đội pháo, ăn cơm.  Cho đến khi vào Hạ Lào gian khổ, Ngô Lê Tĩnh đái một bãi trên đất Tchepone, theo đúng lệnh quân hành ông Thiệu.

.               Nhưng chiến tranh đâu phải chuyện đùa. Nhất tướng công thành vạn cốt khô.Giữa chốn sa trường Quảng Trị,  Xuân Phan đền xong nợ nước. Trong hầm hành quân Hạ Lào, Văn Hiền tự sát hiển linh. 

.                       Rồi có lệnh hạ thành Quảng Trị.  Nhảy dù Quốc Lịch thay quân cho mũ xanh Ngô Định lên phiên. Hào khí ngất trời.

.                 Cho đến ngày trời sầu đất thảm tháng Tư Đen. Đỗ Đình Vượng dẫn trung đoàn về đồn trại thân yêu. Ngước nhìn trời Lai Khê thấy cay cay khóe mắt. Người ngậm tăm, súng đeo vai buồn bã.  Ăn trưa với ông Tư Lệnh cơm nuốt không vô. Miếng vải trắng ai đã treo trên nóc ngọn cờ.  Lê Nguyên Vỹ đi một đường tự sát. Đình Vượng cho quân lính tan hàng để sĩ quan Cương Quyết xếp hàng, vào tù cải tạo. Riêng Nguyễn Đình Duy tự kết liễu cuộc đời cùng với thành Sài Gòn sụp đổ. 

Kính thưa chư liệt vị, Khóa chúng tôi đây,  Khóa di cư chạy loạn, từ Bắc vào Nam cùng  nhân dân đã kiến tạo hai nền Cộng Hòa… và hai mươi mốt năm xây nhà, dựng nước.

                   Paris ký Hiệp Ước Hòa Bình, Nguyễn Thế Nhã đón tù binh Nghiêm Kế trở về bến sông Thạch Hãn.  Tưởng rằng phen này trong ấm ngoài êm.Chẳng hiểu vì sao, chỉ một tháng trời oan nghiệt, quân cán chánh chạy dài từ dọc xuống ngang… để anh em chúng tôi cũng phải chia phần, làm tan đàn sẩy gánh.

Đám nhanh chân chạy thoát khá nhiều, người ở lại chịu đọa đày cũng lắm. Bước chân đi mặt còn ngoảnh lại, phía chân trời xiềng xích trông theo.

.    HO qua Mỹ, tổn thất quá phần ba. Gặp lại anh em vừa yếu lại vừa già. Hai mươi mốt năm chinh chiến đã trôi qua. Thêm hai mươi chín năm cải tạo cộng với lưu đày. Là vừa đủ năm chục năm tròn gian khổ.

.   Vì vậy nên mới có hôm nay, tháng Ba năm Lẻ Bốn. Chúng tôi về đây, dành lại một ngày cho Năm Mươi Năm Họp Khóa Ngậm Ngùi. Để đếm đầu người, xem anh em, ai còn, ai mất.

.   Ba trăm chàng trai đất Bắc, giờ đây chỉ còn lại bảy chục bác cao niên. Già thật là già. Lão ơi là lão.  Nước mắt đã khô rồi. Gặp nhau chỉ cười thôi. Đây là lần đầu nhưng biết đâu đây sẽ là lần cuối. Sợ thì ông đếch sợ, nhưng buồn thật là buồn. 

Thưa quý vị

                Bầy ong thợ về già sẽ bay đi bốn phương trời trong cuộc hành trình vĩnh biệt. Nhưng con cá Hồi suốt đời vùng vẫy biển khơi vẫn phải trở về họp bạn ở nơi nguồn gốc. Khóa chúng tôi không phải lũ ong chơi xong rồi bỏ cuộc. Chúng tôi là những con cá Hồi lương thiện, năm mươi năm trở về tìm lại anh em.

        Vì vậy nên có thơ rằng:

Hai mươi năm tuổi trẻ, hai mươi năm chiến chinh.

Hai mươi năm tù ngục.

Hai mươi năm điêu linh.

Năm bảy lăm tiền kiếp.

Tháng tư đuổi sau lưng.

Mang tuổi đời chồng chất,

cùng vượt thác băng ngàn.

Tuổi hoa niên cắt ngắn. mái tóc bạc dài thêm.

Tay nắm tay cằn cỗi. 

Lòng mở rộng tấm lòng. 

Năm mươi năm hội ngộ. 

Một thế kỷ vừa qua.

Hoa mai vàng nở sớm.

Gặp nhau những muộn màng   

(Giao Chỉ, tháng 3-2004.)     

 

Từ  Việt Museum San Jose đến Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam tại Hà Nội.

Bài của Giao Chỉ:                                                                                              

Tâm thư trong năm lưu vong thứ 50 tại Hoa Kỳ

Thân gửi các chiến hữu VNCH

Sau đây là tài liệu trích dẫn nguyên văn báo chí và hình ảnh tại Hà Nội:

Chia sẻ :”Từ ngày 01/11/2024, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam chính thức mở cửa đón, phục vụ khách tham quan và miễn phí tham quan đến hết tháng 12/2024.

Bảo tàng mới được xây dựng với thiết kế hiện đại, tạo một không gian chung để khách tham quan tương tác và trải nghiệm 

Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam được Bộ Quốc phòng đầu tư xây dựng mới trên địa bàn hai phường Tây Mỗ và Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội từ năm 2019, trên diện tích 386.600m2

Bảo tàng hiện đang lưu giữ hơn 150.000 hiện vật, trong đó có 4 bảo vật quốc gia và nhiều hiện vật quý.

 Diện mạo mới của Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam: Khu nhà bảo tàng nổi bật với sân trước và tòa tháp Chiến thắng cao 45m, cùng với đó là khối nhà bảo tàng gồm 4 tầng nổi và 1 tầng trệt, diện tích xây dựng 23.198m2. Tổng diện tích sàn tòa nhà chính rộng 64.640m2, tổng chiều cao 35,8m.

Cánh bên phải, trái là khu trưng bày các hiện vật ngoài trời. Phía bên trái, trưng bày những vũ khí, trang bị của Quân đội và nhân dân Việt Nam sử dụng trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ xâm lược và sử dụng trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước.

Phần nhận định của Giao Chỉ

Với tư cách là người đơn phương sưu tầm và xây dựng Việt Museum tại San Jose, chúng tôi rất quan tâm đến dự án Bảo tàng của quân sự Hà Nội. Đã xem qua các đoạn phim triển lãm và xin ghi nhận như sau.

Hà Nội đã dành rất nhiều công phu, tiền bạc và tài liệu để hoàn tất một công trình tuyên truyền vĩ đại về cuộc chiến tranh Việt Nam. Trên khu đất mênh mông, các kiến trúc sư đã xây dựng một bảo tàng viện tuyên truyền, và ngày khai mạc đã có hàng ngàn dân chúng đến thăm viếng. Hà Nội đã sử dụng tối đa các chiến lợi phẩm do Hoa Kỳ và VNCH bỏ lại trên chiến trường để phô trương các chiến thắng trong chiến tranh. Không phải bảo tàng viện lịch sử.

Trong ngôi nhà bảo tàng kiến trúc theo kiểu Tây phương nhưng nội dung rất nặng về tuyên truyền một chiều. Không phản ánh thực sự cuộc chiến tranh, dù là đứng về phe cộng sản, từ ngày nổi dậy sau Đệ nhị Thế chiến (1939-1945) cho đến 1954 bắt đầu chiến tranh Nam – Bắc. Điều rất đáng tiếc là với biết bao nhiêu tiền bạc và công phu, nhưng Việt Nam không đủ sức vượt qua nhu cầu gian dối để bỏ qua những đau thương thực sự của cuộc chiến tương tàn tại Việt Nam.

Ngay từ những ngày đầu, người quốc gia Việt Nam đã phải lựa chọn giữa hai con đường: theo Pháp đánh cộng sản hay theo cộng sản đánh Pháp. Tiếp theo sau Hiệp định Genève 1954, cả miền Nam xây dựng trong 21 năm vừa chiến đấu vừa bảo vệ tự do không có mặt trong chiến sử. Các trận đánh từ Mậu Thân 1968 đến mùa hè 1972 với Kontum, Bình Long và Quảng Trị hoàn toàn bị chôn vùi trong quân sử cộng sản. Trong chiến tranh, Hà Nội qua thời kỳ đấu tố và bao cấp. Không hề có dấu vết về những sự hy sinh to lớn của cả thế hệ thanh niên miền Bắc và dân quê của phong trào Giải phóng miền Nam.

Sau chiến tranh, không hề có tài liệu về hậu chiến. Không hề thấy tài liệu về hàng ngàn trại tù và trăm ngàn tù nhân “Học tập cải tạo” từ 3 năm cho đến 17 năm gian khổ oan khuất. Tuyệt nhiên không hề có tin tức về hậu quả của công cuộc “giải phóng miền Nam” của quân đội cộng sản miền Bắc.

Tất cả đều thể hiện bằng một chiếc xe Jeep cộng sản cướp được từ miền Trung và chạy theo đoàn quân tiến về Sài Gòn, được sơn phết cải lương xanh đỏ, được xưng tụng là di vật anh hùng của trận chiến thắng sau cùng. Và thực sự, chuyện sau cùng là quân sử chiến tranh của cộng sản không thể đề cập đến hàng triệu người dân Việt đã bỏ nước ra đi sau khi được “giải phóng”. 300 ngàn người đã hy sinh trên đường tìm tự do, và ngày nay đã gửi về quê hương hàng tỷ Mỹ kim để nuôi đất nước giàu mạnh tiếp tục gian dối với lịch sử dân tộc.

Quân sử cộng sản Việt Nam đã hoàn tất một viện bảo tàng vĩ đại và gian dối với lịch sử. Các anh đã bỏ quên hàng trăm ngàn lính trẻ sinh Bắc tử Nam vẫn còn nằm mãi mãi ở dãy Trường Sơn, ở cả hai bên từ Đông sang Tây.

Điều khác biệt là tại Việt Museum nhỏ bé ở San Jose vẫn còn vĩnh viễn mô hình của Nghĩa trang Quân đội VNCH tại Biên Hòa với bia mộ 16 ngàn tử sĩ.

Để đối trọng với Bảo tàng Viện vĩ đại của quân đội cộng sản Hà Nội, chúng ta có một Việt Museum nhỏ bé tại San Jose nhưng hết sức ý nghĩa, thể hiện sự can trường trong chiến bại của anh em ta. Tại đây tuyệt đối không có đại bác, tàu bay hay chiến xa. Chỉ có hình ảnh của người chiến binh và cây súng trường. Bản đồ và thống kê con đường vượt biển tìm tự do. Các tượng đài trận đánh và chiến thắng từ 1968 đến 1973. Những cái chết anh hùng tự sát tháng Tư năm 1975.

Di sản anh hùng của bảo tàng miền Bắc là xác chiếc máy bay B52 của Mỹ nằm lại tại Hà Nội. Di sản nhỏ bé của Việt Museum là chiếc gạt tàn thuốc tầm thường của tướng Lê Văn Hưng – người anh hùng tự thủ thành công trận Bình Long vào chiều 30 tháng Tư tại Cần Thơ. Ông đã hút điếu thuốc lá cuối cùng, gạt tàn thuốc và dặn vợ nuôi con rồi tự vẫn bằng cây súng lục. Chiếc gạt tàn thuốc được đặt cạnh những ngôi sao cấp tướng Hoa Kỳ đầu tiên của cậu bé thuyền nhân Lương Xuân Việt.

Bên cạnh đó là chiếc đồng hồ của phi công VNCH Bùi Đại Giang, chỉ đúng một giờ khi anh và máy bay đâm đầu xuống đồng ruộng quê hương tại Hồ Bò, Hậu Nghĩa. Chúng tôi đã tảo mộ tìm xác anh phi công trẻ Bắc Kỳ di cư với toàn bộ quân phục và tài liệu. Hình ảnh còn lại của anh phi công miền Nam trẻ đẹp tuyệt vời đã làm rung động cả làng cộng sản đi đưa đám ma chôn lại trên khu đất phi cơ đâm đầu xuống.

Vâng, thưa các chiến hữu, tại Việt Museum của chúng tôi đã có các tượng đài bên ngoài và 200 di vật, tác phẩm nhỏ bé bên trong. Các họa phẩm về thuyền nhân do chính các thuyền nhân đã hy sinh sáng tác. Những bức hình thuyền nhân vào được gần bờ phải tự mình đánh đắm thuyền để được cứu vớt. Câu chuyện phải kể lại: anh chồng đục thuyền chìm rồi quay lại thấy vợ con đã trôi theo con thuyền tự mình đánh đắm.

Di sản của Việt Museum bao gồm những chiếc thùng chứa đồ thật lớn của HO, đem theo các đồ làm ruộng và nhà bếp. Bên ngoài ghi rõ là HO 15. Chúng tôi không đem theo được cái cột đèn mà mỗi đêm các cháu vẫn ra ngồi học bài.

Việt Museum nhỏ bé không hề tuyên truyền. Tất cả đều là sự thực đầy ý nghĩa của cuộc chiến, nhưng không tránh được thất bại cuối cùng. Viện bảo tàng thuyền nhân và Việt Nam Cộng Hòa không phải là nơi tuyên truyền dối trá suốt nửa thế kỷ thời hậu chiến.

Bức tường với một ngày trong đời người tù binh Cộng Hòa trong ngục tù cộng sản. Những tấm giấy của người tù ra trại với tội “Y tá” hay “Thầy giáo” trở thành tấm vé cho cả gia đình qua Mỹ tìm tự do, được đưa vào khung ảnh tấm áo ra trường của con em tốt nghiệp.

Một khu trưng bày đơn sơ nhưng thực sự là bao gồm các di sản của thuyền nhân dưới đáy Biển Đông. Qua thực tế với những di sản sưu tầm được, gồm 200 món hàng, đã làm Việt Museum xứng đáng là nơi ghi dấu lịch sử duy nhất trên thế giới của Người Việt Tự Do.

Trang Thơ Lê Tuấn – 50 Năm Xa Xứ 11975-2025




Mùa Xuân Này Nắng Lên | Minh Thúy Thành Nội