KIỀU MỸ DUYÊN: CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA – ANA REAL ESTATE – JUNE 25 2025
VTLV – TRANG ĐẶC BIỆT: VĂN THƠ & Sự Kiện TƯỞNG NIỆM NGÀY QLVNCH 19/06
**
*
VTLV MỪNG NGÀY QUÂN LỰC VNCH 19/06
*
VĂN THƠ Thung Lũng phố Hoa Vàng
LẠC VIỆT – đồng hương đã họp đoàn
MƯỜI CHÍN – Việt Nam thời dũng mãnh
THÁNG JUNE (06)- Quân Lực thuở huy hoàng
Nhớ ơn hào kiệt vào nguy hiểm
Tưởng niệm anh hùng vượt khổ gian
Chiến đấu không sờn quên tính mạng
Tận cùng phút cuối, giữ giang san.
Phương Hoa – BBT VTLV – 19/06/2025
Thông Báo:
Lễ Đặt Vòng Hoa Tưởng Niệm Tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ San Jose, Đúng Sáng Ngày Quân Lực VNCH 19 Tháng 6 năm 2025!
–Trong mục đích tưởng nhớ và vinh danh các Chiến Sĩ VNCH đã hy sinh để bảo quốc an dân, giữ vững Miền Nam tự do, no ấm trên 20 năm và cùng một lòng yểm trợ đồng bào quốc nội, trong cuộc đấu tranh cho quê hương Việt Nam, sớm được tự do, dân chủ, phú cường và không cộng sản.
Ủy Ban Thúc Đẩy Xây Dựng Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ và Lực Lượng Sĩ Quan Thủ Đức, cùng phối hợp, để cử hành lễ đặt vòng hoa, trước tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ, trong khuôn viên vườn truyền thống Việt, 1499 Roberts Ave, thành phố San Jose, tiểu bang California. Đúng 10 giờ sáng Ngày Quân Lực VNCH 19 Tháng 6 năm 2025! Tức sáng thứ 5, tuần này!
Chúng ta, là những người Lính năm xưa, những Cựu Quân Nhân Quân Lực VNCH, phải lưu vong nơi xứ người hơn 50 năm qua. Nhưng trách nhiệm của một quân nhân VNCH vẫn còn đó và phải tiếp tục dù bất cứ và nơi nào, với Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm!
Trân trọng kính mời tham dự.
Đại diện Ban tổ chức:
Lê Văn Hải và Nguyễn Minh Đường
LỊCH SỬ NGÀY 19/06
Ngày 19 tháng 6 năm 1965. Kể từ giờ phút lịch sử này, QLVNCH vinh dự gánh vác thêm trọng trách nặng nề nhất đối với quốc gia, dân tộc. Người Lính VNCH ngoài trách nhiệm “Bảo Quốc-An Dân”, họ còn phải lãnh đạo chèo chống con thuyền Quốc Gia trong cơn bão lửa chiến tranh, trên dòng sông nổi sóng lịch sử, cho đến tháng tư năm 75.
Từ đó, ngày 19 tháng 6, còn gọi là Ngày Quân Lực. Nói đến quân đội, là phải nói đến Người Lính VNCH, những người đã đem cả cuộc đời, hy sinh một phần thân thể và sinh mạng, để bảo vệ hai chữ Tự Do cho Miền Nam Việt Nam, trong cuộc chiến tang thương kéo dài trên 20 năm, bởi cuồng vọng nhuộm đỏ cả quê hương, do tội đồ Hồ Chí Minh và bọn CSBV gây nên.
*Người Lính VNCH “Vì Dân Mà Chiến Đấu, Vì Nước Mà Hy Sinh!”
Kỷ niệm Ngày Quân Lực, hàng triệu người dân miền nam, đã một thời hưởng không khí tự do no ấm, xin kính cẩn Vinh Danh-Tri Ân các anh linh tử sĩ, hơn 250 ngàn Người Lính VNCH đã nằm xuống, những người con yêu của Mẹ Việt Nam, đặt Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm lên trên hết, những người trân quý Tổ Quốc – Dân Tộc, hơn cả mạng sống của mình. Đã vì dân mà chiến đấu, đã vì nước mà hy sinh.
Người Lính VNCH: Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm!
Ngày Quân Lực, để nhớ về Người Lính VNCH, đã một thời chèo chống con thuyền quốc gia, trong cơn bão lửa chiến tranh, Họ đã cắm ngọn cờ Vàng chiến thắng khắp mọi nơi, khắp 4 vùng chiến thuật. Từ giòng sông Bến Hải miền địa đầu giới tuyến, dài xuống tận mũi Cà Mau, phần đất cuối cùng của quê hương. Tạo những địa danh lẫy lừng trong quân sử, bao nhiêu năm đã qua, cuộc chiến đã chấm dứt, vậy mà mỗi lần nhắc tới, địch vẫn còn run sợ. Sợ cả bộ quân phục!
Cao điểm nhất năm 1972, người lính với những trận chiến lẫy lừng: “Cờ bay, cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu, vừa chiếm lại đêm qua bằng máu!…”. Trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa kết thúc, người Lính VNCH đã dùng máu và sinh mạng tạo những chiến công lẫy lừng, làm cả thế giới nghiêng mình kính phục.
Lá Quốc Kỳ lại tung bay khắp mọi miền đất nước, dưới tia nắng ấm thanh bình vừa ló dạng nơi chân trời. Ôi! cũng là lúc Người Lính VNCH, bị đồng minh bỏ rơi, bắt đầu bị trói tay trên bàn cờ chính trị thế giới, để rồi đưa đến cái chết tức tưởi của chính thể VNCH. Quân đội VNCH trở thành một quân lực bất hạnh nhất, trong lịch sử!
*Người Lính VNCH “Tôi Còn Nợ Anh!”
Ngày Quân Lực, với hơn hai mươi năm khói lửa chinh chiến, xương thành núi, máu thành sông! Người Lính VNCH không bao giờ đòi hỏi Tổ Quốc bất cứ một điều gì. Người Lính chỉ mong đem máu xương, cuộc đời của mình, đổi lấy hai chữ Tự Do cho quê hương dân tộc, cho dù phải trả cái giá đắt nhất là hy sinh mạng sống của chính mình.
Hơn hai mươi năm miệt mài gìm súng canh giữ quê hương. Người Lính VNCH không yêu cầu người dân bất cứ một điều gì cho lợi ích cá nhân. Người Lính chiến đấu chỉ mong muốn nhìn thấy người dân được sống những tháng ngày an vui, hạnh phúc, cơm no, áo ấm, dưới nắng ấm thanh bình, trên quê hương mến yêu, mang tên Việt Nam.
Tinh Thần Người Lính VNCH Bất Diệt!
Hôm nay, Ngày quân lực, 50 năm sau, những người lính “bên thua cuộc” sau thời gian cải tạo, tù tội, đọa đày trên chính quê hương của mình, hay lưu lạc khắp nơi, nhưng vẫn đem phần đời còn lại, miệt mài tranh đấu. “Những Người Lính năm xưa” không có bất cứ một tham vọng chức vụ nào. Những Người Lính Già xa quê hương, vẫn còn miệt mài góp công sức của mình, chỉ mong sao đất nước thoát khỏi gông cùm, xiềng xích của lũ cộng sản bạo tàn, bán nước, “hèn với gặc, ác với dân,” để người dân Việt Nam sớm có được nụ cười “Dân Chủ-Tự Do-Hạnh Phúc” mãi mãi nở trên môi. Cả đời hy sinh, họ chỉ muốn thế.
“Họ là những anh hùng không tên tuổi.
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh.
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước!”
Với ý nghĩa này, hình ảnh cao đẹp của người lính VNCH, luôn luôn sống mãi trong lòng người dân Việt yêu chuộng dân chủ, độc lập, tự do, dù đã qua hơn nửa thế kỷ!
KQ Lê Văn Hải
*CAO MỴ NHÂN: THƠ MỪNG NGÀY 19/06
CHÀO MỪNG 19 / 6 – CAO MỴ NHÂN
Từ nơi đây, bên một khung cửa sổ
Thấy bình minh hướng đó đang trở về
Chờ nắng gắt xem chân mây phai đỏ
Tay trên môi chưa nhạt sắc đam mê
*
Nên rạng đông mới vàng mầu áo cũ
Dù hôm nay thực sự hết mùa xuân
Vạt áo còn chứa chan năm tháng nhớ
Tiếng chim quyên tha thiết gọi toàn quân
*
Bức tranh thơ vẽ NGÀY QUÂN LỰC đẹp
Khắp muôn nơi vui khúc nhạc diễn hành
Trên vai anh rỡ ràng ngàn hoa thép
Sắc Cộng Hoà sáng lạn dưới trời xanh
*
Lý tưởng Quốc Gia trong lòng dân tộc
Hơn nhiều lần tay nới rộng vòng tay
Nối tây đông ngọn cờ vàng Độc lập
Sinh nhật anh tháng sáu mười chín đây…
*
CAO MỴ NHÂN – 18 – 6 – 2025
Chiều Nhạc “Tình Cha, Tình Lính!” NGÀY QLVNCH 19/06 – Do VTLV Tổ Chức, Chủ Nhật Vừa Qua, Thành Công Tuyệt Vời!
*Trên hàng trăm khách tham dự, Quán không còn một chỗ trống!
*Không khí vui nhộn, ý nghĩa, đáng nhớ! Đầy đủ mọi tiết mục vinh danh người Cha nhất: Vòng hoa, quà tặng, bánh kem, bài hát! Gần 50 người Cha, được tặng quà, vinh danh! Sân khấu không còn sức chứa!
*Sân khấu hình có nền đẹp, nước giải khát, bánh mỳ, xổ số, nhạc hay, đóng góp vào sự thành công, của buổi tổ chức!
*Thi phẩm VTLV giới thiệu, được khách tiêu thụ kỷ lục!
Tóm lại, ít có buổi ca nhạc nào, thành công đến như thế! trên cả sự mong đợi của BTC.
Sau đây là lời tường trình ngắn và hình ảnh của MPD:
–Mấy năm nay vào dịp Father’s Day, anh Lê Văn Hải Hội Trưởng Văn Thơ Lạc Việt, đều Mở Rộng Lòng Ra, tổ chức Chiều Ca Nhạc “Tình Cha – Tình Lính, hội tụ rất đông vui, nơi quán Cà phê Lovers, góc đường Quimby Rd thành phố San Jose ấm áp.
Chiều hôm Chủ nhật 15-6-25 cũng vậy, buổi ca nhạc khởi đi từ 2pm, với phần mở đầu là dịp ra mắt tập sách “Người Lính Làm Thơ Như Viết Sử” của Donry Nguyễn, đến từ Nam California, cựu pháo binh VNCH, sinh quán nơi Tuy Hoà, Phú Yên…
Sau đây là một vài hình ảnh buổi chiều Hè vui vẻ, tưng bừng, xin được chia xẻ cùng Quý Vị và Các Bạn xa gần…
KQ Lê Văn Hải
**
VIDEO NGÀY 19/06 DO NHÀ BÁO CỦA VTLV MẠC PHƯƠNG ĐÌNH THỰC HIỆN
https://www.youtube.com/watch?v=sfmQq8Kqc8I
**
CẮT BÁNH MỪNG NGÀY QUÂN LỰC & LỄ CHA
**
**
**
CÚC NỞ VÀNG MEN RƯỢU. CAO MỴ NHÂN
Sáng nay cúc nở vàng hoa lắm
Mầu cúc vàng tưởng sắc hoàng mai
Nắng chứa chan vàng như cúc rực
Đầy trời mây cúc rỡ ràng khai
*
Mùa về ư, đại hội toàn quân
Huynh đệ chi binh hơn một lần
Có nghĩa nhiều lần vàng cúc gọi
Mai về dựng lại những mùa xuân
*
Người trăm năm cũ dưới cờ vàng
Ẩn hiện uy hùng nếp võ trang
Em vẫn đợi anh trên đại lộ
Diễn hành Quân Lực thật vinh quang
*
Cộng hèn bôi bẩn cả non sông
Áp dụng “tam vô” sống ” đại đồng “
Một lũ vượn rừng về múa rối
Bày trò cướp cuộc, nhục cha ông
*
Sáng nay cúc nở vàng chung tửu
Anh uống cho xong nửa đoạn trường
Ta sẽ cùng nhau quang phục đẹp
Cờ vàng lộng lẫy khắp quê hương…
CAO MỴ NHÂN
**
HỎI THẦM NHAU THÔI. CAO MỴ NHÂN
Chẳng thà đừng nói thương nhau
Thì cho biển cuối sông đầu cũng quen
Đằng này anh vẫn yêu em
Đầu sông cuối biển xa thêm tình buồn
*
Em ngồi chắp vá hoàng hôn
Bao nhiêu tiếc nuối không còn dửng dưng
Hỡi anh yêu dấu bên lưng
Một thời quá khứ ngập ngừng từ ly
*
Chia đôi núi biếc phân kỳ
Mùa Xuân ở lại, anh thì biệt xa
Có gì xa xót bao la
Khiến anh cùng với Sơn hà lặng câm
*
Anh không lỗi, em chẳng lầm
Tại sao phải chịu âm thầm thiệt thua
Đôi vầng nhật nguyệt nắng mưa
Trùng dương khổ lụy, mình chưa thật lòng…
Rancho Palos Verdes 5 – 5 – 2025
CAO MỴ NHÂN
**
NỖI BUỒN. CAO MỴ NHÂN
*
Đừng ngồi đốt đuốc phả hương thơ
Anh vẫn băn khoăn nén đợi chờ
Ánh lửa lưng trời ngày thắng trận
Bè mây đỉnh núi thủa đan mơ
Thương em chiu chắt tô mầu áo
Ngó bạn nâng niu giữ lá cờ
Cả đám lưu vong mà vẫn thiếu
Một người vận dụng chuyển thời cơ …
CAO MỴ NHÂN – 4 – 6 – 2025
**
MỘT GÓC PHỐ. CAO MỴ NHÂN
Anh đứng lặng yên , góc phố này
Đoàn quân thao diễn đã qua đây
Quốc Quân kỳ lộng trên đường phố
Ngàn cánh mai tươi giữa nắng say
*
Nhạc khúc quân hành rộn mãi chân
Giày đinh , mũ trận ” hội phong vân “
Xưa anh xứng đáng trai thời loạn
Giờ cứ băn khoăn với ngại ngần
*
Anh biết làm chi , biết nói chi
Bạn bè kẻ ở ngóng người đi
Người đi , kẻ ở đều ngơ ngác
Sao chẳng cùng nhau khoác chiến y
*
Anh lịm người trong nỗi tủi hờn
Xuân qua , hạ tới , vẫn cô đơn
Thụ sang, đông lại , mù tăm nhạn
Tín hiệu xa xăm nén giận buồn
*
Sinh Nhật Anh, sinh nhật bạn bè
Người tràn như sóng ngập đường xe
Kiêu hùng xưng tụng Ngày Quân Lực
Hoang vắng trưa nay những vỉa hè
*
Hãy gióng hồi chuông , khua trống vang
Hồn thiêng sông núi quyện mơ màng
Đốt trầm xua hết loài ma lửa
Ánh sáng hồi sinh đẹp rỡ ràng …
CAO MỴ NHÂN
**
SỬ HÙNG CHIẾU SÁNG
Mừng ngày quân lực VNCH
Năm mươi năm tưởng Hồ Trường đã cạn
Nào hay chiến y còn rỉ máu oan khiên
Người trai hùng thuở ấy vẫn an nhiên
Niềm tự hào mãi nguyên trên đỉnh nắng
Gót giày anh bùn Xuân Lộc hoen lấm
Tiếng thét xung phong vang dậy trời Nam
Bờ lau khe suối xác thù ngổn ngang
Đại bác xe tăng dịch quân tơi tả
Tiếng súng anh đồi Charlie xối xả
Nhắm tim địch tới viên đạn cuối cùng
Nghe gió hú đáp tiếng gọi núi sông
Viết tên anh vào sử xanh vạn thuở
Bàn chân anh dấu Quảng Trị thành cổ
Chí trai ngất nghễu dựng lại cờ vàng
Khát vọng tự do chiếu sáng ngàn năm
Tuổi trẻ Việt nam vươn vai Phù Đổng
Máu anh nhuộm sàn tàu lửa bỏng
Hoàng Sa đất tổ ai nỡ chia lìa
Dành từng viên đá dựng lai mộ bia
Tổ quốc ghi ơn gia tài của mẹ
*
Thân xác anh vờn theo ngọn gió
Đại bàng gãy cánh giữa chốn thinh không
Hồn anh lửng lơ mây trắng bềnh bồng
Nợ nước tình nhà thân trai lỗi hẹn
Tên anh ghi khắc lá rừng suối vắng
Việt điểu ngang trời đậm nét sử xanh
Máu nở thành hoa chim Việt hiên ngang
Vòng tay Âu Cơ ngàn năm ngọt ấm..
(Ngô Đức Diễm)
BÀI THƠ KÝ SỰ MỪNG NGÀY QUÂN LỰC VNCH & CẢM ƠN VTLV CỦA TÁC GIẢ DONRY NGUYỄNĐÌNH CHIẾN
KÝ SỰ SAN JOSE (Mừng ngày QLVNCH 19-6)
Đến San Jose ra mắt tập thơ, Được tiếp đón bởi Văn Thơ Lạc Việt. Gặp cơ duyên sắp đến ngày Quân Lực Lại đúng vào chủ nhật Father’s day.
*
Chị Phương Hoa cười nói: “cậu em may, Ban tổ chức xếp chung vào một cuộc. Mời tất cả cứ đúng giờ thưởng thức Trọn chương trình, mừng người lính, tình cha.”
*
Xen màn đầu phần giới thiệu thơ ca, Anh Văn Hải đi một đường rất điệu. Nguyễn Hồng Dũng khi tiếp lời phát biểu Giọng hùng hồn như truyền Hịch ba quân.
*
Ban hợp ca cất tiếng hát trầm hùng, Làm không khí nóng bừng vui lễ hội. Chị Thúy Nga, giọng ngâm thơ vừa trỗi, Gợi nỗi buồn tưởng nhớ tháng tư đen.
*
Bài Kiêu hùng ca ngợi lính Pháo binh, Được Minh Thúy ngọt ngào ru giọng Huế. Chị Phương Hoa, ngược thời gian lần kể, Nguyên do nào chị giới thiệu Đông ry.
*
Cả hai người đồng nhiệm vụ MC: Cô Hạnh Thảo và trưởng ban Hoàng Thưởng, Đã giúp gọi khách mời mua cuốn sách, Khiến ba nàng thư ký bán liền tay.
*
Những người yêu đời lính tụ về đây, Mừng gặp gỡ bạn bè và chiến hữu. Những hồn thơ cùng đắm say vần điệu, Lắng nghe lòng thổn thức chuyện xa xưa.
*
Tôi chỉ là người lính nhỏ làm thơ, Ghi lại khúc bi ca mùa loạn sử. Phút sa cơ quê hương mù khói lửa Gánh oan khiên trả nợ mối thù hằn.
*
Cả miền Nam cùng chịu nỗi đau chung Kẻ tù tội, người vượt biên đào thoát. Và hôm nay, trên xứ người lưu lạc Chúng ta về, cùng họp mặt tôn vinh.
*
Những anh hùng vì nước đã hy sinh, Những người lính không may mang thương tích. Những người cha đã sống đời cơ cực, Vừa nuôi con, vừa chống trả quân thù.
*
Người trai hùng hào khí đọc câu thơ Người ca sĩ vì đời dâng tiếng hát. Buổi liên hoan cung đàn ngân réo rắt Sưởi ấm lòng lính cũ nhớ quê hương.
*
Xin cảm ơn những bè bạn sơ, thân… Những chiến hữu, những người yêu của lính. Xin cảm ơn ban Văn Thơ Lạc Việt, Đã hết mình ủng hộ tiếng thơ tôi.
*
Mẹ sinh tôi và nuôi lớn thành người, Còn bạn hữu cho tôi tình thân ái. Kỷ niệm này tôi sẽ ghi nhớ mãi … Trong hành trình mai về lại phương nam.
–Chàng Đông Ry Nguyễn.
**
VĂN CAO MỴ NHÂN: Nhân dịp NGÀY QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ 19 – 06, để nhớ lại một thời đã yêu và một thời đã chết
**
**
VIẾT TRÊN ÁO LÍNH
Khi hoạt động Chiến Tranh Tâm Lý được cải tổ lại, các ngành nghề sinh hoạt quanh phạm trù này, đã được chỉnh trang bổ sung đầy đủ cấp khoản tương đối để làm việc, đáp ứng nhu cầu chiến trường, thì lập tức Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị được hình thành.
Thời gian đầu Tổng Cục CTCT bao gồm mấy nha sở trước, như Nha Chiến Tranh Tâm Lý, Nha Xã Hội, Nha An Ninh, Sở Quân Tiếp Vụ vv…
Sau đổi thành Cục Tâm Lý Chiến, Cục Xã Hội, Cục An Ninh, Cục Quân Tiếp Vụ, thêm Cục Chính Huấn ( hoàn toàn mới). Một thời gian sau, Cục Quân Tiếp Vụ chuyển về Tổng Cục Tiếp Vận. Ít lâu sau, Cục An Ninh cũng xem như tách rời.
Ba phần hành chính của Tổng Cục CTCT còn lại là: Cục Tâm Lý Chiến, Cục Chính Huấn và Cục Xã Hội.
Bên cạnh đó, một quân trường đào tạo sĩ quan CTCT ở Đà Lạt, để cung ứng cho các đơn vị những sĩ quan chuyên nghiệp về ngành đặc biệt này. Ra trường, quý vị sẽ được bổ sung cho các phòng Tâm Lý Chiến và Chính Huấn.
Cũng là cơ hữu của các Cục liên hệ, mỗi cục có một trường lớp riêng trực thuộc, đào tạo nhân viên chuyên nghiệp như trường Xã Hội Quân Đội của Cục Xã Hội chẳng hạn.
Cục Tâm Lý Chiến, phối hợp lãnh thổ cấp vùng, có cácTiểu Đoàn CTCT. Thí dụ như ngoài QĐI/QKI của… tôi, có Tiểu Đoàn 10 CTCT. Tức là cứ mỗi Quân Khu có một Tiểu Đoàn CTCT.
Tôi chỉ kể sơ thôi, chứ đi vô chi tiết, thì dài dòng văn tự nhiều thứ lắm. Thí dụ: Tâm Lý Chiến còn có các Phòng, ban Báo Chí liên hệ, mà tôi sắp từ từ “lẻn” vào các phòng, ban báo chí ấy, để “ú tim oà” bắt gặp cả lô văn nghệ sĩ thứ thiệt.
Quý vị văn nghệ sĩ thứ thiệt “Toạ thiền” trong Cục Tâm Lý Chiến, vàcác phòng, ban TLC địa phương, từ từ xuống tới Đại Đội, thì vị Đại Đội Phó tác chiến còn kiêm nhiệm Đại Đội Phó CTCT luôn.
Tôi may mắn có mặt trong 24 Khoá CTCT cấp Đại Đội phó, để trình bầy về công tác của phần hành Xã hội địa phương, nên thú thiệt, tôi dám thưa với quý vị rằng: Đơn vị trưởng, đôi khi là sĩ quan tá lớn trong Quân Đội VNCH, ông rất giỏi điều binh khiển quan “oánh giặc”, nhưng phải xử dụng một quân nhân các cấp TLC hoặc CTCT, ông đã cho ngồi tạm đâu đó, hoặc xử dụng vào các việc ngoài ngành nghề họ.
Trong tất cả quý tướng và quý tá lớn đã vào ra Tổng Cục CTCT, phải đợi tới khi Trung Tướng Trần Văn Trung đảm nhiệmchức Tổng Cục Trưởng TC/CTCT, mới thấy hoạt động CTCT khởi sắc rực rỡ.
Vị quan sáu thân cận quan yếu của Tổng Cục, là đại tá Hoàng Ngọc Tiêu tức Thi sĩ Cao Tiêu, giữ phần hành Cục Trưởng Cục Tâm Lý Chiến, mới tổng hợp nhiều nhân dáng tao nhân mặc khách trong phạm vì Tổng Cục nói chung, và cục Tâm Lý Chiến nói riêng.
Thi sĩ đại tá Cao Tiêu thực sự là một văn nhân, thi sĩ… tài hoa, vừa có danh tiếng, vừa có tác phẩm, mới tâm phục khẩu phục được phe ta cầm bút.
Nhưng đánh võ mồm giỏi kiểu Trương Lương, thì OK quá chứ.
Ngán nhất là quý văn thi sĩ ta cứ đàm đạo ở cácquán cà phê nổi tiếng, các quán nhậu tà tà…làm thơ tình nhuyễn hơn viết công văn lính tráng thì thật..nản cho nhiệm vụ đấu tranh, ổn định hậu phương để nâng cao tiềm năng chiến đấu ngoài tiền tuyến của CTCT.
Hoá cho nên những vị Cục Trưởng nêu trên, phải chan hòa ưu đãi nhân tài (tài thực), chỉ thị uyển chuyển văn chương ngõ hầu công tác được hiệu quả nhanh chóng.
Một buổi kia, tôi có công tác về trung ương họp “Xã Hội”, đại tá Tham Mưu Phó CTCT nhờ tôi đưa 1 bức thư đến tận tay.
Đại tá Cục Trướng CụcTâm Lý Chiến.
Phần hành tiếp tân trình báo và nói tôi ngồi đợi.
Phòng khách không có ai, tôi hỏi thăm chừng, rồi nói:
Thư của đại tá Tham Mưu Phó ngoài QĐI/QKI, cần nhận hồi đáp ngay.
Phần hành vô văn phòng Cục Trưởng Cục TLC.
10 phút sau, tôi được diện kiến vị cục trưởng, thi sĩ đại tá Cao Tiêu hỏi vừa đủ nghe: “Cô có quen anh em văn nghệ sĩ nào trong này không?”
Tôi lắc đầu tức khắc mặc dầu tôi có quen vài vị bạn thơ từ trước khi tôi đi lính.
Đại tá Cục trưởng vừa coi thư của Đại tá Phan Phiên TMP/CTCT ngoài tôi, vừa nói:
“Uỷ viên thơ của hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội là thi sĩ Viên Lính đấy, Cao Mỵ Nhân quen mà, còn mấy ông dân sự nữa, chắc cũng quen hả?”
Tôi chỉ im lặng nhưng vui vẻ.
Sau đó ra về. Tôi nghĩ đến vị Cục Trưởng nho nhã này, tôi lại nhớ đến bữa tiệc đãi bên Tiểu Đoàn 50 CT CT, Hạnh Phước với tôi buổi đó nhất định không gắp miếng nào giữa cái bàn dài đầy thịt cá thơm lừng, 8 vị văn nghệ sĩ quân đội hiện diện trong bàn tiệc mà cả cái không gian đó, với “tao nhân mặc khách” cứ cười vỡ cả mái tôn lợp trên hội trường, chẳng ai chịu mời ai một câu.
Bấy giờ chúng tôi còn chưa ra trường Cán Sự Xã Hội, tối đó chúng tôi về nhà Phước ăn mì gõ Bình Hoà.
Khi tôi bước ra sân để xe của Cục Tâm lý Chiến, có tiếng người kêu tên mình, người mặc đồ dân sự cười toe nói:
Cao Mỵ Nhân về công tác hả? Nhớ tôi không? Tôi nhìn ra nhà văn Nguyễn Đình Toàn, liền gật đầu chào.
Cứ thế, tôi quên bẵng cái việc in thơ, khi trong tay đã có mấy trăm bài thơ. Thơ về lính lại rất nhiều nữa.
Tại Cục Tâm Lý Chiến có cả nhà in, kể như kiêm luôn phát hành nếu cần yểm trợ.
Phần thì đơn vị ở xa, phần công tác xã hội tại đơn vị và các trại gia binh nhiều quá, tôi không có cơ hội rảnh rang để in thơ qua hệ thống cơ sở xuất bản của Cục Tâm Lý Chiến.
Tuy nhiên các văn nghệ sĩ thứ thiệt lại thích in ấn và xuất bản
ởngoài… để thơ không mang màusắc linh, khó bán vv…
Thành ra có thể nói tôi mê thích danh nghĩa nhà binh hơn hào quang thi sĩ, mặc dầu làm thơ trước khi đi lính cả chục năm.
Lâu nay có dịp trở lại khúc dạo đầu của văn chương chữ nghĩa, giây phút trữ tình lãng mạn thủa thiếu niên xa vời, Cao Mỵ Nhân tôi tưởng như diều gặp gió, bây giờ viết lách thả ga, viết lấy được.
Anh bảo: “cho bù lại tháng năm quên lãng điệu vần, chỉkết chuyện: “một, hai, ba… chúng ta đi lính… bảo vệ tự do, bảo vệ chính nghĩa quốc gia”.
Đoạn anh gật đầu thú vị:” mà phải có căn cơ duyên nghiệp vậy, những huynh đệ chi binh mới tiếp bước quân hành trên mặt trận truyền thông được chớ”
Tôi nhìn anh thật lâu, có thể suýt khóc, là vì có làm thơ lãng mạn tới đâu, tôi vẫn luôn viết trên vạt áo lính…
Anh ngậm ngùi nói như an ủi tôi: Cao Mỵ Nhân là lính rồi, thì làm gì cũng mang âm hưởng lính, đó là điều chung thủy nhất, quý trọng nhất.
CAO MỴ NHÂN
**
NHÂN NGÀY QUÂN LỰC, TƯỞNG NHỚ…ANH TÔI! CÁI CHẾT CỦA MỘT NGƯỜI LÍNH VNCH!
-Ngày 13 Tháng 8 năm 1971, trưa hầm hập nóng. Cái nóng của Sài Gòn, hừng hực mái tôn, như chảo lửa đun… sôi. Chiến tranh… khói… khói… lãng đãng mặt người. Trong căn nhà trọ trong hẻm 482 đường Phan Thanh Giản Sài Gòn, mình nằm chịu trận như một con cá mắc cạn, ngóc lên mà thở trong cuộc chiến khốc liệt nầy… thì nhận được thơ anh. Bức thơ nhầu nhĩ, bì thơ là một tờ giấy, người viết chỉ việc viết vào mặt sau, xếp lại, rồi đề địa chỉ ở mặt trước, có in tem sẵn, dán lại, gởi đi cho nó gọn mà những người lính từ mặt trận thường dùng để gởi về thân nhân là ba, má, vợ hay người yêu hoặc mấy đứa em thơ ngây còn ở hậu phương. Thơ anh viết từ ngọn núi Ba Hô nào đó, khoảng 17 cây số đường chim bay về phía Tây Bắc Quảng Trị, án ngữ đường 9 Nam Lào. Ai kiểm soát độ cao nầy là kiểm soát đường chuyển quân phía dưới. Và muốn tấn công, xâm nhập vào Quảng Trị thì phải tìm cách nhổ sạch quân trú phòng ở đỉnh Ba Hô! Anh nói những ngày ở đây thật là gian khổ và ác nghiệt nhưng gian khổ nhứt là đi lấy nước vì địch quân rình bắn sẻ. Anh nói: Gió Lào mùa nầy ác nghiệt cũng không kém mấy thằng Bắc Quân bên kia núi rình bắn lén. Bầu trời trên đầu, ngày lại ngày, không một đám mây, không mưa… khô khốc! Nước!
Đại đội 1, Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến của anh nằm trên đỉnh Ba Hô đó. Anh không biết ngày về vì hành quân liên miên như vậy và đóng chốt ở đây không biết đến bao lâu mới có đơn vị khác đến thay?
Thơ anh đến, chưa kịp trả lời, thì 21 tây, xác anh đã về tới. Người anh bà con bạn dì, trên chiếc xe Honda, mượn của thằng bạn học khác, chở mình lên Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Chạy trong cái nắng đổ lửa của Sài Gòn mà không nghĩ gì hết. Không tin gì hết. Đầu óc như cứng lại, khô khốc, đặc quánh lại… như cơn gió Lào vi vút, u u… thổi ngoài kia của dãy Trường Sơn.
Xe qua tượng Thương Tiếc, quẹo vào con đường vòng cung. Phía trên đồi là Nghĩa Dũng Đài sừng sững, rồi ngừng lại ở tiền sảnh của Nhà Quàn Liên Đội Chung Sự Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa! Không có ai chỉ dẫn. Như linh tính của tình anh em ruột thịt, mình đến ngay chiếc quan tài hình chữ nhựt màu xanh biển thẫm, đã phủ quốc kỳ. Đầu hòm có một chữ Hán không hiểu nghĩa là gì? Anh bà con đi chung đang học năm thứ hai Văn Khoa nói: “Chữ Thượng nghĩa là trên. Đầu nó nằm đây nè!”
Mặt trước quan tài có đính một tờ giấy. Trên đó viết vài hàng chữ: Cấp bậc: Thiếu Úy. Họ tên: Đoàn Xuân Hòa. Sanh ngày 14 tháng 9 năm 1949. Đại đội Phó, Đại đội 1, Tiểu Đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến. Tử trận ngày 15 tháng 8 năm 1971 tại Quảng Trị.
Nằm kế bên anh là Chuẩn Úy Lê Định, sanh năm 1952, sanh quán Huế, cùng chung đơn vị. Phía sau lưng anh là khoảng hai mươi chiếc quan tài nữa, chia làm hai hàng, có một vài cái thuộc Sư Đoàn 5, còn bao nhiêu đều là lính Đại Đội 1 với anh. Sau nầy, nghe kể lại, ngày 15 tháng 8 một trận đánh khốc liệt đã xảy ra trên đỉnh Ba Hô giữa bộ đội quân chánh quy Bắc Việt và Đại Đội của anh. Đại Đội bắn hết đạn, bị tràn ngập. Trận đánh xáp lá cà bằng lưỡi lê đã diễn ra và kết thúc bằng phi cơ phản lực đến ném bom. 24 chiến sĩ Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 6 Thần Ưng Cảm Tử tử trận! 24 chiến sĩ ngã xuống và bao nhiêu vành khăn tang đội lên đầu của thân nhân tử sĩ? Nào ai biết được con số chính xác. Nỗi đau người lính không còn đau nữa, đã đền xong nợ nước, mà nỗi đau của cha mẹ, vợ con, anh em của người chiến sĩ thì còn đau mãi đến tận bây giờ!
Quanh quẩn bên chân anh, nhang tàn rồi thắp nhang khác, nến tàn rồi đốt ngọn nến khác. Một cọng chân nhang, cắm vào đó một điếu thuốc thơm! Mời luôn những người đồng ngũ của anh mỗi người một điếu! Hà tiện chi nữa! Hết thuốc, lại dốc hết tiền trong túi ra, xuống câu lạc bộ nhà quàn mua cho anh hút trước khi xác thân các anh về với đất. Phía sau tiền sảnh là một căn phòng tối lù mù, chiếu sáng bằng những ngọn đèn tròn, vàng vọt. Rồi có tiếng trực thăng sơn chữ thập hồng, phầm phập xuống bãi đáp. Hai người lính cứu thương, quân y, bước ra, chuyển từ trong trực thăng xác một người lính thuộc Sư Đoàn 5, phù hiệu ngôi sao trắng và số 5 màu đỏ máu trên tay áo!
Xác tử sĩ nằm trên băng ca, một tay thòng xuống, còn đòng đưa theo nhịp đi của hai người lính đang khiêng… chứng tỏ anh vừa mới chết, xác hãy còn nóng hổi, chưa lạnh, nên chân tay hãy còn dịu nhỉu. Quần áo trận của anh vẫn còn ướt sũng và vấy đầy bùn đất! Xác anh được mang vào phòng và những người lính Quân Nhu thuộc Liên Đội Chung Sự xúm lại làm phần việc của mình trong im lặng. Trước hết dùng kéo cắt quần áo trận ra để tắm rửa cho tử sĩ lần cuối. Cái vòi nước xịt vào khuôn mặt giờ hơi tai tái nhưng vẫn còn lật qua lật lại được theo tia nước. Sau đó là lau khô xác, hớt tóc cho ngắn gọn, dùng phấn và son tô lại khuôn mặt, môi người tử sĩ để thân nhân nếu có lên nhìn mặt cho đỡ tủi. Mặc cho người lính vừa ngã xuống một bộ ka ki vàng còn hồ cứng. Công đoạn cuối cùng là đổi cáng. Hai chiếc thẻ bài đeo trên ngực tử sĩ được rứt ra. Một sẽ giao lại cho thân nhân và một gắn trên đầu hộc tủ, một trong khoảng ba trăm cái của phòng lạnh, để biết mà mở ra cho thân nhân lên nhận diện Năm giờ chiều thì Ba, Má dẫn mấy đứa em từ Mỹ Tho lên. Lúc đó thấy Má đi không nổi nữa. Chân như khuỵu xuống; phải tựa vào vai Ba mà bước! Mấy đứa em còn nhỏ quá nhìn quanh… ngơ ngác. Thấy Má như vậy, nước mắt mình bây giờ, trưa tới giờ có khóc được giọt nào đâu, mới trào ra như suối:
“Ảnh nằm đây nè! Má!”
Má chỉ kêu: “Con ơi!” Rồi khóc! Nghe thảm làm sao! Ba chỉ im lặng, không nói gì, mặt nhăn nhúm lại!
Đêm xuống, Ba, Má và mấy đứa em vô nhà khách nghỉ để bình minh, rạng sáng mai đưa xác anh về quê cũ. Mình không ngủ được, mặc chiếc áo ba-đờ-xuy cho đỡ lạnh. Trên đồi, gió nhiều quá, thổi u…u. Mình ngồi bó gối, dưới chân anh. Nhang tàn thắp khuya. Thuốc tàn lại đốt. Tiếng con vạc sành bám trên nóc sảnh lâu lâu lại rơi xuống, đập cánh xè xè, nghe như hơi người chết từ những chiếc quan tài chập chờn ánh nến, thoát ra.
Nhìn lên đồi cao nơi mộ ông Tướng Đỗ Cao Trí đèn thủy ngân sáng choang. Nhìn xuống dưới, những hàng bia mộ người chết trận… lặng im… chìm trong tối. Dọc đường từ nhà quàn vào khu gia binh của Liên Đội Chung Sự, những mảnh ván quan tài đang đốt dở, cháy leo lét trong gió. Những mảnh ván quan tài đang cháy dở là do việc thân nhân mướn những người thầu tư nhân rửa xác tử sĩ lại để còn nhìn mặt lần cuối. Hòm cũ bỏ đi, sau đó xác được đặt vô cái hòm kẽm mới, hàn chì lại để ngăn mùi tử khí không thoát được ra ngoài, có người nằm lại nghĩa trang cùng đồng đội, có người được mang về quê an táng.
Ba không muốn khui nắp quan tài anh ra nữa, không phải sợ tốn tiền. Mà ba sợ ảnh chết như vậy chắc không còn nguyên vẹn gì… mà nếu Má nhìn thấy thì làm sao chịu cho nổi!
Hai là hy vọng người tử sĩ nằm đó không phải là xác của con mình. Một hy vọng hão huyền là có thể ngày nào đó anh sẽ về, gặp lại Ba, gặp lại Má chăng? Rõ ràng hy vọng đó chỉ là ảo vọng; dù vậy Ba vẫn còn ráng nắm níu, ráng mà bám víu theo?!
Sáng hôm sau, một bán tiểu đội lính, 6 người, ông Trung Úy già, Trưởng Hậu Cứ Tiểu Đoàn chỉ huy và chiếc GMC mười bánh đến! Những người lính kê vai, vác, đưa chiếc quan tài lên xe! Và anh về quê cũ. Tiếng kèn đồng nghe u uất. Trước đầu xe có tràng hoa cườm và băng vải tím.
Người yêu anh, chị Loan, y tá Bệnh Viện Lê Hữu Sanh của Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, nức nở: “Anh Hòa ơi! Anh Hòa ơi!” lúc di quan! Tình nồng thắm của anh chị như bọt nước đã đành tan theo vận nước sau đó.
Lại theo xác anh. Xe qua những đường phố Sài Gòn nhộn nhịp. Người lính tử trận… lẳng lặng đi qua. Có người dừng lại, chào kính xác người chiến sĩ. Có người dừng lại, ngả nón cúi đầu! Đa số vẫn tiếp tục đi. Và xe chở xác vẫn đi!
Mang anh về lại quê nhà, Mỹ Tho… nơi, anh vì nước phải bỏ nó mà đi chỉ mới có 4 năm! Mình không nghĩ được gì hết! Cuộc chiến tranh nầy ai gây ra ư? Tại sao vậy? Làm sao cắt nghĩa được tham vọng của một lũ điên? Chỉ biết một điều là một thanh niên mới vừa xong trung học là lên đường nhập ngũ, từ Mỹ Tho ra tận Miền Trung gió Lào khô khốc thổi, rồi ngã xuống ở Đỉnh Ba Hô nào đó của Quảng Trị để ngăn chận Bắc Quân tràn vào thị xã.
Ngày 25 tháng 8, ôm tấm di ảnh của anh, thằng em kế, thứ năm, nối bước theo sau, trên hai tay là chiếc gối nhỏ, màu vàng viền đỏ, màu cờ, có cặp lon trung úy và chiếc bảo quốc huân chương đệ ngũ đẳng kèm anh dũng bội tinh với nhành dương liễu, đưa anh đến huyệt mộ! Thòng dây đưa quan tài anh xuống kim tĩnh mà mấy ông thợ hồ vừa mới xây xong, xi măng chỉ vừa kịp khô nước.
Ba loạt tiếng M-16 bắn chỉ thiên, chào vĩnh biệt người chiến sĩ.
Lại tiếng kêu khóc của người yêu anh ở giờ hạ huyệt: “Anh Hòa ơi! Anh Hòa ơi!”
Đất lấp lại! Và năm ấy mình vừa 20 tuổi. Ngày chôn anh, ngày 25 tháng 8, là ngày sinh nhựt của mình!
(Khuyết Danh)
**
MỘT CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG: CUỘC SỐNG CỦA MỘT THƯƠNG BINH VNCH.
Sáng nào cũng thấy thằng nhỏ cầm cái lon đứng chầu chực trước quán ăn. Tôi để mắt theo dõi thì hễ thấy thực khách vừa kêu tính tiền thì thằng bé chạy vào nhìn vào những cái tô, nếu còn thức ăn dư mứa thì nó vội vã trút vào cái lon rồi chạy ra ngoài đứng ngóng tiếp.
Khi cái lon gần đầy thì nó biến mất, chập sau thấy nó lại có mặt thập thò trước quán tiếp tục. Bàn tôi ngồi thì đứa bé không bao giờ quan tâm tới, vì mỗi sáng tôi chỉ đủ tiền uống 1 ly xây chừng vì tôi cũng nghèo cải tạo mới về sáng nhịn đói ngồi uống cà phê đen như một cái thú hay một cái tật không bỏ được.
Cứ thế, mà hơn một năm tôi mới quen được và tìm hiểu chút ít về hoàn cảnh gia đình của đứa bé. Tôi cố tình làm quen với thằng bé nhờ hôm ấy trời mưa, thằng bé đứng nép vào trong quán. Thằng bé đứng nép vào ngày càng sâu hơn trong quán vì mưa ngày càng lớn chỉ cách tôi chừng độ nửa thước. Tôi vói tay kéo nó ngồi xuống bàn và hỏi nó có thích uống cà phê không?
Thằng bé lắc đầu lia lịa và nói không uống. Tôi hỏi nó làm gì ngày nào cũng ra đây? và hiện sống với ai? Thằng bé như đoán được rằng: tôi chỉ là người khách ghiền cà phê nặng nên hàng ngày đóng đô ở đây nên nó cũng trả lời nhanh nhẹn rằng:
– “Con sống với ba má con, Ba con đi làm xa còn Má con đi phụ buôn bán ở ngoài chợ…”
Tôi hỏi tiếp:
– “Còn con có đi học không ?”
Thằng bé nói:
– “Con không có đi học… con ở nhà phụ với má nuôi heo…”.
Đó là lý do để nói lên sự hiện diện hằng ngày của nó nơi quán ăn nầy. Nghe thằng bé nói như thế, tôi nói với chị chủ quán ăn giúp cho nó lấy những cơm và thức ăn thừa, và cũng từ đó nó không còn đứng lúp ló ngoài cửa quán nửa. Và nhờ tánh tình hiền hậu thật thà chị chủ quán cho nó vô phụ dọn bàn đề lấy thức ăn dư mang về và cho nó ăn uống để phụ việc. Từ đó tôi và nó gần gũi nhau hơn và thân với nhau lắm.
Có lần thằng bé hỏi tôi:
– “Chú làm nghề gì vậy hả chú?”
Tôi chỉ trả lời ngắn gọn là “Chú đang làm thinh”.
Đúng vậy mới cải tạo về mà, vợ con thì đã theo bên ngoại vượt biển hết rồi, nghe đâu đã định cư bên Úc, nay về ở với mẹ già ngày 1 buổi cà phê hai bửa cơm độn qua ngày. Thời gian ngột ngạt chậm chạp trôi qua, may mắn vợ chồng tôi đã bắt liên lạc được với nhau. Thế là những bữa cơm không còn ăn độn khoai củ hay bo bo nữa nhưng vẫn quen cử sáng cà phê quán gần nhà.
Không biết chị chủ quán có bỏ bùa mê hay tôi ghiền chổ ngồi mà không bữa nào vắng tôi. Một hôm, tôi đề nghị theo thằng bé về nhà nó chơi cho biết vì nó nói ở cũng gần không xa lắm. Thấy nó do dự và tỏ vẻ sợ sệt, tôi biết ngay nó đang dấu diếm điều gì.
Thương nó lắm, tôi dúi tiền cho nó hoài. Mấy hôm sau tôi lẳng lặng đi theo nó khi nó mang cơm và thức ăn dư về nhà buổi trưa. Khi thấy nó lủi vô một cái chòi nhỏ xíu thì tôi thật sự không ngờ. Đứng dưới gốc cây Gòn cách nhà nó không xa tôi thầm nghĩ, nhà chút xíu như vậy gia đình 3 người ở thì chổ đâu mà nuôi heo. Tôi đang đứng suy nghĩ đốt cũng hết mấy điếu thuốc thì thằng nhỏ lục tục xách lon xách nồi đi ra quán để thu dọn thức ăn buổi chiều.
Đợi thằng bé đi khuất tôi lò mò đến nơi mà hồi nãy nó vào. Đến đó mới nhìn rõ thì thật ra đâu có phải là nhà, một lõm trống được che dựng lên bằng những phế liệu đủ loại muốn chui vào phải khom mọp xuống. Nghe thấy có tiếng chân dừng lại, có tiếng đàn bà vọng ra hỏi. Tôi trả lời là đi kiếm thằng Tuất, thì nghe giọng đàn ông cho biết nó vừa đi khỏi rồi, và hỏi tôi là ai, mời tôi vào…. Vừa khom người chui vào tôi mới thật sự không ngờ những gì hiển hiện trước mắt tôi.
Người đàn ông hốc hác cụt hai giò tuổi cũng trạc tôi nhưng trông yếu đuối, lam lũ và khắc khổ lắm. Một người đàn bà bệnh hoạn xác xơ cả hai đang ăn những thức ăn thừa mà thằng bé vừa mới đem về. Vừa bàng hoàng, vừa cảm động vừa xót xa, nước mắt tôi bất chợt tuôn rơi mặc dù tôi cố nén…
Từ đó, tôi hiểu rõ về người phế binh sức tàn lực kiệt sống bên người vợ thủy chung tần tảo nuôi chồng bao năm nay giờ mang bịnh ác tính nặng nề thật đau xót. Tôi móc hết tiền trong túi biếu tặng và cáo lui. Về đến nhà tôi vẫn mãi ám ảnh hoàn cảnh bi thương của gia đình thằng bé mà tôi bỏ cơm nguyên cả ngày luôn.
Sáng hôm sau ra uống cà phê, thằng bé gặp tôi nó lấm lét không dám nhìn tôi vì nó đã biết trưa hôm qua tôi có tới nhà nó. Nó thì tỏ vẻ sợ tôi, nhưng tôi thực sự vừa thương vừa nể phục nó nhiều lắm. Tôi kêu nó lại và nói nhỏ với nó tại sao không cho tôi biết.
Tội nghiệp nó cúi đầu im lặng làm lòng tôi thêm nỗi xót xa. Có khách kêu trả tiền, như có cơ hội né tránh tôi nó chạy đi dọn bàn và tiếp tục công việc thu dọn thức ăn. Hèn gì sau nầy nó để thức ăn dư phân loại đàng hoàng lắm. Tội nghiệp hoàn cảnh của thằng bé mới mấy tuổi đầu mà vất vả nuôi cha mẹ theo khả năng chỉ tới đó. Cha là một phế binh cũ trước 75 cụt hai chân, mẹ thì bị bệnh gan nặng bụng phình trướng to khủng khiếp và cặp chân sưng vù lên đi đứng thật khó khăn, nước da thì vàng mét như nghệ. Thằng bé là lao động chánh trong gia đình, nó có hiếu lắm. Từ đó tôi thường cho tiền đứa bé mua bánh mì cơm gạo về nuôi cha mẹ.
Vợ tôi làm thủ tục bảo lãnh tôi sang Úc. Ngày tôi đi tôi đau xót phải để lại hai nỗi buồn đó là để mẹ và em gái lại quê nhà và không còn cơ hội giúp đỡ thằng bé nữa. Sang Úc định cư, tôi sống tại tiểu bang Victoria mấy năm đầu tôi hết sức cơ cực vì phải vật lộn với cuộc sống mới nơi đất mới và đối với tôi tất cả đều mới mẻ và xa lạ quá. Từ ngôn ngữ đến thời tiết đã làm tôi lao đao không ít. Thỉnh thoảng tôi gởi tiền về nuôi mẹ và em gái không quên dặn em gái tôi chuyển cho thằng bé chút ít gọi là chút tình phương xa.
Mấy năm sau tôi về thăm gia đình, tôi có ghé tìm thằng bé thì nó không còn lấy thức ăn trong quán đó nữa. Tôi mới kể rõ hoàn cảnh thằng bé cho chị chủ quán biết. Chị chủ quán đôi mắt đỏ hoe trách tôi sao không cho chị biết sớm để chị tìm cách giúp gia đình nó. Tôi chỉ bào chữa rằng tại thằng bé muốn giấu không cho ai biết! Tôi ghé vội qua nhà thằng bé thì mới hay mẹ nó đã qua đời vì căn bệnh ung thư gan.
Chỉ còn chèo queo một mình ba nó ở trần nằm một góc trông hết sức thương tâm. Hỏi thăm thì mới biết nó đã xin được việc làm đi phụ hồ kiếm tiền về nuôi cha. Chúa nhật tôi tới tìm thằng bé, chỉ mới có mấy năm mà nó đã cao lớn thành thanh niên rất đẹp trai duy chỉ đen đúa vì phơi nắng để kiếm đồng tiền. Tôi dẫn nó trở ra quán cà phê cũ, thấy nó hơi ái ngại, tôi trấn an là bà chủ quán tốt lắm tại không biết được hoàn cảnh gia đình nó. Ra đến quán ăn chị chủ quán năn nỉ nó về làm với chị, dọn dẹp và bưng thức ăn cho khách nhẹ nhàng hơn đi phụ hồ và chị sẽ trả lương như đang lãnh bên phụ hồ, tối về thức ăn thường bán không hết chị cho đem về nhà dùng khỏi phải mua hay đi chợ. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc, chị chủ quán cũng khóc theo làm tôi phải đứng dậy bỏ ra ngoài để khỏi phải rơi nước mắt vì chịu không nỗi.
Thằng Tuất vừa khóc vừa nói: “Sao ai cũng tốt với gia đình con hết đó, nhưng vì con đang làm phụ hồ cho anh Năm, anh ấy cũng tốt lắm giúp đỡ gia dình con nhiều lắm, sáng nào cũng mua cho ba con gói xôi hay bánh mì trước khi tụi con đi làm. Con cũng mang ơn ảnh nhiều nên con không thể nghỉ được, con xin lổi”. Không biết thằng Tuất nó nói thật hay nó ái ngại khi quay về chỗ mà ngày nào cũng cầm cái lon chầu chực trút đồ ăn dư về nuôi cha mẹ. Phải thông cảm nó, phải hiểu cho nó, phải cho nó có cái hiện tại và tương lai tốt hơn, đẹp hơn ngày trước. Chị chủ quán vừa gạt nước mắt vừa nói “Bất cứ lúc nào con cần đến cô thì con đừng ngại, cho cô biết nhé”…
Đời này cũng còn có những hoàn cảnh bi đát ít ai biết đến, và cũng có những đứa con xứng đáng như thằng Tuất. Ngày về lại Úc, tôi đến biếu hai cha con nó hai triệu đồng, thấy nó và ba nó mừng lắm tôi cũng vui lây. Không biết phải giúp gia đình nó như thế nào, tôi chụp hình ba nó, photo giấy tờ ba nó đem về Úc gởi cho Hội cứu trợ thương phế binh bị quên lãng trụ sở ở Sydney. Mấy tháng sau nhận được thư ba thằng Tuất viết qua, ông quá vui mừng khi được Hội bên Úc giúp đỡ gởi tiền về, ông cho biết suốt bao nhiêu năm qua lần đầu tiên ông thấy được niềm hạnh phúc khi cuộc đời phế binh của ông còn có người nhớ đến. Không biết ông ấy vui bao nhiêu mà chính tôi cũng hết sức vui mừng khi thực hiện một việc làm đem niềm vui đến cho những người phế binh sống hết sức đói nghèo bên quê mẹ.
Tôi xin cảm ơn cả hai: người chiến sĩ vô danh sống trong hẩm hiu và Hội cứu trợ thương phế binh đã thể hiện tình người trong công việc hết sức cao cả này.
(Minh Tạo)
**
Người Chiến Sĩ Không Quân VNCH, Vào Ngày Cuối Cùng Của Cuộc Chiến!
***
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
Cờ còn nước đánh phải đành thua (*)
Vào ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi mà mọi giới đều hiểu rằng không còn gì có thể cứu vãn được nữa
thì người chiến sĩ VNCH vẫn chiến đấu dũng cảm. Một vài tài liệu sau đây cho chúng ta khẳng định như thế:
1/ Tài liệu của Không Lực Hoa Kỳ – chương trình di tản “Frequent Wind” có viết rằng: Trong khi phi trường bị tấn công thì 2 chiếc Al (Skyraider chiến đấu có cánh quạt của Không lực VNCH) đã bay lượn trên không phận Saigon để truy lùng các vị trí pháo kích của địch. Một trong hai chiếc bị hỏa tiễn SA-7 bắn hạ,
Trong khi đó, nhiều người đã không e sợ, đổ xô ra ngoài để nhìn một chiếc phi cơ “Rồng lửa” AC-119 đang nhào lộn và xả súng (đại liên 6 nồng Gatling) bắn một vị trí của bộ đội Bắc Việt ở ngay gần cuối hướng đông Tân Sơn Nhất. Vào khoảng 7 giờ sáng 29/4, chiếc phi cơ anh dũng của VNCH đã bị trúng hỏa tiễn SA-7 của địch và bốc cháy rồi đâm nhào xuống mặt đất.
Trong một bức thư của một phi công VNCH gửi cho Clyde Bay ở Trung Tâm Di Tản Nha Trang, kể lại chuyện những phi công của Không Lực VNCH vào sáng ngày 29 tháng 4, vẫn tiếp tục thực hiện các phi vụ tấn công vào các đoàn xe tăng địch, khi chúng tiến về phía thủ đô Saigon. Theo lời của Trung Úy Coleman “ít nhất những người này đã là những chiến sĩ đã chiến đấu một cách anh dũng và hi sinh đến giọt máu cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp, trong một trận chiến biết chắc là thua, nhưng vẫn sẵn sàng hi sinh”.
2/ Tài liệu trích trong cuốn Việt Nam và Chiến Lược Domino của Bạch Long (từ trang 312 đến 314) Nhưng sự bất ngờ cho Cộng Sản đã xảy ra ngay tại cửa ngõ vào Saigon. Khoảng gần một ngàn chiến sĩ của Chiến đoàn 3 Biệt Kích Dù và một số biệt kích, Nhảy Dù và quân nhân khác, có nhiệm vụ bảo vệ bộ Tổng Tham Mưu từ ngày 26 tháng 4, đã sẵn sàng chờ “đón” quân Cộng Sản. Trong ngày 29 tháng 4, tướng Lâm Văn Phát đã có can đảm đứng ra nhận chức tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô với mục đích cầm quân chiến đấu bảo vệ Saigon. Tướng Phát đã ra lệnh cho các cánh quân Nhảy dù, Biệt Cách, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến… phải ngăn chận quân Cộng Sản kéo vào Saigon từ hai ngả tư Bảy Hiền và Hàng Xanh… Tướng Phát kể lại rằng ông chỉ còn vỏn vẹn 60 xe tăng M-41 và M-48 với những đơn vị lẻ tẻ để đối đầu với 16 sư đoàn Bắc Việt và 3 sư đoàn Việt Cộng với hàng
ngàn xe tăng, đại pháo và tấn công từ hai ngả vào Saigon.
Nhưng dù ở trong tình thế tuyệt vọng như vậy, tướng Phát và những người đầu hàng. Họ vẫn phải chiến đấu đến cùng! (Cần phải nói rằng các đơn vị lớn Thủy Quân Lục Chiến cực kỳ anh dũng và đã bị tan rã gần hết trước ngày 30 tháng, ở vùng Một và vùng Hai, và trong những trận rút bỏ khác.) Những người lính chiến đấu này không có…radio! Họ không cần biết rằng quân Cộng Sản đang thắng thế. Họ không cần biết tổng thống tạm thời Dương Văn Minh đang sửa soạn đầu hàng, dâng miền Nam cho Cộng Sản. Họ không cần biết rằng tình hình đã hoàn toàn tuyệt vọng, không còn một chút hi vọng ngăn chân quân đội Bắc Việt. Họ chỉ biết chiến đấu chống Cộng và tiêu diệt quân Cộng sản, và hình như họ chưa bao giờ có tư tưởng bỏ chạy hay đầu hàng! Họ hờm súng đợi quân thù Cộng Sản và sẵn sàng nhả đạn. Các xe tăng Cộng Sản hứng những loạt đạn đầu tiên và bất ngờ. Trong thành phố đang hỗn loạn tinh thần, tiếng đạn nổ như mưa bão xen lẫn với tiếng súng lớn, đã làm cho sự hỗn loạn gia tăng.
Trong thời gian thật ngắn khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, 17 xe tăng Cộng sản bị trúng đạn cháy đen nằm rải rác từ Ngả tư Bảy Hiền đến cổng trại Phi Long và đến đường Cách Mạng… Pháo tháp xe tăng T-55 bằng thép dầy 12inches (30 phân tây) bị bắn thủng như bằng…bột, chứ không phải bằng thép! Lỗ đạn không lớn lắm. Hình như vào giờ chót người Mỹ viện trợ cho một loại súng bắn xe tăng đặc biệt, loại 106 ly (?), để bắn xe tăng. Đạn xuyên phá qua thép dầy nhất và lực cản của thép đã làm cho nhiệt độ gia tăng tới gần 3000 độ C, nướng chín quân lính Cộng Sản ở trong xe tăng Cánh quân Cộng Sản từ Long Khánh kéo về Saigon qua Hàng Xanh, Thị Nghè bọc xuống trước Sở Thú để tiến vào dinh Độc Lập thì bị quân Nhẩy Dù án ngữ. Quân Nhẩy Dù bị dồn về bảo vệ vòng đai Saigon. Họ không còn việc gì khác hơn là chiến đấu đến cùng từ đường vòng đai xa lộ Đại Hàn đến ngã tư Hàng Sanh về đến đại lộ Thống Nhất, nhà thờ Đức Bà. Hầu như những cánh quân Cộng Sản đầu tiên tiến vào Saigon theo ngả này đều bị Nhảy Dù tiêu tiệt hết. Tổng cộng trong khoảng từ 7 giờ sáng đến 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, hơn 20,000 quân Bắc Việt, 32 xe tăng và gần 30 quân xa (Molotova) chở đầy lính Cộng Sản bị bắn cháy, chết hết, trong phạm vi thành phố Saigon. Tất cả hai cánh quân Việt cộng đều khựng lại.
Bộ chỉ huy Cộng Sản cuống cuồng vội giục Dương Văn Minh phải đích thân ra lệnh cho tướng Lâm Văn Phát, thiếu tá Tài để ra lệnh cho Biệt Cách Dù và quân Nhảy Dù ngưng chiến đấu. Tất cả những người lính chiến đấu can trường nhất của VNCH lúc đó mới hiểu rằng miền Nam đã bị kẹt vào cái thế phải thua. Họ ném bỏ súng đạn trút bỏ quần áo trận và lẫn lộn vào dân chúng, tìm đường về nhà.
Một câu chuyện khác do tướng Lâm Văn Phát kể lại là sau khi Dương Văn Minh điện thoại cho ông phải ra lệnh ngưng bắn thì ông xuống dưới nhà. Dưới chân cầu thang, một người Quân Cảnh đã đứng nghiêm chào ông và nói: “Vĩnh biệt thiếu tướng”, rồi rút súng bắn vào đầu tự tử
Khi vị tư lệnh cuối cùng của Biệt Khu Thủ Đô đến Tổng Tham Mưu thì thấy chung quanh cột cờ lớn có khoảng hơn 300 binh sĩ Biệt Cách và sĩ quan chỉ huy họ đang đứng thành vòng tròn và hờm súng vào… lưng nhau, sẵn sàng nhả đạn tự tử tập thể. Tướng Phát phải nói với họ trong nước mắt rằng quân đội VNCH đứng vững cho đến giờ chót là nhờ tinh thần kỷ luật. Vậy lúc này đã có lệnh buông súng thì anh em ai về nhà nấy mà lo cho gia đình. Tự tử không có ích lợi gì cho mình cả. Các quân nhân nghe lời, chỉ có một vài sĩ quan trẻ tuổi đã tự tử. Đến 1 giờ trưa, tướng Phát bàn giao Biệt Khu Thủ Đô cho tướng Việt Cộng Ba Hồng. Sau đó tướng Ba Hồng mời tướng Phát đến Tổng Tham Mưu. Tại đây, khoảng 500 chiến xa T. 55 của Cộng quân nằm kín chung quanh cột cờ. Đáng lẽ những chiến xa này đã đi thẳng sang Tây Ninh theo đườngvòng đai Saigon. Nhưng sự đầu hàng của Dương Văn Minh đã thay đổi hết kế hoạch tiến đánh Thái Lan của Cộng Sản (tướng Lâm Văn Phát đã từ trần trong tuổi già tại Santa Ana, California ngày 30 tháng 10, 1998)
Nhưng hai trận đánh trên đây cũng chưa phải là trận đánh cuối cùng trong ngày 30 tháng 4. Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu đã chiến đấu mãnh liệt từ trong khuôn viên trường cho đến khoảng 2 giờ trưa. Lúc này, Cộng Sản đã cầm chắc cái thắng trong tay nên chúng không muốn chết thêm nữa. Chúng ngưng bắn và điều đình với các em. Các em đòi chúng phải ngưng bắn và rút ra xa để các em tự giải tán. Khoảng ba giờ chiều, các em hát bài quốc ca, làm lễ hạ cờ. Xong rồi bỏ đồng phục, mặc quần áo thường và từ từ ra khỏi trại, nước mắt ràn rụa trên má…
3/ Tài liệu: báo Wall Street Journal số ngày 2 tháng 5 năm 1975, bài bình luận của ký giả Peter Kahn, từng đoạt giải Pulitzer, có tựa đề “Truy Điệu Nam Việt Nam” “…Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậy… Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc.
Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ. Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương. Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta. Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn”
4/ Tài liệu của ký giả người Pháp Jean Larteguy, đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng ở Saigon ngày 29 và 30 tháng 4-75. Thứ Hai 28/4/75 Saigon sáng nay yên tĩnh. Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong những khu vườn. Họ không buồn rầu và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một một thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau và liệng cho nhau những chai Coca Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu này. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon. “Và những binh sĩ tuyệt vời này vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao? Ông trả lời: “Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người lính cuối cùng chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.”
Sau khi Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Larteguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị VNCH tại Saigon, và ghi lại như sau: “Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan này khuyên họ nên ngưng chiến đấu. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe. Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết.” Larteguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa. “…Và trong những bộ đồng phục mới, giầy chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Họ ra đi thật hào hùng, đi như diễn binh, chỉ thiếu
có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng.”
Một đồng nghiệp của Larteguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan: “Các anh có biết là sắp bị giết chết không?” Một thiếu úy trả lời: “Chúng tôi biết chứ!” Vì sao? – Tại vì chúng tôi không chấp nhận Chủ Nghĩa Cộng Sản! “…Các xe tăng đầu tiên của Cộng Sản vào Saigon từ phía đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòa…
Bộ binh thì tiến từ phía Bến Cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn này chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiều.
Từ ngày hôm trước các đơn vị cộng quân này đã bị chận tại gần Hóc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của Sư Đoàn Dù trấn giữ dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị Cộng quân bị thiệt hại nhiều. Sau đó chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon. Một lần trước trụ sở Cảnh sát Công Lộ, nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng Cộng Sản đề bẹp. Lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính Dù võ trang đại liên và Bazzoka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát. “Đến chiều tối 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đem để rút về đồng bằng…” Darcourt cho biết đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát
(Người lính cũ tổng hợp tin từ báo chí nước ngoài)
KÍNH CHÚC CÁC NGƯỜI CHA VIỆT TRONG GIA ĐÌNH, MỘT NGÀY LỄ CHA VUI VẺ, NHÀN NHÃ, NGHỈ NGƠI! (KHÔNG PHẢI SỬA XE, LÀM VƯỜN, ĐỔ RÁC, ĐÓN CON, COI CHÁU!…) TRÀN ĐẦY HẠNH PHÚC, BÊN CÁC CON CÁI THÂN YÊU CỦA MÌNH. HAPPY FATHER’S DAY 2025!
**
*Ngày Hiền Phụ tại Hoa Kỳ
Cách nhìn ngày nay về việc kỷ niệm Ngày Hiền Phụ có nguồn gốc từ Hoa Kỳ, sau đó truyền thống này lan truyền sang các nước trên thế giới. Thế giới mang ơn bà Sonora Louis Smart Dodd, một người con yêu thương ở Spokane (Washington) vì bà đã tranh đấu để có Ngày Hiền Phụ như ngày nay. Bà cho rằng chúng ta tôn vinh những người Mẹ mà lại quên công khó của những người Cha trên cương vị “chống mũi chịu sào”.
Ý tưởng về Ngày Hiền Phụ xuất hiện trong đầu bà Sonora khi bà tình cờ nghe bài giảng thuyết về Ngày Hiền Mẫu năm 1909. Lúc đó bà 27 tuổi, bà nghĩ: “Nếu có ngày tôn vinh Mẹ thì tại sao không có ngày tôn vinh Cha?”. Bà cảm thấy thương những người cha vì tình thương bà nhận được từ người cha của bà là ông William Jackson Smart, một cựu chiến binh. Mẹ bà qua đời do sinh con khi Sonora mới 16 tuổi. Ông Smart phải chịu cảnh “gà trống” nuôi 5 đứa con bằng tất cả lòng yêu thương và chăm sóc của người cha kiêm chức năng làm mẹ.
Được cảm hứng từ việc bà Anna Jarvis đấu tranh để có Ngày Hiền Mẫu, bà Dodd bắt đầu khởi xướng tổ chức Ngày Hiền Phụ tại Hoa Kỳ. Hiệp hội Chính quyền Spokane (Spokane Ministerial Association) và Hiệp hội Thanh niên Kitô giáo (Young Men’s Christian Association – YMCA) tại địa phương ủng hộ ý nguyện của bà Sonora. Kết quả là Ngày Hiền Phụ được tổ chức lần đầu tiên vào ngày 19-6-1910. Dù ban đầu có sự lưỡng lự, nhưng vẫn được nhiều người ủng hộ, và Ngày Hiền Phụ được tổ chức tại các thành phố trong quốc gia Hoa Kỳ.
Thấy rất nhiều người tụ họp kỷ niệm Ngày Hiền Phụ tại Hoa Kỳ, tổng thống Woodrow Wilson phê chuẩn việc này vào năm 1916. Tổng thống Calvin Coolidge cũng ủng hộ Ngày Hiền Phụ mang tính quốc gia của Hoa Kỳ vào năm 1924: “Hãy thiết lập các mối quan hệ thân mật giữa cha con và nhấn mạnh vào trách njiệm của họ”. Sau 40 năm đấu tranh, tổng thống Lyndon Johnson ký lệnh dùng Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu là Ngày Hiền Phụ từ năm 1966. Năm 1972, tổng thống Richard Nixon ký quyết định vĩnh viễn kỷ niệm Ngày Hiền Phụ vào Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu hằng năm. Bà Sonora Smart Dodd được tôn vinh vì bà đã góp phần vào Hội chợ Thế giới (World’s Fair) ở Spokane năm 1974. Bà Dodd qua đời năm 1978, hưởng thọ 96 tuổi.
*Các giả thuyết về lịch sử Ngày Hiền Phụ
Có vài giả thuyết về Ngày Hiền Phụ. Một số người co rằng Ngày Hiền Phụ đầu tiên được tổ chức tại miền Tây Virginia năm 1908. Một số người khác cho rằng lễ này được tổ chức lần đầu tại Vancouver, Washington.
Chủ tịch câu lạc bộ Lions tại Chicago, ông Harry Meek, được coi là người tổ chức Ngày Hiền Phụ đầu tiên vào năm 1915 để nhấn mạnh vào việc tôn vinh những người cha. Ông chọn Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu để kỷ niệm, đó là ngày gần sinh nhật của ông Meek. Để đánh giá công việc của ông Meek, CLB Lions của Hoa Kỳ đã tặng ông chiếc đồng hồ bằng vàng, với lời đề tặng “Người khởi xướng Ngày Hiền Phụ” (Originator of Father’s Day) vào chính sinh nhật của ông, 20-6-1920. Một số sử gia tôn vinh bà Charles Clayton ở Tây Virginia là người khởi xướng Ngày Hiền Phụ.
Năm 1957, thượng nghị sĩ Margaret Chase Smith viết thư gởi quốc hội: “Dù chúng ta tôn vinh người cha hay người mẹ thì cũng đừng bỏ người nào. Người cha hay người mẹ bị bỏ quên cũng đều cảm thấy buồn vậy”.
Ngày Hiền Phụ được kỷ niệm vào những ngày khác nhau ở các nước khác nhau. Đa số các nước – kể cả Hoa Kỳ, Anh, Canada, Chilê, Pháp, Nhật và Ấn Độ – đều kỷ niệm Ngày Hiền Phụ vào Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu.
Mặc dù Ngày Hiền Phụ không cố định giống nhau tại các nước và cách kỷ niệm cũng khác nhau, nhưng ở đâu cũng chung một tâm tình là tôn vinh công lao của những người cha và bày tỏ lòng yêu thương đấng sinh thành. Vào ngày này, con cái gởi thiệp mừng, hoa và quà cho cha mình để bày tỏ lòng yêu thương và kính trọng.
Tại nhiều quốc gia có đa số là người Công giáo thì Ngày Hiền Phụ được mừng vào ngày lễ kính Đức Thánh Giuse, ngày 19 tháng Ba.
Ngày Hiền Phụ được coi là rất quan trọng vì ngày này giúp nhận thức về công lao của những người cha đối với gia đình và xã hội. Việc cử hành Ngày Hiền Phụ không chỉ giúp những người con có cơ hội bày tỏ yêu thương và kính trọng đối với cha mình, mà còn giúp củng cố quan hệ phụ tử và phát triển tình cảm của người con dành cho cha mình.
Không quân Lê Văn Hảisưu tầm
**
NGƯỜI CHA LAO CÔNG
Phương Hoa
Buổi trưa, bầu trời trên thành phố biển Berkeley trong xanh. Nắng thật đẹp. Ánh nắng rực rỡ nhưng khí hậu lại man mác, dịu dàng. Hơi mát len nhẹ vào phòng đợi tầng hai của bệnh viện từ cánh cửa tự động mỗi khi có người vào ra, mang theo mùi hương thoang thoảng từ vườn hoa đủ loại ngoài sân thượng bệnh viện.
Đột nhiên trời trở gió. Những cơn gió mạnh ào theo bước chân của khách tạt vào làm bay tốc các tờ tạp chí và làm chao đảo các cành hoa đầy màu sắc trong mấy chiếc độc bình lớn trên bàn, cạnh những bộ sofa khách đang ngồi. Từ phía sau, một người đàn ông Việt Nam mặc bộ đồ màu xanh xám của nhân viên bệnh viện đẩy chiếc xe chất đầy dụng cụ lau nhà phăng phăng đi ngang qua phòng đợi, vừa đi ông vừa cởi chiếc khẩu trang ra thảy vào trong giỏ rác.
– “Hey! Mr. Lac!” Già Lạc ơi! Cô y tá từ trong phòng lab bước ra gọi. – Ông có thể giúp chỉnh đốn lại mấy bình hoa kia được không? Và cả những khay trái cây luôn, làm ơn nha! Lát nữa đây có phái đoàn trên trung tâm chính xuống khảo sát, mà tất cả mọi người đều bận, kể cả các thiện nguyện viên, nên mới nhờ đến ông đó.
– “Yes Anna! No Problem!” Được cô Anna ơi! Không sao đâu! Ông Lạc cười xởi lởi, khoe hàm răng ngả sang màu ngà vì khói thuốc đã bị mất chiếc răng nanh bên trái. – Để tôi cất cái xe này vào kho đã rồi sẽ làm ngay.
Ông Lạc trở ra sắp xếp mớ tạp chí và lau dọn sạch các mặt bàn rồi ngồi xổm xuống trước một bình hoa, tỉ mỉ sắp xếp lại và đổ thêm nước cho đầy bình để sức gió không thể lung lay. Bình hoa thật lớn. Chen lẫn trong nhóm hoa hồng hoa cúc và hoa huệ, là những đóa hướng dương màu vàng sậm, to lớn giống những chiếc gương tròn, nặng quằn dường như quá sức chịu đựng của cuống lá mảnh mai. Nhưng dù bị gió làm cho nghiêng ngả, chúng vẫn ngoan cường tươi tắn ngạo nghễ nhìn đời, và vẫn luôn cất cao đầu hướng về phía cửa, nơi có ánh nắng mặt trời chói chang vừa bị mây đen kéo qua che khuất.
Ngồi cắm lại những bông hoa xiêu vẹo, ông Lạc tẩn mẩn nghĩ, bịnh nhân ung thư đang điều trị trong khu này cũng giống như những bông hoa mặt trời. Những lần xạ trị đốt cháy thịt da, bao đợt hoá trị phờ người vật vã ói mửa, họ vẫn kiên cường chống chọi. Dù mang bệnh hiểm nghèo, họ gắng sức chiến đấu để giữ lại sự sống. Không biết có phải do vậy mà bệnh viện mới đem chưng loài hoa này ở đây hay chăng, vì ông thấy hầu hết các phòng, chỗ nào cũng có chưng hoa mặt trời.
Những người ngồi chờ nhìn ông làm việc, gật đầu khen ông làm “good job” làm ông cũng thấy vui vui trong lòng.
Làm xong ông Lạc bước lại chỗ kệ để thức uống và trái cây. Trong khay chỉ còn có mấy trái chuối, ông ra nhà bếp bưng tới một rổ táo, chuối, và cam quýt, chất vào cho đầy. Tất cả đều là những loại trái cây hữu cơ “organic” trái nào trái nấy trông sạch sẽ và mạnh mẽ. Nhìn những cái khay đặt cạnh bình nước nóng chứa đầy các loại túi trà, cafe khác nhau kèm theo nhiều túi đường sữa bên cạnh, rồi những bì chips, bánh quy mặn ngọt lạt gì cũng có, ông Lạc thấy khâm phục cách chăm sóc bệnh nhân rất chu đáo ở đây. Ngày ba bữa sáng trưa tối họ cung cấp thức ăn với đầy đủ dinh dưỡng cho bệnh nhân, ai muốn ăn món gì thì có thể đặt hàng cho mình, y tá sẽ đem tới bất cứ lúc nào. Trong tủ lạnh của khu vực này lúc nào cũng đầy ắp sữa tươi, bánh mì kẹp thịt, cá thu, cheese, yorgut, và các loại kem là những thức ăn vặt cho bệnh nhân đỡ lòng khi nào họ cảm thấy đói mà chưa tới giờ ăn chính.
Làm cái job lao công ở đây mười mấy năm, ông Lạc quen biết tất cả mọi người, từ bác sĩ, y tá đến các chuyên gia dinh dưỡng. Người ta cũng rất thích ông vì sự vui vẻ, hiền lành, và làm việc với sự tận tâm. Bà Hạnh vợ ông bị bịnh ung thư cũng được chữa trị ở đây. Các bác sĩ đã hết sức tận tình cứu chữa cho bà lành bệnh. Chỉ tiếc là sau khi hết bệnh bà đã quá ỷ y nên mải lo đi làm không chú ý theo dõi thường xuyên về sức khỏe. Chục năm sau, khi biết bệnh tái phát thì đã quá muộn màng. Các bác sĩ rất giỏi nên họ cũng giúp bà kéo dài thêm được mấy năm.
– Bố Lạc ơi! Làm dùm cho con một ly cà phê với “đường không ngọt” (nonsweetener) đi!
Ông Lạc giật mình quay lại. Đó là Tazee, cậu bệnh nhân “con bà phước” người Mỹ Trắng trẻ nhất, điều trị lâu nhất trong khu này. Một đứa trẻ tội nghiệp. Ông thường nghĩ vậy mỗi khi gặp Tazee. Cậu chỉ mới hơn 20 tuổi đầu mà mắc chứng ung thư mũi vào gian đoạn III trong khi đang học năm thứ hai ở trường Laney College. Suốt mấy tháng điều trị, không hề thấy có thân nhân nào đến thăm, dù khi cậu bị thuốc hành phải nằm cả tuần trong phòng cấp cứu, cũng chẳng có ai chở dùm đến bệnh viện dù chỉ một lần. Cậu lúc nào cũng tự lái xe đến phòng xạ trị và hoá trị rồi chạy về. Mọi người từ bác sĩ đến y tá đến nhân viên nhà bếp, kể cả nhân viên vệ sinh như ông Lạc cũng đều thương Tazee, vì cậu rất can đảm, chấp nhận điều trị căn bệnh hiểm nghèo, không bao giờ tỏ ra sợ hãi hay than phiền.
Tazee lớn lên bất hạnh. Cha mẹ ly dị khi cậu vừa đủ 18 tuổi phải ra tự lập. Cậu vào học đại học vừa đi làm ở McDolnal để có tiền sinh sống và học phí. Cha mẹ cậu sau đó đã tái hôn và dọn đi tiểu bang khác. Mỗi người tự lo cho hạnh phúc của riêng mình, nên họ không hề nhớ đến đứa con đang bệnh hoạn này. Cậu kể, cả cha mẹ cậu ngày còn ở chung hai người đều hút thuốc lá uống rượu mạnh, cho nên chỉ mười tuổi đầu cậu cũng bắt chước làm theo. Bác sĩ nói, rượu mạnh và thuốc lá là nguyên nhân chính dẫn đến căn bệnh của cậu. Ông Lạc thương Tazee hơn ai cả vì cậu ta cũng cỡ tuổi thằng Jimmy con ông. Ông thường vô nhà bếp lấy thức ăn mỗi khi cậu nhờ. Chỉ cần nói cho Tazee là món gì cậu cần nhà bếp cũng cho.
Tazee nhìn ông lạc cười rạng rỡ. Một tay cậu cầm chiếc mặt nạ xạ trị màu xanh lá mạ, tay kia ôm một khung hình.
– Hey bố Lạc! Bác sĩ vừa mới cho con xuất viện khi nãy! Tazee nói, đưa chiếc mặt nạ ra trước mặt ông. – Còn đây là “tấm bằng khen” con đã hoàn thành tốt việc chữa trị! “Ngon lành” chưa! Tazee đùa thêm một câu.
Ở khu này, mỗi khi bệnh nhân nào lành bệnh thì bác sĩ cho xuất viện và cấp một tấm giấy chứng nhận việc chữa trị đã hoàn thành, mọi người gọi đùa đó là “tấm bằng khen” hay là “giấy khai sinh thứ hai.” Điều này rất đúng! Những căn bệnh ung thư chữa hết thì coi như được tái sinh lại lần nữa chứ còn gì. Bác sĩ cũng đưa cho bệnh nhân cái mặt nạ xạ trị được thiết kế riêng cho họ để mang về nhà làm kỷ niệm.
– Wow! Chúc mừng Tazee nha! Ông Lạc kêu lên, nhìn vào tấm bằng trong khung hình và đưa ngón cái lên ra dấu “number one” rồi suýt xoa. – “You did it!” Cậu đã làm được rồi! Giỏi quá! Tôi sẽ làm cho cậu ly cà phê ngon… nhất nước để chúc mừng nghe! Ông đùa xong vội lấy ly pha cà phê cho Tazee.
Nhìn cậu thanh niên, ông Lạc chợt xúc động. Sự can đảm đã cứu lấy cậu trai này. Nhớ lại những ngày chữa trị, Tazee đã trải qua những khổ đau thế nào. Cậu vật vã với ói mửa, đau đớn, mặt mũi bị cháy nám ra tới ngoài da, kể cả ngất xỉu phải đưa lên phòng cấp cứu. Dù chính ông cũng từng chịu đựng bị hành hạ khi ở tù, nhưng chứng kiến cái cảnh bệnh hoành hành, ông không biết mình có thể chịu đựng được như Tazee hay chăng.
Nhìn theo dáng đi thật thong thả, thật nhàn nhã của Tazee so với những ngày cậu mới vào đây bước đi không nổi, ông Lạc bất giác thở dài, nghĩ đến thằng con Jimmy của ông. Trong khi Tazee và bao nhiêu bệnh nhân ở đây phải ráng chiến đấu với thần chết để giành lại mạng sống thì thằng con ông lại đi đâm đầu vô chỗ chết. Mấy tháng qua, cuối tuần nào ông cũng lặn lội qua thành phố San Francisco để tìm thằng Jimmy. Có lần tìm thấy nó đứng chung với mấy đứa Mỹ, ông mừng quá chạy vội tới. Trong lúc lính quýnh vừa chạy vừa dòm chừng sợ nó bỏ đi, ông vấp phải cái bục xi măng cạnh lề đường và ngã sóng soài. Đến khi ông lò dò đứng dậy được thì chỉ còn mấy đứa kia, thằng con biến đi đâu mất. Ông chạy lại hỏi, tụi nhóc cười hô hố không trả lời.
Chiều thứ Sáu đi làm về, ông Lạc ăn vội miếng cơm rồi khoác lên bộ đồ đen nhem nhuốc rách rưới, đôi giày cũ mèm mòn hết đế, đội chiếc mũ lác Mễ ông mua ở chợ 99 cent về bôi cho loang lổ. Kỳ này ông thay đổi chiến thuật, giả dạng làm người ăn xin để qua San Francisco lần nữa. Trong mấy ngày nghỉ cuối tuần, ông nhất quyết phải kiếm cho bằng được Jimmy. Với cái bao rác màu đen to đùng, bên trong đựng tấm nilon cùng chiếc mền rách và vài thanh kẹo cốm để đỡ lòng khi đói, ông ra vườn sau vơ mớ đất cát trong chậu cây thoa lên mặt và hai tay phụ họa cho phần cải trang để thằng Jimmy không nhận ra ông. Đón xe Bart qua San Francisco, ông Lạc vác cái bao từ đường Market đi lần về hướng sau lưng Toà Thị Chính.
Trời đã xâm xẩm tối, bầu không khí của thành phố biển trở nên lạnh dần. Dãy đèn đường giăng giăng ánh sáng vàng vọt trên những ngọn cây dọc theo đường Ellis và Olive như rải chút niềm hy vọng chở che cho đám người cùng khổ có chỗ nghỉ ngơi, sau một ngày lang thang tản mác khắp nơi kiếm sống. Đó là lúc các tiệm quán hai bên đường bắt đầu đóng cửa, “trả lại” vỉa hè cho những kẻ không nhà. Quả thật đúng như người ta nói, thành phố San Francisco là nơi dung chứa tốt nhất cho “Homeless.” Trời càng tối thì người ta càng lũ lượt, kẻ đẩy xe shopping cart trên chất ngổn ngang các thứ quần áo chăn mền, người mang cặp, kẻ vác bao, trở lại vị trí cũ của mình, trải những tấm nilon, tấm bạt xuống vỉa hè chuẩn bị cho giấc ngủ.
Ông Lạc cũng chen vào gần với họ vì không muốn ngồi một mình sẽ bị cảnh sát đi tuần để ý. Thấy chỗ góc đường Ellis gần đường Larkin còn một khoảng trống chưa có ai ngồi, ông lò dò bước lại đặt cái bao xuống. Trải tấm nilon ra ngồi, qua chiếc mũ sùm sụp ông quan sát thật kỹ xung quanh. Gần đó, nhiều người đã chui vô chăn trùm kín mít, chỉ còn vài người đang phì phèo thuốc lá, những đóm lửa tỏa sáng trên đầu môi họ.
Thấy hơi đói, ông mở túi nilon lấy một thẻ kẹo trái cây nhai xong, cột túm cái bao lại đặt trên tấm trải và đứng dậy lững thững đi ngược về phía con hẻm bên cạnh. Đâu có gì quý giá trong đó mà lo. Những kẻ không nhà này chắc không ai đi trộm đồ “đồng nghiệp” của mình. Tới cuối đường, ông Lạc nhìn vào trong hẻm. Đó là một khu vực tối tăm của đường Eddy, nơi ông đã có lần nhìn thấy Jimmy sau lần gặp nó gần Tòa Thị Chính. Con đường vắng vẻ không thấy bóng dáng ai, ngoài những cụm người đắp chăn nằm lù lù rải rác từ phía xa gần đường Polk.
Trời về khuya, xe cộ lúc này đã giảm bớt qua lại, những kẻ không nhà quanh đây cũng đà ngon giấc. Khu phố thật yên ắng. Thỉnh thoảng một vài chiếc xe của những người đi làm về trễ chạy chậm chạp mệt mỏi ngang qua, trông buồn tẻ cô đơn như những con nhạn lạc bầy. Ông Lạc ứa nước mắt nghĩ đến thằng con.
Là một người trước đây dù kẻ thù hành hạ cỡ nào nước mắt cũng không rơi, mà từ dạo vợ qua đời rồi đến lượt thằng con giở chứng, ông đâm ra như người “mít ướt,” nước mắt cứ chảy thường xuyên…
**
Thằng Jimmy là đứa “con trai cầu tự,” là đứa con…đẻ ráng, sau ngày vợ chồng ông đến Mỹ diện HO. Ông Lạc từng là một sĩ quan của Quân Lực VNCH, đi tù khi Mỹ Hạ con gái đầu lòng của hai vợ chồng mới lên bốn tuổi. Lúc sinh Jimmy, bà Hạnh đã ngoài bốn mươi. Thời gian sau theo dõi, bác sĩ nói đứa bé có vấn đề tâm lý, bị trầm cảm, cần phải được chăm sóc cẩn thận. Nghe lời khuyên, vợ chồng ông tìm đọc sách báo để biết cách nuôi con. Khi thằng bé bắt đầu đi học, ông Lạc gửi nó vào một trường bán công (Charter School) để họ chăm sóc cho kỹ càng. Nhờ vậy, Jimmy lớn lên ngoan hiền, học giỏi, chỉ tội ít nói chuyện ngoài ra không có vấn đề gì trầm trọng.
Đứa con gái lớn Mỹ Hạ của ông bà học rất giỏi. Đó cũng là tấm gương sáng cho Jimmy. Thằng bé cũng như chị gái, thay phiên nhau đem về khoe thành tích nhất nhì lớp của trường Oakland với cha mẹ. Ông Lạc rất mừng, từ những thông tin ông tìm được trước đây, trẻ mắc bệnh trầm cảm hoặc tự kỷ nếu chăm sóc tốt từ nhỏ, lớn lên nó có thể trở thành nhân tài.
Mỹ Hạ học xong đại học, ra đi làm rồi lấy chồng và dọn qua New York sống. Jimmy tốt nghiệp trung học loại giỏi, đứng trong nhóm đầu bảng Top 10 học sinh giỏi của trường Oakland Charter Highschool và được nhận vào Laney College. Vợ chồng ông thở phào nhẹ nhõm, vất đi nỗi lo canh cánh bên lòng về Jimmy.
Jimmy vừa học college vừa đi làm ở tiệm KFC trong thành phố. Mọi thứ đều suông sẻ. Thằng con học giỏi lại đẹp trai nên dù nhút nhát, ít muốn tiếp xúc với mọi người, nó cũng có được đứa con gái cùng lớp tên Anna người Mỹ Trắng theo hò hẹn. Điều này làm vợ chồng ông vui lắm.
Nhưng rồi tai họa đã giáng xuống cho gia đình ông, khi Jimmy bước sang năm học thứ hai. Đó là lúc bà Hạnh qua đời. Jimmy từ nhỏ rất thân thiết và gần gũi quấn quít bên mẹ. Bà cưng chiều, chăm chút cho con trai từng tý từng ly vì nỗi ám ảnh từ lời bác sĩ là nó bị bệnh. Dù đã lớn, mỗi lần đi học về Jimmy đều chạy tìm mẹ, mỗi tối trước khi đi ngủ thằng bé luôn vô phòng hôn mẹ và chúc ngủ ngon. Cho nên cú sốc mất mẹ làm cho Jimmy trở nên hoảng loạn.
Sau đám tang vợ, ông Lạc dù buồn khổ cũng phải cố gắng trở lại đi làm. Nhưng Jimmy thì không dậy nổi. Nó nằm bẹp dí, khóc cả tuần lễ, dù con bồ Anna thường tới an ủi vỗ về, nó cũng không chịu dậy đi học lại. Vốn là đứa học giỏi, giờ bỏ lớp giữa chừng, nên khi biết mình bị điểm F, rớt hết các môn, Jimmy càng căng thẳng và hụt hẫng. Nó nằm lì trong nhà, không thiết cả ăn uống tắm rửa hay đi ra ngoài. Ông Lạc bận đi làm, ông cố làm thêm nhiều giờ cho quên đi nỗi buồn, nên không hề biết những diễn tiến tâm lý tồi tệ của Jimmy.
Rồi đến một ngày, khắp người Jimmy bỗng nhiên nổi toàn mẩn đỏ, ngứa và tróc từng lớp ở da đầu, ở mặt, cùi chỏ, đầu gối… Nó mắc phải chứng bệnh người ta thường gọi là “chứng vảy nến.” Và con bé Anna bỏ nó đi luôn từ đó.
Căng thẳng tiếp nối căng thẳng, khổ đau liên tục khổ đau, Jimmy bộc phát mạnh chứng bệnh trầm cảm mà lúc nhỏ bác sĩ đã phán đoán. Vì mặc cảm thân mình gớm ghiếc, nó trở nên khó chịu, chán đời, nhưng nhất quyết không đi bác sĩ để chữa trị. Mặc cho cha khuyên bảo năn nỉ để cha đưa đi, nó vẫn không nghe. Ông hỏi thăm những bác sĩ trong bệnh viện và các y tá, thì họ cho biết chứng vảy nến tuy khó trị nhưng không lây lan nên ông cũng tạm yên tâm.
Khi căn bệnh Jimmy trở nên nghiêm trọng, các vảy nến rơi ra từ người nó lâu ngày chúng biến thành những con giòi trắng ngà, bò ngổn ngang khắp ra giường và phòng ngủ của nó trông rất ghê rợn. Và ông Lạc đau đớn khám phá ra nó lén dùng ma tuý. Đi làm về bước vào nhà, ông nhận ra cái mùi hôi tanh của ma túy. Giờ ông mới biết tại sao lâu nay thằng bé có thể chịu đựng được sự ngứa ngáy dơ nhớp khó chịu thế kia. Mỗi ngày ông đều năn nỉ Jimmy để ông đưa đi bác sĩ, nhưng vô ích, nó không thèm đếm xỉa tới cha nữa. Muốn nhờ cảnh sát giúp, buộc đưa nó đi chữa trị và cai nghiện, nhưng ông không nỡ. Vậy mà vài tháng trước, nó bỏ nhà đi mất.
Vừa đi vừa miên man suy nghĩ, ông Lạc vượt qua con hẻm Eddy lúc nào không hay. Thình lình ông nghe có tiếng nhốn nháo từ phía đàng sau. Ông dừng chân quay lại, kéo sụp cái mũ xuống và bước dần về hướng đó rồi đứng nép sát người vào góc tường của một ngôi nhà nhìn vào.
Dưới ánh đèn đường, ông Lạc thấy một đám ba thằng choai choai mỗi đứa tay cầm một khúc cây ngắn đang bao vây một đứa con trai vào giữa, chúng nói gì đó có vẻ như đe doạ. Đứa nạn nhân ngồi bệt dưới đất, hai tay bị trói ngoặt ra sau, hai chân cũng bị trói đang cố sức vùng vẫy, nhưng tuyệt nhiên nó không kêu cứu hoặc kêu than một tiếng nào.
Bỗng nhiên có một đứa con gái từ đâu chạy nhào tới la hớt hải:
– “Stop it! Thomas!” Dừng lại Thomas! Đừng có đánh nó! Tao đã bỏ nó rồi mà! Nó bị bịnh hoạn tội nghiệp lại dơ nhớp thế kia mày ghen cái gì cơ chứ!
Ông Lạc giật bắn mình. Đó là tiếng của Anna, con nhỏ bồ của Jimmy. Ông vẹt hẳn cái mũ lên nhìn cho kỹ đứa ngồi dưới đất và sém chút nữa ông bật kêu thành tiếng:
– Jimmy! Trời ơi!
Nhưng ông kịp cắn răng và ngậm chặt miệng lại. Ông nhìn quanh quan sát để tìm cách cứu thằng con. Bên cạnh bọn chúng là cái thùng rác, bên kia cách vài mét là cây trụ điện. Ba thằng Mỹ tuy cao to nhưng cũng chỉ là mấy thằng nhóc mới lớn, lẽ nào cái người từng là cấp chỉ huy của một đại đội oanh liệt thiện chiến, học diệt thù có bài bản từ trường Võ Bị Quốc Gia, mà địch không lại bọn chúng hay sao. Ông nghĩ vậy, nhưng cũng chợt nhớ ra là mình bây giờ cũng đã trên sáu mươi, chân bắt đầu run, gối cũng đã mỏi. Nếu là thuở xưa thì cái đám này nghĩa lý gì. Ông lùi lại rút điện thoại ra gọi 911, phòng ngừa nếu lát nữa có chuyện gì xảy ra cho hai cha con thì có người tiếp cứu. Báo cho cảnh sát biết địa điểm xong, ông nhẹ bước tiến dần về phía chúng nó.
– Ê! Jim! “Son of a bitch!” Ê! Thằng Jim chó đẻ! Một thằng trong bọn lớn tiếng nói, tay hươi hươi khúc cây trước mặt thằng Jimmy. – Anna đã xin cho mày đó! Mày hãy “beg,” van bọn tao đi! Tao sẽ tha cho mày!
Thằng Jimmy vẫn không nói một lời. Nhưng khi thằng kia chồm tới gần
định dọa nó hay nói gì đó thì nó nhổ toẹt một bãi nước miếng vào mặt thằng đó.
Như chỉ chờ có thế. Cả bọn nhào vô dùng khúc cây trên tay quật liên tiếp vào thằng Jimmy. Con Anna la hét om sòm, nhào vô vừa lôi kéo, vừa kêu tụi nó dừng tay, nhưng một thằng trong bọn xô mạnh con nhỏ té lăn quay xuống đất và dọa:
– Tụi tao chỉ trừng phạt chứ không có ý định giết nó! Nhưng nếu mày còn bênh nó mà la lối thì tao sẽ đập cho nó chết luôn!
Con nhỏ hoảng hồn bỏ chạy ra ngoài gọi cảnh sát.
Ông Lạc không thể chờ được nữa nên phóng vội tới để cứu Jimmy. Thấy thằng con nằm cong lại, oằn người nhận những cú nện như trời giáng của ba thằng du côn mà không kêu la, ông hét lên một tiếng thật to, chộp lấy cái thùng rác đẩy mạnh về phía hai thằng bên phải. Bất thình lình bị cái thùng rác tông vào, một trong hai thằng té nhào xuống đất. Nhưng ông Lạc bị mất thăng bằng cũng ngã nghiêng qua một bên. Ông nhanh chóng gượng dậy, đứng theo thế võ xuống tấn để lấy lại thăng bằng, rồi bay vụt lên đá mạnh vào đầu cái thằng đang vung khúc cây lên chuẩn bị táng xuống Jimmy, làm cho nó văng ra xa nằm im không động đậy. Khúc cây rời khỏi tay hắn đập vào cái trụ điện rồi văng lông lốc ra giữa đường.
Thằng còn lại và thằng té ngã bây giờ đã đứng dậy. Mới thoạt đầu chúng kinh hãi khi có người tới cứu Jimmy. Nhưng giờ hoàn hồn nhìn thấy người tấn công chúng là một ông già Á Châu ốm nhách, chúng không còn sợ nữa. Hai thằng bèn bỏ Jimmy, cùng lúc nhào vô tấn công ông Lạc. Ông chẳng hề nào núng chút nào. Tình thương con đã làm ông mạnh mẽ, phát điên lên, ông xông thẳng vào đánh bọn chúng bằng tay không nhưng mạnh như bão táp. Chỉ trong nháy mắt, hai thằng nhóc Mỹ to kềnh bị ông Lạc đánh cho bò lê bò càng, rồi ngã lăn ra ôm bụng nằm oặt oẹo. Quay sang con, ông thấy Jimmy nằm im không cục cựa nên vội chạy lại.
– Jimmy! Con có sao không? Để ba mở dây trói cho con!
Ông vừa thở hổn hển vừa nói, rồi cúi xuống mở dây cho Jimmy.
Trong lúc ông loay hoay mở dây trói trên tay cho Jimmy, bất ngờ cái thằng nằm xỉu ngoài đường tỉnh lại. Nó bò tới nhặt khúc gỗ lên, đứng bật dậy thật nhanh và nhào tới nhắm ngay đầu Jimmy bổ xuống từ phía sau lưng. Ông Lạc trông thấy hét lớn:
– Jimmy!
Ngay lập tức ông nhoài người tới ôm thằng con đẩy nó ngã xuống, và ông lãnh trọn cú đập như trời giáng vào đầu. Ông Lạc đổ gục xuống trên mình Jimmy, vừa lúc tiếng còi xe cảnh sát chạy tới hú lên vang dội…
*
Đã hai ngày trôi qua, tại phòng cấp cứu của bệnh viện San Francisco, ông Lạc vẫn còn nằm bất động, dây nhợ máy móc chằng chịt trên người. Cú đánh vào đầu đã làm ông bị chấn thương sọ não. Bác sĩ phải giải phẫu, hút hết máu tụ trong đó ra, nhưng họ nói vết thương quá nặng, cho dù cuộc giải phẫu thành công nhưng ông có tỉnh lại được hay không thì họ chẳng có nhiều hy vọng.
Con gái ông, Mỹ Hạ từ New York bay về từ hôm trước đang ngồi ủ rũ trong phòng.
Thằng Jimmy đầu đội chiếc mũ dìm che mái tóc bù xù và cái trán ửng đỏ, mặc bộ quần áo rộng thùng thình phủ cả cổ và hai cánh tay vảy nến Mỹ Hạ mua về bắt nó mặc, đang ngồi cạnh giường ôm lấy hai tay cha khóc rưng rức. Nó đã không ăn, bỏ ngủ từ hôm thứ Sáu đến giờ. Cú sốc mất mẹ, rồi mất người yêu, đã khiến tinh thần Jimmy bạc nhược, sa sút, lâm vào cảnh khốn cùng. Bây giờ sắp mất cha khiến Jimmy đột nhiên trở nên tỉnh táo.
– Daddy! Nước mắt Jimmy ràng rụa, chảy ướt đẫm bàn tay ông Lạc. Nó gọi cha trong tiếng nấc nghẹn ngào. Khóc một hồi, bỗng nhiên Jimmy cảm thấy mấy ngón tay của ông Lạc cử động trong tay mình. Nó vui mừng kêu lên:
– “God!” Trời ơi! Cha đã tỉnh! Nó reo lên. – Chị ơi! Cuối cùng cha đã
tỉnh! Vậy mà bác sĩ nói cha có thể sẽ không bao giờ tỉnh lại. Để em đi gọi bác sĩ! Nói xong nó đứng dậy, định chạy đi.
Bàn tay ông Lạc trong tay Jimmy bỗng giữ nó lại, đôi mắt yếu ớt của ông nhìn thằng con thật âu yếm, rồi nhìn qua con gái. Đưa tay gỡ cái mặt nạ oxygen ra, giọng ông thều thào như hơi thở:
– Các con đừng đi! Cha khỏe rồi, và cha rất mừng thấy Jimmy đã biết biểu lộ tình cảm, nghĩa là con vẫn còn thương cha. Điều cha mong mỏi nhất là con phải cai nghiện, đi chữa bệnh, rồi trở lại trường học. Cha qua đây không giỏi tiếng Anh nên phải làm lao công cả đời. Nhưng con thì…
– Cha yên tâm đi! Jimmy thấy cha nói chuyện được thì mừng quính ngắt lời. – Con hứa là con nhất định sẽ chữa bệnh và đi học lại, cha đừng lo! Hai ngày nay con đã cố gắng, mỗi lần lên cơn thèm thuốc là con nhìn vào cha rồi lén chạy vô phòng vệ sinh cắn chặt mấy ngón tay chịu đựng, khi qua cơn con mới ra ngoài, bây giờ cũng tạm quen dần. Con nhất định sẽ bỏ được…
Ông Lạc nở một nụ cười méo mó vì vết mổ còn đau, nước mắt chảy dài, nhưng trong mắt ông ánh lên niềm hạnh phúc vô biên. Ông sờ đầu thằng Jimmy, rồi đưa bàn tay ra cho Mỹ Hạ và nói:
– Cha mừng quá, con gái Mỹ Hạ! Con hãy phụ cha khuyến khích em nha! Mẹ con mà biết được em thay đổi nên người thì bà ấy cũng sẽ ngậm cười nơi chín suối.
*
Và Jimmy đã làm được.
Bảy năm sau, ông Lạc về hưu. Đó cũng là năm Jimmy được nhận vào thực tập bác sĩ chuyên ngành ung thư trong bệnh viện nơi mà ông Lạc đã làm lao công hơn hai chục năm. Và cũng là nơi đã điều trị cho vợ ông. Jimmy nói, nó học ngành này để giúp cho những bịnh nhân giống như mẹ nó ngày xưa …
Phương Hoa
**
Lời Tâm Tình TừPhạm Phan LangVà Bài Thơ Song Ngữ Việt + Anh
Nhân ngày Lễ Phụ Thân, trong niềm thương nhớ khôn nguôi dành cho người Cha kính yêu đã khuất, PLang xin được chia sẻ với quý vị một bài thơ nhỏ – “Nhớ Cha Ngày Lễ Phụ Thân” – như một lời thì thầm từ trái tim của người con xa xứ.
Hai mươi mốt năm trôi qua kể từ ngày Cha ra đi nơi quê nhà Việt Nam, nhưng ký ức về những ngày cuối cùng được trở về bên Cha – đút từng thìa cháo, xoa bóp đôi chân đau buốt, đẩy chiếc xe lăn quanh sân nhỏ – vẫn còn vẹn nguyên trong tim. Những ánh mắt dịu dàng của Cha, những cái nhìn lặng lẽ ngày ấy… đã hóa thành thơ.
Bài thơ này được nhạc sĩ Thái Phạm phổ nhạc thành ca khúc cùng tên, và qua giọng ca tha thiết, nghẹn ngào của Đông Nguyễn – từng câu, từng chữ như được cất lên từ chính tận cùng sâu thẳm của nỗi nhớ, làm PL không tránh được giọt lệ rưng rưng. Xin chân thành cám ơn nhạc sĩ Thái Phạm và ca sĩ Đông Nguyễn.
Xin trân trọng kính mời quý anh chị cùng nghe nhạc phẩm “nóng hổi mới ra lò”:
Xin chúc quý anh chị luôn an lành, mạnh khỏe, và những ai còn Cha Mẹ – xin hãy trân quý từng phút giây sum vầy bên Người.
Kính mến,
Phạm PhanLang
TB. Below is the bilingual poem,
NHỚ CHA NGÀY LỄ PHỤ THÂNMISSING FATHER ON FATHER’S DAY
Cha ơi, con gọi nghẹn lời, Oh Father, I call, choked with pain, Mùa Cha trở lại, một trời nhớ thương. As Father’s Day nears, I miss you again. Bao năm biệt xứ dặm trường Long years away, I still remain Ngày đi đòi đoạn quê hương xa dần. A child of a land I may not regain…
Nhớ xưa Hè chớm vào sân, That summer, just as flowers came, Hay tin Cha yếu, đôi chân rã rời. I heard you grew weak, your legs tired and lame. Con xin gác lại việc đời, I laid aside rank, job, and name, Trở về quê mẹ sớm mơi phụng thờ. Returned to your side, no thought of acclaim.
Ngày ngày đút cháo nâng cơ, Each day I fed you, eased your frame, Xoa chân run rẩy, đẩy xe quanh vườn. Massaged your frail legs, wheeled you through the lane. Cha nhìn con mắt lệ tuôn, You looked at me with eyes that rained— Ánh nhìn chan chứa tình thương thuở nào. Still filled with the love that through childhood remained.
Thấy Cha đỡ bệnh mấy phần, When you seemed better, less in pain, Con đành tạm biệt cánh bằng bay cao. I left with regret to fly home again. Về chưa xong việc là bao, Not long had I tried to maintain Tin Cha hấp hối như dao xé lòng. My scattered tasks—then grief sliced like a chain.
Vội vàng trở lại đêm đông, I rushed through the cold night and rain, Vượt bao cách trở, cầu mong ơn Trời. Through borders and skies, I whispered your name. Kịp bên Cha phút cuối đời, One last breath you spent just the same— Nhìn con lần cuối, Cha rồi… lặng im. You saw me… then silence. No word ever came.
Cha đi… trời đất lặng chìm, You left… and the earth lost its frame, Lệ buồn nhỏ giọt đẫm tim não nề. My heart drenched in sorrow no words could tame. Bao năm bóng ngã trưa hè, Years fall like sunlight, just the same, Lòng con vẫn thấy Cha kề đâu đây. Yet I still feel you, beside me, so near.
Dẫu Cha khuất nẻo mây bay, Though clouds may hide you from me here, Ơn Cha như biển đong đầy tim con. Your love fills my heart like oceans sincere. Mỗi mùa Lễ Phụ Thân còn, Each time Father’s Day reappears, Con dâng giọt lệ, thay tròn chữ yêu… I shed one more tear, for a love most dear.
phamphanlang
1/6/2025
*
CA KHÚC NHỚ CHA NGÀY LỄ PHỤ THÂN – THƠ PHẠM PHAM LANG
*
**
Như Một Thoáng Mây Bay
Đỗ Dung
Ông cụ nằm kia, khuôn mặt trắng mịn, hiền hòa, đôi mắt khép lại nhẹ nhàng như người đang nằm ngủ. Khuôn mặt kia, hình hài kia rồi sẽ biến đi, sẽ tan vào hư vô, chúng tôi không bao giờ còn trông thấy nữa. Ai cũng biết ngày này rồi sẽ tới, ai cũng biết đến lúc phải chia ly nhưng trong sâu thẳm của tâm hồn vẫn có những nỗi đau vò xé. Trong cái mênh mang, êm lặng tột cùng vẫn có những nỗi xót xa. Hơn tám mươi năm, một khoảng thời gian dài cho cả một đời người cũng chỉ như một thoáng mây bay. Bố tôi nằm đó, bình an như đang say ngủ, những hình ảnh xưa về Bố chợt ẩn chợt hiện, chợt gần chợt xa…
Trước năm 1954, gia đình chúng tôi sống hạnh phúc trong căn nhà nhỏ trên đường Mai Hắc Đế, Hà Nội. Những ngày tháng êm đềm, có Bà, có Mẹ, có cô Nga em của Bố và cậu Thắng em của Mẹ. Bố tôi chưa đầy ba mươi tuổi và chúng tôi từ em Tuấn còn bế ngửa, anh Dũng chưa lên chín, ở giữa là ba bé gái, Tí Bun, Tí Xíu và Ông Lý Hạnh (Hồi nhỏ Hạnh hay đội cái mũ thóp giống như khăn xếp của ông lý nên Bố yêu gọi là Ông Lý Hạnh). Phòng khách nhà tôi kê bộ ghế với tràng kỷ kiểu Tàu, bộ sập gụ và tủ chè khảm xà cừ óng ánh sự tích Bát Tiên. Buổi tối sau khi ăn cơm, chúng tôi quây quần, cha ngồi xem báo, mẹ ngồi đan áo ở bộ sa lông và chúng tôi bò trên sập để học bài như cảnh Phạm Duy mô tả trong bài “Kỷ Niệm”, chỉ khác là không có cây đèn dầu hao nhưng căn phòng sáng ấm nhờ bóng đèn vàng từ trên trần toả xuống.
Buổi chiều mấy con bé đợi Bố đi làm về để bám vào cánh tay rắn chắc của Bố đang cong lại đưa ra, mấy đứa nhún chân lên đu đưa rồi cười như nắc nẻ. Ngày mùng một ta, Mẹ tôi hay cúng Thổ Công cái chân giò luộc để cạnh ba chén rượu trắng và một đĩa muối. Khi cúng xong Bố lấy con dao nhỏ từ từ xẻo từng miếng thịt chân giò, chấm muối tiêu rồi cứ Bố một miếng lại cho mỗi đứa con một miếng.
Thời buổi nhiễu nhương tranh tối, tranh sáng sau hiệp định Geneve, vì an ninh nên gia đình chúng tôi phải dọn vào nhà thương Võ Tánh. Bà tôi ngày nào cũng khóc vì không muốn rời quê cha đất tổ, mồ mả tổ tiên. Bà muốn cả nhà ở lại hoặc để Bà ở lại với cô Nga, ngày đó mới lập gia đình và nhà chồng cô quyết định không di cư. Một hôm Bà cũng đang sụt sùi nài nỉ, Bố tôi rút cây súng lục để ra bàn nói: “Cụ muốn ở lại để con bắn hết các cháu, con bắn chết con luôn để Cụ ở lại một mình được không?” Bà tôi sợ quá, cuống quýt: “Thôi tôi xin cậu, tôi xin cậu, tôi đi, tôi đi!” Thế là từ đó Bà chỉ thút thít khóc thầm chứ không dám khóc trước mặt Bố tôi nữa. Về sau Bố nói phải dọa già thế Bà mới chịu đi chứ ở lại thì chết cả đám.
Vào đến Sài Gòn, gia đình gồm chín người, ngơ ngác nơi vùng đất lạ, tất cả phải làm lại từ đầu, Bà tôi ngán ngẩm cố nén tiếng thở dài. Chúng tôi định cư tại căn nhà ở đường Thành Thái, một căn nhà gỗ nhỏ, một tầng, xung quanh còn cây cối xum xuê. Mặc dù rất bận rộn trong sở làm, ưu tư về nơi ăn, chốn ở mới, ngày nào đi làm về Bố tôi cũng tắm rửa cho chúng tôi. Ông yêu các con và đó cũng là cái thú của ông, mặc dù nhà có người làm, có Bà, có Mẹ chúng tôi. Tôi còn nhớ cứ vào cuối tuần ông hay đem chúng tôi ra cắt tóc, cạo mặt, ngoáy tai, cứ từng đứa, từng đứa. Đứa nào nhúc nhích không chịu ngồi yên, tóc không đều, ông cắt lại, cắt nữa, đôi khi tóc chỉ còn như cái “mủng dzùa” úp lên đầu. Khi vào Nam tôi mới bảy tuổi nhưng có ba em nên coi như đã lớn, năm 1955 Mẹ tôi đi sanh Phương Nam. Rồi cứ cách một năm Mẹ cho ra đời thêm một đứa, tôi đưa Mẹ đi sanh và mỗi buổi sáng trước khi đi làm và buổi chiều trước khi về nhà Bố đều vào thăm Mẹ và em bé mới.
Nhân số gia tăng, nhà cũng được xây cất thêm, từ một căn nhà gỗ lụp xụp thành một căn nhà gạch bốn tầng, hai dãy. Bố tôi phải lập ra những luật lệ như nhà binh để cai trị bầy con của Bố. Nhà gắn một cái chuông điện to như chuông trường học ngay phòng khách. Mỗi người có một tín hiệu riêng, chuông bấm hiệu ai người đó phải có mặt. Riêng giờ ăn là ba tiếng chuông dài đến nỗi hàng xóm cứ nghe ba hồi chuông lanh lảnh là biết ngay nhà chúng tôi đến giờ cơm. Phòng ngủ là một trại nữ binh với một dãy giường và một dãy bàn học. Tuy là nhà binh nhưng Bố tôi rất nghệ sĩ và tâm hồn ướt át, lãng mạn. Chúng tôi cũng ít nhiều ảnh hưởng tính nết đó. Thuở còn bé Bố đã cho chúng tôi nghe những bản nhạc êm đềm, trữ tình như Suối Mơ, Con Thuyền Không Bến, Thiên Thai, Biệt Ly… Có một thời Bố tôi làm chủ bút tuần san Kiến Quốc, bác Nguyễn Xuân Đăng giữ việc trình bày. Bố viết văn, làm thơ… Ngày tôi học Trưng Vương, khi phải lên trần thuyết, nếu tôi về òn ỉ là Bố soạn ngay cho một bài, vào lớp chỉ việc đọc.
Nhà có ba người lớn, Bà bảo ban người làm và trông nom các cháu, Mẹ lo cái ăn, cái mặc còn Bố lo chuyện học hành. Tối nào Bố cũng giảng dạy và khảo bài chúng tôi. Bố và tôi rất thân, khi tôi mới mười hai, mười ba đã được Bố tôi đối xử như người lớn, việc gì Bố cũng cho tôi góp ý, chọn màn cửa, chọn kiểu bàn ghế, ngay cả việc bày biện đồ đạc trong nhà. Bầy con mười hai đứa của Bố lớn dần, lại là một bầy nhiều con gái. Trong cái vui vẫn có cái nghiêm, trong sự thân mật vẫn có những uy lực của ông Bố để hướng dẫn đàn con. Tôi là con gái lớn được hưởng những sự yêu thương, săn sóc đặc biệt của ông Bố trẻ nhưng ngược lại cũng bị những ngăn cấm khắt khe của Bố dành cho con chim đầu đàn. Hồi còn bé tôi được Bố tôi dắt vào nhà thương Võ Tánh xem những buổi tập duyệt binh, được diện quần áo đẹp để Bố đưa vào xem những buổi văn nghệ có Thanh Hằng, Thanh Hiếu đến hát ủy lạo chiến sĩ. Khi lớn lên, dù tôi đã vào đại học Bố vẫn đưa đón… Cho đến ngày tôi lập gia đình, Bố tôi đã khóc rất nhiều khi dặn dò con trước ngày vu quy và sụt sùi khi tiễn con về nhà chồng. Hai đứa con lớn của chúng tôi ra đời trong tình yêu thương đầy ắp của Ông Bà. Các cháu sang chơi Ông nằm xuống vạch bụng cho cháu bắn bi vào lỗ rốn, ông bò xuống làm ngựa cho cháu phi nhong nhong…
Tưởng cuộc sống cứ thế êm đềm trôi, Bố tâm sự với chúng tôi về những ước vọng của Bố. Chín đứa con gái của Bố đều học hành giỏi giang, đều là nữ sinh ưu tú. Bố đợi ngày Út Thùy tốt nghiệp Trưng Vương, Bố sẽ đặt tiệc lớn ăn mừng, Bố sẽ mời toàn ban Giám Hiệu và Giáo Sư Trưng Vương để tỏ lòng tri ân những người đã góp công lớn trong việc dạy dỗ các con của Bố. Rồi Bố Mẹ tôi ao ước có một ĐỖ GIA TRANG tại Đà Lạt, một dãy nhà hình chữ U gồm có mười ba phòng lớn, Ông Bà một phòng còn cho mỗi gia đình con một giang sơn nhỏ. Ngày giỗ tết, hội hè, con cháu về tụ họp, Bố sẽ cầm cái gậy chỉ huy của Bố để chỉ huy lũ cháu, chắt… Cả một gia trang sẽ rộn rã tiếng cười… Bố Mẹ chúng tôi đã mua mấy mẫu đất trên sườn đồi khu Mê Linh, Đà Lạt, trông ngay ra mặt hồ, phong cảnh thật hữu tình, nên thơ để thực hiện mơ ước đó.
Nhưng ai có ngờ đến cái ngày 30 Tháng Tư oan nghiệt! Tất cả các mộng ước nhỏ bé, giản dị của Bố tôi đều tan tành. Bố đã già sộc hẳn đi khi nhìn thấy tương lai mờ mịt của một lũ con bé bỏng, thương yêu. Bố đã bạc đầu vì tinh thần trách nhiệm quá cao đối với tổ quốc, với nhân viên thuộc cấp, với gia đình. Bố đã không bỏ chạy khi quân đội chưa rã ngũ.
Tất cả là định mệnh! Một tháng sau chồng tôi chở Bố tôi đến nơi tập trung và một tuần sau đó tôi cũng đưa nhà tôi vào đúng địa điểm ấy, để đi cải tạo không biết ngày về… Tôi đã khóc thật nhiều khi đọc những lời trong di bút của Bố: “Vì yêu Tổ quốc, mến quê hương nên tôi đã ở lại Việt Nam cho tròn trách nhiệm của sĩ quan cấp tá độc nhất của trường quân y còn ở lại. Chịu đựng cảnh tù đày suốt gần mười năm trong các trại lao tù ở Bắc Việt do Cộng Sản lập ra để trả thù những chiến sĩ quốc gia còn kẹt lại. Với bao cơ cực, đói khát của thời gian gọi là khổ sai cải tạo, tôi cố gắng giữ tinh thần bất khuất và nhân cách của một chiến sĩ khi thất thế, sa cơ.”
Và… Ngày 20/4/1990, chúng tôi, một bầy con cháu của Bố đã kéo nhau ra phi trường San Francisco để đón Ông Bà và dì Út. Bố đã già đi nhiều. Mười năm, từ năm mươi đến sáu mươi vẫn là tuổi sung sức của một đời người thì Bố tôi bị trong vòng khổ ải.
Năm 1992 Bố tôi bị một cơn bạo bệnh tưởng khó vượt qua, sau khi Bố tôi thoát khỏi cơn hiểm nghèo, Bố Mẹ tôi được em Tuấn đưa đi du lịch vòng quanh thế giới để giải trí và cũng để phục hồi năng lực từ thể chất cũng như tinh thần cho Bố và đồng thời cũng để Bố đạt được những ước mơ của Bố thời niên thiếu. Sau đó Bố tôi sống lặng lẽ như một cái bóng, chỉ vui với con cháu trong những dịp tụ họp đại gia đình, lâu lâu đi thăm các con cháu ở xa. Bố không màng đến thế sự, không tham gia hội đoàn hay bất cứ một tổ chức nào. Thì giờ rảnh rỗi Bố tôi đọc sách và soạn lại cuốn gia phả. Bố ngồi viết hồi ký về cuộc đời mình, kể lại cuộc đời truân chuyên của Bố, từ khi còn là thanh niên mắt sáng ngời ngời, theo kháng chiến lưu lạc khắp vùng núi đồi Việt Bắc, sang tận Trung Hoa rồi mới quay về, nhìn vợ dại, con thơ, nhìn lại lý lịch bản thân, thành phần tiểu tư sản thành thị… Bố đã ngao ngán quyết định đưa cả nhà hồi cư. Rồi cả một cuộc đời binh nghiệp, tận tụy với Tổ Quốc, với lý tưởng mình đã chọn lựa. Cho ra đời một bầy con. Đến ngày đổi đời. Đến ngày lạc lõng, cô đơn nơi xứ người mặc dù con đàn, cháu đống. Bố tôi đã viết với hy vọng con cháu sau này biết được dòng dõi cha ông, giữ lại những truyền thống tốt đẹp của dòng họ ĐỖ và cũng biết được một mảnh đời của một người Viêt Nam trong thời tao loạn.
Một đoạn trong tập hồi ký Bố tôi đã viết:
“… Tôi đang được sống quanh con cháu, tôi mong có ngày mà Trời Phật để cho tôi còn sống trên thế gian này, được thấy quê hương nhà thoát cảnh bị họa Cộng Sản ngự trị, được về sống tại quê cha đất tổ, bên cạnh phần mộ tổ tiên với họ hàng ruột thịt gần xa… ” và tôi nhớ một ngày trong quá khứ đã xa, khi Bố tôi còn tại chức, Bố đã nói: ” Cả một đời mặc áo nhà binh, lúc chết đi Bố muốn được an táng như một người lính theo lễ nghi quân cách…”
Bây giờ Bố tôi nằm đây… không lễ nghi quân cách, không được yên nghỉ trên mảnh đất quê hương. Sau lễ hoả táng chỉ còn là tro, là bụi và tro bụi cũng sẽ tan vào đại dương. Đời là vô thường. Cuộc đời chỉ như một cơn gió thoảng, như một thoáng mây bay.
Đỗ Dung
**
**Bố tôi
Sao Khuê
Ba năm sau khi Sao Khuê chào đời thì bố mẹ Sao Khuê được ông bà cho ra ở riêng tại quê của bà nội, làng Đồng Xâm, tỉnh Thái Bình để trông nom ruộng đất mà bà nội được thừa kế từ các cụ.
Làng Đồng Xâm thuộc xã Hồng Thái có đền thờ Triệu Vũ Đế tức Triệu Đà và hoàng hậu Trình thị, hoàng hậu là người làng Đồng Xâm. Làng có nghề truyền thống là nghề chạm vàng bạc, thờ ông tổ Nguyễn kim Lâu.
Sao Khuê được ở lại với ông bà nội và hai cô tại làng Trình Phố. Thỉnh thoảng bố trở về làng Trình Phố và chở SaoKhuê về thăm nhà của bố mẹ. Ở đó cái gì cũng nhỏ, căn nhà nhỏ có cái sân cũng nhỏ và có cái bể nước cũng nhỏ, cái cổng cũng sơ sài so với cổng tam quan nhà ông bà nội và Sao Khuê cũng không lưu luyến gì căn nhà nhỏ này. Giản dị vì khi ở với ông bà nội thì Sao Khuê là cô công chúa nhỏ còn về ở vớibố mẹ thì con bé nhỏ mới 4 tuổi hay bị sai vặt đi lấy tăm, lấy nước, quét nhà …sau đó còn phải bế em cho nên Sao Khuê chỉ mong mau mau được trở về nhà bà nội trên cái thanh ngang của cái xeđạp courses mà bố dùng để di chuyển. Bố kể lại rằng trên quãng đường đi không dài lắm đó, có lần bố hỏi:
– Nếu bây giờ mà ba chết thì con tính sao?
Lúc đó Sao Khuê bù lu bù loa khóc và nói bố phải cho con về nhà bà nội rồi mới được chết!
Sau đó bố cũng hỏi y chang câu này với con em thì nó cũng bù lu bù loa khóc nhưng mà nó lại nói:
– Ba ơi, ba đừng chết, ba đừng bỏ con một mình.
Bởi vậy bố thương nhỏ em này lắm.
Rồi Việt Minh nổi lên. Họ thủ tiêu những người trí thức không theo họ. Một đêm họ đến bắt bố, may quá, bố vừa đạp xe về thăm ông bà nội. Hôm sau thì xác ông lý trưởng, hàng xóm, bị thả trôi sông Trà Lý. Mẹ nhắn về Trình Phố. Và bố vội trốn ra tỉnh Thái Bình. Sau đó mẹ cũng bỏ nhà ra tỉnh với bố. Tất cả gia đình gồm gia đình bác cả, gia đình bố mẹ Sao Khuê, gia đình cô T và hai cô Út đều ở gần bên nhau.
Năm lên chín tuổi Sao Khuê mới thực sự ở với bố mẹ vì cả nhà đã phải từ bỏ ruộng vườn nhà cửa to lớn mà chạy ra tỉnh sống trong một căn nhà nhỏ xíu, đã vậy lại là nhà gianh vách đất. Thế mà có yên đâu, chỉ một năm sau lại phải bỏ hết để bồng bế nhau vào Nam.
Khi mới vào Nam, bố đi dạy học ở trường tư. Sao Khuê còn nhớ ngôi trường nhỏ, mang tên là trường Phan đình Phùng nằm gần trường tiểu học Võ di Nguy ở Phú Nhuận, kế đó còn có lò mổ heo, bò…
Thời gian ngắn sau, không đủ học trò, trường đóng cửa, bố Sao Khuê được bộ giáo dục bổ nhiệm dạy một trường trung học công lập tại Sóc Trăng. Mẹ Sao Khuê làm thư ký đánh máy tại sở Công binh nên Sao Khuê lang thang tự đi xin học vào lớp đệ thất hết trường nọ đến trường kia. Quý vị nhớ là con bé còm nhom, mắt thao láo. như đền pha, 10 tuổi, tự- tự- là mình ên à nghe, dẫn mình đi thi tiểu học rồi đi xin học. Sao Khuê di cư muộn, tháng 2, 1955 nên thi rớt kỳ thi tuyển vào đệ thất trường Trưng Vương. Sao Khuê phải lang thang xin đi học trường tư. Sau trường Phan đình Phùng là trường Thống Nhất có chú họ của Sao Khuê dạy học. Trường Thống Nhất đóng cửa, Sao Khuê xin học trường Hoài An mới mở có chú ruột dạy nên chả phải đóng tiền học phí. Tại đây Sao Khuê an tâm dùi mài kinh sử đến khi đậu trung học đệ nhất cấp thì vào trường Gia Long học tiếp, thi tú tài rồi vào trường dược học ra dược sĩ. Nhưng mà Sao Khuê học dốt lắm cơ, nói đúng ra Sao Khuê học cũng…giỏi nhưng lận đận khi thi cử. Chuyện, người ta đã nói học tài thi phận mà.
Có bao giờ quý vị tin là Sao Khuê thi rớt vì bài thi quá dễ không? Ỉ i mà, Sao Khuê chỉ ôn bài khó thôi. Một lớp có sáu mươi hai học trò, lớp giỏi của trường Gia Long hồi đó nghen, mà một đứa, “top” 10, lên bảng danh dự đều đều lại ở trong số 10 đứa thi rớt của cả lớp! Sao Khuê phải thi kỳ hai. Khi thi kỳ hai, gặp thầy toán đi ngang, thầy hỏi:
-Đi đâu đây?
Sao Khuê cúi gầm mặt không dám trả lời.
Chưa hết đâu, Sao Khuê còn rớt nữa, rớt bốn lần trong đời lận. Hai cái rớt sau không oan tí nào vì không học bài hay không cách nào học thuộc nổi bài. Hừm, đang học toán ban B, bố bảo chuyển sang ban A để đi học dược.
Sao Khuê nhớ mãi cái bài học đầu tiên của quyển vạn vật đệ nhất là bài “Chất sống”, nó dài và khó hiểu, Sao Khuê học một tháng không cách nào thuộc nổi trong khi cả quyển sách toán Sao Khuê có thể thuộc từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Không thuộc nên Sao Khuê…quăng sách vào vào gầm giường, khóc hu hu, không thèm học nữa.
Sau khi thi rớt kỳ 1 năm tú tài 2, bố Sao Khuê bắt lấy giấy nháp viết lại bài và nộp cho bố. Kết quả là Sao Khuê đậu bình thứ (năm 1962) bởi vậy “không bố đố mày làm nên”, không đậu tú tài thì lấy chi mà học dược. Vậy thì bố được điểm A+ bù cho điểm E- vì bắt Sao Khuê đi lấy chồng (SK dông dài để kể ơn bố).
Như đã nói, bố Sao Khuê dạy học ở Sóc Trăng, bây giờ thuộc tỉnh Ba Xuyên cách Saigon cả ngày xe nên lâu lâu bố mới về thăm nhà. Mỗi lần về Saigon thì bố – Sao Khuê khi gọi là ba, khi gọi là bố, bố mang về, “chuối cau” từng buồng, trứng gà từng thùng sắt tây loại đựng dầu con sò, con gà gì đó 20 lít, bao nhiêu là trứng mà ba chị em phải ráng ăn vì trứng để lâu cũng hư. Kết quả là Sao Khuê có thể chế tạo nhiều kiểu ăn trứng. Nhưng chuyện đặc biệt không phải thức ăn mà là chuyện bố bị các bà níu kéo xin làm bé!
Không hiểu sao mà bố Sao Khuê có nét lai nên đẹp trai tuy chưa cao bằng “ông Tây đen nằm trong cái đèn”. Đã đẹp trai lại còn xa nhà, đi ở trọ nên các bà goá,chủ nhà mê tít thò lò khiến bố cứ phải dời chỗ trọ. Bố kể có bà kia, mê bố quá, nhất định xin làm bé:
– Ông về nói với bả, tôi xin làm bé, tôi nuôi ông, lương ông mang về nuôi vợ con, chừng ông về tôi bù thêm quà cáp cho xấp nhỏ, bả đâu có thiệt hại gì?
Vậy mà ông già không ưng. Bà goá làm quá, bố phải viết thư kêu má xuống, lần đó má đi, có rủ cô Út theo.
Bố dạy dưới tỉnh nên hai, ba lần bố đưavề Saigon mấy chị mà bố gọi là con nuôi.Thật ra không phải con nuôi, mà các chị đó muốn thay đổi hoàn cảnh nên nhờ bố đưa lên Saigon. Các chị làm công việc nhà, được trả công như người làm, nhưng được má hướng dẫn cho đi học nghề, học may, học chữ, học đánh máy… Khi đủ khả năng kiếm việc hay kiếm chồng thì các chị đó ra đi, bố lại mang về chị khác. Tóm lại hai bên cùng có lợi, các chị không sợ sa vào ổ nhện và má Sao Khuê có người giúp việc. Ngay khi ở miền Bắc bố cũng từng nuôi hai chị em chị Nụ và khi lớn cho về lấy chồng chứ không bắt ở cả đời như nhiều nhà khác. Khi xưa, những nhà nghèo thường …
“cho” con, để con, ít ra cũng được no ấm và mình cũng có một món tiền, nên có nhiều nhà giàu, khi con gái đi lấy chồng thì được mẹ tặng một bé gái, từ 7 đến 10 tuổi đế sai vặt. Bé này ở với cô chủ tới già, thành u già…
Dần dần, từ Sóc Trăng xa xôi, bố được chuyển về quận Cần Giuộc rồi Cần Đước rồi Bến Lức, thuộc tỉnh Long An và sau cùng về dạy trường Petrus Ký ở Sài Gòn.
Ở quận Cần Đước và Bến Lức, bố là hiệu trưởng nên bố kê cái giường nhỏ trong phòng để ngủ lại. Cũng “ghê ghê” vì ban đêm Việt Cộng có thể bắt ông “Bắc kỳ di cư” đi thủ tiêu, quăng xác ngoài quốc lộ kèm bản án đeo vào cổ như chúng đã làm, nên bố, khi ngủ lại, khi về …thất thường và rất kín đáo như làm bộ ra về mà ngủ lại v..v..
Cái dở của bố là …cứng nhắc, không biết ngoại giao. Nắng Saigon mà không chịu mang ô, thanh liêm nên thanh bạch và hay bị đố kỵ. Ai mang quà biếu là Sao Khuê phải chạy theo trả lại cho bằng được.
Không học thuốc nhưng bố mát tay trị bệnh bằng “dầu nhị thiên đường” và “đánh cảm”. Mỗi khi có đứa con nào bị cảm thì đứa khỏe được ăn lòng đỏ hột gà luộc. Bố má có mấy đồng tiền từ “thời Pháp thuộc”, làm bằng bạc. Luộc hai quả trứng gà, tách đôi, lòng đỏ cho đứa không bị bệnh “cho vào miệng”, đồng tiền bạc được đặt giữa lòng trắng sau đó dùng khăn sạch bao lại và chà như cạo gió khắp người đến khi lòng trắng trứng nát ra hết thì bỏ đi.
Nếu bị cảm, đồng bạc sẽ đen. Lấy muối chà cho đồng bạc trắng ra và cạo tiếp với con trứng còn lại. Thường hai con trứng là hết cảm …
Trong túi bố bao giờ cũng có một chai dầu “Nhị thiên đường” nhỏ xíu. Khi bị trúng mưa, sổ mũi chỉ cần cho một giọt dầu vào cái muỗng nhỏ, thêm tí nước, uống là bệnh tiêu tan.
Tội nghiệp bố, vất vả đi làm, nhưng phương tiện di chuyển chỉ có cái xe máy cũ trong khi hai ả tố nga, đứa nào cũng mua xe “gin” từ xe đạp đến xe gắn máy. Bố nhịn ăn, nhịn mặc, chăm lo cho con cái rất nhiều.
Năm 1975, Việt Cộng vào.
Trời! Sao Khuê phải len lén đốt bao nhiêu là giấy tờ sách vở thuộc loại phản động của bố. Má phải năn nỉ bố …im cái miệng đừng nói ngang hay công kích chính quyền.
Từ nhỏ bố đã không ngoan ngoãn hiền lành, chỉ biết học hành như bác Cả. Bố diện và sừng sỏ ra gì. Các cô, bác và bạn bố kể lại: xe đạp xịn, đầu bóng loáng brillantine đến nỗi ruồi đi ngang là khỏi bay được nữa. Học thì ít nhưng đua xe, bơi thi và đôi khi có dàn trận với bạn bè.
Sau khi lấy vợ, bố tu tỉnh làm ăn. Đầu tiên, năm 1944 bố phiên lưu vào Nam, nghe nói trong đó dễ làm ăn. Chả hiểu tại sao lại không làm cũng chẳng ăn được, bố đổ tại trong Nam, nghe nói Tân sơn Nhất là họ ghét nên bố bị vây đánh, phải nói là Tân sơn Nhứt. Sức mấy mà ông già gân chịu uốn lưỡi nói theo. Nhất là nhất, chứ Nhứt là cái giống gì, lại còn Mèn đét ơi…Chu mẹc ơi…Thôi ta về ta tắm ao ta, bố về Thái Bình làm ăn.
Bố kể lại lần đầu bố đi buôn gạo. Gạo thì nhà ông bà có sẵn, chỉ đóng bao, xuống thuyền chở đi bỏ mối. Thế mà có xong đâu. Bao gạo lúc vào bao là hơn một tạ, lúc nhập kho, cân lại còn có 80-90 kí. Phu khuân vác khi vác gạo lên vai đã dùi vào bao để gạo từ bao tuôn vào cái túi họ đeo trong người nên qua hai ba lần khuân vác, bao gạo cứ hụt dần khiến không những mất tiền mà chủ thu mua cũng bực mình, không thu nữa. Nào, bây giờ hai bên nội ngoại chi viện cho bố mua xe đò. Coi bộ được à nghe, hợp với tính không điềm tĩnh của bố. Kết quả, bị tài xế và lơ xe lừa, tiền vé bị hao hụt mà tiền mua xăng thì tăng lên… Tóm lại bố không biết buôn bán, đó là lý do sau này bố cương quyết không gả con cho nhà buôn bán.
Bác Cả mở trường trung học Bùi Viện ở Trình Phố nên khi ra riêng bố cũng mở lớp dạy học ở làng Đồng Xâm. Ông ngoại gửi hai cậu út cho bố đào tạo.Chiến tranh lan rộng, bố xém bị Việt Minh bắt thủ tiêu nên bỏ ruộng vườn nhà cửa, mọi người dắt díu nhau chạy ra tỉnh Thái Bình. Bác Cả lại mở trường, trường mang tên trung học Trần Lãm, có bốn lớp từ đệ thất đến đệ tứ mà sau này nhà văn Duyên Anh có nhắc đến. Bác dạy toán lý hoá còn bố dạy Anh Văn, đôi khi Pháp văn. Sách dùng hồi đó và cả sau này khi Sao Khuê học trung học là quyển “Practice English” nên từ nhà, sát trường Trần Lãm, Sao Khuê nghe:
Good morning class
Good morning teacher
Howare you today ….
Khi vào Nam, dân Nam kỳ nói tiếng Pháp như gió; với giọng phát âm Bắc kỳ không Parisien mà lại giống dân đảo
Corsé nên bố chuyển sang dạy Việt-văn rồi sau đó trong nhiều năm liền bố làm hiệu trưởng…khai phá (nghĩa là bố …dựng trường trung học từ khi trường mới thành lập) tại quận Cần Đước và Bến Lức thuộc tỉnh Long An.
Do thẳng tính, khí khái, thanh liêm và vụng về trong giao tiếp nên sau cùng bốkhông giữ được chức hiệu trưởng và bộ giáo dục chuyển bố về dạy ở Petrus Ký cho gần nhà.
Sau 1975, giáo sư trung học cũng gọi là giáo viên, bị bắt làm “giáo án”. Giáo án là bài soạn với 5 bước lên lớp, chủ trương mang chính trị Mác Lê vào bài giảng. Hừm! bực mình lắm, bố len lén làm mấy câu thơ, Sao Khuê nhớ có câu Giáo án hay là ángiáo đây… Đấy, tính bố như vậy, ngang ngang, thơ thẩn nên con giống cha, đầu lòng hai ả tố nga, cũng ngang ngang và thơ văn…
Nào bây giờ đến chuyện “ Phi lạc sang Tầu”: ông Giáo sang Gia Nã Đại.
Cuối tháng mười năm 1992, lá rụng gần hết, ông Giáo “dẫn” bà Giáo và hai con còn độc thân đi ngoại quốc do Sao Khuê bảo lãnh. Căn nhà triplex Sao Khuê mua để đón gia đình với hai ấp đã không còn trống vì bà Giáo bị giữ lại một năm uống thuốc ngừa lao do khi chụp hình phổi bị mờ. Thế là tất cả chín người chung nhau ba phòng ngủ, một phòng khách vì lúc đó basement còn chưa sửa (finition).
Ai đã từng bảo lãnh gia đình mới hiểu nổi nỗi khổ và cái vui của Sao Khuê.Thời gian đầu, chuyện trò râm ran, cười đùa ầm ý sau đó thì nhức cái đầu.
Mùa đông về, basement sửa xong, nhà mới toanh, trần cao nên sáng sủa, rộng rãi, khang trang cho ba, má và hai em ở. Ông chú họ từ Quebec lên Montréal chơi, ghé thăm cho biết là bố đã than phiền với chú:
– “Nó” để bố nó ở dưới, nó đi trên đầu bố. Đã vậy còn phải ở gần chuồng xí!
Sao Khuê buồn cười nhớ lại ông vua Thái trong phim “Le Roi et moi”…
Trời lạnh:
– Bố ơi, hôm nay lạnh, bố đừng ra ngoài nhé.
Nhưng sau đó Sao Khuê nghe ầm ĩ dưới nhà, chạy vội xuống thì cái thảm mới toanh đang cháy: chả là bố ra đường, lạnh quá, vội trở về, cho vớ vào micro wave để sưởi nóng, khiến vớ bốc cháy,mẹ chỉ kịp gạt vớ khỏi micro wave.
– Con đã dặn bố đừng ra đường mà.
– Bố phải ra xem lạnh tới mức nào.
Việc này thì quả là bố bắt chước con. Mùa đông đầu tiên, năm mà SaoKhuê mới chui vào cái tủ lạnh khổng lồ Gia Nã Đại này, nó lạnh ơi là lạnh, không những thế còn vô cùng trơn trợt. Cô em họ ở Toronto đã bị té gẫy tay…Ngày hôm đó, dự báo thời tiết nói trơn lắm, mọi người nên ở trong nhà. Vậy mà chả có việc gì phải ra đường, nhưng Sao Khuê vẫn mặc áo ra xem …đường trơn tới mức nào, may mà không té, không gãy tay.
Mùa đông, đường phố vắng tanh, bố bảo:
– Phố xá gì như tha ma buồn chết, sao cô không viết thư báo cho tôi hay?
– Con có nói bố đừng đi nữa, nhưng bố cứ đi đấy chứ.
– Tôi phải dẫn chúng nó sang chứ tôi đâu thèm ở cái xứ quái quỷ này…
Tin “Nó bắt tôi ở dưới hầm, gần chuồng xí” bay sang tận Mỹ, thế là hè năm đó cô Út bay sang xem cái hầm con gái nhốt bố và sau cùng khi có người trả nhà Sao Khuê đã vội vã di chuyển bố mẹ lên lầu theo “ thỉnh nguyện thư “ hai trang bố viết cho trưởng nữ.
Sao Khuê mua nhà để sửa soạn đón gia đình và dĩ nhiên trả góp nhưng dưới mắt bố, Sao Khuê giầu lắm nên bố ra lệnh:
– Cô mở cho thằng Út một tiệm kha khá để nó buôn bán.
Sao Khuê chỉ len lén liếc bố một cái thật dài.
– Cô xem có thằng bác sĩ nào thì gả em cô, nó cũng nhiều tuổi rồi.
– Bố à, nếu có bác sĩ chịu, con cũng lấy, đỡ cầy hai jobs trả nợ nhà.
Hè sang, thay đổi không khí, Sao Khuê chở bố đi chùa.
– Chùa này tôi đi rồi, sao đi mãi một chỗ vậy?
Sau cùng kiếm được cho bố cái computer cũ để bố làm việc và phải tạo điều kiện thuận tiện nữa cơ. Việc của bố là làm thơ, viết khảo cứu với bút hiệu là Trình Hương. Hương chắc là hương thơm, còn Trình từ tên quê nhà Trình Phố và chữ “cửa Khổng sân Trình” chỉ về văn học.
Ngoài làm thơ thì bố viết những nghiên cứu về Phật Giáo.
Hai năm sau, gia đình em trai lớn SaoKhuê, cũng do Sao Khuê bảo lãnh, chui vào cái tủ lạnh, và khoảng 1 năm sau thìthuê nhà ở riêng. Từ đó bố mẹ ở với cậu trưởng nam. Sao Khuê rảnh rang đi cày liên miên trả nợ, một hay hai tuần mới đến thăm.
Vài năm sau thì đến lượt gia đình cô em gái, bốn người được bảo lãnh qua Canada. Cảm ơn Canada đã giúp Sao Khuê mang được 10 người thoát ách Cộng Sản.
Vậy là trừ cô em kế, toàn nhà Sao Khuê chui hết vào cái tủ lạnh. Bố ở với em trai, rồi em gái và khi nào không hài lòng thì qua nhà Sao Khuê.
-Thỏ có ba hang, bố cũng có ba nhà, chạy đi chạy về.
Em gái bán được nhà ở Saigon, mang tiền sang cho bố mẹ. Nhà lúc đó rẻ nên chỉ được hai chục ngàn Mỹ kim, em mượn để mua nhà nên bố mẹ có phòng riêng tại nhà em.
Khoảng năm 2002, bố làm chuyến Mỹ du thăm bà con bên Cali. Bố ở nhà cô Út, khi về bố than phiền:
– Ngày nào cũng đói. Nhà 4, 5 miệng ăn mà cái nồi cơm chỉ nhỉnh hơn cái niêu.
– Sao bố không nói cô nấu thêm?
Đấy, người mình có lệ ăn nhiều cơm mà ít thức ăn. Ngày Sao Khuê được anh chị chồng bảo lãnh qua Canada cũng vậy. Hai gia đình tám, chín miệng ăn mà anh chị nấu mỗi người một chén cơm nhỏ, anh còn cười khì khì:
– Bên này ăn ít cơm lắm.
Cái nồi tí tẹo, muốn nấu thêm cũng không được, may mà chỉ ở chung có ba tháng.
Thiệt tình, ở Việt Nam thì “cơm ba chén, thuốc ba thang” và ông xã Sao Khuê ăn 6, 7 chén là thường nên từ ngày sang Canada ông mất bụng, ốm nhom…
Cuối tháng 2 năm 2005 là ngày giỗ bố chồng, Sao Khuê mời bố sang ăn giỗ.
– Tôi bệnh, không đi được.
– Bố lại nhõng nhẽo!
Hôm sau, ngày 1 tháng 3, Sao Khuê lúc đó cũng đang nghỉ bệnh và ngày hôm đó còn giữ cháu ngoại cho con đi làm thì cháu trai gọi:
– Bác ơi, bác qua gấp. Mấy ngày nay ông không ăn và ông kêu mệt lắm.
Sao Khuê vội cùng cháu ngoại chạy sang. Thấy bố thở khó khăn: Bố hay bị nghẹt thở do khi trước hút thuốc lá nhiều. Sao Khuê xịt thuốc, bố dễ thở hơn, đói bụng và muốn ăn bánh mì chấm sữa đặc. Cô em gái mua thêm cả sữa ensure mang tới.
– Bây giờ bố có muốn đi nhà thương không?
– Cháu làm bác sĩ, sao phải đi nhà thương. Bảo chúng đến khám cho ông.
Sau đó bố kêu buồn ngủ và đi ngủ. Hai chị em rủ nhau đi ăn trưa. Khi Sao Khuê về nhà thì thấy cháu trai nhắn trong điện thoại:
– Ông thức dậy, đi tiểu rồi té trong phòng tắm, cháu gọi 911, họ đưa ông vào nhà thương Jean Talon.
Cùng cháu ngoại 5 tuổi, Sao Khuê chạy vội vào nhà thương. Họ cho biết đã chuyển sang nhà thương Saint Luc. Khi đến nhà thương thì thấy họ đang dùng “electrochoc” để hồi phục tim. Họ ấn cái máy như cái bàn ủi xuống ngực và người bố lại giật tung lên.
Một bà y tá nhìn Sao Khuê ái ngại và lắc đầu, mươi phút sau bác sĩ cho biết sẽ ngưng điều trị vì cho dù cứu sống được bố sẽ sống như thực vật do máu đã ngừng lên não lâu rồi.
Họ chuyển giường ra phòng ngoài. Em trai Sao Khuê cũng vừa đi làm về, chạy vào và hai chị em liên tục niệm Phật.Trong lúc miệng niệm “Nam mô A di đà phật”, mắt Sao Khuê chợt thấy ngón tay bố còn cái nhẫn vàng một chỉ mang từ Việt Nam sang. Miệng vẫn “Nam mô” nhưng tay Sao Khuê thì tìm cách tháo chiếc nhẫn ra (!). Tháo không được, xoa xà bông mấy lần cũng không xong.
– Bố à, bố để con tháo ra, lấy tiền cho người nghèo, bố giữ thì cũng sẽ bị người ta lấy mất thôi.
Ấy vậy mà sau đó Sao Khuê tháo ra dễ dàng. Bây giờ cái nhẫn còn nằm trong tủ ở nhà băng nhưng Sao Khuê cũng đã làm từ thiện với số tiền tương đương hay hơn.
Dù bố ra đi thình lình nhưng đám tang cũng được tổ chức long trọng.
Vì bố mẹ Sao Khuê sang Canada do bảo lãnh nên phải sau thời hạn 10 năm mới được hưởng tiền già. Sao Khuê đang làm thủ tục xin tiền thì bố ra đi. Bố vẫn mơ ngày có tiền già được tiêu pha thoải mái : “Vai mang túi bạc kè kè, nói quấy nói quá, chúng nghe rầm rầm …”
Hồi đi “du học “ở Hà Nội, bác Cả và bố trọ học nhà cô Huyền, sau này cô là thanh tra sở Giáo dục và khá thân với gia đình, nhất là với bác Cả.
Nghe tin Bố mất, cô Huyền gửi lá thư trong đó có bài thơ:
Tiễn bạn
Ôi thôi lãotrượng đi rồi
Sao không gửi lại đôi lời tri âm
Lúc tại thế âm thầm học đạo
Đạoquả rồi,dịch sách,in kinh
Thiền sư dìu dắt chúngsinh…
Tây Phương thẳng tiếnNiết Bàngặp nhau
Hồn thiêng hẳncó anh linh
Xin về chứng dám tộitình thứ tha
Trăng xưa còn đó hững hờ …
Người xưa đi mãi xin chờ kiếp sau
Nguyễn thị Huyền
Con gái rượu và hai em gái, em trai của bố từ Cali sang tiễn bố. Bà con khắp nơi gọi, gửi thư hay phúng điếu.
Sau khi cô chú ra về, cậu em Sao Khuê mới hội họp gia đình, trình lá thư bố viết ngày hôm trước khi ra đi, nội dung:
“ Tôi có 10 ngàn Mỹ, cô QA mượn mua nhà, số tiền đó chia làm hai, cho hai con trai là … “
(Bố thiệt, lúc nào cũng cưng con trai.)
“Cô P còn giữ của tôi vài trăm tiền Mỹ mà các anh chị, các cháu cho lúc tôi qua Mỹ, cô P giữ để lo chia vui, chia buồn bên Mỹ. Cô Sao Khuê còn giữ của tôi 2672 $ tiền Canada và 425$ tiền Mỹ. Cô dùng tiền này lo ma chay cho tôi, thừa thiếu bao nhiêu cô chịu”.
Số tiền tang lễ thì nhiều nhưng Sao Khuê có mua bảo hiểm cho ba má và em trai cũng phụ một phần vào cho đủ.
Hồi bố mẹ sang, Sao Khuê xem số tử vi của mình, thấy năm 1995 “Tang môn ngộ bạch hổ”, e có tang mà lúc đó nợ ngập đầu, lấy tiền đâu mà lo nên bấm bụng mua hai bảo hiểm cho bố mẹ. Vì tuổi tác và vì bố đã hút thuốc lại bị bệnh nên bảo hiểm rất đắt. Mỗi tháng đóng gần 100$ và đóng gần 10 năm, tiền nhận lại cũng bằng số tiền đóng. Đúng là thầy Sao Khuê… bói mò.
Bố Sao Khuê chưa muốn chết.Bố muốn sống thọ, ít ra thì hơn ông suôi gia, mất vào năm 91 tuổi nhưng bố lại mất lúc 85 tuổi. Trừ chứng bệnh phổi, bố Sao Khuê còn to lớn khoẻ mạnh, vững vàng và minh mẫn, bằng chứng là bố nhớ rất rõ số tiền mà Sao Khuê còn giữ của bố.
Những năm cuối đời , bố ăn chay trường trường, nhưng không tụng kinh mà chú trọng tìm hiểu về giáo lý của đức Phật. Bố có viết và muốn in tập khảo cứu “ Đường vào cửa Không”. Đáng tiếc, lúc đó Sao Khuê vừa bệnh vừa nợ nhà chưa xong nên không giúp bố hoàn thành tâm niệm và bố thì nhất định không dùng tiền của mình để in, mặc dù Sao Khuê đã hứa là khi bố nằm xuống Sao Khuê lo hết, do đã mua bảo hiểm… Bây giờ Sao Khuê mới giải mã là cụ muốn để giànhcho hai con trai.
Cũng như bà nội, bà nội biết rõ, rất rõ lúc ra đi. Bà vẫn khỏe mạnh và đang ở chơi nhà con gái. Tối đó, tháng 10 năm 1974, bà đòi con rể đưa về nhà bác Cả :
– Anh đón xe cho tôi về ngay, các “Cụ”cho người đến đón tôi rồi.
Khi về đến nhà, được đặt nằm trên giường, bà chắp tay và ra đi, thanh thản, bình an.
Bố, bố cũng có linh tính nên tối hôm trước bố đã viết và dặn dò hậu sự.
Khi bố ở nhà quàn, Sao Khuê có làm một bài thơ khóc bố. Ngày đó Sao Khuê viết và đưa in trong Đặc san Dược khoa Montréal chứ không có lưu như bây giờ nên khó tìm lại.
Dù sao chăng nữa, Sao Khuê có linh cảm rõ ràng là bố đã đi một mạch, đi không vương thê nhi, bố về một nơi rất an bình nên chẳng bao giờ Sao Khuê thấy bố trở về.
“Father’s day” đến… Sao Khuê nhớ bố. Chẳng bao giờ bố đánh đứa con nào, tuy la mắng khá dai khi Sao Khuê thi rớt.
Coi kìa, bố đang la:
– Cái con này, mang cả bố ra mà viết truyện, lại còn kể xấu nữa chứ…
– Con chưa kể ra hết đó, khi có dịp con kể thêm nữa…
Dù biết bố đi tuốt luốt nhưng lúc nào có trái cây mới, thức ăn ngon là Sao Khuê vẫn để trên ban thờ ông bà nội, ngoại, bố, bác, các chú, cậu em cùng bố mẹ chồng.
Mỗi lần vắng nhà đi chơi xa là Sao Khuê lại giao:
– Con đi chơi đây, bác và bố trông nhà đấy nhé.
Giao bác thì yên chí vì bác vốn cẩn thận. Giáo sư toán mà lỵ, không vơ vẩn thơ thẩn như bố…
Bố ơi! Con nhớ bố….
Sao Khuê 2023
**
Khóc Cha
Biết bao nhiêu bài viết về Mẹ, công ơn sinh thành, hy sinh của người Mẹ vào ngày lễ Mẹ, nhưng hôm nay là ngày Father’s Day, ngày của CHA, tôi tìm mãi chỉ được một vài bài đếm trên đầu ngón tay thôi. Tại sao vậy?
Người cha cũng có nhiều công lao dưỡng dục, mặc dù không là người trực tiếp mang nặng đẻ đau như người mẹ, nhưng người cha đổ rất nhiều công lao như đi làm kiếm tiền trang trải cuộc sống, gánh vác cả gia đình; cuộc sống có tốt đẹp, ấm no, con cái có học hành, phẩm hạnh đạo đức không, chính nhờ phần lớn mồ hôi, công sức nuôi dậy của người CHA.
Tôi là đứa con trai giữa trong gia đình năm chị em, ba gái đầu liên tiếp và hai trai sau, mà tôi là người anh đầu. Lẽ ra ba chỉ muốn có hai người con, một trai và một gái thôi, hoặc ba người là nhiều rồi, vì ba bảo có nhiều con vui thật nhưng trách nhiệm nặng nề, phải nuôi con đến nơi đến chốn, cho ăn học và đến khi chúng lập gia đình mình cũng còn phải lo!
Mỗi lần mẹ mang bầu là mỗi lần ba đặt nhiều hy vọng, mong một thằng cu! Ba hay kể với bác Tư, bạn thân của gia đình là ba cảm thấy rất phấn khích, khỏe mạnh khi “gần” mẹ, chắc chắn kỳ này phải là đứa con trai. Thế nhưng kết quả là… người chị cả ra đời!
Ba tự an ủi, nói với ông bà Nội rằng:
– Không sao, đứa đầu lòng là gái hay trai cũng được, là con gái thì sau này nó dậy dỗ trông nom em càng tốt hơn nữa, nhất là chỉ bảo em trai thì tốt đẹp biết bao.
Hai năm sau, mẹ mang bầu, ba đặt tất cả kỳ vọng vào cái bầu tròn căng vượt mặt của mẹ. Thuở ấy chưa có siêu âm ở những vùng tỉnh nhỏ, nên chỉ nhìn dáng bụng thì suy đoán là trai hay gái mà thôi; ông bà nội với nhiều kinh nghiệm, ngắm cái bầu của mẹ khi lên Dalat thăm gia đình nhỏ của chúng tôi:
– Nhìn cái bầu tròn như thế thì 80% là con gái rồi!
Ba cố chống đối:
– Nhưng sao kỳ này mẹ chúng nó lại thích ăn ngọt chứ không thích ăn chua như lần mang bầu đầu tiên, có thể nào là con …trai?
Đứa con gái thứ hai ra đời, ba có hơi thất vọng.
Đến ba năm sau, ba lại nhất định “thua keo này ta bầy keo khác”, không chịu thua số phận, hy vọng tăng trội hơn khi thấy khuôn bụng của mẹ nhỏ gọn hơn hai lần trước.
Ngày mẹ đi sanh chỉ có ông bà ngoại bên cạnh vì ba phải đi làm xa, ở Liên Khương, ba phone về thấp thỏm hỏi ông bà ngoại:
– Vợ con sanh có tốt không bố? Baby sinh ra có khỏe không? và có phải là con… trai?
Ông ngoại ái ngại, không dám trả lời liền, ngần ngừ:
– …Ưm… nhờ Trời thương mẹ tròn con vuông!… Con bé khỏe mạnh!
Ba thốt lên một cách thất vọng:
– …Lại là con gái ư?!
Một khoảng thời gian yên lặng, rồi ba nói tiếp :
– Con nhờ ông ngoại đặt tên cháu nhé.
– …Ừ được rồi, nhưng con bé này rất kháu khỉnh, có cặp mắt tròn to, da trắng và rất nhiều tóc!
– Vâng! Ông cứ đặt tên cho cháu đi nhé, con cám ơn ông bà Ngoại giúp con nuôi vợ con và các cháu nhé; con phải làm đến hết tuần này mới về nhà được ạ.
– Được rồi, con cứ an tâm đi.
Chỉ nói thế thôi, ba cúp phone tiếp tục làm việc.
Ông Ngoại trầm ngâm suy nghĩ, biết ba đã « ngán » con gái lắm rồi, nếu mẹ cứ tiếp tục cái đà này thì chắc ba ở luôn trên Liên Khương làm việc!
Ba chị gái đầu ra đời làm ba tôi chán quá, đổi nhà về Saigon làm việc để có thể thay đổi không khí, thay đổi sinh hoạt, biết đâu….
Lần thứ tư mang bầu, mẹ tôi chẳng thèm kiêng cữ gì như ba lần trước, bà ăn uống xả láng vì cảm thấy lúc nào cũng đói, nhất là rất thích ăn kem, ăn đồ lạnh.
Ngày mẹ đau bụng, mới đến nhà thương, chưa kịp vào phòng sanh, đứa trẻ đã muốn lọt ra ngoài, họ vội vàng đẩy mẹ vào phòng ngay; ba đứng bên ngoài chờ cho mọi chuyện êm thắm một chút, định bỏ về đi làm thì nghe tiếng khóc thé của tôi vọng ra; ba đã biết đó là thằng con trai!
Ba đã mừng đến rơi nước mắt và đã chắp tay cảm ơn Trời Phật ngay tại trước phòng sanh của mẹ!
Tôi được cưng chiều đến nỗi chỉ một tiếng khóc nhỏ cũng được chị vú ẵm bồng, dỗ dành.
Mỗi buổi chiều đi làm về, ba đều vào thăm thằng cu Thơm, vì hồi bé tôi thơm mùi sữa, mùi phấn lắm nên được đặt tên ở nhà là cu Thơm, ba mua đồ chơi, hôn hít, bồng bế tôi. Tôi đem niềm may mắn đến cho gia đình, ba được thăng chức, được chính phủ cấp cho nhà rộng to, rất đẹp.
Dù ba cưng chiều tôi nhất nhà, nhưng ba chị của tôi cũng được ba chăm sóc, lo lắng cho từng người. Tôi nhớ chị lớn nhất của tôi đến tuổi có bạn trai, mỗi lần anh ấy đến, ba đều hỏi gia cảnh nhà anh ấy tưởng chừng như cảnh sát hỏi cung phạm nhân vậy, đến nỗi anh ấy không dám vào nhà nữa mà hẹn chị ở góc đường, ba nói :
– Đứa nào có can đảm đối đầu được với ba thì mới xứng đáng làm con rể của ba!
Mỗi lần tôi bị bệnh thì khỏi nói rồi, ba thức đêm lo cho tôi uống thuốc đúng giờ thay vì là mẹ, ba cẩn thận đến nỗi sợ mẹ mệt ngủ quên nên ba để đồng hồ báo thức dậy đúng giờ đó, và tự tay cho tôi uống thuốc.
Sau tôi, em trai ra đời, ba rất vui mừng và ngưng tại đây.
***
Những ngày vui hạnh phúc chưa được bao nhiêu thì miền Nam bị nhuộm đỏ, công việc dưới chính quyền cũ không còn nữa, ba phải cơ cực làm những công việc chẳng phải là chuyên môn của mình, hy sinh tất cả cho các con từ hạt cơm bo bo đến miếng thịt heo cả tháng mới mua được một lần ở hợp tác xã.
Sau đó là những lần vượt biên không thành, ba bán dần dần những đồ đạc trong nhà, ba ít nói hơn, mái tóc bất ngờ chuyển màu trắng toát chỉ qua vài đêm, ngồi yên nhìn vào khoảng trống như suy tính mọi cách làm sao cho con cái thoát thân trước, rồi ba mẹ mới là người cuối cùng.
May mắn làm sao đúng vào lúc gia đình cạn kiệt nguồn vốn để dành bao lâu nay, giấy tờ bảo lãnh của người thân bên Canada về đúng lúc, chúng tôi sửa soạn rời xa quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn đến một xứ sở thứ hai với hai bàn tay trắng, tương lai mịt mờ, chỉ còn mỗi niềm hy vọng mong manh trong tim.
***
Ba mươi năm sống ở xứ Canada lạnh giá, 15 năm đầu ở Montreal, ba đã bỏ cả tự ái, quên đi cái chức giám đốc nha hỏa xa, xưa kia ở Saigon, một thời cai quản hơn cả mấy chục nhân viên dưới quyền, ba đã phải làm công nhân với mức lương 4$/ giờ trong hãng làm giầy da, sáng sớm dậy chờ bus lạnh lẽo ở đầu đường, làm cho đến chiều 5 :00 về nhà mệt nhoài. Với số tuổi không còn trẻ, 55, Ba cố gắng quên mình, bỏ tự ái để đi làm công việc tay chân với một mức lương tối thiểu mà không hề than trách, để cho chị em chúng tôi đừng bị dang dở việc học.
Vài ba năm sau, năm 1990 dù lớn tuổi, ba vẫn lấy thêm chứng chỉ học ban đêm, mỗi tối cả nhà chúng tôi đều yên lặng, ai nấy đều gục đầu vào quyển sách, chỉ nghe tiếng trang sách lật; ba thi vào một chức vụ hành chính về quyền con người của cấp thành phố Montreal, tỉnh Quebec nơi chúng tôi đang cư ngụ, chức vụ này có đến trên 10 người thi vào, chỉ một mình ba là người Việt tỵ nạn đến Quebec được ba năm rưỡi, còn những kia toàn là dân bản xứ, họ thi lên ngạch, làm lâu năm và có kinh nghiệm cả chục năm trong guồng máy hành chính này. Ba nói với chúng tôi:
– Cứ thử sức xem sao, không mất mát gì cả, nếu đậu thì cả nhà chúng ta sẽ được thay đổi đời sống, mâm cơm sẽ khác hơn, sẽ có xe đi và chỗ ở tốt hơn; nếu không được thì mình cũng học cho có thêm sự hiểu biết về luật pháp của Canada, không có gì mất công hết!
Chúng tôi rất cảm động vì thấy tuổi ba đã lớn, trên 55 mới bắt đầu học lại, ba không muốn cho mẹ phải đi làm, không muốn thấy chúng tôi phải bỏ học ngang để đi làm kiếm tiền, ba lúc nào cũng tự cho mình phải mang trách nhiệm này đối với gia đình.
Nhiều đêm thấy ba đọc sách mà quyển sách đã tự rơi xuống đất vì buồn ngủ và mệt quá, ban ngày đi làm từ sáng sớm, tối thức khuya đến 12 :00 đêm làm sao sức nào chịu nổi, tôi thương ba vô cùng, tự hứa với lòng sẽ ráng học ra trường kỹ sư để ba hài lòng.
Rồi một ngày, ba về nhà mang trên tay bao nhiêu giỏ xách, ba hớn hở nói như reo, lần đầu tiên tôi thấy ba vui như thế:
– Mẹ chúng nó này! Tôi đã… thắng rồi nhé, tôi được chọn vào làm văn phòng của chính phủ rồi, thứ hai tới này tôi đi làm công sở mới!
Lúc ấy ở nhà chỉ còn hai anh em trai chúng tôi thôi, ba chị lớn đã lần lượt đi lấy chồng sau khi ba mẹ tôi sang được một năm, tôi và em trai đã chạy ra ôm lấy ba, chúc mừng:
– Ba giỏi quá! Chúng con phải noi theo gương ba!… Hôm ba đi thi có đông người phỏng vấn ba không?
– Cả một phái đoàn 6 người, mỗi người hỏi một vấn đề, người thì hỏi về luật lệ Canada, kẻ thì đưa ra những tình huống xem mình giải quyết thế nào, còn người thì hỏi về học vấn và công việc trong quá khứ của mình ra sao…rất stress lắm, mỗi thí sinh phải qua cả tiếng đồng hồ với họ đấy chứ không dễ ăn đâu!
– Chúng con rất hãnh diện về ba, ba giỏi quá, ba làm gương cho chúng con noi theo đó!
– Vậy mấy người kia thì sao hả ba? Họ trả lời không được hay sao?
– Họ không đủ kinh nghiệm sống và có người chưa làm qua chức vụ đó thì làm sao trả lời được, còn ba thì đã làm mấy năm giám đốc hỏa xa, lại đi tu nghiệp ở Mỹ, Pháp về thành ra đối với ba không là vấn đề gì to tát, chỉ có cái mình nói chuyện bằng ngôn ngữ của họ không nhanh bằng họ thôi, mình viết giỏi, nhưng nói thì chưa lưu loát lắm.
-B õ công ba học hành từ cả mấy tháng nay! Đây là món quà thật xứng đáng của ba!
– Cái gì cũng phải nỗ lực để đạt được, các con nhớ nhé, muốn gì phải đạt được bằng tất cả khả năng của mình, đừng từ bỏ, hãy theo đuổi mộng ước của mình đến cùng vì mình chỉ khổ vài năm thôi mà được hưởng cả đời.
Mẹ tôi chen vào:
– Ba nó mua nhiều thịt heo, thịt vịt quay quá, hôm nay tha hồ mà ba bố con nhậu với nhau!
***
Ba làm cho công sở cấp thành phố, tiểu bang Quebec này được 10 năm, đúng 65 ba về hưu, mọi người trong sở ai cũng quý mến ba, ba được thưởng bonus và được tiền hưu cao. Lúc ấy tôi và em trai đã tìm được một công việc khá ở Toronto về kỹ sư điện tử đã được trên sáu năm và cũng đã lập gia đình; ba mẹ muốn về gần con trai và các cháu nhỏ, nên đã từ giã Montreal, không muốn ở chung với các con, mà muốn ở riêng và thỉnh thoảng chúng tôi đến thăm.
Mẹ mất khi 70 tuổi, sự ra đi nhanh chóng của mẹ làm cuộc sống của ba bị mất thăng bằng, ba không còn thấy vui sống nữa, nhưng vẫn cố gắng giữ nụ cười khi gặp con cháu. Ba cố gắng tự mình di chuyển bằng xe đạp, bằng phương tiện giao thông công cộng như bus hay metro để đừng phiền đến ai, ba cũng tự học làm cơm mà từ trước đến nay ba chẳng bao giờ đụng đến bếp núc mà chỉ lo kiếm tiền cho gia đình mà thôi, ba ăn uống qua loa… Vì thế nên ba ngày càng gầy đi, mỗi lần gặp chúng tôi ba đều cố vui để chúng tôi đừng lo lắng, đừng mất công làm cơm đem đến cho ba:
– Ba khỏe mạnh lắm, không bệnh hoạn gì hết, các con cứ lo đi làm, lo cho các cháu là được rồi, đừng mất công đem gì đến cho ba, ba đặt đồ ăn ở gần đây, họ làm ngon lắm.
Đến một ngày, tôi nhận được phone của ba từ nhà thương, ba cố nói với giọng vui vẻ:
– Ba đã xin được một chỗ ở đây rất tốt, phải chờ đợi lâu lắm mới được chỗ này đó, họ làm cơm cho mình ngày ba bữa, nơi đây vừa gần chỗ các con ở, vừa gần … nhà quàn…
– Ba! Cái gì vậy? Tại sao ba lại vào nhà thương ở? Chỗ đó đâu phải…. Sao ba không bàn gì với chúng con? Cancer phổi của ba các bác sĩ nói vẫn được theo dõi ok mà? Ba có bị đau đớn không? Ba có buồn giận gì chúng con không?
– Không đâu, chính ba là người quyết định, các con không có lỗi gì ở đây cả! đời người cũng phải có cái hạn mà con, ba đã sống hết đời rồi; từ ngày mẹ con qua đời đến giờ ba sống thật bấp bênh, thấy thiếu thốn một cái gì đó, cuộc sống không còn vui, không còn chất lượng nữa… Ba muốn… đi gặp Mẹ!
Tuy nhiên, ba rất vui thấy các con đã thành công, tự lực, nuôi nấng và giáo dục các cháu rất tốt, đó là điều mà ba thấy hạnh phúc nhất. Ba thấy mình đã thực hiện được ước mơ, trách nhiệm đã xong, sống lâu quá chỉ làm phiền các con cháu mà thôi, ba chọn cách ra đi nhẹ nhàng nên mới vào nhà thương này….
Ba phone đến các chị lớn để “trăn trối”, dặn các chị phải làm gì sau khi ba ra đi, ba muốn được thiêu, tro của ba hãy để vào chùa, chỗ bên cạnh mẹ mà ba mẹ đã chọn mua, ba để lại gia tài cho đứa nào cái gì…
Chúng tôi chỉ yên lặng nghe quyết định của ba mà trái tim tan nát, nước mắt rơi không ngừng, không nói được điều gì khi thấy ba đã suy nghĩ, đã sắp xếp cho chuyến đi xa của ba được toàn vẹn. Các chị tôi lúc nào cũng túc trực bên cạnh nhà thương; khi vào thăm ba, thấy ba còn mạnh khỏe, vẫn tự mình làm vệ sinh cá nhân, ăn uống ngon miệng đồ ăn của nhà thương, nơi đây là chỗ để cho những người bệnh già ở, không bị bệnh nặng lắm, có những người ở đây đến hai năm vẫn chưa ra đi.
Chúng tôi nhắc lại những kỷ niệm xưa với ba, nói những chuyện vui để ba có thể quên đi cái thực trạng bệnh hoạn, ba chỉ cười mỉm và lúc nào cũng nhắc nhở chúng tôi:
– Nhớ trông nom các em, các cháu cho tốt nhé, ba ra đi sẽ phò hộ cho các con!
– Ba ơi, ba hãy đi đầu thai, hãy làm việc của ba, đừng vì chúng con nữa ba nhé, ba đã cho chúng con một đời này là được rồi ạ!
Đến tháng thứ hai ở nhà thương, lúc 3:00 sáng, tôi nhận được cái phone định mệnh reng lên giữa đêm, họ nói ba đã từ chối ăn uống, cũng như uống thuốc từ hai hôm nay, để được thảnh thơi ra đi… Ba tôi hưởng thọ 86 tuổi!
Cha đi, bóng xế bên thềm, Lá rơi theo gió, nỗi niềm rụng theo. Lặng thầm lệ ướt khăn treo, Con ngồi thổn thức giữa chiều buốt tim.
Một đời cha gánh nổi chìm, Cho con nắng ấm, cho tim yên bình. Giờ đây trời đất lặng thinh, Cha ơi… tiếng gọi chỉ mình con nghe.
Sỏi Ngọc
Montreal June’25
**
Lời Ba Muốn Nói
Minh Thúy Thành Nội
Mùa Hạ đã bắt đầu báo hiệu, các loài hoa thi đua nở đủ màu sắc tươi vui. Anh Quang bước ra sân theo tiếng gọi của vợ nhờ bưng phụ mấy chậu hoa quỳnh lên bệ cao, vì muốn ngắm nét đẹp của loài hoa trang đài đang nở hàng chục đóa hồng và vàng. Bé LiLy bước chân cao chân thấp đi theo cha cười hồn nhiên.
– Con tránh ra để ba phụ mẹ chút nha
Lily nghiêng đầu qua, nghiêng đầu về vẫn níu áo, anh đành dừng chân nói với vợ “chờ chút…con đang vui vẻ”. Anh gỡ nhẹ tay con dìu vào ghế dài dưới tàng cây phượng vàng nay đã tàn hoa, chỉ còn bóng lá xanh tỏa mát. Anh ôm con, đặt đầu LiLy áp vào ngực anh, nghe luồng tim đập ấm áp chứa tình thương bao la.
Nhìn con lòng anh như quên hết chuyện phiền não hôm qua.
Vợ chồng anh mua vé hai tháng trước cho chuyến bay qua Hawaii nghỉ mát như thường lệ. Đã làm thủ tục check-in và ký gởi hành lý xong xuôi, vợ chồng anh hân hoan xếp hàng, bỗng bé Lily ngồi sụp xuống, níu chân ba mẹ nhìn về hướng ngược, biểu hiện ý đòi trở lui. Anh dỗ con “Ngoan Lily nhé, con sẽ vui đùa tắm biển khi qua đó”. Bé hất tay anh ra, rồi nằm lăn dài khóc lóc. Anh chị thay phiên dỗ dành, dìu con lùi qua một bên nhường chỗ cho khách hàng đang bước từ từ lên. Thời gian như muốn đứng lại, Anh chị nhỏ nhẹ, vuốt ve con sau gần một tiếng đồng hồ, cháu vẫn la hét đến khàn cổ. Cuối cùng anh chị phải chiều ý con gọi Uber trở về nhà. Anh liên lạc với nhân viên Airlines báo cáo hủy chuyến bay dù hành lý đã gởi, và được cho biết sẽ nhận lại một tuần sau.
LiLy ngồi yên ép sát đầu vào ngực anh, trong khi chị nhổ cỏ dại mọc xen chung quanh các chậu hoa trong lúc chờ đợi anh giúp đỡ việc nặng.
Anh nhìn màu nắng rực rỡ, ký ức ùa về của khoảng thời gian gần 30 năm trước. Anh giật mình “thời gian trôi nhanh quá, mọi chuyện cứ ngỡ như mới đâu đây…” Anh để dòng sông êm ả trôi về miền kỷ niệm…
Sinh ra trong một gia đình có ba anh em, Anh là trai lớn, thủa nhỏ đi học luôn đoạt bằng khen, bằng danh dự. Theo gia đình vượt biên qua Mỹ, anh hội nhập mau chóng và tiến bộ trong lãnh vực học đường, suôn sẻ tốt nghiệp bằng kỹ sư. Anh làm việc đi qua nhiều hãng nổi tiếng, hiện tại làm cho hãng Cisco tọa lạc vùng San Jose, nhưng được làm việc ở nhà.
Anh nhớ một mùa hè năm đó…. trong vài buổi làm việc thiện nguyện tại San Francisco, Anh gặp Ái Thanh (vợ anh bây giờ) đang là sinh viên của trường San Jose State, nàng rất đẹp và xông xáo trong công việc. Anh đã bị hớp hồn ngay từ phút đầu và tìm cách làm quen, quyết chinh phục cho bằng được. Chị lúc ấy cũng mến anh, một kỹ sư có nét thanh tú với dáng cao và tánh tình hiền lành ít nói. Anh chờ chị tốt nghiệp bốn năm, chị có việc làm trong phòng thí nghiệm của trường Đại Học. Mọi việc đều vững vàng bảo đảm đời sống, vì anh đã mua nhà trước đó. Sau vài năm tìm hiểu, anh chị quyết định tiến tới hôn nhân và hiện là cư dân của vùng Milpitas.
Mọi sự đều chuẩn bị sẵn sàng, đứa con trai Robert đầu đời, Anh chị chào đón trong niềm hạnh phúc vô biên. Ba năm sau bé Lily được sinh ra, những giây phút chờ trông cháu Lily lật trở vui nhộn biết bò theo thứ tự bẩm sinh. Sau gần hai năm, theo dõi bước thay đổi và phát triển của con, chưa thấy bé Lily biết đứng, biết bập bẹ phát ra âm thanh của trẻ con, anh chị lo lắng đem con đi gặp bác sĩ và bệnh viện nhiều lần, kết quả bác sĩ cho biết cháu bình thường, hãy chờ đợi thêm thời gian nữa”. Anh chị bắt đầu sống trong tâm trạng lo âu hồi hộp vì chẳng có gì tiến triển, ngày tháng trôi qua trong mòn mỏi, nhìn con vẫn bò quanh nhà dù đã lên bốn, năm, sáu…tuổi.
Khi con đầu lòng chào đời, anh chị tìm được người trung niên độc thân tên Sâm, sinh hoạt các chùa (do bạn giới thiệu), sau thời gian quan sát tìm hiểu tánh tình chị Sâm này rất hiền từ nhân hậu. anh chị yên tâm để chị Sâm ở lại sáu ngày, cuối tuần về thăm nhà, vì vậy vợ chồng yên tâm cày cấy trang trải nhiều thứ nợ.
Trước đây chị Sâm trông nom em gái Natalie con anh kỹ sư Lâm. Chị kể lại: “Em gái này đã trên hai mươi tuổi, bị bệnh Autism (tự kỷ) rất hung dữ, qua nhiều người đến chăm sóc nhưng họ phải đầu hàng vì em không chịu ai cả. Có những lúc em bị kinh nguyệt, em vùng vằng không cho chị Sâm thay băng làm vệ sinh, cuối cùng anh Lâm phải tự tay làm công việc ấy cho con, bởi vợ chồng đã ly dị, mà anh là người nuôi con. Chị Sâm thương lắm cũng đành nghỉ việc, sau bà Nội đến ở lại chăm cháu. Thỉnh thoảng cuối tuần chị Sâm cũng ghé thăm vì thương những mảnh đời đau khổ, thương những đứa trẻ không được bình thường sống trong hoàn cảnh thật xót xa. Câu chuyện được kể khi chị Sâm chứng kiến bé Lily có nhiều dấu hiệu không được bình thường, nhưng chị Sâm may mắn trông cháu bền lâu vì tánh Lily hiền lành dễ chịu hơn.
Một hôm tình cờ xem hình cha con anh Lâm trong buổi tiệc gia đình có chị Sâm chụp chung, nhờ vậy anh Quang nhận ra người bạn học xưa. Họ liên lạc hỏi thăm, tâm tình tìm sự cảm thông nhau từ đó.
Một buổi hai anh hẹn gặp uống cà phê cuối tuần. Sự mệt mỏi hiện ra trên nét mặt, mỗi người như bị áp lực đè nặng trong công việc và con cái. Anh Quang kể về hãng Cisco, anh Lâm làm cho hãng IBM, trao đổi những mẫu chuyện về nghề nghiệp. Anh Quang hỏi thăm bệnh tình cháu Natalie.
– Cháu vẫn chơi và khỏe đó chứ?
– Càng ngày tâm tính cháu càng hung hăng chướng kỳ, giai đoạn này cháu không thích mặc quần áo, cởi bỏ hết đi khắp nhà. Bà nội không đủ sức mặc vào cho cháu, tôi phụ giúp thật khó khăn vì cháu vùng vẫy, phải cố gắng dùng sức mạnh kềm tay chân cháu. Mặc quần áo xong rồi tôi phát hiện có vết bầm trên cánh tay cháu, biết mình vô ý lỡ mạnh tay tôi thật đau lòng, hối hận muốn khóc vì thương con mình quá.
Anh Lâm kể lại với ánh mắt buồn bã. Biết hoàn cảnh bạn mình đã ly dị chịu cảnh gà trống nuôi con, anh Quang nhẹ nhàng:
– Ông cũng nên tìm người bạn mới cho khuây bớt
Anh Lâm lộ vẻ uể oải chậm rãi:
– Nói gì, tôi cũng có bạn gái chứ, tháng trước dẫn về chơi dò ý con, cháu Natalie lộ vẻ giận dữ hai mắt đỏ ngầu, tôi sợ quá nghĩ từ nay không đem về nhà nữa. Lòng tôi cũng chẳng hứng thú gì khi nghĩ đến con, chỉ muốn để mặc dòng đời trôi… Mỗi ngày đi làm về nhìn con, chơi với con bằng tình phụ tử thiêng liêng dậy lên những cảm xúc dạt dào khôn nguôi thật khó tả.
Một hôm người quen khuyên anh Quang xin tiền phúc lợi Social Security Disability Insurance (Bảo Hiểm Khuyết Tật An Sinh Xã Hội – SSDI). Anh gạt ngang nghĩ thầm “Làm gì có chuyện đó đối với anh, khi mức lương vợ chồng cao, lại đang làm chủ hai ngôi nhà, một ở và một cho thuê, trường hợp anh không thể được quyền hưởng phúc lợi”. Anh hoàn toàn không tin, nhưng nghe nhiều người bàn cãi quá, điện thoại hỏi bạn Lâm, bạn cũng không biết. Hai anh điền đơn thử thì được xác nhận: trẻ em bị bệnh tự kỷ được hưởng quyền lợi là đúng, dù cha mẹ có dư điều kiện tài chánh đi chăng nữa.
Anh Quang không thể ngờ được nước Mỹ có chính sách nhân đạo đến vậy. Chính phủ không quan tâm ai giàu hay ai lương cao việc lớn mà chỉ chú trọng việc chăm sóc, hỗ trợ cho trẻ em, nhất là các trẻ em đặc biệt. Chính phủ trả lương cho người chăm sóc bé Lily và được hưởng thêm quyền lợi bảo hiểm sức khỏe. Bé được đi trường học lớp đặc biệt có xe đưa đón tận nhà, được cô giáo người bản xứ về nhà dạy riêng hai tiếng ngoài giờ. Anh muốn hét to “American vĩ đại, nhân từ bậc nhất…” Cho dù lương của anh bị trừ thuế 40% vẫn xứng đáng, vui vẻ góp phần xây dựng đất nước này phát triển vững mạnh thêm.
Mùa đông đi qua, mùa xuân lại đến, mùa hè trở lại, mùa thu tuần tự. Anh chị vẫn sống bằng niềm hy vọng bệnh tình bé Lily có phần tiến bộ, dù đã qua mười hai năm cháu vẫn chưa biết nói, biết đứng dậy. Tới năm mười bốn tuổi, bỗng dưng cháu đứng dậy và từ từ bước tập tễnh, còn niềm vui nào lớn hơn. Anh chị đã ôm nhau khóc vì mừng rỡ, bám tiếp tục niềm hy vọng để sống.
Nghĩ đến vợ, anh cảm thấy thường quý vô cùng. Nàng nấu ăn rất ngon, dù có chị Sâm trong nhà, nhưng bà xã chỉ muốn tự tay nấu những món ngon cho chồng con ăn vừa ý. Sau giờ làm vợ tất bật về nhà đứng mấy tiếng đồng hồ trong bếp, tối dành thì giờ chơi với con. Bé Lily rất kén ăn, nàng theo chiều con sát nút. Có điều đối với chị Sâm, bé dễ chịu vui vẻ, nhưng khi vợ anh về là bé chướng hết cỡ, đòi lung tung đủ thứ, bắt nàng bồng bế dù LiLy rất nặng ký. Bé có dấu hiệu: thích ngồi một mình, sợ người đông và sợ âm thanh mở lớn. Khi vui bé ngồi cười một mình xoay đầu liên tục, cô giáo có kỹ thuật chuyên môn dạy cháu chơi game để phát triển não bộ, cháu biết mở ipad và biết nhiều trò chơi trong máy khiến anh chị thấy phấn khởi vô cùng.
Anh chị ngoài thì giờ sinh hoạt, cũng tìm đọc các trang mạng về bệnh tự kỷ để hiểu thêm tâm lý. Chị là người mẹ rất tuyệt vời, luôn dặn anh “đừng bao giờ lộ nét mặt buồn giận con, mà phải cố gắng tạo nét mặt vui vẻ, ánh mắt trao nhìn con thật trìu mến”. Anh nhớ bao nhiêu năm, vợ luôn đè nén những ước mơ riêng tư, chịu đựng hy sinh cho con hết mực, những khi cháu nổi cơn bất thình lình. Như lần qua Florida ăn cưới cháu, trong buổi tiệc Lily nằm dài la hét làm anh chị không dự được phải ẵm con về khách sạn sớm; lần đi máy bay qua Nhật, cháu nằm lăn trên sàn khóc lóc lăn lộn, hành khách thật lịch sự ngồi yên như không có chuyện gì xảy ra dù cháu quậy rất ồn ào; lần qua đảo Big Island bên Hawaii, Lily cũng nằm vạ trên lối chờ vào máy bay, hôm đó tình cờ một viên phi công đi ngang qua, cúi xuống cầm tay em dẫn đi vào máy bay, cháu ngưng tiếng khóc bước theo, may mắn chuyến đó anh chị được thoát nạn; mỗi khi đến nhà ai hoặc ra ngoài công viên dự tiệc, thường chỉ có mình anh đi dự, họa hoằn đôi bữa có chị nhưng chị cũng nửa chừng bỏ cuộc.
Tiếng chị đánh thức anh về vùng hiện tại:
– Anh để con chơi, phụ em cho xong việc, em còn đi chợ vì tủ lạnh trống trơn rồi
– Được em!
Anh đẩy nhẹ Lily ra khỏi vòng tay.
– Con dạo ngắm hoa đi nhé, con có thấy hoa nở đẹp không?
Bé buông tay anh bước chậm nhìn hoa, không biết con có hiểu lời anh nói!!??
Sau một hồi phụ vợ các việc nặng, anh ngồi nhìn con chơi trong sân. Robert, anh Hai của LiLy đã tốt nghiệp Đại Học và có việc làm nơi xa. Anh chị vẫn tựa vào niềm hy vọng một ngày được nghe con gái nói, dù tiếng nói bằng ngôn, anh chị ngữ riêng cũng tốt. Năm nay quỹ An Sinh Xã Hội cắt giảm tài trợ việc cô giáo đến nhà bày vẽ chơi game cùng Lily hai tiếng mỗi ngày. Nhưng không hề gì, anh chị vẫn tiếp tục trả lương cho cô giáo, để cô hướng dẫn dưới hình thức chơi game bằng phương pháp trị liệu tâm lý và khai triển bộ óc.
Lily quay nhìn anh, cười tươi tắn, trở lại ôm anh sờ ngực, sờ áo. Anh vuốt tóc con thì thầm “Lời ba muốn nói với con, là ba mẹ yêu con nhất trên đời. Con là hơi thở, là sự sống của ba mẹ. Dù sao con cũng được sinh ra trên nước Mỹ, một đất nước nhân bản, có nhân đạo luôn đặt quyền lợi các trẻ em bị bệnh lên ưu tiên hàng đầu”.
Năm nay LiLy đã hai mươi tuổi. Tuần trước anh chị định dẫn bé đi chơi xa như món quà sinh nhật, vì anh chị thấy cháu rất thích chơi đùa với sóng biển, thích tắm nơi bờ biển vắng người, nhưng chuyến này không may nên bất thành. Con bé cao giống anh, khuôn mặt trái soan, nét mặt giống chị. LiLy sinh ra đời được bao nhiêu người yêu thương ngoài ba mẹ, hai bên nội ngoại, chị Sâm, người quen và nhất là anh Hai Robert của bé, cũng biết dỗ dành, chiều chuộng, đút cơm hoặc thay tả cho em mình.
Đã vào tháng Sáu, ngày Chủ Nhật đẹp trời. Anh chị tổ chức sinh nhật cho LiLy ngoài park gần nhà. Mùa hè đến, cây cỏ xanh um, quang cảnh mang bộ mặt tươi vui đầy sức sống. Bà con đến đông chúc mừng quà cho cháu. Tuần trước bé không vui cản trở chuyến đi chơi, hôm nay bé vui, ngồi yên cho mọi người chuyện trò ăn uống khiến anh chị mừng lắm.
Chiều dần xuống Lily chỉ về hướng xa vắng người, nắm tay ba kéo đi. Anh nhờ chị tiếp khách, hai ba con bước tới những mô đá bên kia đường, bé ngừng lại muốn ngồi xuống. Anh cũng ngồi theo bé nhìn bóng chiều lung linh hoa nắng nhảy múa trên vạt cỏ. LiLy nhìn quanh quẩn lộ nét mặt dễ chịu nơi có không khí yên tĩnh thoáng đạt. Mặc bên kia mọi người rôm rả nói chuyện, ăn uống tiếp tục, anh vẫn lặng lẽ ngồi bên con cả tiếng đồng hồ, nhìn mây trời trôi lãng đãng, nghĩ đến những mảnh đời khác nhau biến chuyển theo cuộc sống.
“Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”, nghĩ người bạn có con bị bệnh giống Lily, anh thấy mình được may mắn hơn, vì còn có đứa con trai thành đạt, có vợ bên cạnh chung nhau chăm sóc Lily. Anh nhớ điều đã đọc trong tài liệu về phương thuốc chữa bệnh Tự Kỷ Tâm Lý: “Tình yêu thương của người thân chính là phương thuốc hữu hiệu nhất cho người bị tự kỷ. Nên trò chuyện với họ nhiều hơn để tinh thần được thoải mái”.
Anh lẩm bẩm “Nhất định xóa tan đau khổ, thất vọng, chống phá căn bệnh trầm cảm chen vào. Con là giọt máu, là tình yêu thương lớn nhất trên đời. Ba Mẹ sẽ chiều ý con, dù lúc con vui hay khi con nổi chướng, miễn Ba Mẹ được sống bên con gái yêu quý …”
Minh Thúy Thành Nội
2/
Nhớ Cha
Cha ơi ! Thấy họ quây quần tiệc
Con đã từ lâu thiếu cảnh này
Bởi Lễ Father’s Day ý nghĩa
Hương đèn nhang khói mắt cay cay
*
Tha phương chỉ giấu lòng thương cảm
Kỷ niệm ngày xưa nhớ những gì
Sớm cảnh mùa đông trời xứ Huế
Cha đèo xe đạp chở con đi
*
Đến trường nhắc nhở con vào lớp
Chớ nghịch cô la, chúng bạn cười
Cố học cho nên người hữu ích
Mặt trời sẽ tỏa chiếu vui tươi
*
Quê hương biệt xứ không về lại
Phụ mẫu xa lìa lúc ốm đau
Bất hiếu con quay cuồng xót dạ
Từng đêm nghĩ ngợi nặng trong đầu
*
Công Cha tựa núi nuôi con lớn
Vất vả trăm bề trải gió sương
Tổ Quốc vai mang tròn trách nhiệm
Gia đình gánh vác bọc tình thương
*
Người ta quà biếu dâng Từ Phụ
Họp mặt hân hoan khắp mọi nhà
Chỉ có mình con buồn lặng lẽ
Lệ trào nghe khúc nhạc “ Tình Cha “
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 6/ 15/2025
*
3/
Màu Áo Tôi Yêu
Nửa thế kỷ rồi vẫn luyến thương
Tôi yêu màu áo chốn sa trường
Cộng Hoà anh lính ngày Quân Lực
Tháng sáu vào mười chín biểu dương
*
Một thủa anh hùng giữ núi sông
Bút nghiên xếp lại ý tâm đồng
Hy sinh đánh giặc cuồng
xâm chiếm
Hai chục năm trời mẹ đợi trông
*
Kỷ niệm Nội Thành các nữ sinh
Vòng hoa chiến thắng khoác ân tình
Vân Lâu áo lụa in hoa nắng
Anh lính cười tươi đối diện mình
*
Áo trận còn vương lắm bụi đường
Anh về phố thị dáng phong sương
Đứng chờ lấp ló giờ tan học
Gặp gỡ mừng vui trước cổng trường
*
Chẳng phận không duyên khóc lỡ làng
Ai làm thống khổ cảnh ly tan
Người đi biền biệt mờ tin tức
Mộng ủ buồn say, giấc mộng tàn
*
Dĩ vãng xa dần vẫn thiết tha
Xanh rừng bộ lính nhạc hùng ca
Bao nhiêu binh chủng cờ cao phất
Bước diễn hành oai dẫu tuổi già
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 6/19/2025
**
NGÀY BA RỜI CALIFORNIA.
Ngày 16 tháng 7 năm 2021 Video quay cảnh Ba rời California đã làm chị em tôi vừa xem vừa khóc, hình ảnh một ông già dáng yếu bệnh đang sửa soạn hành lý, ba tần ngần lựa chọn và gấp mấy bộ quần áo cần thiết nhất thường mặc nhất trong số quần áo treo đầy trong closet và trong mấy cái va ly rồi để mớ quần áo ấy vào trong cái túi xách. Ba quay qua Thiện, con trai út đứng kế bên :
– Chỗ còn lại con cho Goodwill giùm ba.
Giọng nói và đôi mắt ba buồn. Không như những lần trước rời California đi chơi xa Texas với đám con cháu bên ấy, ba cũng sửa soạn vài ba bộ đồ nhưng lòng vui vẻ vì sẽ trở về. Lần này ba biết là không thể.
Đi đâu ba cũng luôn ăn mặc chỉnh tề lịch sự dù lo âu phiền muộn như lúc này. Ba mặc bộ đồ đẹp, áo bỏ trong quần, khoác ngoài bằng chiếc áo của cháu ngoại gởi tặng mùa Giáng Sinh năm trước, với chiếc mũ trên đầu, với chiếc gậy chống chân. Ba xách cái túi nhẹ tênh có vài bộ quần áo chậm chạp từng bước đi ra cửa, dường như ba chẳng muốn đi nhanh, chẳng muốn rời khỏi căn nhà thân thương.
Đến bên chiếc xe mở cửa sẵn ngoài sân, ba quay ra nói lời từ biệt chào từng người đang chờ đợi sẵn, toàn là người thân con cháu. Họ òa khóc trong khi ba lẳng lặng nhìn căn nhà mình từng ở bao nhiêu năm trước khi ngồi vào trong xe. Cánh cửa xe đóng lại. Thế là hết, chốc nữa hay ngày mai ngày mốt ba sẽ không trở về căn nhà này. Gương mặt ba khuất sau cửa kính xe, không biết ba có khóc không khi chiếc xe lui xuống đường và từ từ lăn bánh để đến phi trường LAX.
Chị em tôi cùng coi video đến đây càng khóc thêm, vì biết rằng đây là một chuyến đi buồn, buồn nhất đời của ba.
Ba đang bệnh nặng, không chỉ giã từ thành phố Westminster tiểu bang California mà ba có thể giã từ cõi đời bất cứ lúc nào, ngày đó đang tới, thật gần thôi.
Video do con tôi quay và gởi cho những người thân ở Texas, ở Canada. Coi như cả đám con cháu gần xa cùng tiễn ba rời California và cùng theo ba trên chuyến bay về thành phố Dallas tiểu bang Texas.
Đến Mỹ năm 65 tuổi ba chọn sống ở miền nam California nơi chỉ có gia đình một con trai đang sinh sống và làm việc ở đó, ngoài ra còn có gia đình anh ruột của ba cùng đàn con của ông anh, trong khi đám con cháu còn lại của Ba đang ở Texas đông hơn. Nhưng ba chọn Cali vì điều kiện khí hậu ấm áp và vì cộng đồng người Việt đông vui.
Khi ba được hưởng quyền lợi trợ cấp của chính phủ ba cùng người anh ruột nộp đơn xin chung một căn nhà housing 2 phòng ngủ. Có 2 người sẽ dễ xin nhà housing và nhất là hai anh em cùng chung sở thích sở trường chơi cờ tướng rất giỏi, ba và bác lại là handyman khéo tay. Hai ông già sống chung sẽ vui và bớt cô đơn lại càng thuận tiện cho con cháu gần xa viếng thăm.
Ba rất thích cuộc sống tự lập, chẳng lệ thuộc hay nhờ vả ai. Ở nhà thuê mà ba chăm chút giữ gìn như tài sản của mình. Nấu nướng xong ba lau chùi bếp, ba quét nhà sạch sẽ. Ba không muốn làm phiền chủ nhà, nhà cửa hư lặt vặt ba và bác tự sửa nếu có thể, cái bồn tắm cũ mèm tróc men hình thức bề ngoài xấu xí nhưng vẫn xài được thay mới làm gì tốn công tốn của. Ông chủ nhà này thật may mắn khi có người thuê nhà vô cùng dễ chịu như ba và bác, hầu như chẳng bao giờ họ phàn nàn hay đòi hỏi sủa chữa gì, ông chủ cứ việc ăn ngon ngủ yên chờ đến tháng thu tiền nhà.
Mỗi khi tôi rủ rỉ khuyên ba về Texas sống với chúng tôi để dễ bề chăm sóc lỡ khi ba đau yếu thì ba rất lạc quan:
– Ba khỏe mạnh lắm, còn lâu ba mới đau ốm.
– Bệnh hoạn có thể đến bất cứ lúc nào mà ba.
Ba vẫn cương quyết như khi đi một nước cờ trên bàn cờ tướng:
– Khi nào ba cảm thấy yếu mệt thì sẽ về Texas với con cháu bên ấy
Đã có những dịp ba về Texas và ở chơi vài tuần, nơi đây chẳng có gì lạ để đưa ba đi chơi, hàng quán người Việt chẳng đông vui như khu Bolsa, chợ búa người Việt thì ba chẳng lạ gì. Ngày nào cũng thế, ăn cơm trưa xong ba nằm nghỉ ngơi, chợp mắt chút cho khỏe rồi lại tới cơm chiều, ăn xong xem ti vi chán rồi đi ngủ. Ba nói sống như máy móc, thậm chí sống như…tù binh vì ba chẳng thể đi đâu theo ý mình trong khi ở Cali ba có thể đi xe đạp ra biển hóng mát, ra hàng quán người Việt, đi chợ người Việt, đi gặp bạn bè để đánh cờ tướng tại hội người Việt, tại khu Phước Lộc Thọ….
Một chị bạn thân hàng xóm của gia đình tôi ngày xưa ở Việt Nam nay bạn lại là hàng xóm của ba sống cách ba mấy block đường, chị nói thỉnh thoảng thấy ba đạp xe trên phố chưa kịp chào hỏi thì ba đã đi qua cái vèo. Một ông già Việt Nam yêu đời đạp xe trên các hè phố Bolsa, treo trên tay lái xe là một túi đồ ăn, ổ bánh mì thịt, gói xôi hay tờ báo Người Việt có thể là ba tôi đó.
Tuổi chạm 80 mà mắt ba chưa bị Cataract, vẫn đọc báo khỏi cần kính mắt, ba ít khi ốm vặt nên ít khi đi bác sĩ gia đình. Thỉnh thoảng văn phòng bác sĩ gia đình phải gọi ba nhắc nhở đi khám tổng quát hàng năm.
Có lẽ khí hậu nam California thích hợp cho tuổi già như ba, tinh thần ba thoải mái vì sống trong cộng đồng người Việt, ba ăn nói đi lại dễ dàng và nhất là ba đã sống với tấm lòng cởi mở yêu đời nơi mà ba thích, xem như quê hương thứ hai thân thương nên sức khỏe ba mới tốt như thế. Nhiều người già sống cùng con cháu ít nhiều cũng lệ thuộc con cháu, phải theo cách sống nhà nó. Nhiều người già ốm đau nằm trong nursing home phải ăn những món tây món Mỹ, nhớ và thèm những món ăn Việt Nam biết bao.
Nhưng đâu ai trẻ khỏe mãi với thời gian, tới ngoài 80 ba không thường xuyên đạp xe trên phố nữa, khi cần đi xa thì con cháu chở, gần thì ba đi bộ cho khỏe đôi chân. Tôi khuyên ba xin người chăm sóc tại nhà, họ sẽ giúp đỡ ba nhiều việc, nhưng ba từ chối ngay vì ba không muốn làm hao tiền của chính phủ và vì ba tự tin là vẫn có thể tự lực được. Tính ba là thế, không muốn làm phiền bất cứ ai: con cháu, chủ nhà cho thuê và không muốn làm phiền cả chính phủ. Ba thường nói:
– Hàng tháng ba được “lãnh lương”, được chính phủ trợ giúp trả hầu hết tiền nhà, nhất là được miễn phí y tế là sướng như tiên rồi. Đòi hỏi chi nhiều.
Ba kể có những người già ở đây đã tận dụng xin hưởng mọi quyền lợi, họ xin xe lăn, xe chạy điện mà thật sự họ không cần thiết lắm nên chẳng mấy khi dùng đến, có khi họ phải kiếm người mà bán rẻ hay cho không vì để vướng bận nhà cửa.
Cho tới năm 2021 sức khỏe ba bỗng yếu dần, Ba xuống cân, ho và khó nuốt khi ăn. Lúc này ba không đợi văn phòng bác sĩ nhắc nhở nữa, Ba đi gặp bác sĩ gia đình, rồi bác sĩ chuyên khoa cuối cùng đã chẩn bệnh ba ung thư vòm họng giai đoạn cuối.
………………………..
Đón ba tại phi trường Dallas Fort Worth chúng tôi vẫn bồi hồi vì khúc video ba rời California lúc nãy, vì đã được biết rõ tình trạng bệnh và sức khỏe của ba. Khi ba vừa bước ra khỏi cổng security tôi đỡ cái túi xách cho ba và rươm rướm nước mắt, ba gầy đi rất nhiều. Nắm cánh tay ba mà không biết sẽ giữ được ba gần gũi mình bao lâu nữa.
Về nhà ba nghỉ ngơi với con cháu vài hôm. Chúng tôi đưa ba vào bệnh viện trong thành phố Arlington trước rồi mới lo vụ chuyển giấy tờ của ba từ California đến Texas sau.
Những ngày ba nằm bệnh viện, ngoài những thân nhân bạn bè chúng tôi ở đây đến thăm hỏi, còn có những thân nhân ở California gọi phone đến. Mỗi khi nghe người gọi từ California hình như ba khỏe hơn, tỉnh ra hơn và nhận biết đó là ai, ba lắng nghe họ nói, hình như ba đang theo họ trở về nơi nhà cũ trên con đường Bushard, ba đang đạp xe đến chợ ABC hay khu Phước Lộc Thọ gặp người quen.
Ba tuần ba nằm bệnh viện, các bác sĩ đã không cứu chữa được bệnh tình của ba. Từ lúc sang Mỹ cho đến giờ ba đã được sống như ý, có sức khỏe để tự túc, chẳng “làm phiền” con cháu cho đến những giờ phút cuối đời. Ba ra đi 94 tuổi.
Sau khi ba mất, dù an táng ba tại nghĩa trang thành phố Arlington tiểu bang Texas nhưng em tôi cúng thất cho ba tại chùa ở California. Cầu mong rằng suốt 7 tuần cúng thất tại đây, hương hồn ba trước khi siêu thoát đã “trở về” thăm thành phố Westminster tiểu bang California, nơi ba đã có một cuộc sống an vui như ý, nơi ba đã ở suốt 29 năm dài.
Nguyễn Thị Thanh Dương.
( June 1- 2025)
**
CÓ NHỮNG NGƯỜI CHA
Kim Loan
Có những người Cha tôi đã gặp
Hiến dâng đời, phục vụ tha nhân
Sáng danh Chúa, sống Phúc Âm
Gieo lời Chân Lý xa gần nơi nơi …
(KL)
Đó là những vị linh mục mà tôi đã có dịp tiếp xúc trong thời gian bốn năm sống ở trại tỵ nạn Thái Lan. Nói về các Cha thời tỵ nạn thì có rất nhiều điều muốn nói, nhưng có nói thêm trăm ngàn lời cũng vẫn chưa đủ.
Ở trại, chúng tôi may mắn có được các Cha người Việt Nam (cũng là nguời tỵ nạn vượt biên). Các Ngài là những người khởi đầu lập nên nhà thờ đơn sơ đầu tiên nơi trại cấm Panatnikhom, viết tắt là Panat, (gọi là Trại Cấm vì chúng tôi là những thuyền/bộ nhân đến trại tỵ nạn sau ngày Cao Ủy tuyên bố đóng cửa không nhận người tỵ nạn, nên chúng tôi bị xem là bất hợp pháp, phải ở Trại Cấm chờ nước sở tại thanh lọc, xét duyệt tư cách tỵ nạn).
Cuộc sống trong Trại Cấm khó khăn, dù Cao Ủy vẫn nuôi “báo cơm” nhưng nếu không có tiền viện trợ từ thân nhân nước ngoài thì làm sao chi phí cho những nhu cầu cá nhân, như xà bông, kem đánh răng, tem thư, nên các Cha đã liên lạcvới bên hải ngoại, vận động tài chánh cho trại mang tên “Hội Mekong”, phát tiền hàng tháng cho những gia đình tỵ nạn nghèo, không phân biệt tôn giáo. Dù số tiền ít ỏi, nhưng cũng trang trải phần nào cho đời sống trong trại. Cứ tới những ngày đầu tháng, tôi lại được nghe người ta hớn hở gọi nhau đến nhà thờ lãnh tiền Mekong, rất thân thương và ấm áp tình đồng loại, trong hoàn cảnh “một miếng khi đói bằng một gói khi no”.
Trong số các Cha ở trại (Cha Phan, Cha Hậu, Cha Lãm), thì tôi biết và gặp Cha Giuse Nguyễn Đức Hậu nhiều hơn. Biết Cha từ khi vào trại, nhưng từ khi tôi đậu thanh lọc trở lại Panat thì mới có nhiều dịp nói chuyện với Ngài. Ngoài việc hàng ngày đi lễ, thỉnh thoảng tôi và Cha có gặp nhau chuyện trò nơi văn phòng Cao Uỷ Định cư nơi tôi làm việc, và tôi thường xuyên đến nhà xứ mượn báo Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp về nhà đọc. Dù Cha đậu thanh lọc rất sớm, nhưng theo chỉ định của Tòa Thánh, Ngài phải hy sinh ở lại trông coi “giáo xứ tỵ nạn Panat” cho đến ngày trại chính thức đóng cửa hoàn toàn vào năm 1995-1996.
Khi tôi qua Canada, hai cha con lại có cơ duyên gặp nhau nhiều lần tại thành phố Edmonton khi Cha Hậu từ Oregon bay qua thăm Cha Giuse Đinh Văn Hoành (hồi ở trại là Thầy Hoành). Thầy lúc đó rớt thanh lọc, nhưng được Cha Hậu giúp giấy tờ bổ sung nên đậu tái thanh lọc và qua Canada tiếp tục vào nhà Dòng rồi thụ phong linh mục. Chẳng may, Cha Hoành mắc bệnh hiểm nghèo, và Cha Hậu từ Oregon nhiều lần qua Edmonton thăm Cha Hoành, tôi lại được dịp tháp tùng Ngài, nói chuyện xưa chuyện nay. Khi Cha Hoành mất, Cha Hậu cũng bay qua, đồng tế Thánh Lễ an táng tại giáo xứ Edmonton…biết bao nhiêu kỷ niệm biết nói sao cho vừa.
Cha Hậu cũng là người sốt sắng nhận lời viết giới thiệu cuốn sách Buồn Vui Đời Tỵ Nạn của tôi phát hành năm 2017. Ngài bảo, gì chớ, viết về trại tỵ nạn thì Ngài ủng hộ hai tay hai chân, bởi Ngài cũng muốn là một phần của quãng thời gian ấy, không bao giờ phai nhòa trong tâm trí của bất cứ ai đã từng trải qua, chia sẻ ngọt bùi đắng cay với nhau.
Nói về những linh mục ngoại quốc thì không thể không nhắc đến Cha Pierre Ceyrac, vị linh mục dòng Tên người Pháp đáng kính, với tấm lòng hiền hậu bao la. Tất cả những ai từng đến trại tỵ nạn Thailand, đường bộ hay đường biển, đã một lần gặp Ngài, đều quý mến yêu thương Ngài và âu yếm gọi Ngài là vị Thánh sống giữa trần gian.
Ngài có mặt ở trại tỵ nạn rất sớm, đầu thập niên 1980s, khi mà những xung đột ở đất nước Cambodia vào thời kỳ nhiễu nhương, quân đội Hunsen đánh bật thể chế Polpot và Khmer Đỏ, hàng ngàn người dân Cambodia lũ lượt chạy về vùng biên giới Thailand lánh nạn. Lúc đó, phong trào vượt biên bằng đường bộ và đường biển của người Việt Nam đang ở cao trào, và những trại tỵ nạn vùng biên giới được lập nên cho tất cả những người vừa đến bờ tự do.
Thời gian này, Cha Pierre đã có mặt giúp đỡ đồng bào mình. Vì chưa có bưu điện ở trại tạm biên giới, nên Cha dùng hộp thư của mình cho dân tỵ nạn Việt Nam liên lạc với thân nhân ở quê nhà cũng như ở nước ngoài. Thế là hàng tuần, người tỵ nạn mong ngóng chiếc xe truck màu nâu của Cha dừng trước cổng trại, chờ bóng cao gầy của Ngài bước xuống với nụ cười tươi rất hiền, đôi mắt trìu mến đầy yêu thương sau cặp mắt kiếng to, trên vai Cha là cái túi màu đen, có những lá thư, và đôi khi Cha còn mang thêm bánh kẹo cho trẻ con và thuốc lá cho thanh niên đàn ông.
Có một lần, những tên lính Thái dở chứng, kiểm tra túi thư của Cha rồi quyết định tịch thu những lá thư đó, không biết Cha năn nỉ gì với họ, nhưng nhìn mặt Ngài rất đau khổ vì sợ mất thư của người tỵ nạn, cuối cùng bọn họ quyết định, nếu Cha chịu chui qua gầm xe truck của Cha thì sẽ được vào trại đưa thư. Tội nghiệp thay cho Ngài, dù là người gầy gò, nhưng với dáng cao nghều, những người tỵ nạn đã chứng kiến vị Cha già 70 tuổi bò lê lết chui qua gầm xe mà xót xa. Đường đất đỏ và sỏi đá làm cho quần áo Ngài lấm lem và mồ hôi nhễ nhại, vậy mà khi chui qua xe xong, Ngài nhanh nhẹn đứng dậy cười tươi rạng rỡ mang thư đến cho những người đang mong chờ.
Câu chuyện nổi tiếng về hình ảnh người Cha già, cứu tinh của dân tỵ nạn ở vùng biên giới được loan truyền khắp nơi. Khi tôi đến trại Panat thì toàn bộ dân tỵ nạn người Việt vùng biên giới Thái-Miên cũng được đưa về đây, Cha Pierre Ceyrac không làm việc chính thức cho trại Panat nhưng thỉnh thoảng Ngài vẫn vào thăm đồng bào tỵ nạn kết hợp với chút công việc. Tiếng tăm và ảnh hưởng của Ngài được chúng tôi ghi nhớ và luôn khao khát được gặp Ngài.
Hôm ấy tôi đang ngồi bên phòng bưu điện làm việc, nhìn qua cửa sổ đối diện văn phòng Mental Health, một phụ nữ dắt theo đứa con gái nhỏ vừa bước ra khỏi phòng (chắc vừa lấy thuốc xong), thì Cha Pierre đi ngang qua, chị ấy mừng rỡ chặn đường Cha, ôm tay Cha vừa nói vừa khóc nức nở bằng tiếng Việt, Cha không hiểu gì, vẫn bình tĩnh mỉm cười, mời chị trở lại văn phòng với anh phiên dịch. Anh bạn tôi là người phiên dịch ấy, kể lại rằng, khi vào văn phòng, chị ấy tâm sự với Cha, chị đang rất đau khổ vì người chồng ở Mỹ vừa viết thư báo tin đã có người đàn bà khác nên không thể bảo lãnh mẹ con chị được, chị bị khủng hoảng tinh thần, phải vào phòng Mental Health lấy thuốc uống, tình cờ gặp Cha hôm nay, chị thấy nơi Cha toát ra sự nhân từ, đầy lòng ủi an, nên chị liều xin gặp Cha để giải tỏa nỗi lòng bởi chị không có đạo, không đi lễ nhà thờ và chưa bao giờ nghe về Cha! Nghe vậy, Cha lặng người đi, xúc động, nét mặt đăm chiêu trìu mến, ôm hai mẹ con chị, rồi thông qua người phiên dịch, Cha nói chuyện với chị, để chị tâm sự hết cõi lòng.
Mỗi lần đi trong trại, dáng cao gầy của Cha lập tức được mọi người nhận ra, trẻ con người lớn đứng hai bên đường giờ tay chào đón, Ngài luôn nở nụ cười hiền rất trong sáng ngây thơ, đáp lại tấm chân tình của đồng bào tỵ nạn, có khi còn dừng lại xoa đầu vài đứa trẻ rồi lại bước đi.
Sau khi rời trại tỵ nạn Thái Lan, Ngài qua Ấn Độ tiếp tục sứ vụ mới, sống giữa những mảnh đời nghèo khó và bất hạnh không phân biệt tôn giáo, vì đối với Ngài tôn giáo chính là con người.
Nơi đó cũng là hành trình cuối cùng của Ngài trên trần gian, Ngài được Chúa gọi về ngày 30/5/2012 tại Madras, India, hưởng thọ 98 tuổi, trong sự tiếc thương của các con chiên khắp nơi. Những dòng chữ này hôm nay là nén hương lòng tôi gửi đến Cha Pierre kính yêu, mà tôi đã may mắn được gặp gỡ, nói chuyện và chụp hình với Ngài, và lời nói của Ngài chúng con xin mang theo làm hành trang cuộc đời: “Cái gì không cho đi thì sẽ mất” (What is not given is already lost).
Cuối cùng, (như tiếng Anh có câu, last but not least-cuối nhưng không phải là hết), tôi xin dành sự ưu ái sau đây, cho Cha Peter Prayoong Namwong, cũng là một vị ân nhân khác của dân tỵ nạn Việt Nam tại Thái Lan.
Theo lời Cha kể, tổ tiên của Cha là người Việt Nam, từ 300 năm trước trong cuộc bách đạo, đã phải chạy trốn xuống Rạch Giá, rồi lưu lạc qua tỉnh Ratchasima, Thailand cho đến nay.
Những ai vượt biên qua Thái Lan sau ngày đóng cửa 14/3/1989 đều có một hành trình chung: ở trại Panat một thời gian, rồi được chuyển về trại Sikiew chờ thanh lọc, rồi sau khi có kết quả thì được về lại Panat chuẩn bị định cư nước thứ ba. Và tại Sikiew, Thiên Chúa đã mang đến cho chúng tôi một vị ân nhân mới, một mục tử nhân lành để ủi an, giúp đỡ chúng tôi qua những năm tháng khó khăn nơi đất tạm dung.
Những người đi đến trại sớm, đầu thập niên 1980s kể lại rằng, trên trại Sikiew lúc ấy, Cha đã tất bật xin tiền ở khắp mọi nơi trên thế giới để xây trường học “Our School” từ lớp 1 đến lớp 9, tiếp theo là xây bệnh viện chữa bệnh (có luôn khu vực sinh sản, phụ khoa). Cha còn thành lập Trung Tâm Minor để nuôi nấng các em dưới 18 tuổi qua trại một mình không có thân nhân, ngoài ra Cha còn có quỹ để trợ cấp cho những gia đình tỵ nạn khó khăn, có con nhỏ, và để phục vụ nhu cầu giải trí của dân tỵ nạn, Cha mướn Drive-in Movie Company vào trại mỗi năm vài lần chiếu phim, mỗi lần chiếu khoảng 5-6 phim liên tục, xem từ tối cho đến sáng, thực sự là ngày hội được mong chờ nhất của đời tỵ nạn ngày dài buồn tênh.
Những “di sản” đó, chúng tôi, những kẻ “trâu chậm uống nước đục”, đến trại tỵ nạn muộn màng, vẫn còn được hưởng ké. Đó là ngôi nhà thờ kiên cố khang trang, xây bằng gạch, nằm dưới chân bãi đá. Đó là bệnh viện có đầy đủ phòng ốc, dụng cụ y tế, là chương trình tiền trợ cấp hộ nghèo neo đơn. Nhưng “di sản” lớn nhất mà chúng tôi rất hạnh phúc đón nhận, chính là Cha Peter NamWong, người nuôi dưỡng đời sống tinh thần của tất cả người tỵ nạn, không phân biệt tôn giáo.
Tuy chúng tôi được bảo vệ bởi Cao ủy Liên Hợp Quốc, nhưng phép Vua vẫn thua lệ làng. Những lần Cha Namwong vào trại làm lễ thỉnh thoảng vẫn bị lính Thái làm khó dễ, và Cha lại luôn nhớ xã giao quà cáp để được vào trại suông sẻ với đoàn chiên. Chẳng ai quên được những buổi sáng Chúa Nhật, từ 10 giờ, nhiều người đã chỉnh tề áo quần, ngồi rải rác từ bãi đá cho đến cổng trại, trông ngóng chiếc xe của Cha Namwong dừng lại, tươi cười bước vào, cả trại rộn ràng xôn xao trở về ngôi nhà thờ bé nhỏ chờ đón Thánh Lễ.
Nhưng tỵ nạn cuối mùa cũng phải đến ngày kết thúc, những người may mắn đậu thanh lọc được chuyển về Panat chờ đi định cư, và những ai rớt thanh lọc ở lại Sikiew được khuyến khích tự nguyện hồi hương, và sau đó là cưỡng bách hồi hương năm 1996. Khoảng tám chục người, đã lần lượt trốn ra ngoài trại trong những khoảng thời gian khác nhau, tìm đến giáo xứ Cha Namwong, lập tức được Cha tận tình gửi gắm ở nhờ những gia đình con chiên trong xứ, giúp họ kiếm việc làm, sinh sống. Cha đã vận động Toà Giám Mục Bangkok can thiệp cho những đồng bào này được tạm trú (dù bất hợp pháp) tại Thái Lan.
Thời gian trôi qua hơn 20 năm, có người lập gia đình, sinh con cái, chuyển lên Bangkok hoặc các vùng phụ cận sinh sống, rất nhiều người trong số họ không phải đạo Công Giáo, nhưng mỗi năm vào ngày sinh nhật Cha, họ lại tụ tập về vùng Sikiew (Ratchasima), đến nhà Cha quây quần, dự Thánh Lễ, tâm tình với Cha, mong ngày được đổi đời ở xứ tự do.
Tạ ơn Chúa, cũng nhờ Cha kết hợp với các luật sư và thiện nguyện viên của tổ chức VOICE (Vietnamese Overseas Initiative for Conscience Empowerment) miệt mài vận động với chính phủ Canada, những gia đình tỵ nạn cuối cùng này đã qua đến Canada. Trong những chuyến bay này, Cha Namwong luôn đồng hành tiễn đưa bà con đến tận phi trường, lên máy bay, thậm chí có đôi lần Cha còn bay qua bên Canada rồi mới an tâm bay về Thái Lan.
Trong nhóm những người tỵ nạn đến Edmonton mà tôi cùng Hội Người Việt cùng ra sân bay đón chào, có lần tôi có hỏi một người bạn trẻ:
– Vậy là 25 năm sống trên đất Thái, cũng là 25 năm xa quê! Khi có quốc tịch Canada, em sẽ về thăm gia đình cha mẹ ở Việt Nam chứ?
Em ấy đã trả lời không cần suy nghĩ:
– Thưa chị, nơi đầu tiên em về thăm chính là Thailand và Cha Prayoong Namwong, bởi nếu không có sự đùm bọc che chở của Cha thì chúng em không có ngày hôm nay. Với em, Cha chính là người sinh ra em lần thứ hai.
Với truyền thống biết ơn của người Việt, năm 2013 những cựu thuyền nhân tỵ nạn Thailand đã mời Cha Namwong một chuyến Mỹ du (con chiên tỵ nạn của Cha ở khắp mọi nơi trên thế giới nhưng đông đảo nhất là ở Mỹ). Trong hành trình 25 ngày ở Mỹ, Cha đã đi nhiều tiểu bang, nhiều thành phố, thăm thú các con chiên (và kể cả những người ngoại đạo), nhắc lại bao kỷ niệm của thời gian ở trại tỵ nạn dưới bàn tay chăm sóc của Cha.
Ở hai thành phố lớn tại California, là Orange County và San Jose, những cuộc đón tiếp Cha rất tưng bừng, đậm tình thương yêu. Họ choàng cho Cha những vòng hoa nhiều màu sắc, mọi người vây quanh người Cha thân yêu nay đã già để tỏ lòng tri ân đậm đà sâu xa.
Tôi rất xúc động khi xem trên Youtube cuộc phỏng vấn Cha do đài Hương Quê tại San Jose thực hiện, không phải vì Cha đã già đi theo thời gian, nhưng bởi Cha đã trả lời phỏng vấn hoàn toàn bằng tiếng Việt, dù có phần phát âm và dùng từ chưa chính xác. Điều đó nói lên sự gắn bó mấy mươi năm qua của Cha với người Việt tỵ nạn ở Thái Lan, bởi thời gian ở Sikiew, Cha không biết nói tiếng Việt, vào trại phải có thông dịch, và khi làm lễ thì Cha giảng bằng Tiếng Anh rồi có Thầy giảng lại cho cộng đoàn.
Cũng trong chuyến thăm miền Bắc Mỹ, khi Cha đến Canada có đi qua Toronto, Calgary và đến Edmonton, thành phố của tôi trước khi bay qua Vancouver. Thật vui và xúc động khi tôi được đón Ngài, gặp lại Ngài, khi mà cả Cha và các con đều …có tuổi. Nhìn những nếp nhăn trên khuôn mặt Cha, tôi vẫn nhận ra một vị linh mục có nụ cười hiền, bao dung như đã từng thấy ở Sikiew thuở nào.
Năm 2022 Cha lại có một chuyến Mỹ du, mà Cha gọi là chuyến cuối cùng vì sức khỏe bắt đầu yếu kém. Cuộc đón tiếp và tiễn biệt Cha lần này có nhiều cảm xúc đặc biệt, ai cũng luyến lưu ôm Cha, nắm tay thật chặt, rồi nhìn theo bóng Cha già vẫy tay với nụ cười lặng lẽ mà rưng rưng.
Mới ngày nào đây, Cha còn trẻ trung khỏe mạnh, hoạt động dọc ngang nơi đất Thái, mười mấy năm trường, sau đó là hơn hai mươi năm bảo bọc chở che những người tỵ nạn “bất hợp pháp” cho đến ngày họ được tái định cư an toàn ở nước thứ ba.
Vậy là gần năm mươi năm của một đời người, Cha đã gắn bó với người tỵ nạn, một cơ duyên của định mệnh đã sắp đặt, là một sự may mắn lớn lao cho người tỵ nạn Việt Nam tại Thái Lan.
Những thông tin về Cha Pierre Ceyrac hoặc Cha Peter NamWong, ai cũng có thể tìm kiếm được trên internet, riêng tôi viết bài này như là một kỷ niệm nhỏ bé với hai vị Linh Mục đáng kính.
Trong những ngày này Giáo Hội Công Giáo vừa có Đức Giáo Hoàng mới, Cha Leo XIX, chúng con dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ, vì đã dẫn đưa những vị Linh Mục đến với chúng con trong giai đoạn khó khăn lưu vong trên mảnh đất trại tỵ nạn.
Cũng trong năm nay, tưởng niệm Năm Mươi Năm ngày mất nước, ghi dấu hàng hàng lớp lớp người Việt Nam chạy trốn Cộng Sản, ra khơi tìm tự do, chúng ta xin được tri ân những đất nước tạm dung đã mở rộng vòng tay chào đón những đoàn người tỵ nạn từ năm 1975 đến 1996.
Xin được tri ân những người thiện nguyện viên từ khắp nơi, những vị ân nhân, trong đó có những “Người Cha” mà tôi đã may mắn được gặp gỡ và có những kỷ niệm không bao giờ quên.
Edmonton, Tháng 6/2025
KIM LOAN
**
CA KHÚC TẠ ƠN CHA – NHẠC SĨ VĂN DUY TÙNG
**
**
HAI CHA CON
Truyện của Phương Lan
Bữa cơm chiều hôm đó vắng mặt thằng Tuấn, nó nói đến nhà bạn học bài, và sẽ về trước giờ ăn. Nhưng ngoài trời đã tắt hẳn nắng, thành phố lên đèn đã từ lâu rồi, mà Tuấn vẫn biệt tăm. Mọi người bắt đầu sốt ruột, không hiểu đã xảy ra chuyện gì. Ông Bình cứ đi qua, đi lại trong phòng cả chục lần. Sau cùng, khi chuông đồng hồ gõ tám tiếng, không thể chờ đợi lâu hơn, ông ra lệnh cứ ăn trước. Mọi người cầm đũa một cách uể oải, mặt người nào cũng lộ vẻ lo lắng. Thường thì bữa cơm chiều là lúc vui nhất, cả nhà quây quần bên bàn ăn, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện xảy ra trong ngày. Nhưng hôm nay, mọi người đều im lặng, nhai, nuốt chậm chạp, mặc dù đồ ăn rất ngon. Thằng Cường, con Dung thường ngày nói tía lia, ồn ào nhất nhà, bây giờ cũng chỉ cúi đầu ngồi ăn, thỉnh thoảng lại liếc nhìn cha mẹ với vẻ sợ sệt, làm như chính chúng là kẻ có lỗi. Không khí trong phòng ăn có vẻ nặng nề, chỉ nghe tiếng lách cách của chén đũa, và tiếng máy lạnh chạy ù ù.
Ông Bình hỏi vợ:
– Dạo này nó hay vắng nhà, mà bà có biết nó đi đâu không?
– Làm sao biết được? Bà Bình dè dặt trả lời, thấy nó nói là đến nhà bạn học bài, tôi nghe vậy thì chỉ biết vậy, chứ làm sao kiểm soát?
– Hừ! bà là mẹ thì phải để mắt đến con cái chứ?
Sau cùng, gần 9 giờ, khi bữa ăn sắp chấm dứt, mọi người sắp sửa dùng đến món tráng miệng, thì có tiếng xe dừng ngay trước cửa nhà, một đứa bạn của Tuấn đưa nó về. Bà Bình vui mừng đứng dậy, toan lấy thêm thức ăn, nhưng Tuấn lắc đầu nói:
– Con ăn ở nhà bạn rồi.
Nói xong, nó đi một mạch lên lầu, không nhìn ai cả. Ông Bình nhìn theo con, chăm chú quan sát một hồi, rồi cau mày nói:
– Nó nói dối, đến nhà bạn học bài mà sao không đem theo sách vở chi cả? Thằng này hỏng, phải phạt nó mới được, tôi sẽ không mua xe cho nó như đã hứa.
Noi xong ông cũng lên lầu, nhưng vào phòng riêng của ông, chứ không vào phòng Tuấn. Bà Bình ngạc nhiên, rồi thở ra nhẹ nhõm. Tự thuở giờ, ông Bình vốn có tiếng là một người cha nghiêm khắc, bà chờ đợi một cơn thịnh nộ của chồng sẽ bộc phát dữ dội, nào ngờ chỉ có thế. Dạo này, báo cáo của nhà trường cho thấy điểm số trong học bạ của Tuấn tụt xuống một cách thê thảm, gần như đội sổ. Mặc dù Tuấn làm ra vẻ siêng năng, hay đi sớm về khuya, lúc nào cũng nói là đến nhà bạn để học nhóm. Nhưng bà biết là Tuấn nói dối, linh tính của một người mẹ cho bà thấy là Tuấn đang có điều gì lo nghĩ, trông nó có vẻ chán đời mà bà không hiểu tại sao.
Năm nay Tuấn mười bảy tuổi và đang học lớp 12. Ở Mỹ, mười tám tuổi là có thể sống độc lập, nên nhà trường và phụ huynh tiếp tay nhau sửa soạn cho học sinh vào đời. Ngay từ lớp 11, nhà trường đã bắt đầu dạy học trò tập và đi thi bằng lái xe. Nhiều đứa bạn của Tuấn đã được cha mẹ sắm cho xe hơi riêng, Tuấn cũng vừa mới đậu bằng lái xe, và được cha hứa sẽ mua cho một cái xe hơi cũ vào cuối học kỳ này. Cả ba anh em nó đều háo hức, và Tuấn đã hứa sẽ cho các em đi ké. Nhưng bây giờ thật là hết hy vọng, Cường và Dung tiu nghỉu, chúng lẻn vào phòng anh, báo tin chẳng lành, Tuấn chỉ nhếch miệng cười nhạt:
– Cam đoan ông già sẽ không phạt tao đâu. Đừng lo, ổng chỉ dọa thôi. Rồi tụi bây coi, ổng sẽ phải mua xe cho tao mà.
Hai đứa nhỏ nhìn nhau ngơ ngác, không hiểu gì cả, chúng cho rằng anh chúng nói ngông, nhưng Tuấn vẫn cười một cách tự tin:
– Tao không xạo đâu, chúng mày cứ chờ coi.
Vì sao Tuấn có thể nói một cách quả quyết như thế? Thật ra cũng chẳng có gì khó hiểu cả, chỉ vì Tuấn tình cờ biết được bí mật của ông bố. Từ đó, cậu đâm ra xem thường, không còn kính phục cha như trước nữa.
Số là hôm đó, ông Bình có việc phải đi vội, và bỏ quên điện thoại di động ở nhà. Tuấn đang ngồi học bài, tiếng điện thoại reo liên tục làm cậu bực mình vì bị chia trí, đến lần thứ năm, thứ sáu… thì cực chẳng đã, cậu phải bốc điện thoại lên nghe. Những tiếng nói ở đầu dây bên kia làm cậu giật nảy mình, ngồi thẳng người lên:
– A lô, anh Bình đó hả? em, Diễm Thu đây! anh khoẻ không? lóng rầy bị mụ vợ già kiểm soát chặt chẽ lắm hay sao, mà không thấy gọi cho em? Bận gì thì bận cũng phải nhắn lại cho em vài lời chứ? sắp đến sinh nhật em rồi đấy, liệu mà chuẩn bị quà cáp gởi về cho em. Còn cái vụ căn nhà đã đặt cọc, anh phải lo tiến tới đi chứ? chủ bán cứ dục phải trả nốt, mà em thì làm gì có tiền?
Tuấn há miệng kinh ngạc, không nói được lời nào, cậu còn đang bàng hoàng thì tiếng nói bên kia lại tiếp tục, lần này đổi qua giọng nũng nịu, vòi vĩnh:
– Tết này mình về với em được không? Nhớ quá, có người yêu ở xa buồn chịu không nổi. Hay là mình ly dị phứt con mụ khọm già ấy đi cho rồi? thu xếp công việc xong rồi về Việt Nam ở luôn với em, chịu không cưng? Kìa! sao không thấy anh nói chi cả?
Bấy giờ Tuấn mới mở miệng được, lạnh lùng:
– Tôi không phải là Bình.
Ngỡ ngàng một giây, rồi tiếng người đàn bên kia đầu giây vội vã:
– Ồ xin lỗi, tôi gọi nhầm số.
Lập tức bà ta tắt máy nghe cái cụp, Tuấn cũng đặt điện thoại xuống, bàng hoàng như người vừa tỉnh dậy sau một cơn ác mộng. Ngồi một lát, chờ cho tim bớt đập, Tuấn dò theo số điện thoại, và đọc được nhiều tin nhắn cũng của người đàn bà tên Diễm Thu ấy, toàn một giọng tình tứ lả lơi, và sau cùng là… nã tiền. Không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là cha cậu đã có nhân tình. Sau khi bình tâm nhớ lại, suy xét, và phối hợp mọi sự kiện, bây giờ thì cậu hiểu cả, cậu hiểu vì sao dạo này cha cậu hay tìm cớ để về Việt Nam nhiều như đi chợ. Ông viện đủ mọi lý do: khi thì thăm người nhà đau yếu, khi về xây mộ ông bà, khi về nghiên cứu tình hình để sửa soạn cho một cuộc kinh doanh trong tương lai… Bà và các con nghe vậy thì chỉ biết vậy, chứ chẳng ai nghĩ tới việc tìm hiểu xem ông nói thiệt hay là nói dối.
Gia đình Tuấn thuộc loại khá giả, ông Bình là chủ nhân của hai tiệm buôn vải vóc, quần áo phụ nữ và một trung tâm băng nhạc khá đông khách, lợi tức đủ để gia đình sống một cách thoải mái, lại có của ăn, của để. Ông Bình vừa chẵn sáu mươi, bà Bình mới ngoài năm mươi tuổi, ông bà có ba người con: hai trai, một gái, Tuấn là lớn nhất, đang học năm chót của trung học, hè tới sẽ thi vô đại học. Ông Bình là một doanh gia thành công trên thương trường, con cái đều ngoan ngoãn, chăm học. Người ngoài nhìn vào, ai cũng nói đây là một gia đình hạnh phúc, chính mẹ cậu cũng thường hãnh diện khoe với mọi người, rằng bà có ông chồng đàng hoàng, đứng đắn. Ngờ đâu bà đã lầm, cũng như mọi người đều lầm, có ai ngờ con người trông đạo mạo, nghiêm trang kia, thật ra chỉ có cái vỏ bề ngoài, che dấu một tâm địa thấp hèn ở bên trong. Còn đâu hình ảnh của một người cha đạo đức, mẫu mực, mà cậu vẫn tôn kính? Những lời giáo huấn nghiêm trang cha cậu vẫn răn dạy con cái chẳng qua chỉ là diễn xuất mà thôi, như người đóng kịch trên sân khấu. Khi bức màn nhung đã buông xuống, son phấn đã rửa sạch, bộ mặt thật của diễn viên mới lộ ra, khác hẳn. Tuấn đau lòng nhận thấy bi kịch của gia đình cậu không phải mới xảy ra lúc gần đây, mà thật sự đã bắt đầu từ hai năm về trước. Sau chuyến theo bạn bè đi du lịch Việt Nam về, Tuấn thấy cha có vẻ hơi khang khác, ông có vẻ lo ra, và luôn luôn than phiền dạo này làm ăn thất bại, tiền chỉ có ra, mà không vô. Ông nói dạo này kinh tế xuống thấp, thất nghiệp đông, hàng hoá ít được tiêu thụ, phải giảm giá mới có người mua, vì vậy những nhà buôn không kiếm ra lời, cứ phải ăn vào vốn. Ông nói vậy để giải thích cho bà vì sao tiền để dành trong chương mục tiết kiệm của gia đình cứ hao hụt dần. Ông nói sao thì bà hay vậy, không hề nghi ngờ, bà vốn tin chồng, và thật ra lời lãi rất khó mà kiểm soát. Nghe vậy, cả nhà đều lo lắng, nào ngờ ông đem tiền cho gái…
Từ lúc tình cờ khám phá ra những bí mật của cha, cậu thiếu niên mười bẩy tuổi, chưa bao giờ nhìn thấy mặt trái của cuộc đời này, đâm ra thất vọng não nề. Từ nhỏ, cậu đã coi cha như một vĩ nhân, tượng trưng cho tất cả những gì cao đẹp nhất. Bây giờ ông vĩ nhân đã tự hạ bệ, Tuấn thấy ông sao tầm thường quá, cậu xót xa nhận thấy lòng kính trọng của cậu đối với cha không còn được như xưa. Tuy trong tâm bất bình, nhưng Tuấn vẫn giữ kín, không hé môi cho ai biết, cậu không muốn thấy cảnh một gia đình đang đầm ấm, yên vui, bỗng dưng bị xáo trộn, cậu cũng không muốn thấy mẹ buồn. Nhưng lòng cậu lại buồn vô hạn, vì đã mất hết niềm tin vào cuộc đời. Trong tâm trạng hoang mang, chán nản đó, Tuấn bị lũ bạn xấu rủ rê, và cậu đã buông thả, theo chúng bạn tập tành con đường ăn chơi, để trả thù đời.
Ông Bình, qua lời kể của cô nhân tình, cũng đoán biết là Tuấn đã rõ những bí mật của ông, nên trong lòng ông cứ bứt rứt không yên. Ông hay lén rình xem thái độ của con, và nghĩ bụng nếu nó cũng bắt chuớc ông, đi vào con đường hư hỏng sớm như thế, thì nguy quá, phải cứu vãn tình thế mới được. Ông chờ dịp bà vắng nhà, qua tiểu bang khác, thăm ông bà nhạc, mới gọi Tuấn vào phòng riêng, cho ông nói chuyện.
Chẳng cần thông minh, Tuấn cũng biết ngay là chẳng có chuyện gì ngoài chuyện cha có bồ nhí. Không hiểu ông sẽ thanh minh, thanh nga thế nào để chối tội? hay là ông định hối lộ cho cậu một món tiền, để cậu khỏi mách mẹ? Một ý nghĩ làm cho Tuấn mỉm cười, nhân dịp này tống tiền ông già cho bõ ghét? Nhưng rồi cậu lại gạt ngay ý tưởng đó, dù sao cậu thiếu niên mới tập tành hư hỏng này cũng chưa đến nỗi đánh mất nhân cách. Cậu chỉ muốn nhắc nhở cha thôi, rằng ông đang là tấm gương để con cái noi theo mà bắt chước, rằng con cái nên hay hư là tùy tư cách của người cha. Nghĩ thế, cậu chuẩn bị thái độ, và ung dung vào phòng, ngồi đợi.
Ông Bình mở đầu câu chuyện bằng một giọng tra hỏi, nhưng không có vẻ gì gay gắt:
– Tối qua, con đi đâu mà quá nửa khuya mới về?
– Con đến nhà bạn học bài. Tuấn nói dối tỉnh bơ.
– Đứa nào?
– Thằng Hùng.
Tuấn nói đại tên một đứa bạn chăm học, nào dè cha cậu đập tay xuống bàn đánh thình một cái, quát:
– Nói láo! Tối qua tao mới nói chuyện với ba thằng Hùng, mày đâu có tới nhà nó?
Tuấn giương mắt nhìn cha, không chút sợ sệt. Ông già đang tra gạn, hỏi tội cậu ư? thật là buồn cười, ông cũng dối trá, lại tra vặn thằng con về tội dối trá? Được, đã thế phải cho ông biết là cậu đã rõ hết mọi chuyện, để xem thái độ của ông ra sao? Nghĩ vậy, Tuấn sửa thế ngồi ngay ngắn lại, điềm tĩnh:
– Vậy thì con nói thật, hôm qua con đi vũ trường, nhảy đầm với bạn gái.
Ông Bình ngạc nhiên, không ngờ thằng Tuấn dám to gan đến thế, nó dám nói huỵch tẹt cả ra, mà không cần che đậy chi cả, chứng tỏ nó đã hết sợ ông rồi. Coi cái bản mặt ngang tàng của nó kìa! sẵn sàng nghênh chiến đó, găng với nó bây giờ là hỏng hết, nó sẽ đương đầu cho tới cùng. Mà đấu với nó, chắc chắn ông sẽ thua thê thảm, bởi vì nó đã nắm được cái tẩy của ông. Ông xìu xuống ngay, thôi đành chịu lùi một bước vậy, ông cố nén tiếng thở dài, lần đầu tiên người cha lầm lỗi này cảm thấy nhục nhã, vì đã đánh mất oai quyền làm bố. Ông xuống giọng, nhỏ nhẹ:
– Năm nay con đang học lớp 12 là năm then chốt ở trung học, nếu điểm số kém, con sẽ không được lên đại học, vì không trường nào sẽ nhận con cả. Tương lai của con là do con quyết định, sau này con sẽ làm nghề gì? nếu không có chút vốn học vấn trong tay? Còn nhỏ, sao con không học hành chăm chỉ, lại đi vào con đường ăn chơi sớm thế?
– Vậy ba nói hễ lớn tuổi thì mới có quyền ăn chơi hay sao?
Tuấn hỏi một câu rất ngây thơ làm ông Bình bối rối, lúng túng mãi mới tìm ra câu trả lời:
– Không phải vậy, nhưng… nhưng người già làm gì có tương lai mà sợ hỏng?
– Con lại nghĩ khác, người già không có tương lai, nhưng có quá khứ, nếu không cẩn thận, họ có thể phá hỏng tất cả những gì họ đã xây dựng trong quá khứ.
Ông Bình giật mình, thằng Tuấn không còn con nít như ông tưởng, nó đã biết nhận xét, suy nghĩ như người lớn, cậu thiếu niên thông minh, can cường này giống y chang hình ảnh của ông thời còn trẻ. Ông nhìn con bằng ánh mắt thương yêu:
– Con đã trưởng thành rồi đó!
Tuấn cười ngượng nghịu:
– Con cũng nghĩ vậy, mà ba có biết cái gì đã làm cho con trưởng thành trước tuổi không?
Ông Bình lại giật mình, nét mặt hơi biến đổi. Thấy vậy Tuấn vụt hối hận và thôi ngay ý định khiêu chiến, vì thật lòng cậu cũng không muốn dồn cha vào thế bí. Vội vã cậu sửa lại nét mặt hiền hoà:
– Mà thôi con cũng chẳng nói, vì có thể là con hiểu lầm.
Ông Bình thở ra nhẹ nhõm, nhìn con bằng cặp mắt thầm cám ơn. Người cha tội nghiệp này thấy cần phải nói một cái gì đó để vớt vát lại một chút sĩ diện, nhưng ông nghĩ không ra. Hai cha con ngồi im một lúc lâu, sau cùng ông lên tiếng, ông nói với con như tâm sự với một người bạn:
– Dạo này ba có nhiều chuyện lo nghĩ. Công việc làm ăn của ba bị thất bại, vì kinh tế suy thoái là tình trạng chung, gia đình nào cũng bị ảnh hưởng, vì vậy ba có ý định dời đổi cơ sở làm ăn về Việt Nam…
Tuấn buồn cười và thương hại cho cha, ông đang cố tìm cớ để bào chữa cho những việc làm sai quấy của ông đây. Cậu mỉm cười, hỏi:
– Ba có chắc về Việt Nam làm ăn, ba sẽ thành công không?
– Không chắc lắm, nhưng nếu không thử thời vận thì sao biết được? Đó là lý do dạo này ba hay về Việt Nam… Việc này tốn nhiều thì giờ lắm, trước hết là phải nghiên cứu tình hình, tìm địa điểm thuận lợi, tìm người hợp tác, rồi còn phải giao thiệp, phải xuất vốn nữa…
Tuấn lại cười thầm trong bụng, nhưng không nỡ làm cho cha bẽ mặt, cậu vờ tin thật và gật gù:
– Con hiểu rồi, ba giải thích vì sao mà quỹ tiết kiệm của gia đình mình hao hụt và ba hay về Việt Nam. Nhưng…Tuấn ngưng lại, cố lựa lời cho cha khỏi đau lòng, nhưng ba nên cân nhắc, suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi quyết định xem có nên đem tất cả vốn liếng mà ba má đã khổ công gây dựng, chắt chiu dành dụm trong hai mươi lăm năm trời, để đổi lấy một thứ mà chính ba cũng không biết chắc là sẽ thành công? Ba có nghĩ đến hậu quả không? nếu thất bại thì gia đình mình tan vỡ là chuyện dĩ nhiên, mà tương lai của các con cũng sẽ hỏng cả, vì tụi con còn tâm trạng đâu mà học hành?
Ông Bình thầm phục đứa con khôn lanh, nó vừa giữ thể diện cho ông, nhưng đồng thời cũng không quên mục đích, nó đang gián tiếp ra điều kiện cho ông chọn đó, hoặc là gia đình, hoặc là mối tình phù phiếm, chứ ông không thể có cả hai. Mấy lúc gần đây, ông đã suy nghĩ lại và thấy mình dại, chỉ vì một chút thú vui bất chính, ông muốn hưởng thụ để vớt vát tuổi già, mà ông đã đánh mất bao nhiêu thứ: uy tín đối với con cái, hạnh phúc gia đình và cả tiền bạc nữa chứ. Ấy là chưa kể những tiếng thị phi, những khổ tâm nhọc trí mà ông phải lo đối phó che đậy, dấu giếm tội lỗi. Bây giờ thì ông tỉnh ngộ rồi, ông nhất quyết làm lại, ông muốn nói cho con ông hiểu để nó yên lòng. Dịu dàng mỉm cười, ông vỗ nhẹ vai Tuấn:
– Con nói phải, đó chỉ là một việc làm hồ đồ nhất thời. Mấy lúc sau này, ba đã bình tâm suy nghĩ lại, và thấy không thể tiếp tục một chuyện làm ăn bấp bênh như vậy được, nên ba đã quyết định chấm dứt. Ba không còn ý định thay đổi công việc nữa, ba sẽ lo chấn chỉnh, tu bổ lại mấy cơ sở làm ăn của gia đình mình ở đây, con yên tâm.
– Cám ơn ba!
Lòng Tuấn bừng lên một niềm vui khó tả, cậu cũng nhìn cha bằng cặp mắt vô cùng thương yêu:
– Con cũng xin lỗi đã làm ba buồn lòng bấy lâu nay. Con hứa từ nay sẽ chăm học và không lêu lổng nữa.
Ông Bình gật đầu, giọng cảm động:
– Phải vậy mới đúng con ạ. Đời người ai cũng có lúc lầm lỡ, nhưng phải biết tỉnh ngộ và dừng lại đúng lúc, đừng để sự việc đi quá xa. Thôi bây giờ con về phòng học bài đi!
Tuấn chào cha và bước ra cửa. Nhìn theo bóng con đi khuất sau hành lang, ông Bình lẩm bẩm một mình:
– Mong nó cũng rút được một bài học kinh nghiệm, để sau này đi trên con đường đời, khỏi vấp phải vết bánh xe cũ mà ta đã đi.
Ông thấy lòng nhẹ nhõm như vừa trút được một gánh nặng đeo đẳng làm ông bứt rứt, khó chịu cả mấy năm trời. Ông thong thả bước ra vườn sau, nhìn mấy cây mai, cây đào đơm chi chít những nụ, ông mỉm cười:
– Lại sắp tết nữa rồi.
Tết năm nào bà cũng gói bánh chưng. Tội nghiệp người vợ hiền đã đi bên cạnh ông suốt hai mươi lăm năm trường, tận tụy hy sinh, chăm lo từng miếng ăn, giấc ngủ cho chồng, con. Năm nay bà không gói bánh chưng, cũng chẳng sửa soạn nhà cửa, vì bà tưởng ông không ăn Tết ở nhà, bà buồn nên đi thăm ông bà ngoại của xấp nhỏ cho khuây khoả. Ông đang sốt ruột mong bà về, để nói cho bà biết rằng ông đã tỉnh ngộ rồi, bà không có gì phải lo buồn nữa. Thay vì về Việt Nam với nhân tình, ông sẽ đưa vợ con đi du lịch một chuyến, sau khi ăn một cái Tết lớn ở nhà. Tối nay ông sẽ điện thoại cho vợ biết quyết định ấy và dục bà về sớm.
– Chắc má nó mừng lắm.
Vừa tỉ mẩn ngắt mấy cái lá mai, ông vừa mỉm cười một mình, mấy hôm nay thời tiết thay đổi rõ rệt, lại một mùa Xuân nữa sắp về.
PHƯƠNG – LAN
( Trích trong tập truyện Lấy chồng xa )
**
BA TUI – NGUYỄN THỊ THÊM
**
Đúng ra tui phải kêu ba bằng Cha vì đó là tên thường dùng ngoài quê nội ở Bình Định. Nhưng ba tui vào nam thuở còn thanh niên rồi bị đôi mắt lé kim của má tui hớp hồn. Nên “Khớp, khớp, khớp, khớp con ngựa ô… ứ ư ư ừ theo nàng dìa dinh” ở Biên Hòa Xứ Bưởi cho tới ngày quy tiên.
Tui đã viết nhiều bài về Mẹ. Má tui là người phụ nữ miền Nam có một không hai chiều chồng tới bến. Bà là mẫu đàn bà mà đàn ông nào cũng mơ ước có được. Tui tin chắc như vậy vì khi lớn lên anh em tui đứa nào cũng ấm ức tức thay cho má. Mấy bà chị dâu, em dâu tui cũng không hoan nghinh kiểu làm vợ giống osin như má tui. “Má làm gương kiểu này không công bình cho phe phụ nữ. Làm vợ như má tụi con chịu thua.”
Má đã để lại cho các con dâu con gái một cẩm nang mà không đứa nào muốn rờ tới đừng nói chi thực hành. Chỉ có ông Khổng tử bên Tàu là vuốt râu gật gù khoái chí. Ổng vỗ bàn cái chách, uống cạn ly rượu Minh Mạng hả hê vì hậu bối làm rất tốt. Má đi đúng đường ông Khổng tử chỉ giống y như cái GPS gài trong xe bây giờ. (Chồng con nhỏ bạn tui có lần đã tuyên bố “Khổng Tử là kẻ thù của đàn bà”).
*****
Ba tui người Bình Định, 1 vùng đất nhiều núi non lừng danh tam kiệt. Có Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ tức Quang Trung Đại Đế cho hậu thế tự hào. Vùng đất của Võ Bình Định nổi tiếng trong nước.
Tiếc thay ba tui chẳng biết đánh võ Bình Định mà võ mồm ông cũng không có vì ông rất kiệm lời, hay khớp trước đám đông. Bà nội tôi xuất thân con nhà quan nên bàn tay tiểu thư mềm mại, đi đâu có người hầu không quen làm việc nặng nhọc. Nội lấy chồng, chồng cưng chiều cung phụng. Khi cha chết, chồng chết, bà bơ vơ như dây chùm gửi không có thân cây để leo. Thế là ba tui bỏ học theo người xuôi nam tha phương cầu thực. Ông tằn tiện làm đủ việc, nhiều nghề để kiếm tiền gửi về nuôi mẹ, nuôi em ăn học. Ông thề với lòng chỉ về quê khi thật là giàu.
Khi đã lấy má tui và đã tạo lập 1 gia đình vững chắc, ba tui sai má tui về quê rước bà nội tui vào phụng dưỡng. Ông rước cả gia đình chú tui vào Nam sinh sống. Chú tôi văn hay võ giỏi nhưng cực kỳ sợ anh Hai vì ba tui đã lo cho chú như cha. Từ miền Trung khô cằn được vào miền Nam trù phú, ruộng lúa mênh mông, đời sống khá giả, chú tui bắt đầu tạo lập sự nghiệp bằng sự bảo trợ của ông anh tốt bụng.
Ba tui cũng giúp đỡ một số người cùng quê vào Nam lập nghiệp. Cho nên lúc đó nhà tui rất là đông mà người nào người ấy sức dài, vai rộng. Chỉ lo cho họ ăn uống no đủ thôi má tui cũng đã đau đầu. Mới vào Nam họ rủ nhau làm kẹo kéo để bán. Đó là lần đầu tiên tui biết kẹo kéo làm thế nào. Lâu dần một số xin vào làm công nhân cao su, một số đi nơi khác tìm việc làm, nhà tui là điểm hẹn dừng chân mỗi khi họ gặp khó khăn. Tới mùa hột, má giao cho chú tui thu mua hột cao su, nhân lực đông đảo nên má tui cũng tạm an tâm. Chiều chiều chú tui múa gậy, đi quyền dạy võ Bình Định ở sân trước nhà tui. Nhà tui thật rộn rịp và vui. Tiếc quá má tui cương quyết không cho tui tập võ. Chắc má muốn tui phục tùng chồng tuyệt đối không động tay động chân. Nên câu:
Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định đánh roi đi quyền….. không hề có tui.
Chú tui có ăn học, viết chữ tàu rất đẹp, chú thông minh và biết xoay sở. Chú từng bước quen dần với lối làm ăn nên sau đó đứng ra thầu mua mủ đất cao su. Cái thứ mủ chảy theo thân cây và dính dưới đất coi như bỏ đi, vậy mà chú tui vẫn tìm được mối thu mua. Chú ký hợp đồng với chủ tây và làm ăn phát đạt, cất nhà và ổn định cuộc sống. Ba tui trút được gánh nặng về gia đình và Bác Hai là một tấm gương cho con cháu noi theo.
Tui nhớ trong nhà chú tui có treo một bức tranh khá to. Trên đó chú viết câu đối bằng chữ tàu và chữ việt rất trang trọng các hình vẽ hoa văn tỉ mỉ:
HUYNH ĐỆ NHƯ THỦ TÚC, PHU THÊ NHƯ Y PHỤC.
Hôm đó 2 vợ chồng mới cưới, chúng tôi đến nhà chú để biếu quà lễ, đốt nhang bàn thờ ra mắt thân tộc. Chú chỉ bức hoành phi và giảng cho cháu rể 1 bài học về đạo làm người. Chú giữ đúng quan niệm của người xưa “Anh em như chân tay, vợ chồng như quần áo”. Chồng tui mới cưới vợ nên gân cổ cải lại về đạo vợ chồng “tôn kính như tân.” Tôi ngồi nhìn 2 người đàn ông vừa uống rượu vừa tranh luận mà không biết can thiệp cách nào cho không khí bớt căng thẳng. Tui biết chồng tui mới cưới vợ nên lập luận còn hăng để lấy điểm, chứ cũng dân miền Trung, nặng nề về gia tộc, đạo lý làm người chắc cũng giống y chang nhau. Ba tui còn 1 người em út nữa, nhưng chú không muốn đi xa, chú ở lại quê để giữ nhà từ đường, chăm sóc mồ mả tổ tiên. Chú làm nghề tráng bánh tráng gia truyền Bình Định. Chú út tui nhỏ con, lùn hơn ba tui nhưng chú đi bộ rất nhanh và khỏe. Chú nói ở quê, chú lội bộ đường núi từ nhỏ nên quen rồi. Chú rất hiền và chất phác. Chú uống rượu rất chì vì nhà chú nấu rượu, thử rượu thành quen. Những ngày chú tới thăm gia đình tui, chú tuyệt đối không uống rượu. Mấy ông anh ba xị đế của tui thấy vậy rất thương, lén lút dụ khị chú cụng ly nhưng chú cương quyết từ chối. Câu trả lời của chú là:
– Anh Hai không thích chú uống rượu, chú không dám uống.
Nghe đâu hồi còn nhỏ, chú rất quậy phá và ba tui đã trị chú ra trò. Bây giờ chú vẫn còn kính, sợ anh Hai không dám làm trái ý. Chú tui là vậy, nhưng mấy ông anh tui tuy cũng sợ ba, nhưng lai rai ăn và nhậu tới bến không bỏ được. Có lẽ tại mấy ổng lai dòng máu Nam Kỳ.
Ba tui lùn lùn, người rắn chắc và đẹp trai. Ông kiệm lời, chỉ cười cười khi vui và lắc đầu đi thẳng nếu bất bình hay không thích nói. Làm việc gì ông cũng tận tâm, trung thực và hết sức mình. Ông rất thích thể thao, dưới tay ông là đội tuyển đá banh khá giỏi. Ông là đoàn trưởng Thanh Niên Cộng Hòa hoạt động tích cực. Ông là người giao thiệp rộng, mấy món ăn chơi có lẽ thứ nào ông cũng thử qua nhưng không sa đà vướng vào.
Tuy không khá giả lắm nhưng ông rất chịu chơi, ông dám sắm giàn dĩa hát loại lớn có quay dây thiều, sắm cây đèn măng xông sáng rực. Tối tối nhà tui vang lên tiếng ca vọng cổ mùi tận mạng của Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Được, Út Bạch Lan, Thanh Nga. Nào Văn Hường đi chợ Tết, nào tiếng hát Út Bạch Lan “Ngày mai đám cưới người ta. Tại sao sơn nữ Phà Ca lại buồn”. Khi cô đào hát kéo hơi nhựa nhựa là ông vội vào nhà quay tiếp dây thiều. Vui quá một thời bình an.
Bà nội tui được ông phái hiền thê là má tui về Bình Định rước vào Nam. Má tui lặn lội ra tận quê chồng, bà kể lại hành trình vất vả tìm mẹ chồng nghe mà thương. Để ra mắt họ hàng gia tộc bên chồng, má tui đi chợ làm tiệc đãi khách. Bà nói tiền đi chợ nhiều như gánh 1 gánh tiền đổi 1 gánh thức ăn vì lúc đó quê ba tui xài tiền cụ Hồ, đồng bạc rẻ rề. Tui chẳng biết đúng sai thế nào chỉ nghe bà kể lại. Muốn tới chợ phải đi bộ thật xa, vượt qua đồi núi rồi xắn quần lội nước qua hói. Ra chợ họ nói tiếng Bình Định má tui không hiểu gì hết, chỉ biết trả tiền và cười. Mọi việc mua bán đều do thím tôi quyết định. Tui nhớ lại lúc tui về quê chồng xứ lạ, tui cũng lơ tơ mơ như má của tui.
Bây giờ quê nội tui đã khác, đường xá mở rộng, nhà cửa khang trang nên chuyện má kể y như chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa.
Ba tui sinh sống lâu trong Nam, nhất là ở Sài Gòn nên tiếng nói đã thay đổi rất nhiều. Bà nội tui theo con dâu vô Sài Gòn. Nhìn nội chưa kịp mừng 2 chị em tui hết hồn chạy trốn. Da bà ngăm đen mà hàm răng cũng nhuộm đen thùi dễ sợ. Bà mặc bộ đồ đen quấn đầu cái khăn cũng đen. Một mắt bà che lại bằng một cái khăn xéo cũng vải đen. Thiệt tình bà nội tui giống Hắc y nữ hiệp quá đi.
Nói thiệt không có tiếng nói nào quê và khó hiểu như tiếng Bình Định mà bà nội tui dùng. Thí dụ “Nẫu” là người ta. “Dẫy na” là vậy hả. “Dẫy á” là vậy đó. “Chu cha wơi” là trời đất ơi. “Dẫy nghen” là vậy đó nghen, “Đừng làm dẫy, nẫu cừ” là đừng làm như vậy, người ta cười cho.
Kỷ niệm tui nhớ hoài là khi nội tui bảo tui lấy cái đòn. Tui xuống nhà dưới vác cây đòn gánh ra. Nội tui là bài hải:
– Chu choa wơi, không phải cái đòn này.
Thì ra cái đòn nội tui cần là cái ghế thấp để ngồi. Tui không coi thường quê nội của tui, tui cũng không xấu hổ hay quê khi nói mình cũng là dân nẫu. Bởi vì quê cha tôi có những điểm đặc thù mà vùng miền khác không có. Ba tui là biểu tượng của tính tình người dân Bình Định: Chất phác, cần kiệm, cương nghị, gan dạ và trung thực.
Ba tui có số đào hoa, nhiều người phụ nữ đã đến với ông. Cuộc đời ông chìm nổi trong chữ ái dục, làm khổ cuộc đời của má tui và ảnh hưởng không nhỏ đến 3 dòng con. Các dì tôi đều yêu ông tuyệt đối, chăm sóc và cung phụng ông không thua gì má tôi. Hồi đó, khi tui còn nhỏ, Việt Cộng cứ đắp mô hoài, ba tui bắt tui ở lại nhà dì ghẻ để đi học cho an toàn. Tui thương má, đương nhiên tui ghét dì ghẻ. Tui nghe thiên hạ nói dì ghẻ là yêu tinh quyến rũ chồng người nên tui cũng ngầm để ý theo dõi. Dì Ba tui bỏ nhà theo ba tui từ khi còn con gái. Ba của dì không lớn tuổi hơn ba tui bao nhiêu nên ông cương quyết chống đối. Ông đánh và nhốt dì lại. Thế nhưng dì vẫn tìm cách bỏ trốn theo ba tui và làm vợ nhỏ cho đến cuối đời.
Nhà dì có 1 cái tủ đứng mà mỗi lần ba tui ghé nhà ngủ lại, dì trân trọng lấy đồ trong đó ra dùng. Đó là mùng, mền, khăn, gối, áo quần… những đồ dùng cá nhân của ba tôi dì cất riêng ở đó, ướp long não cẩn thận. Mỗi khi ba tui ghé nhà, dì mừng quá đi chợ nấu thức ăn thật ngon vui vẻ nói nói cười cười. Có một lần dì dọn cơm lên mà không có nồi cơm vì mừng quá quên nấu. Cho nên cái nghiệp duyên đó khiến ba tui làm kẻ phụ tình không chung thủy với má tui. Trái tim người đàn ông mềm yếu dễ đi sai hướng. Ba tui cũng vậy tình cảm bị lung lay, người đào hoa suốt đời bị tình lụy.
Không hiểu sao, ba tui kiệm lời lại không biết nói lời hoa mỹ mà đàn bà vẫn bị ông quyến rũ. Sau 1975, khi ông đã trên 70, con cháu 1 bầy vậy mà cũng có người theo. Bà ta lấy lòng từ má tui, chị dâu tui, tui và mọi người để được lân la bên ba tui. Bà ta không ngại làm cỏ vườn, phụ làm cỏ lúa xen canh và nấu thức ăn đem đến tận nhà. Tui hỏi ba tui:
– Sao vậy ba, bộ ba có gì với dì ấy hả?
Ba tui cười cười:
– Ba có làm gì đâu! Ba già sợ đàn bà lắm rồi.
Tui hỏi má tui:
– Sao Má? Má thấy dì ấy thế nào?
Má tui cũng cười cười:
– Già rồi! Hồi xưa không ghen bây giờ còn gì nữa mà ghen. Thây kệ cô ta đi. Ba mày không có gì đâu. Ổng cũng tu rồi.
Đối với con cái ba tui chưa 1 lần nào đánh anh em tui. Hồi còn nhỏ chỉ có má tui đánh con còn ba tui chỉ nhìn và nói mà con cái răm rắp nghe lời. Lớn lên, con cái làm sai, ông ngồi trên ghế, chỉ cái ghế đối diện bảo ngồi xuống và ông nói chuyện. Ông là nghiêm phụ, dạy con bằng chính những gì ông sống và thực hành. Bản thân ông là tấm gương để chúng tôi noi theo. Tất cả những ưu đãi má tui làm cho ông đều do má tui tự nguyện bằng trái tim yêu thương và tôn trọng chồng. Ba tui rất mực thương con nhưng không dùng từ ngữ để nói. Thương vợ nhưng không dùng hành động biểu lộ. Ông có cái uy mà cả nhà đều phải phục tùng kính nể. Tui nhớ ngày tui mới lớn, ngực đã có nhưng má tui nhà quê quan niệm của bà rất ư là cổ lỗ sĩ. Bà may cho tui một miếng vải khá dài và bắt tui cột lại đè cho cái ngực xẹp lép như trong phim mấy người con gái giả trai. Bà nói ngực nhô lên là xấu, đàn ông nhìn vào có tư tưởng không tốt nên phải giấu đi.
Ba tui trái lại, ông nói với má tui:
– Con gái đã lớn, bà đi mua cho nó mấy cái xú chiêng để nó mặc đi học.
Má tui ra chợ, bà mắc cỡ nói nhỏ với chị bán quần áo:
– Lấy cho tui mấy cái xú chiêng.
Bà bán hàng nhìn ngực má tui bán mấy cái size bự của đàn bà đang cho con bú. Tui cầm mấy cái áo muốn khóc, tháo hết nó ra và may nhỏ lại. Cuối cùng có dịp đi Sài Gòn, ba tui mua cho tui mấy cái áo ngực đúng cỡ và một số quần lót. Ba tui là số một của con gái, là chỗ dựa khi tui trưởng thành.
Ngày tui còn nhỏ, Tết đến ông mua cho tui quần áo đẹp, đích thân đeo hoa tai, dây chuyền, kiềng vàng cho tui để tui làm 1 cô con gái nhà giàu. Ông đặt tui ngồi lên bình xăng chiếc xe mô tô đen, ngồi phía sau ông là các anh tui. Ông chở các con về đốt hương bên ngoại. Chiếc xe mô tô nổ máy, ông ngồi lên uy nghi, chúng tôi tự hào biết mấy.
Khi tui bắt đầu đi dạy, ông cất cho tui nhà riêng sát vách nhà dì ghẻ. Tui có 1 căn nhà nhỏ với cửa rèm màu tím của riêng mình. Tui vào hướng đạo, làm thiếu trưởng, mỗi khi đi cắm trại xa, không gặp được ông để xin phép, tui chỉ viết mấy chữ dán ở cửa nhà riêng để báo tin. Vậy mà ông cũng không giận hay la. Ông tin con gái rượu của mình. Tui là niềm vui và tự hào của ba tui. Ngày xưa ông trọng nam khinh nữ. Ông quan niệm con gái không cần học cao. Con gái phải có công dung ngôn hạnh và biết phục tùng chồng. Nhưng sau này ông đã thay đổi, ông lo cho em gái tui ăn học đến nơi đến chốn.
Ngày tui lấy chồng, ba má tui ở vùng xôi đậu nên tổ chức lễ cưới ngay tại nhà tui. Nhóm tráng và thiếu đoàn hướng đạo đến che rạp, chặt cây đùng đình làm cỗng Vu Quy, sắp đặt bàn ghế. Các em nữ sinh tui dạy đến trang trí phòng tân hôn, dán giấy kết hoa. Tui lấy chồng không có rước dâu vì nhà chồng ở tận Quảng Trị. Ba má tui cũng an tâm vì con gái không phải làm dâu, coi như mình bắt rể. Nhưng có ai ngờ rồi tui cũng bỏ ba má tui khăn gói theo chồng.
*****
Kể từ ngày ba tui rước tăng đoàn đến tụng kinh cho bà nội tui trước lúc lâm chung, ba tui dường như hiểu ra hai chữ vô thường. Ông tin Phật Pháp và dốc tiền của công sức tái thiết lại ngôi chùa đã bỏ hoang. Ông cùng các bạn già trang lứa tổ chức lại hội chùa và thỉnh chư tăng về trụ trì.
Ba tui rất cẩn trọng trong việc quy y Tam bảo. Ông đi tìm cho mình 1 vị minh sư mà ông kính phục để làm lễ quy y cho ông. Khi được quy y Tam Bảo và chấp hành Tam Quy Ngũ Giới ông dốc lòng niệm kinh học Phật. Ông tu tại gia và hay lên chùa tụng kinh, nghe pháp. Thật buồn cười, tới già ông vẫn được phụ nữ chiếu cố. Một số các bác lớn tuổi tu học như ông, tôn ông làm huynh trưởng và nhận làm tiểu muội. Ông hay kể cho tui nghe về các vị ấy. Một số theo con cháu ra nước ngoài định cư vẫn thường liên lạc thăm hỏi. Họ chăm chỉ học Phật và rất tôn trọng quý mến ba tui.
Khi má tui mất và tui đi định cư tại Mỹ, trong căn nhà vắng vẻ ông thật sự sám hối và quyết chí đi tu.Anh em tui và 1 bầy cháu nội ngoại hết lòng can ngăn. Các anh tui thấy như mình bất hiếu vì ba đã già không thể chịu được cuộc sống kham khổ của người xuất gia. Thế nhưng ba tui đã quyết và ông xuất thế ly gia, vào chùa cạo đầu làm một Sa Di.
Vị Sa Di già hiền lành ngày ngày niệm kinh học Phật. Ông rất an lạc và được thầy trụ trì các tăng ni và phật tử yêu mến. Anh tui can ngăn không được nên cho con đi theo làm thị giả cho ông nội. Cháu ở bên cùng ăn, cùng ngủ, săn sóc ông mỗi khi đau yếu. Khi ba tui mất, cháu chính thức quy y và bây giờ đã là 1 đại đức với 26 năm tuổi đạo.
Hôm nay là ngày Father’s Day, tôi nhớ ba tui quá nên viết bài này. Đứa con gái ông yêu thương đã là một lão bà, nhưng có lẽ dưới mắt ông tui mãi mãi là con gái nhỏ ông yêu thương chiều chuộng.
Ba ơi! Cỡi hạc ba về với đất trời Bao năm trần thế đã rong chơi Náo nương cửa Phật tìm chân lý Biết rõ trần gian, đạo với đời. Con quỳ bên gối vị Sa Di Cha tôi trưởng lão đã quy y Đoạn ly ái dục đầy phiền não Tâm lành an tịnh sống từ bi. Con gái bây giờ cũng đã già Bao năm lặn ngụp chốn ta bà Đốt nét tâm hương con kính lạy Đức Phật từ bi độ cho cha.
Nguyễn thị Thêm.
THÁI LAN -NHỮNG NHÂN VẬT SỰ KIỆN-THÁNG 7
NHỮNG NHÂN VẬT SỰ KIỆN-THÁNG 7 – Thailan
sưu tầm & dịch
+01/7: Ngày Quốc Khánh Canada, trước đây được gọi là Ngày Dominion, kỷ niệm liên bang của Thượng và Hạ Canada và một số Tỉnh Hàng hải vào Dominion of Canada (lãnh thổ tự trị Canada) vào ngày 01/7/1867.Canada có nền văn minh tổng hợp của người Anh, Pháp và dân bản địa da đỏ. Theo sự phát triển của lịch sử, hiện nay Canada được coi là một quốc gia phát triển và sống hạnh phúc nhất nhì thế giới. Đất nước lý tưởng có môi trường sống trong lành, hệ thống giáo dục tiên tiến, y tế an toàn bảo đảm, kinh tế phát triển và chính trị, an ninh xã hội tốt.======- 1863 – Bắt đầu Trận Gettysburg trong Nội chiến Hoa Kỳ-
Chú thích về trận Gettysburg 01->03/7/1863: (theo wiki)-1/- Trận Gettysburg là trận chiến đẫm máu nhất và được xem là chiến thắng lớn lao nhất của Liên bang miền Bắc trong Nội chiến Hoa Kỳ. Quân Liên minh miền Nam và quân Liên bang miền Bắc đã đánh nhau suốt 3 ngày từ ngày 01/7 đến 03/7/1863 ở trong và lân cận thị trấn Gettysburg, Pennsylvania. Trận này thường được xem là một bước ngoặt quan trọng hơn cả của cuộc phân tranh Nam-Bắc, mà chí ít là một bước ngoặt trên Mặt trận miền Đông, do quân miền Bắc từ sau trận thắng này giành được thế thượng phong-–Quân hai bên mất khoảng 46.000- 51.000 người, khoảng 1/3 tổng số quân tham trận, 28% của Binh đoàn Potomac miền Bắc và 37% của Binh đoàn Virginia miền Nam- 2/- Vào ngày 19/11/1863, tại nghĩa trang quân sự ở Gettysburg, Pennsylvania, giữa bối cảnh Nội chiến, Tổng thống Abraham Lincoln đã trình bày một trong những bài diễn văn đáng nhớ nhất lịch sử nước Mỹ. Chỉ với chưa đầy 275 từ, Lincoln đã khéo léo và hùng hồn nhắc nhở toàn thể công chúng đang mệt mỏi trước chiến tranh về lý do tại sao quân Liên minh miền Bắc phải chiến đấu và giành chiến thắng trong Nội chiến.
=========================
+02/7:
-1881 – Tổng thống James A. Garfield bị bắn và tử thương khi ông vào một nhà ga xe lửa ở Washington, D.C. Ông qua đời vào ngày 19 tháng 9. -1917 – Một cuộc bạo loạn chủng tộc xảy ra ở St. Louis, Missouri, khiến khoảng 75 người Mỹ gốc Phi thiệt mạng và hàng trăm người bị thương. Để phản đối bạo lực chống lại người da đen, W.E.B. DuBois và James Weldon Johnson sau đó đã dẫn đầu một cuộc diễu hành im lặng xuống Đại lộ số 5 ở New York. -1908 – Người Mỹ gốc Phi đầu tiên tại Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, Thurgood Marshall (1908-1993) sinh ra tại Baltimore, Maryland. Được Tổng thống Johnson đề cử, ông bắt đầu sự nghiệp 24 năm của mình tại Tòa án Tối cao vào năm 1967.
+04/7:
___Ngày 4 tháng 7 là Independence Day – Ngày Độc Lập của nước Mỹ khi “Tuyên ngôn độc lập” được ký vào năm 1776. Trên khắp nước Mỹ, lễ thường bắt đầu bằng diễn hành và bắn 13 trái pháo đại bác chào mừng cùng với 13 trái pháo hoa để nhớ thời mới lập quốc chỉ có 13 tiểu bang.(13 sọc trên lá cờ Hoa Kỳ tượng trưng cho 13 thuộc địa đầu tiên, những khu vực đã cùng nhau chiến đấu và giành độc lập khỏi sự cai trị của Anh vào cuối thế kỷ 18. Các sọc này bao gồm 7 sọc đỏ và 6 sọc trắng, được ѕắp хếp theo kiểu xen kẽ, không chỉ phản ánh ѕự đoàn kết giữa các thuộc địa mà còn thể hiện ý chí không khuất phục của người dân trong cuộc chiến giành tự do. Sự kết hợp của các ѕọc đỏ ᴠà trắng trên lá cờ không chỉ có ý nghĩa lịch sử mà còn biểu tượng hóa sự phân chia và kết nối giữa các tiểu bang. Mỗi sọc là một phần không thể thiếu trong tổng thể cấu thành của quốc gia này. Trong suốt lịch sử, số lượng sọc đã không thay đổi, dù số lượng sao có thaу đổi qua từng giai đoạn, nhấn mạnh ѕự tôn trọng và nhớ ᴠề nguồn gốc của quốc gia.) Đây là một ngày lễ lớn đánh dấu nền độc lập của một quốc gia hùng mạnh và giàu có trên thế giới. Người Mỹ thường thích tham dự những cuộc diễn hành long trọng, ăn BBQ nướng, uống bia và đặc biệt là coi lễ hội bắn pháo hoa tưng bừng, rực rỡ. Ngày 4 tháng 7 cũng là ngày lễ hội “Hot dog” lớn nhất trong năm tại Mỹ. Mỗi năm thường có cuộc thi ăn “hot dog” ở New York, có hàng chục ngàn người đến xem và hàng triệu người theo dõi trên TV.
–04/7/1960 lá cờ Mỹ với 50 ngôi sao lần đầu tiên được kéo lên khi Hawaii trở thành tiểu bang thứ 50 của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ vào tháng 8 năm 1959. Lá cờ này được thiết kế bởi một học sinh trung học Robert G. Heft, 17 tuổi. Thiết kế của Heft đã được chọn trong số hơn 1,500 mẫu được gửi đến –
– 1804: -Tiểu thuyết gia và nhà văn truyện ngắn Nathaniel Hawthorne (1804-1864) sinh ra tại Salem, Massachusetts. Các tác phẩm của ông bao gồm; The Scarlet Letter, The House of the Seven Gables và The Blithedale Romance.
– 1826: Nhạc sĩ Stephen Foster (1826-1864) sinh ra tại Lawrenceville, Pennsylvania. Trong số gần 200 bài hát của ông có; Oh! Susanna, Camptown Races, Swanee River, Jeanie with the Light Brown Hair và Beautiful Dreamer. Ông qua đời trong cảnh nghèo đói tại Bệnh viện Bellevue ở New York.
-05 /7/1939 (18/5/năm Kỷ Mão) ông Huỳnh Phú Sổ cử hành lễ khai đạo, lấy tên đạo là Hòa Hảo, ông được tôn là “Đức Huỳnh Giáo Chủ”. Ông đã lấy tên ngôi làng Hòa Hảo, nơi ông sinh ra để đặt tên cho đạo của mình: Phật giáo Hòa Hảo.
+Ngày 6/7/1885 –Louis Pasteur đã thực hiện thành công mũi tiêm vắc-xin phòng bệnh dại đầu tiên cho một cậu bé bị chó nhiễm bệnh cắn.
+Ngày 8/ 7 /1776 – Đại tá John Nixon đọc Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên trước đám đông tụ tập tại Philadelphia.
+10/7:
– 1897: – Nhà văn người Pháp Marcel Proust (1871-1922) sinh ra gần Paris. “Hạnh phúc“, ông viết trong The Past Recaptured, “có lợi cho cơ thể nhưng chính nỗi đau mới phát triển sức mạnh của tâm trí”.
-1973 – Bahamas giành được độc lập sau 250 năm là Thuộc địa của Anh.
+11/7:
– 1767: John Quincy Adams (1767-1848) là Tổng thống thứ 6 của Hoa Kỳ và là con trai của Tổng thống thứ 2, John Adams, sinh ra tại Braintree, Massachusetts. Sau khi chỉ phục vụ một nhiệm kỳ với tư cách là Tổng thống, ông đã phục vụ 17 năm với tư cách là thành viên của Quốc hội. Ông qua đời vào năm 1848 khi đang ở Hạ viện trong cùng căn phòng mà ông đã tuyên thệ nhậm chức tổng thống. Ông là tổng thống đầu tiên có cha cũng từng là tổng thống.
– 1955: dòng chữ “In God We Trust” (Chúng ta tin vào Thượng đế ) được các nhà lập pháp Mỹ yêu cầu phải được in trên tất cả loại tiền tệ của Hoa Kỳ. Dòng này lần đầu tiên được khắc trên đồng xu của Mỹ năm 1864. Dòng chữ “In God We Trust” được in trên tiền giấy Hoa Kỳ.”In God We Trust“, nghĩa tiếng Việt là “Chúng ta tin vào Thượng đế” hay “Chúng ta tín thác vào Chúa”, đây là một tiêu ngữ (motto)của Hoa Kỳ được Quốc hội Hoa Kỳ chọn vào năm 1956. Dòng chữ này xuất hiện đầu tiên vào năm 1957 được in trên mặt lưng tờ tiền có mệnh giá một đô (USD) của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
– 1982, Ý lần thứ 3 vô địch FIFA World Cup 1982. Giải vô địch đá banh thế giới lần thứ 12 đã được tổ chức từ ngày 13 tháng 6 đến ngày 11 tháng 7 năm 1982 tại Tây Ban Nha. Đây là lần thứ 7 giải vô địch bóng đá thế giới được tổ chức tại Châu Âu. – Những cầu thủ Ý quen tên với khán giả Việt Nam ở World Cup 1982 như: Dino Zoff – Bruno Conti – Paolo Rossi-
+12/7:
-1943 – Trong Thế chiến II, tại Trận Kursk, trận chiến xe tăng lớn nhất trong lịch sử đã diễn ra bên ngoài ngôi làng nhỏ Prohorovka, Nga. Khoảng chín trăm xe tăng Nga đã tấn công một số lượng xe tăng Đức đang chiến đấu ở tầm gần. Khi Hitler ra lệnh ngừng bắn, 300 xe tăng Đức vẫn nằm rải rác trên chiến trường.
– 1994 – Tòa án Hiến pháp Đức đã chấm dứt lệnh cấm đưa quân đội Đức ra nước ngoài chiến đấu. Lệnh cấm đã có hiệu lực kể từ khi Thế chiến II kết thúc. Phán quyết này cho phép quân đội Đức tham gia vào các sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và NATO. Vào ngày 14 tháng 7, các đơn vị quân đội Đức đã diễu hành trong lễ kỷ niệm Ngày Bastille tại Paris, đây là lần đầu tiên quân đội Đức xuất hiện ở đó kể từ Thế chiến II.
+14/7:
Ngày 14 tháng 7 là lễ Quốc khánh ở nước Pháp, còn được gọi là Bastille Day – Ngày khởi đầu của cuộc cách mạng diễn ra vào năm 1789 khi ngục Bastille, một biểu tượng quyền lực tối cao của vua chúa (vua Louis thứ 16) đã bị nhân dân phá hủy. Sau đó, chế độ quân chủ độc tài, áp bức bị xóa bỏ. Ngày Bastille được coi là ngày “Tuyên ngôn độc lập” đánh dấu sự thành lập một nước Cộng Hòa Pháp với lá cờ 3 màu tượng trưng cho: tự do, bình đẳng và tình huynh đệ. “La Marseillaise” ra đời năm 1792 và đã trở thành bản quốc ca hùng hồn của nước Pháp vào năm 1795. Cuộc đua xe đạp quanh nước Pháp “Tour de France” cũng được tổ chức vào ngày Bastille, người Pháp rất háo hức theo dõi cuộc đua đầy thú vị này-
Có 3 trong số 5 vị tổng thống đầu tiên của nước Mỹ qua đời đúng vào ngày lễ Độc Lập: John Adams, Thomas Jefferson và James Monroe.
-1912 – Ca sĩ nhạc dân gian và nhà hoạt động xã hội người Mỹ Woody Guthrie (1912-1967) sinh ra tại Okemah, Oklahoma. Nổi tiếng nhất với các tác phẩm This Land Is Your Land, Union Maid và Hard Traveling.
-1913- Gerald R. Ford, Tổng thống thứ 38 của Hoa Kỳ sinh ra tại Omaha, Nebraska, ngày 14/7/1913 (với tên Leslie King). Năm 1973, ông được bổ nhiệm làm phó tổng thống sau khi Spiro T. Agnew từ chức. Ông trở thành tổng thống vào ngày 9 tháng 8 năm 1974 sau khi Richard M. Nixon từ chức. Ông là phó tổng thống và tổng thống đầu tiên không được bầu của Hoa Kỳ.
+ 15/7/1850– Vị thánh đầu tiên của Hoa Kỳ, Frances Xavier Cabrini (1850-1917) sinh ra tại Lombardy, Ý. Bà là người sáng lập Dòng Nữ tu Truyền giáo Thánh Tâm Chúa Giêsu và thành lập các trường Công giáo, trại trẻ mồ côi, tu viện và bệnh viện. Bà được phong thánh vào ngày 7 tháng 7 năm 1946, bởi Giáo hoàng Pius XII.
+16/7:
– 1872: Nhà thám hiểm người Na Uy Roald Amundsen (1872-1928) sinh ra gần Oslo. Ông là người đầu tiên đi thuyền từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương qua Hành lang Tây Bắc. Ông đã khám phá ra Nam Cực vào năm 1911 và bay qua Bắc Cực trên một khinh khí cầu vào năm 1926. Vào tháng 6 năm 1928, ông đã bay từ Na Uy để giải cứu những người sống sót trong một chuyến thám hiểm Bắc Cực của Ý, nhưng máy bay của ông đã biến mất.
-1969 – Nhiệm vụ hạ cánh xuống Mặt Trăng của Apollo 11 bắt đầu bằng việc cất cánh từ Trung tâm vũ trụ Kennedy lúc 9:37 sáng
-1999 – Một chiếc máy bay nhỏ do John F. Kennedy Jr. lái đã cất cánh lúc 8:38 tối từ Fairfield, New Jersey, hướng đến Martha’s Vineyard, Massachusetts. Vợ ông, Carolyn Bessette Kennedy, và chị gái Lauren là hành khách trên chuyến đi dài 200 dặm. Chiếc máy bay dự kiến sẽ đến nơi vào khoảng 10 giờ tối nhưng đã biến mất khỏi radar lúc 9:40 tối. Năm ngày sau, ngày 21/7, sau một cuộc tìm kiếm mở rộng, các thi thể đã được tìm thấy từ xác máy bay ở độ sâu 116 feet nước, cách Martha’s Vineyard khoảng 7 dặm. Ngày hôm sau, sau khi khám nghiệm tử thi, tro cốt của John F. Kennedy, 38 tuổi, vợ ông là Carolyn, 33 tuổi và chị gái bà là Lauren, 34 tuổi, được rải trên biển từ một con tàu của Hải quân Hoa Kỳ, với sự có mặt của các thành viên gia đình, không xa nơi máy bay rơi.
+18/7:
-1947 – Tổng thống Harry Truman đã ký một Sắc lệnh Hành pháp xác định thứ tự kế vị nếu tổng thống mất năng lực hành vi hoặc qua đời khi đang tại nhiệm. Sau phó tổng thống, chủ tịch hạ viện và chủ tịch Thượng viện là những người kế vị tiếp theo. Đây đã trở thành Tu chính án thứ 25 của Hiến pháp Hoa Kỳ, được phê chuẩn vào ngày 10 tháng 2 năm 1967 –
-1918 – Nelson Mandela sinh ra là con trai của một tù trưởng bộ lạc Tembu vào ngày 18/7/1918, tại Qunu, gần Umtata, Nam Phi. Ông trở thành luật sư, gia nhập Đại hội Dân tộc Phi (ANC) năm 1944, cuối cùng trở thành phó tổng thống quốc gia vào năm 1952. Năm 1964, ông bị kết tội phá hoại do tham gia vào cuộc đấu tranh chống chế độ phân biệt chủng tộc. Ông đã dành 28 năm tiếp theo trong tù, nhưng vẫn là biểu tượng hy vọng cho đa số người dân Nam Phi không phải người da trắng. Ra tù năm 1990, ông được bầu làm Tổng thống Nam Phi năm 1994 trong cuộc bầu cử đầu tiên có sự tham gia của tất cả các chủng tộc.
+19/7/1970 – Ngày mất của Chuẩn tướng Bộ Binh Nguyễn Văn Khương của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông sinh vào tháng 10 năm 1924, tại Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Sáng ngày 19/7/1970, ông đi xe Jeep đến khánh thành ngôi trường Tiểu học tại một xã thuộc tỉnh Phong Dinh. Trên đường, xe trúng đạn B40 của VC phục kích tại Rạch Gói, Tầm Vu Hưởng dương 46 tuổi.
+ 20/7:– 1885- tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho chính thức hoạt động, đánh dấu sự ra đời của ngành Đường sắt Việt Nam. Tuyến đường này dài hơn 70 km, mọi vật liệu được chở từ Pháp sang. Do nhà thầu Joret đảm nhận. Công trình này cần đến 11,000 nhân công Pháp và Việt Nam.
-1919 – Nhà thám hiểm Edmund Hillary sinh ra tại Auckland, New Zealand. Năm 1953, ông trở thành người đầu tiên leo lên đỉnh Everest, ngọn núi cao nhất thế giới với độ cao 29.023 ft.
-1954 – Một hiệp định được ký kết tại Geneva, Thụy Sĩ, chấm dứt tình trạng thù địch giữa quân đội Pháp tại Việt Nam và Quân đội Nhân dân Việt Nam.
(theo wiki)Trong giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1956, có từ 885.480 đến hơn 1 triệu người dân từ miền Bắc di cư vào Nam (trong đó có 676.348 – 800.000 người Công giáo, chiếm khoảng 2/3 số người Công giáo ở miền Bắc), và 130.000 người từ miền Nam (phần lớn là lực lượng kháng chiến của Việt Minh) tập kết ra Bắc.[65][66] Lực lượng chính trị của Việt Minh tập kết tại chỗ theo các quy định của Hiệp định.
Năm 1954, sau khi để thua trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, Pháp đồng ý trao trả độc lập cho Việt Nam theo Hiệp định Genève. Sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 được chọn làm ranh giới chia Việt Nam thành hai vùng tập kết quân sự: Quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rút về miền Bắc, quân đội Liên hiệp Pháp rút về miền Nam. Thoạt tiên việc chia thành hai vùng quân sự này không có ý nghĩa về lãnh thổ hay chính trị, và chỉ có giá trị trong vòng hai năm, từ năm 1954 đến năm 1956 rồi sau đó sẽ tổ chức cuộc tổng tuyển cử để hoàn toàn thống nhất đất nước. Sau khi thiết lập ranh giới phi quân sự, theo hiệp định, quân đội Việt Minh từ miền Nam phải tập kết ra Bắc, quân đội Pháp từ miền Bắc phải tập kết vào Nam. Giữa hai quân đội là “Vùng phi quân sự” tính từ 5 ki-lô-mét từ mỗi bên Sông Bến Hải được sử dụng làm “vùng đệm” nhằm tránh sự xung đột (hoạt động thù địch) có thể xảy ra giữa hai quân đội.Nhưng năm 1956, Ngô Đình Diệm, tổng thống Việt Nam Cộng hòa, từ chối không tham gia cuộc tổng tuyển cử cho nên sông Bến Hải tiếp tục chia cắt đất nước và làm ly tán nhiều gia đình ở hai miền Việt Nam. Ngày nay, ở bờ Nam sông Bến Hải có một tượng đài với tên gọi: “Khát vọng thống nhất non sông“. Tượng đài có hình dáng của một thiếu phụ đang đứng ở bờ Nam sông Bến Hải nhìn về phía Bắc để tưởng nhớ những ngày tháng đau thương khi họ không thể vượt sông để gặp chồng và người thân.– 1969 – Khán giả toàn cầu theo dõi trên truyền hình khi Phi hành gia Apollo 11 Neil Armstrong đặt bước chân đầu tiên lên mặt trăng. Khi bước lên bề mặt mặt trăng, ông tuyên bố: “Đó là một bước đi nhỏ bé của con người, nhưng đánh dấu một bước nhảy vọt khổng lồ của nhân loại” –
ông vô tình bỏ chữ “một” trước chữ “con người” (a man: và thay đổi ý nghĩa của câu nói. “That’s one small step for man, one giant leap for mankind”- inadvertently omitting an “a” before “man” and slightly changing the meaning
-1973, là ngày mất của Lý Tiểu Long, tài tử Mỹ gốc Hồng Kông. Lý Tiểu Long qua đời một cách bí ẩn tại nhà nữ tài tử Đinh Phối –
+ 21/7:
-1898 – Guam được Tây Ban Nha nhượng lại cho Hoa Kỳ. -1899 – Ernest Hemingway (1899-1961) sinh ra tại Oak Park, Illinois. Các tác phẩm của ông bao gồm; The Sun Also Rises (1926), A Farewell to Arms (1929), For Whom the Bell Tolls (1940) và The Old Man and the Sea (1952). Được trao giải Nobel năm 1954, ông viết rất ít sau đó, bị bệnh và tự tử bằng súng vào ngày 2 tháng 7 năm 1961.
+24/7:
-1783- “Người giải phóng” Simon Bolivar (1783-1830) sinh ra tại Caracas, Venezuela. Ông được mệnh danh là George Washington của Nam Mỹ vì những nỗ lực giải phóng 6 quốc gia: Venezuela, Colombia, Panama, Ecuador, Peru và Bolivia khỏi sự cai trị của Tây Ban Nha.
-1802- Nhà viết kịch và tiểu thuyết gia người Pháp Alexandre Dumas (1802-1870) sinh ra tại Villers-Cotterets, Pháp. Các tác phẩm của ông bao gồm Bá tước Monte Cristo và Ba chàng lính ngự lâm. -1898 – Phi công người Mỹ Amelia Earhart (1898-1937) sinh ra tại Atchison, Kansas. Bà trở thành người phụ nữ đầu tiên bay một mình qua Đại Tây Dương và bay một mình từ Hawaii đến California. Bà đã tử nạn trong chuyến bay từ New Guinea đến Đảo Howland qua Thái Bình Dương vào ngày 3 tháng 7 năm 1937.
++ 26 /7/1972, Quân lực VNCH dựng cờ trên cổ thành Quảng Trị – Trận đánh kéo dài 81 ngày kể từ khi quân CSBV chiếm vào ngày 1-5-1972 – CSBV tổn thất nặng nề, nhưng đây cũng là trận làm hao-tổn nhiều xương máu nhất trong Quân-sử QLVNCH – Lực lượng Cộng quân khoảng 30,000 đến 40,000 quân từ 3 Sư Đoàn 304, 308 và 325C. – 12:45 trưa ngày 16 tháng 9, lá cờ Việt Nam Cộng Hòa phất phới tung bay trên Tây môn cổ thành, chấm dứt 138 ngày lọt vào tay CSBV.
+27/7:
-1953 – Chiến tranh Triều Tiên kết thúc bằng việc ký kết hiệp định đình chiến giữa các đại biểu Hoa Kỳ và Bắc Triều Tiên tại Bàn Môn Điếm, Hàn Quốc. Cuộc chiến đã kéo dài hơn ba năm
-1987- các nhà thám hiểm đã vớt những hiện vật đầu tiên của con tàu Titanic. Năm 1985, một đoàn thám hiểm phối hợp giữa Pháp và Mỹ do Jean-Louis Michel của IFREMER và Robert Ballard của Viện Hải dương học Woods Hole đã xác định được vị trí xác tàu Titanic dưới đáy đại dương.
+28/7:
1943 – Trong Thế chiến II, một trận hỏa hoạn đã giết chết 42.000 thường dân ở Hamburg, Đức. Trận hỏa hoạn xảy ra sau khi quân Đồng minh thả 2.326 tấn bom và chất gây cháy.-1929 – Jackie Kennedy (1929-1994) sinh ra tại Southampton, New York (tên thật là Jacqueline Lee Bouvier). Bà đã kết hôn với John Fitzgerald Kennedy và sau khi ông qua đời, bà đã kết hôn với ông trùm vận tải biển người Hy Lạp Aristotle Onassis.
++30/7/1863 – Người tiên phong trong ngành ô tô Henry Ford (1863-1947) sinh ra tại Dearborn Township, Michigan. Ông đã phát triển một hệ thống sản xuất theo dây chuyền lắp ráp và đưa ra mức lương 5 đô la một ngày cho công nhân ô tô. “Lịch sử là chuyện nhảm nhí“, ông đã từng nói
++ 31/7/ 1790 – Văn phòng Sáng chế Hoa Kỳ lần đầu tiên mở cửa. Bằng sáng chế Hoa Kỳ đầu tiên được cấp cho Samuel Hopkins ở Vermont cho một phương pháp mới để sản xuất xà cừ và kali cacbonat. Bằng sáng chế được George Washington và Thomas Jefferson ký –
GS/TS MAI THANH TRUYẾT: Quán Chiếu 50 Năm Khát Vọng Tự Do – Người Việt Và Tương Lai Dân Tộc Trong Thế Kỷ 21- Kyle Rittenhouse: Thiếu niên Mỹ.
KIỀU MỸ DUYÊN – CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA -ANA REAL ESTATE JUNE 11 2025.
GS/TS MAI THANH TRUYẾT: Tản Mạn Về Ngày Cách Mạng 10-6
KIỀU MỸ DUYÊN – CHA ƠI, CON THƯƠNG CHA LẮM!
YÊN SƠN – GIỚI THIỆU TRANG VĂN HỌC THƠ NHẠC YÊN SƠN (VietLife TV, June 06th. 2025)
THƯ ĐÔNG KINH THÁNG 6 – ĐỖ THÔNG MINH
CAO MỴ NHÂN – VĂN: HUYỀN THOẠI 12 – 6. Đóa Hoa Vô Ưu- Và Chùm THƠ Cao Mỵ Nhân.
HUYỀN THOẠI 12 Tháng 6
Cao Mỵ Nhân
Có thể nói không bài thơ hay nào không phải của một thi sĩ giỏi. Và không thi sĩ giỏi nào không có một huyền thoại đẹp.…
Thí dụ sáng giá nhất là huyền thoại Tố của Hoàng ơi của thi sĩ lãng mạn Vũ Hoàng Chương, nhà thơ tình cảm bão lũ mưa cuồng. Thoạt nghe thì khó chịu như bị nội thương ngoại cảm nhưng đọc lâu rồi thì có vẻ khách thơ cũng lặng yên, thở dài thương cho một mối tình tưởng thấp thoáng, hoá trầm kha, nan y chi lạ.
Giai thoại thơ Tố của Hoàng ơi có hai bài chính:
Mười Hai Tháng Sáu
Tố Của Hoàng Ơi
Tìm một ý có vẻ giới thiệu cuộc tình thơ của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, cứ như là giận lắm mối duyên gãy đổ của mình, nhà thơ viết:
Năm mười hai tháng, ai không biết
Đã tháng nào không tháng sáu chưa?
Đây là hai câu trong một đoạn thơ ở bài sau, Tố của Hoàng ơi, tác giả viết năm 1972, còn khẳng định thời gian đã trên 30 năm không có Tố, tức là khởi sự Tố với Hoàng kết thân khoảng từ 1950 đến 1952.
Bây giờ đi vào chi tiết.
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương (5/5/1916 – 6/9/1976) vừa xong hoa giáp thì ra đi vào cõi mịt mù, sau cũng cả năm trời bị nhốt trong khám Chí Hoà vì là một nhà thơ trí thức tiểu tư sản, lẽ nào bạo quyền duy vật để cụ yên.
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương cùng với thi sĩ Đinh Hùng (1920 – 1967) em cụ bà Vũ là hai nhà thơ lãng mạn nổi tiếng một lượt với các thi sĩ tiền chiến Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, nhưng nhị vị đương nêu không theo cộng sản mà đã di cư vào Nam năm 1954.
Vô Nam, thi sĩ Đinh Hùng thành lập ban Tao Đàn, tiếng nói thơ văn miền tự do cùng với quý ông Thanh Nam, Văn Quang, Thái Thuỷ, v.v.. Thi si Vũ Hoàng Chương thì đi dạy học ở Sài Gòn.
Song có điều lạ là các thi sĩ lớn ở đâu cũng vậy, người ta tức là đông đảo độc giả, thính giả thường ưa nghe huyền thoại của nhà thơ hơn là theo dõi hành trình thơ đã tiến tới đâu.
Có khi những đoạn đời sau cũng có những điều riêng tư đáng ngợi ca nhưng độc giả vẫn cứ quen thuộc huyền thoại, đến không quên một chi tiết nhỏ.
Thí dụ nhắc tới thi sĩ Cung Trầm Tưởng là lập tức khách thơ nói ngay: Lên xe tiễn em đi, chưa bao giờ buồn thế… Nhắc tới thi sĩ Đinh Hùng thì cứ đánh thức hồn mà dậy…
Và ngay với cụ Vũ Hoàng Chương thì Chúng ta mất hết chỉ còn nhau, cũng khuôn vàng thước ngọc, nhưng xem ra thua kém Tố của Hoàng ơi hẳn.
Do đó huyền thoại này là bất biến với nhà thơ. Tố của Hoàng ơi cứ lừng lững năm này qua năm khác đi vào những khúc quanh thơ ca Vũ Hoàng Chương.
Mười hai tháng sáu
Mở màn cho thiên hạ thấy tình sử, bốn khổ thơ đầu khổ nào cũng có Tố của Hoàng ơi theo thứ tự:
Tố của Hoàng ơi, hỡi nhớ thương…
Tố của Hoàng ơi, Tố của anh…
Tố của Hoàng xưa, Tố của tôi…
Tố của Hoàng nay, Tố của ai…
Tiếp tới bốn đoạn sau của bài thơ tám khổ ấy chỉ toàn hò, xừ, xang, xế với danh tính Kiều Thu.
Vậy Kiều Thu là nhân vật nào nữa đây?
Xin thưa Kiều Thu lẫn lộn trong hò, xừ, xang, xế mà thôi. Kiều Thu hề Tố em ơi có nghĩa Kiều Thu chính là Tố vậy.
Kiều Thu hề Tố em ơi
Ta đang lửa đốt tơi bời mái Tây
Hàm ca nhịp gõ khói bay
Hò, xừ, xang, xế, bàn tay điên cuồng…
Nếu huyền thoại chỉ bấy nhiêu thì thật quả câu chuyện chỉ là trách móc, rồi dùng hò, xừ, xang, xế… xênh phách cho quên đời.
Nhưng có một đoạn thơ như bật cái điều bí mật ra, thi sĩ Vũ Hoàng Chương nói thẳng cho những ai muốn biết:
Huyền thoại Tố của Hoàng ơi chỉ là một cuộc tình cuồng, tình si không hơn không kém. Không vì một lý do to lớn nào hay một chuyện tình lồng trong một sứ mệnh gì của sơn hà xã tắc chẳng hạn. Chỉ là tình buồn, mãi mãi tình buồn…
Men khói đêm nay sầu dựng mộ
Bia đề tháng sáu, ghi mười hai
Tình ta ta tiếc, cuồng ta khóc
Tố của Hoàng nay Tố của ai?
Tố của Hoàng ơi
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương với hơn 30 năm nỗi oan hờn, ẩn ức không thể một mình ấp ủ được mãi.
Không lý chuyện tình cảm riêng mà bắt vợ con gia đình chia sẻ? Nỗi đau trở thành mối thù ma quái vì sự thực Tố đó không chết mà vẫn sống trong dằn vặt, oan khiên, cay đắng của một nhà thơ lớn mà cứ phải lụy tình một người…
Nên tới năm 1972, đúng ngày 12 tháng 6, cụ làm một bài thơ bảy khổ tứ tuyệt lấy hẳn tựa đề Tố của Hoàng ơi.
Bài thơ này gần như bạch hoá mối tình cuồng si, mê loạn trong hơn 30 năm.
Có thể trên cương vị một người làm thơ, dù mê đắm tới đâu, tôi nghĩ với thời gian dài dằng dặc hơn 30 năm bao tang thương đó, tình cảm cũng đứng lại. Dù Tố của Hoàng đẹp tới thế nào cũng không là tiên, là Phật trong tranh để trẻ mãi không già.
Một dịp hội thơ đầu thập niên 80 thế kỷ trước tại Uyển Đình, tư thất của nữ sĩ Uyển Hương, cũng vào một ngày tháng 6 năm 1982, tình cờ tôi lại ngồi cạnh nữ sĩ Đinh Thị Thục Oanh, phu nhân của thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã quá cố, đồng thời là hiền tỷ cố thi sĩ Đinh Hùng…
Nhị vị thi sĩ lớn quá, dễ gây ấn tượng.
Bất giác tôi ngó nữ sĩ Thục Oanh, mỉm cười: Tố của Hoàng ơi đâu rồi chị?
Nữ sĩ Đinh Thị Thục Oanh cũng hài không kém, bèn đổi giọng nói kiểu… thơ:
Tố của Hoàng xưa, Tố đã già… rồi.
Mừng quá, tự dưng biết tin Tố của huyền thoại cụ Vũ, tôi ỡm ờ: Biết rồi, nhưng Tố ở đâu xa?
Tất nhiên, nữ sĩ Đinh Thị Thục Oanh cũng đẩy xa câu chuyện vào huyền thoại cho đẹp mãi tình phu, nghĩa phụ cụ Vũ cùng Đinh nữ sĩ trong văn chương lẫn ngoài cuộc sống bình thường vậy.
Hoá cho nên, yêu đây là yêu cái dĩ vãng thôi, phải xoá trắng cái dĩ vãng mới gọi là không còn dính líu tới nhau:
Tháng có 30 ngày để giết
Ngày 12 vẫn sống như xưa
Hay:
Còn đó 12, còn tháng 6
30 năm lẻ vẫn chưa vừa…
Đã đến lúc tình yêu thương trở nên nghiệt ngã, hằn học, cực đoan… Thi sĩ Vũ Hoàng Chương trở thành độc đoán, dằn vặt giai nhân Tố:
Ngày mai, ngày mốt, anh nằm xuống
Ngọc đọng cơn sầu nửa kiếp thơ
Đập nát ra cho trời đất uống
Thì em sẽ rụng khỏi đêm mờ…
Đoạn trên mới chỉ khai vị, chưa uống được cái cơn say tàn nhẫn hơn nữa bởi vì bị khựng lại do trong tâm khảm người bị thất tình vẫn còn lại chút gì để tiếc nhớ.
Tới giai đoạn những gì quý giá, ân tình nhất đã bị gạt đi, chỉ còn lại hai sự kiện để chọn lựa là hy sinh hay thù hận, mới quên được người tình hay cuộc tình.
Thi vương Vũ Hoàng Chương có lẽ vì mất mát tình cảm nhiều quá nên không thể cho thêm, hay mất thêm:
Mười hai tháng sáu, cung Hồ, Xế
Một mối tình si, một mối thù
Giây phút cũng tan thành suối lệ
Trả cho cát bụi nhé Kiều Thu.
Độc giả, thính giả tưởng rằng mối tình si đã biến thành mối tình thù không sao gỡ được.
Nhưng như tôi đã trình bày ở trên, sau 30 năm nhà thơ vẫn có thể viết tiếp những vần điệu cũ để tô điểm thêm cho huyền thoại, tưởng như thất thoát, mà cũng được đền bù.
Huyền thoại Tố của Hoàng ơi âm hưởng phảng phất những chuyện tình buồn trong cổ tích, ngoài dân gian ở bất cứ nơi đâu và thời gian nào…
CAO MỴ NHÂN
**
ĐOÁ HOA VÔ ƯU. CAO MỴ NHÂN
Không biết cây vô ưu cao thấp to nhỏ thế nào, nên cành vô ưu cũng là trong tưởng tượng đối với tôi, xin quý vị tha lỗi cho một kẻ tò mò, ham hố, nhưng đầy thiện chí.
Nhưng hoa vô ưu thì hình như tôi có vài lần thấy thấp thoáng trong tâm tưởng…
Đóa hoa ấy không rõ nét, lại càng không thấy mầu sắc rõ ràng…nó mơ hồ thoắt ẩn, thoắt hiện, trên trang giấy khói hương, hay là ở một không gian nào huyền ảo khó nhận ra được nơi đâu trên thế gian này…
Tôi cứ bâng khuâng, rồi lại băn khoăn tự hỏi: ” Hay là mình hệ lụy quá, nên không được hưởng phút giây thanh thoát cao vời, thưởng lãm hương vô ưu đang ngạt ngào tỏa khắp đó đây …
Nhưng phải năng đến chùa, có đến chùa không mà đòi thấy hoa vô ưu chứ.
Cũng đến nhưng không thường xuyên.
Hôm xưa về Già Lam, bạn đạo dắt tới một gốc cây thật to, lối cổng đi vào Chùa, bên tay phải, bảo rằng đó là cây bồ đề.
Mình nhìn kỹ cây bồ đề, tưởng tượng Phật tổ ngôi ngay ngắn, thẳng thớm dưới gốc cây bồ đề, ở xứ Phật xa xôi…
Mình lén hỏi: ” Còn cây vô ưu chỗ nào, xin chỉ cho tôi biết với”
Người bạn đạo chợt nghĩ chắc tôi không phải Phật Tử mới hỏi dớ dẩn thế, bèn nhìn tôi từ đầu xuống chân, ăn mặc tầm xoàng, hỏi sao tới chùa mà không mặc áo tràng, còn ngơ ngẩn thăm hỏi …tào lao .
Làm gì có cây vô ưu, đóa hay hoa vô ưu thôi chớ, sao hỏi lôi thôi vậy, may mà không gặp thầy, đóa hay hoa vô ưu luôn nở trên tay Phật.
Hoa vô ưu từ lòng Phật, tâm Phật mà ra …
Phải tu tâm, dưỡng tính, ngay lành, từ bi hỉ xả…nghĩa là phải tôn trọng, thanh tịnh ghê lắm mới thấy được hoa vô ưu ấy.
Thế thì …lâu quá, làm sao thấy được ngay …
Ô hay, nội cái tính nôn nóng của chị, đã cho mọi người thấy, và cả bản thân chị cũng thấy không có hoa vô ưu trong tâm hồn, trong tư tưởng chị rồi.
Thế phải làm sao ?
Phải chấm dứt ngay sự việc nôn nóng, vội vã, tồn tại trăm thứ suy nghĩ trong đầu óc chị, mới …vô ưu được chớ, phải không, thử nghĩ xem…
Bạn đạo cười: ” Tự mình sẽ tìm thấy hoa vô ưu đó, xưa tôi cũng vậy, nhưng bây giờ thì đóa vô ưu đó luôn tươi tốt trong lòng tôi đấy “.
Bạn đạo lẻn đi mất, còn mình tiếp tục hoang tưởng, giữ mãi cái trạng thái đó lênh đênh về nhà.
Vô ưu ? Là không ưu tư, không suy nghĩ, không buông mình theo những tạp niệm vô cớ, vô tình …mà xả bỏ hết, đạt tới tuyệt đỉnh của chữ vô: vô ưu.
Chắc cũng…khó lắm, nhưng phải kiên trì, phải nhìn tấm đại gương, coi mức chiếu sáng tới đâu, để phẩm chất tiến tới, không quá lố, vì tính chất vô ưu trước nhất phải tự nhiên.
Anh mỉm cười lửng lơ, một chút khôi hài, vì anh biết mình đã từng nhận một vài ” công tác ” với đám đông, trong sinh hoạt xả bỏ, nhưng phải hỉ xả, nghĩa là cho đi, vứt đi một cách vui vẻ …chớ đừng chấp nhận như bắt buộc.
Nhưng chính mình cũng thoáng chút nghi ngờ, sự cố gắng làm việc thiện, lại không phải cho đối tượng tha nhân cần thiết, mà là cho bản thân người muốn đi ban phát.
Tôi có thể chứng minh với quý vị, một nhà thơ nữ bậc chị của tôi về tuổi tác, đã bất bình câu nói …trung thực mà tôi không cảm thấy hối hận, rằng : ” Từ bi chỉ có ở trong chùa ” .
Tại sao tôi lại nhận định vậy ? Vì quả thực tôi đã chứng kiến nỗi giận, hay phải nói là cuộc giận của bà chị nêu trên.
Bà đã gạt phứt những lý luận của mọi người đóng góp về danh xưng và danh nghĩa ” từ bi hỉ xả “, cứ cho là mình đúng vì mình, là họ không phải tôi, đã ở chùa suốt thời gian 24/24 giờ, 7/7 ngày một tuần, chỉ vì muốn xả hết, nhưng cứ gây cho người khác ấn tượng sân khiếp đảm của bậc …chân tu.
Thành ra áo không mặc qua khỏi đầu là đúng, các cụ cố dân tộc ta, ít có dịp đánh giá sai con người:
Thứ nhất là tu tại gia
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa .
Bây giờ đã nhiều nhân vật tiếng tăm một thời qua đời rồi, nhưng quả ” ngựa chết để da, người chết để tiếng “, tôi có thời quen thân với quý phu nhân của các thi sĩ nổi tiếng như nữ sĩ Đinh Thị Thục Oanh hiền thê của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, rồi phu nhân của thi sĩ Đinh Hùng.
Quý bà nêu trên thực sự ” từ bi hỉ xả ” đến nỗi hàng chục ( tôi không dám nói hàng trăm ) giai thoại tình trường của nhị vị thi gia lớn, mà có gây điều tiếng gì trong gia đình quý vị đó đâu, nếu không phải quý phu nhân ” từ bi hỉ xả ” à ?
Nhưng có một nghĩa cử cao đẹp, mà chúng ta cũng nên biết về tấm lòng” từ ” cùng với nghĩa ” xả ” mà người nghệ sĩ diễn ngâm hàng đầu của Tao Đàn, Tiếng nói thơ văn miền nam tự do, đó là nghệ sĩ Hồ Điệp, một lần chị rủ tôi đến cuối đường Trương Tấn Bửu nối dài, Phú Nhuận, để thăm xã giao cụ thi sĩ Đường luật Như Ý.
Tôi thấy chị Hồ Điệp ôm khư khư một gói giấy báo trước ngực. Tôi hỏi chị mang gì vậy ? Chị bảo: ” Đó là mấy cái áo tuy cũ nhưng bà hai cụ thi sĩ Như Ý thích lắm, chị đem biếu bà ấy”
Sau 30-4-1975, dẫu cho ở Saigon xa hoa, sang giàu, nhưng nhà nào cũng kiệt quệ vì chủ nghĩa vô sản đó, 2 con trai nữ nghệ sĩ Hồ Điệp over sea tới Mỹ, chưa có tin tức, chị vẫn chia cho bạn gái niềm vui, dù thiếu thốn.
Bà bé lịch kịch chùi soong dưới nhà ( rửa chén, nồi niêu …) Tất nhiên chị tặng bà bé của cụ thi sĩ nêu trên .
Tôi chẳng có ý tán rộng danh tính ” vô ưu” qua sự việc tầm thường nhất . Song, để đạt tới tiến trình “vô ưu” đôi khi dễ mà khó, hay ngược lại .
Cái tâm là chính, nếu vô tâm, vô tính, vô lý, vô lễ …thì cũng gian nan mới tới được bờ giác . Phải ở bờ giác mới đạt được 2 chữ ” vô ưu”.
Đồng thời theo thiển ý của tôi, có mon men tới được bờ giác cũng mệt nghỉ…
Thế nên, với tôi thôi, tràn đầy say đắm, mê si…để làm thơ, thì chắc chẳng thấy được đóa vô ưu nở hoa trên tay Đức Phật, Đấng chủ thuyết ” từ bi hỉ xả ” cho đời bớt chuyện khổ tâm , xây dựng hành trình ” vô ưu” để tự cứu mình ra khỏi …bản ngã phức tạp, mê lầm suốt kiếp …
CAO MỴ NHÂN
==
CHÙM THƠ CAO MỴ NHÂN
**
HOA QUỲNH MÙA HẠ. CAO MỴ NHÂN
Hoa quỳnh nở mùa hạ
Lạt tựa nụ hôn phai
Em tô mầu phấn má
Cho tươi thắm lòng ai
*
Nhưng hương quỳnh đã tan
Chậu cây xanh héo tàn
Đoá quỳnh buồn rũ cánh
Anh về chở nắng sang
*
Chẳng còn gì cho em
Đoá quỳnh không thức giấc
Mầu hoa vàng võ thêm
Anh buồn se ánh mắt
*
Lệ em cũng vừa rơi
Gọi sầu trong tiếng hát
Tình thoáng vụt chơi vơi
Có gì như mất mát …
CAO MỴ NHÂN
**
SẦU M. CAO MỴ NHÂN
Ta về gom hết vần thơ cũ
Đọc lại, xem buồn lên tới đâu
Tình vẫn đầy vì chưa rạn vỡ
Ý còn vui hẳn chẳng hờn đau
*
Nhưng sao khói toả phai hàng chữ
Để mãi sương bao đậm cõi sầu
Có viết ngàn chương, thì cũng vậy
Từ xưa và tất cả … thời sau …
*
Hawthorne – Đại hạn Utah.
CAO MỴ NHÂN
**
SẮC HẠ. CAO MỴ NHÂN
Ngó nghiêng thấy được bầu trời
Cũng nghiêng như thủa để rơi mất cờ
Từ phen chất ngất đỉnh thơ
Ánh vàng chiếu rực rỡ bờ đại dương
*
Chiều hoang nắng chiếu tơ vương
Đưa tay kéo áo khói sương che buồn
Núi sông sắc hạ đọng hồn
Bâng khuâng thấp thoáng mộng còn đây kia
*
Làm sao tình cạn mộ bia
Cuối đời lệ đổ sầu chia đôi hàng
Rằng ta vẫn khách quan san
Em ơi, nán gọi hạ mang nắng về …
*
Lẽ nào tình muộn sơn khê
Cờ bay khắp chốn nắng thề vàng hoa
Trở mình, trời đất bao la
Hình non, bóng nước vỡ oà hạ ơi…
CAO MỴ NHÂN
**
CƠN MƯA MÙA HẠ. CAO MỴ NHÂN
Cơn mưa mùa hạ thật buồn
Như khi thu tới, hay còn tiếc xuân
Bởi vì mưa hạ bâng khuâng
Như khi anh bỏ tình nhân xa rời
*
Một khung kỷ niệm thiếu thời
Chúng mình ngồi đếm mưa rơi bạt ngàn
Ôi mưa mùa hạ lỡ làng
Giơ tay che mặt hai hàng lệ tuôn
*
Mấy mươi năm ướt át hồn
Hong khô từ độ anh còn cạnh em
Bây giờ mùa hạ buồn thêm
Vì mưa mang cả nỗi niềm sầu đau
*
Mưa làm nát ngọc, tan châu
Đêm đi càng nhớ lời nhau giã từ
Mưa ơi, mưa đến bao giờ
Xoá xong hình ảnh trong thơ mê cuồng…
CAO MỴ NHÂN
**
THĂM MỘ LÍNH XƯA . CAO MỴ NHÂN
Em về giữa buổi bình minh
Tươi như máu đổ trên hình người xưa
Cả không gian bỗng tiễn đưa
Hồn chinh phu trải gió mưa nơi này
*
Chiến trường cạn chén riêng tây
Tình yêu nước đã khô bay mộ chàng
Trao anh nguyên sắc cờ vàng
Này đây, tất cả lỡ làng quê ta
*
Em về câm nín xót xa
Sau lưng lạnh toát hồn ma tượng đài
Bó nhang chợt tắt u hoài
Nắng hong nỗi nhớ ngang trời Tiếc Thương
*
Thôi anh, tóc rối tơ vương
Vòng tay buông lỏng nghe hương khói tàn
Một mình thương tủi vô vàn
Buồn ơi mộng mị quan san bái từ …
CAO MỴ NHÂN
THẾ HỮU VĂN ĐÀN – Firmament JULY 2025.
Lời Giới thiệu:
Dear Friend and Reader,
Long-term memory clings like a barnacle to the mind, consciousness, or brain, I don’t know which, but gustation and olfaction appear to cling just as tenaciously to long-term memory as barnacles, and allow this French novelist to produce 1.5 million words of adorable reminiscences of the past, and the humanist Nguyễn Bảo Hưng to comment with profound thoughts of his own, having benefited as student from his professor at Sorbonne, who happened to be an expert on this writer. The Vietnamese language sure is a curious invention. It takes a lowly number such as one or three, and combine it with other words to form everyday idiomatic expressions of incomparable color and wit. We owe it to this one-of-a-kind researcher Nguyễn Ngoc Hà and her unbounded scholarship to bring them to light. You know Hoàng-Tâm Hilton as a Zen meditation guru, but did you read her collection of actionable tips and applicable quotations for those in their golden years? You’ll be glad to heed what she brought to you. What’s seven years compared to 50? A fraction, but to Yên Sơn it’s might as well be a lifetime. His comparatively short stint of the former VN Air Force is an obsession he can’t live down. This time he describes the Apocalypse. Engineers are such a protean category of beings! Take Nguyễn Giụ Hùng, for instance. He delves into the minute detail of the classical examination regime of old Vietnam (a sequel), travels to the must-see Perfume temple (another sequel), and fools around with a literally tongue-in-saliva licking stamp society. Or the intrepid philologist Nguyễn Văn Ưu who eats language theoretic controversy for lunch every time. However, this time he approaches etymology in a noncontroversial way. Or Phí Minh Tâm–you have to gently slap him on the wrist before he admits it–is a dyed-in-the-wool lover of Chinese poetry, particularly that in the famed Tang period. If a picture is a thousand words, then what is a graph? It’s mouthwatering frosting on a scrumptious cake. Physicist turned computer application developer in chief Trương Thiệu Hùng proposes to train you in the art and science of developing graphs for all purposes. So hurry, no, fly to his tutorial before somebody beats you to it.
The ecologist Thái Công Tụng worries about pollution in air, water and soil as well as sustainable development. He shows that development and ecology are intertwined. He digs deep into the river system in North Vietnam to point out environmental issues to address before it is too late. Scholar Nguyễn Cẩm Xuyên depicts the resurgence of the game of Zen parallel sentences written in Chinese characters on paper, which offer endless entertainment value, all depending on brush strokes. This time the topic is “bamboo.”
Move over Dean Koontz, Steven King, Dan Brown. Here comes Nguyễn Tuấn Huy. Our newly-minted suspense writer is offering the second episode of Black Society involving a female character. It’s quite compelling read. Cao My Nhân is being mysterious in claiming somebody she knew was over 100 years old and sand in the desert is indecipherable ! The master psychodrama Linh Vang is back to mystify us with a trip back to the old home. Sigh! As an incorrigible romantic, Kim Oanh‘s life is a string of Valentines. Out West Phương Hoa was having a ball with an award event for the Overseas Youth, which is quite a spectacle to behold. And from Melbourne, Võ Thị Như Mai sent a cornucopia of short gems of bite-sized prose, each with its own irresistible charm.
Up in Parnassus, Nguyễn Ngọc Hà reminds me of Verlaine. Both wrote in French. I love the rains in both. Verlaine’s rain is hauntingly melancholy without an iota of relief while Hà’s is unabashedly philosophical. Hers is a deep sense of rejection, of life’s treachery and indifference while her heart aches with compassion for lonely souls. Võ Thị Như Mai lavishes us with rich poems from The Rhythm of Vietnam. Kim Oanh is nothing but unrelenting love, all-season love, crazily tender love. Cao My Nhân is lost in lost love and inconsolable. Return to Phan Khâm is a journey of futility. The spirit of Valentine has made Phương Hoa a captive with a heart full of compassion. The long-absent Khuất Duy Tường did it again, this time with translation into polished French of two of the most beloved poems of a late poet-philosopher who was also his teacher. I am speechless in witnessing so much beauty in such a confined space.
Moliere’s comedy-ballet The Middle-Class Gentleman, Le Bourgeois gentilhomme is sympathetic with this incorrigible social climber who meant no harm. No doubt the ballet would be a relief though invisible to the reader. The play ends with this installment. In Letters from Vincennes space, Thomas Le is a lost soul in the maze which is the infamous triad of mind, consciousness, and brain. As a stroke survivor. he will never give up pursuing an understanding of the trio. In the Critical Thinking section he tries to understand human stupidity, by way of persuasion, manipulation and propaganda.
Firmament thrives when widely read and shared with pride. It’s your brainchild, contributors and readers alike. So, spread it far and wide. Good reading! ■ Thomas D. Le, Editor, April 2025
KIỀU MỸ DUYÊN – BINH CHỦNG BIỆT ĐỘNG QUÂN MỘT THỜI HÀO HÙNG.
CHÙM THƠ CAO MỴ NHÂN
THỦA BAN ĐẦU – CAO MỴ NHÂN
*
Trời không nắng, không mưa
Ngày không mới, không xưa
Chỉ có tình thay đổi
Ta đã chán nhau chưa
*
Sao anh lại lặng thinh
Biết em khổ vì tình
Suốt đời thương với nhớ
Suốt đời hờn giận anh
*
Mong manh một nỗi buồn
Bình minh tới hoàng hôn
Mắt xanh tràn sóng biếc
Lệ chảy ngập đại dương
*
Em vô thay áo vàng
Sắc áo đẹp cao sang
Hồn mang sầu vời vợi
Lòng sao phủ tóc tang
*
Lênh đênh tàu trở về
Biển mây thả đam mê
Vòng tay anh xiết chặt
Nối ngàn dặm sơn khê
*
Vẫn còn thiết tha nhau
Từ kiếp trước, đời sau
Vẫn bao la tình mộng
Yêu dấu thủa ban đầu…
Rancho Palos Verdes 24 – 5 – 2025
CAO MỴ NHÂN
==
TRONG MƯA SÀI GÒN. CAO MỴ NHÂN
*
Tàn dư một cuộc tỉnh say
Xếp vô hành lý đã đầy tình em
Sao không đón giấc êm đềm
Mà như xóa vội nỗi niềm dở dang
Ta về đứng giữa tan hoang
Ưu tư vừa cạn lại mang nỗi buồn
Đêm qua chợt thấy trong hồn
Không còn hình ảnh trăng tròn ngày xưa
*
Sáng ra vuốt tóc nàng thơ
Bụi hoàng kim đọng bơ thờ niềm riêng
Thầm mong một chút thần tiên
Cho ta có lại lòng tin thủa nào
*
Trời mưa ơi hỡi nguồn đau
Bỗng tan thành lũ dâng trào tâm tư
Mai sau chỗ đợi, nơi chờ
Sẽ phai mờ dấu hẹn hò hôm nay …
CAO MỴ NHÂN
24 – 5 – 2025
==
NÚI MÙA XUÂN VÀO HẠ. CAO MỴ NHÂN
*
Trên rặng “Núi mùa xuân “
Có người tình trăm năm
Đưa thơ về Thiên cổ
Cùng nỗi buồn xa xăm
*
Người tình luôn dấu mặt
Nhưng nhân dáng tuyệt vời
Khiến ta mang nỗi khổ
Đi tít tắp mù khơi
*
Núi mùa xuân vào hạ
Nồng nàn nhớ thương mây
Ngó tri âm như lạ
Nghe thao thức đêm ngày
*
Tháng năm buồn tuổi mộng
Nguội dần khí phách xưa
Sông hồ tan ước vọng
Ta đợi người đã trưa
*
“Núi mùa xuân” che chở
Mộng mị gởi gió sương
Từ đây và mãi mãi
Ủ tình ấm …một phương …
CAO MỴ NHÂN
==
CON CHIM BAY LẠC. CAO MỴ NHÂN
*
Tiếng hót buồn của con chim bay lạc
Ảo não, bi thương
Tiếng súng buồn của người thua trận mạc
ở cuối sa trường
*
Chim nhớ rừng
Người nhớ bạn
Nắng võ vàng xao xác trên đường
Thê lương, buồn nản
*
Những con quạ hoang thì thào trong tổ
Trên cành cao rầm rì lá thở
Con chim lạc xếp cánh lặng yên
Trong lùm cây sương khói phủ im
*
Nhói buốt trong tim
Giờ đã vào đêm
Đón giấc cô miên
Tiếng hót con chim lạc nghẹn ngào, tắt lịm…
*
CAO MỴ NHÂN
==
ĐOÁ HOA SEN. CAO MỴ NHÂN
*
Bông sen hổ thẹn vì bùn
Làm tanh gốc rễ, lại còn bủa vây
Dù cho sóng nước dâng đầy
Sen vươn xa khỏi tháng ngày tù câm
*
Nhìn hoa tươi mát dáng thân
Sắc hoa trắng,đỏ, vàng, tâm ngọc ngà
Sen từ bùn đọng vượt ra
Đời ưu ái đắp kiêu sa cho người
*
Hoa từ cùng cực lên ngôi
Người từ quý phái vào đời khổ đau
Thế nhân vương nỗi muộn sầu
Hương chan chứa tỏa ngát màu kệ kinh
*
Sen hoa che phủ ảnh hình
Xếp trong hành lý u tình nước non
Mai sau sương lấp nẻo mòn
Đăng cao mây khói lượn vờn cõi tiên…
CAO MỴ NHÂN
==
BÂY GIỜ. CAO MỴ NHÂN
*
Bây giờ đứng trước gương soi
Tay vun tình tự trên môi hẹn hò
Không gian thầm lặng vô bờ
Khói sương nơi ấy, là thơ chốn này
*
Ngôi nhà giữa núi sông đây
Mái trăng, nền cỏ vương đầy châu thân
Lệ mừng hạnh ngộ trăm năm
Còn chi lầm lạc để thần thoại đâu
*
Anh về tình đậm nghĩa sâu
Bỏ trang cổ tích nát nhàu lưu vong
Nửa đời đã gởi hư không
Giờ hoang liêu tóc bềnh bồng sắc mây
*
Ố ô, thì vẫn đắm say
Bật cười đôi chút heo may nhớ người
Dẫu đang cuối biển chân trời
Cứ xin dệt mộng cho đời điểm trang…
CAO MỴ NHÂN
HOÀNG MAI NHẤT -LỄ MEMORIAL DAY HOA KỲ (26/5/2025) tại WAR MEMORIAL PARK IN TACOMA, WASHINGTON STATE.
LỄ MEMORIAL DAY HOA KỲ ( 26/5/2025 ) tại WAR MEMORIAL PARK IN TACOMA, WASHINGTON STATE.
Sau buổi Lễ Tưởng Niệm 50 Năm Quốc Hận (30/4/1975 – 30/4/2025) tổ chức tại Tổ Đình Việt Nam TP Seattle, TB WA. Có sự tham dự của vị Đại Tá Hải Quân HK và các cựu chiến binh Hoa Kỳ ở chiến trường VN.
Ông John Mc Elroy(Đại Tá Navy Mỹtham dự chiến tranh VN) đã trân trọng gởi lời mời TổĐình VN và Toán ThủKỳ (Color Guard)
đến tham dự Lễ Memorial DAY được tổ chức vào ngày 5/26/2025 tại War Memorial Park in Tacoma, Washington State.
Đúng 8:00am ngày 26/5/25, tất cả tập họp ở Shop May của anh Sơn trên đường số 1 và rồi cùng đi chung hai xe xuống dịa diểm làm Lễ ở Tacoma. Trời vẫn còn lạnh, mây đen lại giăng đầy trời báo hiệu một cơn mưa sẽ đến không biết lúc nào.
Khoảng 10:00am, quan khách lần lượt đến. Mưa bắt đầu rơi, tuy không lớn nhưng cũng đủ làm ướt áo và gieo thêm cái lạnh vào lòng người. Mọi người vẫn giữ trật tự, ngồi tại chổ mà không bỏ chạy tìm chổ núp mưa; các chị vợ cựu QN đi theo chồng cũng cùng chia sẻ, chiụ đựng cơn mưa như người Mỹ và còn nhường dù mình mang theo đến đưa cho quan khách Mỹ, làm họ cảm động và cảm ơn rối rít.
Anh HQ Chi ra xe lấy bốn cây dù mang theo có sẵn trong xe, đem vô đưa cho Toán Thủ Kỳ chúng tôi để che mưa, tôi nói: “mình là Lính dạn dày sương gió, đâu thể nào dùng dù che mưa lúc này được, mình phải chấp nhận đội mưa thôi. Anh đem dù đi đưa cho quan khách để họ thấy cái giá trị và tư cách của quân nhân VNCH mình”. Anh Chi bèn đem dù đưa cho mấy người Mỹ, làm họ thêm cảm động, cảm ơn với tất cả lòng thiện cảm, trân quý dành cho người Việt mình..
Chuyện này làm tôi nhớ đến hôm Lễ 30/4/2025 được tổ chức ở Auburn. Khi đọc bài Diễn Từ tiếng Việt do tôi viết ( con gái Thiên Thanh của tôi dịch và đọc phần tiếng Anh),đến câu:“để tưởng nhớ đến 58.000 quân nhân Hoa kỳ đã hy sinh trên chiến trường VN. Dứt câu này, tôi bước lui một chút và cúi đầu để bày tỏ sự tưởng tiếc thật sự của mình. Quan khách Mỹ vổ tay cảm ơn hành động này ”.
Sau khi chấm dứt tôi bước ra,đi về phía cuối hàng ghế quan khách ngồi; bất chợt một cựu quân nhân Mỹ mặc thường phục bước lại, chập chân rồi đưa tay lên ngang trán chào tôi và nói cảm ơn đồng thời đưa tay ra để bắt tay tôi; làm tôi cũng chập chân chào lại và cũng nói cảm ơn anh. Chúng tôi bắt tay nhau trong niềm vui kính trọng của những người lính chung chiến tuyến.
Sau buổi Lễ, tôi có mời anh chụp hình với gia đình tôi, nhưng tôi lại quên hỏi tên anh(dù anh có giới thiệu tên anh,hỏi tên tôi nhưng lúc đó ồn ào quá nên không nhớ được).
Đúng 11:00am, buổi lễ bắt đầu sau phần giới thiệu chương trình buổi lễ, Ông mời mọi người đứng lên làm lễ rước Quốc Kỳ Việt Mỹ do Toán Thủ Kỳ của Tổ Đình VN phụ trách. @ WAR MEMORIAL PARK . TACOMA, WASHINGTON
– BB Lê Anh Thượng( Cầm Súng Hộ Kỳ ) – HQ Phạm Ngọc Anh ( Cờ VNCH )- HQ Trương Văn Chi ( Cờ Hoa Kỳ ) – BB Nguyễn Lam Sơn ( Cầm Súng Hộ Kỳ ) – HQ Bùi Đức Ly ( Trưởng Toán ) TrưởngBan TổChức: ĐạiTá Andy Leneweaver (Ret) (người đứng bên bục diễn thuyết)
Khi Toán Thủ Kỳ chúng tôi đã rời lễ đài, Ông Đại Tá đã mời mọi người cùng đứng lên vổ tay khen ngợi, chúc mừng, cảm ơn Toán Thủ Kỳ chúng tôi.
Tiếng vỗ tay với lời chúc mừng nồng nhiệt và cái quay đầu nhìn về phía chúng tôi trong lúc vỗ tay tán thưởng đã làm cho chúng tôi thấy hãnh diện cùng vui sướng vì được chào đón, tán thưởng và nhất là đã không để có sai sót gì làm mất đi nét đẹp hào hùng của QLVNCH.
“ Gian nguy thử thách đời trai trẻ Dẫu bước cạn cùng vẫn ngẩn cao” (thơ Hoàng Mai Nhất)
Seattle, WA Mùa Quốc Hận H.O.26 Lê Anh Thượng (May 27/2025)
BÀI SƯU TẦM -HẬU DUỆ VIỆT NAM CỘNG HÒA. A SENSE OF DUTY: MỘT HỒI KÝ, HAI CUỘC ĐỜI. – NGUYỄN MẠNH TRINH
Cuốn sách mở đầu bằng: “Tôi mở mắt chào đời ở Việt Nam tại một Nhà thương Pháp cổ xưa sáu tháng trước khi tổng thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson ra lịnh cho hàng ngàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ lên đất nước chúng tôi..”. Đó là một thiên hồi ký của một cậu bé hồi nhỏ sống ở Phi Cảng Tân Sơn Nhứt với ước mơ thành một hoa tiêu vùng vẫy trời cao. Và cũng là những hồi tưởng từ hai đời người, một cha một con, cùng theo nghiệp bay bổng nhưng phục vụ đất nước khác nhau và trong những hoàn cảnh cá nhân khác nhau.
<!>
Người cha luôn luôn là hình bóng đi bên cạnh đời người con với nét hào hùng của một người chiến đấu vì tự do và hiểu được ý nghĩa của tự do. Khi chiến đấu cho đất nước, trung tá Phạm văn Hòa bay chiến đấu cơ A1 sau là hoa tiêu vận tải C130, đã mang cả một thời tuổi trẻ của mình trong ước vọng thực hiện được lý tưởng của mình. Cũng như khi chiến đấu cho đất nước Hoa Kỳ, đại úy Phạm Xuân Quang, một hoa tiêu trực thăng của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, cũng hiểu được giá trị của tự do và nghĩ rằng đã được hưởng ân huệ của đất nước định cư thì cũng phải có nhiệm vụ phải bảo vệ đất nước ấy.
Cầm tập hồi ký “A Sense of Duty: My Father, My American Journey” của Quang X. Pham, tự nhiên tôi lại nhớ đến câu hát “Hòn VọngPhu”. Ở đây, người cha, một phi công của Không Quân Việt nam, bay khu trục rồi chỉ huy một phi đoàn vận tải. Người con, tốt nghiệp đại học rồi gia nhập Thủy Quân lục Chiến Hoa Kỳ thành một phi công trực thăng. Chuyện ấy cũng có thể bình thường. Nhưng người con viết hồi ký về cuộc đời của cha mình và cũng là dịp để nhìn lại một cuộc chiến đã chấm dứt từ ba mươi năm nay, chuyện ấy mới là đáng nói. Qua bóng dáng của người cha, một thời lửa khói được kể lại. Và, tiếp nối, là người con của thế hệ tiếp theo. Không gian bao la nhưng vẫn nằm trong bàn tay người phi công. Tác phẩm, là hồi ký của một người con nhưng đa phần là hình bóng của người cha và những người đồng đội cũ. Cuộc chiến dù đã ba mươi năm qua, nhưng vẫn còn dư âm, tưởng như mới ngày nào…
Cuốn sách mới xuất bản mà đã được sự chú ý rất nhiều. Nhựt báo Los Angeles Times và Orange County Register đều có bài điểm sách. Tuần báo Publishers Weekly và tạp chí Orange Coast Magazine cũng giới thiệu đầy cảm tình và trang trọng. Nhiều tác giả nổi tiếng có nhiều hiểu biết về Việt Nam như Richard Pyle, như Larry Engelmann, như Robert Olen Butler, như James R. Reckner… cũng có những nhận xét xác đáng về tầm vóc cũng như giá trị của tác phẩm. Và, với người Việt Nam, những chính khách như Bùi Diễm, Đỗ Ngọc Yến, Hoàng Đức Nhã,… cũng đã cho nhiều ý kiến đồng tình chia sẻ…
Với riêng cá nhân tôi, tôi đọc “A Sense OF Duty” không phải vì những bài giới thiệu hoặc điểm sách như thế. Bản tâm tôi đã rất thích đọc những cuốn sách viết về chiến tranh Việt Nam. Trong tủ sách của tôi cũng có hàng trăm cuốn Anh ngữ, Pháp ngữ và Việt ngữ về đề tài này. Và, càng đọc nhiều tôi lại có một điều làm tôi ấm ức và cảm thấy bất công. Hầu như những cuốn ngoại ngữ đều chung một luận điệu. Chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Cộng sản Bắc Việt, người lính Nam Việt Nam chỉ là vai trò phụ thuộc. Hiếm có cuốn sách nào có cái nhìn chính xác hơn. Khi học môn sử ở chương trình cử nhân, tôi đã nhiều lần nói lên cái tâm trạng và suy nghĩ của mình trong lớp học, của một người lính đã tham dự cuộc chiến.
Thú thực tôi có cảm giác là người cô đơn, một mình phải thuyết phục đám đông đã sẵn ấn tượng từ sách vở. Mà tôi biết, trong dư luận Hoa Kỳ, những người phản chiến nắm phần chủ động. Ngay, một người như John Steinbeck, là một nhà văn nổi tiếng đoạt giải Nobel văn chương năm 1962, tác giả của “The Grapes of Wrath” hay “Of Mice and Men” nổi tiếng nhân bản, mà khi viết những bài ủng hộ chiến tranh Việt Nam như hàng ngày viết “Letters from Việt nam” cho nhựt báo “News Day” hay tranh luận với nhà thơ Liên Xô Evgueni Evtusensko, cũng bị chê là hiếu chiến.
Thành ra, đọc một cuốn sách có nhiều điểm đồng tình với mình, cũng là một điều thích thú. Dù không thích chiến tranh, nhưng chúng tôi vẫn vì bổn phận và chiến đấu hết mình vì bổn phận ấy. Tôi sẽ mang cuốn sách cho những người bạn bản xứ và khoe như tôi đã làm với cuốn sách mới tinh còn thơm mùi mực của nhà văn Ngô Thế Vinh. Có cuốn sách của người Việt Nam viết về chiến tranh Việt Nam tại sao không phổ biến? Để nói thêm một tiếng nói cho những người đáng được nhắc đến.
Ngoài lý do kể trên, còn một lý do khác, kể ra thì cũng hơi riêng tư. Tôi đọc cuốn sách này vì người viết là một Không Quân viết về một người cha Không Quân, niên trưởng của chúng tôi. Và ở đó, tôi tìm được không khí của những phi trường mà tôi quen thuộc. Đời sống ấy, dù đã ba mươi năm qua, nhưng còn phảng phất đâu đây. Mỗi lần nhắc lại là bồi hồi trong tâm. Bạn bè chúng tôi, bao nhiêu người gục ngã. Những chiếc trực thăng nổ tung trên trời, những chiếc khu trục cháy đỏ vỡ toang tầng không, những cái chết hào hùng. Lạ kỳ, khi tôi đọc những trang sách viết về một niên trưởng phi công kỳ cựu, tôi nghe bên tai mình văng vẳng những nốt nhạc của bài Không Quân Hành Khúc. Bài hát ấy, bạn bè chúng tôi thường hợp ca mỗi khi họp mặt như tiếng hát gọi đàn “Giờ đoàn người từng vượt bao biên giới đã chiến đấu. Đã chiếm chiến công ngang trời. Giờ đoàn người còn vượt qua biên giới, quyết chiến đấu. Đi không ai tìm xác rơi. Lúc đất nước muốn, bao người con thân yêu ra đi. Tiếc tấm thân làm gì…”.
Phạm Xuân Quang đã viết “A Sense of Duty” như một tác phẩm đầu tay của một người tỵ nạn đã trở thành một Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, từ những tác động ký ức liên quan đến số phận, niềm hy vọng cũng như những hậu quả phát khởi từ biến cố trong cuộc chiến Việt Nam. Là một người trẻ Việt thuộc thế hệ thứ hai trưởng thành ở Hoa Kỳ, anh biểu lộ tấm lòng tri ân với đất nước đã bảo bọc anh và đã tự mình tình nguyện gia nhập quân đội và trở thành một phi công trực thăng nối nghiệp người cha là một phi công khu trục của Không Quân Việt Nam. Cuộc trùng phùng giữa hai cha con sau một thời gian dài chia cách cũng là một yếu tố để anh có quyết định trên.
Năm 1964, người cha, phi công Phạm Văn Hòa của phi đoàn khu trục 514 bị phòng không Việt Cộng bắn trong khi đang yểm trợ tiếp cận cho bộ binh dưới đất. Được trực thăng Hoa Kỳ cứu cấp sau khi bị đáp ép buộc, ông trở về nhà đúng vào ngày sanh của đứa con trai ông, tên Quang. Sau đó ông lại tiếp tục những phi vụ oanh kích, thi hành bổn phận của một quân nhân trong thời binh lửa. Thâm tâm ông không muốn làm hành động của một anh hùng, nhưng ông hiểu nhiệm vụ của mình để hoàn tất những công việc ấy.
Trước khi Saigon bị quân cộng sản xâm chiếm, Trung tá Hòa chắc chắn rằng vợ con mình đã được di tản. Ông gởi vợ và mấy đứa con lên một chiếc C130 di tản đến Hoa Kỳ. Riêng ông ta không được may mắn. Ông bị ở lại và bị tù ngục hơn mười năm. Những trại khổ hình mà ông đã trải qua như Long Giao, Suối Máu, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Hà Sơn Bình, Hà Nam Ninh, toàn những nơi nổi tiếng là rừng thiêng nước độc. Sau khi gần được phóng thích, Cộng Sản chuyển ông về trại Z0D ở Rừng Lá. Năm 1987, ông được thả về và năm năm sau ông được sang Hoa Kỳ gặp gỡ lại vợ con sau một thời gian sống nghẹt thở vì sự canh chừng của hệ thống công an khắc nghiệt và đa nghi.
Quang Phạm đến Hoa Kỳ lúc chỉ mới mười tuổi và biết vỏn vẹn vài ba chữ Anh Ngữ. Anh bắt đầu vào trường học. Mẹ anh cũng rất cố gắng hội nhập vào xã hội mới và sau đó đã hành nghề kế toán để nuôi cả gia đình. Quang sống trong một gia đình vắng mặt người cha và người mẹ đóng vai trò chủ gia đình. Tất cả đều chung một cố gắng sống sao cho có ý nghĩa trong cuộc đời mới. Bà mẹ muốn Quang học những nghành như y khoa hay dược khoa rất bất ngờ khi nghe Quang nói muốn gia nhập Thủy Quân Lục Chiến sau khi tốt nghiệp cử nhân. Bà không thể nào vui với một ý định như thế. Rồi, rốt cuộc Quang cũng thành một phi công như ước muốn của anh thời niên thiếu.
Năm 1992, gia đình Quang đoàn tụ ở về thành phố Oxnard, California. Quang tốt nghiệp cử nhân và sau đó tình nguyện vào Thủy Quân Lục Chiến thành một phi công đầu tiên của thế hệ Việt Nam thứ hai. Khi Quang vừa tốt nghiệp sĩ quan thì người cha được rời khỏi trại tù Việt Cộng và trở về sống vất vưởng ở Sài Gòn chờ ngày sang Hoa Kỳ định cư. Trong khi đó thì Quang thi hành những phi vụ trong cuộc chiến Bão Sa Mạc tấn công quân Iraq của Saddam Hussein. Hai năm sau, người cha được định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO và đoàn tụ với cả gia đình. Nhưng hai ngày sau Quang phải lên đường trên chiến hạm USS Tarawa từ San Diego trên hải trình ở Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, vùng Vịnh Trung Đông, biển Somalia. Sau đó Quang lên bờ làm sĩ quan tùy viên cho Tư lệnh Không Đoàn Ba TQLC. Lúc này, cha con mới có dịp nói chuyện với nhau cũng như gặp gỡ lại những người là chiến hữu Không Quân Việt Nam Cộng Hòa cũ cùng với nghiệp bay bổng.
Trung tá Phạm Văn Hòa đã có dịp kể lại tất cả những chi tiết của cuộc đời nhiều thăng trầm của mình với con và tìm ở đó như một chiến hữu có cùng những giấc mộng thời thơ ấu dù lớn lên và trưởng thành từ thời gian không gian khác nhau.
Khi gặp gỡ lại thân phụ mình, Quang vì những ấn tượng sâu sắc về cuộc đời người cha nên có ý định viết một cuốn sách kể lại những ngày tháng trải qua. Anh ghi chép lại tất cả chi tiết để thành một hồi ký. Năm 2000, ông cựu trung tá Không Quân Việt Nam Phạm Văn Hòa bị xuất huyết não và từ trần. Như thế chỉ còn một mình Quang thực hành chương trình đã định từ trước.
Hành trình của ngươì cha dường như được nối tiếp từ người con. Phi công Phạm Văn Hòa, tức Hòa Điên, một biệt danh mà bạn bè ông thường gọi, chiến đấu để bảo vệ cho tự do của đất nước ông. Là phi công khu trục và vận tải, ông có cái hãnh diện của một chiến sĩ làm nhiệm vụ. Con ông, Phạm Xuân Quang, tình nguyện vào lính để trở thành một phi công trực thăng cũng với ý nguyện phục vụ đất nước đã bảo bọc anh và gia đình và cũng để thỏa mãn cái mộng ước đã có khi còn nhỏ ở phi trường Tân Sơn Nhứt.
“A Sense of Duty: My Father, My American Journey” là một chuyện kể cảm động của những người đến Hoa Kỳ định cư từ những xứ sở xa lạ và đã thành công khi nhập được vào dòng chính. Một độc giả Hoa Kỳ đã viết rằng đã cảm được nỗi đau, nỗi buồn của người kể chuyện khi đọc cuốn hồi ký này. Hoa Kỳ là một xứ sở có rất nhiều những câu chuyện như thế, của những người làm lại cuộc đời từ bàn tay trắng.
Hồi ký này là câu chuyện của gia đình Quang với những người làm trọn nhiệm vụ của mình. Người cha, làm tròn bổn phận với đất nước mình. Người mẹ, làm tròn nhiệm vụ hiền mẫu của mình. Người con, làm tròn nhiệm vụ với đất nước đã nuôi dưỡng bảo bọc mình. Tất cả, là những nỗ lực của những người hiểu được cái giá của tự do.
Bút pháp của Quang là một cách viết tự nhiên có pha lẫn chút trào lộng cay đắng nhưng tràn đầy sức sống của một người hiểu được mình phải bắt đầu từ đâu và đi trên những con đường nào. Trong nhiều chương sách, ít nhất là hơn một nửa trong tổng số 24 chương, tác giả đã nhắc lại thời nhỏ của mình trong khu cư xá trong phi trường Tân Sơn Nhứt, nhìn những phi cơ cất cánh để mơ mộng nối gót hành trình của cha. Cũng như, khi sang định cư ở mỹ, phải phấn đấu thế nào, và hội nhập vào dòng chính ra sao cũng như phải chịu những sự kỳ thị bất công dành cho một cậu bé Mỹ gốc Việt. Quang có nhiều kinh nghiệm từ những va chạm ấy và rút ra một kết luận muốn thành công trong xã hội Mỹ phải làm việc gấp hai và suy nghĩ gấp bốn một đứa bé da trắng bản xứ.
Hình như, Quang cũng có những ngoái nhìn về phía cuộc chiến đã qua. Hành trình của anh, khởi đầu một cách gián tiếp từ thân phụ, qua chiến tranh Việt Nam đến chiến tranh vùng Vịnh, từ một cậu bé con của nguồn gốc quê hương đến một người lính bảo vệ đất nước mà mình trưởng thành. Anh không có mục đích nhìn lại quá khứ mà chỉ muốn nhìn lại những gì mà chúng ta nhớ lại từ quá khứ ấy. Có nhiều câu hỏi được đặt ra với Quang, từ lúc thơ ấu đến lúc trưởng thành.
Những câu hỏi bao quanh cuộc chiến đã tàn lụi và những hệ quả của nó cho toàn dân Việt Nam nói chung và gia đình Quang nói riêng. Những suy nghĩ về tự do và cái giá phải trả của nó. Chính vì suy nghĩ trên nên Quang đã nhập cuộc, như phản ứng của một người trẻ hiểu biết được trách nhiệm của mình.
Cho nên, có một độc giả đã viết “Trước đây, không bao giờ tôi hỏi cha tôi về những chuyện đã xẩy ra từ hồi chiến tranh Việt Nam. Bây giờ, đọc xong cuốn sách này, tôi sẽ hỏi…”
Phải rồi, chiến tranh Việt Nam có những bí ẩn kể như phi lý. Hàng triệu người lính của cả hai bên Nam Bắc và 58 ngàn chiến sĩ Hoa Kỳ bị tử trận. Không chỉ thế, còn hàng triệu nạn nhân chiến cuộc với những biến cố kinh hoàng. Chiến tranh chấm dứt, hơn hai trăm ngàn sĩ quan viên chức Nam Việt Nam vào tù Cộng sản. Hàng triệu người vùi thân biển cả. Tất cả, là trả giá cho tự do. Cái giá khá mắc cho một dân tộc vốn thông minh cần cù…
In một cuốn sách như tác phẩm này có nhiều trạng huống tế nhị mà tác giả phải vượt qua. Rất nhiều nhà xuất bản đòi hỏi phải theo những ý hướng đã định và đề tài chiến tranh Việt Nam không phải là đề tài có nhiều hấp dẫn. Khi nhà xuất bản Random House đồng ý xuất bản thì lại gặp nhiều vấn đề như hình bìa có bản đồ Việt nam với tên thành phố được Cộng sản cải danh lại mà không phải là Sài Gòn. Nhưng rốt cuộc, nhà xuất bản phải nhượng bộ và hình bìa là ảnh hai cha con với bản đồ Việt nam làm nền phía sau với tên của thành phố Sài Gòn. Cũng như trong giai đoạn “edit” có rất nhiều đoạn bị cắt bỏ bởi chủ quan của nhà xuất bản. Dẫu sao, đó cũng là chuyện thông thường khi xuất bản một tác phẩm ở Hoa Kỳ.
Tác giả đã mang sự thành thực cũng như tôn trọng sự thực để làm thành sự quyến rũ cho tác phẩm. Ông không cao giọng rao giảng cũng như muốn làm người phê phán. Ông chỉ mang cuộc đời của mình và của cha mình để tôn vinh tự do và biết phải chiến đấu để có sự cao quý ấy.
Tác giả “A Sense of Duty”, Phạm Xuân Quang, đã phục vụ như một phi công của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, đã tham gia chiến dịch vùng Vịnh và Somalia. Anh cũng là người điều hành công ty QTC Medical Services và CEO của Lathian Systems, công ty mà anh là người sáng lập. Anh cũng là một khuôn mặt quen thuộc của giới truyền thông Hoa Kỳ, đã góp mặt trên nhiều shows vô tuyến truyền hình và truyền thanh. Viết “A Sense of Duty “, anh muốn làm tròn bổn phận của một người với cha anh mình, đất nước mình. Chúng ta hãnh diện có những khuôn mẫu Việt Nam thành công như thế: trung hậu trong gia đình, dũng cảm trong chiến trường và nhạy bén hiệu quả trên thương trường…
Nguyễn Mạnh Trinh
KIỀU MỸ DUYÊN – Chương Trình CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA.
VTLV TRANG ĐẶC BIỆT TƯỞNG NIỆM CHIẾN SĨ VÕ ĐẠI TÔN/HOÀNG PHONG LINH.
VTLV KHÓC VÕ ĐẠI TÔN/HOÀNG PHONG LINH
VĂN THƠ LẠC VIỆT rất đau buồn
Kính tiễn anh hùng VÕ ĐẠI TÔN
Suốt cả một đời yêu Tổ Quốc
Và tròn hết kiếp giữ quê hương
Giờ trong bệnh viện còn thơ gửi
Phút cuối dương trần vẫn phát ngôn
“Nhớ nước thương nhà” – nhờ Lạc Việt
Lưu giùm sáng tác PHONG LINH – TÔN
*
PHONG LINH – TÔN, chiến sĩ kiêu hùng
Đất nước hòa bình trách nhiệm chung
Chàng bước dấn thân vào chết chóc
Người đi chiến đấu với gông cùm
Tuổi già sức tận kêu lời chính
Phận lão thân tàn vắt máu trung
Nhắn gửi hậu nhân gìn Tổ Quốc
ĐẠI TÔN quả đúng bậc anh hùng!
Văn Thơ Lạc Việt – Kính Viếng – MAY 25/2025
**
Tưởng Nhớ Nhà Tranh Đấu cho Tự do Võ Đại Tôn *
Một đời yêu Tổ Quốc, Trọn kiếp giữ quê hương. Dấn thân vào trận tuyến, Không quản chốn nhiễu nhương.
*
Chống chủ nghĩa vay mượn Vượt khổ để tìm đường Tuổi già vẫn gắng gượng Đối Cộng chẳng hề nương
*
Giữa phút giây vô thường Viết vần thơ.tưởng tượng “Nhớ nước, nhà tình thương” Gửi vào vườn văn học
*
Hoàng Phong Linh thi sĩ, Bút thép quá gan lì Gió lộng hồn thi vị Lửa cháy chí nam nhi!
*
Anh hùng danh đích thị Truyền lửa Việt quang huy Sử xanh mãi còn ghi, Võ Đại Tôn bất nhị !!!
Nguyễn Hồng Dũng
**
Tiễn Chú Võ Đại Tôn
* Con yêu Tổ Quốc đã xa rời Võ Đại Tôn giờ được nghỉ ngơi Sứ mệnh ươm nòi dù xác bỏ Vai trò giữ nước dẫu xương rơi Anh hùng tiếng đẹp lưu nhân thế Dũng sĩ danh thơm để cuộc đời Chiến hữu Cộng Hoà an thỏa mộng Chèo thuyền Bát Nhã trí nhàn chơi
Minh Thúy Thành Nội Tháng 5/23/2025
**
TIỄN ÔNG VÕ ĐẠI TÔN
*
Chiều rơi mây vắng lặng, Tiễn người về cõi xa. Lòng chan hòa lệ trắng, Nén hương gửi phương xa.
*
Một đời son sắt chí, Đấu tranh chẳng ngại ngần. Mười năm nơi lao lý, Tâm vẫn giữ chân tâm.
*
Ngục tù không khuất phục, Dẫu bóng tối bủa vây. Lời thơ còn lay động, Mẹ Việt vẫn nơi đây.
*
Cánh chim trời đã khuất, Tổ quốc mãi ghi công. Người đi như trăng lặng, Sáng mãi giữa lòng dân.
*
Xin nguyện mười phương Phật, Tiếp dẫn bậc anh hùng. Về nơi miền Cực Lạc, Thoát khổ, được an dung.
*
PhamPhanLang
25/5/2025
**
NƯỚC TRÔI MỒ MẸ
Con quỳ bên ni dòng sông Bên tê mồ Mẹ ! Trời ơi, nước ngập tràn đồng Từng khúc xương trôi đau lòng con trẻ. Con mang trong người thịt xương của Mẹ Chừ trông nước lụt dâng về Con còn bên ni, Mẹ mất bên tê, Sóng bao la vỗ, bốn bề Mẹ mô ?
* Ngày xưa Mẹ chết, con khóc mắt khô, Chừ xương Mẹ trôi, hồn con nước lụt. Nước dâng ngùn ngụt Cuốn mái tranh nghèo. Sóng cuộn mang theo Ngày vàng bên Mẹ.
* Con nhớ ngày xưa tiếng con thỏ thẻ Đòi đi theo Mẹ nhóm buổi chợ làng. Mẹ dắt tay con qua xóm, hoa vàng Nở tươi bờ dậu. Con kêu : – “Mẹ ơi, tưởng đàn bướm đậu” Mẹ cười, bóp chặt tay con.
* Con nhớ những lối đường mòn Trâu bò qua lại. Buổi chiều đơn sơ, lũy tre nằm ôm nắng quái,
*
Con đùa với bóng cau nghiêng. Mẹ la : – “Coi chừng tối ngủ không yên, Giật mình con khóc, bà Tiên bả buồn…”.
*
Con nhớ những mùa mưa tuôn Gió đông kéo về lạnh buốt. Trong lòng Mẹ, con nằm co rút, Mẹ chuyền hơi ấm tình thương Con mê giấc ngủ đêm trường, Mẹ vui.
* Con nhớ dòng sông êm xuôi Trôi về Phố Hội. Giặt áo bên con Mẹ ngồi mỗi tối, Con nhìn cá đớp trăng sao. Mỗi lần sao chuyển ngôi cao Con đưa ngực nhỏ, sao vào hồn thơ. Nhìn con, mắt Mẹ đầy mơ Con đòi Mẹ cõng, hờ ơ… Mẹ hò.
* Chừ con về : nước lũ, sóng to Xoáy cửa, phăng nhà, Xốc trôi mồ Mẹ ! Xương theo dòng sông ngày xưa ra bể Vì chưng lòng Mẹ : đại dương ! Mẹ sống lầm than cho con tình thương Chừ Mẹ chết đi, mồ trôi nước lụt. Con quỳ bên ni, linh hồn tê buốt
Mần răng mà về bên tê chừ, Mẹ ôi !
* Quê hương nước ngập tận trời Hồn con khóc suốt một đời không nguôi!…
Hoàng Phong Linh
*
FLOOD DRIFTED MOM’S GRAVE
I knelt on this of the river side,
Mom’s grave was on the other over the tide!
Alas! Water being submerging all the field to destroy,
Each piece of bone floated in the flood pained this boy.
I have got in my body some Mom’s bone and blood.
Now having to watch the surging flood,
I was still alive here, Mom already dead over there!
The surf was immense, but were you anywhere?
In the past You passed away I cried with eyes dry,
Now Your bones were drifting, my soul the rising high.
The water upheaved batch after batch
Sweeping away the poor thatch;
It also swirled away
By-Mom’s-side so golden each day.
I remembered the time when I supplicated
To follow you to the village market, I duplicated;
You took my hand leading me to the hamlet thence
The yellow flowers bloomed freshly along the fence;
I exclaimed, “Mom, they’re butterflies in a dreamland.”
Mom smiled squeezing my hand.
I remembered the pathways
Buffaloes and cows came and went always.
One afternoon, the bamboo rows, the sun running low,
I played with the slant areca shadow,
Mom lectured me, “Mind your sleep could not be eased,
Startled you’d cry and the Fairy would be displeased.”
I remembered the rainy seasons when
The winter winds came back so cold wherein
Encircled in your arms I lay cowering,
You conveyed your warmth of love towering
For my sleep to get sound, you satisfied in your profound.
I remembered the smooth river to cool down
Flowing to the renowned Hội An Town;
You washed the clothes each evening without variations,
I watched the fish snap the moon and constellations;
Each time a star moved to a higher location
I thrust out my chest so it enters my childish inspiration.
Beholding me your eyes seemed dreaming in the sky;
I wanted to be carried on your back, you did with a lullaby.
At present I had returned: torrential waters, huge waves
Swirled doors, whirled homes, swiped caves;
The flood swept away my Mom’s grave! How to crave!
Mom’s bones made the old stream-drifts-to-sea motion
Because your heart itself is the ocean!
You lived a miserable life to give me your love,
Now you had died; I was kneeling as a mourning-dove
On this side; your grave drifted; my nippy soul died.
THEO TIN TỪ VIỆT BÁO, CALIFORNIA: Nhà hoạt động dân chủ Võ Đại Tôn (1935-2025) vừa mất lúc 22:00 giờ ngày Thứ Sáu 23/05/2025 (giờ Úc) tại bệnh viện Bankstown (NSW), hương tho 90 tuổi, theo tin từ nhà báo Gia Du. Ông Võ Đại Tôn cũng nổi tiếng trong lĩnh vực văn học: ông là nhà thơ Hoàng Phong Linh, đã in nhiều tập thơ trước và sau 1975. . Ông Võ Đại Tôn sinh năm 1935 tại Quảng Nam, là sĩ quan cấp tá trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã từng được biệt phái ngoại ngạch sang nhiều công vụ dân chính tại miền Nam trước 1975 (Phụ Tá Tổng Trưởng Bộ Thông Tin, Giám Đốc Công Tác Bộ Chiêu Hồi năm 1970). . Ông Võ Đại Tôn đã vượt biển đến định cư tại Úc Châu năm 1976 và trở về lại quê hương để tham gia Kháng Chiến Phục Quốc (qua đường rừng Thái-Lào) nhưng đã bị sa cơ vào tháng 10/1981, tại biên giới Lào Việt. Vì cương quyết giữ vững lập trường không đầu hàng Cộng Sản trong cuộc họp báo quốc tế ngày 13.7.1982 tại Hà Nội, ông Võ Đại Tôn đã bị Cộng Sản Việt Nam biệt giam hơn 10 năm tại trại tù Thanh Liệt (B-14), ngoại thành Hà Nội. . Nhà nước CSVN phải trả tự do cho ông nhờ áp lực của Quốc Tế và trở lại Úc Châu ngày 20.12.1991. Từ đó, ông liên tục dấn thân phục vụ Lý Tưởng Tự Do Dân Chủ cho quốc gia Việt Nam, công tác khắp nơi trên thế giới, với cương vị là Tổng Ủy Viên Điều Hợp Trung Ương của tổ chức đấu tranh Liên Minh Quang Phục Việt Nam.
Ngoài các hoạt động đấu tranh chống Cộng Sản, ông Võ Đại Tôn còn là một nhà thơ nổi tiếng về các đề tài Quê Hương Dân Tộc, với bút hiệu Hoàng Phong Linh và là một họa sỹ. Một trong những bài thơ của ông đã được phổ nhạc là bài “Mẹ Việt Nam ơi, chúng con vẫn còn đây”, phổ biến khắp nơi tại hải ngoại từ mấy chục năm qua. Các tác phẩm văn-thơ của ông Võ Đại Tôn trước 1975 là: Hoa Tim, Đêm Trắng, Cánh Chim Bằng, Đăng Trình, Hồn Ca. . Các tác phẩm văn hay thợ sau 1975 là: -Lời Viết Cho Quê Hương. (Năm 1979 tại Hoa Kỳ) – Đoản Khúc Người Ra Đi. (Năm 1986 tại Úc Châu) – Hồi ký lao tù Tắm Máu Đen – Tập Thơ Tiếng Chim Bên Dòng Thác CHAMPY (Năm 1992 tại Úc Châu và năm 2000 tái bản tại Hoa Kỳ) – Tập truyện Chim Bắc Cành Nam (2002) – Tuyển Tập Thơ-Văn Đấu Tranh “Tổ Quốc – Hành Trình 30 năm” (Úc Châu 2005). .
Tưởng Nhớ Nhà Thơ Hoàng Phong Linh Võ Đại Tôn
Vương Trùng Dương
Chiến Hữu Võ Đại Tôn, sau nhiều năm lâm bệnh trầm trọng, qua đời tối Thứ Sáu 23/5/2025 tại bệnh viện Bankstown (NSW), hưởng thọ 90 tuổi. Ngoài thơ, văn, anh được gọi là nhà hoạt động chính trị, nhà đấu tranh cho quê hương, Tổ Quốc. Với tôi trong tình thân đồng hương (đề cập trong bài viết nầy) nên anh cho biết gọi nhau là “chiến hữu”.
Các tác phẩm thơ, văn: Lời Viết Cho Quê Hương (Năm 1979 tại Hoa Kỳ). Đoản Khúc Người Ra Đi (Năm 1986 tại Úc Châu). Hồi ký Tắm Máu Đen (Năm 1992 tại Úc, Hoa Kỳ năm 2000). Thơ Tiếng Chim Bên Dòng Thác Champy (Năm 1992 tại Úc Châu và năm 2000 tái bản tại Hoa Kỳ). Tập Truyện Chim Bắc Cành Nam (2002). Tuyển Tập Thơ Văn Tổ Quốc – Hành Trình 30 Năm” (Úc Châu 2005).
Trước đây, cũng vào tháng 5, tôi viết bài Hồi Ký Tuổi Thơ & Chiến Tranh (1945-1950) của Võ Đại Tôn. Theo lời anh, tăm đắc với bài viết nầy vì chỉ có người đồng hương mới hiểu rõ nơi chốn để chia sẻ.
Nay đăng lại bài viết:
Hồi ký Tuổi Thơ & Chiến Tranh (1945-1950) của Võ Đại Tôn ra đời cách nay một thập niên. Tại California, sách đã ra mắt ngày 16/5/2010, tại phòng họp của cơ quan Stockton Boulevard Partnership, Bắc California quy tụ các hội đoàn, đoàn thể, nhân sĩ và đồng hương tham dự rất đông để nghe diễn giả Võ Đại Tôn từ Úc sang, với tuổi đời 75. Trong bài viết của Khuất Đẩu ở trong nước “Để Tang Cho Sách” ghi lại thời điểm từ “chiến dịch bài trừ văn hóa” xuống đường đốt sách 21/5/1975… trong đó, những tài liệu trung thực về giai đoạn lịch sử nầy đã bị tiêu hủy. Bài viết mới nhất (4/2021) của Song Thao ở Canada: Tháng Tư Nghĩ Về Sách Sài Gòn Xưa “Gần hai chục năm trước, khi Cộng Sản tiếp thu Hà Nội, trò đốt sách đã được bày ra. Trên hai thập niên sau, họ làm y chang lại, bài vở là một thứ bổn cũ soạn lại”. Đọc lại với bao nỗi ngậm ngùi!
Ngày 12/6/2010 trong buổi sinh hoạt “Hành trình công tâm để xây dựng lại niềm tin” và ra mắt thơ văn của tác giả Võ Đại Tôn tại nhà hàng Emerald Bay, Santa Ana đã được các văn hữu như Cao Tiêu, Nguyên Sa, Đỗ Tiến Đức và các nhân sĩ… ca ngợi tinh thần đấu tranh của chiến sĩ Quốc Gia cho lý tưởng tự do, dân chủ.
Nay đọc các bài viết trong nước đã bị lệch lạc, bóp méo sự thật vì dựa vào tài liệu tuyên truyền… Vì vậy viết lại hồi ký của tác giả Võ Đại Tôn, chứng nhân thời cuộc để trả lại sự thật của giai đoạn lịch sử: “Cái gì của César, hãy trả lại César”.
Với hồi ký “Tuổi Thơ & Chiến Tranh” trong tháng 6/2010 qua nhận định của Nguyễn Mạnh Trinh cho thấy: Đọc bút ký “Tắm Máu Đen” rồi đọc “Hồi Ký Tuổi Thơ & Chiến Tranh”, và đọc những bài thơ ký tên Hoàng Phong Linh, tôi cảm nhận rõ một điều: Sáng tác của ông là tình yêu dành cho quê hương đất nước. Phải có một tình yêu mạnh mẽ thúc đẩy nên con người chiến sĩ, thi sĩ, nghệ sĩ hòa hợp thành một con người Việt Nam đã chiến đấu trong những năm tháng khốc liệt của chiến tranh từ lúc tuổi thơ cho đến khi trưởng thành. Là chiến sĩ, ông hành động theo lý tưởng của mình, chấp nhận hy sinh gian khổ. Là thi sĩ, ông làm thơ, để gần hơn với mơ mộng, để yêu thương hơn quê hương. Là văn sĩ, ông mang tấm lòng thiết tha của mình giãi bày tâm can của một người nặng lòng với đất nước…
Sau khi dẫn chứng những đoạn trong hồi ký, phân tích với đoạn kết: Đọc bút ký “Tắm Máu Đen” rồi đọc “Hồi Ký Tuổi Thơ & Chiến Tranh”, và đọc những bài thơ ký tên Hoàng Phong Linh, tôi cảm nhận rõ một điều: Sáng tác của ông là tình yêu dành cho quê hương đất nước. Phải có một tình yêu mạnh mẽ thúc đẩy nên con người chiến sĩ, thi sĩ, nghệ sĩ hòa hợp thành một con người Việt Nam đã chiến đấu trong những năm tháng khốc liệt của chiến tranh từ lúc tuổi thơ cho đến khi trưởng thành. Là chiến sĩ, ông hành động theo lý tưởng của mình, chấp nhận hy sinh gian khổ. Là thi sĩ , ông làm thơ, để gần hơn với mơ mộng, để yêu thương hơn quê hương. Là văn sĩ, ông mang tấm lòng thiết tha của mình giãi bày tâm can của một người nặng lòng với đất nước.
Trong hồi ký “Tuổi Thơ & Chiến Tranh” của Võ Đại Tôn in bài giới thiệu của Trần Trung Đạo, là đồng hương, tuy tuổi đời cách nhau hơn hai mươi năm nhưng cùng chung cảnh ngộ đau buồn và cùng chung tâm cảm.
“Chúng tôi những người con đi xa, gánh trên vai đôi gánh nặng. Đất nước, quê hương, tình thương và nỗi nhớ. Nhiều khi tôi thèm làm một con chim nhỏ, bay về đậu trên tấm bia và đọc cho mẹ nghe những bài thơ được đan kết từ mấy mươi năm trầm luân thống khổ. Nhưng không, đôi cánh chúng tôi quá nhỏ và quảng trời thì quá xa, ước mơ cũng chỉ là mơ ước. Chúng tôi chọn lựa một cách sống mà chúng tôi nghĩ là đúng nhất cho đời mình và đất nước nhưng chọn lựa nào mà chẳng có hy sinh. Chúng tôi đã phải hy sinh những riêng tư thân thiết nhất.
… Từ thuở chào đời, tôi đã là một đứa bé bất hạnh. Mẹ và anh chị tôi đều mất rất sớm. Trí nhớ của tôi còn quá non nớt để giữ lại hình ảnh mẹ. Mẹ tôi qua đời vì bịnh trong một xóm nhà quê nghèo khó nên không có đến một tấm hình để lại cho tôi. Cha tôi thường bảo tôi giống cha nhiều hơn giống mẹ. Tôi cũng chẳng có cậu hay dì nên tôi lại càng không thể tìm đâu ra được một nét nào của mẹ trong những người thân còn sống.
Vì không biết mẹ, nên mẹ trở thành tuyệt đối. Khi nhìn ánh trăng tròn trong ngày rằm tháng Bảy, tôi nghĩ đó là khuôn mặt dịu dàng của mẹ, nhìn nước chảy ra từ giòng suối mát tôi nghĩ đến dòng sữa mẹ, nhìn áng mây trắng bay trên nền trời tôi nghĩ đến bàn tay mẹ, nhìn những vì sao trên dải thiên hà tôi nghĩ đến đôi mắt mẹ.
Nói chung, hình ảnh nào đẹp nhất, tinh khiết nhất, thiêng liêng nhất, đều được tôi nhân cách hóa nên hình ảnh mẹ. Vẻ đẹp của mẹ tôi là vẻ đẹp không những tuyệt vời mà còn là tuyệt đối. Hình ảnh duy nhất của tôi về mẹ là ngôi mộ đầy cỏ mọc dưới rặng tre già ở làng Mã Châu, một ngôi làng dệt lụa bên bờ sông Thu Bồn. Ngày tôi còn nhỏ, mỗi buổi chiều khi tan trường tiểu học, trên đường về tôi thường ghé thăm mộ mẹ, nhổ những bụi cỏ hoang, trồng thêm những chùm hoa vạn thọ. Nếu tuổi thơ là tuổi hồn nhiên với những cánh diều bay, với những con bướm vàng thơ mộng thì tôi đã không có tuổi thơ. Tuổi thơ tôi là một chuỗi ngày buồn và chờ đợi một điều gì sắp đến.
Một tuổi thơ như thế có thể tạm gọi là tuổi thơ bất hạnh. Nhưng tuổi thơ tôi không phải là bất hạnh nhất hay ít bất hạnh hơn anh Võ Đại Tôn.
… Anh bất hạnh hơn tôi vì mẹ anh, người đàn bà vốn đang trọng bịnh trong người, đã phải chết trong hoàn cảnh vô cùng thảm thương, đau đớn.
… Anh Võ Đại Tôn cũng đã xác định quan điểm này trong hồi ký Tuổi Thơ và Chiến Tranh: “Viết lại cho tuổi trẻ của tôi trong nỗi trầm luân của cả một Dân Tộc và viết cho Tuổi Trẻ Việt Nam với niềm mong ước các thế hệ tương lai hiểu thấu, tránh xa, ngăn chặn, cùng nhau vượt qua mọi chướng ngại để cứu nguy Tổ Quốc và hóa giải mọi trở lực để quang phục quê hương.
… Với tuổi đã ngoài bảy mươi, lẽ ra anh nên dành khoảng thời gian mà anh tự nhận là “hoàng hôn của một đời người” để đi đây đi đó thăm viếng người thân, tạm biệt bạn bè, hay ngồi an nhàn bên tách trà, chén rượu, nhìn mặt trời lên cao ngoài biển rộng, nhìn bóng tà dương khuất dần sau đỉnh núi cao, không, anh không thể an nhàn như thế được. Còn một hơi thở anh còn đóng góp, còn cất lên được một tiếng nói anh còn tìm cách để trao gởi những ước mơ chưa làm được hết của anh cho các thế hệ mai sau. Anh cố gắng dành thời gian còn lại để viết. Dù bàn tay anh có run hơn, đôi mắt có yếu hơn, anh vẫn cố gắng viết, bởi vì con người ai cũng phải chết nhưng sự thật lịch sử phải được sống, sống cho hôm nay và cho mãi mãi về sau…”.
Với hồi ký của anh Võ Đại Tôn qua các bài viết của các văn hữu, trong đó có Trần Trung Đạo và Nguyễn Mạnh Trinh, tôi thấy cũng đủ để cảm nhận những gì tác giả Võ Đại Tôn chia sẻ sau sáu thập niên về nơi cố hương.
Trong thời gian qua, anh và tôi thường viết qua email, anh than tuổi già sức yếu, mỗi lần nghĩ đến đất nước và cố hương lòng đau quặn thắt, không cầm được nước mắt. Cho đến lúc nầy, anh vẫn mang niềm đau vì không về được cố hương, không ôm mồ mẹ trong vòng tay như lúc tuổi thơ!
Trong mùa đại dịch quái ác nầy, ở nhà chán quá, tôi lục lại những quyển sách cũ ra đọc lại để giết thời giờ, nào ngờ hồi ký của anh Võ Đại Tôn, một lần nữa làm tôi xúc động nên ghi lại những dòng cảm nghĩ.
Sau biến cố tang thương của đất nước, tháng năm 1975, vợ chồng anh Võ Đại Tôn vượt biển sang Mã Lai đến định cư tại Úc Châu năm 1976.
Năm 1972, Võ Đại Tôn (Trung Tá) kết hôn với chị Tuyết Mai, dạy ở trung học Long Khánh và làm xướng ngôn viên đài truyền hình Việt Nam, băng tần số 9. Năm 1978, vợ chồng sinh được cháu trai Võ Đại Nam (Cu Lỳ) và sau đó mở quá cà phê Cu Lỳ để có dịp gặp gỡ thân hữu. Với cuộc sống gia đình đang hạnh phúc như vậy nhưng anh mang nặng tấm lòng nợ nước nên tháng 2 năm 1981 trở về lại quê hương để tham gia kháng chiến phục quốc (qua đường rừng Thái-Lào) nhưng đã bị sa cơ vào tháng 10, 1981, tại biên giới Lào Việt.
Anh bị tù biệt giam hơn 10 năm tại tại trại tù Thanh Liệt (B-14), ngoại thành Hà Nội. Thế nhưng từ khi ở tù cho đến khi được thả ra để trở về Úc, anh là người đi giữa hai lằn đạn bởi thủ thuật Cộng Sản Hà Nội đã dàn dựng, gài bẫy, bôi nhọ… khi anh nói rồi bị cắt xén để phát thanh và đăng báo!
Trong cuộc họp báo quốc tế ngày 13 tháng 7 năm 1982 tại Hà Nội, anh lên án chế độ tàn bạo CSVN nhưng do CS tổ chức, dàn dựng thì thành phần hiện diện (trong và ngoài nước) là người của tổ chức nên việc phổ biến qua thủ thuật tráo trở, đánh lận con đen. (Trong bài Phỏng Vấn Võ Đại Tôn, 40 Năm Đấu Tranh của Hữu Nguyên đã trả lời chi tiết về chuyến trở lại phục quốc và cuộc họp báo).
Khi được ra khỏi trại tù CS, anh cũng được ăn uống và chụp hình đăng báo… Từ nhỏ anh đã chứng kiến những trò gian manh, lật lọng của Việt Minh trong gia đình nhưng không hiểu vì sao anh lại bị gài bẫy dàn dựng như vậy? Điều bí ẩn đó tuy bất thường với mọi người nhưng với anh chỉ là “vở kịch” của bọn chúng trong giai đoạn, anh vẫn tiếp tục con đường đấu tranh suốt cuộc đời ở hải ngoại.
Trong thời điểm đó có hàng vạn sĩ quan, viên chức VNCH đang bị cầm tù ở miền Bắc nhưng CS không dàn dựng mà đem con cờ phục quốc ra với dụng ý đen tối cho thành phần nầy trước công luận. Vào thời điểm năm 1981, ở Úc có ít người Việt tỵ nạn, chưa có tổ chức đấu tranh nào, anh dấn thân trong đơn lẽ, tổ chức là trái tim và con đường quang phục là quê hương.
Với tôi, khi còn ở trong nước đã biết và khi tỵ nạn tại Hoa Kỳ khi đọc hai nguồn tin trái ngược nhau bênh vực và chống đối… nên im lặng. Ngay cả bản thân anh cũng bị xuyên tạc là “Hạ sĩ quan thông dịch viên, viên chức quèn của VNCH”!.
Khi người chồng ra đi, cuối năm 1981 chị Tuyết Mai dẹp quán rồi vào làm việc ở Bưu Điện Úc. Sau khi biết tin chồng bị cầm tù, chị đã vận động với báo chí và chính quyền can thiệp cho chồng (thân phụ chị bị chết trong lao tù CS) nên chị quyết tâm tranh đấu đến cùng cho đến khi cuối năm 1991, Bộ Ngoại Giao Úc báo tin cho biết anh Võ Đại Tôn được ra tù và trở lại Úc… Có lẽ trong hoàn cảnh nghiệt ngã nhất, bi thảm nhất chỉ có người vợ mới cảm thông và lặng lẽ tìm mọi cách để cứu thoát cho chồng. Hình ảnh chị cũng như bao người “vợ tù cải tạo” đã viết nên “trang sử” đẹp, đáng trân trọng…
Trong email, tôi nói anh viết vài dòng tiểu sử cho chính xác, và anh chỉ viết là người lính, viên chức VNCH, là chiến sĩ đấu tranh cho lý tưởng Quốc Gia, Dân Tộc. Cấp bậc, chức vụ có gì đáng nói… mà điều đáng nói đã thể hiện qua thơ văn của Hoàng Phong Linh, Võ Đại Tôn trong bốn thập niên qua. Nay tuổi anh đã gần đất xa trời, đau yếu những vẫn giữ vững tinh thần chống Cộng, yêu chuộng tự do, dân chủ cho quê hương, đất nước. Tôi hiểu và nhân quyển hồi ký nầy để chia sẻ cho nhau.
Thật ra, viết về hồi ký nầy chỉ là phần nhỏ với tóm lực, phải đọc từng dòng trong hồi ký mới cảm nhận được những gì tác giả nói lên trong tận đáy lòng.
*
Quê nội tôi nằm bên cạnh sông Thu Bồn, từ Quốc Lộ I, từ cầu Cao Lâu chạy dài theo hướng Đông xuống các làng ở phía Nam thành phố Hội An. Tên gọi xã Điện Phương hiện nay qua những lần thay đổi thuộc quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ranh giới xã Điện Phương ở phía Tây thành phố Hội An, phía Bắc giáp Tỉnh Lộ 608 (Vĩnh Điện – Hội An), phía Đông của Quốc Lộ 1 (cạnh cầu Cao Lâu) và phía Nam giáp sông Thu Bồn). Điện Phương vẫn giữ tên các làng cũ như Thanh Chiêm, Phước Kiều, Phú Chiêm, Kim Bồng (thời gian thuộc xã Cẩm Kim)… Theo dòng lịch sử thì những làng nầy được hình thành mấy trăm năm về trước thời Nguyễn Hoàng, trong đó có di dân từ Thanh Hóa. Vài làng nơi nầy nổi tiếng nghề đúc đồng từ thời vua Tự Đức. Nghề bánh tráng và mì Quảng nổi tiếng từ xưa. Làng Kim Bồng rất nổi tiếng về nghề mộc, hầu hết các kiến trúc cổ kính của Hội An đều do bàn tay tài hoa của nơi nầy. Nghề diệt chiếu phổ biến ở nhiều làng.
Dòng họ Tộc Trần có 5 phái nên con cháu rất đông, ở dọc theo tả và hữu ngạn sông Thu Bồn trong hai xã Xuyên Quang, Xuyên Thái, quận Duy Xuyên (nay là xã Duy Phước) cũng gần với làng Kim Bồng. Nhà thờ Tộc Trần của tôi có ở Phú Chiêm và nhà thờ Tộc Võ của anh ở Kim Bồng.
Cũng như các nơi khác của Quảng Nam, đất đai khô cằn vào mùa hè, nghề nông vất vả nên người dân phải sống bằng những ngành nghề khác. Hơn nữa ở địa danh nầy gần sông Thu Bồn nên gánh chịu bao thiên tai vào mùa bão lụt. Quê nội anh Võ Đại Tôn ở Kim Bồng, cũng khoảng thập niên 1920, thân phụ anh ra Đà Nẵng lập nghiệp, xây dựng cơ ngơi vững chắc.
Hồi ký “Tuổi Thơ & Chiến Tranh” dày 212 trang, bài giới thiệu của Trần Trung Đạo (trang 5 đến trang 26) ghi nhận những điều, theo tôi, là đồng hương, cùng cảnh ngộ, cùng văn giới, chứng nhân nỗi thống khổ với nhau, nơi cố hương, thăng trầm của lịch sử, cảm nhận nỗi lòng anh Võ Đại Tôn qua thơ văn… mới viết được như vậy. Bài viết là tâm bút, khó có người cầm bút thứ hai trang trải với tận đáy lòng.
“Tôi sinh ra tại Hải Châu, thị xã Đà Nẵng nhưng thực ra nguyên quán dòng họ Ông Cha là làng Kim Bồng, xã Điện Phương… Tôi là đứa con thứ tám trong số mười người con của cha mẹ tôi, chín anh em trai và một chị gái” (trang 32).
“Gia đình bác, cha mẹ và chú tôi, đầu sống chung trong một ngôi nhà tạ Ngã Năm thành phố Đà Nẵng Được xây cất từ năm 1924, hiện nay là Long Phụng Từ Đường thuộc Tộc Võ)” (trang 34). Bác, cha và chú anh trúng thầu với người Pháp xây cất ngôi nhà thờ Thiên Chúa Giáo Chính Tòa (nhà thờ Con Gà) năm 1923, nổi danh công trình độc đáo. Vì vậy cha mẹ anh cho con cái học trường Pháp ở Đà Nẵng.
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Nhật đầu hàng, Việt Minh cướp chính quyền. Pháp trở lại Việt Nam, khi Pháp chiếm lại Đà Nẵng và lập lại hệ thống cai trị, cuộc chiến xảy ra… Hồi ký ghi lại giai đoạn tản cư vì chiến tranh (1945-1950). Giữa năm 1946, sợ chiến tranh xảy ra ở thành phố Đà Nẵng nên gia đình anh di tản về quê nội ở Kim Bồng “Tuổi thơ của tôi bắt đầu đi vào một khúc quanh gai góc, vì chiến tranh” (trang 51).
Rồi từ đó người dân sống trong tình cảnh “một cổ hai tròng”, ngày thì bị Pháp bố ráp (ruồng, càn), Việt Minh bắt phải nộp gạo để nuôi quân trong khi người dân thiếu thốn ăn cơm độn với khoai, sắn. Và đêm thì bị Việt Minh bắt thanh niên (nam, nữ) tham gia lực lượng chống Pháp. Riêng gia đình anh gặp phải tình cảnh trớ trêu vì nghi còn thân Pháp. Việt Minh còn bắt buộc nhà của anh phải treo hình “cụ Hồ” cũng là trò thâm độc vì khi Pháp đi ruồng bố vào nhà mà thấy hình nầy thì đốt nhà để gây lòng hận thù với Pháp. Trong hồi ký, anh tả từng chi tiết về thủ đoạn gây tai họa cho gia đình anh.
Trong một lần Pháp đi ruồng, vào nhà anh lục soát, chú và các anh chị nói chuyện bằng tiếng Tây nên không làm khó dễ gì cả. Nhưng tai họa lại giáng lên đầu nhà anh “Từ lúc có Tây qua làng ruồng bố, rồi có người cố tình phao tin đồn là nhà tôi điềm chỉ cho Tây bắt cán bộ Việt Minh…” (trang 88). Ông “chủ tịch, cán bộ cao cấp của Cộng Sản” là con trai của người tá điền làm ruộng cho nhà anh, trở thành hung thần. Trong khi tất cả cơ ngơi song thân anh ở Đà Nẵng bị Tây tịch thu thì gia đình anh ở làng quê bị kết tội thân Tây. Gia đình bị cô lập, sống trong hoàn cảnh khó khăn, luôn luôn bị rình rập, cả tuổi thơ của anh chịu đựng mọi cơ cực. Nỗi đau tột cùng khi mẹ anh bị ho lao, làm cái chòi nhỏ để ở riêng vì sợ bị lây (theo ý mẹ anh), không có thuốc men nên bị cơn đau hành hạ ngày đêm. Trước tình thế đó “Sau nhiều đêm bàn tán, thêm nhiều ý kiến tính tới tính lui. Tôi được biết bác và cha tôi đồng thuận để cho mẹ tôi về lại Đà Nẵng, có hai chú đi theo” (trang 104). Đoạn đường từ Kim Bồng theo đường bộ ra Đà Nẵng rất khó khăn vì bị kiểm soát gắt gao cả Việt Minh và Tây. “Lúc ra đi, mẹ tôi 43 tuổi, chú Tám Dương 47, còn chú Mười 31 (Tháng 6 năm 1947)” (trang 110). Chuyến đi định mệnh đã biệt tăm cho đến năm 1959, 1960 mới biết thảm cảnh xảy ra!.
“Đến năm 1955, các anh tôi đều đã là sĩ quan trong Quân Đội Quốc Gia. Tôi vẫn còn đi học tại Sài Gòn. Anh Hai tôi được đi tu nghiệp tại Pháp (trường bộ binh Saint Maxent), có gởi về cho anh Năm tôi một bức thư dài kể lại chi tiết sự kiện năm 1949 về đôi giày cườm của mẹ tôi tại làng Cổ Lưu (xã Điện Nam, Quảng Nam), kèm theo một bản đồ ghi rõ địa điểm liên hệ… Lúc nầy anh Năm tôi phục vụ tại Phân Khu Nam-Ngãi-Định trong chiến dịch tiếp thu hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi. Anh Sáu tôi thì đã mãn khóa sĩ quan trừ bị Thủ Đức (khóa 4/54, và đi tu nghiệp khóa “commando” ở Watchay – Hải Phòng (Ghi thêm: Khóa 4 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, nhập khóa ngày 23 tháng 11 năm 1953 (dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại) và mãn khóa ngày 1 tháng 6 năm 1954. Tổng số sĩ quan ra trường hồi đó là 1200)… Chúng tôi phải đợi đến năm 1959 (gần 13 năm sau, đêm mẹ và hai chú tôi ra đi từ làng Kim Bồng, 1947) sau khi anh Năm tôi được bổ nhiệm làm Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 2 Bộ Binh… Năm 1960, anh Năm tôi được bổ nhiệm làm tỉnh trưởng Quảng Nam” (trang 118, 119).
Tác giả chỉ gọi anh chị theo thứ tự trong đình như cách gọi của nhiều gia đình mà thôi. Anh Năm của anh là Đại Tá Võ Hữu Thu, lúc đó ở Quảng Nam có sự tranh chấp đảng phái và tôn giáo nên chọn vị tỉnh trưởng của địa phương, không tôn giáo. Đại Tá Võ Hữu Thu nổi tiếng thanh liêm, cương trực, người dân nơi nầy rất quý mến (sau nầy ứng cử vào Dân Biểu Quốc Hội).
(Ghi thêm: Năm 1960, anh Võ Đại Tôn làm Trưởng Ban 5, Trại Biệt Kích Long Thành, anh thông thạo tiếng Pháp và Anh nên không cần thông dịch viên nên sau nầy họ xuyên tạc, gán anh là hạ sĩ quan thông dịch viên. Sang thời Đệ Nhị Cộng Hòa, chính phủ Phan Huy Quát thành lập ngày 16/02/1965 nâng Phủ Đặc Ủy Dân Vận Chiêu Hồi thành Bộ Chiêu Hồi. Tổng Trường đầu tiên là Trần Văn Ân (trong tháng 3) kế đến là đến là Thiếu Tướng Nguyễn Bảo Trị. Anh Võ Đại Tôn, sĩ quan cấp tá trong QL Việt Nam Cộng Hòa, đã từng được biệt phái ngoại ngạch sang nhiều công vụ dân chính và sau cùng Giám Đốc Công Tác Bộ Chiêu Hồi).
Trở lại với hồi ký “Anh Năm tôi có nhờ ông Quận Trưởng quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam lúc bấy giờ (ông Trần Quốc Thái) đưa đi thám sát vùng làng Cổ Lưu (theo bản đồ của anh Hai tôi vẽ lại)… Ông Quận Trưởng còn cho biết là trước đây trong thời kỳ chiến tranh, khu vực nầy do Việt Minh (Cộng Sản) kiểm soát. Có một đảng viên Cộng Sản tên là Huỳnh Thân làm trưởng ban ám sát, nổi tiếng giết người không run tay trong làng nầy và các vùng lân cận. Trong một cuộc hành quân của Quân Đội Quốc Gia, t5en6 thân bị bắt và hiện còn giam tại lao xá tỉnh Quảng Nam ở Hội An…
Qua hồ sơ lý lịch và những bản cung khai của tên Thân nầy, các cơ quan anh ninh Quốc Gia tại địa phương kiểm chứng, anh Năm tôi cho chuyển đương sự về sở An Ninh Quân Đội để thẩm vấn thêm, Anh tôi đích thân hỏi cung, ghi thêm chi tiết nhiều sự kiện vào hồ sơ tội ác của đương sự” (trang 118, 119).
Theo lời kể của hai ông Minh và Miêng (chủ nhà, ân nhân giúp tá túc) và lời cung khai của Huỳnh Thân, tên sát thủ ghi lại:
“Mẹ và hai chú tôi từ giã nhà hai ông Minh và Miêng vào giữa đêm khuya sau khi vào nhà xin tạm nghỉ chân một lúc, băng qua làng Cổ Lưu để ra đường cái thì bị một nhóm Việt Minh (Cộng Sản) bắt giữ… Cả ba người đã bị tra kháo, đánh đập suốt 3 ngày đêm, bị kết tội là tìm đường đi “liên lạc” với Tây” (trang120) và đề cập đến các thủ đoạn tra khảo quá tàn nhẫn, nhất là người đàn bà đang bị bệnh ho lao trầm trọng.
“Hắn và hai tên thanh niên dẫn ba người ra một bãi cát trống, đêm sáng lờ mờ qua ánh trăng khuyết. Không có đem theo đèn đuốc gì cả, chỉ có cầm theo hai cái cuốc. Hắn bắt mẹ tôi ngồi riêng một chỗ. Còn hai chú thì được lệnh lấy cuốc tự đào một cái hố nhỏ. Xong rồi, khi chú Mười tôi còn đang đứng bên miệng hố, chưa biết làm gì thêm, thì thình lình tên Thân chụp một cái cuốc, phang ngang lưng chú một nhát mạnh làm chú ngã chúi xuống hố, nằm sấp, đau quằn quại.
Trước cảnh tượng bất ngờ như vậy, chú Tám Dương tôi chưa kịp la lên thì hắn đứng phía sau dùng chân đạp chú té xuống hố. Chú tôi vừa cố lóp ngóp bò lên vừa la xin tha mạng. Hắn đứng trên miệng hố cát, cầm cuốc phang xuống, trúng ngay vào trán của chú tôi, làm chú té bật ngửa ra, nằm đè trên lưng chú Mười. Hai người chưa chết.
Rồi, hắn đến xốc mẹ tôi đứng dậy trong khi mẹ tôi đang ôm mặt khóc lớn. Hắn lạnh lùng dẫn mẹ tôi đến cạnh miệng hố, xô xuống thật mạnh, mẹ tôi rớt xuống, nằm sấp trên người chú Tám. Hắn đứng trên hố, cầm cuốc cúi xuống phang mấy nhát thật mạnh vào lưng mẹ tôi, làm cả thân hình mẹ tôi quằn cong lại.
Cả ba người chưa chết, nhưng không còn sức bò dậy được nữa, nằm im trong máu, chung một hố cát cạn. Tên Thân và đồng bọn dùng cuốc xúc cát lấp hố lại rồi bỏ đi. Chôn sống!” (trang 124, 125).
Với tội ác dã man tày trời của tên Huỳnh Thân, nhưng người con của mẹ – Đại Tá Tỉnh Trưởng Quảng Nam – với cái tâm nhân bản của người Quốc Gia, không đem ra xử bắn mà “Sau nhiều ngày bàn tính trước sự đau khổ cùng cực của gia đình, anh Năm tôi đành phải chuyển tên Thân ra lao xá Thừa Phủ ở Huế để cho chính quyến xét xử theo luật pháp về nhiều tôi trạng giết người khác, không để cho chúng tôi thấy mặt hắn” (trang 130).
Ba quan tài được di chuyển từ làng Cở Lưu về bờ sông Thu Bồn gần Hội An để an táng.
Anh lại chứng kiến hình ảnh quá bi thương: Nước Trôi Mồ Mẹ. Năm 1972, anh từ Sài Gòn ra Quảng Nam trong một chuyến công tác, đứng bên nầy bờ sông Hội An thấy nước lụt dâng lên ngập cả làng Kim Bồng bên kia sông, tưởng chừng nước cuốn trôi luôn mồ mẹ anh nên xúc động làm bài thơ:
“Con quỳ bên ni dòng sông
Bên tê mồ Mẹ!
Trời ơi, nước ngập tràn đồng
Từng khúc xương trôi đau lòng con trẻ.
Con mang trong người thịt xương của Mẹ
Chừ trông nước lụt dâng về
Con còn bên ni, Mẹ mất bên tê,
Sóng bao la vỗ, bốn bề Mẹ mô?
Ngày xưa Mẹ chết, con khóc mắt khô,
Chừ xương Mẹ trôi, hồn con nước lụt.
…
Con quỳ bên ni, linh hồn tê buốt
Mần răng mà về bên tê chừ, Mẹ ôi!
Quê hương nước ngập tận trời
Hồn con khóc suốt một đời không nguôi!…”
(Trang 142, 144)
Sau khi mẹ anh và hai người chú ra đi biệt tăm, cha và người thân trong gia đình anh còn ở lại làng quê Kim Bồng trong 3 năm, năm tháng đó với anh là tháng này bất hạnh, đau thương nhất, địa ngục của của cuộc đời. Tuổi thơ của anh được mẹ cưng nhất, nuông chìều, lúc nào cũng gần gũi bên mẹ nay mất đi hình ảnh thiêng liêng, cao quý nhất mà anh luôn luôn tơn thờ cùng với cuộc sống tận cùng của xã hợi với bao đắng cay!
“Chúng tôi về lại Đà Nẵng sau gần 5 năm (1945-1950) đi tản cư về làng quê Kim Đồng, vì chiến tranh… Tôi đã mất tuổi thơ và điều đau đớn nhất, còn in sâu vào suốt đời tôi mãi đến hôm nay, là tôi đã mất mẹ!” (trang 183).
Cũng như anh, quê nội tôi ở các làng nơi đây lâu đời, thầy tôi là nhà nho, sùng đạo Phật nên rời quê rất sớm khoảng năm 1920 theo dòng Trường Giang vào Thăng Bình mưu sinh với chữ nghĩa, lập nghiệp và các anh chị ra đời từ đó. Tuổi thơ học ở Hội An nên thỉnh thoảng tôi ghé về quê nội… cho đến nay hơn sáu thập niên, tôi chưa biết gì về cố hương, ngay nhà thờ Tộc Trần và nơi chốn xa xưa chỉ được biết qua hình ảnh, email của các cháu…
Trong thời kỳ Việt Minh, tôi chưa biết gì, chỉ nghe qua lời kể của anh chị trong gia đình, hình như các làng quê miền Trung dọc theo duyên hải, ở đâu cũng vậy, người dân hoàn cảnh “một cổ hai tròng” qua các năm dài. Tôi đã đọc nhiều về sử liệu trong giai đoạn nầy như quyển Chiến Tranh 1946-1954 (từ chiến tranh Việt Minh – Pháp đến chiến tranh ý thức hệ Quốc – Cộng) của Trần Gia Phụng năm 2018, dày 568 trang. Đây là một quyển sách viết rất công phu với chú thích và hình ảnh trong bộ sách Sử Việt Đại Cương của tác giả trong mấy thập niên ở Canada. Nhưng chưa đọc tác phẩm nào viết lại giai đoạn nầy ở làng quê của 3 miền để am tường. Bút ký lịch sử Một Cơn Gió Bụi của cụ Trần Trọng Kim cho đến nay được đánh giá là tác phẩm quan trọng của giai đoạn lịch sử nhưng tổng quát trên chính trường…
Hồi ký “Tuổi Thơ & Chiến Tranh” của tác giả Võ Đại Tôn chỉ đề cập đến quãng thời gian 5 năm (1945-1950) xảy trong gia đình và nơi cố hương với gọng kìm giữa Việt Minh & Pháp. Tháng 6 năm 1948, Hiệp định Vịnh Hạ Long, Pháp đồng ý thành lập Quốc Gia Việt Nam gồm cả ba miền Bắc Trung Nam, nằm trong Liên Hiệp Pháp. Hè năm 1949 chính phủ Quốc Gia Việt Nam ra đời, cựu hoàng Bảo Đại về nước làm Quốc Trưởng, đất nước có hai chính phủ trong tình trạng tranh tối tranh sáng. Theo sách của Trần Gia Phụng: “Lãnh thổ hai chính phủ không phân biệt giới tuyến rõ rệt. Chính phủ nào cũng tự nhận là chủ nhân chính thống toàn bộ đất nước” (Sđd trang 235)… nên ngoại trừ ở những thành phố lớn, những nơi “xôi đậu”, làng quê bị Việt Minh răn đe, ám sát người theo Quốc Gia và đảng phái đối lập… tình trạng càng căng thẳng và bi đát giữa cuộc chiến ý thức hệ Quốc/Cộng trước khi phân chia hai miền chiến tuyến. Qua sử liệu giúp tôi liên tưởng đến các bài viết đã đọc với bối cảnh, thân phận, nỗi đau thực sự trên quê hương!
Từ lâu, qua thơ văn của anh Võ Đại Tôn mới nhận nhau là đồng hương, khi đọc lại hồi ký của anh Võ Đại Tôn mới biết thêm được gốc gác, gợi lại trong tôi niềm cảm xúc.
Anh viết hồi ký nầy, theo lời chia sẻ, bằng trái tim, cảm xúc tột cùng và theo anh, nhiều lúc mắt nhòe đi trước màn hình computer vì quá xúc động. Lời thật chân tình và thán phục anh có trí nhớ rất tốt.
Có hiểu nỗi lòng, lý tưởng của anh mới hiểu được vì sao khi vừa mới tỵ nạn tại Úc, vợ anh còn trẻ, con thơ nhưng anh đành từ bỏ để chọn con đường gian nguy.
Tôi không đề cập đến vấn đề chính trị ở đây vì trong quá khứ, như đã nói, anh là nạn nhân “đi giữa hai lằn đạn”. Anh đã đi khắp nơi gặp gỡ, trình bày công cuộc dấn thân cho chính nghĩa. Như đã đề cập, anh không bao giờ nhắc đến thân thế của gia đình, của những người anh trong Quân Lực VNCH mà chỉ nói về bản thân từ khi rời quê hương và trở lại cố hương với cái mộng, nếu gọi là “đội đá vá trời” để “quang phục quê hương”! Vì sao và tại sao, chỉ có trái tim chân chính của anh với tinh thần đầy nhiệt huyết người con họ Võ ở Kim Bồng ảnh hưởng những bậc tiền nhân ngày xưa của Quảng Nam đã hy sinh cho đại cuộc.
Sự dấn thân cho quê hương của anh Võ Đại Tôn đã trả cái giá quá đắt từ lao tù và cả thị phi, từ tấm lòng chân chính của bản thân đến sự hoài nghi của nhiều người và sự đánh phá của kẻ thù… nhưng với tôi, anh vẫn là chiến sĩ, người lính của QLVNCH.
Với bút hiệu Hoàng Phong Linh qua các bài thơ trước năm 1975. Sau nầy với các thi phẩm Lời Viết Cho Quê Hương, Đoản Khúc Người Ra Đi và Tiếng Chim Bên Dòng Thác Champy, nhà xuất bản Bất Khuất ấn hành năm 1992, dày 119 trang.
Một số bài thơ của anh đã được phổ nhạc, trong đó có bài Mẹ Việt Nam Ơi! Chúng Con Vẫn Còn Đây, sáng tác năm 1972 được Nguyễn Ánh 9 phổ thành ca khúc vào tháng Giêng 1975. Ca khúc nầy được các ca sĩ trình bày, phổ biến rộng rãi vào thời điểm đó. Ở hải ngoại, Việt Dzũng và Nguyệt Ánh khi lưu diễn khắp nơi đều mở đầu với ca khúc nầy. Bài thơ và ca khúc nầy cho đến nay vẫn được người Việt tị nạn hải ngoại coi như lời tâm niệm.
Lời kết trong hồi ký của anh: “Tôi đã mất Tuổi Thơ và điều đau đớn nhất in sâu vào suốt cuộc đời tôi mãi đến hôm nay là tôi đã mất Mẹ” niềm đau và nỗi lòng của người con, chiến sĩ Quốc Gia bị đánh mất quê hương!
*
Trong những năm qua, anh nằm trong bệnh viện, thỉnh thoảng hai anh em email với nhau, anh không than cho bệnh tật bản thân vì đã một đời cống hiến cho quê hương và đã trải qua bao nhiêu nghiệt ngã, đau thương nhưng than cho tuổi già đau yếu nên không được theo đuổi giấc mơ cho quê hương được tự do, thanh bình!
Nay anh đã ra người thiên cổ! Vĩnh biệt Chiến Hữu Võ Đại Tôn! Xin thắp nén hương lòng tưởng nhớ đến anh.
Little Saigon 5/2025
Vương Trùng Dương
TRANG THƠ NHẠC LÊ TUẤN
Trên Đỉnh Mây Bay
Là bài thơ tự do tôi viết để thực hiện tình khúc Trên Đỉnh Mây Bay
theo giai điệu dân ca Quan Họ Bắc Ninh kết hợp với Ca Trù.
Giọng ca thánh thót, êm dịu hòa cùng âm thanh Stero, hình ảnh sống động,
tất cả đã tạo thánh một tác phẩm nghệ thuật độc đáo.