Dốc Sương Mù

…Mày biết không? Nhà tao ở phía sau đường Bạch Đằng mà dân Đà Lạt hay gọi là cây số bốn, chắc có lẽ từ đó ra chợ Đà Lạt chừng bốn cây số. Từ đường Bạch Đằng vô nhà tao phải đi gần cả cây số nữa mới đến, nằm gần phi trường Cam Ly, lúc đi học tao phải đạp xe trên con đường đất nhỏ, bề ngang chừng hơn thước rồi mới đến đường Bạch Đằng nơi giáp với đầu dốc La Sơn Phu Tử. Con đường này dài chưa đến cây số và ở cuối đường, nếu quẹo phải là đường Phan Đình Phùng, quẹo trái đi lên Mả Thánh nhưng nếu cứ đạp thẳng trên đường nhựa sẽ đến trường Trần Hưng Đạo, đường này mang tên  Nguyễn Hoàng, phía bên phải là ấp Hà Đông chuyên trồng dâu tây và bên trái là một quả núi toàn mồ với mả…không biết chôn từ đời thuở nào mà nhiều vô kể. Nhiều lần tao đạp xe đi ngang đây vào chặp nhá nhem tối, đôi lúc cũng thấy rợn cả người. Nhưng chuyện tao kể cho mày nghe không phải là chuyện ma ở Mả Thánh mà là chuyện có vẻ như là ma…mày có tin không?

Mày biết không? Đường La Sơn Phu Tử dài chưa đầy cây số mà một phần ba đường này là một đoạn dốc cao giáp với đường Bạch Đằng. Lúc đi học thì tao xổ dốc, còn lúc về thì năm khi mười họa mới đạp nổi lên dốc, thường phải xuống xe dắt bộ lên cho hết đoạn dốc ngắn này. Vừa xuống hết dốc thì gặp đường Hai Bà Trưng. Mày biết không? Tao học lớp sáng nên hôm nào tao cũng dậy sớm mà trời Đà Lạt dạo đó hầu như lạnh quanh năm, phải mặc có khi hai ba chiếc áo ấm mới bớt lạnh và đi học buổi sáng thì lại có sương mù nên cả người tao, nếu không mưa ướt thì sương mù cũng làm áo quần lẫn tóc tai tao đẫm sương. Tao học ở trường Trần Hưng Đạo từ những năm đệ thất, lúc học sáng lúc học chiều và tao chưa bao giờ vắng mặt một buổi học hay đi học trễ, thế mà…

Mày biết không? Có một buổi sáng, trời lạnh và sương mù dày đặc, tao đạp hết đoạn đường đất đỏ từ nhà đến đường Bạch Đằng thì tự nhiên như có người bảo bên tai: “quẹo qua đường Phan Đình Phùng đến ngả ba chùa” và tao nghe như thế nhiều lần. Khi tao đạp đến cuối đường La Sơn Phu Tử lại nghe “quẹo qua Phan Đình Phùng đến ngả ba chùa”. Chung quanh tao lúc đó chỉ thấy sương mù dày đặc và trời thì tối om khiến tao không còn thấy đường đi trước mặt. Trong đầu tao cứ nghĩ “thế này thì làm sao đến trường không bị trễ học…”. Đầu thì muốn đạp xe đến trường mà chân cứ đạp xe đi hướng khác. Bình thường tao cũng hay đạp xe trên đoạn đườngnày và nhớ có một fontaine nước nằm bên tay phải, nơi có con đường mòn băng qua đường Hai Bà Trưng. Tao cố nhìn nhưng chẳng thấy cái fontaine nước đâu cả. Trong đầu lại nghĩ “tại sao mình không đạp xe đến trường mà lại đi đường này…”. Nhiều lần muốn quay trở lại nhưng chân vẫn cứ đạp xe về hướng ngả ba chùa. Đạp thêm một đoạn nữa thì phía bên trái là một dãy nhà mười căn nơi có gia đình người bác của tao ở số 256 nhưng tao không còn thấy dãy nhà này nữa, nó biến đi đâu mất và trong tai tao vẫn còn nghe: “đến ngả ba chùa…đến ngả ba chùa…”. Mọi khi vẫn có sương mù nhưng tao vẫn còn nhìn thấy đường để đi, vẫn còn lờ mờ thấy nhà cửa xe cộ hai bên thế nhưng hôm đó tao không còn thấy gì cả mà sương mù hình như mỗi lúc một nhiều thêm. Có một điều lạ là tao cứ đạp xe như thế gần giống như đạp trong bóng tối mà không đụng vào một ai và cũng chẳng có người nào chạm vào tao. Quả là kỳ lạ! Tao không biết thời gian đạp xe trên đoạn đường này là bao lâu cho đến khi hình như có một vật gì rất lớn tông vào chiếc xe đạp của tao khiến tao ngả nhào xuống mặt đường, khi hoàn hồn thì thấy cả người lẫn xe nằm chỏng gọng trước cây xăng ở ngả ba chùa. Tao hoảng kinh vội đứng dậy nhìn quanh như người mất hồn. Có mấy người bu quanh và hỏi chuyện nhưng tao thật sự chẳng biết chuyện gì đã xảy ra. Có người cho tao hay: “cậu đang đạp xe phía bên phải bỗng xe đâm sang bên trái rồi ngả xuống đường, may mà không bị thương tích gì…”. Tao đứng dáo dát đâu chừng vài phút và nhận thấy quanh tao không có tí sương mù nào cả, bầu trời trong vắt sau những tia nắng ban mai rọi xuống khắp nơi…Khi tỉnh hẳn tao mới biết là mình đang trên đường đi học. Thế là tao vội vã nhảy lên xe đạp đến trường. Biết mình trễ nên tao đi thẳng vào văn phòng xin giấy cho vào lớp. 

Mày biết không? Chuyện xảy ra như thế nhưng tao cứ nghĩ: “chắc mình bị sương mù che nên đi lạc đấy thôi…”. Chuyện này tao không kể cho ông bô bà bô nghe, sợ bị rầy là chuyện hoang đường bịa đặt. 

Mày biết không? Ngày hôm sau và ngày tiếp sau đó, khi vừa đến đầu dốc La Sơn Phu Tử thì chuyện lại diễn ra như ngày hôm trước. Hậu quả là tao đến trường trễ và bị đuổi về, không cho vào lớp. Tao không thể hiểu được chuyện gì khiến tao lâm vào tình cảnh như thế. Tao có đặt câu hỏi “hay là ma bắt!”. Nếu ma thì phải xảy ra ở Mả Thánh chứ sao lại trên đường đi…mà tao thì chưa bao giờ bước chân lên đến Mả Thánh hay là làm điều gì trái khuấy đối với những người đã nằm sâu dưới những ngôi mộ kia. Sự việc xảy ra làm cho tao sợ vì nếu cứ tiếp tục xảy ra nữa, thế nào tao cũng bị đuổi học. Đến ngày thứ ba khi tao vừa ló đầu vào nhà thì liền bị bà bô phán liền cho một câu: “Mày sao vậy? Giống người người mất hồn, sao không đi học mà trở về? Bị ma bắt hả?”. Nghe hai tiếng “ma bắt” tao càng hoảng kinh hơn và cả ngày hôm đó tao không ăn uống gì và ngủ li bì. Ông bà bô tưởng tao bị bịnh nên cứ để cho tao ngủ suốt ngày hôm đó và qua đêm luôn.

Mày biết không? Tối hôm đó tao ngủ thấy chiêm bao chuyện xảy ra trước đó. Thế này. Lớp tao có thằng bạn tên Nguyễn Mại học khá giỏi và hiền lành, không bạn bè, không đàn đúm, đến trường vào lớp, tan học lủi thủi về nhà và chỉ có một mình tao chơi với hắn nên hắn cũng mến và nhiều lần rủ tao về nhà hắn chơi. Nhà hắn ở tận dưới ấp Cô Giang và đi học bằng xe đạp mỗi ngày. Hắn có người anh học trên hắn hai lớp. Đến nhà chơi nhiều lần và biết anh hắn có một tủ sách chừng năm sáu chục cuốn nên nhiều lần tao tò mò đến đọc các tựa đề sách. Có lần tao thấy ở gáy một cuốn sách có tựa ghi “Liêu Trai Chí Dị” của Bồ Tùng Linh. Tao từng nghe một người chị nói về sách “Liêu Trai Chí Dị” kể toàn những chuyện ma quái kì ảo lạ thường rất hấp dẫn của tác giả người Trung Hoa viết vào thời nhà Thanh ở cuối thế kỷ thứ 17. Một hôm tao bạo miệng bảo hắn lấy cho tao mượn cuốn “Liêu Trai Chí Dị” để đem về đọc. Lúc đó không có anh hắn ở nhà nên hắn lén lấy cuốn sách đưa cho tao. Về nhà tao đọc một hơi hết cuốn truyện chỉ trong một đêm, đúng là toàn những chuyện thần tiên, ma quái, hồ ly, lang sói cọp beo khỉ rắn…chẳng hạn như chuyện “Thiến Nữ U Hồn” kể chuyện chàng trai họ Ninh trên đường đi vào tá túc trong một ngôi chùa, tình cờ quen Yến Xích Hà. Cô này đã chết 18 năm trước bị yêu tinh khống chế bắt phải quyến rũ người để giết. Chuyện “Họa Bì” kể về một chàng trai đi đường gặp một cô gái nói là bị lâm nạn, chàng trai cứu nàng rồi mang về nhà để sống chung. Một đạo sĩ phát hiện nơi chàng có tà khí nhưng chàng không tin. Về nhà lén nhìn cô gái thì phát hiện ra đó là con quỷ khoác tấm da người. Chuyện “Họa Bích” kể chuyện hai chàng trai họ Mạnh và họ Chu vào chơi một ngôi chùa. Chu thấy trong phòng có một bức tranh vẽ trên tường và thấy một cô gái rồi cùng nhau yêu đương. Mạnh đi tìm không thấy Chu nên hỏi vị sư già. Vị sư liền gọi Chu từ bức vẽ đi ra. Mạnh và Chu hãi sợ bèn bái biệt nhà sư ra về…Đại khái có cả hàng trăm truyện nội dung tương tự như thế.

Mày biết không? Một hôm có thằng bạn tao đến nhà chơi thấy cuốn “Liêu Trai Chí Dị” để trên bàn học mà tao chưa kịp trả lại cho Mại. Tên này năn nỉ mượn, nói đọc xong ngày mai mang trả liền. Tin lời nên tao đưa cho hắn mượn. Hôm sau không thấy hắn mang trả. Tao có nhắc nhiều lần mà không biết vì cớ gì mà hắn cứ hẹn hết ngày này sang ngày khác. Sau đó tao quên bẳng luôn việc đòi sách và cũng quên luôn việc tao đã mượn cuốn đó của thằng Mại.

Mày biết không? Một hôm vừa vào đến sân trường thì mấy thằng cùng lớp cho hay là sáng hôm trước thằng Mại bị xe nhà binh đụng chết tại ngả ba chùa gần cây xăng. Tao nhớ ngay là chưa trả cuốn “Liêu Trai Chí Dị” cho hắn. Tối hôm đó tao ngủ thấy thằng Mại hiện về đòi sách. Trong chiêm bao hắn bảo: “vì cho mày mượn cuốn “Liêu Trai Chí Dị” không trả nên khi anh tao thấy trong kệ sách mất cuốn đó thì hạch hỏi tao. Tao không dám nói cho mày mượn và bị anh tao tát cho hai bạt tai…” Bẳng đi cả tuần lại xảy ra việc tao đi học nhưng không đi đến trường mà lại đạp xe đến ngả ba chùa liên tiếp trong ba buổi sáng. Tao nghĩ đến việc phải tìm cách trả lại cuốn “Liêu Trại Chí Dị” cho hắn.

Mày biết không? Không biết trời xui đất khiến thế nào mà thằng bạn  lại mang cuốn “Liêu Trai Chí Dị” trả lại và tao tìm đến nhà để trả cho anh hắn. Đến nơi thì hàng xóm cho biết gia đình hắn đã dời đi nơi khác. Đạp xe từ ấp Cô Giang để về nhà thì trời đã chập choạng tối và suơng mù không biết nơi đâu kéo về che  cả đường đi. Tao đạp xe ngang qua ngả ba chùa, đến cây xăng nơi tao bị vật té ba lần thì dừng lại, vào hỏi người bán xăng là mấy hôm trước có người học trò bị đụng xe ở đây phải không? Người bán xăng nhìn tao và đưa tay chỉ phía trái cây xăng nơi có mấy nhánh hoa glaieul đã héo nằm bên vệ cỏ. Lúc đó bên tai tao nghe tiếng của thằng Mại: “Hãy đưa sách cho tao…hãy đưa sách cho tao…”. Thế là tao cầm cuốn “Liêu Trai Chí Dị” đến đặt ngay bên mấy nhánh hoa tàn xong vội vã phóc lên xe đạp một mạch về nhà. Cả người tao ướt đẫm mồ hôi mặc dầu trời lúc ấy rất lạnh.

Người kể câu chuyện trên tên Lê Văn Hải học cùng lớp nhưng khác ban với kẻ viết lại câu chuyện này. Hải đi Võ Bị khóa 19. Noel năm 1971 tình cờ gặp Hải trong quán Brodard trên đường Tư Do ở Sài Gòn khi Hải về phép. Sau vài câu thăm hỏi, chúng tôi nhắc vài mẫu chuyện xưa khi còn đi học và Hải đã kể cho tôi nghe câu chuyện trên và lúc nào Hải cũng bắt đầu câu nói bẳng “Mày biết không? Mày biết không?” khiến tôi nhớ mãi. Hải tử trận vào ngày 26 tháng giêng năm 1973, một ngày trước hiệp định Paris được ký kết!

Phong Châu                                                                                                            




Phong Châu – THƠ NHÂN NGÀY GIỖ ĐỨC THÁNH TRẦN

HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN

Khởi từ huyền sử Mẹ Trăm Con
Cha đi xuống biển Mẹ lên non
Kết tinh giòng Việt Nam rạng rỡ
Năm nghìn năm vẹn nghĩa sắt son (1)

Trải qua mười tám đời Hùng Vương
Khơi sông phá núi thành ruộng nương
Văn Lang tên nước còn ghi rõ
Giòng giống Tiên Rồng trấn mười phương

Trải bao đời Đinh Lê Lý Trần…
Những lần đất nước bị qua phân
Năm lần bắc thuộc quân phương bắc
Chinh chiến điêu tàn thống khổ dân

Kề từ đời vua Trần Thánh Tông
Lũ quân xâm lược – giặc Nguyên Mông
Muốn biến dân ta thành nô lệ                                                      

Dân lành phải sống kiếp cùm gông

Vào đời thứ hai vua nhà Trần (2)
Giặc Mông phát động cuộc xâm lăng
Hội nghị Bình Than Trần Quốc Toản
Cờ vàng “phá địch báo hoàng ân

Kinh đô mở hội nghị Diên Hồng
Trẻ già trai gái diệt giặc Mông
Quân đi như nước tràn biển lớn
Nghĩa sĩ trung thần lập chiến công

Ơn vua nợ nước cứu dân lành
Giáo gươm hoen máu giặc hôi tanh
Hưng Đạo khiến quân Mông khiếp vía
Chương Dương Vạn Kiếp mãi lừng danh

Tây Kết máu giặc Nguyên đỏ ngầu
Quân Nam xuất trận chiến thắng mau
Vân Đồn xác giặc đầy sông suối
Hàm Tử Toa Đô xác lìa đầu

Tướng giặc hung thần Ô Mã Nhi
Điều binh đôi vạn lũ man di
Đã bị quân Nam ta bắt sống
Bại tướng Nguyên triều nuốt thị phi

Quân Tất Liệt tiến chậm thua nhanh
Đánh đâu bại đấy chạy cũng đành
Thoát Hoan trốn nhũi về Kinh Bắc
Kinh hồn bạt vía bọn lưu manh

“Phen này không thắng được giặc Mông
Không quay về trở lại dòng sông” (3)
Lời thề vang dậy hồn sông núi
Chờ tin thắng trận dân chờ mong

Chiến công lừng lẫy sóng Bạch Đằng
Thuyền Nam ra trận cánh buồm căng
Xác giặc chết chìm sâu đáy nước
Quân thù tan vỡ mộng xâm lăng

Quân dân Nam ý chí một lòng
Mở đường chiếm lại thành Thăng Long
Muôn dân nô nức mừng hội lớn
Khí phách anh hùng giống Tiên Long

Nhờ đâu đất nước được bình an
Viết thêm trang sử Việt huy hoàng
Nhớ ơn công đức Ngài Quốc Tuấn
Thánh cả Đức Trần mãi vẻ vang

Phong Châu

(1) 2879 TCN + 2025 = 4,904 năm

  • Vua Trần Nhân Tông

(3) Lời thề của Trần Hưng Đạo




PHONG CHÂU – Mưa Máu Hay… Mửa Máu




PHONG CHÂU – Truyện Ngắn VẠT NẮNG – THƠ

Truyện Ngắn: VẠT NẮNG

Ngọc Mai hất mền sang một bên rồi trườn mình sang phía có chiếc xe lăn đặt bên cạnh giường. Đúng ra thì nàng phải đợi cô y tá người Phi Luật Tân vào để đỡ nàng. Thường khi thì đúng tám giờ cô y tá mới vào. Nhìn đồng hồ thấy còn thiếu mười phút nữa mới đến tám giờ. Một thoáng nghĩ trong đầu “hay là hôm nay mình tự chuyển qua xe lăn mà không cần sự trợ giúp của cô y tá xem sao…”. Thoáng nghĩ xong là nàng dùng cả hai tay chống vào mặt nệm cứng rồi nhích mình nhiều lần sang mép giường bên phải, ngồi dậy và dùng hết sức để nhấc đôi chân ra khỏi giường. Nàng cố gắng làm cử động đong đưa hai chân bên mép giường và nhận thấy đôi chân đã không còn đau như những ngày trước. Nhìn chiếc xe lăn trước mặt mà chưa biết cách nào để đặt mình vào đó, Ngọc Mai cảm thấy có mồ hôi rịn ra ở trán nên vội đưa tay lên quẹt. Vừa lúc ấy cửa phòng xịch mở và cô y tá – Maria bước vào. Thấy Ngọc Mai ngồi ở mép giường, Maria vội chạy lại đưa hay tay vừa đỡ cả người Ngọc Mai và hỏi:                       

– Cô làm sao thế? Sao không chờ tôi vào…?                    

 Ngọc Mai trả lời:

– Tôi chỉ thử ngồi dậy thôi…                                        

Maria nói có phần nghiêm khắc:                            

– Đôi chân của cô còn yếu, chưa thể nào…   

Đồng thời, như mọi khi, đỡ Ngọc Mai ra khỏi giường và với những động tác rất chuyên nghiệp, chỉ trong vòng vài phút, Ngọc Mai đã ngồi gọn trên chiếc xe lăn. Nàng được đẩy đến phòng ăn. Bữa ăn sáng của các bệnh nhân diễn ra vào lúc tám giờ rưởi mỗi ngày như thường lệ. Hôm nay Ngọc Mai chỉ ăn một mẩu bánh mì, một miếng trứng chiên và uống một tách cà phê như mọi khi. Nhìn quanh căn phòng rộng chứa chừng hai mươi thực khách toàn là những người bệnh đang trong thời kỳ luyện tập để phục hồi. Có hai người đồng bệnh do tai nạn như nàng vừa mới xuất viện ngày hôm trước nên hôm nay nàng không có ai ngồi bên cạnh để chuyện trò trước khi được đẩy ra ngoài sân để hưởng chút không khí trong lành buổi ban mai.

Ngọc Mai yêu cầu Maria để cho tự mình lăn chiếc xe ra sân trước có mái che chạy dài dọc mái hiên của cơ sở phục hồi. Như thường lệ, nàng gật đầu chào những người bệnh cũng ngồi trên xe lăn hầu hết là những người lớn tuổi, một số đang đưa mắt nhìn về cõi xa xăm nào đó ở phía trước bằng những cặp mắt đờ đẫn vô hồn, số khác lại hết quay đầu sang bên phải rồi sang bên trái như để quan sát hết mọi việc chung quanh, có người mỉm cười vu vơ, có người mặt mày cau có khó chịu. Đó là hoạt cảnh mỗi buổi sáng mà Ngọc Mai đã chứng kiến trong suốt thời gian nàng có mặt ở đây sau khi chữa lành đôi chân từ bệnh viện và được chuyển đến đây để được trị liệu phục hồi.

Ánh nắng ban mai ấm áp phủ lên những ngọn cây phong đã đổi màu chiếu lan vào tận trong khu vực của những bệnh nhân đang ngồi. Như đã có ý định sẵn, hôm nay Ngọc Mai chọn một chỗ ngồi tương đối hơi xa các bệnh nhân khác trong đó đa số là người Mỹ, trắng có đen có cùng ba bốn bệnh nhân là người Việt Nam lớn tuổi để tránh chuyện trò vu vơ nhàm chán như những hôm trước. Nàng quyết định hôm nay sẽ đọc lại những đoạn ghi trong cuốn note nàng đã viết trong hơn một tháng. Maria mang đến cho nàng một ly nước và báo tin cho nàng biết là ngày mai nàng sẽ được xử dụng chiếc xe đẩy bốn bánh để di chuyển chứ không còn ngồi trong xe lăn nữa và hôm nay nàng không phải đến phong tập hồi phục. Ngọc Mai rất vui với tin này.

Chờ cho Maria rời khỏi chỗ nàng đang ngồi, Ngọc Mai cầm cuốn note đưa lên ngực và hít một hơi dài rồi nhắm nghiền đôi mắt, thở ra như để gỡ bỏ mọi vướng bận trong đầu hầu bình tâm đọc là những gì nàng đã viết. Đến lúc này nàng mới cảm thấy đang có một làn gió lạnh thổi vào sân. Nhìn quanh nàng thấy hầu như ai cũng có khoác áo ấm, riêng nàng thì không. Chút gió lạnh mơn man đầu thu khiến tâm hồn nàng cảm thấy nhẹ nhõm và hình như nó cuốn lôi đi những băn khoăn lo nghĩ vẩn vơ mà trong thời gian qua đã đem lại cho nàng nhiều ý nghĩ tiêu cực.

Ngày 15 tháng 6 – 2000… Mở mắt và nhìn thẳng lên trần nhà trắng toát khiến mình bàng hoàng. Không biết tại sao mình lại ở đây. Chưa nhớ được điều gì đã xảy ra. Mơ mơ hồ hồ thấy hình như mình đang nằm trong bệnh viện. Mệt nhiều lắm! Không biết chuyện gì đã xảy ra? Anh Minh đang ở đâu? Sao không thấy tới ?…

Ngày 20 tháng 6 – 2000… Hôm nay được đọc tờ biên bản của cảnh sát. Biết mình và anh Minh đã gặp tai nạn. Trời ơi! Sao thế? Anh Minh đã chết thật rồi sao? Một kẻ say rượu lái xe tông vào xe anh khiến anh chết tại chỗ. Mình bị văng ra cửa xe và bị thương ở đầu và cả đôi chân…

Ngày 21 tháng 6 – 2000… Nhớ ra rồi. Hôm đó sau giờ tan việc, mình và anh Minh hẹn nhau để đi sắm đồ cưới. Trước khi đến khu shopping, anh Minh và mình có ghé lại một tiệm ăn Việt Nam để ăn phở. Cả hai đều đói bụng sau cả ngày làm việc…

Ngày 24 tháng 6 – 2000… Mình nhớ. Ngồi trên xe mình thấy bảng chỉ tốc độ là 40 miles. Cả hai đang bàn tính sẽ chọn mẫu áo nào cho ngày cưới sắp tới. Rồi hai đứa cùng cười vui vẻ. Bỗng đâu một chiếc xe từ bên phải vượt đèn đỏ với tốc độ rất nhanh. Mình chỉ kịp ôm đầu và la thất thanh ối trời. Rồi không còn biết chuyện gì đã xảy ra…

Ngày 30 tháng 6 – 2000… Nghe mấy cô y tá nói khi tai nạn xảy ra thì mình bị bất tỉnh gần như hôn mê cả mấy ngày. Nhưng may mắn là đầu không bị tổn thương nhiều. Nặng nhất là xương chân bị bể. Các bác sĩ nói không cần mổ ở đầu nhưng phải mổ xương và may vá gì ở trong đó mình cũng chẳng hay đến khi tan thuốc mê mới được biết đôi chân đã OK, chỉ chờ cho chúng lành lặn. Ở bệnh viện các cô y tá giúp bế mình sang xe đẩy để giải quyết những sinh hoạt cá nhân. Ờ…mà sao bên gia đình của anh Minh không thấy có ai đến thăm và thuật lại những gì đã xảy ra cho mình nghe…

Ngày 4 tháng 7 – 2000… Hôm nay có ba người bạn làm cùng sở ghé thăm và tặng quà. Họ bảo hôm nay là ngày lễ độc lập Hoa Kỳ mà mình quên bẳng. Họ nói có đi dự đám tang của anh Minh nhưng không nghe có ai nhắc đến tên Ngọc Mai cả. Tại sao vậy nhỉ? À…mình nghĩ ra rồi…Cả gia đình anh Minh hầu như không đồng ý với cuộc hôn nhân giữa mình và anh ấy. Họ bảo mình là đứa con gái mồ côi, không cha không mẹ…Nghe thật đau lòng, chỉ trừ có cô em gái út. Nhưng tại sao cô ta cũng không đến thăm mình?…

Ngày 8 tháng 7 – 2000… Hôm nay mình nhớ ngày mà cha mẹ mình bị bọn hải tặc Thái Lan đâm chết và vứt xác xuống biển. Mới đó mà đã hơn hai mươi năm. Lúc đó mình mới mười tuổi được một cặp vợ chồng cùng vượt biên dắt cho đến đảo và cũng được khai cùng gia đình để được vào Mỹ…Được đi học cho hết lớp 12 mình xin việc làm và tiếp tục ghi danh học ở college. Gia đình ân nhân này lại dời sang sống tại tiểu bang Alaska vì có hai người con đã định cư ở đó. Mình ra ở nhà mướn. Một dạo sau thì mình mất liên lạc với họ…

Ngày 19 tháng 7 – 2000… Nhớ anh Minh quay quắt mà không biết cách nào để ra ngoài ghé viếng mộ của anh. Gia đình của anh ấy thật tệ. Không biết họ nghĩ thế nào về mình. Chẳng lẽ vì cái tội không cha không mẹ mà bị khinh khi đến thế sao!? Cha mẹ chết vì vượt biên chứ đâu phải mình là con hoang con dã gì cho cam. Nghĩ mà buồn cho thân phận…

Còn vài đoạn nữa Ngọc Mai muốn đọc cho hết để rồi tiếp tục ghi thêm vào cuốn note nhưng bỗng nhiên nàng thấy hơi khó thở. Ngọc Mai cố sửa lại thế ngồi cho thẳng để dễ thở hơn. Nhưng khi nàng vừa ưỡn ngực thì ngay lúc đó đầu nàng gục xuống. Cuốn note văng ra khỏi tay nàng.

Các bệnh nhân, một số đã vào phòng tập phục hồi từ lâu, chỉ còn vài người ngồi hóng chút ánh nắng còn lại ở mép sân hiên. Vạt nắng rọi xuống nơi Ngọc Mai ngồi rồi cũng dần biến mất…

Phong Châu – Tháng 8 – 2025

Mây Bay…

Những áng mây chiều lờ lững trôi
Thênh thang bay mãi tận chân trời
Có chở tình ta về bên ấy
Neo vào bến nước cạn dòng trôi

*
Ngày tháng tha hương mộng bềnh bồng
Trăng tròn trăng khuyết sầu mênh mông
Đôi vầng nhật nguyệt ôm thương nhớ
Đất đá thương nhau cũng nát lòng

*
Chim biệt xa ngàn nội cỏ phai
Người xưa năm cũ biết còn ai
Chén rượu ly bôi ngày chia biệt
Ghế đá nghiêng buồn giọt nắng mai

*
Lá mùa thu đã rụng ven sông
Bờ xưa con nước có chạnh lòng
Phố cũ còn ai qua ngõ vắng
Đêm buồn như phố thị mùa đông

*
Người ở nơi nào ta chốn đây
Rong rêu trong trí đã phủ đầy
Nửa giấc chiêm bao dài muôn kiếp
Mộng vút lên trời theo áng mây

*
Người xưa còn nhớ gọi tên nhau
Trăm năm chưa đến đã bạc đầu
Lữ khách dừng chân hoài dĩ vãng
Đường về che khuất lối nương dâu

*

Nghìn năm mây trắng vẫn còn bay
Người đi xa lạc dấu chim bầy
Hương lòng xin gửi về quê cũ
Dòng lệ vơi đầy chén rượu cay


Phong Châu
Tháng 8 – 25




TÂM TÌNH 70 NĂM

                                                       

Anh Đà Điểu Siêng Năng Cao Ngọc Cường và chị Vành Khuyên Yêu Đời Nguyễn Thu Hương tổ chức buổi họp mặt hôm 23 tháng 8 – 2025 tại tư gia của Mado. Đà Điểu Siêng Năng cho biết: “Mừng 70 Năm Hướng Đạo của anh Hươu Hăng Hái là “cái cớ” để các Trưởng và Anh chị Em có cơ hội gặp nhau, hâm nóng tình Hướng Đạo …”.

Thật vậy! Buổi họp mặt không những với sự hiện diện của Tráng Sinh Tráng Đoàn Nguyễn Trãi (Toán Lam Sơn) như Cao Cường, Quốc Thắng & Bích, Kiêm Thiện, Chí Hiếu, Bé Tư, Quốc Anh, Nhân Đinh, Thanh Hùng, Trung Cương, Mado, Phạm Xoàn, Thanh An,  Hương & Mỹ, Thu Thảo, Tuyết Hoa… mà còn có mặt các Trưởng và Trưởng Niên: Cao Bình, Kenneth Tô, Triết Trần, Trung Tường & Mai Hoa, Thăng Võ & bề trên, Phước Hoàn, Thu Châu, Lê Hạnh, Mỹ Dung… Có ba người bạn của Hướng Đạo là anh chị Đỗ Hữu Phương (hàng xóm của Mado, bạn của Hươu và Nhạn) và chị Hồng Vân (bạn của Thanh An từ Dallas).

Thường thì các cuộc họp mặt hay diễn ra vào buổi chiều, nhưng lần này diễn ra nhằm buổi trưa cho tiện việc các Trưởng có tí tuổi thấy đường lái xe trở về. Nhưng chắc đó là “cái cớ” thôi. Trưa hay chiều thì cũng thế thôi…Từ 11 cho đến 12 giờ anh chị em lần lượt đến. Có anh ở xa cũng đến khá đúng giờ như anh Chí Hiếu, Phước Hoàn, Trung Tường, Kiêm Thiện (9 bó + 3 đến sớm nhất). Nhìn từng gương mặt khi bắt tay trái Hươu đều nhớ tên rừng của các anh chị, Hươu vẫn thích gọi tên của các anh chị bằng những tên rừng một cách trân trọng và thân thiết: Đà Điểu Siêng Năng, Sáo Tận Tâm, Trâu Tín Cần, Sóc Nhiệt Thành, Sói Nhiệt Thành, Báo Bền Chí, Sói Trung Kiên, Hà Mã Tận Tụy, Hoẳng Hay Hát, Hoẳng Nhiệt Tâm, Vành Khuyên Yêu Đời, Nhạn Trắng Nhu Mì, Thiên Nga Hiền Lành, Kim Tước Trung Trực, Sáo Trực Tính, Vàng Anh Kiên Tâm, Hoàng Yến Kiên Tâm…

Anh chị em giải quyết vấn đề bao tử vào đúng giờ “Ngọ Tây” trước khi ngồi quanh ở phòng khách để xem Slideshow hình ảnh “Hành trình 70 Năm Hướng Đạo” của Hươu. Slideshow này do sáng kiến của chị Vành Khuyên Yêu Đời. Cách nay hơn một tháng khi chị gọi điện thoại bảo Hươu gửi cho chị một số hình ảnh sinh hoạt Hướng Đạo từ trong nước ra đến hải ngoại. Mất cả gần hai tuần Hươu mới tìm ra một số hình gửi cho Vành Khuyên. Chị và người con trai đã thực hiện Slideshow này. Rất may là Hươu còn giữ được một số hình ảnh trắng đen lúc mới bước chân vào Hướng Đạo. Hươu có cơ hội giải thích một số hình ảnh xuất hiện trên màn hình.

Vui nhất có lẽ là lúc Hươu nhận được các món quà từ tay các anh chị tặng. Đặc biệt là một sừng Hươu được gắn trên chiếc Hoa Bách Hợp bằng gỗ có chữ ký của tất cả anh chị em. Quà Hướng Đạo vẫn là những thứ vô cùng quý báu. Một mặt nó thể hiện được tình Hướng Đạo, mặt khác nó đem lại niềm vui lớn cho người nhận. Đối với Hươu, cái sừng Hươu hay những chú Hươu bằng gỗ, bằng kim loại, những chiếc bút nịt, những chiếc patche kỷ niệm các sự kiện Hướng Đạo đã làm giàu thêm cho kho tàng báu vật của Hươu lâu nay.

Ngoài những lời chúc mừng và tặng quà Hướng Đạo từ anh chị em đến dự buổi họp mặt, Hươu còn nhận được quà và những lời chúc mừng từ các Trưởng và anh chị em Tráng Sinh từ các nơi gửi về. Hai nữ Tráng Sinh Phan Nữ Lan (Dallas) tên rừng Bạch Yến Nhân Hậu và Ngô Lý Thị Thanh (Indiana) tên rừng Thỏ Đảm Đang đã gửi tặng một tấm plaque bằng thủy tinh mừng Hươu 70 Năm Hướng Đạo. Trưởng Nguyễn Thị Hai từ Dallas gọi chúc mừng và cho biết Trưởng hủy chuyến đi xuống Houston vì mấy cái răng của chị phản đối rất dữ dội nên phải đi nha sĩ trị chúng. Xin cám ơn chị Hải Ngưu Khéo Léo. Chị Minh Xuân từ thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts viết: “Chúc mừng anh Hươu Hăng Hái. Mong anh được vui khỏe để tiếp tục sinh hoạt lâu dài với Anh Chị Em. Tabtt. Minh Xuân”. Còn anh Hươu Điềm Tỉnh Nguyễn Cửu Lâm, đương kiêm Tráng Trưởng “muôn năm” của Tráng Đoàn Nguyễn Trãi thì viết qua email rằng: “Anh Hươu ơi! 70 Năm Hướng Đạo rồi, còn 30 năm nữa là tròn thế kỷ. Cứ thế mà đi nhé! Chúc anh mọi điều tốt lành. Tabtt. Hươu Điềm Tỉnh. California.”

Trưởng Nguyễn Văn Thuất – Voi Cần Mẫn ở thành phố Sydney, xứ Kangaroo tận phía nam bán cầu viết: “Chúc mừng anh Châu đến được một mốc điểm thật đặc biệt trên đường Hướng Đạo. Hoan hô những tình cảm chân thành và đậm đà của Anh Chị Em trong Tráng Đoàn Nguyễn Trãi. Tabtt. Thuất.”. Ngoài ra Trưởng Voi Cần Mẫn còn gửi tặng một chiếc Patch kỷniệm.

Tiết mục ca hát không thể nào không có trong những lần họp mặt như thế  này. Những bài hát ngắn và vui kèm theo chương trình hát “Du Ca” đã được đưa vào chương trình sinh hoạt trong các kỳ trại miền hay trại họp bạn. Ca hát xưa nay vẫn là một mục trong sinh hoạt Hướng Đạo. Những bài hát này thường có nội dung đề cao lòng yêu nước, mến cảnh thiên nhiên, ca ngợi quê hương, ca ngợi lòng yêu nước và những anh hùng liệt nữ Việt Nam… Nhớ lại trước đây mỗi lẫn có trại họp bạn Miền hay Thế Giới thường có chương trình dành cho các Trưởng và phụ huynh. Hươu đã đưa chương trình ca hát này vào sinh hoạt bằng những tiêu đề “Hát Cho Việt Nam, Đêm Việt Nam…”. Chương trình thực hiện kể từ trại Thẳng Tiến X tổ chức tại Texas 2014 và tiếp sau đó trong các trại họp bạn XI, XII và các trại họp bạn Trưởng Niên cũng có tiết mục ca hát này.

Cơ hội để anh chị em cùng ngồi bên nhau hát bằng những bài hát đã trở thành phổ biến chẳng những trong Hướng Đạo mà còn cả trong một số hội đoàn Trẻ khác nữa. Với cây đàn thùng, anh Hoẳng Hay Hát giữ giọng và giữ nhịp, chị Vành Khuyên bấm máy cho các bài hát hiện lên màn hình. Lâu lâu được hát to, hát nhiều nên hình như anh chị nào cũng thấy hai lá phổi của mình có cơ hội hít và thở nhiều hơn…

Đồng hồ trên vách tường chỉ hơn ba giờ. Cuộc vui nào rồi cũng phải đến giờ chia tay. Một vòng tròn nhỏ, tay trong tay cất lời tạm biệt “Gặp nhau đây rồi chia tay. Ngày vàng như đã vụt qua trong phút giây. Niềm hăng say còn chưa phai. Đường trường sông núi hẹn mai ta sum vầy…” “Lúc thú vui này lòng càng quyên luyến anh em chúng mình. Lúc thú vui này lòng càng những muốn anh em thấu tình. Rời tay nhau chớ lâu nhé! Tình anh em chớ quên nhé! Lòng anh em nhớ nhau tuy xa mà hóa ra gần…”.

Mọi người quyến luyến ra về và không quên hẹn găp nhau trong trại mùa đông cuối tháng 10.

Đáng lẽ bài viết này đến đây là chấm dứt. Nhưng Hươu muốn nhân cơ hội này để thưa thêm đôi điều. Hươu muốn gửi lời cám ơn đến anh Đà Điểu Siêng Năng và chị Vành Khuyên Yêu Đời đã tổ chức buổi họp mặt thân tình này. Cám ơn các anh chị có mặt và tặng quà buổi hôm đó. Cám ơn các anh chị từ xa gửi lời chúc đến Hươu. Cám ơn chị Thỏ Đảm Đang và Bạch Yến Nhân Hậu tặng món quà quý và đẹp. Cám ơn Trưởng Nguyễn Văn Thuất từ Australia xa xôi. Không quên anh Sóc Nhiệt Thành đã tặng patch kỷ niệm 95 Năm và 100 Năm Hướng Đạo Việt Nam. Cám ơn anh Sói Nhiệt Thành đã design và giúp thực hiện patch 70 Năm cho Hươu…

Trong buổi họp mặt trên anh Đà Điểu Siêng Năng có nói với Anh Chị Em rằng: “Nếu anh Hươu chơi Hướng Đạo suốt mấy mươi năm như thế mà không có sự yểm trợ của vợ thì có lẽ cuộc chơi của anh cũng không được như ý …”. Vậy nên Hươu phải gửi lời cám ơn đến “người trong nhà” tức là vợ của Hươu mà trong anh em Hướng Đạo vui gọi là “bề trên”. Phải thành thật khai báo rằng “bề trên của Hươu chẳng những không ngăn trở mà cũng đã ghi danh sinh hoạt Hướng Đạo. Hai vợ chồng cùng đi họp, đi trại và tham dự các trại lớn từ khi còn ở trong nước cũng như lúc ra ở nước ngoài, cùng đi dự trại họp bạn thế giới. Cũng từng ngủ bụi ngủ bờ, lội sông, băng suối và chung một niềm vui với anh chị em Hướng Đạo. Tên rừng của “bề trên” Hươu là Nhạn Trắng Nhu Mì.

Có chút tâm tình Hươu cũng muốn thưa thêm. Nhìn lại quãng đời ngoài tám mươi tuổi của mình, trong đó có 70 năm gắn bó với Phong Trào Hướng Đạo. Xin nói thẳng: Nếu không “chơi” Hướng Đạo thì chưa chắc Hươu đã thành người tương đối tử tế như ngày hôm nay. Hươu chỉ dám nói “tương đối tử tế” thôi. Vì ngẫm lại Hươu vẫn còn nhiều điều bất cập, nhiều khuyết điểm, nhiều điều bất toàn trong cuộc sống đầy cam go, đặc biệt 17 năm sau năm 1975. Có một điều là dù bất cứ trong hoàn cảnh nào Hươu cũng đã “Cố Gắng” như một Sói Con, “Sắp Sẵn” như một Thiếu Sinh và “Giúp Ích” như một Tráng Sinh. Hươu đã từng tâm sự với một số anh chị em rằng: “Mình coi Hướng Đạo như là một triết lý sống”. Một thứ triết lý thực tiễn và hữu ích dẫn tới sự thành công trong đời, thành công về phẩm hạnh. Thành công về lòng trung chánh. Thành công trong nghĩa vụ “Giúp Ích”. Do vậy Hươu không thể không bày tỏ lòng biết ơn đối với Phong Trào Hướng Đạo. Nhớ ơn huân tước Baden Powell. Nếu không có Ngài thì làm gì trong hơn một thế kỷ qua giới trẻ (và cả người lớn) khắp năm châu có một Phong Trào “Luyện Người” hữu ích. Nhớ ơn Trưởng sáng lập Hướng Đạo Việt Nam Trần Văn Khắc cùng các Trưởng tiền bối đã dắt đưa Hươu vào con đường Thiện Lành.

Bảy Mươi Năm – Một chặng đường thật dài – Nhiều lần tưởng chừng như ngả quỵ. Nhưng rồi với Ba Lời Hứa và chiếc Gậy Nạng của “Tráng Sinh Lên Đường”, Hươu đã tránh được những “tảng đá ngầm” đang chực chờ nhận chìm mình. “Tảng Đá Ngầm” là hình ảnh mà huân tước Baden Powell đã dùng để khuyến cáo các Tráng Sinh khi vào đời được ghi trong cuốn “Đường Thành Công” xuất bản lần đầu vào tháng 6 năm 1922.

Ngoài ra, đời sống tâm linh cũng đã giúp cho Hươu có một nơi nương tựa vững chắc và tinh tấn.

Phong Châu

Tháng 8-2025




VTLV TRÂN TRỌNG CHÀO MỪNG VĂN THI SĨ/TRƯỞNG HƯỚNG ĐẠO PHONG CHÂU/HOÀNG KIM CHÂU

**

**

**

**

gyvgguiguguiguguigu.jpg

**

https://drive.google.com/file/d/1lXKVLqtYPMTMc1wrFywpEkFnJCF1ScxO/view?usp=drive_linkL xin gởi đến quý anhchi 

video về bài phỏng vấn của anh Châu do Radio Houston, TX thực hiện năm 2018- năm diễn ra trại Jamboree Thẳng Tiến XI  (hơn 2000 trại viên khắp nơi tham dự) ở Virginia, Hoa Kỳ- Cảm ơn các anh chị𝓽𝓷𝓵 -thailan phannữlan====================Năm nay anh Hươu cũng tròn 70 năm Hướng ĐạoMỪNG VÀ KÍNH PHỤC XIẾT BAO! khi được làm đàn em của một TRƯỞNG QUÁ NHIỀU TÀI NĂNG  & ĐẠO ĐỨC!KÍNH CHÚC ANHCHỊ LUÔN MÃI THẬT VUI KHỎE++++ Đây là bài thơ của Trưởng Cao Ngọc Cường – Đà Điểu Siêng Năng – tặng anh Hươu
Mừng anh Hươu đạt bảy mươi năm
Sinh hoạt Hướng Đạo tự năm lăm 
Đến nay cũng đã U chín chục 
 Hươu vẫn còn hăng và rất hăng
Tráng dù đã lão còn Giúp Ích
Hùng khí trào dâng Sóng Bạch Đằng
Chúc anh vui khỏe, Hươu Hăng Hái
Còn chơi hướng đạo đến một trăm
Tabtt (thân ái bắt tay trái -câu chào của Hướng Đạo)⚜️đ đ s n  – Đà Điểu Siêng Năng

**

**

**

*

**

**

**

CĂN GÁC NHỎ THƠ PHONG CHÂUNHẠC NGUYỄN QUYẾT THẮNG – CA SĨ Minh Đặng

*

2

3

***




Kỷ Vật

Truyện Ngắn – Phong Châu

Bà Mai ngồi lặng lẽ trong căn phòng nhỏ và đóng cửa lại để khỏi nghe những tiếng cười nói ồn ào của những người đến dự đám giỗ chồng bà. Năm mươi năm rồi sao? Hình như chỉ mới đây thôi mà! Bà nghĩ vẩn vơ như vậy. Không! Đúng năm mươi năm! Anh ấy tử trận ngày 19 tháng sáu năm 1974 sau khi hiệp định đình chiến được ký kết hơn một năm trước đó. Những tưởng sau hiệp định Ba Lê 1973 cuộc chiến sẽ chấm dứt để các bên hòa đàm đem lại hòa bình cho dân chúng đôi miền. Nhưng không! Bà nhớ chỉ vài giờ sau khi lệnh đình chiến có hiệu lực thì cộng quân đã tràn vào những vùng xôi đậu vùng nông thôn trước đây để cắm cờ chiếm đất. Cờ của “mặt trận giải phóng miền nam” ngụy trang cho lá cờ máu sao vàng của bắc việt. Rồi cuộc chiến bùng phát dữ dội. Quân bắc việt liên tục được đưa vào miền Nam đông như kiến và các trận đánh diễn ra khắp nơi vô cùng ác liệt. Chẳng những thế Hà Nội còn mời Trung cộng mang quân đánh chiếm đảo Hoàng Sa và hình như có sự đồng tình của đồng minh Hoa Kỳ – sau này bà đọc nhiều bài viết trên mạng nói về sự kiện Hoàng Sa tháng giêng 1974 bà mới biết thêm như vậy.                                                                                                                                            Bà Mai đang miên man nghĩ về quãng thời gian của hơn nửa thế kỷ trước thì cửa phòng sực mở. Con gái bà và hai đứa cháu ngoại xuất hiện. Khi cánh cửa vừa mở ra, hai đứa cháu, một trai một gái vội chạy đến ôm chằm lấy bà. Bà xúc động vì đây là lần đầu tiên bà được gặp hai đứa cháu. Chúng được sinh ra ở bên Mỹ và cả hai vừa mới được nghỉ hè sau năm học dài, con gái bà là Thanh dắt chúng về Việt Nam dự đám giỗ ông ngoại và nhân dịp cho hai con biết quê hương cội nguồn của chúng.

Sau khi nhận hai gói quà từ hai đứa cháu ngoại và đặt ở chiếc bàn nhỏ gần giường ngủ, bà Mai mở cửa bước ra phòng khách và thấy người thân và mấy người bạn đã ra về hết, chỉ còn lại cậu em trai là Tuấn đang ngồi uống bia một mình. Bà quay vào phòng ra dấu cho con gái và hai cháu ngoại trở ra phòng khách. Bà bảo Thanh – con gái của bà và hai cháu ngoại ngồi bên cạnh cậu Tuấn. Bà kéo một chiếc ghế và đặt ngồi đối diện. Bên ngoài có cơn mưa đang đổ xuống, bà đứng dậy đến kéo mấy tấm màn che cửa sổ và khóa chốt cửa chính ra vào. Sau khi thận trọng xem lại các màn cửa đã kéo kín, bà tắt bớt hai ngọn đèn, chỉ giữ lại một ngọn cho vừa đủ sáng nơi có cậu Tuấn và con cháu của bà đang ngồi.

Bà trở lại ghế ngồi. Không nói một lời nào. Không gian im ắng và thời gian hình như cũng không chuyển động. Cậu Tuấn và Thanh nhìn nhau biểu đồng tình “không biết bà Mai làm gì, nói gì?            sao có vẻ như có một chuyện gì quan trọng mà bà sắp thông báo cho mọi người cùng biết”. Một lát sau bà  Mai đứng dậy và bước tới phía trước bàn thờ đốt ba cây hương cắm vào bát nhang thờ Phật, rồi bà lại đốt thêm ba cây hương khác cắm vào bát nhang đặt trước bài vị và di ảnh của chồng bà. Xong đâu đó bà trở lại ghế ngồi. Cậu Tuấn và Thanh đang chờ bà nói một điều gì đó. Sau vài lần chớp mắt thì cậu Tuấn lẫn Thanh thấy đôi mắt bà đỏ hoe, hình như những giọt nước mắt đâu đó đang chực chờ để chảy xuống đôi gò má nhăn nheo lốm đốm năm bảy vết nám của thời gian. Dằn cơn xúc động, bà Mai nhìn cậu Tuấn, rồi nhìn Thanh và hai đưa cháu đang ngồi trước mặt nói với giọng run run:                                  

– Hôm nay tôi muốn nói với cậu Tuấn và cháu Thanh một chuyện mà suốt mấy chục năm qua tôi chưa hề tiết lộ, chỉ là chuyện trong gia đình mình thôi.

Tuấn và Thanh hơi bàng hoàng, không biết có chuyện gì xảy ra mà bà Mai lại nói như thế. Cả hai gần như nín thở để nghe. Sau khoảnh khắc im lặng bà Mai nói tiếp:                                                                                                                         

– Chuyện là thế này – bà nhìn thẳng vào mặt cậu em rồi nhìn con gái – mấy chục năm về trước, chắc cũng phải ngoài ba chục năm, cháu Thanh có hỏi tôi về một chiếc hộp đặt trên bàn thờ, phía sau di ảnh của ba cháu và muốn biết thứ gì ở bên trong chiếc hộp đó. Tôi chỉ nói bên trong hộp đựng tờ “phái quy y” của tôi chứ chẳng có gì bên trong ấy nữa. Thưc sự thì không phải như thế.

Bà Mai ngưng nói và đưa mắt nhìn lên bàn thờ. Mùi hương thơm đã lan tỏa cùng khắp căn phòng. Bà đứng dậy bước đến cửa sổ vén màn nhìn ra bên ngoài. Trời vẫn còn mưa và đường phố hình như chẳng còn ai qua lại vì mưa càng lúc càng lớn. Ánh đèn đường hiu hắt phả vào màn mưa mờ đục nhạt nhòa. Bà quay lại, đến trước bàn thờ vái ba vái rồi với cử chỉ nhẹ nhàng, kính cẩn đưa tay ra phía sau tấm di ảnh của chồng để nâng nhẹ chiếc hộp bằng gỗ màu đen, xong đem đặt chiếc hộp ngay giữa bàn trong khi cậu Tuấn và con gái ngơ ngác theo dõi từng cử chỉ của bà. Không một tiếng động. Bà ngồi xuống ghế đưa mắt nhìn cậu Tuấn và con gái cùng hai đứa cháu im lặng tò mò theo dõi. Hai đứa cháu chốc chốc đưa mắt nhìn nhau và hình như ngầm bảo “chẳng hiểu gì”. Chúng nghe những lời của bà Mai vừa nói và loáng thoáng hiểu một vài chữ nhưng nội dung của câu chuyện như thế nào thì chúng hoàn toàn không rõ.

Chiếc hộp màu đen đặt trên bàn là điểm chú ý của mọi người, bà Mai, cậu Tuấn, Thanh và hai đứa cháu. Bà Mai cố nén cơn xúc động và sau vài lần ngập ngừng, bà đưa tay cầm lấy chiếc hộp lên và mở nắp hộp để xuống bàn, chiếc hộp sau đó cũng được bà đặt lại chỗ cũ. Cậu Tuấn, Thanh và hai đứa cháu đưa mắt nhìn vào chiếc hộp đã mở nắp. Có một vật gì đó nằm bên dưới một tờ báo cũ được gấp lại. Thoáng nhìn cậu Tuấn và Thanh đọc được mấy chữ in đậm nét trên một góc của tờ báo “Trận đánh khốc liệt tại Mộc Hóa, Kiến Phong ngày 18 -19 tháng 6 – 1974”. Đó là tờ nhật báo Tiền Tuyến bà Mai còn giữ lạicó ghi rõngày 20 tháng sáu năm 1974, sau khi chồng bà tử trận một ngày. Mộc Hóa là trận địa nơi chồng bà đã chỉ huy một đại đội bộ binh đánh nhau với quân việt cộng suốt hai ngày hai đêm. Đại úy Lê Duy Hà – chồng bà đã anh dũng hy sinh.

Thi thể của chồng bà được ban hậu sự đơn vị đưa về tận nhà và sau tang lễ bà đã giữ lại lá cờ vàng đã được phủ trên nắp quan tài cùng chiếc áo trận bị nhiều vết đạn xuyên thủng. Bà Mai trịnh trọng đặt lá cờ và chiếc áo trận trên bàn thờ, trước di ảnh của chồng. Chỉ trong vòng một năm chiến sự càng ngày càng khốc liệt và những cuộc di tản diễn ra từ cao nguyên và liên tiếp các tỉnh miền Trung rơi vào tay cộng quân. Bà Mai lo âu kèm theo nỗi thất vọng ê chề. Một thân một mình và bụng mang dạ chửa nên bà Mai chỉ biết tụng kinh niệm Phật cầu nguyện. Bà thấy một số gia đình đã mang những thứ có liên quan tới những người lính trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa như giấy tờ, áo quần, giày…ra đốt hoặc mang đi liệng, ngay cả những lá cờ họ cũng dùng dao kéo cắt ra nhiều mảnh để hủy. Nhìn thấy cảnh này bà Mai hết sức đau lòng. Riêng bà, bà đã cuộn nhỏ lá cờ và bọc trong một miếng vải màu trắng, bên ngoài bọc thêm một lớp giấy báo cũ. Chiếc áo trận của chồng cùng lá cờ được bà cho vào một hộp gỗ đặt trên bàn thờ và cứ đến ngày giỗ của chồng, bà – một mình tự tay mở chiếc hộp ra để nhìn chiếc áo trận và lá cờ màu vàng ba sọc đỏ…

Biết cậu Tuấn và Thanh đang chăm chú nhìn bà và đợi một điều gì bà sắp nói nên bà vội vàng lấy gói đồ từ trong chiếc hộp, tháo lớp giấy báo bên ngoài. Bà ôm chiếc áo trận của chồng vào ngực và nước mắt đã chảy thành dòng xuống đôi má nhăn nheo. Bà xúc động không nói được nên lời. Cậu Tuấn và Thanh cũng xúc động và họ đã hiểu chuyện gì xảy ra. Thanh cũng không ngăn được nước mắt. Cậu Tuấn vẫn ngồi bất động. Hai đứa cháu ngơ ngác nhìn bà ngoại, ông cậu rồi mẹ của chúng. Chúng chẳng hiểu chuyện gì xảy ra. Thấy vậy Thanh ra dấu cho hai dứa con rời chỗ ngồi.

Nén cơn xúc động, bà Mai nhìn con gái. Bà nói:                                           “Chiếc áo trận này mẹ đã giữ năm mươi năm rồi. Nay mẹ muốn con mang theo về bên ấy và cũng đặt trên bàn thờ để tưởng nhớ đến người cha đã hy sinh bảo vệ đất nước đến hơi thở cuối cùng, nay mẹ đã già yếu, không biết ra đi ngày nào…con hãy giữ lấy…”

            Hình như bà Mai muốn nói thêm điều gì nữa nhưng bà đã nghẹn lời. Thanh đưa hai tay cầm chiếc áo và gục đầu vào chiếc áo khóc nức nở…

            Bà Mai đứng dậy và bước đến phía sau lưng con gái, hai tay đặt vào hai bờ vai của con. Cậu Tuấn vẫn ngồi yên lặng.

Phong Châu




Đường Đến D Day

Phong Châu

Có lẽ mưa đã đổ xuống thành phố Paris vào lúc ban khuya nên khi tôi choàng tỉnh dậy lúc năm giờ sáng, ra khỏi giường để bước tới cửa sổ vén màn che nhìn ra ngoài thì thấy trời vẫn còn mưa. Mưa không lớn. Mưa lất phất khiến tôi nhớ đến những cơn mưa âm ỉ kéo dài lê thê suốt ngày đêm vào mùa hạ ở Đà Lạt cách nay hơn nửa thế kỷ. Nhìn xuống mặt đường nhựa xám xịt ướt đẫm, tôi nhẹ mở hé cánh cửa, đưa tay ra ngoài và thấy có gió nhẹ. Tôi nghĩ đến chuyện phải mang theo chiếc dù và mặc áo lạnh lát nữa đây khi rời khách sạn.

Chúng tôi rời khách san lúc 6 giờ sáng khi trời vẫn còn mưa. Theo chỉ dẫn của nhân viên khách sạn, chỉ chừng hai mươi phút sau là chúng tôi đến ga xe lửa Austerlitz. Chúng tôi vào phòng vé  mua hai vé đi đến ga Garancières – một thị trấn nhỏ với chỉ hơn hai nghìn dân nằm về hướng đông bắc của thủ đô Paris chừng hơn bốn mươi cây số. Chúng tôi sẽ xuống ga Garancières như đã hẹn với Dũng để được Dũng đưa vợ chồng chúng tôi đi thăm Normandy, nơi đã diễn ra cuộc đổ bộ của quân đội Hoa Kỳ và đồng minh vào ngày 6 tháng 6 – 1944 để giải phóng nước Pháp đang bị quân phát xít Đức chiếm đóng. Hôm tình cờ gặp vợ chồng Dũng trong một quán ăn ở quận 13 và làm quen để hỏi thăm cách đi metro và được đôi vợ chồng rất tử tế này chỉ dẫn cặn kẽ và rất ưu ái với vợ chồng chúng tôi những ngày sau đó. Tôi có ngỏ ý muốn đến thăm Normandy thì Dũng đã vui vẻ hứa là sẽ đưa chúng tôi đến đó. Nhà Dũng ở trong ngôi làng nhỏ Garancières gần trên đường đi đến Normandy. Lý do chúng tôi phải đáp chuyến tàu đi đến ga Garancières là như thế.

Cầm hai chiếc vé tàu hỏa trên tay, chúng tôi khá vất vả mới tìm ra được chuyến tàu chạy đến Garancièces vì ở ga Austerlitz có cả hàng trăm chuyến tàu chạy đi khắp các ngả đông tây nam bắc của thủ đô Paris. Cuối cùng chúng tôi cũng bước lên được toa cuối của đoàn tàu và tìm chỗ ngồi trên những dãy ghế còn rất nhiều chỗ trống. Lúc đó đồng hồ chỉ 7 giờ 25. Đúng 7 giờ 30 tàu chuyển bánh dưới mưa. Trên toa tàu chúng tôi ngồi, ngó lui dòm tới thấy có chừng hơn mười hành khách vừa Tây đầm trắng vừa Tây đầm đen cùng với vợ chồng tôi – mít vàng. Chắc họ theo chuyến xe lửa để đi làm ở ngoài khu vực Paris. Mặt người nào trông cũng lạnh lùng. Khi đã yên vị chỗ ngồi, họ lập tức mở sách hoặc báo ra đọc, vài người vẫn còn kẹp ổ bánh mì bên nách. Họ không nói chuyện ồn ào. Họ cũng chẳng cười hay chào hỏi ai. Họ rất lặng lẽ. Tôi ở Paris cả tuần, đi nhiều nơi như vào các cửa hàng hoặc tiệm ăn nhưng chưa bao giờ nghe được hai chữ “bonjour” hay nhận được một nụ cười trừ các nhân viên ở khách sạn.

Bầu trời đen nghịt. Tàu có cửa kính trong suốt nên có thể nhìn ra bên ngoài để thấy cảnh vật hai bên cứ chạy thụt lùi ra phía sau đoàn tàu. Những lâu đài, dinh thự màu xám cổ điển bám chặt dưới nền bê tông cả mấy thế kỷ trước cũng lùi dần rồi biến mất, để lại những ruộng lúa, vườn cây xanh tươi cùng với những khu nhà mái thấp màu đỏ tân thời. Ngoài việc nhìn cảnh vật bên ngoài, chúng tôi cũng chăm chú để tìm bảng đề tên ga Garancièces hầu xuống cho đúng chỗ như lời dặn của Dũng. Khoảng chừng ba mươi phút sau chúng tôi nhìn thấy bảng ghi Garancièces và vài phút kế thì tàu chạy chậm lại và dừng hẳn trước sân ga. Một cảm giác thật lạ đến với tôi là thị trấn Garancièces chỉ cách Paris chừng bốn chục cây số mà sao lại vắng vẻ đến thế! Dưới sân ga không có lấy một bóng người. Chúng tôi vội bước xuống tàu cùng với ba hành khách khác, đảo mắt nhìn ra xa tứ phía cũng chẳng thấy có người qua lại. Ba hành khách đi về phía bên trái đoàn tàu để đi ra con đường nhựa bên ngoài mấy hàng cây rồi biến mất dưới cơn mưa.Tôi đi về hướng nhà ga và nhận ra có một dãy nhà năm căn trong đó có một căn treo bảng bán cà phê sandwishes. Kế đó là một nhà nhỏ màu xám hình chữ nhật cửa đóng kín mà khi vào gần thì thấy phía trước có một tấm bảng dán thông cáo yết thị của nhà ga. Chiếc đồng hồ gắn phía trước tường nhà ga chỉ tám giờ rưởi. Tôi nhìn quanh không thấy trạm điện thoại đâu, đến gần dãy nhà năm căn cũng không thấy nên quay lại nơi có dán bảng yết thị thì thấy cửa văn phòng nhà ga đã mở và một phụ nữ chừng năm mươi tuổi nhìn ra hỏi tôi cần gì. Tôi nhờ bà ta chỉ nơi có trạm điện thoại, bà chỉ ra phía trái, bên hông văn phòng. Tôi gọi điện thoại cho Dũng để báo là chúng tôi đã đến ga Garancièces. Dũng bảo chừng bảy phút nữa sẽ có mặt để đón chúng tôi. Thời gian chúng tôi có mặt trên sân ga Garancièces khoảng chừng hai mươi phút nhưng tuyệt nhiên vẫn không thấy có một bóng người nào lai vảng ở khu vực nhà ga. Còn sớm quá chăng?

                                             Ga Garancières

Dũng đến đúng giờ đã hẹn và mời chúng tôi lên xe lái đi một quãng rồi ghé vào một trạm xăng để đổ. Tôi dành trả tiền nhưng Dũng không chịu. Dũng bảo với chúng tôi “trên đường đến Normandy, sẽ ghé viếng hai nơi”. Chúng tôi rất mừng được vợ chồng Dũng không những hướng dẫn cách di chuyển bằng các phương tiện giao thông tại Paris mà còn đón chúng tôi để chở đi thăm vài nơi vào các ngày trước đó.

Trước tiên Dũng đưa chúng tôi đến một ngôi làng mang tên Boissy-Sans-Avoir. Xe chạy quanh co bên ruộng vườn cây trái sâu vào trong làng. Đến khi xe dừng lại thì Dũng cho chúng tôi biết là sẽ ghé thăm ngôi mộ của nữ minh tinh điện ảnh người Đức (sinh ở Áo) đã làm vang danh cho nền điện ảnh Pháp vào những thập niên 50 – 60 -70. Đó là minh tinh Romy Schneider, sinh năm 1938 và bước vào ngành điện ảnh lúc mới 15 tuổi. Tài năng và danh vọng của cô đồng hành với sự hâm mộ của khán giả khắp năm châu. Đặc biệt với bộ phim có tựa đề “Nữ hoàng Áo – Syssi” và nhiều phim khác đã từng được chiếu tại Miền Nam Việt Nam trước đây. Nhưng về mặt tình cảm thì hạnh phúc không đồng hành với Romy Schneider. Cô lập gia đình và có hai người con. Mối tình giữa cô và tài tử đẹp trai Alain Delon mang lại cho cô lắm đắng cay nghiệt ngã. Cho đến khi người con trai của cô chết vì tai nạn thì cô đã đi đến tận cùng của sự thất vọng ê chề để rồi nghiện ngập và đau bệnh chết trong sự vật vã cô đơn. Mưa rơi nhẹ trên ngôi mộ làm bằng đá marble màu xám. Một tấm hình đen trắng đặt giữa những chậu hoa hãy còn tươi. Hình như ngôi mộ thường xuyên có người chăm sóc và đặt hoa. Chúng tôi rời mộ phần của Romy Schneider với lòng thương cảm cho giai nhân “tài hoa bạc mệnh”.

          Romy Schneider và mộ phần ở Boissy-Sans-Avoir

Rời Boissy-Sans-Avoir Dũng tiếp tục lái xe chạy vào các con đường làng được trang điểm bằng những ngôi nhà nhỏ kiểu thời trung cổ ở các miền quê Âu Châu cùng với những vườn cây xanh và vô số những loài hoa leo bám vào tường làm thành một bức tranh màu sắc hài hòa nhưng cũng không kém phần rực rỡ. Những con đường vòng rẻ trái rẻ phải, lúc bám lên dốc, lúc đổ xuống đồi thật thơ mộng chỉ vừa đủ cho hai chiếc xe nhỏ tránh nhau. Đến ngôi làng có tên Lisieux Dũng hướng dẫn chúng tôi thăm ngôi nhà của vị nữ thánh công giáo Sainte Thérèse. Dũng kể cho chúng tôi nghe về vị nữ thánh này. Đây là ngôi nhà nơi Marie Francoise – Thérèse Martin (Maison De Ste.Thérèse) chào đời năm 1873. Bà đi tu năm 15 tuổi và hiểu biết sâu sắc về đời sống tâm linh và thường nhắc đến Thiên đàng. Chưa đến giờ mở cửa nên chúng tôi chỉ đi quanh bên ngoài bức tường gạch đỏ có dàn cây leo che phủ. Bên ngoài tường rào có một khoảng đất nhỏ dựng tượng của vị nữ thánh màu trắng, dưới chân tương thấy có cả hàng trăm tấm bảng nhỏ ghi những lời tạ ơn và nhiều bó hoa vẫn đang còn tươi.

Từ giã ngôi nhà của nữ thánh Thérèse, Dũng tiếp tục lái trên đoạn đường còn lại để đến Normandy. Đoàn đường này dài khoảng 140 km và với tốc độ vừa phải nên phải mất hơn hai tiếng đồng hồ sau chúng tôi mới đến Normandy – vào khoảng hai giờ chiều. Bầu trời trong vắt và nắng chan hòa khắp nơi. Dọc đường Dũng kể cho chúng tôi nghe về một số sinh hoạt của người Việt tại Pháp và một vài mẫu chuyện về thân thế của Dũng – là cháu thuộc dòng tộc của hoàng hậu Nam Phương. Dũng cho biết có một người cậu định cư ở Texas nhưng chưa liên lạc được. Đó là bác sĩ Nguyễn Văn Thơ từng là bộ trưởng bộ giáo dục Việt Nam Cộng Hòa, cũng là hội trưởng Hội Hướng Đạo Viêt Nam trước tháng tư năm 1975. Tôi nói tôi biết gia đình bác sĩ Nguyễn Văn Thơ, ông đã mất năm 2001 và tôi chơi thân với một người con của bác sĩ là anh Phillip Thọ. Dũng có nhờ tôi về Texas gặp gia đình bác sĩ Thơ rồi cho anh biết để nối lại liên lạc. Tôi đã làm đúng như lời hứa và về sau Dũng đã liên lạc đều đặn với gia đình bác sĩ Thơ.

Ghé vào quán nước giải khát nghỉ ngơi chừng ba mươi phút, hai vợ chồng tôi bắt đầu đi bộ dọc theo bãi biển Normandy để xem tận mắt những gì còn lưu giữ dọc theo bãi biển, leo lên vùng đồi cao xem những pháo đài kiên cố của Đức và những nòng súng đại bác còn chỉa thẳng xuống bãi biển, các tượng đài, khu vực hầm hố phòng thủ, chiến xa…cùng các phương tiện chiến tranh của phát xít Đức cũng như của quân đội đồng minh để lại sau ngày D Day. Dũng ngồi nghỉ trong quán nước.

Bãi biển Normandy chạy dài cả chục cây số nhưng chúng tôi chỉ đi xem khu vực chính ở Omaha Beach dài chừng hơn một cây số dưới ánh nắng gắt. Xem các chứng tích lịch sử nhân loại diệt phát xít, hồi tưởng bài học lịch sử đã học thời trung học, nay mới thấy được cảnh vật của một trận chiến lớn nhất trong lịch sử nhân loại ở thế kỷ 20 với cả ngàn máy bay xe tăng tàu chiến cùng với hai trăm ngàn quân của các nước Mỹ, Anh, Canada, Úc, New Zealans, Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Hy Lạp, Hà Lan, Ba Lan và Tiệp Khắc… Có hơn bốn ngàn binh sĩ chết trên bãi biển và đồi núi để tiến vào các thành phố, làng mạc giải phóng nước Pháp và toàn cõi Âu Châu. Hai chữ “giải phóng” thực sự có ý nghĩa chứ không phải là “giải phóng” bằng cách đưa quân đi xâm lăng như trường hợp quân bắc việt xâm lăng Miền Nam Việt Nam và gần đây nhất là Nga đã đưa hai trăm nghìn quân sang xâm lăng Ukraine vào tháng hai năm 2022. Cả hai cuộc xâm lăng này chúng gọi là “giải phóng”. Khoảng bốn giờ chiều Dũng hướng dẫn chúng tôi vào xem bảo tàng viện Normandy trưng bày các tài liệu, sơ đồ, khí tài xử dụng trong cuộc đổ bộ Normandy. Qua đó cá nhận tôi nhận ra được bài học vô nghĩa của chiến tranh đã gieo bao tang tóc cho nhân loại. Ra khỏi bảo tàng viện chúng tôi đi xem nghĩa trang của người Mỹ (Normandy American Cemetery) nơi chôn cất những quân nhân Mỹ đã hy sinh trong cuộc đổ bộ Normandy vào mùa hè 1944. Hàng hàng những chiếc thánh giá màu trắng trên có ghi tên và nơi sinh quán cùng ngày tử trận của các binh sĩ Hoa Kỳ tại Normandy được dựng trên nền cỏ xanh mướt và mịn như thảm nhung nằm bên bờ Đại Tây Dương với những hàng thông xanh rì rào gió thoảng tựa như những tiếng thở ai oán của muôn ngàn hồn tử sĩ quanh quất đâu đây…

Đúng năm giờ chiều chúng tôi được chứng kiến cảnh “hạ kỳ” với đầy đủ nghi thức của quân đội Mỹ. Nghi lễ thật trang nghiêm và cảm động. Lại lan man nghĩ tới nghĩa trang Biên Hòa, nơi an nghỉ của những người đã chiến đấu để bảo vệ Miện Nam Tự Do đã biến thành bãi đất hoang bởi bàn tay của những kẻ xâm lược.

Trước khi rời Normandy, vợ chồng tôi mời Dũng đến một quán ăn để ăn chiều trước khi trở lại Paris. Có vài chục quán ăn nằm san sát bên nhau. Vào quán nghe các nhân viên lúc thì nói tiếng Pháp (dĩ nhiên) có lúc nói tiếng Anh với thực khách. Hỏi chuyện thì mới biết là các quán ăn nơi đây đều do vợ của những người lính Mỹ đã tử trận trên trận địa Normandy ngày nào. Sau khi chiến tranh chấm dứt họ đã xin sang định cư tại nơi đây để gần với những người chồng, người yêu đã hy sinh và được chôn cất trong nghĩa trang Normandy. Phần lớn thức ăn trong quán là các món hải sản vùng Đại Tây Dương hoàn toàn nấu theo kiểu của người Pháp. Du khách sau chuyến viếng thăm hầu như không quên ghé các quán để thưởng thức hương vị đặc sản miền biển nước Pháp. Đặc biệt những du khách từ Hoa Kỳ đến – như vợ chồng chúng, vừa được thương thức các món ăn ngon lại vừa biết được câu chuyện rất cảm động chứa chan tình người, tình vợ chồng của phụ nữ Mỹ đã bỏ quê hương xứ sở để được sống gần với những ngôi mộ của người thân. Họ đã có ba thế hệ cùng sống trên mảnh đất Normandy này.

Trên đường về Dũng kể cho chúng tôi nghe thêm vài mẫu chuyện về hoàng hậu Nam Phương và vua Bảo Đại. Dũng trả chúng tôi về lại khách sạn. Thủ đô Paris rực sáng và phản chiếu trên dòng sông Seine lấp lánh…

  Tôi quen và biết nhiều người đã từng đi du lịch Ân Châu trong đó có nước Pháp, có người đi nhiều lần. Họ đi thăm nhiều nơi nhưng khi tôi hỏi họ có bao giờ đến thăm Normandy chưa. Họ đều trả lời: chưa bao giờ!   

Phong Châu




Vịt Mồng Năm

Phong Châu

                             Vịt Mồng Năm

Tôi và Hà Thái Trường cùng dạy học tại trường tư thục Việt Anh mà hiệu trưởng là thầy Lê Phỉ, cũng là một Trưởng Hướng Đạo. Tôi là Thiếu trưởng Thiếu đoàn Lê Lợi, còn Trường là bầy trưởng Ấu đoàn Lê Lai. Sau khi thành phố Đàlạt giao cho Hướng Đạo Lâm Viên căn nhà bằng gỗ ở hồ Xuân Hương để đổi ngôi nhà lâu nay là Đạo quán ở số 28 đường Lý Thái Tổ thì tôi và Trường được anh Đạo trưởng lúc bấy giờ là Trưởng Phan Như Ngân và các Trưởng trong Đạo giao cho hai chúng tôi ở tại đó để trông coi Đạo quán.

Người Đàlạt và những ai đã từng đặt chân đến đây chắc chắn không thể nào không nhớ đến căn nhà màu xanh nằm ngay bùng binh gần Đồi Cù ở đầu con đường chạy lên Viện Đại Học Đàlạt, đường Phù Đổng Thiên Vương. Cũng có một con đường chạy từ bùng binh đến một ngả ba thì chia làm ba nhánh, nhánh trái là đường Phan Bội Châu chạy lên khu Hòa Bình, nhánh giữa là đường Cộng Hòa – một con đường thơ mộng chạy ôm theo hai bên sườn đồi lúc nào cũng rợp bóng mát của rừng thông. Đường Cộng Hòa được nhiều người Đàlạt cho là con đường đẹp và thơ mộng nhất của thành phố Hoa Anh Đào dẫn đến tư dinh của các vị thị trưởng thành phố. Nhánh thứ ba nằm dưới thấp là đường Võ Tánh, quanh co mấy khúc rồi chạy ngang đến trường nữ trung học Bùi Thị Xuân để giáp với đường Phù Đổng Thiên Vương nằm dưới chân đồi của Viện Đại Học Đàlạt.

Những khách nhàn du dạo Bờ Hồ đi từ khu Hòa Bình xuống hay từ trong chợ ra đều phải đi ngang qua nhà hàng Thanh Thủy nằm ẩn mình dưới những tàn cây tùng già vươn ra mặt hồ soi bóng nước. Đi thêm khoảng trăm mét sẽ là bùng binh phun nước và chỉ cần bước xuống mạn hồ chừng năm bước là đến Đạo quán của Hướng Đạo Lâm Viên sơn màu xanh và các cửa chung quanh đều được lắp bằng kiếng. Đứng bên ngoài Đạo quán nhìn vào cũng có thể thấy những hình ảnh hoa văn Hướng Đạo với nhiều màu sắc tươi vui được vẽ trên kiếng.

Các Trưởng Hướng Đạo thường có mặt tại Đạo quán trong những lần họp định kỳ hàng tháng hoặc những ngày lễ hội Hướng Đạo. Đặc biệt các Trưởng trẻ đồng thời với tôi và Trường thường xuyên ghé lại thăm chơi, trò chuyện, ăn uống và còn ở lại đêm với chúng tôi. Thật là một địa điểm lý tưởng để bọn trẻ chúng tôi túm tụ chơi đùa, nghịch phá và thỏa thích bày nhiều trò chơi trên mặt nước hồ Xuân Hương. Có hai người thường xuyên có mặt với chúng tôi tại Đạo quán là Nguyễn Đức Quang và Đoàn Chiêm. Quang là Akela bầy Ngàn Thông và Chiêm là Baloo. Bốn chúng tôi (Trường – Chiêm – Châu – Quang) là anh em kết nghĩa. Thực ra chúng tôi có đến năm anh em. Anh Cả là Nguyễn Ngọc Phước cũng từng là bầy trưởng Ngàn Thông trước khi nhập ngũ vào Thủ Đức. Chúng tôi tạo được một tiểu gia đình để sinh hoạt với nhau trong tình huynh đệ Hướng Đạo.

Tôi nhớ rất rõ, hôm ấy nhằm ngày chủ nhật giữa tháng sáu – 1964, nhằm ngày mồng năm tháng năm âm lịch tết đoan ngọ năm Giáp thìn. Vào khoảng một giờ trưa, bốn anh em chúng tôi đang ngồi ăn cơm, vừa ăn vừa chuyện trò vừa nhìn ra ngoài khung cửa kiếng ngắm mặt hồ trong xanh. Bên kia hồ là con đường nhựa chạy về hướng sân vận động thị xã, con đường này còn chạy thẳng tới ga xe lửa và tiếp với con đường đưa đến ấp Cô Giang, đi tiếp sẽ đến ấp Chi Lăng, hồ Than Thở. Vào giờ đó người đi trên đường còn khá tấp nập dưới bầu trời mùa hè nắng ấm. Hơn nữa lại là ngày chủ nhật và cũng đúng vào ngày “tết đoan ngọ” nên người ta đi chợ mua sắm khá đông. Những chiếc áo dài và những chiếc dù đủ màu di động càng làm cho cảnh sắc ven hồ trở nên vui tươi sinh động thêm.

Ở Đàlạt dạo ấy rất nhiều gia đình còn giữ lệ cúng tết đoan ngọ nên các bà các chị đi chợ mua sắm lễ vật rất đông. Số lượng người đi chợ gia tăng thấy rõ và hầu hết là đi bộ. Từ nhà lội bộ đến chợ năm ba cây số là chuyện rất thường đối với các bà nội trợ vì thời gian đó chưa có phương tiện chuyên chở công cộng như xe lam chạy trên các nẻo đường đến năm 1965 mới có (chương trình của ông Nguyễn Cao Kỳ giúp dân có phương tiện xe lam để làm ăn). Riêng xe đò chỉ có các đoạn đường xa mới có như Chi Lăng, Tùng Lâm, Tùng Nghĩa. Chủ nhật cũng là ngày nam thanh nữ tú kéo nhau ra dạo phố, lại thêm các sinh viên trường Võ Bị Quốc Gia, trường Đại Học Quân Sự, các nữ sinh trường Couvent des Oiseaux, trường Franciscan…khiến cho ngày chủ nhật trở thành một ngày vui của đám trẻ thời bấy giờ. Họ đi để mà đi, thang lang quanh phố Hòa Bình hay vào lầu chợ, mua sắm thì ít mà để ngắm nhau thì nhiều. Có nhiều anh chị cứ đi vòng vòng khu Hòa Bình từ sáng đến chiều mà không biết chán, đi một mình cũng có, đi toàn phái nam cũng có, toàn phái nữ cũng có. Đi để ngắm nhan sắc của nhau là một điều thú vị. Họ đi như đang đuổi bắt nhau, chạm mặt nhau, nhìn nhau cười cười nói nói, liếc nhau hay ngắm trộm nhau cũng vui. Các cô thiếu nữ má hồng lúc nào cũng duyên dáng dễ thương và kín đáo trong những chiếc áo dài tha thướt với chiếc áo laine bên ngoài. Các bà nội trợ đi chợ lúc nào cũng áo dài tươm tất chẳng khác nào những cô gái đang tuổi thanh xuân.

Đối diện với căn nhà nhỏ của chúng tôi, bên kia hồ là ngôi biệt thự màu trắng ẩn mình trên triền dốc đồi thông. Đó là biệt thự của dược sĩ Trang Hai, sau trở thành dân biểu hạ viện. Trên đường chúng tôi thấy có nhiều bà nhiều cô đi chợ về tay xách những giỏ thức ăn đầy ắp. Trong đám người đó, có một bà trông chừng lớn tuổi mặc áo dài màu lam nhạt, tay phải xách giỏ thức ăn và tay trái xách một cặp vịt màu trắng. Bà đi về hướng sân vận động. Khi đến trước ngôi biệt thự thì bà dừng lại, để giỏ thức ăn xuống vệ đường và loay hoay với cặp vịt không hiểu để làm gì. Chúng tôi đoán có lẽ dây buộc cặp vịt bị lỏng sao đó nên bà phải dừng chân, ngồi xuống buộc lại cho chặt. Rồi chẳng biết bà làm ăn thế nào mà một chú vịt đã vuột khỏi tay bà, chạy vài bước rồi nhảy tỏm xuống hồ. Bà lính quýnh đứng dậy định rượt bắt chú vịt và chỉ trong giây lát, chú vịt thứ hai cũng “xổng chuồng” và nhảy tòm xuống nước luôn! Hai chú vịt kêu lên mấy tiếng cạp cạp, bơi lại gần bên nhau và cùng vỗ cánh ra điều khoái chí, quay đầu ra giữa hồ và bắt đầu bơi một cách khoan thai nhẹ nhàng. Trên hồ nước trong xanh của mùa hè Đàlạt có hai chú vịt trắng thong thả bơi tạo thêm cảnh nên thơ, an bình. Chúng tôi cũng vừa ăn cơm xong. Bên kia hồ có nhiều người hiếu kỳ bu quanh bà nội trợ mất vịt và dĩ nhiên họ chẳng làm gì được để giúp bà ta. Bà phân bua gì đó một lát rồi đành xách giỏ thức ăn đi lẩn vào trong đám đông.

Dạo đó chúng tôi còn quá trẻ. Tôi và Quang ở tuổi hai mươi, Chiêm hai mươi mốt và Trường hai mươi hai. Tất cả đều ham vui và hiếu động. Chúng tôi đoán già đoán non rằng thế nào bà nội trợ khéo tay này cũng về kêu con cháu ra hồ để bắt lại hai chú vịt nhưng chúng tôi đã đoán sai vì gần hai tiếng đồng hồ sau chúng tôi vẫn còn thấy hai chú vịt bơi nhởn nhơ trên mặt hồ trong xanh. Chợt Trường nãy ra ý kiến và nói: “Tại sao chúng ta không bơi ra hồ bắt cặp vịt lên để chiều nay có một bữa tiệc đoan ngọ nhỉ…”. Chiêm, Quang và tôi cườirộ lên như biểu đồng tình lời đề nghị “rất sáng suốt” và thực tế của Trường. Có một điều éo le là cả ba chúng tôi đều biết bơi, còn Trường thì không. Cũng chả sao! Ba tay bơi cũng đủ rồi. Thế là với sự hăng hái, ba đứa nhanh nhẹn cởi áo, mặc xà loỏng nhảy xuống hồ vào khoảng ba giờ chiều. Chúng tôi nhắm thẳng hướng giữa hồ mà bơi, nơi đó đang có hai chú vịt vừa thoát ra khỏi lưỡi dao “đoan ngọ” của bà nội trợ và đang nhởn nhơ trên mặt hồ. Lúc còn ở trên bờ chúng tôi những tưởng chỉ cần bơi ra là tóm cổ hai chú được ngay rồi bơi vào, sau đó sẽ ngửi thấy mùi thơm của nồi cháo trên bếp và những miếng thịt vịt vàng ngậy chấm vào chén nước mắm gừng…Ôi! khoái khẩu làm sao…

Nào ngờ đâu khi ba chúng tôi xoải tay bơi ra giữa hồ, khi gần đến đích, chỉ còn cách khoảng ba bốn sải tay thì hai chú vịt đồng cất tiếng kêu cạp cạp như thể chào đón chúng tôi. Chúng tôi nhìn nhau cười đắc chí và thấy đã chắc ăn như bắp! Chỉ cần một cái với tay nữa là chúng tôi vớ được cả hai chú ngay. Khi cả ba vừa đưa những cánh tay lên định vồ lấy cổ chúng thì lập tức…hai chú chúi đầu xưống nước và biến dạng. Cả ba chúng tôi vô cùng bàng hoàng, ngẩn tò te ra một lúc rồi cười ầm lên như ba gã khùng. Lúc đó chúng tôi mới chợt ngộ ra rằng loài vịt chẳng những biết bơi mà chúng là con vật biết lặn rất tài tình! Chẳng thấy hai chú vịt đâu cả. Chẳng lẽ chúng đã rủ nhau chui tọt xuống đáy hồ! Không phải thế! Chừng vài giây sau hai chú vịt đã trồi lên khỏi mặt nước cách chỗ chúng tôi độ chục thước. Cả ba quay đầu về hướng hai chú vịt rồi lại nhìn nhau cười vì bị hai chú vịt chọc quê. Hai chú lại cất tiếng kêu cạp cạp thật lớn như ra điều thách đố chúng tôi. Trên bờ, Trường nhìn chúng tôi và cười ngặt nghẽo, đưa tay ra dấu cho chúng tôi nhào tới. Thế là ba đứa nhắm hướng hai chú vịt sải tay vươn người tới. Chưa bao giờ chúng tôi lại bơi lẹ làng như thế. Cũng như lần đầu tiên, hai chú vịt mắc gió chờ cho chúng tôi đến gần chỉ còn vài sải tay, chúng lại chui đầu xuống nước và biến mất. Vài giây sau chúng ở ngay phía sau chúng tôi và cất tiếng cạp cạp để chọc quê và báo cho chúng tôi biết chúng đang ở đâu. Chúng tôi xoay mình lại và mặc dầu đang ngâm mình dưới nước, chúng tôi cũng cảm thấy nực nên cố trườn mình với tốc độ nhanh hơn trước, thế mà lần này chúng tôi vẫn phải nhìn hai chú vịt khuất dạng dưới làn nước trong xanh. Ba đợt tấn công đều thất bại! Ba thằng cùng có ý nghĩ bỏ cuộc vì mười phần đã thấy đến chín phần thua. Trời về chiều, gió hiu hiu, sóng lăn tăn trên mặt hồ đã khiến cho chúng tôi thấy lạnh. Mặt đứa nào cũng tái, môi bắt đầu chuyển sang “màu tím hoa sim”. Chúng tôi đã từng bơi ngang qua hồ Xuân Hương nhiều lần nhưng chưa bao giờ lại có cái kiểu bơi vòng vòng mãi trên hồ như thế.  

Mặt trời chìm xuống đụng Đồi Cù. Còn nước còn tát! Còn nước còn bơi! Chúng tôi hội ý thay đổi chiến thuật là ba thằng không xuất phát cùng một chỗ mà chia ra làm ba mũi để tấn công, ngoài ra khi vịt lặn xuống nước thì chúng tôi cũng lặn theo rượt đuổi để uy hiếp tinh thần. Từ độ xa gần chục thước, chúng tôi đồng loạt sải tay bơi tới, hai chú vịt lại rúc đầu xuống nước, chúng tôi phóng theo. Nhờ nước trong nên chúng tôi nhìn thấy rõ hai chú đang đạp chân chúi đầu xuống, thân mình chúng hình như được thu nhỏ lại để lao xuống cho nhanh. Chúng thấy được sự an nguy cận kề nên cũng lách mình lia lịa, lúc về hướng phải, lúc về hướng trái, lúc trườn mình lên, lúc nhủi đầu xuống.

Cuối cùng thì hai chú vịt cũng trồi đầu lên mặt nước. Chúng tôi mừng vì thấy khoảng cách giữa chúng tôi và hai chú vịt khá gần. Rút kinh nghiệm, chúng tôi liên tục phóng mình rượt đuổi cốt gây ra tình trạng hoảng loạn và sau ba bốn đợt tấn công liên tiếp như thế, hai chú vịt mất tinh thần thấy rõ. Chúng vừa trồi đầu lên mặt nước là chúng tôi đã nhào tới khiến chúng bị tách ra làm hai. Đến lúc này chúng tôi nghĩ cách là phải dứt điểm từng chú một. Một số người đi đường thấy trò chơi bắt vịt lạ lùng nên dừng chân đứng xem và còn đưa tay chỉ chỏ như muốn bảo chúng tôi làm theo cách của họ. Vài người đang ngồi trong nhà thủy tạ cũng dồn ra phía ngoài đứng xem. Mặt trời đã khuất sau Đồi Cù, chẳng còn tia nắng nào rọi xuống mặt hồ, chúng tôi bắt đầu thấm lạnh. Chúng tôi ra dấu để cả ba cùng lao vào một chú đang kêu quang quác như để cầu cứu. Chú chúi đầu xuống nước, hai chân duổi thẳng, mình lách qua lách lại nhưng không còn nhanh như trước. Chỉ sau vài đợt liên tiếp tấn công, chúng tôi tóm được chú vịt đã đuối sức. Tôi cầm chú vịt nhấc lên cao ra dấu cho Trường đang đứng trên bờ vỗ tay. Nguyễn Đức Quang tải chú vịt vào bờ giao cho Trường. Tôi và Chiêm dứt điểm chú thứ hai.

Tội nghiệp cho chú này, thấy bạn mình bị hốt đưa lên cạn, chú lại càng gào to hơn nữa. Vẫn chiến thuật cũ, liên tục và nhanh nhẹn, chúng tôi lặn hụp rượt đuổi khiến cho chú càng lúc càng mất tinh thần, không còn định hướng được nữa để rồi phóng ngay vào hướng chúng tôi. Chú vịt đã dính chặt trong tay của Chiêm. Chúng tôi cười đắc thắng. Trời đã sụp tối. Sau khi trao chú vịt thứ hai cho Trường, ba chúng tôi mặc quần áo xong băng qua đường, leo lên Đồi Cù gom lá thông khô đốt lên để sưởi ấm.

Nhẩm lại, chúng tôi mất gần ba tiếng đồng hồ để quần thảo với hai chú vịt tưởng đã thoát được vòng dây oan khiên của bà nội trợ, nào ngờ đâu lại lọt vào thủy cung oan khiên của ba chàng “ngự lâm pháo thủ”! Tối hôm đó bốn đứa chúng tôi phải mất thêm cả tiếng đồng hồ nữa để cắt cổ nhổ lông hai chú vịt can trường.

Trời đã tối, những ngọn đèn rọi quanh hồ đã bật sáng. Hà Thái Trường được giao cho công việc là đạp xe đi gọi thêm ba bốn đứa bạn thân đến thưởng thức món vịt luộc chấm muối tiêu và những cà mèn cháo bốc mùi thơm của hồ nước Xuân Hương trong mùa tết đoan ngọ “vô tiền khoáng hậu”.

Phong Châu