VTLV & THÂN HỮU: TRANG ĐẶC BIỆT MỪNG LỄ ĐỘC LẬP HOA KỲ – INDEPENDENCE DAY
***
MỪNG NGÀY ĐỘC LẬP HOA KỲ
Phương Hoa
Đón mừng ĐỘC LẬP July Fourth
Thung Lũng Hoa Vàng ăn lễ to
Đất nước Cờ Hoa – hoa pháo rực
VĂN THƠ LẠC VIỆT – Việt thi hòa
Cali hạnh phúc từ muôn nẻo
Miền Bắc niềm vui khắp mọi nhà
Kính chúc bình an toàn Mỹ Quốc
Diễn hành thật đẹp tỏa lan xa.
Phương Hoa – BBT VTLV
THƠ CAO MỴ NHÂN
“JULY 4“ NGƠ NGẨN
*
Khi tới đây, tôi nhớ tháng ngày này
Fourth of July Lễ Độc Lập
Independence Day … vui dồn dập
Mới đó, đã phần ba thế kỷ
*
Đứng bên cầu Golden Gate năm 1992
Tôi cứ tưởng một lần rồi không tới nữa
Hơn ba chục mùa hạ vàng rực rỡ
Chính nơi này đẹp nghĩa đất Tự Do
*
Ngó về phương tây, mặt trời đỏ xuống thấp
Phố núi miên man ôm hình hài sắc tộc
Tiếng kèn đồng người dạo khúc tha phương
Quê Việt tôi bên kia Thái Bình Dương
*
Đêm July 4 th man dại cửa thiên đường
Nhưng nếu bạn kéo tôi về cố lý
Tôi sẽ nhảy xuống Cầu Vàng hệ lụy
Vì không muốn thấy những xót thương
*
Bầy quạ kêu chia sẻ nỗi đau buồn
Tôi đứng giữa lằn ranh đời cũ, mới
Mai mốt chắc chôn thân già nẻo cuối
Chốn quạnh hiu, sấp mặt khóc … vô thường …
*CAO MY NHÂN
San Francisco 30 – 6 – 2025
**
THƠ NHẠC PHẠM PHAN LANG
Mỗi năm khi tháng Bảy về, nỗi đau năm xưa lại âm thầm trở giấc trong tim tôi. Ngày Lễ Độc Lập 1985 đã vĩnh viễn cướp đi người chồng yêu quý – một sĩ quan Hải Quân VNCH can đảm, một người chồng, người cha luôn hết lòng vì gia đình và người khác. Anh đã hy sinh mạng sống mình khi lao xuống sóng dữ cứu các em bé đang bị cuốn ra khơi, trong đó có con gái út mới 11 tuổi của chúng tôi.
Trong niềm đau không nguôi của một người vợ, tôi viết bài thơ Hạ Buồn vào ngày July 4th 2014 để ghi khắc một ký ức định mệnh của đời mình. Năm năm sau, bài thơ được nhạc sĩ Vĩnh Điện phổ nhạc thành một ca khúc tha thiết và đã được danh ca Bảo Yến truyền cảm một cách xúc động đến nao lòng.
Xin mời nghe và chia sẻ…
PLang
HẠ BUỒN
Tháng Bảy lại về lòng buồn hiu hắt
Nhớ ngày này bao năm trước anh đi
Môi bất động anh chẳng nói lời gì
Và cứ thế anh đi không từ giã…
*
Đau đớn quá tôi điên cuồng vật vã
Trời Phật ơi xin cứu lấy chồng con
Anh nằm đây nhưng thân xác không hồn
Biết làm sao, làm sao anh trở lại??
*
Đã mấy mươi năm tôi còn nhớ mãi
Buổi sáng nào sóng dữ cướp đời anh
Để bao đêm nhìn trăng chiếu qua mành
Lòng thổn thức ôi mùa hè định mệnh…
phamphanlangJuly 4th 2014
Chuyển ngữ Tiếng Anh.
Every year, as July returns, a deep ache quietly stirs within me. Independence Day 1985 forever marked my life with grief, as it took away my beloved husband — a brave former Navy officer of the Republic of Vietnam, a devoted father, and a man who always put others before himself. He gave his life to save a group of children swept away by a sudden undertow, including our youngest daughter, who was only eleven at the time.
In the silence of anguish, I wrote this poem, Hạ Buồn (Summer of Sorrow), on July 4th, 2014, to honor that tragic yet heroic moment. Five years later, it was beautifully set to music by composer Vĩnh Điện and soulfully performed by the renowned singer Bảo Yến, whose haunting voice captured the heartache and depth of that day.
I invite you to listen, to feel, and to remember — through each verse and note — the weight of love and loss
SUMMER OF SORROW
July returns — my heart falls still, Haunted by the day fate broke its will. You left in silence, lips unspeaking, No last goodbye… just slow soul-leaking.
Grief devoured me in raging cries, I begged the heavens, tears in my eyes. You lay there — body cold, soul flown, How could I bring you back… alone?
So many years, and still I see That morning wave that stole you from me. Each night I watch the moonlight creep, And ache for that summer I cannot keep…
phamphanlang July 4th, 2014
Translated from Vietnamese poem “Hạ Buồn” by Phạm Phan Lang
MINH THÚY THÀNH NỘI
MỪNG LỄ ĐỘC LẬP HOA KỲ
*
Mùa hè đang rực rỡ
Ánh nắng đẹp tươi hồng
Cánh Én lượn thong dong
Bươm bướm bay tràn ngập
*
Cảnh ra đường tấp nập
Ngày lễ lớn Hoa Kỳ
Shopping chật người đi
Hớn hở vui đầu hạ
*
Bóng nắng xuyên cành lá
Đỏ, tím, vàng lối hoa
Con cháu trở về nhà
Tiệc tùng theo dòng họ
*
Cờ treo chào trước ngõ
Các nơi màn diễn hành
Trống nhạc dồn dập nhanh
Biểu dương sức hùng mạnh
*
Bầu trời đêm gió lạnh
Pháo bông bắn đì đùng
Những sắc màu nở tung
Chào mừng Lễ Độc Lập
*
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 7/4/2025
**
MỪNG LỄ ĐỘC LẬP HOA KỲ – NGUYỆN CẦU ĐỘC LẬP CHO UKRAINE Phương Hoa
Lần đầu tiên tôi chú ý đến ông già Mỹ trắng ngồi xe lăn trên lề đường, khi xe tôi dừng đèn đỏ chuẩn bị quẹo vào trung tâm bán sỉ Costco. Tôi nhớ đó là khoảng thời gian quân Nga bắt đầu tấn công Ukraine, cách đây cũng đã bốn, năm tháng gì đó. Chiếc quần jean lưng lửng, loang lổ vết bẩn và rách te tua, lộ ra hai đầu gối nám đỏ bầm và đôi chân lông lá; áo thun ngắn tay màu xanh rừng của lính, màu áo quen thuộc của Tổng Thống Ukraine Volodymyr Zelenskyy, vị tổng thống anh hùng của một dân tộc anh hùng mà cả thế giới đều kính nể; trên cánh tay áo ông ta còn gắn một lá cờ màu vàng xanh của đất nước Ukraine.
Tôi chợt cười thầm. Là “fan” hâm mộ của tổng thống Ukraine đây mà. Tôi cũng là người rất hâm mộ ông tổng thống thông minh gan dạ này. Lần đầu tiên thấy Zelenskyy phát biểu với giọng nói hùng hồn, lời lẽ khôn khéo, mạnh mẽ, kêu gọi thế giới giúp đỡ Ukraine, làm tôi rất khâm phục. Nhưng khi nhìn ánh mắt chứa đựng sự oán hận, lẫn đau khổ, và sự chịu đựng tột cùng của Zelenskyy, tôi muốn rơi nước mắt. Ông già ngồi trên xe lăn khổ người phốp pháp với cái bụng bự tròn quay nhú ra dưới lớp áo. Khuôn mặt khắc khổ và buồn bã, nhưng hàm râu quai nón rậm rì khiến ông toát ra một vẻ mạnh mẽ kiên cường, và không thấy có chút gì là đáng tội nghiệp, dù trên tay ông cầm tấm bảng có mấy chữ viết tay xiêu vẹo: “Please help!”
Điều khiến tôi xúc động và chăm chú quan sát kỹ ông già là vì ông đội chiếc mũ dìm đen có hàng chữ màu vàng in thật lớn: VIETNAM WAR VETETRAN. Một cựu chiến binh Việt Nam. Người này đã từng bay qua nửa vòng trái đất giúp dân tộc tôi gìn giữ tự do và hòa bình. Tôi biết chính phủ Mỹ rất ưu đãi các cựu quân nhân, tại sao ông già này lại đi ăn xin như thế nhỉ.
Đèn chuyển sang màu xanh. Tôi chợt giật mình bừng tỉnh vì tiếng còi hối thúc của xe sau. Làn đường hẹp không có chỗ tắp vô, nên tôi vội chụp lấy cái điện thoại, moi hết số tiền lẻ trong ngăn bên của cái vỏ bọc, và rà xe tới gần chỗ ông già. Hạ cửa kính xuống, tôi chồm tới nhét nắm bạc lẻ vào tay ông rồi nhấn ga chạy đi, bỏ lại đàng sau ánh mắt sáng lên đầy thiện cảm với đôi bàn tay chắp xá và tiếng “Com on” thật to. Vào trong Costco lựa đồ mà tâm trí tôi mãi nghĩ về người cựu chiến binh Việt Nam với cái vẻ mặt oai hùng nhưng buồn bã ấy.
Tôi ở không xa Costco, nên tôi thường xuyên đi mua đồ và đổ xăng ở đây. Những lần sau đó, mỗi khi đi Costco tôi đều cố ý mang theo một ít tiền để cho ông già này, vì hầu như ông luôn luôn ngồi tại chỗ cũ. Và tôi trở thành khách hàng của ông lúc nào không hay.
Một lần, chẳng hiểu sao ông lại đổi hướng, thay vì ngồi bên phải thuận tiện xe cộ qua lại dừng đèn đỏ cho tiền, ông lại chuyển sang ngồi phía bên trái, trên lề cái “only” quẹo trái ngăn đôi giữa hai bên đường xuôi và ngược chiều. Thế nên trên đường đến tôi không thể đưa tiền cho ông.
Mua sắm xong ra xe tôi lục lấy cái phong bì rồi bỏ tiền vào đó, và lái chầm chậm vô làn thứ nhì từ bên trái. Khi dừng lại đợi đèn xanh tôi hạ cửa xuống cầm lấy cái bì thơ, chồm ra ngoài và thảy qua cho ông già. Tôi cố ném vào chiếc xe lăn ông đang ngồi, nhưng không ngờ cái bì thư va vào chiếc xe sau vừa trờ tới, và nó rơi xuống đất nằm trong lòng đường. Bì thư không dán nên số tiền văng tung tóe, làm tôi cảm thấy rất áy náy. Tôi định đậu xe để xuống nhặt lại cho ông, thì người phụ nữ da trắng trong xe đã bước xuống gom hết lại những tờ bạc dưới đất và bước tới đưa cho ông già. Đúng là “Người Mỹ tử tế,” tôi thầm nghĩ. Từ những việc cỏn con này, tuy chưa một lần trò chuyện, tôi có cái cảm giác ông già Mỹ đã là “người quen.”
Nhưng đó là lần cuối cùng tôi cho tiền ông. Những lần sau tôi cũng mang theo tiền, nhưng không còn thấy ông già xuất hiện chỗ đó nữa, và mỗi lần chạy ngang qua tôi có cảm giác hơi buồn, nghĩ là chắc ông ấy đã … vĩnh viễn ra đi. Tồn tại từ thời chiến tranh Việt Nam, tuổi ông nay cũng đã cao rồi còn gì. * Ngày 4 Tháng 7 năm 2022, ngày Lễ Độc Lập Hoa Kỳ. Vì được “xả trại Covid,” mấy đứa con đưa tụi nhóc cháu nội đi chơi xa hết, không đứa nào về chung vui như trước kia, nên tôi rảnh rang việc nấu nướng. Qua hơn hai năm trốn dịch trong nhà cũng bị “cuồng chân,” ông xã tôi muốn dành ngày lễ Độc Lập đi tháp tùng đoàn diễn hành của thành phố cho thư giãn gân cốt. Đặc biệt, năm nay thành phố có tổ chức cuộc thi chạy bộ 5 km quanh thành phố, trước giờ xe hoa bắt đầu cuộc diễn hành, để gây quỹ cho Nhà Tạm Trú Phụ nữ và Trẻ em. Đáng tiếc, chúng tôi dù cũng từng là dân chạy bộ nhưng vì bận rộn quên mất thời hạn, ghi danh trễ nên không thể tham dự. Cuộc thi này rất thú vị, vì dọc đường các cơ sở kinh doanh địa phương cung cấp miễn phí thức ăn nhẹ, các loại nước uống, trái cây. Sau cuộc thi có cả… bia cùng rượu cho người lớn giải lao nữa. Tất cả mọi thí sinh đều được phát áo đồng phục với số báo danh. Dọc đường ai mỏi mệt có thể dừng lại bốc vài cái bánh, chai nước, rồi vừa chạy vừa thưởng thức. Già trẻ gái trai đều tham dự được, ai đến đích trước nhận phần thưởng và huy chương, những người mỏi mệt cứ chạy sau hay đi bộ tà tà thì khi đến đích cũng được tặng những món quà an ủi.
Buổi sáng, tôi thức dậy ăn uống xong là “diện đồ July 4th” áo đỏ có hình cờ Mỹ rồi cùng nhà tôi đi bộ ra phố. Thành phố nhỏ chúng tôi dọn về sau khi nghỉ hưu ở gần biển, thuộc vùng Đông Vịnh San Francisco, là một thành phố cổ. Chính quyền và người dân ở đây luôn luôn giữ gìn truyền thống tổ chức diễn hành xe hoa trong ngày Lễ Độc Lập hàng năm, trừ vài năm dịch Covid vừa qua. Năm nay mở cửa trở lại nên cả thành phố náo nức rộn ràng lo chuẩn bị cho cuộc diễn hành và cuộc thi chạy bộ.
Theo lịch trình, sau khi cuộc thi chạy 5 km bắt đầu, thì đoàn xe hoa cũng khởi hành từ tụ điểm gần bờ biển, chạy quanh downtown, dọc theo khu vực dân cư, giáp một vòng thì về lại chỗ cũ, chiều dài cũng trên bốn, năm dặm. Tôi háo hức ngắm nhìn, chạy tới chạy lui theo đoàn xe đủ màu sắc và kiểu dáng để chụp hình. Tôi mãi mê nhìn những kỵ mã cảnh sát thành phố oai phong trên lưng những chú ngựa nòi cao lớn bờm lông đen mượt, khoác những bộ yên cương rực rỡ sắc màu, và tôi bỏ lạc ôngxã trong dòng người coi đông nghịt hai bên lề đường.
Đến đoạn đường có những chiếc xe hoa thật dài và đẹp, tôi vội đưa điện thoại lên. Bấm được vài tấm hình, tôi xoay lưng lại định đi tiếp bỗng đụng phải một người đang bước tới thật nhanh. Tôi bị mất trớn ngã nhào vào đám đông đang ngồi coi diễn hành trên lề đường. Chiếc điện thoại vuột khỏi tay, và theo phản ứng tự nhiên tôi chụp vội cái tay nắm của một chiếc xe lăn gần đó để giữ thăng bằng trở lại. Bị xấu hổ, tôi vội cúi nhặt chiếc điện thoại lên rồi lắp bắp lời xin lỗi với người ngồi trên chiếc xe lăn có cắm đầy những lá cờ Mỹ nhỏ:
“I’m… sorry!”
“No problem!’Người đó trả lời, và rồi kêu lên với vẻ kinh ngạc,“Oh….thì ra là cô à?”
Tôi chưa kịp hoàn hồn, nghe thế bèn nhìn kỹ ông ta, và chợt nhận ra người ngồi trên xe lăn chính là người ăn xin gần Costco tôi vẫn cho tiền mấy lúc trước. Vẫn chiếc mũ dìm có hàng chữ in “VIETNAM WAR VETETRAN,” vẫn “chiếc áo thun Tổng Thống Ukraine,” và lá cờ vàng xanh trên tay áo. Nhưng nhìn ông ta gọn gàng hơn, sạch sẽ hơn, và thần thái ông lúc này trông rất tốt, mặt mũi tươi tắn, nét mặt sinh động, không còn nét bơ phờ và buồn phiền như trước nữa. Tôi vừa ngạc nhiên vừa vui. Rủi mà may, tình cờ được dịp gặp lại ông già cựu chiến binh Việt Nam, người mà lâu nay tôi thường nghĩ đến mỗi lần chạy ngang qua chỗ ông từng ngồi xin ăn.
“Thì ra là ông!” Tôi cũng kêu lên mừng rỡ như gặp lại bạn cũ. “Ông có khỏe không? Lâu nay ông làm gì mà tôi không thấy ông nơi… chỗ cũ?”
Tôi nói, không tiện nhắc lại chỗ cũ là chỗ nào. Ông ta chỉ cười, rồi quay qua người phụ nữ Mỹ trắng lớn tuổi ngồi trên chiếc ghế xếp bên cạnh:
“Honey, cô đây là người anh thường kể với em trước kia, người bao giờ cũng dừng lại giúp anh mỗi khi cô ấy đi mua sắm ở Cotsco.” Quay sang tôi, ông tiếp, “Xin chào! Tôi tên là Scott, còn đây là Sue, bạn gái tôi.
Bà Sue gật đầu chào tôi với nụ cười hiền lành và đầy thân thiện. Thấy bà có vẻ xuề xòa tôi cũng chào bà tự nhiên không chút dè dặt, tự giới thiệu tên mình, rồi quay qua ông, chỉ vào chiếc mũ ông đang đội:
“Ông là cựu chiến binh Việt Nam? Lần đầu tiên tôi chú ý đến ông vì chiếc mũ này. Có phải ông đã từng sang Việt Nam chiến đấu giúp quê hương tôi?”
“Yes, I did! Vâng, tôi đã từng.” Rồi như còn có rất nhiều điều muốn nói, ông già vừa quay đầu chiếc xe lăn, vừa ra dấu cho tôi và bà bạn ông tách khỏi đám đông, “Chỗ này ồn ào quá, chúng ta hãy qua bên kia nói chuyện đi.”
Bà Sue cởi chiếc áo khoác máng vào thành chiếc ghế xếp bà vừa ngồi, để người ta biết là ghế có chủ, rồi bước vội theo ông. Tôi cũng hào hứng bước theo hai người đến chỗ gần trạm xăng, nơi có một rừng cờ Mỹ thật lớn đang phất phơ tung bay trong nắng.
“Trước nhất, tôi xin cám ơn ông,” tôi nói khi xe ông dừng lại bên cạnh hàng cờ bay phất phới, “ngày ấy đã sang tận Việt Nam chiến đấu giúp quê hương tôi.”
Ông Scott vội lắc đầu, và nói bằng cái giọng có vẻ nặng nề: “No! Chúng tôi đã không giúp được gì cho các bạn. Cho đến tận bây giờ, tôi luôn nghĩ rằng chúng tôi còn mắc nợ các bạn.”
Tôi thấy tội nghiệp ông. Đã mấy chục năm qua mà ông vẫn còn ấm ức, nói ra những điều tôi thường nghe trước giờ mỗi khi nói chuyện cùng những cựu quân nhân Hoa Kỳ trở về từ Việt Nam. Ông nới một hơi, phàn nàn về chuyện thời chiến tranh Việt Nam, về cánh báo chí phản chiến Mỹ, về người dân Mỹ xuống đường biểu tình, về chính phủ Mỹ… càng nói càng hăng, mặt ông đỏ bừng.
Bà Sue đứng im lặng nghe, thỉnh thoảng lắc đầu, có vẻ như bà đã quen với chuyện này:
“Ông ấy vẫn thường như thế, mỗi khi có ai nhắc về chuyện chiến tranh Việt Nam.” Bà nói.
Tôi muốn giúp ông quên đi cái quá khứ đau lòng ấy lúc tuổi già, nên hướng qua chuyện khác:
“Cám ơn ông, Scott. Nhưng chuyện đã mấy chục năm rồi, làm ơn hãy quên đi để cho tâm trí ông được nhẹ nhàng.” Tôi nói xong đổi đề tài: “Bây giờ cho tôi hỏi, hình như ông rất hâm mộ Tổng Thống Zelenskyy của Ukraine? Tôi thấy ông mặc áo màu giống Zelenskyy và còn đeo cờ Ukraine, đã từ lâu lắm rồi?”
Ánh mắt Scott sáng lên, và tôi biết là tôi đã… bắt đúng huyệt của ông. “Oh yeah! Absolutely, yes!” Tất nhiên rồi! Ông kêu lên đầy vẻ thán phục. “Cũng nhờ chứng kiến sự kiên cường của họ mà tôi mới ‘là một con người’ như bây giờ!”
Có lẽ sự thân thiện và kính trọng của tôi đối với ông lâu nay đã khiến ông tin tưởng. Cho nên dù mới gặp lần đầu, qua vài câu hỏi tế nhị và cảm thông của tôi (bạn tôi thường nói tôi có năng khiếu trong việc khai thác thông tin từ người khác mà!), Scott đã mở lòng kể cho tôi nghe về chuyện của ông, về lý do tại sao ông trở thành kẻ ăn xin và bây giờ thì trở lại phong độ cũ.
Và rồi, tôi quên mất đoàn xe hoa diễn hành, quên mất ông xã đang đi tới đâu, quên luôn đám đông đang vỗ tay từng đợt mỗi khi có chiếc xe hoa chạy qua. Tôi đứng lặng người, đắm chìm vào câu chuyện đầy cảm động và đau thương của ông già Mỹ. * Gần cuối năm 1974, ông Scott là thương binh trở về từ Việt Nam sau một trận pháo kích của Việt Cộng vào nơi đóng quân của ông. Một mảnh đạn pháo đi lạc đã ghim vào đốt sống nên ông bị liệt hai chân.
Người vợ trung thành Cathy và đứa con trai độc nhất Richard của hai người đã chăm lo cho ông suốt cả cuộc đời. Con trai ông ăn học thành tài, ra đi làm nhưng không hề kết hôn, dù anh ta cũng có bạn gái đó đây. Mấy năm về trước, gia đình ông gặp phải một cơn đại họa. Vợ ông và Richard đã qua đời cùng lúc trong một tai nạn xe hơi, bỏ lại ông một mình với tấm thân tàn phế.
Ông bị sốc vì quá đau khổ, quá thương nhớ, làm cho bấn loạn tâm thần. Do dùng thuốc gây nghiện quá nhiều để giảm stress, và còn mượn rượu giải sầu, ông đã trở thành con nghiện cả hai món. Cuối cùng, ông làm thân “homeless” không nhà vô ngụ trong “shelter” của thành phố. Vì nghiện ngập, số lương hưu hàng tháng đều bay sạch, nên ông phải đi xin thì mới có thêm tiền mua thức ăn hoặc thuốc để “phê” hay vài lon bia để uống. Ông kể xong thì nói:
“Cho đến thời gian tôi gặp cô, là tôi đã làm ăn mày cũng hơn một năm rồi.”
“Tôi thật là xin lỗi chuyện vợ con ông, Scott!” Tôi nói cùng với sự xúc động tận đáy lòng vì câu chuyện thương tâm của ông. “Cầu Thượng Đế phò hộ cho ông.”
“I’m okay now.” Bây giờ tôi ổn rồi, cám ơn cô.
“Cô biết không,” bà Sue nãy giờ đứng im, bây giờ thấy ông ngừng lại bà mới lên tiếng, “nếu không có chiến tranh Ukraine, không có Tổng Thống Zelenskyy, nhất là gần đây không có hai tù binh Mỹ bị Nga bắt giữ, thì hiện tại ông ấy vẫn còn đói khổ dài dài, còn ngồi ăn xin ở chỗ cổng vào Costco như cô từng thấy. Trước đó cho dù tôi đã hết lời khuyên can ông hãy đi cai nghiện nhưng ông không chịu nghe.”
“Là sao ạ?” Tôi hỏi với vẻ tò mò lẫn thích thú.
“Là do tôi quá ngưỡng mộ Zelenskyy và dân tộc Ukraine, tôi mới tự cai nghiện!” Scott trả lời thay bà Sue. “Hằng ngày xem tin tức, tôi thương đất nước họ lắm, những con người dũng cảm vô song.” Ông dừng lại quay qua bà Sue, “Tôi quen Sue từ Trung tâm Tạm Trú cho kẻ không nhà. Bà đã khuyên bảo và lo lắng cho tôi rất nhiều, và tôi nghe lời bà mọi việc, ngoại trừ chuyện cai nghiện. Cám ơn em yêu!” Ông nói, đưa tay vỗ vỗ vào lưng bà một cách rất âu yếm.
“Wow! Ông làm tốt lắm! Good Job, Scott!” Tôi nói và đưa ngón cái lên. “Nhưng tôi hơi… chậm tiêu một chút, ông có thể cho biết tại sao ông ngưỡng mộ Tổng Thống và dân tộc Ukraine mà ông tự cai nghiện thành công? Chả lẽ ông muốn… qua Ukraine đánh nhau với quân của Putin giúp họ?” Tôi đùa.
“I wish!” Tôi rất muốn thế! Không ngờ Scott hăng hái trả lời. “Phải, tôi rất khâm phục họ, ước gì tôi lành lặn và còn trẻ, khỏe, tôi sẽ qua Ukraine giúp họ ngay không chần chừ! Nhất là gần đây mỗi lần xem tin tức, thấy hình ảnh Alexander và Andy Tai ở Alabama bị quân Nga bắt giữ tôi thương họ vô cùng, và tôi đã tự nguyền rủa tôi. Tôi nghĩ lại mình thật vô dụng, khi bao nhiêu đồng đội của tôi đang trong vòng nguy hiểm chiến đấu cho tự do, thì tôi ở nhà ăn no mặc ấm lại đi hủy hoại đời mình trong một thời gian dài như vừa qua, đến xém chút nữa bỏ mạng. God, cám ơn Thượng Đế! Tôi đã làm được!” Ông nói với một vẻ tràn đầy hãnh diện.
“Đúng vậy, Scott đã tự mình cai nghiện, không cần tới trung tâm.” Bà Sue nói tiếp theo ông. “Và ông ấy đã làm rất tốt, kết quả chỉ trong vòng mấy tháng. Nhờ cả ngày ngồi theo dõi tin tức từ Ukraine, ông đã đánh gục và chiến thắng được các cơn ghiền vật vã. Tôi cũng phụ giúp ông nữa. Trong thời gian qua ông ấy và tôi đã tiết kiệm được một số tiền. Thay vì dùng mua ma túy và hoang phí rượu bia như trước, mới đây chúng tôi đã đem cho Hội Hồng Thập Tự Hoa Kỳ một ít để giúp cho người tị nạn Ukraine. Amazing! Quả là chúng tôi đã làm được điều đáng kinh ngạc!”
Tôi cảm động đến rưng rưng, không thốt ra lời. Ông Scott đúng là một người rất giàu tình cảm. Mất hết một lúc im lặng, cuối cùng tôi nói:
“Scott, ông quả thật là người tốt! Xin Thượng Đế phù hộ cho ông!” Rồi tôi hỏi: “Ông có biết một trong hai tù binh đó là người Việt Nam của chúng tôi không, anh Andy Tai Huynh. Không biết bây giờ họ ra sao.”
“Tôi biết, Tai là người Việt Nam. Chính phủ Mỹ vẫn đang cố gắng bằng mọi cách để đưa họ về với gia đình, cô yên tâm đi.”
Biết Scott theo dõi kỹ tin tức về cuộc chiến Ukraine, tôi hỏi: “Theo ông, thì cuộc chiến Ukraine rồi sẽ đi tới đâu? Tôi xem tin tức thấy tổng thống và dân tộc Ukraine rất kiên cường, nhưng quân Nga cậy người đông tiền lắm, cứ tiếp tục xâm chiếm chứ không chịu dừng lại. Bây giờ thế giới phải làm sao mới tốt cho Ukraine?”
“Chắc chắn có một ngày quân Nga sẽ phải rút thôi!” Scott nói như khẳng định. “Quân dân vô tội của Ukraine đã thiệt mạng quá nhiều rồi. Thượng Đế công bình sẽ phán xét, kẻ ác sẽ phải đền tội. Cũng có lúc, tôi giận các nước phương Tây quá chết nhát “chicken” không chịu giúp vũ khí sớm cho Ukraine, để Zelenskyy phải kêu gào khản cả cổ mới chịu gửi vũ khí cho họ.” Ông ngừng lại, lấy chai nước từ phía sau lưng ra hớp một miếng rồi nói tiếp, “Cho tới sáng nay, quân Ukraine vẫn đang cố gắng chận đứng quân Nga ở biên giới Donetsk, nhưng chẳng biết họ có giữ nổi hay không đây.” Ông nghẹn ngào, “Poor Ukraine! Ukraine tội nghiệp, mỗi ngày đều có rất nhiều thường dân vô tội bị quân Nga giết. Tính tới nay, đã có hàng chục nghìn thường dân Ukraine lớp bị giết lớp bị thương.” Và ông bỗng cao giọng như nấc lên, “Cuộc chiến này không thể kéo dài! Hãy cầu nguyện cho họ!”
Tôi gật đầu:
“Đúng vậy. Chúng ta nên cầu nguyện cho đất nước và người dân Ukraine. Cầu nguyện cho cuộc chiến này chấm dứt càng sớm càng tốt!”
“Phải! Hãy cùng cầu nguyện. Xin Chúa thương xót và cứu lấy Ukraine!” Bà Sue cũng nói và đưa tay lên làm dấu thánh giá. “Ukraine không thể nào thua, Chúa ơi!”
Tự nhiên tôi cảm thấy trong lòng buồn bã vô cùng. Nếu rủi như Ukraine không chiến thắng nổi quân Nga… Tưởng tượng tới đó, tôi chợt lắc đầu rùng mình, không dám nghĩ tiếp.
Chào từ giã Scott và Sue, tôi thất thểu bước theo những chiếc xe hoa cuối cùng của đoàn diễn hành để về nhà.
Trời đã quá xế trưa. Ánh nắng hè rực rỡ lung linh, những chùm phượng tím hai bên đường đong đưa trong cơn gió nhẹ từ biển thôi vào man mác. Nhưng trong tôi mọi hào hứng của buổi mai khởi hành ra đi bây giờ đã biến mất.
Lạy Trời xin cứu lấy Ukraine. Tôi khấn thầm.
Phương Hoa
**
KHÁT VỌNG TỰ-DO
*
Đã quyết ra đi, chẳng trở về …
Ta thà chôn kín mối tình quê
Thay tên, đổi họ, đời du tử
Nuốt nhục vào trong chén rượu hề!
*
Đã quyết ra đi chẳng trở về …
Sá gì ngộ nhận hoặc khen chê.
Chí ta ta biết, lòng ta quyết,
Dứt áo ra đi chẳng trở về!
*
Lạy mẹ, lạy cha, một lạy này …
Xem như con chết kể từ nay
Họ tên xin chép vào bia mộ
Nhang khói hồn ma giữ lấy ngày.
*
Máu chảy đời nay ruột chẳng mềm,
Thù hằn chia cắt nghĩa anh em …
Ta đi … dẫu phải vào sinh tử,
Cũng lấy làm vui nấm mộ tàn
*
Đã quyết vung dao rạch đá thề
Bỏ mình biển cả hoặc sơn khê
Sướng khổ đói no đường đã chọn
Quyết chẳng lùi chân bước trở về …
*
Buồm đã căng rồi, lộng biển khơi
Hồn ta khát bỏng cánh chim trời
Đã quyết ra đi không ngoảnh lại
Tự do hay chết…một đường thôi!
-Chàng Đông Ry Nguyễn
**
GỬI EMNGƯỜI NỮ CHIẾN BINHUKRAINE
*
Thấy bom nổ trên đất người xinh đẹp
Ta tức mình căm ghét lão Putin
Nếu còn trẻ ta ngán gì trận mạc
Sẽ lên đường giáp mặt với đao binh
*
Bạn bè ta cũng đã từng chiến đấu
Rất ngoan cường chống lại lũ xâm lăng
Những thế lực vô thần tay vấy máu
Giỏi tuyên truyền chuyên lừa gạt nhân dân
*
Ráng lên em hãy vững vàng tay súng
Đừng yếu lòng mà tin tưởng ngây thơ
Với độc tài quy hàng là…chán sống
Nền tự do không miễn phí bao giờ
*
Ta rất tiếc không còn trai trẻ nữa
Bên chiến hào chia lửa đạn cùng em
Thơ ta viết là tấm lòng chan chứa
Mong ơn lành các em được bình an
*
Ngày mai đến khi tin mừng chiến thắng
Em trở về trong bao lớp hùng binh
Quăng tay súng cùng chung vai xây dựng
Trời Ukraine nắng đẹp gió thanh bình…
Donry Nguyen
TẾ SỐNG ĐỘC TÀI
*
Trong thời đại văn minh tiến bộ,
Lại bất ngờ xuất hiện thằng điên.
Nuôi tham vọng lên ngôi đại đế
Đạp lê dân dưới gót bạo quyền.
*
Xua quân lính xâm lăng bắn phá,
Gieo hãi hùng bom đạn đau thương.
Miệng nhe nanh những lời dối trá
Mặt lạnh tanh thủ đoạn khôn lường.
*
Cả nhân loại đồng lòng lên án
Thế giới cùng cấm vận bao vây.
Người Ukraine đêm ngày chiến đấu
Vì tự do quyết một trận này.
*
Trời vốn chẳng dung đồ man rợ,
Bọn độc tài phải bị tiêu vong.
Ta viết sẵn một bài văn tế,
Đợi đến giờ lịch sử sang trang.
Donry Nguyễn
NGÀY LỄ ĐỘC LẬP HOA KỲ – BIỂU TƯỢNG CỦA TỰ DO VÀ LÒNG YÊU NƯỚC
Thái Phạm
Ngày 4 tháng 7 hằng năm, người dân Hoa Kỳ cùng nhau kỷ niệm Ngày Độc Lập – một trong những ngày lễ quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc nhất trong lịch sử đất nước. Đây là dịp để tưởng nhớ sự kiện ngày 4 tháng 7 năm 1776, khi bản Tuyên ngôn Độc lập chính thức được thông qua, đánh dấu sự khai sinh của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ – một quốc gia được xây dựng trên nền tảng tự do, công lý và quyền bình đẳng.
Trước năm 1776, 13 thuộc địa ở Bắc Mỹ do Anh quốc cai trị đã chịu nhiều áp bức về thuế khóa và quyền tự quyết. Sau nhiều năm đấu tranh, vào ngày 4 tháng 7 năm 1776, tại Philadelphia, các đại biểu của 13 thuộc địa đã đồng lòng ký vào bản Tuyên ngôn Độc lập, do Thomas Jefferson chấp bút. Bản tuyên ngôn này không những tuyên bố Hoa Kỳ tách khỏi Anh quốc, mà còn khẳng định những giá trị cốt lõi về nhân quyền và dân chủ.
Ngày Lễ Độc Lập là thời điểm để người dân Mỹ thể hiện lòng yêu nước và tự hào dân tộc. Khắp nơi trên đất nước, các thành phố lớn nhỏ đều tổ chức diễu hành, bắn pháo hoa, hòa nhạc ngoài trời và các buổi picnic gia đình. Màu cờ đỏ – trắng – xanh xuất hiện khắp nơi, từ trang phục, trang trí nhà cửa đến các sản phẩm tiêu dùng, như một biểu tượng gắn kết tinh thần quốc gia.
Dù trải qua hơn hai thế kỷ, tinh thần của Ngày Độc Lập vẫn còn nguyên giá trị. Đó là lời nhắc nhở về khát vọng tự do, về quyền con người, và về trách nhiệm của mỗi công dân trong việc gìn giữ và phát huy những giá trị mà các bậc tiền nhân đã đổ máu để giành được.
Ngày 4 tháng 7 không chỉ là một kỳ nghỉ lễ, mà còn là một dịp để suy ngẫm: Tự do không phải là điều sẵn có – đó là thành quả của đấu tranh, của hy sinh, và cần được bảo vệ qua từng thế hệ.
Thơ mừng Ngày Độc Lập Hoa Kỳ
Bốn tháng Bảy, ánh dương hồng Bừng lên khát vọng khắp non sông Pháo hoa rực sáng ngàn mây biếc Cờ Mỹ tung bay giữa muôn lòng.
“Con người sinh ra đều bình đẳng” Jefferson ghi bằng trái tim nồng Mở ra trang sử vàng rực rỡ Tự do, công lý, sáng trong lòng.
Thái Phạm
VTLV TRANG ĐẶC BIỆT-MỪNG GIÁNG SINH 2024
**
Lễ Giáng Sinh
Mùa lễ rộn ràng khắp mọi nơi
Shopping trang trí ánh đèn ngời
Người chen mua sắm làm quà tặng
Gặp dịp hân hoan chuyện tiệc mời
*
Thánh lễ con chiên tưởng nhớ ngài
Bao điều khổ nhục gánh hai vai
Tấm lòng vĩ đại dang tay rộng
Cứu rỗi muôn loài hướng đúng sai
*
Đêm Chúa xuống trần khúc nhac vang
Đêm đông lấp lánh tỏa sao ngàn
Nguyện cầu ân đức ngài che chở
Đêm Thánh vô cùng ý nghĩa mang
*
Có dịp cháu con tụ một nhà
Gói quà mệt thở tốn tiền đa
Nhưng mà rộn rã lòng vui thích
Hội họp vui cười ấm áp nha
*
Phở cháo, chè xôi, thịt nướng đầy
Chất chồng đống hộp chứa quà vây
Nâng ly rượu đỏ chan hòa chuyện
Hưởng lễ Noel tiệc lớn này
*
Minh Thúy Thành Nội
Giáng Sinh 2024
**********************************
VĂN THƠ LẠC VIỆT MERRY CHRISTMAS 2024
*
GIÁNG SINH kính chúc thảy nhà nhà
Luôn gặp điều lành, lộc đáo gia
LẠC VIỆT thành viên đời hạnh phúc
VĂN THƠ thân hữu sống an hòa
Tiệc Réveillon tối hàng lô Gifts
Lễ CHRISTMASđêm cả khối quà
CHÚA ngự trên Trời ban phép lạ
Toàn cầu nhân loại thảy hoan ca.
*BBT VTLV – CHRISTMAS 2024 (Phương Hoa )
***
GIỌT LỆ ĐÊM GIÁNG SINH
(Viết thay một người)
Tuyết lạnh báo đông về
Đêm trường dài lê thê
Than hồng khôn sưởi ấm
Lịm dần trong cơn mê
*
Người xưa chừ nơi nao
Gió bên rèm lao xao
Trở trăn vòng gối chiếc
Lệ thầm hoen má đào
*
Chuông Thánh Đường rền vang
Giật mình thêm bàng hoàng
Giáng Sinh nào chung lối
Nay đôi ngã đôi đàng
*
Nhớ vòng tay ấm áp
Đêm Thánh ánh sao cười
Chúa Hài Đồng mở mắt
Gửi yêu thương loài người
*
Bên Máng Cỏ Chúa nhìn
Như vui chúc đôi mình
Bên nhau đầy hạnh phúc
Theo ước mơ đẹp xinh
*
Rồi bể cả cồn dâu
Xô tình mình hư hao
Phòng loan nơi viễn xứ
Mắt môi ai lệ trào.
Phương Hoa – Giáng Sinh 2024
ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG.
CAO MỴ NHÂN
Đêm Thánh vô cùng trân quý ơi
Đoá hoa nhân ái nở bên trời
Khát khao yêu mến người thiên hạ
Tất cả xin vào dự hội chơi
*
Ánh biếc vì sao lấp lánh xa
Tươi vui bếp lửa ấm muôn nhà
Chúa ơi, Đêm Thánh vô cùng tận
Người với người thương ta với ta
*
Bạn với bè trên mỗi bước xuân
Hoan ca nơi khắp ngả dương trần
Mây vương sắc áo mầu nhân ảnh
Đêm Thánh vô cùng đẹp dấu chân.
*
Mãi mãi hoa thơ kết vạn lòng
Dâng lên Thiên Chúa mỗi mùa đông
Bình an dưới thế đêm vô tận
Chúa ở cùng anh chị em mong …
CAO MỴ NHÂN
*
NOEL CẢM LUỴ.
CAO MỴ NHÂN
*
Đứng trên đỉnh cầu vồng
Người có nhớ gì không
Hay một trời dĩ vãng
Đã tan ra thành sông
*
Dòng sông cuộc đời xưa
Nước mắt đầy như mưa
Người vương thương khổ luỵ
Trên những chuyến đò trưa
*
Đã ở thật xa xôi
Cuộc tình cũng chơi vơi
Mười năm trôi mộng mị
Bài thơ viết không lời
*
Noel cuối thật buồn
Đón Chúa vào linh hồn
Rồi bay theo huyễn cảm
Cùng nỗi sầu sắt son
*
Người đi, xin bái biệt
Bồng bềnh lúc chia tay
Mười năm hương nguyền tắt
Sót lại nỗi đau này …
CAO MỴ NHÂN
*
TRƯỚC LỄ GIÁNG SINH.
CAO MỴ NHÂN
*
Chúa ơi, con chẳng còn nao nức
Nghe tiếng chuông, chờ Lễ Nửa Đêm
Con thấy lòng con yên lặng quá
Thản nhiên vào giấc ngủ êm đềm
*
Bao nhiêu bạn trẻ đã ra đường
Phải họ đi tìm Chúa mến thương
Hay họ chỉ đi tìm bóng họ
Bên nhau, mai mốt lại muôn phương
*
Ở đây, cạnh Chúa vẫn cô đơn
Ngửa mặt nhìn sao, nén tủi hờn
Con muốn lênh đênh trên biển cả
Một lần sóng gió, Chúa gần hơn
*
Chúa ơi, Chúa đến làm chi nhỉ
Con khóc như mưa, Chúa lại …cười
Con khổ sở hoài, xin Chúa giúp
Chúa kêu thử thách với con thôi
*
Con vừa cầu nguyện gởi cho ai
Thôi nhé, Noel này lạc loài
Con viết thơ buồn trên giá thánh
Ngày mai thức giấc, chắc sầu vơi…
(Saigon 24 -12 – 1981)
CAO MỴ NHÂN
ĐÊM CHRISTMAS.
CAO MỴ NHÂN
*
Anh đứng nhìn em lâu
Sân nhà thờ, đêm thâu
Lời thánh ca chưa dứt
Tan vào cuộc tình sau
*
Bài thơ không buồn phiền
Chúa ở mãi bên em
Ôm em cho chặt nhé
Đừng để rớt trái tim
*
Nhạc thánh ca lâng lâng
Hồn chơi vơi bâng khuâng
Bạn đời vô quá khứ
Người tình lỡ trăm năm
*
Hồi chuông ngân vang xa
Chúa vẫn ở bên ta
Sao anh im lặng thế
Ta đang trong mộng mơ
*
Thơ rơi theo tình buồn
Em sợ sầu vương thương
Mông mênh đêm Christmas
Nước mắt hoà khói sương …
CAO MỴ NHÂN
*
HÁT THÁNH CA.
CAO MỴ NHÂN
*
Buổi sáng em ngồi hát thánh ca
Cả không gian sáng rỡ quanh nhà
Anh đang xa tít chân mây rộng
Em nguyện trời ân sủng chúng ta
*
Ôi, nguyện trời cao, tuyệt đỉnh cao
Giơ tay em với tới phương nào
Không gian vần vũ, anh yêu hỡi
Sương khói mơ hồ giữa ánh sao
*
Chúa ở cùng anh, Chúa bỏ em
Bâng khuâng hờn tủi những ưu phiền
Ngay khi anh đến, khi anh đến
Mang nỗi u hoài, trễ muộn thêm
*
Buổi tối thánh ca vẳng ngập ngừng
Chao ôi, có thật Chúa bên lưng
Đỡ em đi hết đường đau khổ
Dấu lệ yêu thương, đọc ” Kính mừng …”
CAO MỴ NHÂN
*
ĐÊM THÁNH.
CAO MỴ NHÂN
Đêm thánh vô cùng hạnh phúc sao
Đường vô nhà Chúa gió len vào
Từng cây, từng lá, từng hoa lạnh
Christmas chan hoà chuông vọng cao
*
Anh có bao giờ ngó thật xa
Đêm rơi huyền ảo khói la đà
Hàng thông đứng đợi đôi hè phố
Vươn bóng mơ màng nghe thánh ca
*
Lễ nửa đêm chuông thả ngút trời
Người về ấm áp giữa sương rơi
Vòng ôm xiết chặt tình thân ái
Đếm bước thương yêu đẹp tuyệt vời
*
Mấy chục năm mà tưởng mới đây
Noel xưa lưu lạc phương này
Vẫn nơi ký ức thời thơ dại
Bài thánh ca buồn hát đắm say…
CAO MỴ NHÂN
Ý NGHĨA CỦA LỄ GIÁNG SINH
Lễ Giáng Sinh là ngày Christmas khá trọng đại. Trọng đại vì đây là ngày đã được mọi quốc gia, mọi tôn giáo coi như ngày vui chung của nhân loại, chứ không riêng gì đối với tín đồ Thiên Chúa Giáo. Do đó, có người đã nói, Christmas là một cơ hội hãn hữu để nhắc nhở mọi người có bổn phận đối với những người mà ta không quen biết cũng như đôi khi không ưa thích.Và đồng thời mọi người cũng hân hoan hát các điệu nhạc Giáng sinh như “We wish you a Merry Christmas”, như “Silent Night”, Đêm Thánh Vô Cùng mừng Chúa Hài Đồng ra đời.
…Ôi Chúa thiên đàng, cam nếm cơ hàn Nhấp chén phiền vương phong trần Than ôi Chúa thương người đến quên mình Bơ vơ chốn quên nhà lúc sinh thành Ai đang sống trong lạc thú Nhớ rằng Chúa đang đền bù…
Theo lời ghi lại thì khi Chúa Jesus cất tiếng khóc chào đời trong một cái máng cỏ ở hang Bethlelem có ba vị Vua phương Đông mang ba món quà đến để bày tỏ sự thành kính của họ. Trong khi đó, những người chăn cừu nghèo khó cũng lòng thành tặng Chúa Jesus hoa quả và những món đồ chơi do chính họ làm ra…
Lễ Giáng Sinh Christmas là lễ kỷ niệm ngày sinh của Chúa Jesus. Christmas gồm có chữ Christ và Mas. Christ là tước vị của Đức Giêsu, chữ Mas là Thánh lễ. Thượng Đế đã gửi con yêu quý của mình xuống thế để chuộc tội và mang lại tình thương, hòa bình, hạnh phúc cho nhân loại. Tuy là lễ riêng của tín đồ Cơ Đốc Giáo, nhưng hầu như mọi người đều trân trọng, chung vui. Với tất cả, Lễ Giáng Sinh là thời gian tuy ngắn ngủi nhưng tràn ngập thương yêu với những gói quà dưới cây Noel, sao sáng lung linh nơi cửa sổ, những cánh thiệp chúc tụng gửi đó đây, những bữa ăn đoàn tụ thân bằng quyến thuộc với tiếng cười nói hân hoan hạnh phúc, với tuyết trắng phủ kín sân nhà, đường phố…
Cho nên, tinh thần của Lễ Giáng Sinh là chia sẻ, bao dung, thương yêu và giảm thiểu giận hờn.
Tiểu thuyết gia Oren Arnold gợi ý về quà tặng Giáng Sinh như sau: “Với kẻ thù, cho sự Tha thứ; với đối thủ cho sự Chịu đựng; với bạn bè cho Trái Tim; với khách hàng cho Phục Vụ Chu Đáo; với các cháu bé Làm Gương Sáng để cháu noi theo và với chính mình, cho niềm Tự Trọng”.
Trong thông điệp gửi cho nhân dân Hoa Kỳ, vị Tổng Thống thứ 30 của quốc gia này là Calvin Coolidge (1872-1933), nhắn nhủ: “Christmas không phải là một thời gian hoặc một mùa nhưng là một tâm trạng. Để chào mừng hòa bình và thiện ý, để có đầy đủ tình yêu thương”.
Tiểu thuyết gia nước Anh là Charles Dickens ((1812–1870) cũng đồng ý với “ Tôi luôn nghĩ Christmas như là thời gian vui thú ; một thời gian thân tình, tha thứ, độ lượng, thoải mái; thời gian mà nam cũng như nữ dường như tự do rộng mở trái tim, do đó tôi xin Thượng Đế chúc lành cho Christmas”.
Tác giả Wilda English viết :”Thượng Đế ban cho ta ánh sáng của Christmas, đó là niềm tin; ấm áp của Chrismas, đó là tình yêu; rực rỡ của Christmas, đó là sự trong sáng; chính trực của Christmas, đó là công lý; lòng tin tưởng ở Christmas, đó là sự thật; mọi ý nghĩa của Christmas, đó là Chúa Giê Su”.
Kế cận những bên nhau hạnh phúc, Giáng Sinh còn quá nhiều người không mua, không nhận được quà tặng, không lo được bữa ăn ngon, những em bé bán diêm chết cóng trong đêm băng giá, những đứa con bị cha mẹ bỏ rơi, những người bệnh không được thuốc thang chăm sóc…
Nhưng có Mother Teresa, người được Chúa Jesus kêu gọi để phục vụ những kẻ bất hạnh từ Giáng Sinh năm 1948. Bà từng nói “Mỗi năm tôi khởi sự việc làm vào ngày Christmas”.
Vì, theo bà, “Là Lễ Giáng Sinh mỗi khi ta để Thượng Đế thương yêu người khác qua ta…và là Lễ Giáng Sinh mỗi khi ta mỉm cười với anh em của ta và cứu giúp họ”.
Đó là thánh ý Thiên Chúa.
Mà trong Lễ Giáng sinh, thường thường người ta cũng hay cầu nguyện
Cầu nguyện không phải chỉ là sự thờ phượng mà còn là một nguồn sinh lực dồi dào, mạnh mẽ mà con người có thể tạo ra. Ảnh hưởng của sự cầu nguyện lên tinh thần và thể chất có thể chứng minh được. Ảnh hưởng đó được đo lường bằng sự phục hồi thể xác, đưa tới một trí tuệ sáng suốt, một lương tri ổn định và sự thấu hiểu những mặt khàc nhau trong sự giao thiệp giữa mọi người.
Nếu ta thành thật tạo ra một thói quen cầu nguyện, cuộc sống của ta sẽ thay đổi rõ ràng. Lời cầu nguyện sẽ để lại trong hành động và thái độ của ta những dấu ấn khó xóa nhòa. Một tác phong bình thản, một nét mặt ung dung tự tại ở những ai đã có một nội tâm phong phú. Trong chiều xâu của lương tri là ngọn lửa của nhân ái. Và con người tự nhìn thấy mình. Họ nhìn ra tính ích kỷ, thái độ kiêu hãnh, tâm trạng sợ hãi, lòng tham lam, những sai lầm ngớ ngẩn của mình. Họ sẽ triển khai một nghĩa vụ đạo đức, một trí tuệ khiêm cung lâu dài.
Câu nói, “Hãy cầu xin và sẽ được đáp ứng” đã được chứng minh bằng kinh nghiệm của nhân loại.Thực ra, cầu nguyện không thể mang lại sự sống cho em bé đã chút hơi thở cuối cùng hoặc chấm dứt được cơn đau thể chất. Nhưng cầu nguyện, như hạt radium, là nguồn sinh lực tự tạo sáng chói không bao giờ hết. Khi cầu nguyện, ta đã kết nối bản thân với nguồn sức mạnh bất tận đang quay cuồng trong vũ trụ. Ta xin một phần năng lượng đó cho nhu cầu thiếu hụt của ta để tăng cường bổi bổ. Nhưng đừng cầu nguyện Thượng Đế để thỏa mãn lòng ham muốn nhất thời.
Ta có thể cầu nguyện bất cứ ở đâu, một mình hoặc với người khác. Hãy nghĩ tới Thượng Đế nhiều hơn là hơi thở khiến cho cầu nguyện trở thành một thói quen.Và đừng cầu nguyện vào buổi sáng rồi suốt ngày sống như một con người man rợ độc ác.
Hơn bao giờ hết, cầu nguyện bây giờ là một gắn bó cần thiết trong nếp sống của con người. Thiếu quan tâm tới ý nghĩa của tôn giáo đã đưa thế giới tới ngưỡng cửa của sự diệt vong. Nguồn sức mạnh xâu sắc, toàn hảo nhất của chúng ta đã bị lãng quên một cách thảm bại. Cầu nguyện phải được tích cực áp dụng trong nếp sống của chúng ta. Vì nếu sức mạnh của sự cầu nguyện được áp dụng trong đời sống thường nhật thì còn nhiều hy vọng rằng những lời cầu nguyện cho một thế giới tốt đẹp hơn sẽ được đáp ứng.
Lễ Tạ Ơn đã qua, mùa Giáng Sinh lại về. Nhiều nhà thờ được trang hoàng rực rỡ đón Giáng Sinh, nhà nhà chuẩn bị mua cây thông, có người lên rừng đốn cây thông đem về cho gia đình mình, cho bằng hữu của mình. Có một số gian hàng bán cây thông ngoài đường nhưng chúng tôi thích mua cây thông ở nhà thờ hơn vì mua cây thông ở nhà thờ ít nhất mình cũng giúp cho nhà thờ một chút gì đó. Ở Orange County, nhà thờ nào có linh mục Việt Nam, có giáo dân Việt Nam thì nhà thờ đó được trang hoàng rất đẹp, đèn rực rỡ khắp nơi ngoài nhà thờ, cây cỏ ở nhà thờ được chăm sóc một cách cẩn thận, nhất là tượng Đức Mẹ lộ thiên đầy hoa, hoa cúc, hoa lan, hoa vạn thọ, Đức Mẹ đứng giữa rừng hoa. Đức Mẹ đã đẹp, hoa làm cho Đức Mẹ đẹp hơn. Hằng ngày, nhiều tín đồ đến cầu nguyện Đức Mẹ ban phép lành, người nào (không phân biệt tôn giáo) có tâm sự đều đến cầu xin Đức Mẹ ban cho mình sự bình yên, không phải chỉ có người lớn tuổi cầu xin điều gì đó mà ngay cả những người trẻ tuổi cũng cầu xin.
Khi đồng hương đến những nơi linh thiêng cầu nguyện thì khuôn mặt rất thành khẩn, rất chân thành, chúng tôi đã gặp nhiều người già ngồi trên xe lăn, người tật nguyền chống gậy đến trước tượng Đức Mẹ cầu nguyện ở nhà thờ Saint Barbara, Santa Ana, nhà thờ Saint Polycap, nhà thờ Westminster, nhà thờ Anaheim, nhà thờ Saint of Alexandria Temecula, v.v. Khuôn mặt của những người có niềm tin tôn giáo lúc cầu nguyện rất hiền lành, thánh thiện, lúc đó hình như họ không ở trần gian, mà họ đến nơi nào đó, nơi đó là Thiên Đàng.
Chúng tôi còn nhớ năm đầu tiên tị nạn ở Hoa Kỳ dự thánh lễ Giáng Sinh đầu tiên ở một nhà có cổ kính ở thành phố Glendale, Los Angeles County. Tối hôm đó có vài người Việt Nam tham dự, vì ở trại tị nạn thì nóng, sang Hoa Kỳ đêm Giáng Sinh quá lạnh, áo lạnh không đủ ấm, chúng tôi vừa đứng trước tượng Đức Mẹ vừa run, nhà thờ tuy nhỏ mà số người tham dự thì đông, thấy người lạ đến nhà thờ, một bà Mỹ lớn tới nắm tay chúng tôi dẫn vào bên trong nhà thờ. Không khí đêm Giáng Sinh tưng bừng chưa bao giờ thấy, đương nhiên ở trong trại tị nạn làm sao có không khí vui tươi như thế này, ở trong trại tị nạn hồi hộp chờ từng ngày để được định cư.
Gần tới mùa Giáng Sinh nhà nào cũng đẹp, văn phòng, cơ sở thương mại cũng trang hoàng đẹp hơn ngày thường, cây thông, thiệp Giáng Sinh với ông già Noel để trên cây thông, những chiếc vớ dài thật đẹp để trên lò sưởi. Lúc nhỏ, chúng tôi thường nghe nói nếu mình mơ ước điều gì thì ông già Noel sẽ cho mình, ông già Noel sẽ đi từ ống khói xuống lò sưởi. Ông bà, cha mẹ thường nói những đứa trẻ phải ngoan ngoãn thì ông già Noel mới cho quà, trẻ con thì hay tin lời của ông bà cha mẹ mình nói, dù không ngoan ngoãn nhưng tới ngày gần lễ Giáng Sinh cũng phải ngoan để được quà của ông già Noel. Trên đời này có đứa trẻ nào học giỏi mà không nghịch ngợm đâu chứ? Nghe nhạc Giáng Sinh, mặc áo mới, có quà, trẻ con nào mà không thích mùa Giáng Sinh chứ? Các nhà thờ đẹp, trang hoàng cây thông rực rỡ, bóng đèn đủ màu, cũng nhờ bàn tay của Giáo dân, sân ở nhà thờ không có một lá cây cũng nhờ bàn tay của Giáo dân, của linh mục quan tâm đến nhà thờ của mình.
Trước lễ Giáng Sinh, tôi thường gọi thăm các linh mục mà chúng tôi quen. Linh mục Vũ Đảo, đã hưu trí, là học trò trường trung hoc Lý Thường Kiệt thập niên 50 lúc người Bắc mới vừa di cư vào Nam. Linh mục Vũ Đảo học rất giỏi, có khiếu văn nghệ, đóng kịch rất xuất sắc, sau này là nhà giáo, rồi là sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau 30/4/1975, ngài ở tù 3 năm. Ra tù, ngài vượt biên qua Thái Lan, định cư ở Chicago, Hoa Kỳ. Ngài đi học ở nhà dòng, được thụ phong linh mục ở miền Đông vào tháng 4/1988.
Cựu học sinh trung học Lý Thường Kiệt ở Quang Trung, quận Hóc Môn rất hãnh diện về ngài, và không biết đất lành ở trường sao đó mà trường có nhiều dì phước, linh mục và có một giám mục cũng là học trò của Lý Thường Kiệt. Cựu học sinh Lý Thường Kiệt ở California tổ chức chào đón ngài trước khi ngài về Phi Luật Tân làm việc trong các trại tị nạn ở Phi Luật Tân.
Đến Phi Luật Tân vào tháng 6/1988, linh mục Vũ Đảo giúp rất nhiều đồng hương tị nạn trong trại tị nạn. Phi Luật Tân gồm có 4000 đạo họp lại thành một quốc gia Phi Luật Tân, đạo Công Giáo và Tin Lành phát triển rất mạnh mẽ, các vị lãnh đạo tinh thần được tôn trọng, hằng năm linh mục Vũ Đảo về Hoa Kỳ một lần, ngài được bằng hữu đón tiếp một cách nồng nhiệt, chúng tôi thường gởi sách, báo, nhạc để ngài đem về Phi Luật Tân tặng cho đồng bào tị nạn, ngài cho biết trong trại tị nạn hằng năm vẫn tổ chức lễ Giáng Sinh một cách long trọng.
Linh mục Vũ Đảo là linh mục bề trên của dòng Ngôi Lời mới thành lập ở Mỹ chừng 50 năm. Ngày xưa ở Việt Nam không có dòng Ngôi Lời, khi biến cố lớn xảy ra ở Lousiana, tượng thánh Louis bị những người nổi loạn cột dây vào đầu và định giựt sập thì linh mục Stephen Schumacher vừa chịu chức chưa được một năm của tổng giáo phận St. Louis, đứng dưới tượng Thánh Louis cùng một số Giáo dân bảo vệ tượng. Nếu họ kéo dây thì tượng Thánh Louis sẽ ngã, linh mục trẻ và một số giáo dân này sẽ chết ngay tức khắc, nhưng nhờ sự khôn khéo của linh mục trẻ này và nhờ Chúa ban phước, linh mục cố kéo dài thời giờ đối thoại để cho cảnh sát đến. Hơn 1 tỷ người trên thế giới theo dõi cảnh đối thoại từng giây từng phút, nhiều người hội hộp và muốn đau tim, người nào đau tim sẵn có thể chết bất cứ lúc nào, thế rồi Cảnh Sát đến giải tán đám biểu tình.
Tôi gọi ngay linh mục Vũ Đảo, xin số điện thoại và email của vị linh mục trẻ đó, và cuối cùng tôi phỏng vấn được ngài, một linh mục trẻ gan dạ, không sợ chết đứng giữa bão táp phong ba, leo thang cứu tượng Thánh Louis thoát khỏi bị giựt sập.
Tôi cám ơn linh mục Vũ Đảo, tôi cám ơn những vị lãnh đạo tinh thần đã giúp chúng tôi về mặt truyền thông. Nếu không có linh mục Vũ Đảo thì tôi làm sao có được số điện thoại của vị linh mục anh hùng kia một cách kịp thời.
Làm phóng sự về sinh hoạt tôn giáo thì những nhà thờ là nơi nên tìm đến, những bài thánh ca đi vào hồn người, những đứa trẻ được bố mẹ bế vào nhà thờ trong những ngày lễ, nhất là đêm Giáng Sinh, đứa trẻ nào lớn lên cũng đam mê âm nhạc và có thể thành ca sĩ, vì âm nhạc đã vào máu rồi.
Hãy cầu nguyện, cầu nguyện thật nhiều, đời sống sẽ bình yên hơn, lòng sẽ thanh thản. Người nào có niềm tin ở tôn giáo thì đời sống sẽ vui hơn, lạc quan hơn, và sống yêu đời hơn, dù gặp trở ngại trong đời sống cũng sẽ vượt qua một cách dễ dàng.
MỜI QUÝ VỊ BẤM VÀO MŨI TÊN GÓC TRÁI KHUNG HÌNH DƯỚI ĐÂY (TRÊN HOẶC DƯỚI) ĐỂ LẬT TRANG
KON TUM – MÙA GIÁNG SINH CUỐI CÙNG
(Trích đoạn trong truyện dài Đức Tin)
…Tháng 8 năm 1974, đơn vị hắn nhận lệnh luân chuyển từ Bắc Bình Định lên trấn đóng vùng cao nguyên đất đỏ. Hắn náo nức trở lại nơi mà người bạn Biệt Động Quân đã vô tình cứu hắn thoát chết dạo trước, và thăm lại người em gái hậu phương thường mở cho hắn nghe bản nhạc “Em tên…em tên Mộng Thường…mẹ gọi em bé ngoan”.
Đến nơi, pháo đội trừ đóng quân ở căn cứ Trần Ngọc Lân, còn trung đội 2 của hắn, được chỉ huy bởi vị trung uý pháo đội phó, thì kéo hai khẩu đại bác 105 ly nhét vào hai lô-cốt, nòng súng ló ra ngoài hướng về phía bắc. Ông tập hợp trung đội để ban hành mệnh lệnh:
-Đây là phòng tuyến cuối cùng, chúng ta không còn bắn yểm trợ cho đơn vị nào nữa. Nhiệm vụ của chúng ta là trực xạ vào các chiến xa T54 nếu nó xuất hiện từ hướng Ngô Trang. Các anh em hãy hết sức chú ý để kịp thời vào vị trí tác xạ. Ai vi phạm, chiếu quân lịnh thi hành kỷ luật.
Nơi hắn đóng quân có tên là Eo-Gió, cách thị xã Kon-Tum khoảng 6 cây số về phía bắc, là một ngọn đồi thấp và trơ trọi, nằm án ngữ trên đường 14, con đường độc nhất nối liền với các tỉnh phía nam. Sau khi Đắc Tô-Tân Cảnh thất thủ, nơi đây trở thành vị trí chiến lược phòng thủ hàng đầu.
Từ ngọn đồi nhìn ra bốn phía là núi cao chớn chở và rừng xanh bát ngát. Buổi chiều sương lam âm u tỏa xuống những khí lạnh ghê người. Còn ban đêm, gió thổi qua hun hút, nghe như tiếng kêu gào của các cô hồn uổng tử đã chết dọc theo con đường di tản từ mùa hè đỏ lửa 1972.
Ngày tháng ở đây nhàn nhã hơn thời kỳ còn đóng quân ở Tam Quan-Bình Định, bọn hắn không phải phơi lưng dưới nắng làm đạn cả ngày hay thức giấc giữa đêm khuya để bắn vài quả đạn quấy rối vu vơ. Công việc thường ngày là canh gác và lau chùi súng đạn, những quả đạn Beehive chống biển người được đưa ra sắp sẵn vào hai bên ụ súng. Loại đạn này, theo vị chỉ huy cho biết, nó có giá một triệu hai trăm ngàn đồng một quả, trong khi lương binh nhì của hắn-đã trừ tiền ăn-chỉ hơn mười hai ngàn đồng mỗi tháng. Trong cái đầu non nớt của hắn, hắn nghĩ thầm -“ Giá mà người mỹ dùng số tiền khổng lồ này mua sữa và bánh mì phát cho dân hắn được no nê thì hạnh phúc biết bao!”.
Mỗi ngày sau khi xong phần việc của mình, hắn thường đi tha thẩn quanh doanh trại, tán dóc với các chiến hữu biệt động quân. Đời lính nơi miền biên cương vô cùng gian khổ, thiếu thốn đủ bề. Quanh năm chỉ thấy rừng già và súng đạn, chưa kể cái chết luôn luôn rình rập chung quanh. Mỗi tuần họ được một lần tiếp tế, khẩu phần là 7 ca gạo, một mớ cá khô, mắm muối bột ngọt và mấy bó rau xanh. Lãnh Lương ra không biết tiêu pha ở đâu cho hết, bèn châu đầu đánh bạc, thằng không may sạch túi thì đành đi lượm “dế mèn” quấn hút, thằng ăn được tiền cũng chả biết làm gì khác hơn là kiếm sòng khác nướng tiếp. Thỉnh thoảng cũng có phái đoàn các “em gái hậu phương” kèm theo vài ca sĩ tỉnh lẻ đến thăm và tặng quà. Lính lác thì được giao lưu ban ngày, còn khi đêm đến, mấy cô ca sĩ rút vào trong các căn hầm sĩ quan, ở đó vọng ra tiếng nhạc xập xình, lẫn với tiếng cười đùa vui vẻ. Có hôm đúng phiên gác, hắn tò mò lén nhìn qua lỗ châu mai. Trong căn phòng ấm cúng, nồng nàn mùi nước hoa và mùi thuốc lá thơm, hắn tê mê nhìn những thân hình gợi cảm của các cô gái đang tay trong tay, mặt nhìn mặt cùng các viên sĩ quan dập dìu khiêu vũ theo điệu nhạc quay cuồng. Lòng hắn bỗng bừng dậy một nỗi khát khao mà bấy lâu hắn kìm nén. Hắn thèm mùi da thịt đàn bà. Thì có sao đâu? Hắn mới hai mươi tuổi…và hắn khao khát được yêu, được ôm người hắn yêu trong vòng tay nóng bỏng và đặt vào đôi môi mọng ướt của nàng một nụ hôn nồng cháy…
Nhưng…cho đến bây giờ, hắn vẫn chưa có người yêu!
Một lần tình cờ gặp lại một người học trò cũ của Cha hắn lúc ông còn dạy tiểu học ở quê. Anh ta là trung uý đại đội trưởng một đại đội biệt động quân thuộc LĐ 23/BĐQ đi hành quân ngang qua. Anh mừng rỡ, kéo hắn vào lều, hỏi thăm về vị thầy cũ, mời hắn ăn một bữa cơm, rồi khi ra về còn cho hắn nửa cây thuốc Capstan. Cảm động hắn làm một bài thơ tặng lại anh. Bài thơ có tựa đề là Biên Giới Ca:
Núi cao chớn chở mồ uổng tử
Rừng xanh bát ngát hồn ma thiêng
Chiến địa máu trào như là suối
Biên giới hề, âm u dị thường!
Biên giới ngày nắng nung chảy mỡ
Biên giới đêm lạnh như cắt da
Xác chết rủ nhau ngồi ngay dậy
Đốt lửa rừng lên mà hát ca…
Ta mang thân trấn thủ lưu đồn
Ba năm biên giới nhận là con
Ba năm man dại theo rừng rú
Buổi chiều ngồi vuốt chòm râu non!
Bạn ta áo bạc màu sương gió
Đem tuổi xuân phơi giữa chiến trường
Từ buổi lên đường xa phố nọ…
Chưa từng san sẻ chuyện yêu đương!
Chiều nay sương xuống mờ quan ải
Nghe tiếng hồn hoang hú não nề
Vỗ tay ta hát hề, biên tái
Súng đạn người đi chẳng trở về!.
Anh ta đọc, khen “mày làm thơ được đó, nhưng buồn quá, đời mày chắc sẽ còn nhiều gian khổ”
Hắn yên lặng không nói gì.
Một tháng đôi ba lần hắn cũng chuồn về được thị xã Kon-Tum. Đến thăm thằng bạn “trung sĩ biệt động quân”, rồi kéo nhau lê la từ quán Cafe Giao, Da Vàng, đến quán Cây Ổi. Ở đó ”có vẻ” em Phương tóc dài đã có chút cảm tình với hắn. Hắn nghĩ “có vẻ”thôi, bởi vì tâm lý các cô gái thời bây giờ chỉ nhắm vào các chàng sĩ quan hào hoa đẹp trai phong độ, chứ còn hàng ngũ cái thứ lính “đơ dem cùi bắp” như hắn thì các cô chả thèm để ý tới bao giờ!.
Em Phương có mái tóc dài ôm kín cả bờ lưng thon thả, sau buổi học về, em thường thay mẹ ra ngồi ở quầy tính tiền. Những khi vắng khách, em lơ đễnh một tay chống cằm, tay kia hí hoáy vẽ trên tờ giấy, nghiêng cả mái tóc mây óng ả về phía hắn. Hắn đánh bạo, phết đại vài câu thơ vớ vẩn rồi trao cho nàng:
“Trời đang rét nhưng lòng anh ấm lạ
Khi ngồi đây trông mái tóc em dài
Vở học trò em đã chép tên ai
Cho anh gửi bài thơ tình của lính…”
Đọc xong, em quay lại nhoẻn môi cười với hắn. Thừa thắng xông lên, hắn kéo ghế qua gần quầy, rồi-vừa nhả khói thuốc vòng tròn, theo kiểu của nhân vật Trần Đại khi đến tán tỉnh em Tường Vi xinh đẹp của quán cafe Gió Nam trong phim Điệu Ru Nước Mắt-hắn vừa phun ra hàng tá thơ tình lãng mạn, từ thơ yêu nồng nàn của Xuân Diệu, Huy Cận cho đến thơ thất tình của Nguyễn Bính. Tuổi học trò nhiều mộng mơ thường thích văn thơ, cho nên em cười híp mắt, ngồi lim dim nghe hắn đọc thơ và bình thơ chứ còn để trở thành người yêu của hắn thì…chắc còn xa lắm!
Mùa giáng sinh năm đó, hắn chuồn về được thành phố sau khi lội bộ 6 cây số. Đến tìm thằng bạn “trung sĩ biệt động quân” thì mới hay nó vừa về phép hôm qua. Buồn tình, hắn một mình tha thẩn tới quán cafe Cây Ổi và gạ gẫm nàng đi lễ nhà thờ với hắn. Nàng đáp gọn lỏn:
-Em không có đạo!
Hắn lên giọng đóng vai cha cố:
-Chúa xót thương tất cả loài người, những người không có đạo Chúa lại thương hơn..
Nàng nghi ngờ nhìn hắn:
-Thôi đi! Đừng xạo…sao anh biết?
Hắn hùng hồn chứng minh:
-Anh là bằng chứng đây, vì lòng mong muốn được đến với Chúa trong đêm thánh vô cùng mà chỉ huy của anh đã cho phép anh đi, trong lúc cả đơn vị cắm trại. Nếu ngài không dùng quyền năng của ngài để làm động lòng vị chỉ huy của anh thì còn ai có thể làm được? (Hắn đã nói láo, thực ra hắn chui rào trốn đi chứ có chỉ huy nào cho phép lính tráng rời đơn vị ban đêm vào những lúc mà việt cộng rình rập tấn công)
Nàng có vẻ xuôi tai:
-Ơ…nhưng mà em không quen đi lễ, tới đó em chả biết làm gì cả?
-Chúa sẽ làm tất cả. Em chỉ việc đi cùng anh tới đó, đứng im chắp tay cầu nguyện…rồi Cha xứ sẽ làm lễ, ngài sẽ cho em được nếm bánh thánh, uống nước thánh…em sẽ được đầy ơn phước, sẽ có chồng giàu sang và sinh những đứa con bụ bẫm, có gương mặt xinh đẹp rạng ngời giống hệt khuôn mặt phúc hậu của Đức Mẹ Maria…
Nàng vẫn bướng bỉnh:
-Nếu em không đi thì sao?
Hắn dọa dẫm:
-Thì khi lìa đời, em sẽ xuống hỏa ngục, nơi đó có những con quỷ đuôi dài đầu sừng, nó sẽ tán tỉnh và hù dọa em, em sẽ chết khiếp…
Hắn còn tuôn ra hàng tràng dài những điều mà hắn học lóm đâu đó trong Kinh Thánh. Nàng vô phương chống đỡ trước những lời lém lỉnh của hắn nhưng vẫn không chịu đầu hàng:
-Nhưng…nhưng mà…má em sẽ la, nếu đi với anh… em hổng dám đâu!
Tới đây thì hắn đành phải bạt mạng nói càn:
-Không người mẹ tốt bụng nào lại la mắng con gái khi đi lễ nhà thờ vào đêm giáng sinh với một chàng trai tử tế…như anh.
Nàng liếc đôi mắt sắc như dao cạo quét khắp người hắn:
-Liệu có tin được mấy cái anh chàng lính tráng như anh không?
Thấy nàng có vẻ xiêu lòng, hắn gật đầu lia lịa:
-Tin được…tin được! Bên trong bộ đồ phong trần này là một linh hồn thánh thiện. Anh là một chàng trai tử tế hiền lành nhất mà em có thể tin tưởng. Thề có Chúa chứng giám, anh sẽ hộ tống em đến nơi an toàn và sẽ trả em về nhà đúng giờ sau khi tan lễ mà không làm em bị mất một sợi lông chân nào…
Nghe hắn quả quyết, nàng cũng động lòng, nên sau vài giây lưỡng lự nàng bèn gật đầu:
-Vậy…anh ra đứng ở cuối đường đợi em, em sẽ thay đồ rồi ra sau…nhớ là đưa em về ngay sau khi tan lễ đó…nghe chưa?
Hắn mừng rơn.
Thế là…lần đầu tiên trong đời, hắn được sánh bước bên một người con gái, dịu dàng trong chiếc áo dài trắng tinh khôi cùng đi lễ nhà thờ.
Con đường dẫn đến ngôi giáo đường chính của thành phố tràn ngập sương mù, đêm đó lại là một đêm có trăng . Ánh trăng mờ tỏa, quyện cùng lớp sương mù lãng đãng tạo thành một thứ ánh sáng huyền ảo mông lung, khiến hắn có cảm giác như là đang bơi trong không gian của một tầng trời xa thẳm nào đó, chứ không phải đang đi giữa một thành phố bị chiến tranh vây bủa tứ bề.
Thấy nàng có vẻ lạnh, hắn cởi chiếc áo Philaket của mình choàng lên vai nàng trong động thái của một bàn tay sẵn sàng chở che bảo vệ. Nàng cảm động, trìu mến đi sát vào hắn, hắn nghe được mùi hương tóc và mùi da thịt của nàng thoảng ra ngây ngất. Ôi chao….Hắn ước gì cho đường đi không tới và đêm cứ dài ra, để mãi mê, hắn sẽ cùng nàng trôi đi…trôi đi qua lối vào tình sử và cùng bay đến một thiên đường mộng ước xa xôi. Nơi chỉ có tình yêu và mật ngọt, nơi xa lìa trần thế đau thương!….
Nhưng con đường thực tế thì quá ngắn ngủi. Mười lăm phút sau-dù đã cố đi chậm hết sức-hắn và nàng cũng đã đứng trước cửa nhà thờ. Người đến dự lễ và người đi xem cũng rất đông. Hắn chật vật đưa nàng vào bên trong. Khi đã yên vị ở một chỗ mà hắn nghĩ là có thể nhìn bao quát cả khung cảnh của giáo đường, hắn ấn nàng ngồi xuống chiếc ghế trống duy nhất còn lại, hắn đứng sau lưng. Nàng trả lại chiếc áo khoác lính cho hắn vì lúc này hơi nóng của số đông người đã đẩy cái lạnh ra bên ngoài khung cửa.
Đang lúc hắn đang say sưa giảng bài về sự tích của đêm giáng sinh thì một bàn tay thô bạo kéo mạnh hắn về phía sau. Cùng với một tràng cười “đểu cáng” là một giọng nói quen quen:
-Thằng quỷ! Trốn ở đâu mà tụi tao tìm mãi mới ra mày…Đi!…đi nhậu với tụi tao!
Hắn ngó lên, thì ra là hai thằng “ôn dịch” cùng đơn vị. Hổng biết nó làm cách nào mà cũng trốn được về đây?
Hắn bèn xuống nước năn nỉ:
-Tao đi với em gái, tụi mày thông cảm, hẹn quán nào đi, chút xíu đưa em về xong tao đến.
Không đếm xỉa gì lời năn nỉ của hắn, hai thằng bạn thân kéo tuột hắn ra ngoài:
-Huynh đệ chi binh gì mà bỏ bạn bè đi chơi với em út? Để em đi lễ đó, nhậu với tụi tao xong quay lại đón em về…không nói on-đơ gì ráo…
Miệng nói tay kéo, hai thằng “quỷ sứ” lôi thẳng ra quán. Vốn tính nể trọng bạn bè, nhất là đối với bạn bè vào sinh ra tử, hắn ngoan ngoãn bước theo mà không kịp quay lại dặn dò “em Phương thân mến” một câu nào.
Hắn định bụng ngồi một lát với hai thằng “ôn dịch”, uống với tụi nó vài ly rồi tìm cách chuồn. Nhưng, người tính không lại ý trời!
Khi cái thứ nước màu hổ phách “quỷ quái” trong chai “Napoleon lùn” chạm đáy, hắn ngật ngưỡng đứng lên bắt tay từ giã bạn, thì cũng là lúc hắn đổ ập xuống sàn nhà, không còn biết trời trăng mây nước gì nữa cả!
o0o
Khi tỉnh lại vào buổi sáng hôm sau, hắn thấy mình nằm co trên chiếc bàn sắt trong phòng khách của một quán trọ rẻ tiền. Cổ họng đắng nghét và cái đầu nặng trịch, hắn chẳng biết tại sao mình lại ở đây?
Chợt nhớ tới nàng, hắn giật mình phóng xuống đất – chết mẹ! mình quên đón nàng rồi!
Hắn vội vàng đi tìm nước rửa mặt, rồi sờ khắp túi quần, túi áo, chẳng có thứ gì ngoài một manh giấy viết nghệch ngoạc mấy chữ:
“Mày say quá mà khách sạn hết chỗ, tụi tao đành bỏ tạm mày ở đây, tiền bạc giấy tờ tụi tao giữ, mai về đơn vị lấy”.
Hắn trở lại quán cafe Cây Ổi để gửi đến nàng một lời xin lỗi. Thấy hắn, nàng chẳng nói chẳng rằng, quay lưng bước vào nhà sau mất dạng.
Hắn đứng yên một lát, nhìn trời hiu quạnh…rồi thọc hai tay vào túi quần lặng lẽ rời đi!.
Mùa giáng sinh 1974-đối với hắn-đã trở thành một kỷ niệm đẹp và…buồn!
Ngày 14 tháng 3/1975. Kon Tum được lệnh di tản, đơn vị hắn kéo súng theo đoàn quân lầm lũi từ giã chiến trường, hắn không kịp đến chào “em Phương thân mến”. Cuộc di tản chiến thuật biến thành một cuộc tháo chạy kinh hoàng. Bom đạn, đói khát và bịnh tật đã giết chết rất nhiều binh lính và thường dân vô tội. Hắn tìm kiếm khắp nơi và hỏi thăm rất nhiều người, không ai biết tin tức gì về cô Phương cà phê Cây Ổi.
Hắn thở dài nghĩ đến một điều không dám nghĩ:
– Có thể “em Phương thân mến” đã vùi thân trong một góc rừng nào đó giữa vùng lửa đạn chiến tranh rồi!
Chàng Đông Ry Nguyễn
EM BÚP BÊ GIÁNG SINH–G. LENOTRE
– Thái Nữ Lan dịch
Theo trí nhớ của tôi về quá khứ xa xôi, tôi vẫn nhìn thấy bà hầu tước De Flavigny, luôn tươi cười và thanh thản, bà thường ngồi ở chiếc ghế bành thấp bọc nhung màu vàng nhạt, đầu đội chiếc nón len viền ren, có vài lọn tóc bạch kim lòa xòa trên mặt. Bên cạnh bà luôn có một phụ nữ khác cùng lứa tuổi, ngồi ở chiếc ghế thấp, cũng tươi cười hiền hậu: bà ấy thường được gọi là “Cô Odile”.
Bà ấy không phải là cô hầu, mà hình như có một mối dây thân mật khiến hai bà là đôi bạn thân; họ thường ngồi đan những chiếc váy lót bằng len để rồi mỗi thứ năm đem tặng cho người nghèo cùng với một mẫu bánh mì và năm đồng tiền hai xeng ( liard= 1/4 xu của Pháp thời đó), vừa kể cho nhau những dòng tâm sự không bao giờ cạn. Vào những ngày không đan đác thì họ lại lục soạn bao nhiêu là tủ kệ, mở những hộp xinh đẹp quấn đầy cả dãi ruy băng, rồi bày ra nào là những khăn lót dĩa, lót bình hoa thêu thùa rất công phu, rồi chùi dọn suốt ngày. Bọn chúng tôi là một đám trẻ con tò mò được phép chứng kiến những hoài niệm về kho tàng cổ xưa rất hữu ích ấy, với điều kiện không được đụng đến bất cứ thứ gì.
Bên trong một cái tủ bí mật ấy, như là ngôi đền nhỏ, chúng tôi thấy một vật để đứng trong một hộp thủy tinh mà hai phụ nữ ấy chăm chút như một vật linh thiêng: đó là con búp bê lớn, mặc một chiếc áo đầm bằng lụa đã sờn theo kiểu xưa; đầu nó thì đã rụng gần hết tóc qua thời gian, mũi thì bị gãy, gương mặt và tay thì đã bị tróc hết lớp sơn bọc ngoài, và chân thì chỉ còn một chiếc giày gót cao đã bị nứt nẻ, màu đỏ phai nhòa, với khóa cài bạc đã thành đen điu .
Khi nhìn thấy món đồ vật trang trí uy nghi ấy, bà hầu tước và cô Odile bế nó ra với sự dè dặt của đứa trẻ lễ sinh ở nhà thờ khi phải cầm vật thánh trong hòm thánh tích: họ nói từng câu ngắn với vẻ ké né: “Ôi, CÔ BÉ lại bị rụng tóc nữa rồi…Cái váy lót lại mòn thêm nữa…Ôi ngón tay này lại sắp rơi xuống nữa nè.” Họ cẩn thận chăm chút mở nắp hộp ra, vỗ bụi trên tóc, vuốt nếp gấp chiếc váy bằng đầu ngón tay, nhẹ nhàng, âu yếm.
Rồi họ để em bê trên ngăn kệ đẹp nhất, như trên một kệ thờ. – “Bé có đứng được không, cô bạn yêu dấu của tôi?”, bà hầu tước hỏi bạn mình. Còn bà Odile thì chỉ gọi bà là “Bà Solange”, một cách thân mật, không kèm chức tước. Chúng tôi không biết gì thêm về hai phụ nữ ấy và con búp bê, cho đến một đêm trước Giáng Sinh, vào một năm xa xưa lắm rồi, bỗng dưng chúng tôi được tham dự, được “kết nạp” vào toàn bộ bí mật đó. Hôm ấy Odile và bà bá tước đã nói chuyện với nhau một cách sôi nổi hơn thường ngày.
Đến chiều tối, cả hai trở nên trầm lặng, gần như tĩnh tâm, rồi im lặng chắp hai tay lại, ngậm ngùi nhìn nhau, và ta hiểu rằng họ đang hướng về một kỷ niệm thật yêu dấu của riêng họ. Khi bên ngoài trời tối hẳn, Odile thắp nến lên; rồi lấy xâu chìa khóa từ bên trong cái tạp dề, bà mở cửa tủ đựng em búp bê. Bà bưng con bê ra khỏi hộp; trong mớ áo quần trang hoàng kiêu sa thuở nào, giờ đây với cái đầu nhẵn tóc, nó có vẻ già hơn hai người phụ nữ rất nhiều, và họ đang chuyền tay nhau vật báu bằng những cử chỉ thật chăm chút, gần như là âu yếm, như thể đối với con gái yêu.
Nữ hầu tước để con bê lên chân mình, nhẹ nhàng kéo đôi tay bằng thạch cao đến gần thân nó, toàn bộ khớp kêu ken két như tiếng rên rỉ, rồi bà nhìn ngắm ” cô nàng” với một nụ cười thật trìu mến -” Cô bạn yêu dấu của tôi, bà gọi mà như thể nói với con bê, bây giờ ta kể chuyện của mình cho bọn trẻ nghe nhé?” Rồi Odile gật đầu đồng ý; nữ hầu tước ra dấu cho chúng tôi đến đứng quanh bà; con bê vẫn ngồi trên đùi bà, và làm như bà sẽ thuật lại câu chuyện cho mỗi con bê nghe thôi.
Bà kể rằng từ rất nhiều năm trước, khi bà con là đứa trẻ, cuộc nội chiến tàn phá xứ Bretagne của bà, đó là thời gian kinh hoàng. Từ những ngày đầu năm 1792, cha mẹ của bé Solange đã di cư, và giao bé cho một bà nông dân sống bên cạnh lâu đài của họ ở Ploubalay trông chừng, vì tính cách nguy hiểm của cuộc trốn chạy nên không thể mang bé đi cùng; họ nghĩ rằng chiến tranh sẽ sớm kết thúc thôi, và họ sẽ trở về trong thời gian ngắn. Nhưng rồi không lâu sau đó, biên giới đã bị đóng cửa, và luật lệ gắt gao ngăn cấm những kẻ di cư trở về lại nước Pháp. Cô bé Solange phải ở với gia đình người hàng xóm tốt bụng, không nhận được tin tức gì của cha mẹ mình, vì hình phạt sẽ là án tử hình nếu ai có ý muốn liên lạc với những người di cư.
Ploubalay là một ngôi làng rộng lớn, cách Saint-Malo khoảng ba dặm; bờ biển gần đó có đầy cả những tảng đá lớn, bao quanh là quần đảo đá ngầm, nên mọi mưu toan cập bến đều rất nguy hiểm. Bọn lính mới chiếm cứ toàn bộ thị trấn, họ đã đuổi bọn lính phe bảo hoàng đi; tên trung sĩ cầm đầu bọn họ là một người có tính tình như bao nhiêu người trong quân cách mạng: thô lỗ, sắt đá.
Hắn người vùng Alsace, tên là Metzger. Mọi người đều sợ hãi hắn ta, nhất là đối với bé Solange, khi nhìn bộ ria mép, đôi lông mày rậm, ánh mắt nghi ngờ, giọng nói cứng ngắc, vang to, của người đàn ông kinh khiếp đó, là cả một cơn ác mộng cho bé.
Khi tên trung sĩ không làm việc với toán lính của hắn, thì hắn ngồi ở cửa nhà thờ, để canh chừng những con đường của thị trấn với vẻ mặt thật dữ tợn. Một hôm bé Solange đi mua bánh mì cho bà Roualt, lúc về thì thấy ông ấy đang nhìn theo mình. Bé muốn đi vòng ra sau, nhưng lại không dám. Lấy hết can đảm, bé liền đi thật nhanh như thể ở nhà đang có người đợi mình. Đến lúc tưởng rằng đã thoát đôi mắt cú vọ của hắn, bỗng bé nghe thấy giọng nói ồm ồm của tên lính: – Này cô bé kia, đứng lại! Cô bé tội nghiệp cảm thấy như tim mình ngừng đập: bé không bước được nữa, chắc là chết giấc mất thôi… – Đến đây xem nào…- xích tới chút nữa..
Bé phải nghe theo, không còn kiểm soát mình được nữa, bé chỉ cách tên trung sĩ hai bước chân, mà cũng chưa dám ngẩng mặt lên nhìn. Hắn để bé đứng như vậy một lúc, rồi bỗng bằng một giọng vang to như sấm làm con bé rùng mình: – Mi thuộc dòng quý tộc phải không? Cô bé há hốc miệng, phú dâng cho Thượng Đế. Bé không hiểu lắm, nhưng biết rằng chữ đó là dành cho những người sẽ bị giết.
– Mi bao nhiêu tuổi hả?.
Bằng một giọng khàn đi vì kinh khiếp, bé trả lời: – Tám tuổi, bé định nói thêm cho lịch sự , “thưa ông”, nhưng rồi không thốt ra, vì biết rằng nếu nói ra thì tên ấy sẽ bóp cổ bé ngay tức khắc.
Nhưng hắn không có vẻ gì là để ý đến điều đó, lại làu bàu: – Hừ, tám tuổi…tám tuổi! Rồi nói thầm: – Mi cao lớn và mạnh khỏe đấy, so với tuổi của mi. Cô bé nhìn ông ta, hắn thật là kinh khủng, với vẻ mặt dữ dằn, đầu đội cái nón hai sừng có vài sợi lông chim đỏ, gương mặt rám nắng, ống điếu thì đen thui, túi đạn đeo chéo trước ngực, kiếm dài ngoằng và đôi ủng đầy cả bùn sình. Và điều ghê gớm nhất là đôi mắt hắn, sâu hoắm, sắc sảo như chực ăn tươi nuốt sống cô bé.
-Thôi, chuồng đi! hắn ra lệnh. Cô bé liền nhanh chân chạy một mạch về nhà, vừa chạy mà tim vẫn còn đập thình thịch.
Kể từ hôm đó, cô bé có cảm tưởng như tên trung sĩ luôn theo dõi mình. Khi hắn có việc đi ngang trước nhà gia đình Rouault, là phải cố nhìn vào bên trong để tìm bé. Hoặc khi gặp bé ngoài đường, hắn gọi bé bằng cái giọng quỷ quái, thô lỗ, làm cho con bé run lẩy bẩy: – Ah! cô bé kia!
Solange ước sao không phải đi ra ngoài nữa, nhưng bà Rouault, tiên đoán rằng cha mẹ của bé sẽ không có cơ may trở về nữa, và bà không thể để bé ăn không ngồi rồi, nên thường sai đi mua những thứ cần thiết cho gia đình.
Thế là, bị ép buộc để hàng ngày phải diện kiến với con bù nhìn ghê sợ của mình, Solange đành phải chịu đựng sự nghiệt ngã của đời mình; và tên lính mới ấy chỉ còn chờ có được cơ hội. Một hôm khi đang ngồi rửa rau ở máy nước công cộng trong khu nhà, hắn bỗng xuất hiện và hỏi: – Này bé, tên mi là gì? Cô bé biết rằng giờ ấy đã điểm, nên cam chịu trả lời: – Solange… Tên lính reo lên:- Solange! – (hắn đọc là Zaulanche)
-Cái tên mới ngộ làm sao! Rồi hắn nắn cánh tay bé, và bế con bé lên để xem thử nó có nặng không – Tám tuổi ư! Sao mà lớn nhanh thế!
Cô bé có cảm tưởng như mình đang là con mồi ngon trong tay một con yêu tinh…
*** Bây giờ đang là tháng Mười Hai, những tháng ngày u buồn ảm đạm, không có ánh dương; ngày nào bọn lính mới cũng bắt được những người di cư trở về, họ sống quá cơ cực ở Jersey hoặc Luân Đôn, không chịu đựng nổi, nên quá ao ước được trở về Pháp, rất nhiều người đã mạo hiểm cập bến.
Bọn lính phục kích ở bờ biển cũng như toàn bộ khu vực , và đã luyện một đám chó to lớn đi săn loại mồi đặc biệt này, để tìm ra tung tích những kẻ khốn cùng, ban ngày thì nằm rẹp trong lau sậy, ban đêm thì men theo các mương rãnh. Dân làng thường thấy bao nhiêu người đi ngang qua Ploubalay này bị xiềng xích, áo quần thì tả tơi, bọn lính thì đi kèm họ đến Saint Malo, hoặc Rennes, rồi sau một cuộc xét xử sơ sài, bị đem ra bắn. Luật lệ không nương tha và không có kháng án: bất cứ người di dân nào bị bắt là chịu tử hình.
*** Vào đêm vọng Giáng Sinh năm 1793 ấy, trong làng không còn ai nhớ về những buổi lễ thân thương của thuở xa xưa nữa. Nhà thờ thì đóng cửa, chuông thì im vắng; đêm tối đã buông xuống, đầy sương mù; suốt ngày người dân nghe tiếng chó sủa không ngớt về phía khu Bodard: hôm nay bọn lính đã thu hoạch được khá rồi…
Cô bé Solange ngủ ở căn gác kế căn đựng thóc lúa, đầy cả bóng tối ghê rợn, và ban đêm bé nằm bất động, nghĩ đến bao nhiêu điều bất trắc có thể xảy ra. Hôm ấy bé vừa thay áo quần vừa run vì lạnh và bé thật buồn, nhớ đến bao nhiêu đêm Giáng Sinh với cha mẹ mình, thật vui thích, và trong lòng bé thấy thương mến làm sao!
Những buổi sáng thức dậy sao sung sướng hạnh phúc quá! ở cạnh lò sưởi tràn đầy quà cáp gói bằng dãi nơ thật xinh xắn, rồi bao nhiêu là đồ chơi và bánh kẹo!
Vừa mơ mộng như thế, cô bé vừa cầm đôi guốc gỗ một cách uể oải, không muốn để cạnh lò sưởi vì biết rằng rồi đây chúng cũng sẽ trống trơn khi bé thức dậy, y như năm vừa rồi. Ngay cả Đức Chúa nhỏ bé cũng lo sợ và không đến nước Pháp nữa hay sao?
Bé có cảm tưởng như có tiếng động, thế là bé nhanh nhẩu thổi nến và chui vào chăn. Rồi bé ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ, bé thấy như cánh của nhè nhẹ mở ra, và một bóng đen lẻn vào căn gác. Bé hé mắt ra nhìn: căn phòng bây giờ đã được ánh trăng chiếu sáng,. Ta có mơ không đây? Bé nhận rõ bóng đen là một người đàn ông: một người đàn ông ăn mặc như những người di cư mà bé thấy ở ngoài quận khi lính đem tù nhân đi Saint Malo; rồi bé nghe thấy một giọng nói thật khẽ: – – Solange, bé con nhỏ cưng của ta, đừng sợ con ạ.
Bé cảm thấy một bàn tay đang dang những lọn tóc trên trán ra một cách cẩn thận: một tia sáng của ánh trăng đang chiếu rõ cô bé.
Người đàn ông nhìn bé: – Ôi con yêu Solange của ta, con xinh đẹp quá, và cao lớn, mạnh khỏe nữa! Ông ấy không ngớt ngắm nhìn bé. Rồi ông ôm lấy bé một cách cuồng nhiệt, và hôn tới tấp làm bé suýt nghẹt thở. Bé không còn biết mình thức chưa hay còn đang mơ; nhưng bé biết ngay là nếu cha của mình còn sống, thì đây chính là giọng của người, những cái vuốt ve trìu mến, và ôm ấp bé như thế. Bé thấy người đàn ông quỳ bên cạnh giường mình, rồi bé nghe ông khóc nức nở; bé khép mình trong tay cha- rồi quá hạnh phúc! bé nhắm mắt ngủ tiếp.
Bình minh hôm sau, bé mở choàng mắt, và lúc đầu thật khó khăn để nhớ lại những gì vừa xảy ra đêm qua, nhưng rồi bé trấn tĩnh lại: chắc chắn là mình đã nằm mơ rồi: căn phòng trống trơn, cánh cửa thì khép kín; dưới nhà bé nghe rõ bước chân bà Rouault đi qua đi lại. Solange ngồi ở mép giường, và bỗng nhiên, sung sướng hét lên,… Trên đôi guốc của mình, được sắp lại ngay ngắn, bé vừa nhìn thấy một con búp bê dựng đứng, mặc chiếc áo váy thật rực rỡ bằng lụa xanh, một con bê thật cao lớn, uy nghi, tươi cười, ăn mặc như một phu nhân, với những lọn tóc xoắn thật xinh bao lấy khuôn mặt bằng sứ thanh tao, trên vai là khăn choàng kiểu hoàng hậu, chân thì mang giày bằng da cừu, khóa cài giày lại bằng bạc sáng loáng…
Cô bé liền quỳ xuống trước “lệnh bà”, và ngay tức khắc gọi bà là Yvonne. Bé thay áo quần rất nhanh, rồi ôm “con gái” trên tay, bé đi xuống nhà. Bà Rouault, vừa nhác thấy bé cùng với món đồ chơi tuyệt diệu ấy mà trong trí tưởng tượng của bà cũng chưa bao giờ mơ ước được, vô cùng ngạc nhiên thốt lên:-— Lạy Trời, Solange, ai cho cháu con bê này vậy? – Thưa bà, đó là chúa Hài Đồng Giê Su ạ, cô bé trả lời một cách hồn nhiên.
Người đàn bà há hốc miệng kinh ngạc: ôi, nói về lòng tin theo kiểu thần thánh này thì bà chịu thua thôi. Tuy nhiên, bằng chứng rành rành đây khiến bà choáng ngợp: bà biết rằng ở Ploubalay này, hoặc ngay cả tỉnh thành Matignon, Saint Malo, hoặc Rennes đi nữa cũng không một ai có thể sắm được cho mình hay người thân một món đồ huyền diệu như thế.
Thế rồi, chính vì điều này, bà trở nên rất cung kính, và ngắm nhìn mà không dám đụng vào phu nhân mà Solange trao cho bà một cách long trọng. Bà liền gọi ông đến: – Ông xem thử món quà mà Chúa Hài Đồng mang đến cho Solange nè; ông ấy là một người chất phác,và không biết gì về những trang sức lụa là của các bà mệnh phụ đâu. Nhưng rồi các bà hàng xóm đều ùa đến. Tất cả đều choáng ngợp và chắp tay lại kinh ngạc, rồi xầm xì; vài người nghiêng mình trước một vật thần thánh, vài người không hiểu nổi điều thần bí này.
Còn Solange thì chẳng quan tâm đến nỗi xúc động của họ, bé đang ru Yvonne, và ôm hôn nó một cách thận trọng, môi chỉ dám phớt nhẹ lên lọn tóc vàng óng và đôi má bóng lưỡng của con gái mình; bé đem nó đến cửa sổ để cho nó thấy cảnh bên ngoài.Rồi bà Rouault trở về với thực tế, sai con bé đi mua hàng ở tận góc xa xôi của ngôi làng; con bé hớn hở đem em búp bê theo. Hiện tượng này đã được một nửa quận biết rồi; các bà nông dân đứng ở cửa sổ để nhìn, và bé Solange biết được bây giờ mình trở nên quan trọng thế nào rồi. Khi bé đến trước nhà thờ, nơi đó tên Metzger vẫn ngồi vắt ngang ghế, lần này thì bé không thèm quay đầu lại để nhìn nữa: hôm nay thì chẳng có mối hiểm nguy nào đến với bé nữa rồi? Niềm vui bất tận trong lòng khiến bé không còn sợ việc gì hay ai nữa, nên khi tên trung sĩ gọi bé lại, và hỏi nó ôm vật gì, thì bé trả lời một cách tự tin: – Đó là một con búp bê – Một con bê thật đẹp! Ở đâu mà nhóc có được vậy? – Thưa ông trung sĩ, chính Chúa Giê Su Hài Đồng đã cho tôi.
Tên lính theo phe cộng hòa liền đứng phắt dậy, lấy chân hất cái ghế ra: – Mi nói cái gì? hắn hét lên – Đó là con bê mà Chúa đã cho cháu nhân dịp Giáng Sinh, ông trung sĩ – Ah, mi nghĩ là ta sẽ tin vào … nhưng trước vẻ ngây thơ của con bé, hắn ngừng nói; nhưng giật lấy con bê từ tay cô bé, hắn nhìn thật kỹ , và nói: – Ôi, một lệnh bà đẹp thật; mà này, nhìn xem, bên dưới giày có ghi nè: Berkint-London- vậy ra con bê này là dân xứ Anh quốc? Vậy thì Chúa Giê Su Hài Đồng là người Anh hả?– Cháu không biết, thưa ông, cô bé vừa trả lời vừa lấy lại con búp bê; bây giờ niềm vui của cô bé đã bị hỏng rồi – Để xem nào, hắn làu bàu, rồi quay lại gọi thuộc hạ.
Một tên hạ sĩ chạy ra.– Hôm qua có người lạ nào xuất hiện trong làng không?– Dạ tôi nghĩ là không đâu ạ, hôm qua bọn lính canh đã làm việc rất tốt. Thật ra đám chó săn đã hú lên một cách không bình thường, nhưng chúng tôi đã lục soát kỹ rồi, mà không tìm thấy gì cả.– Được rồi, tập họp mọi người lại đi. Rồi hắn đeo túi đạn vào, cài dây lưng, lấy khẩu súng và dẫn đầu đám lính đến nhà bà Rouault.
Solange, trở nên thật lo âu, đi bên cạnh hắn, nhưng bước nhanh hơn, và ôm ghì bé Yvonne xinh đẹp và tươi cười vào lòng. Đến nơi, hắn ta để hai tên lính gác trước cửa, rồi chia vài tên ra khắp nơi bên trong và quanh nhà.Rồi bảo đám còn lại đi theo mình, hắn vô trong phòng, cầm tay bé Solange, ngồi vào ghế, rồi kéo bé đến gần mình, và bằng một giọng rất nhỏ nhẹ, có lẽ để dỗ dành con bé: – Nào, bé con, kể cho ta nghe tất cả mọi việc đi nào.Thế là bằng một giọng rất nhỏ, buồn bã, cô bé bắt đầu kể về “giấc mơ của bé”, về người đàn ông mà bé nghĩ là đã nhìn thấy trong phòng, về ảo tưởng của những nụ hôn mà ông ấy đã hôn bé, và rồi đến lúc sáng, cô ngạc nhiên xiết bao khi phát hiện ra con bê thật xinh…
Tên trung sĩ theo dõi thật kỳ lời của cô bé, không bỏ sót chi tiết nào. Bỗng dưng, quay lại phía đám lính đang lắng nghe, hẳn ra lệnh:– Bọn bây, quay trở ra đi, và hãy canh cho thật kỹ mọi ngõ ngách! Nã súng vào đầu bất cứ tên nào có ý trốn chạy!Bọn họ ra ngoài, khi còn lại một mình Metzger và cô bé:– Nào, bé con, mi nói là người đàn ông đã hôn mi,… và gọi là “Solange bé nhỏ của ta”, rằng ông ấy đã quỳ bên cạnh giường cô bé và còn khóc nữa? Cô bé gật đầu , không muốn nói dối, nhưng cũng cảm nhận được một tai họa sắp xảy đến.Metzger chưa vội hành động. Hắn đặt đôi tay thô ráp lên vai bé Solange, và nói thật nhỏ, như thế nói cho chính mình:– Ừ, hắn ta nói một cách nghiêm trang, ta cũng có một bé nhóc con như thế này, ở Alsace (miền Đông nước Pháp, cạnh Đức & Thụy Sĩ), thành phố Gersheim ( Đức)… nó cũng lên tám tuổi…đã tròn hai năm rồi ta cũng chưa gặp lại con bé… và ta nói thế này: Để chỉ nhìn thấy nó thôi, cho dù nó đang ngủ, trong bóng tối, để hôn nó một chút thôi, chỉ để cảm thấy nó thiu thiu ngủ trên vai ta, mớ tóc vàng của bé thì sát vào mặt của ta…thì ta đây cũng dám liều mạng sống của ta như vậy… Hình như người cha nào cũng như thế cả.”Hắn ra chiều suy nghĩ thật kỹ càng. Rồi hắn trở nên cương quyết, đứng phắt dậy, lại thô bạo, và lắc lắc cái đầu như để xua đuổi một ý nghĩ hèn kém nào đó, rồi quay ra cánh cửa mở: – Hai người đi với ta, chúng ta sẽ lục soát căn nhà nhỏ bé này! Solange bỗng la lên: – Thưa ngài trung sĩ, gượng đã!Bé đã nghe tên lính ấy nói và đột nhiên cô bé đã hiểu tất cả: đêm đó, chính ba của bé đã đương đầu với cái chết để được đến vài phút bên cạnh con gái bé cưng, đã rời khỏi nơi ẩn náu, băng qua biển cả, cặp bến vào những tảng đá nguy hiểm, trườn người giữa đám lau sậy dưới họng súng của bọn lính canh, đề về đến làng. Chính ba của bé khi nghĩ rằng bé sẽ không có món đồ chơi nào cho lễ Giáng Sinh cả, nên đã mang “lệnh bà” đến cho nó.Ba của bé đang ẩn trốn trên căn gác kia, và rồi đây họ sẽ lên bắt ông đi, và bé sẽ nhìn thấy ông bị xiềng xích quấn vào người, và đi với bọn người lính bao quanh…Thế rồi, cô bé, lòng dạ tan nát, khóc nức nở làm rung cả đôi vai bé nhỏ, và chạy đến bên tên trung sĩ– Đợi đã! Đợi đã, ông ơi! Tên lính bây giờ đã trở lại vẻ hung ác dữ dằn, nói bằng giọng thô lỗ: – Gì nữa đây?, hắn hỏi. Solange suy nghĩ như thế này: Để cứu cha của bé, bé sẽ đưa hết tất cả những gì bé sở hữu; nhưng hỡi ôi, bé chỉ có mỗi con bê. Bé liền nảy ra ý định hy sinh thật cao cả – Thưa ngài trung sĩ, ngài có một con gái…cùng tuổi với cháu…mà ngài chưa gặp lại từ hai năm nay phải không? Metzger liền gật đầu ra hiệu đúng như vậy.-Thế thì! Thế thì!, Solange nói tiếp, đôi mắt ngấn lệ, có thể bởi vì ông không có mặt ở nhà nên chúa Hài Đồng Giê Su đã quên cô bé rồi chăng… Vậy ông hãy lấy con búp bê của cháu đây này, cháu tặng ông đó. Tên lính liền quay lại phía cô bé; hắn nhìn cô bé với đôi mắt đã ướt đẫm; hắn thở rất mạnh, đôi môi run rẩy dưới bộ ria mép, và ta nhận thấy trên gương mặt hắn những bắp thịt cử động lên xuống, tỏ rõ cảm xúc bị đè nén.
Hai người lính bước vào phòng.– Cháu đừng nói gì hết, không phải lo điều gì, tên trung sĩ nói nhỏ với bé.Rồi hắn nói với bọn lính :– Chúng ta sẽ lên trên kia, và lục soát mọi ngõ ngách. Bọn bây giữ súng sẵn sàng và hãy lên đạn, và cố nhìn cho kỹ. Bé con này, đi trước đi. Cả ba người lính và cô bé leo lên bậc thang: vừa vào căn gác, hắn đặt một người ở ngưỡng cửa, người kia cạnh cửa sổ; hắn mở cửa căn gác xép, rồi chỉ một mình hắn bước vào đó, đóng cửa lại. Trống ngực Solange đập thình thình, muốn vỡ toang ra.
Một lúc sau, cửa gác bật mở, và Metzger hiện ra: – Bên trong này không có gì cả.!– Ta trở xuống thôi. Con chim đã bay mất rồi. Chúng ta đã bị lừa…Rồi khi xuống bên dưới nhà, lúc chỉ còn một mình hắn và Solange, hắn nói nhỏ vào tai bé:– Cháu hãy nhớ kỹ điều này: “Người đàn ông ấy” có thể ở lại trên đó hết đêm nay và nguyên cả ngày hôm sau. Cháu nói ông ta hãy yên tâm đi, mọi việc sẽ tốt thôi. Ông ấy sẽ ra đi vào đêm ngày mốt, và đến Lancieux và Saint-Briac, ở đó ông có thể ra khơi lại; vùng đó sẽ không có lính gác, ta sẽ đem lính của ta qua phía bên kia. Cháu hiểu rõ chưa?
– Dạ hiểu, thưa ngài trung sĩ
– Vậy tốt rồi! Còn con búp bê này của cháu, ta sẽ mang nó đi: ta sẽ gởi về cho bé Odile của ta. Ta phải lấy con bê, bởi vì có thể có một người khác sẽ tò mò giống như ta khi thấy Chúa Hài Đồng Giê Su mang cho bọn nhóc như cháu những món đồ mỹ nghệ xuất xứ từ Anh Quốc đó. Cái em bé này đã gây cho cháu quá nhiều phiền toái rồi.– Thế nhé! Và nhớ giữ bí mật nhe cháu! Và đừng quên: đi về phía Lancieux và Saint-Briac.
Rồi ông ta đi ra, gọi cả bọn lính đi theo; và rồi, ngay chiều hôm đó, mang họ đi thám hiểm về phía Matignon, cùng với lũ chó săn luôn, trong suốt ba ngày tròn. “ &&&&&& “Và đó là câu chuyện của cả ba chúng ta, nữ bá tước Flavigny nói, đó là chuyện lôi thôi duy nhất trong suốt cuộc đời của cả ba chúng tôi, Odile, Yvonne, và tôi. Mười lăm năm sau, khi tôi làm đám cưới với bá tước của tôi, chúng tôi đi tham quan vùng Alsace; tôi đã đến Gersheim, và hỏi thăm về trung sĩ Metzger, về con gái Odile của ông ta, vì các con biết đấy, những cái tên đó đã in đậm trong trí nhớ của ta rồi. Ta đã tìm thấy người lính già ở nhà máy sản xuất hoa làm rượu bia của ông ta. Ông ấy đã giải ngũ, sau khi được lãnh huân chương ở Austerlitz, do chính Hoàng đế trao tặng..
Ông ấy đã kể cho con gái mình câu chuyện về bé Solange,và Odile đã cất giữ “lệnh bà”; rồi khi ông ấy qua đời, vài năm sau đó, ta đã đưa Odile về đây với ta; cô bé đã mang Yvonne lại cho ta, và kể từ ngày đó, cả ba chúng ta không bao giờ rời nhau nữa.
G. LENOTRE – tháinữlan dịch
Cuộc Ngưng Bắn đêm Giáng Sinh
NGƯNG BẮN TRÊN XỨ NGƯỜI…
CÒN XỨ TA THÌ SAO… HUẾ, MẬU THÂN 1968?
Khi họ nói KHÔNG Với Chiến Tranh– 650 chữ–David G. Stratman – TháiLan dịch –
22/6/2012
Đó là vào ngày 25 tháng 12, năm 1914, chỉ mới 5 tháng kể từ khi bắt đầu Thế Chiến thứ I. Lính Đức, Anh và Pháp đã thật chán chường và mệt mỏi với những cuộc bắn giết vô nghĩa, đã bất tuân thượng cấp của họ và đã thành huynh đệ với “Kẻ thù” trong suốt hai phần ba của Mặt Trận phía Tây (một trọng tội với bản án tử hình vào thời chiến). Những đội quân Đức giương cây thông Giáng Sinh lên trên các chiến hào với biểu ngữ “Chúc Mừng Giáng Sinh”.
“Bạn không bắn,chúng tôi cũng không bắn”. Hàng ngàn dòng quân lính lũ lượt băng qua một vùng đai trắng với toàn thân người thối rửa rãi cùng khắp. Họ ca những bài hát mừng Giáng Sinh, trao đổi hình ảnh của gia đình thân thương ở quê nhà, chia nhau phần lương thực, chơi túc cầu với nhau, hoặc ngay cả quay thịt. Binh lính ôm hôn những người mà trước đây vài giờ họ đã nhắm bắn.
Bộ Tư Lệnh Tối Cao của cả hai phe đều cảm thấy ghê sợ. Đây là thảm họa đang hình thành: binh lính tuyên bố tình huynh đệ với nhau và từ chối đi chiến đấu. Tướng lãnh của cả hai phe tuyên bố việc hòa giải tự phát sinh là mưu phản và bị đưa ra tòa án quân sự. Vào tháng 3 năm 1915 phong trào huynh đệ chi binh đã bị triệt hạ và máy chém đã được đưa vào xử dụng . Đến thời điểm ngưng chiến vào năm 1918, mười lăm triệu nạn nhân đã bị hành hình.
Rất ít người nghe nói đến câu chuyện về Cuộc Ngưng Bắn đêm Giáng Sinh. Vào ngày Giáng Sinh năm 1988, một câu chuyện của Boston Globe kể rằng một xướng ngôn viên đài phát thanh FM địa phương đã cho phát rất nhiều lần bài ” Giáng Sinh ở Chiến Hào”, một ballad ( bài dân ca hoặc về truyền thống dân tộc) về Cuộc Ngưng Bắn đêm Giáng Sinh- và họ đã rất sững sốt về hậu quả của việc này .Bài hát đã trở nên bài được yêu cầu nhiều nhất trong suốt kỳ nghi lễ ở Boston trên rất nhiều trạm phát thanh FM. Và người xuống ngôn viên nói thêm” Tôi càng kinh ngạc hơn khi thấy không phải số lần bài hát được yêu cầu mà chính là phản ứng sau đó của những thính giả trước đây chưa bao giờ được nghe bài hát đó : “Họ gọi cho tôi với tâm trạng rất xúc động, đôi khi nghẹn ngào và bật khóc, nói rằng ” Ôi Trời, tôi vừa được nghe những lời gì vậy?”
Quý vị thật dễ dàng đoán được vì sao những thính giả đó phải bật khóc chứ? Câu chuyện về Cuộc Ngưng Bắn đêm Giáng Sinh đi ngược lại với phần lớn tất cả những gì chúng ta được nghe về loài người.
Câu chuyện ấy đã cho chúng ta một ý niệm về thế giới theo ước mong của chúng ta, và nói lên rằng” Việc này đã thật sự xảy ra một lần rồi”. Điều này nhắc chúng ta nhớ về những cảm nghĩ mà ta đã giấu kín, vượt ra ngoài tầm của các câu chuyện trên truyền hình và báo chí, và cho ta biết cuộc sống con người thật tầm thường và thấp kém như thế nào. Sự kiện này giống như ta được nghe rằng những ước mơ sâu kín nhất của ta thật sự là có thật: Thế giới thật ra có thể khác đi.
Trích dẫn từ “Chúng ta CÓ THỂ Thay Đổi Thể Giới”, David G. Stratman : Ý Nghĩa Thật của Cuộc Sống Hằng Ngày (New Democracy Books, 1991)
TháiLan dịch
BÀI CA GIÁNG SINH TRÊN CHIẾN HÀO –875 chữ John McCutcheon- TháiLan dịch
Christmas in the Trenches – : Tác giả & trình bày John McCutcheon
CHRISTMAS IN THE TRENCHES– John McCutcheon
” My name is Francis Tolliver. I come from Liverpool.
Two years ago the war was waiting for me after school.
To Belgium and to Flanders, to Germany to here,
I fought for King and country I love dear.
It was Christmas in the trenches where the frost so bitter hung.
The frozen field of France were still, no Christmas song was sung.
Our families back in England were toasting us that day,
Their brave and glorious lads so far away.
I was lyin’ with my mess-mates on the cold and rocky ground
When across the lines of battle came a most peculiar sound.
Says I “Now listen up me boys”, each soldier strained to hear
As one young German voice sang out so clear.
“He’s singin’ bloddy well you know”, my partner says to me.
Soon one by one each German voice joined in in harmony.
The cannons rested silent. The gas cloud rolled no more
As Christmas brought us respite from the war.
As soon as they were finished a reverent pause was spent.
‘God rest ye merry, gentlemen’ struck up some lads from Kent.
The next they sang was ‘Stille Nacht”. “Tis ‘Silent Night'” say I
And in two toungues one song filled up that sky.
“There’s someone commin’ towards us” the front-line sentry cried.
All sights were fixed on one lone figure trudging from their side.
His truce flag, like a Christmas star, shone on that plain so bright
As he bravely strode, unarmed, into the night.
Then one by one on either side walked into no-mans-land
With neither gun nor bayonet we met there hand to hand.
We shared some secret brandy and wished each other well
And in a flare-lit soccer game we gave ’em hell.
We traded chocolates, cigarettes and photgraphs from home
These sons and fathers far away from families of their own.
Young Sanders played his squeeze box and they had a violin
This curious and unlikely band of men.
Soon daylight stole upon us and France was France once more.
With sad farewells we each began to settle back to war.
But the question haunted every heart that lived that wonderous night
“Whose family have I fixed within my sights?”
It was Christmas in the trenches where the frost so bitter hung.
The frozen fields of France were warmed as songs of peace were sung.
For the walls they’d kept between us to exact the work of war
Had been crumbled and were gone for ever more.
My name is Francis Tolliver. In Liverpool I dwell.
Each Christmas come since World War One I’ve learned it’s lessons well.
That the ones who call the shots won’t be among the dead and lame
And on each end of the rifle we’re the same. “
— John McCutcheon “Christmas in the trenches”
Tên tôi là Francis Tolliver , tôi sống ở Liverpool.
Hai năm trước, chiến tranh chờ đợi tôi khi tôi vừa rời ghế trường học, ở Bỉ, ở Flandres, ở Đức Quốc, ở đây.
Tôi chiến đấu cho quốc vương và đất mẹ mà tôi yêu tha thiết.
Bây giờ đang là mùa Giáng Sinh và thời tiết đông giá đang hoành hành một cách dữ dội nơi các chiến hào.
Những cánh đồng băng tuyết ở Pháp thật yên ắng, không nghe thấy một bài hát Giáng Sinh nào vang lên trong không gian..
Và những gia đình thân yêu của chúng tôi, bên Anh Quốc xa xôi, đang vinh danh các con em của họ, những dũng tướng tràn đầy nhiệt huyết, đang ở rất xa quê hương của họ.
Tôi đang nằm cạnh anh bạn trên nền đất sỏi lạnh giá, bỗng dưng từ bên kia chiến tuyến một âm thanh thật đặc biệt vọng lại.
Tôi bảo” Anh em ơi, hãy lắng nghe này”, thế là các anh lính nghễnh tai ra nghe.
Một tiếng hát với âm sắc thật trong trẻo vang lên một giai điệu tiếng Đức.
Ôi này, anh ta hát hay tuyệt”, anh bạn tôi nói.
Rồi dần dần từng giọng hát bằng tiếng Đức hòa nhập vào đội hợp xướng. Đại bác giờ đã im tiếng, và những đám mây khí độc đã tan ra thật xa một khi Giáng Sinh đang cho chúng tôi vài khoảnh khắc ngơi nghỉ khi còn đang ở giữa cuộc chiến. Khi họ đã hát xong bài hát, và sau một lúc tỉnh tâm, vài anh bạn ở Kent ( Đông Nam nước Anh) xướng lên bài ” God rest Ye , merry gentlemen” Hồng Ân Thiên Chúa (Nỗi Lòng Mục Tử). Kế đó, vài người hát Stille Nacht. Tôi giải thích: Đó là bài “Đêm Thánh Vô Cùng”.
Và rồi bài hát được cất lên bằng hai ngôn ngữ, cùng một bài hát bao trùm cả bầu trời quanh đó.
“Có ai đang đi về phía chúng ta kià”, anh lính gác la lên.
Tất cả mọi người đều nhìn về phía một bóng đen cao ngồng vừa xuất hiện ra bên cạnh họ.
Trên tay anh ta ngọn cờ trắng phất phơ theo gió, như một ánh sao đêm Giáng Sinh, sáng rực trên cánh đồng trong khi anh đang tiến bước một cách hùng dũng, trên người không hề mang vũ khí, và rồi bóng đêm thật dày đặc lại bao trùm quanh anh ta …
Thế rồi, từng người một, từ cả hai bên chiến tuyến, chúng tôi tiến về phía vùng đai trắng , không ai mang súng ống, không lưỡi lê, và chúng tôi bắt đầu siết chặt tay nhau,
Tất cả chúng tôi chia nhau phần rượu mạnh đã được cất giấu bấy lâu, chúng tôi chúc mừng nhau, rồi dưới ngọn đèn vàng mờ nhạt, chúng tôi chơi một trận túc cầu, và đã làm cho đối phương bao phen phải vất vả.
Chúng tôi chia nhau những phong sô cô la, thuốc lá, rồi những đứa con và những người cha trao đổi cho nhau từng bức hình gia đình thương yêu từ nơi xa xăm mịt mù kia…
Cậu bé Sanders thì chơi đàn phong cầm, còn phía bên kia thì họ chơi đàn vĩ cầm, ôi một đám bạn thật kỳ ngộ và huyền hoặc làm sao, thật là khó tin!
Thế rồi ánh mặt trời đã lên, chiếu sáng cả khu chiến hào và thêm một lần nữa, nước Pháp lại trở lại là nước Pháp.
Sau những lời chia tay thật não nề, tất cả chúng tôi chuẩn bị để chiến sự lại tiếp diễn, nhưng rồi, một câu hỏi đã ám ảnh tất cả những thành viên đã hiện diện trong cái đêm tuyệt vời thật khó tin ấy cứ luẩn quẩn trong trí chúng tôi: Có người thân nào của tất cả những người ấy đã nằm trong tầm ngắm của chúng tôi từ bấy lâu nay không?
Lúc đó lễ Giáng Sinh đã về trên các chiến hào, ở đó mọi vật đã bị bao trùm bởi đợt rét căm quá tàn bạo, nhưng những cánh đồng của Pháp đã được sưởi ấm bởi khúc hát của đội hợp xướng, vì bao nhiêu bức tường được dựng lên giữa hai phe chúng tôi để buộc chúng tôi phải thực hiện nhiệm vụ ở chiến trường ấy đã bị rạn nứt luôn mãi rồi.
Tên tôi là Francis Tolliver , tôi sống ở Liverpool,
và nếu tôi cần phải nhớ một bài học ,
đó là những người đã ra lệnh cho chúng tôi phải bắn giết lẫn nhau họ sẽ không thuộc nhóm người bị giết hoặc bị thương
và rằng ở trên mỗi đầu súng, chúng tôi đều như nhau. “
***
Theo những nhân chứng của thời ấy, hình như là đám lính Đức đã là những người tiên phong để thực hiện tình huỳnh đệ ấy.
Rồi tùy theo sự khôn ngoan hoặc vô nghĩa của các quan lại trong quân đội, vài cuộc nổi dậy đã bị dập tắt ngay trong trứng nước; dù sao, cuộc ngưng chiến đã được kéo dài cho đến đầu tháng giêng năm 1914.
John McCutcheon- TháiLan dịch-
Mùa Giáng Sinh Ấm Áp
Mấy hôm nay trời lạnh ngắt, tê cóng tay chân nhưng tôi cũng phải siêng năng đi shopping rảo nơi này, kiếm nơi kia những thứ vừa túi tiền để làm quà Noel đã gần kề. Đường phố tấp nập, xe cộ nghẹt đường. Dù kinh tế khó khăn, vật giá leo thang vùn vụt, công việc lao đao khó kiếm, nhưng không ai dám bỏ lỡ ngày lễ quốc tế lớn với phong tục ông già Noel tặng quà cho trẻ con, mà sau này mọi người còn tặng quà cho nhau nữa. Ngày lễ chính cũng là kỷ niệm ngày cưới của tôi tính đến nay đã gần bốn mươi năm chung sống cùng nhau.
Bày các thứ mua trên sàn nhà, nhìn bảng giá mỗi thứ tôi mỉm cười. Cỡ nào cũng có thể mua quà: có tiền ít mua gift card $10 cà phê Starbuck, mua kẹo sô-cô-la giá nào cũng có. Tôi tìm kéo, dao, giấy hoa mân mê gói từng món quà, vừa gói vừa cho tâm hồn quay về chuyến tàu kỷ niệm …
Giai đoạn đầu tiên đến Mỹ, cả gia đình nhà chồng cùng ở chung một nhà. Số tuổi lớn bắt tay vào việc làm, số em trẻ đi học xa. Vùng Fremont lúc đó chỉ có vài ba nhà Việt Nam ở gần, cuối tuần họ qua chơi, nhiều lúc nấu món này món kia đến biếu. Đầu óc tôi lúc đó sao mà quá ngây thơ, chỉ mơ ước được ở nhà, sắm áo dài thỉnh thoảng đi dự tiệc, nhưng mới vừa qua ngày trước thì ngày sau em chồng đã chở tôi vào làm tiệm bánh Pháp gia đình hùn mở. Sáng theo xe khi trời mờ tối và lúc về cũng tối mờ. Trời lạnh cóng chị hàng xóm đem biếu tôi chiếc áo ấm dày. Vài tuần sau tôi mua chả đến biếu và cám ơn lòng tốt anh chị này, gặp lúc vợ chồng đang cãi vã nhau. Anh kể chuyện “cả gia tài có được ba ngàn, vợ tôi không cất ở nhà mà bỏ vào túi áo măng tô đi chợ, giờ bị mất rồi, chán lắm chắc phải .ly dị thôi” chị vợ phân trần đôi điều mặt buồn xo. Chồng tôi khuyên lơn “tản tài hơn tản mạng, của đi thay người, tiền sẽ kiếm lại được”. Tôi mở đôi mắt to tiếc rẻ số tiền quá lớn, không thể tưởng đối với tôi. Ra về tôi thì thầm bên chàng “Trời ơi em mà có số tiền như vậy khỏi cần làm gì hết”, Chàng trề môi “Ở Mỹ này ai cũng đi cày hết, rồi cô sẽ thấy: có ba ngàn đòi năm ngàn và không biết khi nào là đủ đâu.”
Đám cưới tôi vào đêm 24 tại nhà. Các em trai họ bên chồng từ LA lên, các em đang còn đi học nhưng rất chân tình, nói với tôi “em có $10 chị muốn món quà gì em mua”, tôi thấy cảm động vì các em đang nghèo “chị qua được Mỹ là có gia tài lớn rồi, em còn đi học thiếu thốn cực nhọc đừng mua gì hết, đường xa lái xe lên đây chung vui với chị là quý lắm rồi“.
Khi có công việc thì đâm ghiền vì mỗi nửa tháng nhận tấm check tăng đầy sinh lực đóng tiền nhà, tiền ăn tiêu và gởi chữ hiếu về cha mẹ anh em.
Ngôi nhà ở đường Costa Way vùng Fremont là kỷ niệm quý giá đầu tiên tôi đặt chân lên đất Mỹ. Mẹ chồng tôi hy sinh nấu ăn cho con cái đi cày. Căn nhà có bốn phòng, sửa thêm hai phòng dưới Garage xe, anh em làm nhiều giờ khác nhau, tuy đông người nhưng cũng ít gặp mặt nhau. Cuối tuần con cái được nghỉ bày nấu nướng cơm hến, bún bò, phở, cháo xúm nhau ăn vui vẻ. Gia đình gồm mười một người con, dần dần lập gia đình ra riêng, nhưng vẫn sum họp ngày chủ nhật hoặc kỵ giỗ, xem như căn nhà đó là ngôi Từ Đường thờ cúng từ đời ông bà Cố trở xuống.
Lần lượt cháu nhỏ ra đời, con dì, con cậu, con chú, con cô lứa tuổi nào chơi với lứa tuổi đó. Vì luôn họp mặt nơi ngôi nhà Từ Đường nên các cháu rất thân thiết như anh chị em ruột. Có khi các cháu qua nhà thím này, mợ kia ở lại để chơi chung anh em họ và ngược lại. Chúng nhắn tin cho nhau hẹn gặp gỡ xem cine, hoặc về nhà ông bà nội ngoại, gọi pizza ngồi chuyện trò ăn chung. Lớn dần các cháu đi học phương xa, cháu nào tốt nghiệp vẫn ăn mừng đông đủ. Giờ đây các cháu liên lạc chung cả nhóm, có lần hẹn hò qua New York dự sinh nhật cháu khác làm việc bên đó, chơi suốt tuần gởi hình ảnh vui nhộn về, người lớn cảm thấy hài lòng thỏa mãn về sự thành công của lớp trẻ, bù đắp biết bao nhiêu công lao khó nhọc, hy sinh vì con.
Mùa lễ nhớ biết bao nhiêu kỷ niệm trên đất Mỹ. Soạn thiệp Noel gởi mợ bên Pháp, bạn Mỹ lúc làm chung nơi Company Kyle Design, vài người thân thích và bà Marilyn Evans. Lòng tôi không khỏi ngậm ngùi về ông chủ Tom Evans nay đã mất, chỉ còn lại bà đến mùa Noel chúng tôi nhận được tấm card lời lẽ ấm áp. Đã hơn ba mươi năm, thời gian qua vùn vụt. Nhớ ngày nào khi chồng tôi vừa học vừa làm part time cho hãng tư nhân nhỏ, một hôm bị đau ruột thừa dữ dội phải vào bệnh viện mổ và nghỉ dưỡng nửa tháng, tưởng ông bà thuê người khác nhưng không. Họ gởi hoa chúc lành, nhắn chồng tôi đến trao tấm check nửa tháng lương cho không, và dặn chồng tôi tiếp tục làm những công việc nhẹ. Mỗi năm chúng tôi được mời dự tiệc Noel nơi nhà hàng sang trọng trên vùng Berkeley. Thời gian này tôi làm cho company Kyle Design trên đường Industrial đang còn mướn chỗ nhỏ vùng Hayward, tôi đậu xe ngoài xa đi bộ vào. Khoảng đường đó có hàng cây rậm lá um tùm, nên mỗi ngày xe tôi đều bị chim thả “bông trắng” đầy trên trần. Xe lại bị bộ phận nơi máy mỗi lần đề cho nổ phải chờ tới 15 -20 phút, nếu vài phút chạy thì máy tắt. Lần đó tiệc lễ Giáng Sinh tổ chức đêm thứ sáu, tôi không kịp rửa xe để vậy chạy luôn. Nhà quê lên tỉnh cả hai người, chưa quen lối quý phái sang trọng, tới nơi có người đứng chào xin chìa khoá lái xe đi đậu parking, vào trong có người đến xin áo khoác ngoài đem đi treo nơi khác. Ngồi một bàn dài ông bà chủ và nhân viên, thưởng thức nhạc sống hoà tấu và tiệc sang trọng. Lúc trở về cũng đứng trước tiệm chờ người lái xe đến, tôi hồi hộp lo lắng tài xế không hiểu bệnh của chiếc xe, chắc họ cũng toát mồ hôi hột, và nếu họ nhìn kỹ một tí sẽ thấy phân chim bao trùm chiếc xe đời thượng cổ. Đó là kỵ niệm nhớ hoài mỗi khi nhắc lại đều không khỏi nhịn cười. Chúng tôi thừa hưởng rất nhiều quà bà Marilyn cho sau mùa lễ: bánh, kẹo sô-cô-la, có lúc cả áo jacket mới toanh. Chồng tôi làm cho ông bà Tom ăn tiệc được hai mùa lễ, rồi đổi jobvà ông bà cũng sang hãng góp cổ phần sáp nhập vào công ty lớn. Bà Marilyn vẫn chưa quên, chúng tôi còn nhận đều đặn tấm thiệp Noel từ vùng Moraga gởi đến.
Đang gói các món quà và viết card chúc Giáng sinh, năm mới. Chồng tôi bước xuống chợt nhắc:
– Nấu bún bò cho Boss Kyle nữa.
– Dĩ nhiên mà, đang tính ngày mai đi chợ mua các thứ nấu đây.
Nói đến boss Kyle nơi tôi đã làm việc trên ba mươi năm, nơi có câu chuyện sẽ rất dài, dài hơn con đường có hàng cây bóng mát trên vùng Livermore che chở cuộc sống của tôi. Gần gũi Boss tôi học được những đức tính chịu khó, kiên nhẫn và lối sống vô cùng giản dị, thân mật gần gũi. Mỗi mùa Noel tôi được nhận quà bằng số tiền thưởng rất lớn trên dưới ba ngàn, và nghỉ một tuần qua Tết Tây được ăn lương. Bà và hai con gái rất mê món bún bò, mì hoành thánh tôi nấu, nên bây giờ tuy đã về hưu nhưng đến mùa này tôi vẫn nấu gởi lên.
Những mùa Lễ Giáng Sinh trôi qua trên đất nước Hoa Kỳ, con cháu đại gia đình thật vui nhộn, đầm ấm hạnh phúc. Thức ăn mỗi người một món theo kiểu Potluck để ngập bàn. Đêm thiêng liêng, không ai có thể quên Chúa Giê -su sinh ra đời, đêm Chúa xuống thế. Một đêm thần diệu đối với trẻ con được thỏa mãn ước mơ, và loài người được nhận thông điệp của hoà bình “Vinh danh Thượng Đế trên cao, bình an cho người dưới thế”. Ngày của sự sum vầy, gia đình yêu thương gắn bó hơn, mùa của sự rộn ràng chờ đợi, đâu đâu cũng nghe bài hát “Jingle Bells” Đêm Noel, đêm Noel, ta hãy cùng vui lên… Chúng tôi cảm tạ Chúa, sau đó ăn uống, chớp hình, hát Karaoke và tán gẫu. Mục sau cùng phát quà, cháu nào cũng dùng bao rác cỡ lớn chứa quà, bởi toàn bộ cô bác chú dì là mười một người chưa kể nhân đôi dâu rể. Hiện nay có thêm hai Chắt nữa, tổng cọng hai mươi mốt trẻ, chỉ tiếc ông bà cố đã qua đời. Số lớn nay đã ra trường đủ ngành nghề: Y, Dược, Luật, Y Tá, MBA (Quản Trị Kinh Doanh), Accounting Management, Kỹ Sư, chỉ Nha Sĩ là không có, tuy nhiên cũng có cháu thất bại trầm trọng, và một cháu bị bịnh Autism (tự kỷ), còn lại hai cháu đang học đại học.
Tôi thấy hơi đau lưng, đứng dậy vươn vai, quay qua nói với chồng:
– Mấy năm sau này mình giảm phần quà rất nhiều vì các cháu lớn đã có lương cao jobvững: chỉ tượng trưng hộp kẹo sô-cô-la , mấy cháu còn đi học cho tiền, hai cháu nhỏ gọi bằng bà cho quần áo, nên đã tăng tiền Homeless bên Mõ Nhân Ái của ông Lê văn Hải, (chủ nhiệm tờ báo Thằng Mõ) và nơi nhà thờ thuộc vùng Richmond mình vẫn gởi từ lâu.
Chồng tôi gật đầu hoan nghênh:
– Đúng rồi, bà tính vậy hay đó.
Nghĩ tới ông Lê văn Hải cũng là hội trưởng của cơ sở Văn Thơ Lạc Việt. Tôi vô cùng kính trọng cách sống hài hoà của ông, tấm lòng rộng rãi tràn đầy bác ái luôn nghĩ đến những người Homeless, thường tổ chức phát thức ăn và quà hàng tháng, chưa kể còn chia sẻ tình nghĩa với huynh đệ đời lính. Ông thường nói “Nếu bạn không biết cho đi, đồng nghĩa với việc bạn sẽ không biết thế nào là hạnh phúc”.
Qua Mỹ hai bàn tay trắng, bao nhiêu người sống chung một ngôi nhà, chỉ có vài chiếc xe cũ rích. Giờ đây đã có mười lăm ngôi nhà và mấy chục chiếc xe. Đất nước này cho chúng tôi nhận quá nhiều, những ông bà Boss Mỹ đầy ân tình, cuộc sống văn minh lịch sự dìu dắt, hướng dẫn chúng tôi từng bước, che chở hơn hai phần ba cuộc đời, tập tánh siêng năng phấn đấu để bây giờ tuổi già được nuôi dưỡng tiền hưu cũng như có bảo hiểm cover 80%, chúng tôi mua thêm 20% bên ngoài nữa, chỉ thua những người ăn tiền già được bảo bọc 100%, không tốn đồng nào.
***
Tôi đã làm xong các công việc gói quà, gởi card và nấu bún bò cho Boss.
Ngày lễ đến, đường phố toàn hình ảnh các ông già Noel xuất hiện. Trước những ngôi nhà trang trí màu sắc lộng lẫy, nơi này chưng hình chú Nai vàng lấp lánh, nơi kia giăng đèn trên các cành cây trước sân đủ màu xanh, đỏ, vàng, tím. Khung cảnh tràn đầy ấm cúng phủ bớt cái lạnh se thắt trong không gian. Đại gia đình chúng tôi tụ họp nơi nhà người em. Cây thông lấp lánh những quả châu, hoa tuyết trang trí, quà chồng cao vui mắt, thức ăn, thức uống đầy bàn.
Tuy gia đình chúng tôi theo đạo Phật, nhưng đêm lễ thiêng liêng… chúng tôi nguyện thầm “Lạy Phật, lạy Chúa… chúng con xin cảm tạ đêm hôm nay có được sự sum họp gia đình đầm ấm. Các cháu thì nhắc chữ “Emmanuel” (Thiên Chúa ở cùng chúng ta). Im lặng để biết ơn Phật Chúa, biết ơn cha mẹ, biết ơn thầy cô, biết ơn những anh Thương Phế Binh, những người lính VNCH, biết ơn nước Mỹ, “Biết Ơn Đời, Đời Sẽ Thương Ta” như cuốn sách của Dr Robert A Emmons đã cho tôi cảm nhận niềm diễm phúc đêm nay… đêm Noel.
Minh Thúy Thành Nội
You Raise Me Up –
Ngài Nâng Tôi Lên
Có lẽ ai trong chúng ta cũng đã từng nghe qua ít nhất một lần ca khúc bất hủ này. Tên của ca khúc là You Raise Me Up.
Đây là bài ca khởi nguồn từ một đoạn nhạc mở đầu (Prelude) cho album Silent Story của Secret Garden do nhạc sĩ Lovland sáng tác. Sau đó vị nhạc sĩ này đã đề nghị nhà soạn nhạc lừng danh và cũng là nhà văn người Ireland Brendan Graham viết lời ca.
Tưởng cũng nên biết ca khúc này dựa trên một câu chuyện rất đẹp.
Chuyện kể rằng:
Có một bạn trẻ kia than trách với Chúa sao những lúc cô đơn, đau buồn và thất vọng…Ngài lại vắng mặt?
Chúa không trả lời mà chỉ lẳng lặng cho anh xem một đoạn phim. Đoạn phim ấy chỉ ghi lại hình ảnh dấu in của hai đôi chân trên bãi cát biển.
Anh nói với Chúa:
Ồ, đây là lúc mà con đang thành công và hạnh phúc, đúng là Ngài đang bước đi bên con.
Thế rồi đoạn phim chiếu đến cảnh biển nổi sóng trong một ngày giông bão, trên bãi cát chỉ còn lại dấu in của một đôi chân.
Chàng trai trẻ nói ngay với Chúa:
Đó, Ngài xem! Lúc con gặp khó khăn, thử thách, Ngài để con lủi thủi một mình trong cô đơn và thất vọng.
Chúa hỏi lại chàng trai:
Con có biết đôi chân ấy là của ai không?
Anh đáp:
Hẳn là của con rồi!
Không, đó là đôi chân của Ta.
Vậy thì đôi chân của con đâu ạ?
Chúa âu yếm nhìn chàng trai và trả lời:
Lúc đó, Ta đang vác con trên vai của Ta đấy!
Và bài hát này chính là lời thổn thức của bạn trẻ ấy với Chúa:
When I am down, and, oh my soul, so weary When troubles come and my heart burdened be Then I am still and wait here in the silence Until you come and sit awhile with me
You raise me up so I can stand on mountains You raise me up to walk on stormy seas I am strong when I am on your shoulders You raise me up to more than I can be
Tôi mạn phép chuyển ngữ sát với giai điệu, để ca khúc này có thêm lời Việt sau đây:
Nghẹn ngào xa vắng
Hồn tôi băn khoăn ngập buồn đau
Đường đời đen tối
và xót xa chiếm tâm hồn
Bồi hồi lo lắng
Ôi cô đơn tâm tư rã rời
Kìa Chúa đến bên
Ủi an cho tôi bình yên
Ngài nâng tôi lên
cho tôi vững chân giữa núi đồi
Ngài nhấc cao hơn
an tâm bước qua biển khơi
Rồi thêm sức
cho tôi tin tưởng niềm vui sống
Ngài đỡ nâng tôi
đưa tôi đến nơi bình yên.
“You raise me up to walk on stormy seas” – Ngài nâng con lên vượt qua giông bão biển khơi.
Bắt nguồn cảm hứng về câu chuyện trong Kinh Thánh nói đến một môn đệ của Chúa Giêsu khi thấy Ngài bước trên sóng nước. Bằng cả đức tin tuyệt đối, ông xin Chúa: “You raise me up – Ngài nhấc con lên”. Kết quả phép lạ thật diệu kỳ, vị môn đệ ấy cũng được bước đi trên sóng nước.
Đó là câu chuyện của niềm tin và tình yêu bao la vào Đấng Quyền năng được kết dệt qua âm nhạc để trở thành một ca khúc tuyệt vời. Nhiều người cũng nhìn nhận ca từ của ca khúc này dưới góc độ một câu chuyện tình yêu lứa đôi tuyệt đẹp. Nhưng dù là đối với Thiên Chúa hay người tình thì cũng là những cảm xúc vô cùng mỹ diệu và cao thượng. Điều đó cho ta một triết lý: tình yêu và niềm tin cao thượng sẽ nâng chúng ta lên…
Tôi nghĩ rằng, đây là bài hát không riêng cho một tôn giáo nào, và có lẽ các bạn cũng đồng ý với tôi rằng, chúng ta không thể phủ nhận sự hiện diện Thượng Đế trong đời sống của kiếp nhân sinh. Thậm chí chính ngay những người vô thần hay chủ thuyết vô thần (Atheism) mà họ thường nào là: “Tôn giáo là liều thuốc phiện” với những “Duy Vật Biện Chứng” và “Loài người do khỉ mà ra…”
Cho tôi lan man ngoài lề một tí.
Thật ra, chính những người vô thần này họ lại tin thần linh hơn ai hết (Chủ nghĩa vô thần có ở cả người theo chủ nghĩa duy tâm lẫn cả người theo chủ nghĩa duy vật) Vì kinh nghiệm đã cho ta thường thấy nếu điều gì ngoài sức lực và kiểm soát của con người, họ thường chạy đến các thần linh để ước nguyện và cầu xin. Thí dụ muốn được những điều may mắn, được thăng chức, việc làm tốt; ăn nên làm ra, tai qua nạn khỏi… họ van vái bốn phương, muốn được nhiều tiền và giàu có; họ “hối lộ” thần linh. Họ mê tín,dị đoan, xem bói, cầu cơ, khấn xin, van vái Thần núi, Thần sông, Thần biển, Thần hồ…
Những điều này cho ta suy nghĩ và khẳng định gì?
Thưa, dẫu là vô thần, nhưng tận trong sâu thẳm tâm hồn, họ vẫn tin có Thượng Đế đã tạo dựng nên vũ trụ và vạn vật, để mỗi khi gặp hoạn nạn mà cầu cứu và van xin. Nghĩa là họ tin có Đấng Thần Linh, tin có Ông Trời dù rằng họ từ chối các tôn giáo mặc dù họ biết mọi tôn giáo luôn hướng con người đến điều thiện – lành…
Nhà Bác học Einstein (Thuyết tương đối) là một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất mọi thời đại nói rằng:
“Khoa học không có Tôn giáo là mù lòa…”
Thế nên người vô thần tự định nghĩa theo cách “Chủ nghĩa vô thần không phải là sự hoài nghi nơi các thần, hay chối bỏ các thần; mà là thiếu niềm tin nơi các thần”. Như vậy, chủ nghĩa vô thần vì sự hoài nghi và là sự thiếu niềm tin. Tư tưởng này phát xuất từ lòng kiêu ngạo mà trong Kinh Thánh cũng đã có đề cập: “Kẻ ngu dại nói trong lòng mình rằng, “Không có Thiên Chúa” (Thánh Thi 19:1; 97:6) Nghĩa là họ tự nhận mình trí tuệ vượt trội hơn niềm tin nơi Thiên Chúa.
Nhà bác học vật lý Newton trong thời đại chúng ta đã trải qua bao nhiêu năm tìm hiểu định luật vạn vật hấp dẫn chuyển động trong trái đất đã khẳng định rồi thốt lên rằng:
“Trong Kinh Thánh có nhiều biểu hiện chắc chắn về tính có thực hơn trong bất cứ một câu chuyện nào chống lại sách đó”
Cũng do thiếu thông tin đúng đắn để họ kết luận rằng chẳng có gì tồn tại ngoài vũ trụ. Những nguyên nhân đó khiến một số người xác nhận mình là vô thần và rồi kiêu ngạo.
Thiếu hiểu biết.
Thiếu hiểu biết hoặc hiểu biết khái quát về địa lý, văn hóa, về không gian và thời gian trong Kinh Thánh, khiến họ nghi ngờ rồi tạo ra các ý tưởng suy diễn lý lẽ mù lòa theo cách của mình để vá víu vào các khoảng đó. Việc này thường dẫn tới suy luận tôn giáo sai lầm, cũng như thể kiến thức sơ sài về Thiên Chúa thường bị bôi nhọ bởi những điều siêu nhiên mà Thiên Chúa tạo dựng, nghe như thần thoại hay là một câu chuyện cổ tích. Cũng không ngoại trừ từ lòng đố kỵ và ác cảm của một số vị chức sắc, tu sĩ thù ghét tôn giáo, thậm chí bị ảnh hưởng vì những người mang danh là có đạo mà lối sống và hành vi của họ bề ngoài, thiếu công bằng, đen tối, tàn nhẫn và độc ác…
Trong thời gian vừa qua, chúng ta có lẽ đã thấy và nghe trên YouTube những bài thuyết pháp của những tu sĩ nói sai – cố ý nói sai để mạ lỵ và xúc phạm tôn giáo, gây hoài nghi niềm tin nơi những tín đồ có nhận thức giới hạn, tạo mất tình đoàn kết giữa các tôn giáo. Và nay, cái giá phải trả; các vị tu sĩ này đã bị cộng đồng mạng đồng loạt lên án và tẩy chay, làm ảnh hưởng xấu đến chính tôn giáo của mình.
Ý niệm về mọi tôn giáo và sự tồn tại của nó chính là “Cái Đẹp” – “Cái Đẹp cứu rỗi thế giới”.
Một người có cách sống đạo đức nằm ngoài các mệnh lệnh tôn giáo là điều rất cần thiết. Vì trong thế giới hôm nay, đã có một số người mà họ mất đi ý niệm về tội lỗi, nên đã gây ra những điều đau khổ cho con người.
Tôn giáo của người nào đó là điều cao cả và thiêng liêng bất khả xâm phạm trong trái tim người ấy. Tôn trọng Tôn giáo của người, có nghĩa là ta tôn trọng và làm rạng rỡ Tôn giáo của chính ta!
Trở lại bài hát You Raise Me Up.
Thường khi con người gặp những hoạn nạn, đau khổ, bất toàn, bất hạnh… Họ lại chạy đến cầu xin Thần linh.
Ước gì không phải lúc ta gặp hoạn nạn mới cần đến Thiên Chúa, mà ngay những lúc ta hạnh phúc, đầy đủ, sướng vui… Nhiều khi ta cầu xin liên lỉ điều này điều kia mà sao chẳng thấy được ban phát? Thế nhưng, biết đâu Ngài lại ban cho ta những điều khác, và chính những điều này mới là thật sự rất cần thiết mà ta chưa cảm nhận.
Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài biết rõ ta cần gì!
Sau cùng, kính mời quý vị và các bạn mở YouTube để nghe ca khúc You Raise Me Up dưới đây.
Ca khúc này tôi đã viết thêm lời Việt như đã nói ở trên, cũng như sáng tác thêm đoạn kết (Coda) rồi hòa nhạc dựa trên phong cách nguyên thủy của bài hát theo link sau đây:
Quý vị và các bạn cũng có thể ươm giọng ca của mình vào ca khúc nổi tiếng này theo link karaoke kèm theo dưới đây:
Không quên xin cảm ơn nghệ sĩ Trúc Tiên đã thực hiện video diễn ảnh rất ý nghĩa.
Trân trọng,
Văn Duy Tùng
NHỮNG MÙA GIÁNG SINH TRONG KÝ ỨC
Nguyễn Hoàng Quý
Làng quê nơi tôi sinh ra là một vùng bán sơn địa thuộc thung lũng Quế Sơn, địa danh một thời nổi tiếng trong các trận qiao tranh giữa một bên là quân giải phóng và một bên là quân đội Đồng minh & VNCH. Quế Sơn ở phía Nam Đà Nẵng, cách chừng 60km, ở Tây Nam Hội An cách chừng 40 – 50km.
Thập niên 50 thế kỷ trước, ở quê tôi không hề thấy những Nhà Thờ Thiên Chúa Giáo, chỉ rải rác vài chùa Phật giáo, đa số là các Thánh thất Cao Đài ở nhiều xã trong quận.
Những năm học tiểu học, 1956 – 61, mỗi năm đi học được nghỉ lễ “Bấc” một tuần, cứ ngỡ là gió bấc. Lớn dần thì hiểu ra đó là Lễ Phục Sinh (Pâques). Con nít, nghỉ học là vui nên không quan tâm mấy, cũng không nhớ có nghỉ Noen hay không, nghỉ ít hay nhiều ngày vì mãi đến năm 1960, làng tôi mới có một Nhà Nguyện Công Giáo. Nhà Nguyện dựng trên đất nhà anh Năm Sắc con bà Luân, vách tranh, lợp tranh. Không rõ nơi này quy tụ được bao nhiêu người tới cầu nguyện theo lễ nghi Công giáo vì với đầu óc một cậu bé lên mười, điều chú ý không phải là việc này. Điều còn nhớ được là có một linh mục ở tỉnh về giúp đỡ mọi việc thời gian đầu, anh Năm Sắc xưng với ông là “Cha”, vợ con anh cũng xưng là Cha, Bà Luân, mẹ anh không đồng ý và nói rằng: “Nếu con và vợ con xưng với ông này là Cha thì dứt khoát các con của con phải xưng là “ông nội”!”. Chuyện hoàn toàn có thật, không mảy may thêu dệt vì người dân quê, khi chưa hiểu, dễ dị ứng với những cái mới.
Phải đợi đến cuối thập niên 60, khi tôi lên Đà Lạt học năm đầu đại học tôi mới có nhận thức tương đối đầy đủ về LỄ NÔ – EN, NGÀY GIÁNG SINH khi thành phố này có nhiều trường Công Giáo, nhiều Nhà Thờ, bạn bè tôi là con Thiên Chúa, Đại học Đà Lạt nơi tôi học là trường Công Giáo. Khi nhà Thờ Con Gà, Domaine de Marie, nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, các xóm đạo từ số 6 vào Thánh Mẫu đều trang trí mừng Giáng sinh, lòng mình rộn lên những cảm giác vui tươi khi nhìn và nghĩ đến câu: “Sáng danh Thiên Chúa trên Trời/ Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Có một lần anh em tôi vào nhà thờ Dòng Chúa Cứu thế đêm 24.12, được nghe từ đó tiếng đàn harmonium dạo bài “Đêm Thánh vô cùng” (Silent night – Holy night) và bài “Hang Bêlem”. Tiếng đàn thoát ra từ bên trong bức tường đá của Nhà Thờ rất tuyệt. Chỉ đến sau này, có lần đến Nhà Thờ Kỳ Đồng Sài Gòn cũng đêm Giáng Sinh mới được nghe lại, y hệt, dù ở đây ồn ào hơn do xe cộ chạy qua.
Về Huế, tôi được tiếp xúc với Linh mục Trần Thắng Trung là tuyên úy Công Giáo, về sau Cha về quản lý Tòa Giám mục, tôi gặp Soeur Marie de Bernard, Soeur Jean du Calvaire Kim Thúy. Hai chị tu dòng Saint Paul, làm việc thiện nguyện ở BV Trung Ương Huế. Cha Trung và các chị vốn có giao tình với chị ruột tôi ở Đà Nẵng từ trước nên coi tôi như con – em, luôn dành cho những tình cảm yêu thương và ai cũng muốn tôi “trở lại đạo”. Có lẽ tôi không nhận được sự quan phòng của Thiên Chúa nên dầu ngày ấy, tôi đi lễ chúa nhật với người bạn cùng phòng ở ký túc xá, đọc Thánh Kinh, tôi vẫn chỉ dừng lại ở việc nhận Hồng Ân của Người. Vào cuối tháng 12, khi thời tiết bên ngoài rất đẹp, trời không còn mưa, có ngày nắng vàng trải trên khóm cây các sân nhà thờ đã trang trí thông Nô – en, máng cỏ, hang lừa lòng tôi vẫn rộn lên những nao nức và nghĩ đến việc dọn mình chờ đợi đón mừng ngày Chúa Giê su Ki tô chào đời.
Đến nhà thờ xem lễ Giáng Sinh, nghe Phúc Âm, nghe Thánh Ca cũng như nghe các Cha giảng, tôi thấy lòng mình thanh thoát, những bài giảng của các Cha luôn giúp ích cho việc bảo tồn trật tự xã hội khi con chiên thực hiện đúng 10 điều răn của Chúa. Tôi cũng đã dự một vài Thánh lễ cưới của người thân, Thánh lễ luôn đem lại cho mình cảm giác vui mừng cho hạnh phúc của cô dâu chú rễ nhất là khi giáo luật có những điều ràng buộc họ với nhau để biết nhẫn nhịn trong cuộc sống hàng ngày theo kiểu “Chồng giận thì vợ bớt lời. . . “.
Khi ra trường đi dạy, tôi có vài lần dự lễ mở tay của học trò cũ ở ngay chính giáo xứ mình sinh ra, tôi mặc complet, thắt cravat như đi họ đám cưới vì, cũng giống như dự lễ khấn của các nữ tu (khấn tạm, khấn lại, khấn trọn đời) đều không khác lễ cưới của người ngoại đạo. Có lần tôi dự Thánh lễ nửa đêm ở Nhà Thờ Đồng Dài, cách nhà chừng 15km. Lễ xong về dự tiệc canh thức ở nhà riêng của Chủ tịch Hội Đồng Giáo xứ có Cha chánh xứ và các chức sắc nhà thờ cùng tham dự. Tất cả những việc này và còn nhiều nhiều nữa đã luôn nằm ở một ngăn đẹp trong tủ đựng những kỷ niệm đời mình. Do vậy, cứ đến đầu tháng 12 hàng năm là bao nhiêu kỷ niệm với đất, với người trỗi dậy để thấy mình trẻ lại và lòng mình ấm áp.
Cha mẹ tôi thờ Ông Bà, về sau, tôi tìm hiểu đạo Chúa, tuổi trung niên, tôi tìm hiểu đạo Phật, đọc sách Phật và sống theo giới luật của một Phật tử nhưng trong tôi luôn có một Đấng Toàn Năng chi phối mọi con người. Với tôi, đấng Toàn Năng đó là Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn yêu thương và cứu chuộc trần gian.
TRÁI TIM TỪ BI CỦA NGƯỜI THỢ XỨ LÁ PHONG -Adèle Bibaud- 1173 words
Người người đều quấn mình thật ấm, họ bước đi rất nhanh, trời quá rét. Mọi người đều lo âu vội vàng để chạy nhanh về tổ ấm: lưới trượt của những xe trượt tuyết rền lên trên con đường lớn ở Mile-End *, gió rít thật xé tai làm đám tuyết ụn thành đống dưới chân những cây cao phủ đầy sương giá, trước đó trận bão đã làm rung chuyển những cánh tay sầu não của chúng. Những hạt bông tuyết xoáy tròn trên không, như thể bụi mù vùng sa mạc, làm mất hướng nhìn của người bộ hành. Hôm ấy thật sự là một buổi tối Giáng Sinh, thời tiết xuống hai mươi lăm độ âm. Ở khúc ngoặt con đường, một đám nhà nhỏ nghèo nàn đang khoe chùm mái đổ nát. Nào ta hãy vào căn đầu tiên nhé: có bốn người: họ đang ở căn phòng phía trước, hai người phụ nữ, hai đứa bé.
Bọn nhỏ đang lăn lộn, đùa giỡn, rồi cãi nhau. Ở lò sưởi, từ cái nồi bóng loáng như gương mặt của một người Phi Châu, tiếng ồng ộc của món súp hầm tỏa ra mùi vị thật ngon. Trên bàn, bốn bộ thìa dĩa dao đặt ngày ngắn với chiếc khăn trải thật tươm tất, một miếng bơ, một miếng phó mát, một cái liễn bằng sành chứa đầy sữa, một ổ bánh mì. Họ chỉ còn chờ người chủ gia đình. Trên tủ bếp, một bức tượng của thánh Antoine, cánh tay bị gãy đang bế chúa Hài Đồng Giê Su do một phép mầu, ở dưới chân bức tượng thì một con ngựa gỗ đang kéo xe ba gác, cái xe này cũng đã qua cuộc chiến nên chỉ còn ba bánh xe; ở đầu bên kia của tủ thì bên dưới một quả cầu thủy tinh có hai bàn tay bằng sáp đang chắp vào nhau thật chặt, trên một cái khay bằng nhung đỏ; rồi xa hơn là một cái bình thủy tinh không quai, hai cái tách bị rạn nứt, một con chó bằng gốm, một con cừu với người chăn, tất cả những thứ này làm đồ trang trí cho căn nhà và được sắp xếp một cách không thứ tự và thật xa con mắt mỹ thuật. Trên tường thì treo lủng lẳng xoong nồi và dụng cụ nhà bếp. Ngoài ra, còn mấy cái ghế khập khiễng, một cái ghế trường kỷ xếp được dùng làm tủ, đó là toàn bộ đồ nội thất trong phòng; cho dù với sự nghèo nàn thiếu thốn, căn phòng vẫn toát ra một không khí thoải mái vì tất cả đều thật sạch sẽ chu đáo.
Tiếng gù gù của chú mèo nằm trên chiếc ghế đẩu cũ kỹ cho biết rằng thực khách này của căn nhà hèn mọn được yêu thương và cưng chiều như thế nào.
Hai người phụ nữ rì rầm nói chuyện với nhau, thỉnh thoảng đôi mắt của người trẻ bị mờ đi vì ngấn lệ.
– Tội nghiệp cô ấy quá, bà nói. Cô ấy sẽ không sống nổi. Ai sẽ chăm sóc con của cô ta? Lúc trước khi tôi bị bịnh, chính cô ấy đã chăm lo bọn nhóc của tôi. Ôi, giá như ông nhà tôi muốn làm điều đó!… nhưng mùa đông năm nay thật khắc nghiệt, quá khắc nghiệt, nên tôi không dám hỏi ông ấy, chị biết không, tôi thật đau đớn nghẹn ngào mỗi khi sang thăm cô hàng xóm. Ban đêm tôi không thể ngủ bởi vì tôi đã đọc được trong đôi mắt to sắp tàn lịm của cô ấy điều mà cô ấy muốn hỏi tôi nhưng không dám, cô ấy chờ tôi sẽ mở lời trước.
– Chị nghĩ cô ấy sẽ không qua khỏi hay sao?
-Chị ạ, cô ấy bị viêm phổi, và khi đã bị bịnh này rồi thì thua thôi, cộng thêm với nỗi lo âu về sự nghèo đói, rồi ý nghĩ phải để con mình lại cho người lạ nuôi lại càng làm cho cô ấy suy mòn nhanh hơn nữa, ôi thương quá.
Người thiếu phụ trẻ lấy vạt tạp dề lau nước mắt đang từ từ chảy dài xuống.
Rồi, may sao, cánh cửa đột ngột mở bật ra và một luồng gió mạnh mang theo những mảng tuyết ào vào nhà cùng với một người đàn ông cao to trông rất hoạt bát khỏe mạnh có dáng một lực sĩ, nét mặt nghiêm nghị, nhưng có vẻ chân thành và lương thiện.
– Ôi, với khí hậu chết tiệt này, về nhà thích làm sao, trời ạ! tôi tưởng là cơn bão tuyết sẽ chôn sống tôi ngoài đường rồi chứ! Rốt cuộc ta cũng về đây rồi. Ông ấy vừa nói vừa ném cho bọn nhóc một túi kẹo hạnh nhân.
– Này các con, ngày mai là lễ Giáng Sinh rồi đó, chúa Hài Đồng Giê Su không quên các con đâu này; nhưng mà này đừng có mà kiện cáo hay cãi cọ đấy nhé.
-Ba!
Hai đứa bé chạy đến bên cha, một đứa ôm lấy chân ba chúng, đứa kia thì leo lên vai, còn ông ta thì ôm hôn các con, thảy chúng lên trên cao, đứa này rồi đến đứa kia, rồi đến bên vợ mình.
– Cái gì thế này, hôm nay lại có nước mắt ư, điều gì làm cho em ray rút thế, đây là lần thứ hai trong tuần mà ta thấy em khóc, điều này không bình thường rồi. Em không tin tưởng nơi ta để nói cho ta biết việc gì làm em buồn khổ sao? Hôm nay là một ngày tốt, ta làm việc rất có kết quả và ta muốn tất cả mọi người đều hạnh phúc trong ngôi nhà này. Nào, hãy nói ngay cho ta biết em cần điều gì nào.
Người thiếu phụ trở nên sợ sệt.
– Chắc là anh sẽ rầy la em mất thôi.
– Em nói đi.
– Đây ạ! Anh biết không, cô hàng xóm tội nghiệp, cô ấy sắp ra đi, rồi con của cô ta…
-A! đúng rồi, cô nàng khốn khổ tội nghiệp, anh quên khuấy đi mất, rồi con cô ta, đúng vậy, thật buồn cho cô ấy quá.
– Nếu anh muốn..
– Này mẹ nó, nếu như con của cô ấy làm cho em xúc động và lo âu, thì em hãy qua bồng nó về đây đi, đó là món quà của em đó. Ta sẽ làm việc thêm, về trễ một chút, như thế sẽ có đủ cái ăn cho tất cả chúng ta.
Thế là trong cái đêm mà con của Chúa Cha xuống trần thế để cứu rỗi nhân loại, thì bên trong ngôi nhà nhỏ bé ấy, cái nôi mà lâu nay đã đem cất trên gác xép, lại được mang xuống để đón nhận một em bé gầy còm yếu ớt, và cùng lúc đó linh hồn của một kẻ đọa đày vì nghèo khổ đã bay lên trời, với vẻ bình tâm mãn nguyện.
Adèle Bibaud – TL dịch
* Mile-End: khu phố thuộc thành phố Montreal, Quebec, Canada.
CÂU CHUYỆN SAU ĐÊM GIÁNG SINH
KHUYẾT DANH– TL dịch -679 chữ
Một khi những người chăn chiên đã ra đi và mọi việc đã trở nên yên tĩnh trở lại, em bé trong máng cỏ ngẩng đầu lên và nhìn về phía cánh cửa hé mở. Một câu bé đang đứng đó, e dè bẽn lẽn… rụt rè và sợ sệt.
– Đến đây nào cậu bé, Chúa Giê-Su bảo. Tại sao con e sợ đến vậy con?
– Dạ bẩm, con không dám…Con không có gì để tặng ngài cả, cậu bé trả lời.
– Ta ước mong cậu sẽ tặng cho ta một món quà biết bao, bé sơ sinh nói.
Cậu bé xa lạ đỏ mặt lên vì hổ thẹn.
– Thật sự con không có gì cả , thưa ngài… con không sở hữu được bất cứ gì cả ạ; nếu như con có món gì, con sẽ tặng ngài …ngài xem đây ạ.
Rồi moi móc lục lọi trong hai túi quần vá chằm vá đụp của mình, cậu bé lôi ra một lưỡi dao cũ đã rỉ sét .
– Dạ con chỉ có chừng này thôi, nếu ngài muốn con xin tặng ngài ạ.
– Không đâu, con cứ giữ đi, chúa Giê-Su trả lời. Ta muốn những thứ khác của con kia. Ta muốn con cho ta ba món quà.
– Con rất hân hạnh, thưa ngài, cậu bé nói, nhưng con sẽ làm gì cho ngài ạ?
– Hãy tặng ta hình vẽ sau cùng của con đi.
Vẻ mặt của cậu bé trở nên lúng túng và đỏ rần lên . Cậu ta bước đến gần máng cỏ và để tránh cho Marie và Joseph không thể nghe mình nói gì, cậu thì thầm vào tai Chúa Hài Đồng Giê-Su:
– Thưa ngài, con không thể… hình con vẽ quá tệ hại xấu xí…không ai muốn nhìn thấy đâu ạ!
-Con ạ, chính vì nó xấu nên ta mới nói con đưa cho ta, em bé trong máng cỏ trả lời…Con phải luôn luôn tặng cho ta tất cả những gì người khác gạt bỏ đi, và những gì mà chính con cũng không ưa thích.
-Và nữa nè, ta muốn con đưa cho ta cái đĩa của con, em bé tiếp tục.
-Nhưng mà sáng nay con đã làm bể đĩa mất rồi, thưa ngài! chú bé ấp úng trả lời.
– Bởi vì vậy nên ta muốn con đưa cho ta… Con luôn phải tặng cho ta tất cả những gì bị gãy bể trong suốt cuộc đời của con, ta muốn dán chúng lại…
– Còn bây giờ con hãy lập lại cho ta nghe con đã trả lời ba mẹ con như thế nào khi họ hỏi lý do làm sao con đã làm bể cái đĩa, Chúa Giê Su nhất định hỏi để xem chú bé kể lại sự việc ra sao… Chú bé liền sa sầm nét mặt, cúi mặt xuống, xấu hổ và nói thì thầm một cách buồn bã:
-Con đã nói dối.. con đã nói rằng vì sơ ý nên cái đĩa đã tuột khỏi tay con; nhưng sự thật thì không phải như thế.. Lúc đó con đang tức giận và con đã đẩy mạnh cái đĩa cho nó rớt xuống nền gạch hoa và đã vỡ ra!
– Con ạ, đó chính là điều ta muốn con thổ lộ ra! Chúa Giê Su nói. Con hãy giao hết cho ta tất cả những thứ xấu xa phiền toái trong cuộc đời của con, nào là những điều dối gian, những lần vu khống, những sự hèn nhát và những điều ác độc của con. Ta muốn con hay trút hết những gánh nặng đó cho ta…Con không cần đến những thứ đó… Ta muốn làm cho con luôn hạnh phúc vui sướng và con hãy nhớ rằng ta luôn luôn tha thứ cho những lỗi lầm của con, con ạ.
Rồi vừa ôm hôn cậu bé vì đã tặng mình ba món quà đó, chúa Giê Su nói:
– Bây giờ thì con đã biết đường dẫn đến Trái Tim của ta rồi, ta ước mong mỗi ngày con đều đến thăm ta con nhé.
KHUYẾT DANH– TL dịch
Nếu Ông Già Noel quên ghé thì…
Mone Dompnier –thailan dịch
CÂU CHUYỆN THẬT CỦA MỘT NGƯỜI BẠN BÊN PHÁP VÀ THẬT ĐAU, KHI NGHĨ VỀ CÁC VỊ ANH HÙNG TRONG QLVNCH- BAO NHIÊU THÁNG NGÀY GÔNG CÙM TÙ TỘI, MỘT MẪU ĐƯỜNG ĐEN, ĐƯỜNG BÁT (Đọi) LÀ CẢ MỘT KHO TÀNG- THƯƠNG ĐAU!!
Một buổi sáng Giáng Sinh. Dưới gốc cây thông, những tờ giấy màu bị xé toạc, những chiếc hộp mở toang cả ra, và bọn trẻ thì phấn khích giữa bao nhiêu là quà mà ông già Noel mang đến cho chúng vào đêm qua. Bà tôi thì ngồi hơi xa một chút, đang mỉm cười khi thấy niềm hạnh phúc và sự ngạc nhiên vui thích của các cháu.
– Bọn nhỏ này được cưng chiều quá chừng. – Bà nói khẽ, có vẻ như bà sợ rằng tôi sẽ nghĩ bà trách móc khi thấy vô số đồ chơi và những thiết bị tân thời cho những môn chơi trên máy như thế.
Đúng là tôi không thể cưỡng lại để lựa chọn khi lướt qua các món ở cửa hàng đồ chơi. Là thú vui của tôi khi chọn từng món đồ và chắc chắn sẽ khiến các con reo lên vì thích thú. Đem giấu tất cả những món ấy đi. Rồi cuối cùng sắp chúng dưới gốc cây thông, với niềm nôn nao chờ đợi giây phút khi bọn nhỏ thức dậy và khám phá…
– Cháu biết không, bà vẫn nhớ một Giáng Sinh từ thời thơ ấu. Từ rất lâu lắm rồi…
*
Một đêm đầy sao, lạnh cóng. Một cô bé trằn trọc, quay qua quay lại trên giường, quá bồn chồn để có thể nhắm mắt. Ở trường, chiều nay cô giáo đã kể về ông già Nô En, các chú tuần lộc và chiếc xe trượt tuyết của ông ấy, những món quà ông phân phát cho trẻ em.
– Và chẳng mấy chốc, ông sẽ đi qua tất cả các trang trại của làng. Nếu con đã tỏ ra ngoan ngoãn trong suốt năm học, ông ấy sẽ mang đến cho con một món quà vào đêm Giáng Sinh. Nhưng các con đừng quên đặt đôi guốc của mình trước lò sưởi con nhé.
Bọn trẻ nghe cô giải thích, vẻ kinh ngạc. Cô giáo trẻ của họ đến từ thành phố, cô ấy biết rất nhiều, cô ấy không thể sai được. Vì vậy, khi Sylvie về nhà cũng kể mọi chuyện cho cha mẹ và các chị nghe, và em cũng mang đôi guốc gỗ của mình đặt ngay ngắn trước lò sưởi, như lời cô giáo đã dặn dò.
Nhưng sau khi làm điều đó, bé cũng có vẻ bồn chồn lo âu.
– Nếu ông già Nô En quên đến nhà mình thì sao? Trang trại của chúng ta ở trên dốc rất cao của ngôi làng. Có lẽ ông Nô En sẽ không nhìn thấy nhà của ta đâu, Ba Mẹ ạ.
– Bé cưng của mẹ, con đừng lo, con ạ. Trước khi đi ngủ, ba mẹ sẽ máng đèn lồng ở cửa chuồng ngựa nhe con. Đôi mắt các chú tuần lộc rất tinh tường, chúng sẽ nhìn thấy, con yên tâm nhé con.
Đêm ấy, cô bé Sylvie thật khó mà dỗ giấc ngủ. Nếu như mình vẫn còn thức, có lẽ mình sẽ nghe
tiếng ông già Nô En và chiếc xe trượt tuyết với tiếng chuông rung trên con đường đầy tuyết. Nhưng cô chỉ nghe thấy những lời thì thầm, tiếng cười thật khẽ vọng lên từ dưới nhà bếp. Cô bỗng nhìn thấy một tia sáng vàng giọi lên ở khe gỗ sàn nhà. Và nhìn lên ô kính cửa sổ, những hạt bông tuyết lấp lánh thật đẹp. Cha cô đã treo đèn lồng lên rồi. Sylvie mỉm cười, yên tâm. Và rồi cuối cùng đêm tối cũng mang bé đi vào giấc mộng đẹp.
Khi cô mở mắt ra… “Ôi, hôm nay là Giáng Sinh rồi!”
Một niềm hy vọng to lớn làm tim cô đập rất mạnh. Vẫn còn đang mặc áo ngủ, đi chân trần, cô
chạy ngay đến đôi guốc của mình, và nhìn thấy góc một chiếc khăn tay ca rô màu xanh trắng nhô ra, giống như khăn của cha mình.
– Ôi, con có quà nè! Ông Nô En đã tặng con một món quà! Cha ơi, Mẹ ơi!
Bên trong chiếc khăn tay… là một miếng đường thật to! Chỉ của mình con thôi phải không?
– Cha nhìn này! Có phải thật sự là của riêng con không?
– Ôi, đúng rồi đó con. Chắc là ông già Nô En biết rằng con là một đứa bé rất thích ăn quà đó con.
Các chị của cô bé cười vang khi thấy bé vui thích. Họ biết rằng thỏi đường mà cha để bên trong chạn thức ăn được bọc cẩn thận trong một chiếc khăn, là nỗi thèm thuồng của cô bé mỗi khi cha cô lấy con dao nhíp nạo một miếng nhỏ cho bé, đôi mắt bé sáng lên như muốn nói cha cho thêm tí nữa… Sau đó cô bé liếm ngấu nghiến những đầu ngón tay một cách tiếc nuối. Vậy mà giờ đây cô sở hữu nguyên cả một miếng thật to, chỉ riêng cho mình cô thôi!
– Đừng ăn hết một lần con ạ, cha bảo cô bé.
Ôi không, đẹp quá, ngon tuyệt quá, phải kéo dài niềm hạnh phúc này càng lâu càng tốt. Mở khăn tay ra và rón rén liếm cục đường nhiều lần trong ngày thật vui thích biết bao! Cô bé nóng lòng chờ đợi cho hết ngày lễ để kể về món quà của mình cho cô giáo, một người dạy học biết rất nhiều câu chuyện tuyệt vời.
Và rồi khi cô giáo vừa cười vừa hỏi bọn trẻ về kỳ nghỉ lễ của chúng, thì Sylvie là người rất nóng lòng nên đã lên tiếng trước, cô bé có rất nhiều điều để kể. Chiếc đèn lồng trong đêm, chiếc khăn tay trắng xanh, miếng đường… Nhưng, đến khi cô kể xong câu chuyện và im tiếng thì tất cả bạn bè cô bé trở nên im lặng một cách kỳ lạ.
Ở ngôi làng miền núi này, nơi mà sự nghèo đói, thậm chí khốn khổ, đã càn quét toàn vùng, thì chỉ có Sylvie được Ông già Noel đến thăm vào ngày 25 tháng 12. Những đôi guốc của bạn bè cô bé vẫn trống rỗng một cách đáng thương trước lò sưởi.
– Có lẽ chúng ta không ngoan như lời ông Nô En dặn dò rồi, cô bé Marie thốt lên một cách buồn bã.
Trên bục giảng, nụ cười cô giáo bỗng trở nên héo hắt và đôi mắt cô đẫm lệ.
*
Tôi cũng nhìn thấy đôi mắt của Sylvie ướt đẫm khi bà vừa kể cho tôi nghe ngày ấy niềm hạnh phúc của bà bỗng chốc tan biến khi nhận thấy nỗi buồn của các bạn trong lớp, những người khốn khổ mà ông Nô En đã quên ghé nhà chúng.
Ôi bài học về cuộc đời mà bà Ngoại đã truyền cho tôi qua câu chuyện trên thật quý hóa biết dường nào!
Bà có biết chăng món quà Giáng Sinh mà bà vừa ban tặng cho tôi mang ý nghĩa như thế nào đối với tôi không?
Con xin dâng tặng câu chuyện này cho bà ngoại S. của con, đã kể cho con nghe về lễ Giáng Sinh của bà thời thơ ấu, năm 1900.
– Mone Dompnier -tháilan dịch
Trang Đặc Biệt VTLV MỪNG THANKSGIVING 2024 – KQ LÊ VĂN HẢI. CÁC SÁNG TÁC: Yên Sơn – Đông Ry Nguyễn – Đỗ Dung – Cao Mỵ Nhân – Kiều Mỹ Duyên – Phương Hoa – Mỹ Hoàn – Thái Nữ Lan – Minh Thúy. Trang Nhà Thân Hữu: Long Hồ Vĩnh Long
VĂN THƠ LẠC VIỆT CHÚC MỪNG MÙA LỄ TẠ ƠN
Trong Tình Yêu Thương,
Đại diện Gia Đình Văn Thơ Lạc Việt,
Xin Thân Kính Chúc Quý Hội Viên, Quý Anh Chị Văn Thi Hữu, Quý Bạn Bè, Thân Hữu và toàn thể Quý Quyến,
Một Mùa Lễ Tạ Ơn đầy ơn phước lành tuôn đổ từ Trời Cao, Vui Vẻ, Mạnh Khỏe, Hạnh Phúc, Thành Công, đạt được mọi ước muốn trong cuộc sống!
Tạ Ơn Trời, Tạ Ơn Đời, Tạ Ơn Người!
Happy Thanksgiving 2024!
Thật là quý báu, sau 75, chỉ còn vài tháng nữa, là nửa thế kỷ! mất Quê Hương, là chúng ta mất hết! nhưng cám ơn Trời, chúng ta…vẫn còn có nhau! Cùng có duyên gặp gỡ, để chung tay hoạt động trên 30 năm nay! bồi đắp, giữ gìn Tiếng Mẹ. Tình này thật là ơn phước! Không gì có thể đánh đổi được! Nhất là thời gian gần đây, Hội có những hoạt động rất ý nghĩa, sôi nổi và rất thành công! thêm nhiều thành viên! Những thành quả đạt được, là nhờ chúng ta chung một tấm lòng!
Một lần nữa xin được gởi lời Cảm Tạ đến với tất cả Quý Vị.
VTLV Không Quân Lê Văn Hải
TẠ ƠN TRỜI TẠ ƠN NGƯỜI
Tạ ơn đất
Tạ ơn trời
Tạ ơn cha mẹ một đời nuôi con
Tạ ơn em tấm lòng son
Tạ ơn bằng hữu vẹn toàn trước sau
Tạ ơn cuộc sống nhiệm mầu
Đã ban hạnh phúc khổ đau kiếp người
Dẫu là nước mắt, niềm vui
Thành tâm nhận lấy ơn đời cưu mang
Mai sau địa ngục, thiên đàng
Nguyền xin trở lại trần gian đáp đền!
-Chàng Đông Ry Nguyễn.
***
Thanksgiving Day
*
Gia đình mừng Lễ Tạ Ơn
Vui vầy sum họp biết ơn Hoa Kỳ
Nương thân xứ sở nhất, nhì
An cư lạc nghiệp còn gì sánh so
Sống trong không khí tự do
Việc làm ổn định hết lo cuộc đời
Đường đi hoa nở sáng ngời
Đêm nay hội tụ vui vời hát ca
Rượu nho, bánh trái, nướng gà
Tạ ơn nước Mỹ chúng ta quây quần
Tạ ơn trời đất thánh thần
Chúng con được hưởng vô ngần “Tạ Ơn “
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 11/28/2024
TẠ ƠN
Tạ ơn đời cho tôi cuộc sống
Tạ ơn người cho tôi tình thương
Tạ ơn cha mẹTạ ơn quê hương…
và tạ ơn những người thân thuộc
Yên Sơn
CHÚC MỪNG DẠ TIỆC TẠ ƠN KHÔNG GIAN HỘI NGỘ
Chúc mừng “Hội Ngộ” thăng hoa
“Tạ Ơn” buổi lễ cả nhà Không Quân
Về đây bốn bể họp quần
Nâng ly giữ vững tinh thần cùng nhau
*
Người đến trước kẻ đến sau
Áo bay nón kết đượm màu oai phong
“Dạ Tiệc Không Gian” bềnh bồng
Dưới cờ Tổ Quốc cả phòng rộn vui
*
Nhớ xưa lòng những ngậm ngùi
Đại bàng tung cánh khắp trời Việt Nam
Khách xem cảm động vô vàn
Giữa phòng để trống 1 bàn vinh danh
*
Những “Cánh Bằng” đã hy sinh
Mời về tham dự tâm tình với nghe!
“Không Bỏ Anh Em, Bạn Bè”
Dù bao nguy hiểm cận kề đỡ nâng
*
Yêu Tổ Quốc, thời “Trấn Không”
Chàng Pilot quý trong lòng dân Nam.
Dù nay bình vỡ gương tan
Tấm gương anh dũng lừng vang một thời
*
Đại Bàng xếp cánh buồn ơi!
Sử xanh ghi chép cuộc đời thăng hoa
“KHÔNG LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA”
Con yêu Tổ Quốc nhà nhà tri ân.
*
Phương Hoa – NOV 24,2024
MỪNG LỄ TẠ ƠN
MỪNG LỄ TẠ ƠN kính chút quà
MỪNG bao Tiệc Lớn xứ Cờ Hoa
MỪNG mong hạnh phúc vô đầy cửa
MỪNG ước bình an đến ngập nhà
MỪNG chữ Ông Cha lan biển rộng
MỪNG văn hóa Việt trải trời xa
MỪNG chung LẠC VIỆT VĂN THƠ tỏa
MỪNG LỄ TẠ ƠN kính chút quà.
Phương Hoa – Thanksgiving, 2024
VĂN:Muà Lễ Tạ Ơn
Đỗ Dung
Bước sang Tháng Mười Một, trời miền bắc Cali bắt đầu trở lạnh. Gần 10 giờ sáng mà ông mặt trời vẫn còn như ngủ muộn, chưa chịu chui ra khỏi những tảng mây xám và màn sương như trải tấm lụa mỏng che phủ cảnh vật. Không gian ủ ê, xám buồn. Cali mới chớm thu, lá còn xanh. Qua internet gần như khắp nơi, đặc biệt ở Canada và bên miền đông Hoa Kỳ lá đã đổi mầu. Thiên nhiên đẹp như tranh vẽ với màu sắc tươi sáng hài hòa, những rặng cây đỏ thắm, vàng tươi, vàng mơ đua nhau khoe sắc. Lá vàng, lá đỏ rụng xuống dệt thành những tấm thảm dầy bao phủ mặt đất, thỉnh thoảng những chiếc lá khô cũng xào xạc bay theo gió hay vỡ vụn dưới chân. Sắc Thu rực rỡ nên mùa Thu quyến rũ khiến người ta ngất ngây.
Sang Tháng 11 cũng bắt đầu mùa Lễ Tạ Ơn. Theo truyền thống của đại gia đình họ Đỗ chúng tôi, Thanksgiving là ngày “Family Reunion”, tất cả con cháu sẽ tụ tập tại Đỗ Gia Trang từ Thứ Năm đến Chủ Nhật mới chia tay. Năm ngoái, năm 2020, tuy bị nạn dịch Covid-19 ngăn trở, Đỗ Family Reunion vẫn được tiến hành qua Zoom, tuy không được cận kề bên nhau, nhưng chúng tôi vẫn rất nô nức mong chờ.
Nạn dịch kéo dài không biết đến bao giờ mới dứt, thêm những rắc rối, hỗn loạn của mùa bầu cử, ngồi ngoài vườn, ngước lên trời tìm mây, dõi theo những cụm mây xám lờ lững bay mà tôi thở dài. Tôi mong thời gian mau qua để nhìn thấy quê hương thứ hai của tôi trở lại thanh bình, vĩ đại, tốt đẹp như cũ. Hoa Kỳ sẽ lấy lại được sự kính trọng, mơ ước của mọi người trên thế giới. Một “promised land”cho những người đã phải bỏ quê hương mà đi.
Vì nạn dịch, mọi người phải giới hạn những cuộc gặp gỡ, hội họp, nhưng chị em chúng tôi vẫn “zoom meeting” hàng tháng và “face time” với con cháu thường xuyên. Vì ảnh hưởng của TT Trump, dân Mỹ chia rẽ thành hai phe rõ rệt, bên bênh, bên chống, gây ảnh hưởng rất tai hại vào sinh hoạt của các hội đoàn, và ngay cả trong rất nhiều gia đình. Ngày trước bạn bè gặp nhau mừng rỡ, đồng đội xa cách thì thấy nhớ, thấy thương. Bây giờ tự dưng vì bất đồng chính kiến mà sự chia rẽ trầm trọng, ghét bỏ nhau, chửi bới nhau nặng nề hơn cả đối với cựu thù! Vì đâu nên nỗi!? May mắn thay, gia đình chúng tôi không vướng mắc phải cái nạn đau thương đó. Từ thế hệ chúng tôi đến hàng con, hàng cháu đều vì nhớ lời dạy dỗ của cha mẹ tôi là các con phải đoàn kết, thương yêu, đùm bọc nhau và bao giờ cũng phải giữ một cuộc sống có ĐẠO ĐỨC, LƯƠNG TÂM và TRÁCH NHỊÊM nên nếp suy nghĩ tương đối cũng gần giống nhau và không đưa đến bất đồng trong sự lựa chọn Tổng Thống của kỳ bầu cử lần này.
Từ trước 1975, với bầy con 12 đứa, cha mẹ tôi đã ấp ủ có một Đỗ Gia Trang, một dẫy nhà hình chữ U gồm 13 phòng lớn. Ông bà một phòng và mỗi gia đình con một giang sơn nhỏ để khi ông bà về hưu thì gia trang này sẽ là nơi con cháu tụ họp vào những ngày Tết Nguyên Đán, ngày giỗ hay dịp nghỉ hè. Ông sẽ cầm cây gậy chỉ huy của Ông để chỉ huy lũ cháu chắt. Cả một gia trang sẽ rộn rã tiếng cười… Cha mẹ chúng tôi đã mua sẵn mấy mẫu đất trên sườn đồi khu Mê Linh, Đà Lạt, trông ngay ra mặt hồ, phong cảnh thật hữu tình, nên thơ để thực hiện giấc mơ đó. Nhưng ai ngờ, đến ngày 30 Tháng Tư 1975 oan nghiệt! Tất cả các mộng ước của ông bà đều vỡ tan. Nhà đã vẽ nhưng chưa kịp xây thì cha tôi, một sĩ quan cấp tá của Quân Đội VNCH đã phải khăn gói đi tù cải tạo. Hơn mười năm cha tôi đã nhục nhằn trong vòng khổ ải từ trại Long Giao trong nam đến Hà Sơn Bình ngoài bắc, đến khi được ra tù thì đã sức tàn, lực kiệt.
Mẹ tôi rất giỏi dang, chịu thương chịu khó, cả đời buôn bán chắt chiu, cùng với cha tôi gây dựng cơ nghiệp và nuôi dậy cho anh chị em chúng tôi được nên người. Sau năm 1975, trong khi cha tôi phải đi tù, mẹ tôi đã phải chịu đựng lam lũ để kiếm sống và chăm lo cho các con. Đến năm 1978 nhà mẹ tôi bị đánh tư sản, đồ đạc trong nhà bị kiểm kê, tài sản mất hết! Biết là không sống được với chế độ này, lần lượt mẹ tung các con, từng đứa, từng đứa tìm đường vượt biển, chỉ còn giữ cô út ở nhà với mẹ để chờ bố. Cuối cùng, 11 anh em chúng tôi cũng đoàn tụ trên đất Mỹ, lần lượt lập gia đình và sống rải rác tại hai tiểu bang Texas và Cali.
Mãi đến ngày 20 Tháng Tư năm 1990, một bầy con cháu ra phi trường San Francisco để đón ông bà và dì út từ Việt Nam sang đoàn tụ. Sau bao nhiêu năm chờ đợi, đến tuổi bẩy mươi ông bà mới được gặp đầy đủ các con, thêm dâu rể và mười hai đứa cháu. Tổng cộng nhân số đại gia đình lúc bấy giờ đã lên gần bốn mươi người. Cha mẹ tôi vẫn luôn mong muốn mỗi năm con cháu phải có một ngày họp mặt đông đủ, cả nhà quây quần với nhau như mộng ước của ông bà ngày trước. Từ khi chúng tôi còn nhỏ, anh con trưởng được cha tôi đặc biệt dạy dỗ và khi anh đi du học thì tôi là con gái lớn được ông coi như cái đầu tầu cuả đoàn xe lửa nhiều toa của ông. Quan niệm của cha tôi là anh em, con cháu phải giữ sợi dây liên lạc chặt chẽ và phải sống đoàn kết, thương yêu, đùm bọc nhau.
Chúng tôi quyết định chọn ngày Thanksgiving, dịp mà mọi người đều được nghỉ và có một “long weekend” làm ngày họp mặt hàng năm của đại gia đình. Những năm đầu, chúng tôi đã mướn một ngôi nhà thật lớn ở Lake Tahoe để cùng nhau đoàn tụ, chung sống dưới cùng một mái nhà. Cứ thế, như một truyền thống, không cần nhắc nhở mà cứ sau ngày Halloween là từ già đến trẻ, từ lớn đến bé đều kêu gọi nhau và ríu rít bàn về chương trình ngày “reunion”. Cô em thứ mười quen sinh hoạt Hướng Đạo, được giao vai trò trưởng ban tổ chức. Lịch trình sinh hoạt, thực đơn ăn uống và bảng phân công nhiệm vụ được niêm yết rõ ràng. Ngoại trừ các vị “bô lão”, tất cả mấy chục thành viên từ lớn đến nhỏ đều được giao việc hẳn hoi. Cô em út rất chu đáo trong việc sắp xếp nơi ăn, chốn ở cho tất cả mọi người.
Những năm đầu tiên các cháu còn nhỏ nên dù đông nhưng cả đại gia đình vẫn có thể ở chung trong một căn nhà rộng bẩy hoặc tám phòng. Đám chaú choai choai mỗi đứa một cái “sleeping bag”, nằm ngổn ngang ngoài phòng khách, cười đùa rúc rích với nhau. Cha mẹ tôi rất vui sướng trong những ngày có con cháu sum họp đông đủ.
Tôi vẫn nhớ hình ảnh ông cụ mặc bộ pyjama trắng, đầu tóc bạc phơ ngồi bệ vệ trong chiếc ghế bành bên lò sưởi ngắm ba thế hệ con – cháu – chắt chơi đùa, bà ngồi trên thảm chơi với những đứa bé bò lổm ngổm xung quanh. Ông bà ngắm nhìn con cháu với nụ cười mãn nguyện và hạnh phúc. Ông luôn nhắc nhở con cháu phải nhớ đến cội nguồn và phải nói tiếng Việt với nhau, đứa nào nói tiếng Anh ông vờ như không hiểu để cháu phải nói lại bằng tiếng mẹ đẻ. Tôi nhớ có lần cả đám trẻ đang ngồi chơi, líu lo tiếng Mỹ, ông bác cả ra nhắc to: “Speak Vietnamese only!” thì thằng cháu con của một cô em tôi khi đó mới khoảng mười tuổi đứng ngay lên, tay chỉ vào đám “cousins”: “Người Vịt phải nói tiếng Vịt!” làm cả nhà cười bò, ông cụ quay qua nói với ông anh tôi: “Đúng là ông bác gà tồ!” và phì cười vì bác nhắc cháu mà chính bác lại nói tiếng Anh. “Gà Tồ” là bí danh của ông anh cả khi còn nhỏ.
Cha tôi rất quan tâm về học vấn và luôn nhắc nhở chúng tôi “tiên học lễ, hậu học văn”. Nhà đông con, lại là một bầy nhiều con gái, cha tôi muốn các con của ông phải tốt nghiệp đại học để có thể tự lập về tài chánh, sau này khi lập gia đình không phải quá lệ thuộc vào nhà chồng. Về nghề nghiệp ông cũng cho các con tự do lựa chọn theo ý thích để trong tương lai anh em sẽ họp thành một xã hội nhỏ với đủ ngành nghề hầu có thể hỗ trợ cho nhau. Ông luôn nhắc nhở con cháu là con người phải sống có đạo đức, lương tâm và trách nhiệm. Những lời giảng dậy của ông như in vào tâm trí chúng tôi.
Cứ thế, mỗi năm chúng tôi sống với nhau dưới một mái nhà ba ngày liền tại Lake Tahoe. Ngoài bữa “Thanksgiving Dinner” chính với đầy đủ những món ăn đặc biệt cho ngày lễ: gà tây, thịt nguội, roast beef, khoai nghiền, đậu ve, cranberry sauce, salad, pumkin pie… nhà lúc nào cũng có một nồi phở thật lớn trên bếp và đồ ăn, bánh trái ê hề.
Sau mỗi bữa ăn, anh chị em quây quần quanh chiếc bàn dài chuyện trò, tán dóc như ngày xưa còn bé. Có những năm tuyết trắng xóa, cả nhà ngồi bên lò sưởi bập bùng, ngắm tuyết rơi… không ngờ có ngày mình đã được sống trong cảnh thần tiên như thế.
Đến năm 2014, vì duyên may, cô em út của chúng tôi thấy một toà nhà lớn ở Colfax, miền bắc Cali quảng cáo “on sale”, nhà hai tầng rộng 9,000 square feet, có 15 phòng ngủ với nhà vệ sinh tiện nghi, nhà bếp và phòng ăn rộng rãi thoáng mát chứa được năm đến sáu chục người, toạ lạc trên một khu đất rộng hơn mười mẫu mà ngày trước từng là một “senior – home”. Nghĩ tới Đỗ Gia Trang, nhớ đến nguyện ước của bố, cô Út đã mua và đem hết “saving” ra tân trang thành một căn “vacation home” có một không hai và hãnh diện vẽ bảng “Đỗ Gia Trang” treo ngay lên cổng vào tòa nhà. Thế là từ đó, Đỗ gia Trang- Colfax đã trở thành nơi tụ họp cố định coi như nhà tổ để cứ mỗi muà Thanksgiving là con cháu Đỗ Gia từ khắp mọi nơi lại “tung cánh chim tìm về tổ ấm”.
Theo thời gian cha mẹ tôi lần lượt quy tiên, ông anh cả và một cô em gái cũng đã ra người thiên cổ. Thế nhưng, tre già thì măng mọc, lá vàng rơi thì cây non lại đâm chồi. Mỗi năm lại thêm mấy đứa bé ra đời, Đỗ Family ngày càng thêm đông. Đến nay tổng cộng đã hơn 60 thành viên. Mấy cô em tôi phải vẽ ra một “Family Tree” để mỗi khi gặp nhau lại đem ra làm màn đố vui cho bọn trẻ biết đến liên hệ họ hàng.
Ngày họp mặt Thanksgiving mỗi năm chúng tôi lại nhắc nhở và tri ân ông bà. Ông Bà như tổ tiên của dòng họ Đỗ trên miền đất mới. Nhờ ông bà khuyến khích mà con cháu giữ được ngày truyền thống đáng quý này. Cám ơn đất nước Hoa Kỳ, quê hương thứ hai đã cưu mang chúng tôi và cho chúng tôi cơ hội vươn lên, thành đạt, có một cuộc sống an bình, một tương lai phơi phới. Chúng tôi nhắc đến những người đã khuất, thêm tên thành viên mới. Xem lại những kỷ niệm cũ qua những hình ảnh, video để các người mới gia nhập vào đại gia đình như các cháu dâu, cháu rể và các chắt của ông bà biết về nguồn cội. Ban ngày thì từng nhóm có những sinh hoạt phù hợp với lứa tuổi. Tối đến có màn văn nghệ cho mọi người thi thố tài năng và sau đó lập sòng tại chỗ cho mấy người lớn sát phạt nhau, dù ăn thua chỉ vài chục bạc nhưng lọt sàng xuống nia, ở nhà vui cười, đùa giỡn với nhau chứ không đi cúng cho casino bên ngoài!
Thấm thoắt thế là một năm đã trôi qua, bây giờ đã bước sang Tháng Mười Một của năm 2021 chị em chúng tôi lại bàn nhau cho Thanksgiving năm nay. Chúng mình có rủ nhau về tụ họp ở Đỗ Gia Trang không?
Những người lớn đã chích ngừa Coronavirus đủ ba lần, tất cả đã chích ngừa cúm, chỉ còn trẻ con dưới 12 chưa được chích ngừa SARS-CoV2. Sự đe dọa của Covid khiến mọi người vẫn ngơm ngớp lo lắng, lại thêm những biến thể nguy hiểm của con vi khuẩn khiến còn những ngại ngùng.
Bạn tôi có một ông bác năm nay sinh nhật 110 tuổi vào Tháng Sáu, lúc cơn dịch đã giảm và mọi người đã được chích ngừa đủ hai mũi vaccine, sự đi lại cũng được nới lỏng nên con cháu từ khắp các tiểu bang quyết định cùng về thăm cụ để chúc mừng Đại Thọ. Nào ngờ sau cuộc họp mặt hơn bốn mươi người đó khi về lại nhà thì 12 người bị dương tính với Coronavirus kể cả cụ ông. May mắn là cụ ông bị nhẹ nhất nên chỉ bị cách ly tại nhà còn những người kia phải uống thuốc và sau hai tuần cũng mạnh khỏe và bình phục hoàn toàn. Nghe chuyện cũng ớn quá!
Hơn 4 giờ chiều trời vẫn xám buồn, những vạt nắng vàng hanh còn đi trốn. Tôi ngồi đây bâng khuâng thả hồn về ngày tháng cũ. Nhớ lại những ngày đầu mùa dịch. Khi có lệnh giới nghiêm mọi người phải ở yên trong nhà, không khí thê lương, hoảng sợ bao trùm. Nhìn đâu cũng như thấy những con vi khuẩn lơ lửng bay. Ở trong nhà mà ngày nào tôi cũng lấy Clorox lau chùi cẩn thận từ cái chốt nắm tay cửa đến mặt bàn và hễ cứ ra vào là phải rửa tay thật kỹ bằng thuốc sát trùng.
Sau vài tháng không ra tới cửa nên gần như ai cũng biếng để ý tới dung nhan, tóc tai lởm chởm nửa trắng nửa đen, quần áo lôi thôi, lếch thếch. May là còn phone, còn internet nên bạn bè vẫn còn liên lạc tán dóc với nhau. Một ngày tôi còn cuộn mình trong chăn, giường gối còn bừa bộn ngổn ngang thì một bà bạn bên Texas gọi phone, chả biết sao đụng nhầm nút facetime, cả hai đứa cùng rú lên rồi cười khanh khách khi thấy hai mụ già đối diện nhau… hahaha… tao nhìn mày tao mới thấy tao! Sao mình già thế!
Cô con gái phone hẹn sang đưa mẹ mấy cái khẩu trang đẹp mà một người bạn mới tặng, vài món thịt cá và rau tươi mới đi chợ về, vừa mở cửa ra cô đã thốt lên:
_ Sao tóc mẹ bạc phơ thế, mẹ ăn mặc bê bối quá trông mẹ già sộc hẳn đi. Mẹ chịu khó nhuộm tóc, ăn mặc đàng hoàng như mọi khi đi.
Vào tự nhìn mình trong gương cũng thấy dung nhan sầu thảm thật. Mình tự nghĩ cả ngày ở nhà có đi đâu mà phải sửa soạn, quanh qua nhìn lại cũng chỉ có hai ông bà già nhìn nhau.
Thằng con Út mới khôi hài, cháu mới ra trường đang tìm việc làm, text cho cả nhà khoe hôm nay interview online, nửa trên bảnh chọe còn khi đứng lên thì nửa dưới chàng vẫn để nguyên cái quần xà lỏn!
Ngoài những điều không vui về muà dịch cũng có những khía cạnh lạc quan. Gia đình gần gũi nhau hơn, có nhiều thì giờ với nhau hơn, có những bữa cơm gia đình cả nhà quây quần và mấy bà mẹ trẻ chịu khó nấu nướng hơn. Bọn già chúng tôi thì bầy nhau ủ giá, tráng bánh cuốn, đổ bánh xèo, làm bánh dầy, bánh rợm… Con cháu không dám sang nhà ông bà thì bà chỉ gọi cho biết rồi nói sang nhà bà lấy, bà để sẵn trước cửa.
+++
Hai ngày vừa qua mưa gió lê thê. Hôm nay bầu trời sáng, những vạt nắng vàng hanh bao phủ cảnh vật đem tươi vui đến muôn loài, tôi khoác chiếc áo len mỏng ra sân sau hưởng chút nắng ấm. Dạo này buổi sáng tôi thường nghe một buổi nói chuyện của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc hoặc một buổi pháp thoại của Thầy Pháp Hòa, tôi thấy tâm thật thanh thản an bình. Tôi nhớ nhiều đến những lời dặn dò của cha tôi khi chúng tôi mới lớn “ Hãy là một viên gạch tốt. Mỗi đơn vị gia đình của các con hãy cố gắng là một viên gạch tốt, tất cả đều là gạch tốt thì xã hội, quốc gia sẽ là một ngôi nhà vững bền, đẹp đẽ, hoàn hảo”
Tôi nhớ, thật nhớ đến những ngày Thanksgiving tụ họp đại gia đình. Ước mong sao năm nay chúng tôi có thể tụ về đông vui được như những năm trước. Từng khuôn mặt các em, các con, các cháu hiện lên rõ nét. Cô em thứ mười của tôi với chương trình “Ước Mơ Việt” nếu gặp được các cháu, học trò của bà trẻ bằng xương bằng thịt mà khảo bài thay vì qua zoom thì vui biết mấy. Cô em thứ tám đang vui với buổi văn nghệ “Muà Thu Cho Em” thành công rực rỡ dù nạn dịch chưa hết có thể gặp chị em mà kể những kỷ niệm đằng sau hậu trường thì chị em lại ríu rít với nhau. Chồng của cô em kế tiếp tôi, chủ tịch Hội CVA miền bắc Cali cũng đang vui với sự thành công của ĐHCVA toàn cầu năm nay được tổ chức tại San Jose có dịp chia sẻ niềm vui trực tiếp với cả đại gia đình…
Thanksgiving là mở đầu cho mùa lễ hội, mùa của tình yêu thương và sự chia sẻ. Xin mọi người hãy dừng lại, hãy nhìn vào bản thiện và lòng nhân trong mỗi chúng ta để khép lại những hỉ nộ ái ố của năm, tháng vừa qua. Hãy hàn gắn những rạn nứt trong tình cảm gia đình, bạn bè… nếu đã lỡ xảy ra, trước khi quá muộn. Hãy cùng người thân hưởng thụ một mùa lễ Tạ Ơn thật đúng nghĩa dù vẫn còn trong hoàn cảnh khó khăn vì đại dịch. Happy Thanksgiving đến tất cả mọi người, mọi nhà!
Đỗ Dung
Thanksgiving 2021
*****************
THƠ TẠ ƠN – CAO MỴ NHÂN
TẠ ƠN VIỄN XỨ. CAO MỴ NHÂN
Tạ ơn nước Mỹ bao la
Từ khi rời bỏ sơn hà tới đây
Đại bàng xoải cánh mây bay
Cú kêu vang nối đông tây địa cầu
*
Tạ ơn U S muôn mầu
Đã trang trải nỗi muộn sầu lưu vong
Đất này quá rộng mênh mông
Nhìn lên cao ngất cõi không bạt ngàn
*
Nửa vòng thiên hạ gian nan
Cho ta thấy được thiên san vạn trùng
Tạ ơn tất cả vô cùng
Xa xôi hồn lạc bão bùng khí thiêng
*
Nơi này dạ ấm lòng yên
Muôn dân vạn sắc ưu phiền tạm quên
Tạ ơn người muốn gọi tên
Bốn phương hoa nở êm đềm viễn cư …
Hawthorne 18 – 11 – 2024 CAO MỴ NHÂN
**
CHÀO LỄ TẠ ƠN. CAO MỴ NHÂN
Mười lăm năm ấy bên trời
Tạ ơn người, tạ ơn đời mênh mông
Như hoa cỏ nội hương đồng
Khi bình minh toả rạng đông chan hoà
*
Mười lăm năm ấy chúng ta
Gian truân cũng có, hoan ca cũng từng
Tạ ơn nhân ái, vui mừng
Đã qua vấn nạn, không dừng tiến lên
*
Mười lăm năm ấy luân phiên
Mồ hôi nước mắt đôi phen khóc cười
Tạ ơn tình nghĩa bao lời
Tạ tình tri kỷ, tuyệt vời tri âm
*
Mười lăm năm ấy tha nhân
Bỗng thân thương tựa cố nhân đi về
Tạ lòng bóng ngựa, nồi kê
Giấc công danh đã não nề, xôn xao
*
Tạ ơn năm tháng mời nhau
Hoàng hoa cạn chén gạt sầu muộn xưa
Mười lăm năm sớm hay trưa
Đời sau kiếp trước tưởng chưa muộn màng …
CAO MỴ NHÂN
**
TẠ ƠN THƯỢNG ĐẾ. CAO MỴ NHÂN
Tạ ơn trời rộng mênh mông
Tạ ơn đất nở hoa lòng bao la
Tạ ơn thế giới chúng ta
Vẫn đang tồn tại gần xa nhân loài
*
Tạ ơn tháng kéo ngày dài
Cho năm nhuận sắc tương lai duy trì
Không còn sáng ở, chiều đi
Phút giây huyễn cảm từ ly cõi này
*
Tạ ơn nối kết xưa nay
Bao nhiêu thế hệ đắm say yêu đời
Tạ ơn đất nước tuyệt vời
Còn trong tư tưởng những người Việt Nam
*
Tạ ơn xứ sở bình an
Lưu dân tránh cảnh điêu tàn suy vong
Tạ ơn dĩ vãng kiêu hùng
Làm nền cho thực tại vùng vẫy lên … CAO MỴ NHÂN
**
TẠ ƠN MỘNG MỊ BÊN TRỜI. CAO MỴ NHÂN
Tạ ơn chim hót trên cành
Bướm bay trước ngõ, hoa thanh sắc chào
Tạ ơn mây lượn nơi cao
Cùng em say đắm lối vào thiên thai
*
Tạ ơn đồng rộng, sông dài
Rừng sâu, núi thẳm, đất đai bên nhà
Tạ ơn trời trải bao la
Bao nhiêu tình mộng đem ra tặng đời
*
Tạ ơn anh bát ngát lời
Miên man mộng mị, tuyệt vời nhớ nhung
Tạ ơn năm tháng chờ trông
Xuân thu ấm áp, hạ đông nồng nàn
*
Tạ ơn, ôi rất vô vàn
Thân thương kính trọng quan san, cận kề
Tưởng là cách biệt sơn khê
Thưa không, yêu mến si mê vô cùng … CAO MỴ NHÂN
**
Bữa Tiệc Gà Tây Của Người Đãi Vàng
Truyện Phương Hoa
Hằng năm tới mùa lễ Tạ Ơn, khi nào các siêu thị Mỹ bán gà Tây giá rẻ đặc biệt thì thế nào tôi cũng đến bê về một con. Những ngày sale ấy phải nói là giá rất rẻ, chỉ chưa tới 30 xu một cân Anh, trong khi ngày thường cũng phải đến mấy đồng. Năm nào tôi cũng nướng một con to vừa phải rồi kêu mấy đứa con dẫn tụi nhóc cháu về cùng chung vui. Nhưng năm đó mấy đứa con báo trước là không về trong ngày Lễ Tạ Ợn được vì anh chị em chúng nó rủ nhau đi vacation nên tôi không nướng gà Tây. Tôi chờ tới gần ngày lễ mua một con về để lọc thịt làm chả. Chả làm bằng gà Tây cũng dai và thơm ngon không kém gì chả cá, ăn lại không sợ cholesterol dù ăn nhiều vì thịt gà Tây không có mỡ. Tôi thường làm chả gà Tây trộn với chả cá và khi chiên lên ăn không ai biết trong đó có thịt gà.
Hôm ấy đến chợ Safeway tôi vào chỗ tủ lạnh lựa gà. Tôi cố moi móc xốc xổ từ dưới lên trên, lật những con gà nặng trình trịch qua một bên và cuối cùng tôi tìm thấy một con thật bự, bự nhất của đống gà trong tủ, để về lọc cho được nhiều thịt. Mừng quá tôi vừa thò tay định lôi nó lên, thì một bàn tay phụ nữ trắng trẻo mang bộ móng giả thật dài có vẽ trang trí đủ màu lá úa cho mùa lễ Thanksgiving thò vào chộp con gà bự của tôi lên một cái rẹt nhẹ nhàng. Tôi giật mình ngước nhìn người phỏng tay trên con gà của tôi. Thấy tôi nhìn bà vội bỏ xuống:
– Ồ, tôi xin lỗi! Bà ta nói. – Chị đã chọn con gà này hả?
Tôi chợt nhận ra đó là bà Rachel, người bạn Mỹ hàng xóm thường cùng chồng là ông Peter đi câu cá salmon trên sông Yuba vào cuối tuần với vợ chồng tôi. Nhưng họ đi câu cá là phụ, che mắt cảnh sát, còn chuyện chính là lảng vảng ngoài bờ sông để đãi vàng.
– Ô Rachel! Tôi reo lên. – Chị cũng đi mua gà Tây sao? Con gà này lớn nhất trong tủ đấy! Bộ năm này chị định nướng con gà bự này hả? Vậy thì chị hãy lấy đi!
Rachel cũng kêu lên ngạc nhiên khi thấy tôi. Bà chào tôi rồi nói với giọng đầy hào hứng: – Vâng! Năm này tôi phải nướng một con gà thật to để ăn mừng vì chúng tôi vừa…trúng mánh!
– Vậy sao? Tôi kêu lên. – Có phải trúng độc đắc lô tô không?
– No! Tôi trúng… vàng!
– “Are you kidding?” Chị không đùa đấy chứ? Tôi nói mà chân lông dựng cả lên.
Hỏi thì hỏi vậy, chứ tôi tin là Rachel nói thật. Lâu nay vợ chồng bà đã bỏ nhiều thời gian miệt mài đãi vàng kiểu thủ công dọc theo bờ sông Yuba. Sông Yuba là một trong những dòng sông có vàng của California. Nó là một nhánh chính từ sông Feather River, là dòng sông có mỏ vàng rất nổi tiếng, chảy qua thung lũng Sacramento, miền Bắc California.
Sau khi dọn đến thành phố này một thời gian, tôi biết được những dòng sông như Feather River và Yuba River có mỏ vàng rất lớn trên mấy trăm năm tuổi, nên hào hứng tìm hiểu. Tôi đi gom góp thông tin từ các thư viện, bảo tàng địa phương, các chứng tích như máy lọc vàng khổng lồ cũ kỹ hoen rỉ nằm trên công viên thành phố cho du khách ngắm, và từ mạng internet. Tôi được biết, cuối những năm 1840 là thời kỳ cao điểm đào vàng ở California. Những người châu u đầu tiên đến định cư dọc theo bờ sông Yuba này để khai thác mỏ vàng trên sông.
Theo những bậc lão niên thành phố Marysville, thì thuở còn hoang sơ các thợ mỏ vàng đầu tiên đến Yuba hầu hết sử dụng hộp rocker và chảo cạn để đãi vàng từ sỏi của dòng sông này. Dù là những phương pháp đơn giản, họ cũng đã thu được một số lượng lớn tấn vàng, trước khi các dụng cụ máy móc hiện đại xuất hiện. Sau đó phong trào đào vàng phát triển mạnh, các công ty kéo tới máy móc đào bới cả ngày lẫn đêm chở đi không biết bao nhiêu là vàng. Hậu quả của sự đào bới và lọc cát tìm vàng trên sông lâu ngày số cát đất đào lên đã nâng cao đáy sông làm xảy ra nhiều trận lụt lớn tràn ngập cả thành phố Marysville. Chính quyền thành phố đã phải tốn thật nhiều kinh phí xây một con đê dài bao bọc quanh thành phố để chống lụt.
Tuy việc khai thác vàng ở dòng sông Yuba đã dừng từ lâu, ngày nay người đi câu cá salmon trên sông vẫn thường gặp những cá nhân đi kiếm vận may. Họ thường len lỏi theo bờ sông trong những ngày cuối tuần khi mà các cơ quan chính phủ đóng cửa, để đãi vàng, sẽ không bị những người có chức năng tuần tra trên sông “hỏi thăm sức khỏe”. Đặc biệt nhất là sau những cơn lũ lụt, người dân ở đây thường đi dọc hai bên bờ sông để tìm những viên đá vàng bị nước xoáy đẩy trồi lên và tấp vào bờ. Đã từng có nhiều du khách dạo chơi bờ sông Yuba may mắn lượm được những cục vàng “nuggets” rất giá trị.
– Anh chị trúng ở chỗ bờ sông, gần khu rừng chúng ta thường câu cá đấy hả? Trúng đậm không? Tôi hỏi bằng một giọng đầy kích thích.
– Không nhiều lắm! Rachel nói xong cười ha hả một cách vui sướng. Đúng là người Mỹ thật thà, không ích kỷ dấu diếm để dành cho riêng mình. – Nhưng cũng đủ làm một bữa tiệc Tạ Ơn thật oách cho năm này! Chúng tôi đã gặp may, sau cơn lụt nước vừa rút đi là Peter chạy ra bờ sông ngay và “hit” (vớ được) một “nugget” (vàng cục).
– Wow! Thế thì ít nhất nó cũng nặng cỡ mấy ounce rồi còn gì! Chúc mừng chị nhé!
– Đó là công lớn của Peter.
– Trời đất ơi! Thích quá! Tôi lại kêu lên, nhưng trong bụng tiếc thầm. Phải chi ngày đó sau cơn lụt chúng tôi chịu khó ra bờ sông đi vòng vòng biết đâu cũng đã “vô mánh” như họ. Thật ra thì tôi cũng đã từng thử đi…tìm vàng đó chứ! Mỗi khi nhà tôi ngồi câu, tôi không đủ kiên nhẫn ngồi yên một chỗ nên thường đi lang thang vào khu rừng thấp dọc bờ sông tìm hoa dại chụp hình. Thấy nhiều người dò dẫm tìm vàng và thỉnh thoảng có người may mắn, tôi cũng xuống mé nước lượm những viên sỏi sáng bóng lóng lánh đem về. Nhưng rồi vác búa ra đập đến chát tay vàng đâu không thấy, chỉ thấy cái cổ tay muốn sụm bà chè, nên đem bỏ chúng vào các chậu hoa. Thấy bà Rachel chăm chú đãi và lâu lâu tìm được chút ít vàng vảy, vài lần tôi cũng hốt một bao nilon cát ở mé nước, nơi có ánh vàng lấp lánh rực rỡ dưới ánh mặt trời, đem về nhà rồi lôi cái nắp nồi ra đãi như đãi gạo sạn, nhưng cũng chỉ thấy toàn là cát với cát. Ông Peter là một cựu chiến binh, bị thương tật chân đi cà thọt, hiện là người giúp đánh chuông cho nhà thờ. Chiều Chúa Nhật nào làm xong việc Chúa ông đều cà nhắt ra bờ sông cùng vợ câu cá và đãi vàng. – Có lẽ nhờ Peter làm việc Chúa nên được Ngài ban phước cho đó! Tôi nói với Rachel.
Trước khi chia tay đi mua các thứ để nướng con gà Tây, Rachel mời tôi nhất định phải đến chung vui tiệc gà Tây “Potluck” tại nhà mẹ bà trong ngày Lễ Tạ Ơn. “Vì hôm đó cũng sẽ có mặt nhiều bạn già của mẹ tôi cho chị tha hồ mà tìm kiếm thông tin để viết, và nếu chị muốn hỏi kỹ Peter về…cục vàng ông nhặt được.” Bà nói và cười vui vẻ.
Tôi thật cảm động. Rachek biết tôi thường gom góp những câu chuyện và thông tin cho việc viết lách. Vợ chồng bà đã đọc những tác phẩm của tôi đăng trên Việt Báo được tôi dịch ra tiếng Anh, như bài “Bảo Tàng Của Người Chiến Sĩ Bị Bỏ Quên” đăng trên trang nhà của Viện Bảo Tàng Chiến Tranh Việt Nam Marysville, và mấy bài khác viết về những người bạn Mỹ của chúng tôi. Vợ chồng tôi cũng quen thân bà Macey mẹ của Rachel. Bà sống một mình trong căn nhà di động ở “Mobile Home Park” rất gần nhà tôi, và tôi thường đem đến chia xẻ các món ăn Việt Nam mỗi lần có vợ chồng con gái Rachel đến thăm mẹ.
Vì năm này nhà tôi không tổ chức mừng lễ, nên tôi nhận lời bà Rachel. Buổi chiều ngày Lễ Tạ Ơn tôi làm một khay chả giò năm chục cuốn, “món ruột” của tôi mỗi khi đi dự tiệc cùng những người bạn Mỹ ở đây. Ai nấy đều thích cái món ăn béo ngậy giòn rụm này, riết rồi chúng tôi “nổi tiếng” trong thành phố, đi đâu gặp người quen họ đều chào, “Hey! Eggroll friends!” Chào các bạn chả giò! Có nhiều người tuổi nhỏ hơn nhà tôi, mà họ gọi chúng tôi là, “Eggroll kids” Những đứa nhỏ chả giò! Làm chúng tôi chỉ biết cười trừ.
Căn Mobile Home có ba phòng ngủ nhỏ, nhưng phòng khách tương đối khá rộng rãi. Vợ chồng tôi đến hơi sớm. Rachel chạy ra tiếp khay chả giò trên tay tôi, miệng trầm trồ không ngớt:
– Wow! Wow! Eggrolls của chị thơm quá! Tôi ăn mà nhớ hoài! Cho tôi thử trước một cái nhé! Xin lỗi, tôi không chờ được! Nói xong bà nhón một cái vừa cắn vừa bưng đem để trên bàn.
Lát sau bạn bè của gia đình lần lượt đến, mỗi người mang theo một khay thức ăn. Tiệc “Potluck” hổn hợp của người Mỹ vậy mà hay. Để đỡ cực nhọc cho một người, thực khách mang tới mỗi người một món khác nhau là đầy đủ và đa dạng. Không có món nào giống nhau, có lẽ người ta đã nói trước với gia chủ.
Bà Macey giới thiệu chúng tôi với ông Tom Mỹ Trắng, là cựu chiến binh Việt Nam ngày trước, cũng là bạn của người chồng quá cố của bà. Hai chị em bà Mỹ Kathy và Kallen ở nhà bên cạnh. Ông Richard cũng là hàng xóm, đến sau cùng mang theo khay thịt Ham hun khói được hầm nhừ với đậu và cần tây trông vô cùng hấp dẫn.
Bà Macey tuy sức khỏe không được tốt phải mang ống thở oxy dây nhợ nhùng nhằng kéo theo sau mỗi bước chân, bà vẫn ăn diện thật đẹp đúng phong cách người Mỹ “chết cũng phải nhìn cho đẹp.” Chiếc áo đầm dài của bà rực rỡ với màu đỏ lá phong lấp lánh kim tuyến mùa Tạ Ơn. Trang sức trên người cũng phù hợp với chiếc áo đầm làm cho bà nhìn rất trang nhã. Bà đi đứng khó khăn, phải dùng chiếc xe đẩy mỗi khi di chuyển.
Rachel cùng phụ chồng nướng con gà Tây, món chính họ làm hôm nay cùng vài món rau củ. Bữa tối của Lễ Tạ Ơn là sự kiện ăn uống lớn nhất của người Mỹ, chuẩn bị nấu nướng rất vất vả, nên mấy ông chồng, nhất là mấy ông ở tỉnh lẻ, đều ra tay giúp vợ lãnh phần trong bếp.
Khi gà Tây sắp chín, ông Peter “đuổi” vợ ra phòng ăn để chuẩn bị các thứ. Tôi để ông xã ngồi tán chuyện với ông Tom cựu chiến binh Việt Nam, còn tôi đến phụ giúp Rachel bày bàn.
Phải nói là từ trước tới nay tôi từng dự nhiều bữa tiệc tối Lễ Tạ Ơn, của gia đình, bạn bè Việt và cả bạn bè Mỹ, nhưng bữa tiệc hôm nay là tiệc “Potluck” nên đã quy tụ thật đầy đủ các món ăn truyền thống cho ngày này. Thịt heo hun khói Ham, bánh mì tròn, bột khoai tây trộn bơ, trái ô liu chua, nước sốt cranberry, kem măng tây, bắp trái với cà rốt nướng, bánh bí ngô và bánh táo… còn rất nhiều món salad và rau trộn khác, chưa kể món chả giò Á Châu của chúng tôi!
Ngày xưa bà Macey từng là một người sành điệu, nên nhà bà có đầy đủ các đồ vật trang trí bàn tiệc cho ngày lễ. Từ khăn trải bàn, đĩa muổng, hoa khô, đèn cầy, những chiếc nơ để gắn lên cổ các chai rượu vang…đều đồng nhất một màu vàng đỏ có hình lá phong. Bà kêu con gái Rachel đi mở tủ lấy ra xấp khăn ăn có hoa văn gà tây đem ra để cuộn muổng nỉa vào bên trong rồi đặt lên những chiếc đĩa ăn to tướng.
– Tôi có thể giúp gấp số khăn ăn này thành những con gà Tây cho phù hợp với buổi lễ và những vật dụng trên bàn không?
Tôi nói với Rachel, vì chợt nhớ lại những con gà tây bằng khăn giấy tôi thường dạy đám học trò nhỏ của tôi xếp khi còn đi dạy.
– Tuyệt vời! Bà Rachel nói với nét mặt rạng rỡ. – Chị biết không? Mẹ tôi rất yêu sự trang trí xứng hợp trong ngày lễ. Bà sẽ vui lắm khi thấy đám gà Tây nằm trên những cái đĩa này. Mỗi mùa lễ mẹ tôi đều có một bộ bát đĩa và vật trang trí đặc biệt trên bàn ăn khi đãi tiệc bạn bè. Nhưng nhiều năm rồi mẹ không còn khỏe để chuẩn bị một bữa tiệc linh đình. Chúng tôi đã về hưu, tiền bạc eo hẹp cố định nên lâu nay cũng không thể tổ chức Lễ Tạ Ơn nào cho ra hồn. Đây là dịp may cho chúng tôi làm buổi tiệc này giúp mẹ vui.
Khi ông Peter khệ nệ bê con gà Tây ra bàn thì mọi thứ đã được tôi và Rachel sắp xếp đâu vào đấy. Mọi người trầm trồ liền miệng, vì thấy con gà Tây to quá cỡ bụng nhồi căng cứng được phủ kín bằng những lát thịt ba chỉ mỏng tanh lớn bằng hai ngón tay, đan lồng vào nhau như một tấm phên tre, được nướng chín vàng lườm và chảy hết mỡ. Chỉ nhìn thôi cũng biết là những miếng thịt ba chỉ này khi bỏ vào miệng chúng sẽ giòn rụm và béo ngậy. Những nhành lá thơm Rosemary chín vàng trang trí trên đĩa gà tỏa hương thơm ngát. Và vô số trái cà nút đủ màu đỏ, tím, vàng, nằm xung quanh đĩa nhìn như chú gà đang ấp những quả trứng màu trông hấp dẫn vô cùng. Quả thật ông Peter nướng và trình bày con gà tây chuyên nghiệp còn hơn cả nhà hàng.
Bà Macey nét mặt không dấu vẻ hân hoan và hãnh diện khi thấy thành quả của chàng rể. Xoay qua những con “gà tây khăn ăn” được tôi gấp thành với đầy đủ mũi mỏ, cặp mắt xanh đen, và bộ cánh với cái đuôi xòe to tròn nằm kiểu ấp trứng bên cạnh bộ dao nỉa sáng choang, bà đưa tay đè lên ngực và nói với vẻ xúc động:
– Oh My God! Trời ơi! Đẹp quá! Tay nghề của chị thật tuyệt vời!
Tôi thấy hạnh phúc vì đã làm được một chuyện, dù là nhỏ xíu, cho bà Macey vui. Sức khỏe bà trông yếu quá, mỗi khi bà nói sợi dây oxy nơi mũi bà giật giật như thể báo hiệu bà là sắp hụt hơi. Vậy mà bà đã vui vẻ nói chuyện liên tục suốt buổi tiệc.
Ông Peter mời khách vào bàn và dùng dao cắt từng lát thịt lớn bỏ vào mỗi chiếc đĩa. Ông khui chai rượu vang đỏ rót cho mỗi người một ly, xong nâng ly chúc mừng lễ Tạ Ơn đến tất cả và mời nhập tiệc. Chưa ai đụng đến miếng thịt gà, vì món chả giò Việt Nam của tôi đã được họ “mở hàng” chiếu cố đầu tiên. Nhìn quanh bàn tiệc, tôi rất vui vì thấy đĩa của ai cũng có từ một đến hai cuốn chả giò. Rượu vào có chút hơi men, mọi người bắt đầu tán chuyện.
Giữa tiếng nhai chả giò giòn rụm của mọi người, ông Tom đột nhiên lên tiếng:
– Món chả giò tuyệt quá! Ăn chung với thịt gà Tây và trái ô liu chua thật là hoàn hảo. Ông cười lớn và đùa: – Từ nay chúng ta phải thêm món eggrolls này vào thực đơn các món phụ truyền thống của bữa tiệc gà Tây trong Lễ Tạ Ơn mới được!
– Ngày nay, với đà phát triển văn minh của xã hội, chúng ta đã bị làm hư, (spoiled) vì thứ gì cũng có thể mua dễ dàng ngoài chợ. Bà Macey nói. – Nhớ lại hồi tôi còn nhỏ, mỗi khi đến các ngày lễ là mẹ và bà tôi đều phải tự tay nấu tất cả các thứ. Muốn làm một món gì đó thì phải học và mua tùm lum nguyên liệu. Ngày nay chỉ cần ra chợ là có cả. Tôi đã từng mua loại eggrolls làm sẵn đem về chiên, tuy không ngon như những cuộn eggrolls ở đây, nhưng ăn cũng tạm được.
– Đúng rồi đó mẹ! Peter tán đồng. – Con cũng rất thích món này, hầu hết các nhà hàng của người Á Châu đều có tuy mỗi nơi một kiểu và rất mắc. May mắn là các chợ đều có bán eggrolls làm sẵn, ta chỉ cần mua về rồi tự chiên lấy.
Ai nấy đều đồng ý với Peter.
Đang ăn, ông Tom bỗng xoay qua Peter:
– Hey, Peter! Giờ đến lượt anh chị kể cho mọi người nghe về chuyện nhặt được vàng đi. Nhiều năm qua chúng ta chưa có dịp họp nhau trong những ngày lễ lớn. Nhờ chuyện may mắn của các bạn mà hôm nay chúng ta mới có một bữa tiệc vui như vậy.
Peter cười, đưa tay gãi gãi cái đầu hói của anh ta rồi bắt đầu kể về chuyện tìm vàng:
– Hôm đó là buổi chiều sau khi cơn lụt lớn rút đi, từ chỗ trọ tạm di tản theo lệnh của thành phố tôi trở về và đến nhà thờ phụ giúp. Chúa ơi! Mọi thứ bên trong đều bị ướt nhẹp vì nước tràn vào, dù vùng đất nhà thờ ở trên một dải đất cao và nền móng nhà thờ cũng được xây cách mặt đất đến mấy tấc. May mắn là khi mực nước lên cao nhất mới bò vô tới bên trong nhà thờ và nước rút ngay sau đó, nên mọi thứ không bị hư hao nhiều. Phụ cùng mọi người dọn dẹp bùn đất xong, tôi sực nhớ chuyện cũ nên vội vã chạy ra khu vực bên kia sông, gần chỗ đầu cầu. Năm nào sau cơn lũ lụt đều có người ra đây để tìm vận may.
Những lời ông Peter làm tôi nhớ lại. Chỗ đầu cầu gần xa lộ 70 là nơi ông xã và tôi thường ra câu salmon. Đó cũng là nơi vợ chồng bà Rachel câu cá cùng chúng tôi. Hai ông bà sau khi cắm mấy cần câu xuống bờ sông là thường lảng ra xa gần mặt nước dùng tay hốt cát và đãi bằng cái chảo cạn có cái núm sâu chính giữa. Sau khi cả hai đều nghỉ hưu, họ miệt mài tìm kiếm, săn lùng vàng, nhưng cũng chỉ kiếm được chút đỉnh vàng vảy, chẳng được là bao. Hy vọng nhất là mùa mưa, có nhiều người may mắn kiếm được của trời cho từ dòng sông này.
Khi dòng nước lũ từ “sông mẹ” Feather River đổ về mang theo những mảnh vàng đã già hơn 200 năm tuổi, có khi vàng cục hoặc kim cương. Những mảnh vàng này rơi ra từ các mỏ vàng ở khu vực thượng lưu rồi trôi theo dòng lũ về đây tấp vào bờ. Nhiều lúc nghe tin báo đăng có du khách may mắn lượm được vàng ở bờ sông Yuba, Rachel hậm hực, càm ràm, “Tụi mình sống trên mỏ vàng mà tìm hoài chẳng kiếm được món bở nào, trong khi người ta từ xa đến chơi lại gặp may.”
– Khi ấy trời cũng đã gần tối. Ông Peter kể tiếp. – Sau cơn bão lụt không khí càng mờ mịt nhìn không rõ lắm. Lang thang dọc bờ sông một hồi, tôi nhặt được ở chỗ hốc đá một viên đá vấy bùn nhem nhuốc mà sức nặng khá lạ thường so với một viên đá cỡ đó, lại có hình thù kỳ dị, nên tôi nhét đại vào túi đem về. Không ngờ sau khi chùi rửa sạch sẽ, tôi thấy cục đá sần sùi hình thù như một quả lê dẹp, lại lấp lánh vàng dưới ánh đèn. Tôi la lên kêu Rachel chạy tới coi. Và suốt đêm đó chúng tôi không ngủ!
Sự nhẫn nại và cố gắng của Peter và Rachel cuối cùng đã có kết quả. Chuyện về mỏ vàng trên sông lại tiếp tục nổ ra trên bàn ăn. Bà Macey và hai chị em bà Kathy, Kallen sống ở thành phố này từ nhỏ. Họ kể về chuyện năm kia sau một cơn lũ lụt, nhiều người dân địa phương đã đãi được vô số vảy vàng nhờ mưa lớn xói mòn đá làm cho vàng tróc ra chảy theo dòng nước. Có người may mắn đã nhặt được một viên kim cương rất to, giá trị cũng gần nửa triệu đô la làm xôn xao cộng đồng một dạo.
Về chuyện “Gold Rush” ngày xưa, bà Macey còn kể nhiều chi tiết thật là lý thú. Bà cho biết tại thành phố nhỏ Marysville này, vùng có mỏ vàng đậm nhất là thung lũng nằm dọc hai bên bờ sông Yuba River, rộng trên hàng chục nghìn mẫu. Nơi đây ngày trước có rất nhiều loài thú hoang dã sinh sống như gà tây, nai, vịt trời, đặc biệt là chim đại bàng sói đầu, một loài chim trong danh sách thú quý kiếm cần bảo vệ. Vùng phía Bắc sông Yuba còn có một loài sư tử núi đã chọn cánh đồng vàng này là nhà. Thời gian đó vì dịch đào vàng phát triển rộng, những người thợ mỏ tìm tới thành phố rất đông, dân số tăng lên vùn vụt. Nhưng sau ba mươi mấy năm đào bới đãi vàng, người ta đã tàn phá môi trường ở đây, gây nên nhiều trận lũ lụt lớn. Khi các mỏ vàng vùng này đã cạn kiệt và có lệnh cấm đào vàng, thì người ta dời đi hết. Dân số ở cái thành phố cổ nhất, nhỏ nhất California này cũng tụt xuống dưới mức mười hai nghìn người, cho đến tận bây giờ.
Bà Macey đột nhiên ngừng nói, vì ngoài trời đổ cơn mưa lớn. Mọi người đang chăm chú mê mãi dõi theo từng lời về “miền đất vàng” của bà bỗng như hụt hẩng. Câu chuyện chấm dứt, cũng là lúc trên bàn tiệc thức ăn gần cạn. Hai chai rượu vang đỏ cũng đã hết sạch. Bánh bí đỏ (Pumpkin Pie) và bánh táo (Apple Pie) được cắt ra.
Mọi người ngồi nhâm nhi bánh ngọt với ánh mắt mơ màng, giữa tiếng mưa rơi rào rào bên cửa sổ. Dường như câu chuyện tìm vàng còn vang vọng bên tai.
– Nếu tối nay mà trời đổ một cơn lũ lụt, ngày mai tôi sẽ là người ra bờ sông sớm nhất!
Ông Tom nói xong cười lớn.
Trước khi chia tay, bà Macey ôm mỗi người khách một cái. Bà quay sang ôm chặt lấy con gái Rachel và chàng rể Peter:
– Mẹ rất cám ơn hai con! Bà nói bằng giọng rưng rưng. – Đây là bữa tiệc Thanksgiving to nhất, vui nhất, hạnh phúc nhất trong cuộc đời của mẹ. Cám ơn Chúa đã ban phước cho chúng ta có được bữa tiệc này! Giá như bây giờ Chúa có gọi mẹ về mẹ cũng sẽ vui lòng.
Lễ Tạ Ơn 2017.
Phương Hoa
THƠ MỸ HOÀN
LỄ TA ƠN NHÀ CHỊ TÔI
( Thơ Họa )
Tháng Mười Một lễ Tạ Ơn về
Khắp nẻo thị thành đến chốn quê
Rộn rã cháu con về khắp lối
Lu bu người chị chạy trăm bề
Gà Tây vàng rụm nhìn sao đã
Bàn tiệc sắc mầu thấy quá mê
Tụ họp cùng cảm lòng nước Mỹ
Chuyện trò êm ấm thật là phê.
Lê Mỹ Hoàn
11/2024
HAI MÙA MƯA NẮNG
Hôm trời mùa hạ còn hong nắng
Cơn sốt hè luẩn quẩn trong ta
Nghe như hoang tưởng hai mùa cũ
Mưa nắng quê nhà đã rất xa
Nghe thổn thức mưa rơi tầm tã
Giọt nước bên hiên tạt ướt hồn
Cơn sốt sao như dòng lệ chảy
Khắp châu thân bì bõm trong ta
Ta ở giữa hai mùa mưa nắng
Nửa ở bên này nửa bên kia
Mưa đã qua thu về không nhỉ
Cơn sốt ta vàng cả sân nhà
Đã có hạt mưa trên khóe mắt
Có sợi buồn rơi xuống chơi vơi
Nắng lại lên soi hồng mái ngói
Con xóm lao xao những nụ cười.
Lê Mỹ Hoàn
10/2024
VĂN: Những Tấm Lòng Vàng
Thái Nữ Lan
Trong cuộc đời của mỗi người, bất kỳ ở nơi nào trên thế giới, từ khi có trí khôn, là ta đã mang nợ và phải biết ơn nhiều người- từ Tổ Tiên Ông Bà, người làm ra hạt gạo nuôi ta, Đấng Sinh Thành, đến những Thầy Cô dẫn dắt ta, các cô chú Thương Phế Binh đã bảo vệ chúng ta bằng chính cuộc đời họ, đến bạn bè, người quản lý và giám đốc nơi ta làm việc, đồng nghiệp… người quen người lạ…tất cả mọi người chung quanh, ta đều mang ơn họ, không nhiều thì ít…- Và riêng đối với những người được định cư ở quê hương thứ hai, ta còn phải mắc nợ thêm bao nhiêu là người nữa- từ chính phủ, những vị tổng thống, từ những vị giúp những chương trình tái định cư -HO, ODP,…đến những vị ân nhân bảo lãnh..v.v…trái tim nhân ái của họ bao la vô cùng… Kể ra tất cả những người làm ơn cho ta sẽ không hết – ở đây tôi chỉ xin đơn cử một vài việc rất gần đối với gia đình tôi, với đất nước Cờ Hoa đầy tình người này-
Sở hữu gia tài do thế hệ cha ông để lại, hoặc tự mình vươn lên bằng đôi tay và khối óc là những điều may mắn mà không phải ai cũng gặp được. Nhưng sử dụng vốn liếng trời cho ấy cho đúng với lương tâm lại là một điều không dễ thực hiện. Bao nhiêu cạm bẫy vật chất, bao nhiêu cảnh đời trong phút chốc lại trắng tay. . . Nếu những người ấy biết dùng sự may mắn để tạo phước đức cho đời này và các thế hệ con cháu, vừa giúp người, vừa giúp mình có một cuộc sống hữu ích, có lẽ cuộc đời sẽ có được bao nhiêu bông hoa. . . Và nơi cần sự giúp đỡ ấy nhất có lẽ là những nhà cứu người được những người có điều kiện và lòng thiện nguyện giúp người góp một bàn tay không nhỏ. Những mảnh đời không may phải mang bệnh tật, nếu không có những tấm lòng nhân ái thì sẽ ra sao? Thời gian gần đây, gia đình tôi đã được tiếp cận và mang ơn những bàn tay ấy đến muôn đời. Cầu xin Ơn Trên gia hộ cho những Tấm Lòng Vàng ấy luôn gặp phước. Xin gởi đến quý vị hai câu chuyện về gia đình của tôi.
***1/- Ở xứ Cờ Hoa, những trái tim ấy đã rải tình thương đi cùng khắp-có những bệnh viện chữa bệnh nan y, bệnh nhân không phải trả bất kỳ một chi phí nào, mà đúng ra rất cao để trang trãi bao nhiêu là điều kiện để có được những cuộc phẫu thuật, phòng ốc, nhân viên. . .Bệnh viện Nhi, nơi cháu tôi vừa mới chào đời, niềm vui chưa trọn thì qua kiểm tra được biết cháu mang căn bệnh rất hiếm ở các bé, khối nước trên não, chỉ xảy ra 0,15% trường hợp. . . Mới được nhìn thấy ánh sáng mặt trời chưa tới một tuần, bé đã phải trải qua phẫu thuật não. Tin như sét đánh! Tại sao? Và tại sao lại là cháu yêu thương của tôi? Bé còn nhỏ quá, sức của bé có thể chịu đựng để vượt qua không? Các bác sĩ với lương tâm nghề nghiệp thật đáng trân trọng vừa muốn cứu chữa bé, vừa muốn học hỏi thêm để đối phó với bao nhiêu căn bệnh nan y khác, hàng ngày đến phòng cháu rất nhiều. . .và trước hôm phẫu thuật, khoảng 20 bác sĩ đến để kiểm tra mắt, tim, phổi. . .mỗi vị chuyên môn về một ngành. Cuộc phẫu thuật kéo dài 9 giờ rưỡi thay vì 6 giờ như dự định. . .Từng phút giây nặng nề trôi qua. . . Nhưng Trời xót thương chúng tôi đã gởi đến cho gia đình chúng tôi những vị có lương tâm và tay nghề rất cao nên mọi việc đã thành công. Giờ đây bé đang hồi sức trong ít lâu, để rồi lại chịu hóa trị, xạ trị. . .Điều làm cho chúng tôi rất ấm lòng trong nỗi đau khôn cùng là ngoài sự giúp đỡ về viện phí của các nhà hảo tâm, còn có bao nhiêu cơ quan đoàn thể đến để giúp ba mẹ cháu làm đơn xin trợ giúp về y tế (Medicaid), trợ giúp về phương tiện đi lại (thẻ để đổ xăng. . . những chi tiết nhỏ trong đời sống hàng ngày. . .), những bữa ăn của bệnh viện cho mẹ cháu. . .và vô vàn những ân cần chăm sóc của những bàn tay thiện nguyện. . .
Nỗi đau khi nhìn thấy bao nhiêu trẻ con nô đùa, tại sao cháu mình lại không được như chúng . . .được vơi đi phần nào khi nhận được tình cảm từ những trái tim yêu thương như thế. . . Cám ơn xứ Tràn Đầy Tình Người Cám ơn những Tấm Lòng Vàng Xin ghi lòng tạc dạ những sự tận tâm của quý vị bác sĩ y tá, nhân viên của bệnh viện Children’s Health, Dallas, Texas Xin đa tạ các Mạnh thường quân- Và ngẫm nghĩ về Đất Mẹ, nơi các đại gia xây mọi thứ bằng vàng, vung tiền không gớm tay. . .thay vì giúp những bệnh nhân khỏi phải đau xót. . . ??!! Mỗi bệnh nhân cho dù vào Cấp Cứu, cũng phải bì thư lớn nhỏ thì mới được chữa trị. . . Tình người của họ ở đâu? Lương Y Như Từ Mẫu. . .đâu rồi? Lời thề Hippocrate . . .: tôi sẽ tránh mọi điều xấu và bất công! Chắc họ không cần biết đến lương tâm và việc để lại phước đức cho con cháu. . . Đau đớn thay!
*** 2/- Lúc gia đình tôi mới được thở không khí tự do ở đất nước yêu thương này- sau nhiều chục năm sống với “Bác và Đảng ta”… đến đây rất trễ, so với nhiều gia đình (sau năm 2000), nhưng vẫn còn may mắn hơn những máu mủ ruột thịt còn đau thương ở Đất Mẹ- có một mùa hè tôi qua Cali thăm Mẹ và các em tôi. Một ngày thật đẹp, đi biển Newport, tôi vốn rất mê những con sóng, mê ánh trăng , hoàng hôn, bình mình trên nền trời cũng như đại dương xanh thẫm…- Mùa hè nên biển rất đông người, tôi đi với gia đình hai em tôi; đến nơi hai em bơi ra xa, còn tôi ở gần bờ hơn, tuy vậy mực nước cũng khá sâu. Nước thật trong mát, nhìn ra xa vài con thuyền hoặc ván lướt sóng của các bạn trẻ làm nước bắn tung tóe thật là đẹp mắt và cảnh vật sao thanh bình quá! Tôi nhắm mắt tận hưởng mùi gió biển, mùi cát mặn, mùi không khí yên bình, vừa thân thương vừa lãng mạn, đất trời bao là đẹp quá… và ước gì ngay bây giờ có một người rất gần gũi đang ở đây, ngay bên tôi, vẫy nước tóe vào nhau như chúng tôi vẫn thích nô đùa như trẻ con mỗi khi ra biển… mơ màng trong niềm vui hư ảo… Bỗng dưng có con sóng thật mạnh, xoáy vào bên dưới lòng nước, cuốn tôi xuống…thật nhanh, tôi không kịp phản ứng, không còn biết mình phải quẩy chân lên hay la cầu cứu, tôi ú ớ không biết làm thế nào vì kêu không ra tiếng… Trong phút giây ấy, hình ảnh bao nhiêu người thân hiện lên trong trí, Cha Mẹ anh chị em, con cháu… ôi chắc tôi không kịp nói lời giã từ… May sao có một chị người Mễ bơi gần đó chạy lên gọi người canh gác bãi biển (safeguard)- người ấy chạy đến ngay và mang tôi lên bờ, làm hô hấp ..và gì nữa… Tôi thiếp đi… khi tỉnh dậy thấy mình nằm trên giường bệnh viện Cấp cứu, lúc đó người em kế tôi đang đứng bên cạnh giường – và kể mọi việc- “…Chỉ một giây nữa thôi, nếu chị người Mễ ấy không nhìn thấy, thì giờ này chị đang nằm trong một hộp sắt của ngăn phòng lạnh, im hơi, cùng với bao nhiêu người khác – được kéo ra kéo vô để em và mọi người nhìn thăm chị, chị ơi…!” Vài ngày sau đó, tôi được về nhà , rồi về lại xứ Cao Bồi Texas của tôi… Nhiều ngày sau, là giấy đòi nợ (bills): #$7,000! Lạy Trời ơi! gia đình tôi qua đây rất trễ – hai con trai lớn trên 21t đã phải du học bên nước Úc – chỉ có hai gái út còn học high school, Bố chúng cũng phải đi cày, phần tôi đi dạy tiếng Pháp và làm thêm 4 jobs part time – thì ngoài những bills hàng tháng cho mọi sinh hoạt, làm sao có được một vài trăm để gởi dần dà cho khoản nợ kếch xù này đây? Trời đất quay cuồng.. (thêm nữa, bên Cali mọi thứ đều đắt đỏ hơn ta nhiều so với xứ sa mạc này) Tôi lo canh cánh trong lòng suốt nhiều ngày- vì mới qua nên không biết rằng ở đây ai cũng phải mắc nợ- từ cô cậu sinh viên cho tới những người có cơ sở làm ăn tiểu thương hoặc đại thương gia- khi nghe người thân và bạn bè cho biết điều ấy, tôi cũng đỡ lo, nhưng cũng phải nghĩ đến việc trả dần món nợ- thế là mỗi tháng gởi tạm bên bệnh viện Newport vài chục, một trăm đồng thời làm đơn để được chứng minh là Thu nhập thấp , mong họ bớt phần nào món nợ ấy . . . Vài tháng trôi qua, tôi đã gởi những giấy tờ cần thiết qua Cali, mà vẫn trả nợ vài phần trăm của số tiền ấy… Đến một ngày- thật là một ngày đẹp trời mùa Xuân- theo như người bản địa các đồng nghiệp thường nói khi họ có một việc rất vui mừng : “You made my day!” Ngày hôm nay tôi thật sự vui mừng quá: đó là ngày nhận được thư của bệnh viện bên Cali, ghi rằng: tôi không còn nợ họ đồng xu cắc bạc nào nữa cả- và lại còn được hoàn trả lại toàn bộ số tiền mà tôi đã chắt chiu hàng tháng để trả nợ- khoảng vài trăm đồng..! Thật sự là Lạy Trời ơi! Thật không ngờ một đất nước quá sức Giàu lòng Nhân Ái, thấu hiểu nhưng nỗi khổ của người “lao động cật lực””- Tình người bao la, thế nên Đất nước họ Giàu Mạnh là phải, vì được Trời thương! Những mẩu chuyện trên đây, có lẽ và chắc chắn đối với những người định cư nơi này rất lâu, hoặc đối với người dân bản xứ là điều bình thường, nhưng đối với gia đình tôi, mới được vớt lên từ hố sâu thẳm của khổ ải với thực tế quá phũ phàng của bên gọi là thắng cuộc, với bao nhiêu là đắng cay tủi nhục- bất kỳ nỗi đau cũng cần phải có bao thơ, thì những sự việc cỏn con này là niềm hạnh phúc vô biên-
Một lần nữa, xin cảm ơn Nước Mỹ, cảm ơn dân Mỹ và chính quyền Mỹ nói chung, và xin cảm ơn những vị ân nhân- Cầu xin Ơn trên luôn ban Bình An đến gia đình họ-
Xin TẠ ƠN TRỜI
—Mùa Tạ Ơn, xứ Cao Bồi Texas-(tháinữlan)- phannữlan
-Nhớ và thương những Mảnh Da Vàng * còn khổ đau trăm bề ở Quế Hương yêu dấu, không còn “Bệnh viện Vì Dân của phu nhân Tổng thống Nguyễn văn Thiệu nữa Xin kính tri ân những vị trong chính quyền, hoặc những vị luôn đau cùng Da Vàng- nhiều lắm… như chị Khúc Minh Thơ-(chị vừa mới được Thượng Viện Quốc Hội bên Cali Vinh Danh ngày 13/10/2024 vừa qua) – cho dù gia đình tôi không theo diện HO, nhưng luôn kính phục chị.– như Trung tá Hạnh Nhơn, Nữ Thiếu Tá Thanh Thủy ( Biệt Đội Trưởng Biệt Đội Thiên Nga)… và nhiều nữa ….
*Tác phẩm của đạo diễn Chu Lynh- Việt Nam Film Club- với bộ Phim Miền Nam Của Tôi (My South Việt Nam)
Hãy tận hưởng những điều nhỏ nhặt, bởi vì biết đâu một ngày nào đó bạn nhìn lại những việc đã qua và nhận ra chúng là những điều vô cùng lớn lao. ROBERT BAULT- TL dich
VĂN: Lễ Cựu Chiến Binh và Lễ Tạ Ơn
Minh Thúy Thành Nội
Tôi thức dậy từ 6 giờ sáng lo những việc cá nhân lẹ làng, sau đó thay bộ áo dài cờ vàng lái xe lên San Jose, đến điểm tập họp trước “parking” của Walmart nằm trên đường Story.
Vì câu nói của em trai Minh Huy trưởng đoàn Hậu Duệ Việt Nam Cộng Hòa, khi Hoa Nguyễn mời, tôi đã ngại ngùng nói ”Chị già rồi không phù hợp với tuổi trẻ, đường xá xa xôi, vấn đề lái xe trở ngại, chỉ có thể đi tham dự hạn chế”. Minh Huy thưa ”Chị ơi! chúng em rất cần ba thế hệ một tấm lòng …”. câu nói lễ phép với cả chân tình của tuổi trẻ đầy tha thiết đã động vào trái tim mình, nên tôi quên mất tuổi già không đủ sức khỏe tốt, vượt đường xa mưa gió góp mặt cùng nhóm hậu duệ đi diễn hành Lễ Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ.
Đến nơi tôi thấy các anh chị của hội AVVA (Hội Ái Hữu Cựu Chiến Sĩ Hoa Kỳ Tham Chiến Tại Việt Nam Chapter 20) tập trung thật đông. Cũng cần nói thêm nhân duyên đưa tôi đến với sinh hoạt của nhóm “Hậu Duệ Việt Nam Cộng Hoà” là từ em Nguyễn Hoa, người năng nỗ sinh hoạt bất cứ việc gì trong Cộng Đồng. Nguyễn Hoa có sinh hoạt chính là “Hội Ái Hữu Cựu Chiến Sĩ Hoa Kỳ Tham Chiến Tại Việt Nam Chapter 201”, (gọi tắt là AVVA). Được biết hội AVVA có sinh hoạt như: Mỗi năm đi thăm hai Quân Y Viện Menlo Park / VA Medical Center, Palo Alto Medical và phát quà thăm hỏi những Thương Bệnh Binh, Cựu Quân Nhân Hoa Kỳ. Vào dịp lễ Memorial Day, hội AVVA tham dự tại Oak Hill Memorial Park, được mời lên đồi danh dự bắn 21 phát súng, sau đó dâng hoa đài tưởng niệm, làm lễ cùng cựu quân nhân Hoa Kỳ. Lễ Veterans Day, hội tham dự diễn hành cầm cờ Mỹ, đoàn Hậu Duệ cầm cờ vàng nối theo. Trước đây hội còn lo công việc chôn cất những người mất không có thân nữa.
Chúng tôi dồn vào những xe trống người, được chở đến khu tập trung của downtown San Jose. Trời mưa lâm râm, sau khi tập họp do em Nguyễn Hoa điều hành dặn dò cách thức, xe các anh chị hội AVVA chở thức ăn sáng, sắp xếp sẵn mỗi bao gồm các thứ bánh mì, xôi cúc, bánh Pateso, chuối, nước lọc phân phát cho mọi người ăn sáng, ngoài ra còn có cà phê nóng nữa.
Sau đó trời đổ mưa lớn nặng hạt, mọi người vào xe ngồi uống cà phê, mùi thơm bốc bay trong xe, các anh nói chuyện ngày trước, chuyện tù cải tạo, chuyện hôm nay, chuyện Cộng Đồng.Tôi dâng lên niềm cảm kích quý mến vì anh nào cũng kê tuổi trên dưới 90, toàn là những người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) năm xưa, dù mưa gió lạnh lẽo họ cũng cố gắng lái xe đến dự. Tôi còn thấy nhà thơ Ngọc Bích (Hội Trưởng hội Người Già), và chị Hương (vợ ông Lê Đình Vọng một thời làm hội trưởng hội Thương Phế Binh tại miền Bắc Cali, nay đã mất). Hai chị thọ lên tới 93 tuổi, là hội viên AVVA, nhưng còn sinh hoạt rất mạnh mẽ trong Cộng Đồng.
Trời mưa tầm tã, mưa ướt quần áo, ướt đôi vớ thấm vào người lạnh run hơn. Các chị em yếu lạnh than thở, còn các anh nét mặt vẫn bình thản, có lẽ họ thấm nồng tình nghĩa những người bạn đồng minh Hoa Kỳ đã tham chiến tại Việt Nam với sự hy sinh vĩ đại, ngày lễ Cựu Chiến Binh này đã sưởi ấm trái tim họ, nên họ không thấy lạnh chăng?!! Họ vẫn nói chuyện, tôi lắng tai nghe trong sự học hỏi, trong niềm thương cảm những người lính VNCH.
Theo dự báo thời tiết thì lúc 2 giờ sẽ tạnh mưa và có nắng lên. Cuộc diễn hành dời giờ xuống trễ. Nhìn em Nguyễn Hoa lãnh đạo việc từ đầu đến cuối, bên hông mang cái máy lớn bỏ nhạc đấu tranh, em cầm cái loa miệng hô tay vẫy tập họp, sắp xếp đội ngũ cầm cờ, chạy lui chạy tới nhanh nhẹn huy động lực lượng diễn hành, đi bên ngoài hô to khẩu hiệu “AVVA – We love Veterans Day”, mở nhạc hát bài “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ.”
Các anh chị hội AVVA cùng hội Hậu Duệ Việt Nam Cộng Hòa chung tay cầm lá Đại Kỳ Hoa Kỳ và lá Đại Kỳ Việt Nam Cộng Hòa, diễn hành qua các đường phố chào lại khán giả hai bên đường đủ sắc dân tươi cười nhìn vẫy tay cổ động. Hai lá cờ thấm nước nặng trĩu nhưng thật hãnh diện được cầm mười người một cờ. Ngang khán đài đồng loạt nghiêng cờ bên phải xuống cúi đầu chào trang trọng. Hình như không còn ai biết lạnh, tất cả đều hát to bài “Cờ Bay” vang lên, những đôi chân mạnh mẽ bước đều trong niềm hân hoan khó tả. Nắng đã vươn lên khắp nơi, nắng chiếu trên mặt đường còn ướt nhẹp nước mưa trơn trợt, những khuôn mặt rạng rỡ, lòng tôi cũng rộn ràng không kém.
Ôi ngày nhắc nhở mọi người đang
Cầu nguyện anh linh dưới suối vàng
Tạc dạ ghi ơn người chiến sĩ
Quên mình góp nghĩa vụ hiên ngang
Hợp Chủng Hoa Kỳ đủ sắc dân
Đi qua đường phố đẹp vô ngần
Trống kèn vang dội quân hành khúc
Lễ Cựu Chiến Binh bước lớp tầng.
MTTN (trích trong bài thơ “Lễ Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ”)
Tới điểm tập trung chờ xe đón về lại nơi tụ họp đầu tiên, Nguyễn Hoa vẫn ở cho đến giờ phút chót khi không còn một ai đứng lại mới yên tâm ra về. Đã xong đâu, về nhà em gom hai lá cờ và các thứ linh tinh giặt sấy liền. Em nhắn qua phôn rằng: đã tắt tiếng, tứ chi nhức mỏi rã rời nhưng tinh thần rất phấn chấn vì vai trò đảm nhiệm thành công tốt đẹp.
Em như trăng sáng gương lồng
Dẫu là phụ nữ má hồng chẳng thua
Đấu tranh ý chí vượt đua
Cháu con Trưng Triệu quyết xua quân tà
Hương thơm bay tỏa dần dà
Hương ngời chính nghĩa bài ca đẹp màn
Lưu vong quyết giữ cờ vàng
Hải ngoại đoàn kết mây ngàn nở hoa.
MTTN (trích trong bài thơ “Nữ Lưu Nguyễn Hoa”)
Còn gì sung sướng hơn khi lá Cờ Vàng được đồng hương tỵ nạn trên toàn thế giới vận động, đã được các nước công nhận vinh danh lá cờ của tự do chính nghĩa. “Ăn cây nào rào cây ấy”, chúng tôi rời bỏ quê hương làm người lưu vong trên đất nước Hoa Kỳ, các anh diện HO lại được Mỹ cứu vớt đem qua, thì không thể nào chúng tôi có thể quên “cái ơn “lớn như thế. Vì vậy hội AVVA được gọi là “Hội Ái Hữu Cựu Chiến Sĩ Hoa Kỳ Tham Chiến Tại Việt Nam Chapter 201” đã thành lập ra đời cũng vì lý do đó. Họ gồm đủ mọi lứa tuổi từ các bác, các cô chú, các anh chị em, đa số là các cựu quân nhân VNCH mang nghĩa cử thân ái cao đẹp, gần gũi cựu chiến sĩ Hoa Kỳ, các bạn đồng minh đã một thời sát cánh chiến đấu nơi trận mạc miền Nam, những cựu quân nhân VNCH muốn sinh hoạt chung bày tỏ lòng biết ơn sâu xa của người Việt Nam. Một sự hy sinh quá lớn, được biết “đã có 2 triệu 700 trăm nghìn lính Mỹ phục vụ tại Việt Nam, gần 60 nghìn hy sinh và hàng trăm nghìn bị thương”. (theo tài liệu Bùi văn Phú Website bbc.com). Hiện nay những người lính Mỹ đã hy sinh nơi chiến trường Việt Nam được khắc tên trên Bức Tường Đá Đen nằm trong National Mall thuộc thủ đô Washington và tượng đài Vietnam Veterans Memorial.
Ra về dầu quần áo còn ướt nhẹp, nhưng mọi người đều mang tâm trạng vui tươi phấn khởi. Thương em Cao Trang (con cựu Thiếu Tá Cao Yết, Giám Học Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt) bị cảm cúm tắt tiếng vẫn lết đi diễn hành. Em là hội phó của Hậu Duệ VNCH từ khi thành lập cho đến giờ, bao nhiêu năm vẫn miệt mài trong đội ngũ cầm cờ vàng tham dự các hội đoàn chống Cộng. Em hiểu chuyện ngày miền Nam mất, hiểu sự tù tội của người cha dài năm, hiểu rõ sự cơ cực của người mẹ lúc cha đi “cải tạo”, và hơn nữa là nếm trải sự đói kém khốn khó của gia đình sau 1975, em thấm được ý nghĩa lá cờ vàng và quyết chung tay gìn giữ lá cờ thân yêu nơi đất khách quê người.Tôi cũng biết thêm em Đặng Nga trong nhóm Hậu Duệ: suốt những năm tháng dài đã ngày đêm miệt mài may khăn choàng cổ mẫu hai lá cờ Việt-Mỹ, tặng tất cả mọi người không kể lạ quen. Tấm lòng của em thể hiện tình yêu quê hương, đặt lá cờ tổ quốc thân yêu trong trái tim ấm áp nuôi dưỡng niềm hy vọng cho ngày mai.
Suốt đêm tôi cứ thao thức mãi, suy nghĩ về những nhân vật đặc biệt một lòng hướng về đất nước thân yêu bên kia bờ đại dương, góp công của trong những sinh hoạt tốt đẹp cho Cộng Đồng, sinh hoạt chung với đất nước Mỹ, và đặc biệt nhất là với những cựu chiến binh Hoa Kỳ. Niềm hạnh phúc dâng lên sau cuộc diễn hành mang ý nghĩa cao cả của đất nước Hoa Kỳ. Quý mến các chú bác HO, anh chị em AVVA và đoàn hậu duệ VNCH kết đoàn đi diễn hành chung. Quý mến các chị nhóm AVVA nhiệt tình lo những món ăn cho mọi người, quan tâm khoác áo mưa hay bao ni lông trùm lên người các em đầy tình thương yêu lo lắng.
Đêm khó ngủ suy nghĩ miên man, lặn hụp trong niềm vui giữa “tình người” thân ái chung hoà, tôi ngồi dậy gỏ phím ghi lại những cảm nghĩ chân thành của buổi Veterans Day Parade.
*
Biết trước sắp đến Lễ Tạ Ơn, nên tôi đi chợ mua sớm thực phẩm về để vào ngăn frozen, nhưng cũng thật vất vả vì chợ nào cũng đông người, nhất là tại cửa hàng Costco. Dù đi ngày trong tuần nhưng người vẫn đông nghẹt, chen chúc đụng nhau đã đành, xếp hàng trả tiền lại mệt hơn vì xe nào xe nấy chất đầy ngập, phải đứng chờ hơi lâu. Tôi đoán hình như họ sợ hết hàng nên lo xa, mua trước cho lễ Noel các thứ bánh kẹo, “Chocolates”, rượu nho, áo quần ấm, còn thức ăn thì khỏi nói đủ thứ. Ai cũng than thở kinh tế xuống, vật giá leo thang đắt đỏ, nhưng sao người mua sắm thế kia?!!! Có lẽ họ quan niệm nhịn lúc nào chứ dịp lễ quan trọng, thiêng liêng trời đất phải cảm tạ, phải vui mừng ăn lễ lớn.
Ba chữ “Lễ Tạ Ơn” của hằng năm lòng tôi không tránh được sự bùi ngùi ôn lại ký ức. Tuổi già hay quên việc hiện tại, nhưng lại nhớ rất rõ quá khứ, hình ảnh lần lượt hiện ra trong đầu óc như mới đâu đây, nhiều vô kể…
Lên năm tuổi, đau suyễn mẹ ẵm tới bác sĩ, y tá dụ chích bằng cách cho những vỏ hộp thuốc, tôi thích thú ôm hết nhưng sau đó vẫn la khóc vì bị chích đau, mẹ ôm vào lòng dỗ dành, hứa trên đường về mua kẹo cho ăn. Lên sáu tuổi mẹ dẫn đi học trường Trần Cao Vân, mỗi sáng đều mua ổ bánh mì chan nước thịt cho tôi ăn. Cha là lính đổi đi làm xa ở tận Quy Nhơn thỉnh thoảng về, những sớm mai trời mưa cũng chở tôi đến trường bằng chiếc xe đạp. Tôi lớn dần theo thời gian bên cạnh người mẹ tảo tần buôn bán nuôi con. Lúc đó tôi thật vô tư, đi học gần thầy cô, gần bạn bè có nhiều niềm vui, chỉ biết thần tượng, tôn thờ cô giáo mình. Cô sai đến nhà ôm phụ chồng sách thì như niềm hãnh diện lớn nhất trong đời, nhanh tay lẹ chân thi hành.
Trở thành thiếu nữ trong thời chiến, mê hình ảnh oai hùng người lính VNCH. Hằng ngày nghe tin anh này mất, anh kia tử trận thấm được nỗi buồn chiến tranh. Có một lần tôi nhớ mãi …bạn bè rủ nhau tới nhà đang có đám tang anh thiếu úy nọ bị tử trận, ba đứa ôm song cửa sổ nhìn vào, thấy chiếc hòm để ánh nến lung linh, gia đình khóc lóc kể lể, chúng tôi nước mắt ràn rụa. Bỗng đâu mẹ của bạn đến thăm đám thắp nhang xong, lúc quay lưng trở ra thấy ba đứa cặp mắt đỏ hoe sưng húp, bà nhẹ nhàng ra dấu đi về. Đến ngõ bà mắng “Tụi bây hết sức nói, ai đời con gái chưa chồng đứng đu cửa sổ khóc như mưa như gió, không sợ người ta nghĩ ba đứa mê anh V hay sao?, chỉ có vợ người ta mới khóc như vậy”. Cả bọn nghe la mới sực nhớ “Ừ, mình vô duyên thật”. Nhưng rồi tôi vẫn khóc lặng lẽ mỗi khi nghe ca sĩ Thanh Lan hát:
Em không nhìn được xác chồng
Anh lên lon giữa hai hàng nến trong
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu
(nhạc Phạm Duy- thơ Lê thị Ý “Tưởng Như Còn Người Yêu”
Đất nước mất, đời đứt ngang rồi bao nhiêu mộng ước, đời sống tối tăm cơ cực, sự tự do không còn, bất mãn quá nhiều điều chế độ mới cai trị. Thế rồi tôi tìm đường vượt biên nhờ sự giúp đỡ của gia đình người bạn đời hiện tại, trải bao gian nan, vất vả ra tù vào tội vượt biên. Nhờ mẹ ăn chay nguyện cầu, nhờ Trời Phật che chở tôi đã đến bến bờ tự do sau gần 6 năm đeo đuổi chuyện trốn thoát. Qua Mỹ tôi muốn tìm đến ngôi chùa để lắng đọng tin tưởng về mặt tâm linh, lạy tạ Trời Phật còn được sống sót. Muốn gần bạn thiện hữu tri thức, gần Thầy học hỏi những điều hay cũng như học Phật Pháp tu dưỡng đời sống, và may mắn có ngôi chùa Phổ Từ được xây cất lên trong vùng Hayward cho tôi sinh hoạt mỗi cuối tuần.
Cuộc sống bình an bên người chồng hiền lành nhân đức, cả hai đều có việc làm ổn định bền bỉ. Tôi được may mắn làm tại Company Kyle Design mấy chục năm với công việc mình yêu thích, gặp được “Boss” sống tình cảm luôn nâng đỡ ưu ái xem như người một nhà. Vật chất đầy đủ, có siêng năng làm việc là có tất cả từ xe cộ đến nhà cửa nếu biệt tằn tiện tiêu pha. Hưởng đời sống thoải mái tiện nghi, lòng lại càng ghi ơn đất nước Hoa Kỳ cứu vớt dung dưỡng tạo đời sống tốt đẹp, có điều kiện giúp gia đình người thân và hành thiện. Xem như hai phần ba cuộc đời tôi được nương tựa nơi miền đất hứa, nơi được tự do hít thở và mở mang kiến thức. Tôi luôn mãn nguyện đời sống hiện tại cho tôi quá nhiều thứ, cái ơn rất lớn trong cuộc đời tôi.
Gần Lễ Tạ Ơn, thiên hạ xôn xao, lòng tôi nao nao với cảm giác hạnh phúc được mang quốc tịch Hoa Kỳ. Tôi cũng sẽ bắt chước người ta chen chân cửa hàng Costco mua thêm vài món quà trao đến những người mình mang ơn, chuẩn bị nấu món bún bò Huế mà gia đình “Boss” Kyle rất thích, giờ đây tuy đã nghỉ hưu 4 năm rồi, nhưng mỗi mùa lễ này tôi vẫn bới xách đem lên.
Biết nghĩ thì phải biết thực hành, nghiệm lại gần 40 năm qua, dù tôi không gần cha mẹ để chăm sóc tuổi già, nhưng đã nuôi dưỡng bằng vật chất chu cấp đều đặn cho đến ngày phụ mẫu qua đời. Thỉnh thoảng góp tay chung “group” trường học quà cáp các cô thầy già yếu, bệnh tật bên quê nhà hoặc sau cơn lũ lụt ở Huế. Tiện tặn bỏ ống dành cho Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hoà chính đáng, cùng vài việc phước thiện. Mỗi đầu xuân viếng vài Chùa chúc Tết quý sư Cô, quý Thầy. Hàng tháng góp chung điện nước ngôi chùa chính Phổ Từ cùng quý đạo hữu.
Sáng nay vợ chồng tôi ngồi soạn các địa chỉ nhà thờ Mỹ chuyên nấu ăn phát người vô gia cư, cùng Mõ Nhân Ái của ông Lê văn Hải chuyên đi phát quà, tiền và thức ăn cho Homeless. Hai nơi Wounded Warrior Project (thương binh Mỹ chiến đấu trên thế giới) và Veterans OF Foreign Wars OF The United States (Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ). Lòng chúng tôi nhẹ nhàng thoải mái, khi đã thực hiện được việc Homeless, việc lính Mỹ hằng năm vào dịp Lễ Tạ Ơn, tuy đồng tiền chỉ như hạt cát nhỏ nhoi nhưng có thể hiện được sự mang ơn đối với nước Mỹ. Người ta thường nói có năm điều đừng kể:
1/ Thu nhập thực sự của bạn
2/ Kế hoạch dài hạn của bạn
3/ Nỗi sợ lớn nhất của bạn
4/ Khoe làm từ thiện với người khác
5/ Các vấn đề trong gia đình
Đối với tôi điều 4 rất lợi lạc, chị bạn SL trong hội CGV nhờ kể mà kéo theo số đông làm từ thiện mấy năm nay (chỗ đáng tin cậy có hình ảnh biên nhận rõ ràng). Bản thân tôi cũng nhờ gần bạn thiện hữu tri thức, chị QA từng san sẻ tâm tư “Em ơi học Phật thì hiểu đời Sắc Không, không có gì là của mình, chết chỉ hai bàn tay trắng. Mọi người chỉ đưa mình tới cổng nghĩa địa, sau đó chỉ có công đức mang theo nếu mình biết tạo lúc sống. Đừng nói phải dư tiền lắm bạc mới hành thiện được, em có đọc câu chuyện bà cụ nhà nghèo được Phật chứng ngọn đèn dầu của bà sáng mãi không tắt đó. Mình có tâm thương người rất tốt, ngoài ra mình còn biết ơn đất nước Hoa Kỳ đã cưu mang, nên mỗi Lễ Tạ Ơn nên làm việc nhỏ lớn tuỳ khả năng, ví dụ gặp Homeless dúi vào tay họ $2, $3 đồng bạc, có khả năng hơn gởi đến các Chùa, các nhà Thờ chuyên lo người vô gia cư, cao hơn nữa nghĩ đến Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ chẳng hạn… Khi thực hiện điều gì tốt, em nên chia sẻ cho bạn bè biết để việc lợi, việc tốt được nhân lên nhiều hơn, và sẽ chung tay cùng nhau trồng hoa cho cuộc đời tươi đẹp. Thật ra ai cũng có lòng từ bi bác ái, chỉ là họ quá bận rộn công việc đôi khi quên, hoặc muốn gởi nhưng không biết gởi đâu, mình cứ việc loan truyền …”
Lời chị bạn như vàng ngọc châu báu đã ăn nhập vào tâm hồn tôi thấm đậm. Từ đó tôi học theo chị làm là nói, và từ lâu bạn bè đã tin tưởng góp tay thực hiện nhiều việc lớn tốt đẹp. Mỗi mùa Lễ Tạ Ơn lại nhớ chị QA nhiều hơn, tôi tin các bạn cũng nhớ và đã làm một việc nhỏ như tôi đối với đất nước Hoa Kỳ rồi phải không.
Về mặt tinh thần tôi tạ ơn những bậc thầy đã dạy các luật thơ, kể cả loại thơ khó nhất Đường Luật để tôi áp dụng tập làm. Tạ ơn sư phụ BT dẫn dắt tôi bước đầu vào diễn đàn TNS, giúp tôi layout những tập thơ, tập truyện, làm tranh thơ. Tạ ơn chị bạn PH ép buộc thúc đẩy tôi viết văn, nhờ vậy tôi có cơ hội làm việc bằng trí não giảm bớt bệnh Alzheimer’s.Tạ ơn thầy nhạc sĩ LHN dạy cách viết lyric bản nhạc, cho tôi hưởng ké tiếng tăm. Tạ ơn các nhạc sĩ MĐ, TP, TĐB, MHT, và giáo sư âm nhạc PĐH đã ưu ái phổ nhạc từ thơ của tôi. Tạ ơn các hội thơ văn đã mời vào trang nhà sinh hoạt, cho tôi có cơ hội học hỏi thêm các bậc đàn anh đàn chị giỏi dang, cho tôi niềm vui được góp chung bài vở in tuyển tập, được san sẻ thơ văn và ngược lại đọc những mẩu chuyện hay từ thi nhân văn sĩ. Nhất là hai hội phụ nữ luôn đối xử thân mật, yêu thương hoà thuận, cùng nhau tu tập, cùng nhau nói lời ái ngữ và kể chuyện tếu hàng ngày rộn ràng như mùa xuân. Tạ ơn cơ sở VTLV sinh hoạt tại San Jose cho tôi hưởng quá nhiều niềm vui, nhiều quà từ những buổi tiệc, sinh nhật, thưởng thức văn nghệ theo từng chủ đề :30/ Tháng Tư, Khúc Tình Ca Của Lính, Chiều Nhạc Mùa Thu, Một Mùa Xuân Mới do nhà báo hội trưởng Lê văn Hải hào hoa tổ chức.
Tạ ơn những trang website của hội đã giữ gìn thơ văn chung, nhờ vậy độc giả đã mang đi xa hơn qua Úc, qua Pháp, gần hơn được đưa vào hội Y Khoa Hải Quân, hội Y Khoa bác sĩ Vĩnh Chánh, hội Võ Bị Đà Lạt, hội Sư Phạm Đại Học Huế…v..v… mà tôi được biết nhờ có người quen chuyển lại. Bất ngờ hơn nữa được Website Dòng Sông Cũ, Việt Nam Thư Quán, Hợp Âm Việt đăng tải, đặc biệt Việt Nam Văn Hiến (lập riêng trang cho tôi rất nhiều bài viết và thơ). Tạ ơn KO luôn đưa vào trang Long Hồ Vĩnh Long. Tạ ơn mục đọc truyện của NH, ưu ái đọc nhiều bài viết của tôi.
Sau nữa là Tạ ơn Việt Báo mục Viết Về Nước Mỹ, nơi có số độc giả đọc nhiều nhất. Nơi này khuyến khích mọi người hãy cầm bút viết lên sinh hoạt đời sống trên nước Mỹ, với chủ trương cùng nhau giữ gìn tiếng Việt, khích lệ ngòi bút bằng cách hai năm tổ chức lễ phát giải thưởng, không nề hà việc tốn kém chi phí.
Hiện tại văn thơ nhạc là niềm vui lớn nhất của tôi, là niềm an ủi tuổi già đang chập chững học hỏi bằng tất cả đam mê. Tôi xin kể ra đây những diễn đàn với sự trân trọng kính mến, mà tôi đã tham gia về văn chương thi phú: Văn Bút vùng Đông Bắc Hoa Kỳ; Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt; Diễn Đàn Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ; Diễn Đàn Tình Bằng Hữu; Hội Thơ Đường Luật Hoàng Gia; Vườn Hoa Thơ Duyên; Minh Châu Trời Đông; Cô Gái Việt; Việt Bút; Trang Văn Học Cỏ Thơm; Thế Hữu Văn Đàn; Văn Bút Tao Đàn.
Tạ ơn cha mẹ sinh ra và nuôi nấng con nên người. Tạ ơn cô thầy dạy dỗ mở mang kiến thức làm hành trang vào đời. Tạ ơn các anh lính Việt Nam Cộng Hoà, lính đồng minh Hoa Kỳ hy sinh chiến đấu 20 năm trời cho người dân được sống yên bình. Tạ ơn những ngôi Chùa tâm linh tôi thường sinh hoạt để biết quý trọng, ý thức niềm vui trong hiện tại ”Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy. Ta có thêm ngày nữa để yêu thương”. Cảm tạ “Boss” Kyle cho tôi được “an cư lạc nghiệp”. Cám tạ đất trời thiêng liêng cho con sự sống leo tới tuổi thất thập cổ lai hy. Cuối cùng là cảm tạ đất nước Hoa Kỳ đầy lòng nhân ái cho tôi nương tựa gần 40 năm qua trong niềm thỏa mãn vô biên.
Buổi họp mặt đại gia đình, tôi sẽ đọc lại những lời cảm tạ này trong đêm lễ chính Thanksgiving để bày tỏ sự liêng thiêng cao quý với trời đất.
Minh Thúy Thành Nội
Mùa Lễ Tạ Ơn 2024
TRANG NHÀ THÂN HỮU: LONG HỒ VĨNH LONG:
Trang Long Hồ Vĩnh Long xin chia sẻ những sáng tác nhân dịp này cùng vui thưởng thức..
Thứ Hai, 30 tháng 5 năm 2022, Mỹ là ngày lễ toàn Quốc Gia Tưởng Niệm, Nhớ Ơn những người nam nữ Mỹ, những người con yêu của Tổ Quốc, đã vì nước hy sinh, vì dân chiến đấu, đã nằm xuống.
Theo nghi thức, cả nước, Quốc kỳ Mỹ được treo rũ cho đến quá ngọ giờ địa phương. Người Mỹ ưu tiên trong ngày, là đi viếng nghĩa trang tử sĩ và các tượng đài tử sĩ Mỹ để tưởng niệm. Để thấm với ý nghĩa: “Tự Do không phải là món quà biếu không. Quốc gia nào muốn có hưởng quà quý báu này, phải trả bằng xương bằng máu! của biết bao nhiêu người nằm xuống!”
Tất cả chúng ta, xin dành một phút, đặt cánh tay vào tim, cúi đầu Tưởng Niệm, về sự hy sinh cao quý của Họ. Họ đã chết, để chúng ta được sống!
Những Chiến Sĩ bị…lãng quên! Người Lính VNCH!
Hôm nay, riêng đối với người Việt ở trên đất Mỹ, bản tính dân tộc Việt từ ngàn xưa, là trọng tình, trọng nghĩa, ơn đền nghĩa trả. (Nửa chữ cũng gọi bằng Thầy!) Nên vào Ngày Lễ Chiến Sĩ Trận Vong, người Mỹ gốc Việt, chẳng những tưởng niệm những người Lính Mỹ, mà còn nhớ đến trên 2 trăm 50 ngàn Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã nằm xuống, trong cuộc chiến chống Cộng Sản xâm lăng, kéo dài trên 20 năm, bảo vệ Miền Nam no ấm tự do. Họ đã vì dân chiến đấu, vì nước hy sinh.
Ba câu danh ngôn hay về sự hy sinh của Người Lính:
-Những người hy sinh mạng sống vì đại nghĩa, cho Tổ Quốc, Đồng bào, thì chẳng bao giờ thất bại!
(Lord Byron)
-Tôi chỉ tiếc rằng tôi chỉ có một cuộc đời, để hy sinh cho Tổ quốc, chết cho Đồng Bào tôi mà thôi!
(Nathan Hale)
-Khi trái tin bạn đủ yêu thương, bạn muốn phục vụ vì người khác. Khi đó Bạn muốn hy sinh. Và cái chết, chẳng còn nghĩa lý gì cả!
(Ernest Hemingway)
Cám ơn Anh! Những Người Lính!
Tôi đặt hành lý vào hộc ở trên đầu rồi ngồi xuống ghế. Đây là chuyến bay dài, làm tôi ước gì mình, có một quyển sách hay để đọc qua giờ trên chuyến bay. Quên không mang sách theo, thì thôi, có lẽ tôi cũng cần chợp mắt một chút.
Vừa lúc trước khi máy bay cất cánh, một nhóm, gồm 10 người Lính trẻ, men theo lối đi và ngồi hết vào các chỗ trống rải rác còn lại. Có lẽ họ không đủ quân số, để dùng mày nay quân sự. Chẳng có gì để làm, tôi bắt đầu gợi chuyện người lính ngồi gần nhất:
– Các cậu đi tới đâu vậy?
– Petawawa. Chúng em sẽ ở đó hai tuần, để thụ huấn thêm một chương trình huấn luyện đặc biệt chuyên môn, sau đó sẽ bổ sung quân số đến chiến trường A Phú Hãn! Nơi đó đang cần tụi em.
Sau khi máy bay cất cánh độ một tiếng, thì tiếng loa thông báo là trên máy bay, có bán thức ăn nhẹ đựng trong bao, giá 10 mỹ kim.
Cũng còn lâu lắm, chuyến bay mới tới phía miền Đông, nên tôi quyết định mua một bao đồ ăn, để vừa ăn vừa giết thì giờ! Khi tôi móc bóp lấy tiền, thì chợt nghe một người Lính hỏi bạn mình là có muốn mua thức ăn không.
– Không! Giá quá mắc! Bao “Lunch” gì mà tới 10$!
-Thôi thì tụi mình ráng chờ tới căn cứ vậy.
Và anh Lính trẻ gật gù đồng ý với bạn.
Tôi đảo mắt nhìn chung quanh thì thấy mấy người Lính khác, cũng không có ý định mua gì cả, mặc dù lúc đó cũng đã tới giờ ăn trưa rồi.
Có lẽ lương người Lính, không cho phép họ được xài hoang phí như thế. Một ý nghĩ chợt đến trong đầu, tôi gọi người nữ tiếp viên tới, đưa cho bà 100$ và nói:
– Xin bà vui lòng lấy thức ăn cho những người Lính nầy.
Người tiếp viên cầm tiền, hiểu ra ngay, ngạc nhiên nắm chặt lấy tay tôi, qua đôi mắt long lanh ngấn lệ vì xúc động, bà ngõ lời cám ơn tôi và nghẹn ngào:
– Con trai tôi cũng là một quân nhân trẻ, nó 20 tuổi, đang chiến đấu tại Iraq. Nghĩa cử tử tế nầy của ông, như đang dành cho nó vậy. Cám ơn ông.
Rồi bà xăng xái, mỉm cười tươi, đi lấy 10 bịch đồ ăn trao cho tất cả các người Lính trên tàu bay. Những người Lính trẻ, sau khi nhận, và nghe lời giải thích của bà tiếp viên, người gần thì nói lời cám ơn, người xa giơ cánh tay, chụm bàn tay lại thành “số một!”
Sau đó bà dừng lại chỗ tôi hỏi:
– Thưa ông dùng gì ạ? Bò, gà, cá hảo hạng, kể cả rượu bia, loại gì!
– Xin cho tôi gà, và ly rượu mạnh không pha.
Tôi trả lời bà ta xong, giật mình ngạc nhiên, vì theo tôi biết chắc hạng economy (cá kèo) bây giờ, chỉ có BOB thôi mà. Đây là sự tiếp đãi dành cho những khách hạng nhất!
Người nữ tiếp viên đi về phía trước của máy bay, độ vài phút sau trở lại, với nguyên khay thức ăn nóng hổi, dành cho hành khách có vé thượng hạng! Bà trịnh trọng nói với tôi:
– Đây là tấm lòng tri ân nho nhỏ, của những người trên chuyến bay nầy đối với ông.
Sau khi ăn xong, uống chút rượu, với tâm trạng sảng khoái nhẹ nhàng, tôi bước tới phòng vệ sinh ở phía sau cùng. Trên đường đi, một người đàn ông thình lình, đứng lên chận tôi lại nói:
– Tôi rất cảm phục việc ông làm, xin ông cho tôi được chia phần mà vui lòng nhận cho.
Nói xong, ông ta dúi vào tay tôi 50 mỹ kim.
Sau đó không lâu, viên phi công trưởng rời buồng lái, vừa đi vừa nhìn số ghế ghi trên hộc hành lý, linh cảm khiến tôi thầm mong ông ta đừng kiếm tôi. Nhưng Chúa ơi! Ông ta dừng lại ngay hàng ghế của tôi, rồi cười thật tươi và chìa tay ra nói:
– Tôi muốn hân hạnh được bắt tay ông!
Cực chẳng đã, tôi mở dây an toàn, đứng dậy bắt tay viên phi công trưởng.
Với giọng hân hoan, ông ta nói thật lớn, cố ý để mọi người cùng nghe:
– Trước khi lái máy bay dân sự, tôi cũng đã từng là một quân nhân! và là phi công chiến đấu. Có một lần vào nhà hàng, cũng có người bao trả tiền tôi mua thức ăn. Điều đó thực sự thể hiện cả một tấm lòng tốt đẹp, mà những người Lính chúng tôi không bao giờ quên!
Tất cả những người Lính đều đứng dậy, cả một tràng pháo tay tán thưởng vang dội, tiếng vỗ tay lan ra con tầu, làm tôi đỏ bừng mặt vì mắc cở.
Chỉ với một hành động nhỏ nhặt tầm thường của tôi, mà đánh động lương tâm, lòng tốt của con người mạnh đến thế sao?
Vì chuyến bay quá dài, nên có một lúc, tôi phải đi bộ về phía trước để giãn gân cốt, thì bỗng nhiên có một nam hành khách ngồi trên tôi độ sáu dãy, đưa tay ra bắt và để lại trong tay tôi cũng 50 mỹ kim.
Bầu không khí trên chuyến bay thật nhẹ nhàng và chan hoà ấm áp tình người, cho tới khi máy bay hạ cánh. Tôi lấy hành lý và bắt đầu bước ra, khi vừa tới cửa máy bay, thì một người đàn ông chận tôi lại và nhét nhanh vào túi áo tôi một thứ gì đó, xong ông ta vội vã bước đi, mà không nói một lời. Lôi túi ra, lại thêm 50$ nữa!
Nếu tính ra, tôi chỉ chi, bỏ ra có 100$, mà bây giờ thu lại, lời to! tới 150$! Kiếm được 50$ dễ dàng đến thế sao! À! Quên! Còn lời cả một bữa ăn, ly rượu, thiệt ngon miệng nữa chứ.
Đã thế, còn hưởng những tràng pháo tay nổ như pháo!…ngày Tết!
Đúng là khi ta làm phải, việc tốt, thì không bao giờ lỗ lã cả. Lời ngay trước mắt!
Tôi vui vẻ bước nhanh ra cửa phi trường, thì còn thấy mấy người Lính trẻ, đứng thành hàng, kiểm soát quân trang, quân dụng, điểm danh, để chuẩn bị về căn cứ. Tôi tiến tới trao cho họ 150 mỹ kim và nói:
– Từ phi trường về tới trại phải khá xa. 3 người khách trên máy bay, nhờ tôi trao cho các cậu chút tài chánh, vì biết bây giờ cũng đã tới giờ để mỗi cậu dằn bụng một cái sandwich chứ!
Rất nhiều người thương mến và Chúa sẽ ban ơn cho các Cậu.
Các người Lính trẻ, một lần nữa lại cùng hô vang lời Cám ơn!
Mười người Lính trẻ trong ngày hôm đó, chắc đã rời chuyến bay, trong tâm trạng yêu thương và kính mến những hành khách đồng hành.
Chưa bao giờ tôi có cảm giác sung sướng, hạnh phúc như thế. Tôi hăng hái bước tới xe, với lời thì thầm nguyện cầu, cho tất cả sau trận chiến sẽ được trở về trong an bình.
Những chàng trai nầy đã hy sinh, sự an nguy, sống chết của bản thân mình, tất cả cho quê hương đồng bào, mà tôi chỉ biếu họ có một vài phần ăn. So sánh với sự hy sinh của họ, thật là quá ít ỏi, nếu không muốn nói, là chỉ là một phần ngàn!
Nghĩ xa hơn nữa, người cựu chiến binh, khi chiến ở các mặt trận ngoài biên cương Tổ Quốc, đã từng đánh đổi cả cuộc đời, khi viết lên chi phiếu trắng, đề tên người nhận là “Hiệp Chủng Quốc!” mà số tiền có thể là chính sinh mạng của họ! Mẹ Tổ Quốc thường nhận tiền tử và cùng một lúc, cả tử thi của họ!
Đó là một vinh dự tối cao, lẽ ra cả đất nước phải dành sự ngưỡng mộ cho họ, nhưng than ôi!
Có nhiều người đã không cần biết tới và bỏ quên họ! trong cả chiều dài đời sống yên bình.
Hên lắm nhớ đến họ, khi thân xác họ đã vùi sâu trong lòng đất!
Nghĩ cũng buồn, con vật, tỉ như con chó, còn biết ơn sống chết với chủ mình, nhưng nhiều con người thì …không!
Bản tính mà, khi Chúa chữa lành bệnh cho 10 người phong cùi, chỉ có 1 người trở lại cám ơn Chúa, mà người đó, lại không phải là người…Do Thái!
Christian Jacobs, 4, of Hertford, NC, lies on the grave of his father, Christian James Jacob, during Memorial Day celebrations at Arlington National Cemetery in Arlington, Virginia May 25, 2015. REUTERS/Joshua Roberts TPX IMAGES OF THE DAY
TRÊN NGỌN ĐỒI HOA VÀNG
Trên đồi hoa nở vàng Loài Anh Túc chen ngang Hàng thập tự thẳng tắp Từng ngôi mộ thẳng hàng.
* Ai vừa cắm đoá hồng Âm vang tiếng đạn đồng Chim sơn ca ngừng hót Vụt bay vào hư không.
* Người chiến sĩ nơi đây Những cái chết phơi bày Vì tình yêu nằm xuống Xin ghi nhớ hôm nay.
* Đừng quên bóng quân thù Ẩn hiện trong sương mù Ngọn đuốc thiêng thắp sáng Soi sáng cả thiên thu.
* Trên đồi hoa xinh tươi Nụ hoa vàng sinh sôi Sống, chết như thay đổi Bóng hoàng hôn tuyệt vời.
* AET Lê Tuấn Viết cho ngày chiến sĩ trận vong May 26, 2022
ON THE YELLOW FLOWERS HILL
* On the hill flowers bloom Poppies grow The crosses row and row Each grave lined up.
*
Who just arranged flowers? Echoes of copper bullets The nightingale stopped singing Fly into the void.
*
The soldier here Exposed deaths Sacrifice for love Please remember today.
*
Don’t forget the enemies Hiding in the fog The sacred torch shines Illuminate forever.
*
Beautiful flowers on the hill A little yellow flower is still growing Live and die like a change Sunset shadow is still great.
*
Louis Tuan Le Memorial Day 2022
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong
Nhớ hay quên đừng lạnh lùng quay gót Chiến tranh đã qua người lính còn đây Tóc đã bạc, nỗi đau hờn vong quốc Rượu ân tình, xin hẹn buổi sum vầy.
Một chút tự hào, lòng thêm đau nhói Đêm còn mơ, bừng tỉnh cõi hư không Vết thương xưa hằn sâu trên da thịt Nhận nỗi buồn mà thẹn với núi sông.
Lê Tuấn Người lính già chưa giải ngũ
Đêm Nhớ
Chợt nghe tiếng gọi khẽ trong đêm Như tiếng mưa rơi động trước thềm Tình đến cần thêm nguồn cảm xúc Cho nhau thắm thiết ướt môi mềm
Đợi nàng thơ đến viết đôi câu Gửi gió mây bay nối nhịp cầu Đến tận phương nào xa vắng ấy Đêm buồn nỗi nhớ gợi thêm sầu.
Bóng hình em vẫn chiếm hồn tôi Nối tiếp yêu thương đẹp tuyệt vời Dấu ấn trong đời thương nhớ mãi Tình yêu thắm thiết mãi bên người.
Lê Tuấn
Cảm Ơn
Cảm ơn người đã nhớ tên tôi Tôi cảm nhận đời thêm sức sống Cho giấc mơ thêm đầy ước vọng Bao ân tình, chảy một dòng sông.
Tạ ơn người đã đến bên tôi Tôi đã thấy mình không lẻ loi Lúc muộn phiền dường như muốn khóc Có người an ủi xót thương tôi.
Tạ ơn người nhớ đến tên ta Không ngại ngần chia sẻ xót xa Ngồi lặng im nghe lời thỏ thẻ Lòng buồn thương lặng lẽ đi qua.
Cám ơn người những tháng ngày xưa Những nỗi gian truân đầy gió mưa Đời sống tưởng chừng như mất dấu Dấu yêu thương ấm áp vui đùa.
Biết rằng năm tháng sẽ phôi phai Sẽ bạc màu nhưng tình nhớ hoài Lúc bắt đầu cho nhau mãi mãi Cảm ơn người dẫn bước đường dài.
Lê Tuấn May 28, 2022
LỄ MEMORIAL DAY
Theo hoà dự lễ với đồng minh
Một thủa miền Nam giúp tận tình
Dưới ruộng anh hùng buông thể xác
Trên non lính dũng hiến thân mình
Vào tù tủi hổ gieo cuồng não
Trải cảnh đau thương nếm nhục hình
Nhóm Việt tham gia lời nguyện kính
Bên trời phất phới những cờ xinh
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 5/ 2017
TRANG CHÀO MỪNG NGÀY PHẬT ĐẢN – RẰM THÁNG TƯ – NHÂM DẦN, 2022 – Phật Lịch 2566.
HỒNG TRẦN
*
Thế gian nhiều biến đổi
Ta chỉ một dạng thôi
Theo tháng năm tàn lụi
Mấy ai chẳng ngậm ngùi
*
Cõi hồng trần sinh ly tử biệt
Kiếp nhân sinh nọ ai mãi miết
Rồi một ngày tay ng buông xuôi
Về chốn không tranh danh đoạt lời
Chết sống nào cũng là trả nghiệp
Chỉ sớm muộn nợ vay tiền kiếp
*
Mong tái sinh đừng vương lụy
Tâm yên bình thoát hiểm nguy
Vốn dĩ lời chân nguyên Phật
Để muôn người đạt phúc duyên
*
Hoàng Mai Nhất
KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN
*
Tháng Tư ĐỨC PHẬT hạ phàm trần
Đem ánh Đạo Vàng cứu thế nhân
THÁI TỬ ly gia rời tục lụy
ĐẠT TA cắt ái biệt tình thân
Tam Quy điều dạy, thay tai kiếp
Ngũ Giới lời khuyên, nhận phước phần
Phật Lịch hai nghìn năm sáu sáu(2566)
Nguyện cầu khắp chốn rạng ngời xuân.
Phương Hoa – MAY 17, 2022
Hoa Sen Bảy Bước
Đi bảy bước hoa sen chớm nở Gót hồng trần lan tỏa niềm mơ Cội bồ đề, chánh kiến thiền định Giác ngộ từ tâm, chuyển hoá cơ.
Phật pháp kinh thư đã chuyển vần Năm châu, bốn biển độ nhân quần Thập phương, ý nguyện luân hồi chuyển Phật tánh Di Đà, quán tịnh thân.
Tế Luân
KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN 2022
*
Mừng Phật Đản, muôn phương thiết lễ
Cúng dường ngày Nhập Thế Thích Ca
Thấm nhuần giáo lý Phật Đà
Tâm bình, thế giới an hòa sống vui
*
Mừng Phật Đản hãy nuôi mầm thiện
Phật xuống đời thị hiện chúng sanh
Nhân gian mừng đón Cha lành
Tháng Tư rằm đến, tâm thành dâng sen
*
Mừng Phật Đản, ghét ghen buông bỏ
Ánh đạo vàng sáng tỏa trần gian
Tại gia thắp nén hương nhang
Trên cao Phật chiếu hào quang sáng lòng
*
Mừng Phật Đản, sen hồng hương ngát
Tiếng Nam Mô lấn át sân si
Hồi chuông cửa Phật từ bi
Âm vơi nghiệp chướng, xua đi hung tàn
*
Mừng Phật Đản, dâng ngàn lời nguyện
Phật từ bi, Pháp chuyển Trí minh
Khiến cho kẻ ác lui binh
Tan đi sân hận, Hòa Bình Thế Gian…
*
DUY ANH
Đại Lễ VESAK 2022
Chủ Nhật Tuần Này: Kính Mừng Đại Lễ Phật Đản PL 2566. ĐL 2022
Lời Chúc Mừng
Một Mùa Lễ Vesak nữa lại về trên trần gian, Phật Đản mang lại bao niềm hân hoan, vui sướng trong lòng những người con Phật và những ai tin vào giáo pháp cứu thoát của Ngài.
Kính chúc tất cả Quý Vị và Gia Quyến một Mùa Phật Đản: Vạn Sự An Lành, Hạnh Phúc Vui Tươi, Muôn Chuyện Hạnh Thông.
Thắp sáng ánh đèn trí tuệ trong tâm, noi theo đường Đấng Chí Tôn, để có:
-Tâm hài hòa, mỉm cười trước sóng gió cuộc đời.
-Tâm minh tuệ, ứng phó với những biến chuyển thời gian.
-Tâm siêu nhiên, đối mặt với: Sinh, Bệnh, Lão, Tử!
-Tâm bình an, vượt qua khỏi mọi khó khăn, trở ngại trong cuộc sống, để có hạnh phúc ngay tại trần gian này.
Có Tâm là có tất cả! Tâm bình, thế giới bình!
Ý nghĩa ngày Phật Đản
Phật Đản còn gọi là Quán Phật Hội (hội tắm Phật), Giáng Đản hội (hội giáng sinh) đó là nghi thức tắm Phật. Ngày Phật Đản tức là ngày Đức Phật Thích Ca ra đời.
Mùa Phật Đản năm nay lại về trong niềm vui của mọi người dân Việt, từ Tháng Tư Đen 75, 47 năm, đang sống lưu vong nơi đất khách quê người, cách xa quê nhà cả nửa vòng trái đất. Hơn ba triệu người Việt hiện ở tạm dung trên các nước thuộc Âu Châu, Úc Châu, Mỹ Châu, đang nỗ lực tổ chức ngày “Đại Lễ Phật Đản, Phật lịch năm 2566” để hòa nhịp với niềm vui chung của nhân loại, trong mùa Phật Đản năm 2022.
Nhân dịp ngày Đại Lễ, xin ghi lại chút “Lịch Sử cuộc đời Đức Phật” để cống hiến quý đồng hương Phật Tử bốn phương, cùng tìm hiểu về “Chân lý và nguồn gốc ngày Đản Sinh của Đức Phật, hầu lưu lại cho các thế hệ mai sau, nối gót các bậc tiền nhân, duy trì và phát huy Đạo lý cao siêu của Đức Thế Tôn, trong ánh đạo vàng đến với mọi người trên thế gian.
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch. Vesak cũng là tên của một ngày có ý nghĩa trọng đại nhất đối với hàng Phật tử khắp thế giới. Đức Phật sinh nhằm ngày rằm, tháng Vesak, vào buổi sáng, trong thành Kapilavatthu (Ca-ty-la-vệ) gần biên thùy giữa đông bắc Ấn Độ và Népan. Ấy là Thái tử Siddatha Gotama. Cha của ngài là Hoàng Đế Tịnh Phạn (Cuddhodana) họ Cồ Đàm (Gotama), và mẹ của Ngài là hoàng hậu Ma Gia (Mayadevi) Ngài tên là Siddhartha Gautama. Ngài mất mẹ rất sớm. Sau khi hạ sanh Hoàng Tử được 7 ngày thì hoàng hậu thăng hà.
Thái tử sanh ra là một đại hạnh, đại phúc, ơn lành cho tất cả chúng sanh. Dĩ nhiên, đã là Hoàng tử, Ngài sống một cuộc đời vô cùng sung sướng trong cung điện nguy nga, nào biết gì đến cảnh thực ngoài đời. Nhưng ngày qua tháng lại, lần lần trong tâm Ngài tự phát giác sự thật.
Khi Ngài giác ngộ được rằng vạn vật là vô thường, có rồi không, thành rồi bại, có sinh có tử, có gìa có bệnh. Rằng bao nhiêu vinh hoa, phú qúy, khoái lạc vật chất dẫy đầy trước mắt, chẳng qua là một bã hư vô. Ngài mới nhất định xuất gia, bỏ hẳn thế sự, để đi tìm đâu là sự thật, đâu là tịnh lạc. Năm ấy được 29 tuổi, Ngài từ bỏ cung điện nguy nga và những sa hoa vật chất của một vị Hoàng tử, không phải vì thắc mắc băn khoăn riêng cho Ngài, mà chính vì cảnh đau khổ trầm luân của chúng sinh.
Lần từ biệt ra đi của Ngài đã giũ sạch nợ trần, để đi tìm một con đường giải thoát cho nhân loại. Suốt sáu năm trời, Ngài hãm thân vào cuộc đời khổ hạnh, hy sinh, chịu đựng muôn ngàn đau khổ với một tấm lòng sắt đá, kiên trì, với một niềm tin vô biên và luôn luôn xả thân để phụng sự. Đây là cuộc đời phấn đấu mà sức người phàm khó lòng chịu nổi.
Rồi một hôm tinh toạ trên mớ cỏ khô dưới cội bồ đề, tại Bồ Đề Đạo Tràng (Buddhagaya), Ngài tự nguyện: “Dù ràng thịt ta phải nát, xương phải tan, hơi phải mòn, máu phải cạn, ta quyết ngồi nơi này đến khi được hoàn toàn đắc quả vô thượng!” Vào ngày rằm, tháng Vesak, Ngài đắc quả Chánh Đẳng, Chánh Giác. Quả này là kết tinh cuối cùng của một lòng tự tin, tự lực, tự giác, chớ không phải nhờ ở một quyền lực siêu nhiên nào giúp đỡ. Ngài đã diệt được bao điều chi phối của ngoại cảnh đối với thân tâm, để trở thành thanh tịnh chứng pháp, lãnh hội rõ ràng chân tánh của một sự vật: Ngài đã là Toàn Giác, Ngài đã thành Phật. Lúc bấy giờ Ngài 35 tuổi. Từ đây người ta gọi Ngài là Đức Phật Cồ Đàm (Gotama), một vị Phật trong trường chi vô lượng Phật quá khứ và vị lai.
Như vậy thì lễ Visak không những là kỷ niệm ngày giáng sinh, mà cũng là ngày đắc đạo của Đức Phật. Khi đã được hoàn toàn sáng suốt và đăc quả Chánh Đảng, Chánh Giác rồi, Ngài gia tâm đi hoằng hoá pháp mầu để rọi sáng dẫn dắt kẻ khác. Được hoàn toàn giải thoát, Ngài gia tâm giải thoát chúng sanh bằng một lối đường Trung Đạo. “Mở rộng cửa chân lý cho những ai muốn tìm chân lý, rót thẳng niềm tin tưởng vào tai những ai muốn tìm tin tưởng.” Đó là câu bất hủ mà ngài đã thốt ra lần đầu tiên, khi bắt đầu sứ mạng hoằng dương đạo pháp của Ngài.
Đầu tiên Ngài lập ra Giáo Hội Tăng Già chỉ gồm có năm vị Thanh Tịnh Pháp Sư, đó là 5 anh em Kiều Trần Như. Đây là hột giống đầu tiên hết sức nhỏ bé mà Ngài đã gieo, để rồi về sau này nở muôn ngàn đầy khắp bốn phương: Là Giáo Hội Tăng Già ngày nay, khắp thế giới, một hệ thống tổ chức thật sự dân chủ xưa nhất trong lịch sử nhân loại. Khi rải các đệ tử đi hoằng hoá Giáo Pháp trong thiên hạ, Ngài gửi lời khuyên nhủ chư tăng như sau: “Hỡi chư Tỳ Kheo, các con hãy mạnh dạn ra đi, đi vì ích lợi cho chúng sanh, đi vì hạnh phúc an vui cho nhân quần, xã hội, đi vì thương xót nhân loại. Các con hãy đi khắp chốn, ban bố giảng dậy Pháp này là diệu Pháp hoàn toàn. Các con hãy nêu cao đời sống Thánh Đức khiết thanh, luôn luôn hoàn toàn và trong sạch.”
Riêng phần Ngài, là hoá thân của Đức Độ cao siêu, trí tuệ luôn luôn sáng suốt, đầy lòng nhân đạo, từ bi, bác ái, hy sinh không bờ bến, đêm nghỉ chỉ một giờ. Trong năm mười hai tháng, hết tám tháng Ngài dãi dầu phong sương khắp chốn, không quản gì thân. Ngài tế độ chúng sanh như vậy suốt bốn mươi lăm năm trường.
Một hôm, khi cảm thấy sức đã kiệt, ngày lâm chung săp đến, Ngài gọi tất cả đệ-tử về và nói: “Kiếp sống thật là ngắn ngủi, Thầy nay tuổi đã già. Thầy sắp xa lìa các con! Từ lâu vẫn nương tựa nơi Thầy. Các con hãy cố gắng chuyên cần tinh tấn, hãy kỹ càng thận trọng và luôn luôn giữ một lòng đạo đức cao cả, với những tư tưởng trong sạch siêu mẫn, các con hãy giữ gìn bản tâm cho chu đáo. Nhờ tôn chỉ và kỷ luật này, với một đời sống tích cực hoạt động đạo đức, các con sẽ được thoát khỏi vòng sinh tử, tử sanh và chấm dứt được phiền não, đau khổ. Vạn vật cấu tạo là nhứt dán, là vô thường. Các con hãy cố gắng lên!
Năm ấy Đức Phật tám mươi tuổi thọ. Ngài trở về Kusinara, là một làng nhỏ bé xa xôi, nơi đây êm ái và an tịnh. Ngài tịch diệt, thân nằm êm giữa hai cây long thọ (Sala), hôm ấy đúng ngày rằm vào tháng Vesak. Như thế Vesak là ngày kỷ niệm gồm ba sự kiện: Giáng sanh, Thành Đạo, và Tịch Diệt của Đức Phật. Ngày nay Phật tử khắp hòan cầu cử hành cuộc lễ gồm ba sự tích ấy, với một niềm tin tuyệt vời và một đạo tâm chơn thành.
Ngày nay khoa học và văn minh càng tiến bộ, thì Đạo Phật càng được phát triển, vì hầu hết những khám phá trong khoa học hiện nay, thì Đức Thế Tôn đã nói ra cách đây từ 2566 năm về trước! các kinh sách của Đức Phật đã để lại cho nhân loại một kho tàng quý báu. Tất cả đều dựa trên cái Tâm và Trí của thực thể con người, không ảo tưởng, không thần thoại, cũng không có cái gì là siêu hình, mê tín. Nên nhiều người nhận định, Phật Giáo là đạo sát với khoa học nhất, thì cũng đúng.
H.G. Wells, là một học giả người Anh đã viết: “Đức Phật là một nhân vật vô cùng giản dị, có Tâm Đạo nhiệt thành, tự lực một mình phấn đâu cho ánh sáng tươi đẹp, một con người sống, chứ không phải là một nhân vật của thần thoại, huyền bí. Bên sau cái bề ngoài hơi ly kỳ thần thoại, mà người đời hay gán cho ngài, chỉ thấy rõ một con người như bao nhiêu vị Giáo Chủ khác. Ngài cũng truyền lại một tuyên ngôn, một hệ thống giáo lý rộng rãi khả dĩ thích hợp cho khắp loài người. Bao nhiêu ý niệm văn minh của ta ngày nay, cũng hòa hợp được với giáo lý ấy. Ngài dậy rằng tất cả cái bất hạnh và phiền não của ta là do lòng ích kỷ mà ra, Ngài đã nhất định không sống riêng cho Ngài, mà phải sống cho kẻ khác, từ đó Ngài sống một cuộc đời siêu nhân trên tất cả mọi người. Xuyên qua trăm, ngàn ngôn ngữ khác nhau.
Đức Phật đã dậy đức từ bi, hỷ xả gần 600 năm trước Chúa Giêsu ra đời. Đứng về một phương diện nào đó mà nói, ta có thể cho rằng, Chúa với Đức Phật có nhiều chỗ giống nhau vậy. Đối với đời sống thực tại của ta, cũng như đối với vấn đề trường tồn bất hoại của kiếp ta, Đức Phật đã tỏ ra biết trước.
Thực vậy, Đức Phật đã nói:
Ta là Phật đã thành,
Các ngươi là Phật sẽ thành.
Vậy mọi người trên thế gian này, nếu có tâm đạo, có ý chí quyết tâm, tu thân, tích đức, loại trừ cái tham, sân, si mà đi theo con đường Đức Phật đã vạch ra, thì cũng sẽ thành Phật, không phải như các huyền thoại khác, lấy tôn giáo để mê hoặc con người, đi tìm một ảo tưởng vô hình. Đức Phật nói đúng, vì chính Phật cũng là một người như ta, nhưng Ngài đã vượt ra ngoài cái khuôn khổ của loài người. để đi tìm lấy một chân lý tối thượng, hầu truyền lại cho con người đi theo con đường Chân, Thiện, Mỹ. Để tiêu diệt cái “Tâm độc ác, cái Trí ngu muội”, trên trần gian. Đem đến cho mọi người được thân tâm an lạc, thanh bình, thịnh vượng, hạnh phúc và có trí sáng tạo.
Ông Bertrand Russell, một học giả triết gia hiện nay người Anh có nói: “Đức Phật rõ là một nhân vật chủ trương thuyết phi thiên cách cao thâm nhất từ cổ chí kim vậy”. Dựa theo giáo lý cuả Đức Phật, Ông Thomas Paine, một học giả uyên thâm khác đã viết theo lời Phật dậy: “Thế giới là nhà ta, nhân loại là anh em ruột thịt ta, và vi thiện là đạo ta”. Từ hơn hai ngàn năm trăm năm về trước, Đức Phật há chẳng nói: “Chớ nên làm ác, hãy làm lành, cố gắng lên, cố gắng làm cho tâm ngày càng trong sạch”. Đó là điều mà Đức Phật dạy chúng ta phải làm, chỉ có bấy nhiêu. Và chỉ nhờ có bấy nhiêu mà ta sẽ diệt đươc ba nạn là: Tham ái, sân hận, và si mê.
Để kỷ niệm ngày Đức Phật giáng trần và cũng là ngày Đắc Đạo sau sáu năm khổ hạnh và 49 ngày tịnh toạ trên mớ cỏ khô dưới cội Bồ Đề tại Bồ Đề Đạo Tràng (Buddagaya). Hàng năm cứ gần đến ngày rằm tháng tư âm lịch, là toàn thể các tín đồ Phật giáo thuộc các giáo hội trên khắp thế giới, nao nức hân hoan tổ chức kỷ niệm ngày đản sanh. Để nhắc nhở người con Phật, ôn lại những răn dậy tinh hoa của Đức Thế Tôn, làm kim chỉ nam cho đời sống hiện tại cho mỗi người trên trần gian.
Mặt khác, tưởng cũng nên nhìn lại lịch sử thế giới, ta thấy bao nhiêu bạo lực độc ác của các đế quốc tàn bạo để nô lệ hóa con người, như gần đây nhất, Nga xâm chiếm Ukraine, Trung cộng đòi chiếm Biển Đông, nhưng tất cả, đã và sẽ lần lượt tiêu tan theo thời gian ngắn ngủi! Chỉ có giáo lý cuả Đức Phật là còn tồn tại mãi mãi, bất diệt nơi tâm hồn của hàng triệu, hàng tỉ người Phật Tử nói riêng và nhân loại nói chung. Mỗi ngày một phát triển trên khắp năm châu. Lạ một điều, giáo lý của Đức Thế Tôn đang được phát triển tột đỉnh, rộng rãi trong lòng các dân tộc văn minh Tây Phương! chứ không phải ở Phương Đông!
Mừng Đại Lễ Phật Đản Trên Toàn Thế Giới
Phật Đản là ngày nghỉ lễ quốc gia tại nhiều quốc gia châu Á như Thái Lan, Nepal, Sri Lanka, Malaysia, Miến Điện, Singapore, Indonesia, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Campuchia,…
* Đại Lễ Phật Đản Sri Lanka
Tại Sri Lanka, hai ngày được dành cho việc cử hành Vesākha, việc bán rượu và thịt thường bị cấm và tất cả các cửa hàng rượu, bia và lò giết mổ phải đóng cửa do nghị định của chính phủ. Chim, côn trùng và thú vật được phóng sinh như là một “hành động mang tính biểu tượng của sự giải thoát”, của sự trả tự do cho những người bị giam cầm, bị bỏ tù, bị tra tấn trái với ý muốn của họ.
* Đại Lễ Phật Đản Ấn Độ
Tại Ấn Độ, Nepal, người dân thường mặc áo trắng khi lên các tịnh xá và ăn chay. Tại hầu hết các quốc gia châu Á đều có diễn hành xe hoa và nghi lễ tụng niệm.
* Đại Lễ Phật Đản Hàn Quốc
Tại Hàn Quốc có lễ hội đèn hoa sen (Yeondeunghoe) rất lớn. Còn gọi (Bucheonim osin nal) có nghĩa là “ngày Đức Phật đến”, bây giờ đã phát triển thành một trong những lễ hội văn hóa lớn nhất của quốc gia. Lễ hội Phật đản diễn ra tại nhiều nơi công cộng, và trên những đường phố. Trưng bày và diễn hành lồng đèn là một trong những chương trình tưng bừng và gây nhiều xúc cảm nhất.
* Đại Lễ Phật Đản Miến Điện
Tại Myanmar, ngày Vesak cũng gọi là ngày của Kason. Kason là tháng thứ 2 trong 12 tháng theo lịch Myanmar. Đây là tháng nóng nhất trong năm. Nên trong khuôn khổ lễ hội Vesak, người dân nơi đây, với lòng thành kính, đặt những chậu nước tinh khiết trên đầu đội đến những tự viện tưới xuống cây Bồ đề. Họ tưới cây Bồ đề để cảm ơn giống cây này đã che chở đức Thế Tôn, trong những ngày thiền định trước khi chứng đạo và ước nguyện năng lực giải thoát luôn trưởng dưỡng trong họ.
* Đại Lễ Phật Đản Thái Lan
Thái Lan là quốc gia Phật giáo đã 5 lần tổ chức Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc. Khí trời nóng bức và không mưa, người ta thường bắn pháo hoa với ước nguyện sẽ có mưa.
* Đại Lễ Phật Đản Trung Quốc
Tại Trung Quốc, Phật giáo đã có mặt gần 2000 năm. Phật giáo từng là tư tưởng dẫn đường chính cho chính quyền và người dân trong một số triều đại xưa. Lễ Phật đản được tổ chức từ thời Tam Quốc, đã ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội qua nhiều giai đoạn lịch sử. Nhưng ngày nay Phật giáo không còn ảnh hưởng nhiều trong xã hội Trung Quốc, từ khi theo xã hội chủ nghĩa. Người dân chỉ còn biết đến Phật giáo như là một tôn giáo lo ma chay, cúng kiếng, võ thuật… Lễ Phật đản chỉ có thể được tổ chức trong khuôn viên chùa, tu viện và ít được xã hội quan tâm.
* Đại Lễ Phật Đản Đài Loan
Phật giáo Đài Loan có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống thường nhật của người dân tại lãnh thổ Đài Loan. Từ năm 1999, ngày Phật Đản đã là một ngày nghỉ lễ quốc gia ở Đài Loan, được tổ chức hàng năm vào ngày chủ nhật thứ hai của tháng 5 và trùng với Ngày của Mẹ. Nghi lễ thường bắt đầu với điệu nhảy truyền thống và hát ca khúc Phật giáo. Một bức tượng của Đức Phật kèm theo âm nhạc, được rước vào địa điểm và buổi lễ bắt đầu với phần dâng cúng năm vật là hoa, trái cây, hương, thực phẩm và đèn cho Đức Phật
* Đại Lễ Phật Đản Nhật Bản
Tại Nhật Bản, Phật giáo truyền đến từ cuối thế kỷ thứ VI và là tôn giáo chính trong giai đoạn trung và đầu cận đại. Ngày nay, vai trò của tôn giáo ít ảnh hưởng mạnh đến đời sống thường ngày ở Nhật Bản. Lễ Phật đản thường gắn liền với Lễ hội Hoa Anh đào, cũng chỉ giới hạn trong phạm vi tu viện và trong quần chúng Phật tử.
* Đại Lễ Phật Đản Việt Nam
Gần 90% dân số VN theo Phật Giáo, nên Lễ Phật đản được công nhận là một ngày nghỉ lễ (quốc lễ) chính thức tại miền Nam Việt Nam, bắt đầu từ năm 1958, do chính phủ Đệ Nhất Cộng hòa của chính thể Việt Nam Cộng hòa thông qua.
Vào ngày này, người dân tự do tưng bừng tổ chức rất nhiều sinh hoạt, đời cũng như đạo. Cúng lễ tại các chùa, kèm theo nhiều chương trình văn nghệ. Ngoài đường phố, hàng đoàn xe hoa nhiều mầu sắc diễn hành. Cờ Phật Giáo, nhạc Phật vang lừng khắp nơi. CS đã lợi dụng sự tự do này, xúi dục tổ chức nhiều cuộc biểu tình, nhằm làm mất an ninh tình hình hậu phương, cũng nhằm bôi xấu “chính thể VNCH đàn áp tôn giáo” trước dư luận quốc tế.
Sau khi chấm dứt chiến tranh Việt Nam năm 1975, cộng sản chủ trương vô thần, nên mọi hoạt động tôn giáo đều bị cấm. CS còn tuyên truyền “VN ta có “Bác Hồ” không thờ, thờ chi những Ông Ấn Độ, Do Thái!” Thì ngày này không còn là ngày lễ quốc gia nữa! Mọi hoạt động tôn giáo đều phải có giấy phép! Mặc dù có giấy phép, vẫn bị công an quấy nhiễu. Đàn áp nhiều nhất, vẫn là các sinh hoạt của Phật Giáo Hòa Hảo.
Tuy nhiên, những những năm gần đây, ngày Phật Đản được coi là một ngày lễ hội quan trọng, thu hút sự tham gia không chỉ của Phật tử, mà còn là của người dân trên mọi miền của Việt Nam.
Thấy tình hình, dư luận người dân ngả theo như thế, nên ngày này, cũng nhận nhiều sự quan tâm của nhà cầm quyền CS, thường cử các phái đoàn tham dự các buổi lễ, phát bằng khen.
Nhiều chùa “Quốc Doanh” trên bàn thờ Phật, còn có tượng HCM! Sư giảng Phật Pháp, còn chen vào những bài giảng chính trị.
Còn thực tế bình thường, thì mọi buổi lễ Phật đản chung của các huyện, đều có sự tham gia của chủ tịch huyện và các chuyến thăm của chủ tịch mặt trận Tổ quốc, Nếu chùa nào trong hệ thống quốc doanh, còn nhận được sự hỗ trợ kinh phí trong công tác tổ chức Phật đản.
Ngoài ra vào ngày này, các tổ chức từ thiện của Phật giáo, thường tổ chức các hoạt động thăm hỏi, những người khó khăn, trẻ em mồ côi tại các nhà tình thương, những người già neo đơn không nơi nương tựa. Đây chính là điều quan trọng nhất của Đạo Phật, trong việc xây dựng Đạo của sự Từ Bi.
Danh ngôn Phật Pháp
*Về chân lý cuộc đời
Sau đây là những câu danh ngôn Phật pháp và đời sống giáo huấn con người nhận ra chân lý, lẽ phải, để biết cách sống tốt hơn, đẹp hơn:
– Người Phật tử hãy nên nhớ, sở dĩ con người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm, do không tin sâu nhân quả và tin chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc.
– Nếu chúng ta không muốn rước phiền não vào mình, thì người khác cũng không thể làm cho ta phiền muộn khổ đau, vì ta đã có cây kiếm trí tuệ, nhờ nghe và biết chiêm nghiệm, để rồi tu sửa và làm chủ bản thân.
– Chúng ta hãy luôn cám ơn nghịch cảnh, vì chính khó khăn đó đã giúp cho ta có cơ hội quay lại chính mình. Nhờ vậy tâm ta an tĩnh, sáng suốt mà tìm ra phương hướng để khắc phục.
– Khi ta vui, ta biết mình đang vui và luôn tâm niệm rằng niềm vui này không phải là vĩnh hằng. Khi ta đau khổ do một hoàn cảnh bức bách nào đó, ta nên biết nỗi khổ này cũng không thể lâu dài, vì ta biết buông xả.
– Sự chấp trước của ta ngày hôm nay, sẽ là niềm hối hận cho mai sau, bởi vì ta đã làm tổn thương đến nhiều người, dù có ăn năn hối lỗi, trái tim ta vẫn rỉ máu.
– Bất mãn là thái độ thiếu khôn ngoan và sáng suốt, người trí càng nỗ lực tu học và dấn thân đóng góp nhiều hơn nữa, khi mọi việc chưa được tốt đẹp, để không bị rơi vào trạng thái tiêu cực.
*An lạc trong cuộc sống
Chìa khóa của sự an lạc trong cuộc sống, chính là biết buông bỏ đúng lúc, những gì không thuộc về mình và trân trọng những gì hiện có. Sau đây là những danh ngôn Phật pháp giúp ta biết cách sống an nhiên, tự tại hơn:
– Chúng ta nên nhớ khi con người có quyền và tiền trong tay, thì hạnh phúc tinh thần sẽ mất đi. Vì lo sợ mất mát, sợ người chiếm đoạt và sợ kẻ thù, những thứ không thuộc về mình, mà cố nắm giữ, chỉ gây thêm phiền muộn khổ đau.
– Người Phật tử hãy cho qua hết việc buồn đau, được mất, hơn thua, không gieo oán giận thù hằn, để tâm an ổn, mà sống đời hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ.
– Con người sống không thể không có niềm tin, nhưng niềm tin đó phải là chánh tín nhân quả, được xây dựng trên cơ sở có chánh kiến, chánh tư duy, bằng sự thấy biết chân chính nhờ biết từ bi hỷ xả.
– Người Phật tử chân chính hãy cho qua hết mọi đam mê có hại đến người và vật, biết phát huy tinh thần giúp đỡ sẻ chia, bằng tình người trong cuộc sống.
– Chúng ta nên biết, không tranh thì an ổn, không giết không hại người vật, thì an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh. Người hay giúp đỡ sẻ chia, thì tâm từ bi rộng lớn mà sống đời an vui, hạnh phúc.
– Người biết đủ, là người giàu có hạnh phúc nhất, vì không thấy thiếu thốn, người tham lam ích kỷ, hà tiện keo kiệt, dù có nhiều tiền vẫn là người nghèo nhất thiên hạ, vì tâm toan tính sợ mất mát.
Danh ngôn về giá trị cuộc sống
Những câu danh ngôn Phật giáo với những giá trị sâu sắc dạy ta hiểu hơn về quy luật sống của thế gian. Hoa nở hoa rơi rồi hoa tàn, tiền tài địa vị cũng sẽ tan, cao sang danh vọng rồi cũng tàn.
– Chúng ta sống phải có niềm tin chân chính về nhân quả thiện ác, do chính mình tạo ra, niềm tin này không phải là tin vào một đấng thượng đế, có khả năng ban phước giáng họa, hay tin vào một điều gì mà mình không hiểu, không biết.
– Người Phật tử phải có hiểu biết, có yêu thương, có trí tuệ, có từ bi và làm lợi ích cho nhiều người, mà không bao giờ tính toán, so đo, nhờ vậy ta sẽ sống bình yên và hạnh phúc.
– Chúng ta phải biết buông bỏ những kiến chấp sai lầm và các tạp niệm xấu ác. Nhờ vậy cuộc sống lúc nào bình yên hạnh phúc, trong từng phút giây.
– Mọi người không nên tiếc nuối về quá khứ tốt xấu, đúng sai mà đánh mất chính mình trong hiện tại, vì ta đang sống hạnh phúc trong từng phút giây của thương yêu và hiểu biết.
– Người Phật tử khi đến chùa đọc kinh nghe pháp, khi hiểu rõ lời Phật dạy, sau đó mới đem áp dụng vào cuộc sống của mình, để có được hạnh phúc cho bản thân, và đem lại lợi lạc cho gia đình xã hội.
– Một niềm tin thiếu hiểu biết gây tác hại, ảnh hưởng xấu, làm trở ngại cho sự phát triển, tiến bộ của xã hội, gieo bất an, khổ não cho nhiều người, thì đó không phải là niềm tin đúng đắn, chúng ta cần loại bỏ.
*Danh ngôn về triết lý nhân quả
Những câu danh ngôn Phật pháp về luật nhân quả, răn dạy chúng sanh phải biết tạo nghiệp tốt, để nhận được quả ngọt:
– Hiểu và ứng dụng lý nhân quả vào trong đời sống hằng ngày, chúng ta sẽ không đổ thừa do số mệnh định sẵn, hay có sự an bài của đấng tạo hóa nào đó, mà không vươn lên làm mới lại chính mình, thay đổi hoàn cảnh cuộc sống.
– Đối với thức ăn vật chất, Đức Phật dạy không nên ăn nhiều, chỉ ăn vừa đủ giúp cơ thể khỏe mạnh, không nên ăn những gì không thích hợp với cơ thể. Đó là cách ăn của chư vị Tổ sư đã thể nghiệm, nên đưa ra pháp tu tương ứng, nhằm duy trì mạng sống chúng Tăng được khỏe mạnh.
– Chúng ta đừng để tâm chạy theo những mối ưu tư của nó, giống như những người bình thường, chưa biết quán sát hơi thở là gì. Một khi ta đã có chỗ an trú, để giữ con khỉ tâm thức, thì nó ngày càng bớt ngang ngạnh và từ từ bớt rong rủi chạy tìm.
– Chúng ta chỉ làm một việc duy nhất, là đơn thuần theo dõi và nhận biết hơi thở rõ ràng, thở vô mình biết mình đang thở vô, thở ra mình biết mình đang thở ra. Hơi thở dài hay ngắn là tùy theo khả năng của mỗi người.
– Ngu dốt là sự không hiểu biết của con người, nên ngu dốt cũng đem tới nhiều tai hại cho bản thân, gia đình và xã hội. Có thể nói, ngu dốt là không có kiến thức, không tin sâu nhân quả, không hiểu biết chân chính về mối tương quan trong thế giới mình đang sống.
Mong rằng với những câu danh ngôn Phật pháp trên sẽ giúp cho Quý Vị tìm ra được giá trị cuộc sống và tâm hồn sẽ trở nên an yên, thanh thản.
LÊ VĂN HẢI
Ba Bài Thơ Mừng Khánh Đản:
Chùa làng
Chùa làng soi bóng hồ sen
Tháng Ba đom đóm rước đèn hoa đăng
Rủ nhau đi cấy sáng trăng
Thoảng mơ tiếng mõ đêm rằm nhặt khoan…
Giọt chuông thánh thót tam quan
Nhành mai gọi chú bướm vàng vờn hoa
Sân chùa tiểu quét lá đa
Khói nhang trầm mặc, la đà câu kinh…
Sương vương hồng đóa môi xinh
Gót tiên đội nắng bình minh lên chùa
Thềm nào rụng quả táo chua?
Thị Màu rình rập bỏ bùa áo nâu…
Về làng hồn tựa vào đâu?
Mái chùa cong vút xanh màu rêu phong
Lại đi cấy giữa sáng trăng
Lại nghe tiếng mõ đêm rằm… nhặt… khoan…
Hoàng Anh Tuấn
*
Trầm Hương Khánh Đản
*
Sớm nay trời ửng nắng hồng
Lời chim hót, tiếng ca trong ngọt ngào
Hải triều âm dậy dạt dào
Hỏi ra mới biết Phật vào cõi hương
Sớm nay nhân thế triều dương
Tin vui truyền khắp mười phương đất trời
Vinh quang hạnh phúc cõi người
Ca tì la vệ rạng ngời pháp thân
Rằng nghe Linh thoại ngàn năm
Ưu đàm hoa nở trăng rằm tỏa hương
Viên thành diệu sử một chương
Đản sinh Văn Phật ơi hương ơi trầm
Trời xanh hiện cát tường vân
Trần gian xuân sắc thanh tân diệu kỳ
Mười phương một niệm Tam quy
Chân như hiện bóng từ bi cát tường.
Hạnh Phương
*
Mừng Phật đản
1.
Hai nghìn năm kinh sử truyền ghi
Một sáng tháng Tư đẹp diệu kỳ
Khắp cõi nhơn thiên bừng tỏ rạng
Đón mừng Phật đản, đấng Từ bi.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Ra đời mở cửa huyền vi nhiệm mầu
Cứu muôn loài thoát khổ đau
Đến bờ an lạc dạt dào yêu thương.
2.
Hôm ấy Tỳ Ni bỗng lạ thường
Vô ưu nở rộ ngạt ngào hương
Líu lo chim hót, hoa khoe sắc
Thiên nhạc ngân vang mọi nẻo đường.
Hân hoan nô nức muôn phương
Mừng bậc xuất thế phi thường giáng sinh
Ba ngàn thế giới chuyển mình
Ca Tỳ mở hội cung nghinh thân vàng.
3.
Thắp nén hương lòng con kính dâng
Mừng ngày Phật đản, niệm hồng ân
Nguyện cùng muôn loại đồng khai ngộ
Thông điệp Từ bi chiếu rỡ ràng.
Lưu truyền khắp cõi nhơn gian
Đạo mầu tỏa ánh từ quang rạng ngời
Chúng sanh thoát cảnh lầm mê
Nương nhờ pháp lạc, lối về thong dong.
Tâm Chơn
Chúc Mừng Đại Lễ Phật Đản PL 2566. DL 2022
Mừng Lễ Phục Sinh 2022! (Happy Easter!) LÊ VĂN HẢI – VAI NẶNG TÌNH ĐỜI . Thơ: CAO MỴ NHÂN – Lê Tuấn
Chủ Nhật Tuần Này: Mừng Lễ Phục Sinh 2022! (Happy Easter!)
Niềm Tin Phục Sinh Công Giáo:
Giáo Hội Công Giáo, Chủ Nhật tuần này, là (Easter Sunday!) tất cả Con Chiên của Chúa khắp nơi trên toàn trái địa cầu, hân hoan cử hành Mầu nhiệm Phục Sinh. Phép lạ Phục Sinh của Đức Kitô là Tín Lý, nền tảng và cao cả nhất của Đức Tin người Kitô Hữu. Nếu Chúa không Phục Sinh, tất cả niềm tin khác trở thành vô nghĩa.
Đối với tất cả con người trần thế, thì ngôi mộ là điểm tận cùng của một kiếp người. “Tro bụi sẽ trở về bụi tro!” Nơi đây, dưới ba tất đất, vua cũng như dân, bậc anh hùng cũng như kẻ cướp, người hiền cũng như người ác, quyền quý cũng như kẻ nghèo khó, tất cả đều phải vùi mình xuống, mục nát thối đi và trở về với đất! Thần chết sẽ là vua tất cả!
Nhưng người Công Giáo tin rằng: Bằng cuộc Vượt Qua của chính mình, Chúa Giêsu đã bật tung cửa mồ sống lại! Người độc nhất, đẩy lùi quyền lực sự chết đã và đang bao trùm thế giới.
Người biến ngôi mộ là điểm cuối của đời người, trở thành cửa ngõ dẫn vào cõi trường sinh! Biến đau thương của sự chết, thành niềm hoan lạc của ngày Phục Sinh! Để khi chấm dứt đời sống trên trần thế, cùng “hẹn nhau trên nước Trời!” Biến ngày cuối của kiếp sống trần gian, trở thành ngày thứ nhất hưởng niềm hoan lạc trong đời sống mới.
Như vậy, để có được sự sống mới, chúng ta phải dứt khoát từ bỏ con người tội lỗi cũ, để trở thành (phục sinh) con người mới với tâm hồn thanh sạch thực thụ. Muốn thế, phải “bỏ hết mọi sự, vác Thánh giá mà theo Ta!” Có như vậy mới xứng đáng là Môn Đệ của Người.
Người Công Giáo mừng Đại lễ Phục Sinh hôm nay, để cùng dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ vì tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Ngài là Vua của Tình Yêu, đã ban cho con người Đứa Con duy nhất Chí Ái của Ngài, chịu chết, đóng đinh trên cây Thập Giá để cứu độ trần gian.
Đồng thời, xin Thiên Chúa củng cố đức tin con cái Chúa trong đêm Canh thức Vượt Qua, để mọi người nhận ra sự đau khổ ở đời này, có giá trị thanh luyện và chuẩn bị cho đời sống vĩnh cửu với Ngài mai sau.
Trong niềm tin “xin thì sẽ được, gõ thì sẽ mở!” những người con của Chúa cầu xin:
-Đức Kitô sống lại đã chứng tỏ tình yêu mạnh hơn sự chết. Nơi nào có tình yêu, nơi đó có Thiên Chúa! Đại lễ Phục Sinh như một lời nhắc nhở con người chúng ta hãy vững tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Nhất là trong hoàn cảnh hiện nay, khi nhân loại đang phải đối mặt với cơn đại dịch toàn cầu, chiến tranh có nguy cơ bùng nổ tàn phá khắp nơi. Đời sống văn minh, khoa học tân tiến, đòi thay quyền tạo hóa, bóp chết sự sống (phá thai), đang làm nhiều người quên hẳn hình ảnh Ngài. Gạt Ngài ra khỏi đời sống, chối bỏ Ngài!
-Nhưng con cái của Chúa tin rằng, tai ương dịch bệnh, thảm họa thiên tai, chiến tranh chết chóc, đau thương khốn khổ, những thứ đó giúp con người nhận ra giá trị cao quý của tình yêu tha nhân, là hình ảnh của Thiên Chúa.
Xin Chúa ban ơn lòng ngay, thiện tâm, luôn có lòng nhân từ, quảng đại, sẵn sàng chia sẻ cơm áo và đóng góp một phần trách nhiệm giúp tha nhân trong lúc khó khăn hoạn nạn, nhất là những nạn nhân chiến tranh Ukraine trong những ngày gần đây.
Để Mùa Phục Sinh năm nay trở nên có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Như giới răn ngài dạy: “Kính Chúa, Yêu Người!” Thật ra chỉ là một! Đó mới chính là ơn cứu độ, ý nghĩa trong Ngày Lễ Phục Sinh 2022!
Nhóm Mõ Nhân Ái Và Đoàn Du Ca Bắc Cali Mang Không Khí Mừng Lễ Phục Sinh 2022 Đến Với Khách Không Nhà! (Homeless!)
Tuần này, Chủ Nhật, ngày 17 tháng 4, là Ngày Lễ Phục Sinh. Lễ này của người Công Giáo, tưởng niệm Chúa chịu chết và mừng Chúa sống lại. Nhưng nay lễ này, đã được mở rộng, ra khỏi phạm vi tôn giáo, ai cũng có thể mừng. Giống như ngày Lễ Giáng Sinh.
Trong tinh thần coi những người Không Nhà như người trong Gia Đình. Thực hiện lời của Chúa: “Phúc thay cho những ai, Ta đói đã cho Ta ăn! Ta khát đã cho Ta uống, Ta trần truồng đã cho áo mặc!” Sáng Thứ Sáu vừa qua, ngày 8 tháng 4 năm 2022. Trong bữa cơm phục vụ 2 ngày trong tuần. Sau khi Khách đã thưởng thức dĩa cơm kho gà cà rị nóng hổi, với ly trà, ly cà phê ấm buổi sáng xong. Người Homeless còn được hưởng không khí một sinh hoạt vui chơi độc đáo mừng Lễ Phục Sinh! Mang nặng ý nghĩa Bác Ái “thương người như chính thân mình!” như lời Chúa dậy.
Khách không nhà lộ vẻ vui mừng thấy rõ trên từng khuôn mặt, khi nhìn thấy không khí sửa soạn bữa cơm khác với những ngày thường. Khăn bàn bày thức ăn, hôm nay được phủ mầu đỏ vui tươi. Trong khi dùng bữa, khách còn được thưởng thức những bài ca rộn ràng, vui tươi đầy tình người. Do các Anh Chị trong Đoàn Du Ca Bắc Cali giúp vui. Hàng chục Anh Chị mặc đồng phục trang trọng, tiếng đàn tiếng hát, rạo rực lòng người! Rất nhiều Khách lộ vẻ ngạc nhiên: “Tôi chưa bao giờ nghe những bài hợp ca hay như thế! Ban hợp ca tuyệt vời quá!”
Sau bữa ăn, Khách đứng thành hàng dài, để lãnh thực phẩm khô và ít vật dụng mang về, ai cũng được các Anh Chị trong đoàn Du Ca tặng thêm 4 trái trứng Phục Sinh! tượng trưng cho ngày lễ. Biết trong mỗi trái trứng có tiền mặt, ai cũng vui mừng!
Không khí trở lên sôi động thấy rõ, với 10 phần thưởng, cho tiết mục Xổ Số lấy hên. Vì mục này chơi nhiều lần, ai cũng biết người trúng, ngoài phần quà, còn có kèm theo một số tiền mặt khá lớn! Nên ai cũng háo hức, cầu mong mình là người may mắn.
Một người trúng số, đã ôm anh Hải, trưởng nhóm, tâm sự: “Chỉ có Nhóm Mõ Nhân Ái mới thương những người Homeless chúng tôi như thế. Không có nhóm nào có những tình cảm thân thiện, đầy tình người như vậy cả. Mang cho chúng tôi, không bao giờ thiếu không khí vui mừng an ủi bất cứ ngày Lễ đặc biệt nào trong năm. Mà đâu phải một năm không thôi, kéo dài biết bao nhiêu năm nay. Chúng tôi rất vui sướng hạnh phúc khi có các Anh Chị luôn luôn ở bên. Happy Easter Day!”
Được biết, Nhóm Mõ Nhân Ái, là Nhóm vui buồn, sống chết với người Homeless bền bỉ nhất trong vùng San jose. Trong tinh thần chỉ biết hăng say phụng sự, năm nay đánh dấu năm thứ 28! Điều đặc biệt hơn nữa, Nhóm không nhận bất cứ một cắc nào tài trợ từ chính phủ. Tất cả đoạn đường 28 năm, đi được là nhờ từ những tấm lòng giúp đỡ của Quý Ân Nhân và Quý Hội Đòan trong vùng tiếp tay mà thôi.
“Bình an dưới thế cho người thiện tâm!” Chính vị mục đích vô vị lợi, “chia cơm, sẻ áo” với những người xấu số! bất kể sắc tộc, mầu da! Nên đã được rất nhiều Quý Ân Nhân ẩn danh giúp quỹ, nên không bao giờ thiếu tài chánh phục vụ cả! Cứ hết thì…lại có! Mà đâu phải một năm, mà kéo dài đến…mấy chục năm nay!
Đây cũng là một phép lạ! (Như phép lạ, 5 cái bánh và 3 con cá, mà Chúa chúa đã làm) Không ai nghĩ là có thể thực hiện được và kéo dài như thế!
Nhân Lễ Phục Sinh, kính chúc Quý Ân Nhân đã góp tay quý báu, để chương trình giúp đỡ Homeless trường tồn. Được mọi Ơn Lành từ Trời Cao. Thượng Đế sẽ không quên những hành động cao đẹp của Quý Vị, giúp đỡ những mảnh đời khốn khổ, không may. Như Người đã hứa “dù tặng một cốc nước cho những người đói khổ hèn mọn, thì cũng đã được ghi công!”
Thay mặt những người Homeless được giúp đỡ, Xin chắp tay Chân Thành Cảm Tạ.
Chúc Mừng Lễ Phục Sinh 2022!
VAI NẶNG TÌNH ĐỜI. CAO MỴ NHÂN * Mặt trời ngày Phục Sinh Mầu hoàng kim rực rỡ Cuộc tình đang hồi sinh Giữa mây vàng bỡ ngỡ * Chúa về gọi yêu thương Khi hồn em tan nát Lá cọ hoang tơ vương Từng sợi sầu bát ngát * Mặt trời vút lên cao Nửa kiếp người chìm khuất Núi mùa xuân xôn xao Dấu chân này sẽ mất * Vai mang nặng tình đời Bước theo Đường Thánh Giá Thôi em bỏ cuộc chơi Thành xưa khô lệ đá … * CAO MỴ NHÂN (HNPD)
Tin mừng Chúa đã phục sinh Tay chân đinh đóng, nhục hình vượt qua Trời rực sáng ngày thứ ba Hang sâu mộ địa chan hoà nắng xuân. * Chúa bước ra khỏi mộ phần Hào quang rực rỡ trong thân xác người Thiên Chúa nở một nụ cười Phước cho ai không thấy người mà tin. * Hãy đón nhận đức thánh linh Chúa tha thứ hết tội tình thế gian Muôn người hưởng phúc bình an Tình yêu Thiên Chúa ngập tràn hương hoa. * Lê Tuấn Mừng Thiên Chúa Phục Sinh Sunday 04-17-2022
Mừng “Ngày Cựu Chiến Binh Mỹ Từng Tham Dự Chiến Tranh Việt Nam.” LÊ VĂN HẢI
Mừng “Ngày Cựu Chiến Binh Mỹ Từng Tham Dự Chiến Tranh Việt Nam.”
Nhắc nhở hôm nay! 29 tháng 3! Là ngày toàn nước Mỹ mừng: “Ngày Kỷ Niệm, Vinh Danh Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ Đã Tham Dự Trong Cuộc Chiến Việt Nam!”
Vào thời Cựu Tổng Thống Donald Trump, năm 2018, Ông đã ký một đạo luật Liên Bang S.305, chỉ định ngày 29/3 hàng năm, là “Ngày Cựu Chiến Binh Mỹ Từng Tham Dự Chiến Trường Việt Nam.”
Luật S. 305, khuyến khích công dân treo Quốc kỳ Mỹ, mừng ngày 29/3, để tôn vinh “Ngày Cựu chiến binh HK tham chiến trong chiến tranh Việt Nam.”
Trước khi ký, Cựu Tổng thống Trump viết trên Tweeter rằng:
“Tối nay tôi rất tự hào đã ký dự luật S. 305 này. Yêu cầu các công sở chính quyền, nhân dân Hoa Kỳ, treo cao lá Quốc kỳ Hoa Kỳ vào Ngày Cựu Chiến Binh Việt Nam mỗi năm! Để tưởng nhớ công ơn, những chiến sĩ anh hùng của chúng ta!”
Quốc Hội, Phó Tổng thống và chính quyền địa phương các cấp, cũng đã ca ngợi Tổng thống ký thành luật, dự luật lịch sử. Tôn vinh các cựu chiến binh Mỹ từng chiến đấu Việt Nam, giống như các cuộc chiến khác trong lịch sử Hoa Kỳ.
Luật đánh dấu, cách đây đúng 44 năm, vào ngày 29/3/1973, các binh sĩ Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam.
Truyền thông báo chí Hoa Kỳ kỷ niệm ngày này nhắc lại rằng, nhiều cựu chiến binh đã bị đối xử tồi tệ sau khi hồi hương về nước. Vì nhiều phong trào phản chiến, chống đối chiến tranh Việt Nam, bị CS tuyên truyền, đổ vạ vô lý, cho các quân nhân Hoa Kỳ có lỗi khi làm tình hình thêm bi thảm, nên đã thua trận chiến!
Luật S. 305, đánh dấu 44 năm sau, các cựu chiến binh giờ đã được thừa nhận và chính thức được vinh danh! Nhờ nỗ lực của Thượng nghị sĩ Joe Donnelly, đại diện tiểu bang Indiana.
Ông Donnelly và Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ tiểu bang Pennsylvania là Pat Toomey, cũng là đồng tác giả của Dự luật S. 305, công nhận và tri ân các cựu chiến binh Mỹ chiến đấu tại Việt Nam.
Theo bản thông báo do Thượng nghị sĩ Donnelly công bố, sau khi dự luật do ông tiến cử trở thành luật, có đoạn viết:
“Vào cuối cuộc chiến, rất nhiều cựu chiến binh của chúng ta trở về từ chiến trường Việt Nam, đã không được giang cánh tay đón chào ấm áp. Nói đúng là với thái độ thờ ơ, lạnh nhạt! Những cống hiến, hy sinh của họ đã không được công nhận. Dự luật này sẽ giúp đất nước chúng ta vinh danh thế hệ cựu chiến binh VN. Họ đã dạy cho chúng ta thế nào là lòng yêu nước và phụng sự tổ quốc. Họ còn sống hay đã chết xứng đáng được tôn vinh về cống hiến và hy sinh xương máu của Họ. Tôi vui mừng được làm việc với Thượng nghị sĩ Toomey để cổ vũ cho Ngày Kỷ Niệm này”
Dự luật này được Thượng viện phê duyệt với sự ủng hộ của lưỡng đảng hôm 8/2, và được Hạ viện thông qua hôm 21/3. Tổng thống Trump ký dự luật ấy thành luật, có hiệu lực từ đêm 28/3.
Theo thống kê Bộ quốc phòng Mỹ, có 2.7 triệu binh sĩ Mỹ từng phục vụ tại Việt Nam, hơn 58.000 binh sĩ đã hy sinh và hơn 304.000 người bị thương.
Tại Bức tường đá đen tưởng niệm Chiến Tranh Việt Nam ở Thủ đô Washington, trong ngày này, rất nhiều Cựu Chiến Binh Mỹ & Việt, tụ họp đông đảo. Thường có tổ chức lễ kỷ niệm và đặt vòng hoa tưởng nhớ, tri ân những người Con yêu của Tổ Quốc, đã hy sinh trên chiến trường Việt Nam. Các cựu chiến binh còn sống nhớ về đồng đội, một thời chiến đấu bên nhau.
Riêng hàng trăm ngàn người Lính Việt Nam Cộng Hòa đã nằm xuống trong trận chiến, bảo vệ Quê hương Miền Nam no ấm, tự do, hạnh phúc trên 20 năm, số phận hẩm hiu của Họ, vẫn bị …lãng quên! Mộ bia, thân xác của họ, vẫn bị kẻ thù bị đào xới trên chính quê hương của mình!
Những người Cựu Chiến Binh Mỹ, còn có Quê hương để trở về, còn Người Lính VNCH… thì không!
Thêm một nỗi buồn đau đớn, xót thương, lại sắp vào thời điểm Tháng Tư Đen!
Lê Văn Hải
KỶ NIỆM LỄ HAI BÀ TRƯNG – Lê Văn Hải +Thơ Minh Thúy
Lật Lại Trang Sử Oai Hùng Phụ Nữ Giữ Nước, Đánh Đuổi Quân Xâm Lăng!
Nhớ xưa phất ngọn Cờ Vàng!
Trưng Trắc, Trưng Nhị, chiến trường xông pha!
Trong lịch sử đánh giặc ngoại xâm, gìn giữ đất nước Việt Nam, có nhiều cuộc khởi nghĩa tiêu biểu chống ngoại xâm, bảo vệ và thống nhất đất nước. Trong đó nổi bật là cuộc khởi nghĩa oanh liệt của Hai Bà Trưng. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà, tuy chỉ đưa lại độc lập cho đất nước trong gần 3 năm. Nhưng ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa ấy lại vô cùng to lớn! Tiếng vang của nó đời đời bất diệt.
Cuộc khởi nghĩa của hai Bà, tiêu biểu cho ý chí bất khuất vươn lên của dân tộc ta. Mở đầu cho xu thế phát triển độc lập của lịch sử Việt Nam.
Nó có tác dụng khai phóng, đặt phương hướng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sau này. Cuộc khởi nghĩa do Hai Bà lãnh đạo, là một trang sử vô cùng đẹp đẽ, huy hoàng trong lịch sử dân tộc.
Nó làm hãnh diện rạng rỡ dân tộc ta nói chung và làm vẻ vang cho phụ nữ VN nói riêng.
Lịch sử là bài học lập lại, gần đây nhiều bằng chứng, CSVN có âm mưu bắt tay bán nước cho Tầu Cộng. Nhắc lại trang sử gương Hai Bà đánh đuổi quân xâm lăng, cũng là một điều rất cần thiết trong thời điểm này.
Ca dao, tục ngữ Việt Nam có câu:
Tháng Tám giỗ Cha.
Tháng Hai giỗ Mẹ!
(Ngày 6/2 âm lịch, là giỗ Hai Bà Trưng, người dân kính trọng, coi như người Mẹ chung của đất nước.)
Hay:
Đố ai nêu lá Quốc Kỳ
Mê Linh đất cũ còn ghi muôn đời.
Yếm, khăn đội đá vá trời
Giặc Tô (Định) mất vía rụng rời thoát thân?
Anh hùng đã tỏ tài trai
Nữ nhi cũng chẳng kém loài bồng tang!
Chút Lịch Sử Về Hai Bà
Hai Bà Trưng là hai vị Nữ Anh Thư đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, thế kỷ thứ Nhất (Tây lịch). Là những Tướng Lĩnh khởi binh chống lại nhà Đông Hán của Trung Hoa. Lập ra một quốc gia độc lập, đặt kinh đô tại Mê Linh. Xưng Vương, tên hiệu là Trưng Nữ Vương.
Cuộc khởi nghĩa này sau đó lại bị quân Hán, tướng Tầu tên Mã Viện chỉ huy đánh bại. Hai Bà không khuất phục, đã nhảy xuống sông Hát Giang tự tử. Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi Trưng Trắc là một vị phụ nữ là vua đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
Do chính sách đồng hóa và bóc lột của nhà Đông Hán, đối với người Việt. Các Lạc tướng người Việt, đồng nổi lên chống lại nhà Hán. Trưng Trắc cùng chồng là Thi Sách, nổi lên chống lại vào năm 39-40. Thi Sách bị giết. Trưng Trắc và các Lạc tướng, cùng em Trưng Nhị mang quân về giữ Hát Môn.Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 2 năm 40, Trưng Trắc cùng Trưng Nhị khởi nghĩa chống lại nhà Đông Hán. Cuộc khởi nghĩa được sự hưởng ứng của các nơi thuộc Âu Lạc và Nam Việt. Quân Hai Bà đánh chiếm thành Luy Lâu. Tô Định phải bỏ chạy về Tàu. Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai Bà lấy được 65 thành thuộc Lĩnh Nam. Trưng Trắc lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương.
Đại Nam quốc sử diễn ca, có đoạn kể về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, đã trở thành quen thuộc đối với người Việt:
Trong lịch sử đánh đuổi giặc ngoại xâm, gìn giữ đất nước Việt Nam, có nhiều cuộc khởi nghĩa, tiêu biểu chống ngoại xâm, bảo vệ và thống nhất đất nước, trong đó nổi bật là cuộc khởi nghĩa oanh liệt của Hai Bà Trưng.
Nên hàng năm, cứ vào ngày 6 tháng 2 âm lịch, là ngày giỗ hay là lễ tưởng nhớ Hai Bà (cũng là Ngày Phụ nữ Việt Nam tại miền Nam VNCH trước kia) Được tổ chức rất trọng thể trước năm 1975. Có những năm Hai Bà còn cưỡi hai con voi thật, diễn hành trên đường phố Sài Gòn. Hiện nay tại nhiều nơi trong nước Việt Nam, cũng như Cộng đồng người Việt tại nước ngoài, đến ngày này, nhớ ơn Hai Bà, đã tổ chức những Lễ Kỷ Niệm rất trọng thể.
Được biết, tại miền Bắc Cali, trong Lễ Chào Cờ đầu tháng 3 (thuộc tháng 2 Âm Lich) tại Vườn Truyền Thống Việt.
Lúc 9 giờ sáng, Thứ Bảy 5 tháng 3 năm 2022 (tuần này!)
Tại số: 1499 Roberts Ave San Jose, CA 95122.
Bà Ngọc Bích, Hội Người Việt Cao Niên Vùng Vịnh (cũng là thành viên VTLV) và Bà Sơn Loan, Hội Phụ Nữ Việt Nam Hải Ngoại Bắc Cali thông báo:
Có tổ chức LỄ KỸ NIỆM 1982 NĂM KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƯNG, sau khi Chào Cờ.
Kính mời tất cả Chúng Ta cùng tham dự, để tưởng nhớ Cha Ông anh hùng, đã có công dựng nước, giữ nước trên 4 ngàn năm! (không giống như CSVN,) đã không để một tấc đất nào, lọt vào tay quân thù!
LVHải
Trưng Nữ Vương
Nhị nữ can trường xứng được ca
Oai phong chiến đấu đuổi gian tà
Đề cơ tướng mạnh , thù lui lẩn
Đối trận quân hùng , giặc chạy xa
Vẫy cánh nơi thành ra núi biển
Truyền gươm chốn cửa tới giang hà
Hy sinh tánh mạng vì non nước
Sách sử muôn khi nhắc quý bà
Minh Thuý Thành Nội
THƠ NHẠC CHÚC MỪNG GIÁNG SINH – Đỗ Quang Vinh
MERRY CHRISTMAS and HAPPY NEW YEAR
CHÚC MỪNG LỄ CHÚA GIÁNG SINH
KÍNH CHÚC VĂN THƠ LẠC VIỆT
Một Mùa Thánh Đức /A Holy Season wishing
Năm Mới bình an / A New Year greetings
Hân hoan vạn phúc /Plenty of Joy and Happines
Chất ngất Thiên Ân / Abundance of God’s Blessdness
Merry Christmas and Happy New Year 2022 greeting card. Vector illustration
MỪNG LỄ TẠ ƠN – Lê Văn Hải
Vài Truyện Rất Ngắn Đọc Để Suy Gẫm Nhân Mùa Lễ Tạ Ơn
Vài ba câu chuyện thật, xảy ra hàng ngày trong đời sống quanh ta, được kể lại trong mùa lễ Tạ Ơn. Những cử chỉ tử tế, không cần lớn, nhưng làm thế giới này thêm tươi đẹp, nồng ấm tình người. (Dịch từ Reader’s Digest)
Đời sống có quy luật của nó, lòng tốt không bao giờ mất! lại có sức lan truyền rộng lớn. Cứ làm điều gì đó, dù nhỏ nhoi đến đâu, nhưng với hết tấm lòng, hãy làm một lần với ai đó, kết quả sẽ tốt đẹp hơn mình tưởng!
Chỉ có trái tim tình thương sẽ biến đổi thế giới tốt đẹp hơn, hận thù chỉ tàn phá, biến thế giới này thành …địa ngục!
Nhân ngày Lễ Tạ Ơn, nhắc nhở chúng ta thử thực hành một vài việc giúp đỡ rất nhỏ nhoi, với những người chung quanh ta, như những câu chuyện kể sau đây. Bạn sẽ nhận ra ý nghĩa sâu sa hơn về ngày lễ Tạ Ơn đặc biệt này. Thử một lần đi Bạn nhé.
Jim và công việc:
Jim, người láng giềng của tôi, đang đắn đo xem đã đến lúc nghỉ hưu hay chưa. Thế rồi ông chợt nhớ ra một người cha trẻ cạnh nhà, có ba con nhỏ và không tìm ra việc đã lâu, ít ra cũng vài năm, nên đời sống gặp rất nhiều khó khăn. Ngày hôm sau, ông đến văn phòng nộp đơn nghỉ hưu và đề nghị thu nhận người cha trẻ kia vào thế chỗ của ông. Người cha trẻ này vậy mà đã làm việc được ở đó đã sáu năm nay. Mỗi buổi chiều nhìn người trai trẻ đi làm về, ba đứa con quấn quýt chung quanh cha, người vợ âu yếm nhìn chồng. 6 năm về hưu, nhìn cảnh hạnh phúc do mình góp tay tạo ra này, Jim nhận ra rằng, đây là món quà hạnh phúc nhất, vui sướng nhất, cả đời chưa bao giờ có, dành cho mình trong những ngày thôi việc! (Theo Miranda MacLean, Michigan)
Những quả táo từ Max:
Cháu ngoại Max của tôi, bảo mẹ cháu là Andrea rằng, thay vì cho tiền nhân ngày sinh nhật 21 của nó, thì cứ hiến tặng, hay làm cái gì đó cho người khác. Vậy là Andrea nghĩ ra một cách, cô ra ngân hàng rút 21 tờ $10, mua thêm 21 quả táo và nhờ đứa em của Max là Charlie, mang theo máy quay phim. Andrea dừng lại trước một người vô gia cư và cho ông $10 cùng một quả táo rồi bảo: “Hôm nay là sinh nhật 21 của Max, con trai tôi. Max bảo cứ tặng quà cho người khác để mừng sinh nhật của nó!”. Thế là người đàn ông cầm tiền và táo, rồi nhìn vào máy quay phim, vừa tươi cười, vừa thân mật nói: “Chúc mừng sinh nhật Max nhé! Cám ơn món quà sinh nhật, Thanks!” Những người khác đến xếp hàng nhận tiền và táo cũng đồng hô to: “Hoan hô Max! Chúc mừng sinh nhật Max! We love you!” Max khi xem đoạn video này, lòng trào lên niềm sung sướng hạnh phúc vô biên. Ðó là món quà sinh nhật mà Max vui nhất cho cả cuộc đời, mỗi khi xem lại đoạn phim độc đáo, đáng nhớ quá vui này! (Theo Dr. Donald Stoltz – Pennsylvania).
Người đàn ông trong chợ:
Khi người nhân viên thu ngân đã tính hết tiền các món hàng, tôi bối rối quá vì bị thiếu 12 đô. Ðang dự tính lựa bỏ ra dăm món đồ, thì người đàn ông phía sau đưa tôi tờ 20. Tôi quay người lại”: “Ông không cần làm vậy đâu”. Người đàn ông từ tốn trả lời: “Ðể tôi kể cô nghe chuyện này. Mẹ tôi bị ung thư và đang nằm trong bịnh viện. Ngày nào tôi cũng mua hoa vào thăm mẹ. Sáng nay bà không vui, vì thấy tôi cứ tốn tiền mua hoa hoài, bà bảo hãy làm gì đó cho ai với số tiền mua hoa cho bà. Thì đây, xin cô cứ cầm lấy tiền đi, đó là những bông hoa từ mẹ tôi thôi! chứ không phải của tôi đâu!”. 20 đô la giúp đúng lúc này, là món tiền tôi nhận ơn nhớ nhất trong cuộc đời! 20 đô la, thật ra chỉ là món quà nhỏ, nhưng in sâu vào trái tim tôi, không bao giờ quên! (Chuyện kể từ Leslie Wagner- Arkansas)
Tai nạn trên đường:
Khi chúng tôi gặp tai nạn giữa đường vắng vẻ, một gia đình từ tiểu bang khác, chạy ngang đã dừng lại giúp chúng tôi. Khi thấy chúng tôi bị thương, họ chở chúng tôi vào bịnh viện cách khá xa nơi bi tai nạn, để nhân viên y tế xem xét, cứu chữa. Rồi chờ ở đó, cho đến khi chúng tôi được bác sĩ cho về. Họ còn chở chúng tôi về nhà, giữa đường, còn dừng mua đồ ăn cho chúng tôi. Đợi mọi chuyện yên ổn rồi mới đi. Trong cơn bối rối, chúng tôi quên cả việc xin địa chỉ, số phone của những ân nhân nhân đặc biệt này. Quả là bất ngờ khi biết họ đang trên đường lái xe đi nghỉ mát và dừng lại giúp chúng tôi như vậy. Chuyến nghỉ mát của họ bị hủy vì giúp chúng tôi. Nhưng ơn này, chúng tôi không bao giờ quên, nhắc nhở mãi mỗi khi có cuộc gặp gỡ trong gia đình. Nhất là những buổi tiệc trong mùa Lễ Tạ Ơn (Theo Cindy Earls – Oklahoma)
Bảy dặm đường:
Rời cửa tiệm quay lại xe. tôi mới bối rối, hốt hoảng hay là mình bỏ quên cả điện thoại và chìa khóa xe trong xe! Thấy bộ dạng của tôi, một cậu thiếu niên chạy xe đạp ngang qua dừng lại hỏi chuyện. Tôi bảo: “Tôi có chìa khóa phụ ở nhà, nhưng dù vậy thì vợ tôi cũng chẳng làm gì được, vì đây là chiếc xe duy nhất mà hai vợ chồng chúng tôi có!” Ðưa điện thoại cho tôi, cậu thiếu niên bảo: “ông gọi về cho bà nhà đi, tôi chạy đến lấy chìa khóa xe cho!” Thế rồi một lúc sau cậu ta quay lại với chùm chìa khóa trong tay, người ướt đẫm mồ hôi, đạp xe cấp tốc hơn bảy dặm đường dài chứ ít sao. Tôi cảm ơn rối rít thì cậu trả lời: “Có gì đâu, có dịp đạp xe tập thể dục vậy mà. Chuyện nhỏ thôi! Không cần để ý làm chi! ” Nói xong, cậu tiếp tục đạp xe, phóng đi. Cử chỉ tử tế của cậu, làm tôi nhớ mãi. (Theo Clarence Stephens, Kentucky)
Lòng tốt nhân đôi:
Hai nhân viên chữa cháy đang sắp hàng mua đồ ăn fast-food, thì còi xe báo động, cả hai vội vàng quay ngược lại chiếc xe cứu hỏa đang đợi phía ngoài. Hai vợ chồng mới vừa nhận đồ ăn của mình xong, thấy vậy, đưa hết bịch đồ ăn của mình, cho hai người lính cứu hỏa. Rồi xếp hàng trở lại để mua lại phần ăn cho mình. Thấy hành động tử tế này, người manager của cửa tiệm ra dấu cho họ khỏi phải xếp hàng và khăng khăng không nhận tiền của họ. Những người đang xếp hàng, đồng loạt vỗ tay hoan hô! Lòng tốt có sức nóng, có sức mạnh mau chóng lan truyền đến với những người chung quanh! (Theo JoAnn Sanderson, Florida)
Chỉ đường:
Khi tôi rời một buổi tiệc, ra xa lộ thế nào mà tôi lạc mất phương hướng, không biết phải chạy ra làm sao, giữa đêm khua vắng vẻ. Tấp vào lề, tôi gọi cho số điện thoại giúp đỡ thân chủ của hãng xe, cô nhân viên cố nối tôi liên lạc với nhóm nhân viên xa lộ, nhưng không được. Cuối cùng cô bảo văn phòng cô tình cờ không xa lắm chỗ tôi đang ở và cô cũng chuẩn bị xong giờ làm, cứ đợi cô sẽ chạy ra đó. Khoảng mười phút sau cô có mặt và lái xe phía trước dẫn đường, cho cho tôi đi ra xa lộ. Lòng tôi reo vui, sung sướng hạnh phúc, cuộc sống vẫn còn nhiều người tử tế quá! (Theo Michelle Arnold, California).
Đã được cha mẹ dạy bảo điều đúng:
Quan sát các trẻ nhỏ chơi đùa tại khu trẻ em trong tiệm IKEA. thì cháu gái 5 tuổi của tôi bất ngờ dừng lại trước một cậu bé khác. Con bé cúi xuống thắt lại dây giày cho chiếc giày của thằng bé vừa bị sút dây. Cả hai không nói điều gì, làm xong rồi, cùng tự nhiên rượt đuổi nhau chạy tiếp. Mọi người nhìn cảnh này khen ngợi: “Bà dạy cháu làm sao mà khéo thế!” Lòng tôi reo vui sung sướng! (Theo Sheela Mayes, Louisiana)
Lọ nước hoa kỷ niệm:
Tôi mở bán garage sale, thì một phụ nữ ghé mua. Cái mùi nước hoa khá đậm và đầy quen thuộc. Tôi hỏi, “chị xài nước hoa gì vậy?”. “White Shoulders”- bà trả lời. Té ra là vậy, đó là mùi nước hoa mà người mẹ thương yêu của tôi vẫn xài khi còn sống. Cả một trời kỷ niệm về mẹ con ùa về với tôi khi tôi kể cho bà nghe. Bà mua vài món rồi bỏ đi. Mươi phút sau bà quay lại và tặng tôi lọ nước hoa “White Shoulders” của mẹ tôi ngày nào, trên tay còn kèm theo bó bông, ân cần trao tặng: “Nước hoa tặng chị, bó bông cho Mẹ của chị!” Tôi không nhớ giây phút cảm động này, ai đã là người khóc trước. (Theo Media Stooksbury, Tennessee).
Chiếc áo đầm:
Tôi bắt gặp chiếc áo đầm trong một cửa hiệu nhỏ, mà tôi tin chắc là đứa cháu tôi sẽ rất thích. Túi tiền có hạn, nên tôi ngần ngừ hỏi người chủ tiệm, có thể để dành chiếc áo đầm đó lại, cho đến khi tôi đủ tiền để trởi lại mua. Từ phía sau, một phụ nữ bảo rằng bà sẽ trả tiền chiếc áo đầm đó cho tôi. Tôi lắc đầu không nhận thì bà ấy kể rằng: “Bà là một người từng lâm cảnh vô gia cư, được những người khác giúp đỡ rất nhiều. Bây giờ bà đã khá hơn rất nhiều và luôn tâm nguyện sẽ giúp đỡ bất cứ người nào khác cần giúp đỡ, để đáp trả những tấm lòng độ lượng từng cưu mang bà, trong những lúc cực khổ trước đây.” Bà trả tiền cho chiếc áo đầm và chỉ nhận cái ôm cảm ơn của tôi. Cháu của tôi khi nhận được chiếc áo đầm và nói lời cảm ơn tôi rối rít, tôi rất xúc động nhớ đến bà. (Theo Stacy Lee, Maryland)
Chúc Mừng Lễ Tạ Ơn 2021
Happy Thanksgiving!
Biết Ơn là nguồn cội của Hạnh phúc:
“Trái tim không biết Ơn, Bạn sẽ không bao giờ tìm thấy Hạnh phúc. Thử một lần đi, khi Bạn có lòng Tạ Ơn trong tâm, Hạnh phúc sẽ đến từng phút giây!”
(Henry Beecher)
Giới Thiệu Sinh Hoạt Trong Mùa Tạ Ơn 2021 – LÊ VĂN HẢI
Giới Thiệu Sinh Hoạt Trong Mùa Tạ Ơn 2021 – LÊ VĂN HẢI
Trưởng Lê Văn Hải (Tên Rừng: Tê Giác Hiền Hòa) đóng vài đầu bếp chính, nấu Con Gà Tây, sinh hoạt phục vụ các Em Hướng Đạo, trong Tiệc Mửng Lễ Tạ Ơn năm 2018, của Liên Đoàn Hướng Đạo Bách Việt.
Lời Mời
THAM DỰ CHIỀU SINH HOẠT VÀ TIỆC TẠ ƠN 2021 VỚI LIÊN ĐOÀN HƯỚNG ĐẠO BÁCH VIỆT.
Kính thưa Quý Vị,
Theo truyền thống Phụ Huynh, Gia Đình, Bạn Bè Thân Hữu, gặp nhau trong dịp Lễ Tạ Ơn, đã được Liên Đoàn thực hiện, liên tục gần 10 năm nay.
Chỉ có năm vừa rồi, bị gián đoạn vì đại dịch Covid mà thôi.
Năm nào Tiệc Tạ Ơn cũng đông đảo, vui vẻ, đầy tình thân ái. Một trong những sinh hoạt nổi bật của Liên Đoàn, mà nhiều người mong đợi nhất khi mỗi Mùa Tạ Ơn về.
Năm nay, Trưởng Lê Văn Hải (Phó Ngoại Vụ Liên Đoàn) xung phong đảm nhận việc tổ chức, công thức có chút thay đổi, hy vọng khác lạ, vui vẻ hơn những năm trước.
Gồm 2 phần:
-Chương trình sinh hoạt trò chơi, ca hát văn nghệ, từ 2 giờ, đến 4 giờ 30 chiều, Chủ Nhật, ngày 21 tháng 11 năm 2021. Tại Cà Phê Lover, số 1855 Aborn Rd, San Jose, Ca 95121.
-Sau đó Tiệc Tạ Ơn tại Nhà hàng Cao Nguyên, số 2549 King Rd, San Jose, Ca 95122.
*Như mọi năm, Trưởng Hải sẽ là đầu bếp nấu con Gà Tây phục vụ tất cả mọi người.
*Nhiều mục vui truyền thống, lì xì, trò chơi, rút số lãnh thưởng. Đặc biệt ca hát giúp vui văn nghệ, đều có thưởng! Quý Anh nào thích tí men say, cũng phục vụ luôn! “Hổng say hổng dzề!”
Tất cả hoàn toàn miễn phí!
Để tiện việc sắp xếp, muốn tham dự, chỉ cần liên lạc với Trưởng Lê Bình (408) 628-8759 để ghi danh.
Cảm tạ Trời, Cám ơn Đời! Cám ơn Người!
Kính Chúc Quý Vị và Gia Quyến một Mùa Lễ Tạ Ơn, An Lành, Vui Tươi, Hạnh Phúc,
Trân Trọng Kính Mời
Thân Ái Bắt Tay Trái.
Tê Giác Hiền Hòa (Tên Rừng) RS (Rover Scout)
Lê Văn Hải.
MỪNG LỄ LAO ĐỘNG HOA KỲ: Lê Văn Hải & THƠ Phương Hoa
Cuối Tuần Này: Mừng Lễ Lao Động Hoa Kỳ (Labor Day)
Ý nghĩa ngày Lễ: Chỉ có Lao động, lao động, lao động! Với bàn tay lem luốc, công việc cực nhọc, vầng trán thấm mồ hôi. Mới biến thế giới này tốt đẹp hơn! Không còn cách nào khác!
Danh Ngôn Vinh Danh Lao Động:
-Tôi chưa bao giờ vô tình làm điều gì, cũng như không phát minh nào của tôi đến từ sự vô tình cả. Chúng đến từ những vất vả, kết quả của lao động! (Thomas Edison)
-Ý tưởng phải được tạo thành qua khối óc và bàn tay cần cù lao động của những người tốt và can đảm. Không thì tất cả cũng chẳng hơn là những giấc mơ. (Ralph Waldo)
-Người lao động là người hạnh phúc nhất. Chính những kẻ nhàn rỗi, lười biếng, mới là người khốn khổ! (Benjamin Franklin)
-Anh phải lao động không mệt mỏi và táo bạo, nếu anh thực sự muốn sống hạnh phúc và có ý nghĩa! (Vincent Van Gogh)
-Thế giới đang tiến về phía trước, không phải bởi những cú đẩy mạnh mẽ của những anh hùng, những thần thánh. Mà bởi tổng hợp những cú đẩy yếu ớt của những người lao động lương thiện. Chúng trở thành sức mạnh vô song! (Helen Kell)
-Người lao động chăm chỉ, không bao giờ tuyệt vọng, bởi họ tin tưởng rằng, tất cả điều tốt đẹp đạt được, tất cả bằng sự chăm chỉ lao động!
Mừng Lễ Lao Động
Ngày lễ này, được mừng vào thứ Hai đầu tiên, của tháng 9 mỗi năm. Năm nay, vào Thứ Hai, ngày 6/9/2021.
Đây là một trong những ngày lễ lớn quốc gia, mọi người dân được hưởng một cuối tuần dài vui vẻ, để nghỉ ngơi, vui chơi với bạn bè và người thân.
Lễ Lao Động là ngày dành riêng để tôn vinh và ghi nhận sự đóng góp quan trọng Lực Lượng Lao Động, cho xã hội và kinh tế, đóng góp vào sự phát triển phồn thịnh của đất nước Hoa Kỳ, một trong những quốc gia giầu có nhất thế giới.
Ý tưởng có ngày lễ này, do từ một người thợ máy, tên Marguire Matthew, người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan, cũng là một đoàn viên trong trong Nghiệp đoàn lao động. Ông muốn những công nhân phải có một ngày được vinh danh và nghỉ ngơi, như nước láng giềng Canada đã thực hiện, và tranh đấu để có một ngày như thế tại Mỹ.
Lễ lao động đầu tiên được tổ chức vào năm 1882, nhưng đến năm 1884 mới thành ngày lễ chính thức.
Trong ngày lễ này, các hiệp hội công nhân, các nghiệp đoàn, thường tổ chức những buổi diễn hành lớn, hòa nhạc, bắn pháo bông, sự kiện thể thao, nhằm tôn vinh các lực lượng lao động đủ mọi ngành nghề của đất nước.
-Không chính thức, nhưng hầu hết người Mỹ dùng ngày này, để đánh dấu sự chấm dứt của Mùa Hè, để bước qua Mùa Thu.
-Sinh viên, học sinh bắt đầu mùa tựu trường.
-Mùa Football bắt đầu! (NFL thường chơi trận banh đầu tiên vào thứ Năm, sau ngày lễ.)
– Đây cũng là dịp đánh dấu ngày mua sắm hàng hóa, quà bánh, vật dụng sửa soạn cho những ngày lễ lớn cuối năm. Thương vụ thu nhập chỉ thua ngày Black Friday (Lễ Tạ Ơn)
-Dịp cuối cùng để thực hiện các sinh hoạt ngoài trời, như cắm trại, ra biển, picnic, nướng barbecue, giã từ những ngày nắng ấm, trước khi trời trở lạnh.
Lời Chúc Mừng
Kính chúc Quý Vị, Gia Đình vả Người Thân: Một ngày lễ Lao Động Vui Vẻ, Hạnh Phúc, Khỏe Mạnh, An Vui và đạt mọi điều ước muốn trong cuộc sống.
Lê Văn Hải
VULAN NHỚ MẸ – Thơ Phổ Nhạc Phạm Phan Lang – Truyện Ngày VU LAN – Lê Văn Hải Sưu Tầm- Thơ VU LAN Xướng Họa: Minh Thúy & Phương Hoa + Hoàng Mai Nhất
Thơ PhạmPhanLang – Nhạc Vĩnh Điện – Ca sĩ Ngọc Quy
Mời Đọc Vài Truyện Rất Ngắn Nhân Mùa Vu Lan 2021
(Do Lê Văn Hải lượm lặt và kể)
Chút lời mào đầu.
Con cái là tài sản lớn nhất, quý nhất của Cha Mẹ, nhưng những đứa con lại không nghĩ như thế. Coi Cha Mẹ phải có bổn phận, sinh ra thì phải nuôi nấng thế thôi. Nước mắt bao giờ cũng chảy xuôi!
Nhất là trên một đất nước văn minh, bận rộn, quay cuồng trong đời sống, nhiều người coi Cha Mẹ già là một gánh nặng, nên hay quên, hay có những những hành động làm Hai đấng Sinh thành rất đau lòng.
Nhân mùa Vu Lan, gợi cho chúng ta sống theo lẽ phải, đúng với lương tâm con người. Xin được kể vài ba câu chuyện nho nhỏ, để chúng ta suy nghĩ lại xem, có bao giờ đã đối xử tệ bạc với những người đã yêu thương ta nhất trên đời không? Hay đã sống đúng chưa?
Đức Hiếu là đức đầu, không chu toàn đức Hiếu, thì các đức khác cũng …vất vào sọt rác! Cha Mẹ mình không thương, thì trên đời này, chẳng có thể thương ai cả.
Cảm tạ Phật Giáo trong năm đã có ngày Lễ Vu Lan, để nhắc nhở bổn phận làm con, mà chúng ta hay quên lãng này. Xin được bắt đầu…
Chúc Mừng Vu Lan!
Đứa con lên thành phố học xa, nhân mùa Báo Hiếu, thấy nhớ Mẹ nhiều, nên gọi điện thoại về thăm:
-Mẹ hả? Con thấy nhớ Mẹ lắm.
-Thật không con? Ừ để Mẹ gởi cho con 2 ngàn của tháng này nhé.
-Không con không cần tiền, chỉ thấy nhớ Mẹ thôi.
-Thật không con? Ừ Mẹ quên, cái xe mới mà con muốn, Mẹ đang để dành tiền, vài ba tháng là đủ, rồi Mẹ sẽ gởi cho con.
-Không phải tiền, hôm qua con đi Chùa, nghe Thầy giảng, ý nhĩa ngày Lễ, nên nhớ đến Mẹ!
-Thật hả con! Con tôi còn đi Chùa, ngoan quá, Mẹ sẽ thưởng, thay vì tháng này Mẹ gởi con 2 ngàn, Mẹ sẽ gởi gấp đôi, là 4 ngàn!
Bà Mẹ Thất Học!
Cha chết từ lâu, chỉ còn một mình Mẹ quê, phơi thây nắng gió trên ruộng đồng, bòn từng đồng, từng cắc, lo cho con đi học trên thành phố.
Vai mẹ càng thêm nặng, khi con bước chân vào ngưỡng cửa Đại học.
Lâu lâu con cũng gởi vài lá thư thăm hỏi.
Vừa tốt nghiệp, nhận được công việc tốt, nhưng cùng lúc nhận được…hung tin! là Mẹ mình vừa qua đời!
Anh vội bay về quê phục tang.
Bước vào nhà, quan tài Mẹ nằm đó, nhưng trên nắp hòm, vẫn còn nguyên những lá thư của anh gởi Mẹ, không hiểu tại sao Mẹ không bóc!
Người thân nói nhỏ vào tai Anh: “Bà có biết chữ đâu, mà đọc!”
Ừ! Để Mẹ Lo!
Chồng chết trong thời chinh chiến, Mẹ ở vậy, có nghề cắt tóc, làm móng tay nuôi ba đứa con.
-“Mẹ ơi, con muốm mua cái xe mới để đi học.”- “Mẹ ơi, con muốn học thêm đàn Piano” -“Mẹ à, con muốn mua cái váy đầm mới”
-Ừ để Mẹ lo!
Hơn 10 năm sau, khi các con đã khá khôn lớn:
-“Mẹ ơi, con muốn mở phòng mạch, thiếu tí tiền vốn.” -“ Mẹ ơi, con muốn học tiếp, lên đến tiến sĩ” -“Mẹ à, con muốn mở hãng điện tử.”
-Ừ để Mẹ lo!
Vài năm sau, khi các con thành công, Mẹ già trên 70 tuổi, gọi điện thoại:
-Mẹ muốn đến thăm các con và ở lại đôi ngày, cho đỡ nhớ.
-“Con bận lắm! phòng mạch tràn ngập khách đợi, chưa có giờ cho Má đâu.” -“Chương trình dạy học của con dày đặc, phải đến Hè con mới tiếp Má được” -“Hợp đồng trình diễn của con liên tục, khi nào rảnh con sẽ gọi cho má”
Nước mắt Mẹ muốn tràn ra khỏi mi, nhưng vẫn cố giữ giọng tự nhiên:
-Ừ! Để Mẹ lo!
Đứa Con Nuôi.
Nhân Mùa Vu Lan, cô giáo muốn giới thiệu gia đình của mỗi học sinh. Nên dặn: “Ngày mai, mỗi em mang tấm ảnh của gia đình mình, giới thiệu với các bạn cùng lớp nhé.”
Đến phiên cậu bé, đưa tấm ảnh có hình chụp với Mẹ, cho cô giáo và cả lớp xem.
Tất cả đều gật đầu đồng ý: “Chắc chắn phải là con nuôi! Vì chẳng có nét nào giống Mẹ cả!”
Cậu bé gật đầu đồng ý, lại còn có vẻ tự hào, nhắc lại lời Mẹ nuôi của mình:
-“Con là đứa con đặc biệt, con lớn từ trong tim, những đứa trẻ bình thường khác, lớn từ trong bụng!”
Món Quà Mừng Thượng Thọ Của Mẹ.
Trong 3 đứa con cuả Mẹ, chị là người có số phậm hẩm hiu, nghèo hơn hết, chồng chết trong tai nạn xe, đang phải nuôi 2 đứa con đến tuổi ăn, tuổi lớn.
Ngày mai lễ thượng thọ cuả Mẹ, mừng 80 tuổi. Chị nấu một nồi canh chua lá me, một nồi cá bống kho tộ, những món ăn mà Mẹ thích, tặng Mẹ, rồi về.
Người Anh, người Chị, mời mẹ một bữa tiệc linh đình, tại nhà hàng sang trọng lớn nhất trong thành phố. Chị tủi, nên từ chối khéo, không tham dự. Hàng trăm quan khách đến chúc mừng, biết bao quà tặng giá trị.
Nhưng bữa tiệc chưa chấm dứt, thì Mẹ đòi về sớm: “Mẹ mệt, các con thấy đó, cả bữa tiệc Mẹ có ăn được món gì đâu.”
Người Anh phải đưa Mẹ về, vừa vào nhà, như bệnh nhân được uống đúng thuốc, tự nhiên Mẹ tỉnh rói, xoay chuyển 180 độ! xoa bụng nói: “Giờ thì Mẹ cảm thấy đói!” rồi mở cái lồng bàn, trên bàn ăn, lấy muỗng múc tô canh chua lá me, lấy đũa gắp những con cá bống kho tiêu ăn ngon lành! Như chưa bao giờ được ăn.
Nhan Sắc Của Mẹ.
Tương lai rộng mở, vừa tốt nghiệp, vừa nhận được công việc trong một hãng lớn, nổi tiếng.
Rồi báo cho Mẹ, quyết định ở lại thành phố.
Mẹ lặn lội từ dưới quê, ngồi xe đò lên thăm con.
Trước khi Mẹ về lại quê, khen: “Bạn gái con hiền và xinh quá, Mẹ thích nhất là làn da trắng mịn của con bé ấy!”
Vừa lãnh được xấp lương đầu tiên, hân hoan dắt người bạn gái đi Shopping, em bước vào tiệm mỹ phẩm, cầm những thỏi son, hộp phấn hàng hiệu nói với anh “Mỹ phẩm tiệm này rất đắt, thứ nào cũng trên cả trăm đô la, nhưng tiền nào vải đó, không làm hư da, nám da, như những mỹ phẩm mà Mẹ anh đang xài, da mặt Bà hư hết trơn, nám đen, nhăn nheo, sần sùi, tội nghiệp quá!”
Lời nói của người bạn gái, làm anh giật mình, thấy cay ở mắt.
Cả đời Mẹ, mỹ phẩm rẻ tiền cũng không biết, nói gì đến son phấn đắt tiền! suốt bao nhiêu năm trời, da Mẹ phơi cùng sương nắng gió, để lo cho con. Ngay giây phút ấy, chàng mới nhận ra rằng: “Làn da nhăn nheo, xếp lớp, đầy dấu chân chim của Mẹ, nhưng lại đẹp hơn bất cứ làn da mịn màng của người phụ nữ nào khác!”
Cua Rang Muối.
Khi xưa nhà nghèo, Mẹ hay lặn lội ra ruộng bắt được mấy con cua đồng nhỏ xíu, giả làm cua rang muối. Mẹ khéo tay, chiên dòn, thêm chút mắm muối gia vị, con cái ăn ngon lành, con mời Mẹ ăn, thấy con ăn còn không đủ, Mẹ lúc nào cũng lắc đầu từ chối “Mẹ no rồi!”
Khi con cái khôn lớn, đỗ đạt, thành công, nhớ lại những kỷ niệm thời thơ ấu, thiếu thốn năm xưa, mời Mẹ đi ăn nhà hàng, gọi món cua rang muối đầy cả bàn, thơm phức, rồi mời Mẹ ăn.
Mẹ tươi cười, móm mém hạnh phúc trả lời:
-“Mẹ đâu còn răng nữa mà ăn những món này!”
Quán Nghèo.
Ba mở quán bên đường quốc lộ, quán nghèo, chỉ dăm ba chai nước ngọt, ấm nước trà, vài trái chuối, dăm bao thuốc lá.
Thấy Ba cực khổ, cậu con trai tốt nghiệp đại học, giờ đang giữ chức lớn trong một công ty điện tử, về thăm Ba, càu nhàu:
-“Con tưởng là Ba đã dẹp cái quán tồi tàn này rồi chứ, nghỉ cho khỏe cái thân.”
Rồi thời gian ngắn, người con nhận được tin xấu: Người Cha qua đời, vì lao động kiệt sức!
Chắc là “Ông Cụ” chết vì cái quán chết tiệt này! Lo đám tang cho Cha xong, việc đầu tiên, là phải phá cái quán, xây một cơ sở thương mại, cho thuê, lời gấp chục lần, đúng là “Ông Cụ Mình” không biết tính toán.
Đang khi dỡ bỏ, trên cây cột chính, anh thấy treo một bọc giấy, tò mò mở ra, trong đó có nét chữ nghệch ngoạc của chính người Cha của mình: “Cha biết thế nào con cũng phá cái quán này, nhưng qua 10 năm, cái quán này đã giúp con học thành thành tài, chưa kể Ba kèm theo tấm giấy chứng nhận của ngân hàng, để lại cho con nửa triệu đô la!”
Tấm giấy tư nhiên run lên bần bật! trời như đổ cơn mưa, thấm ướt cả tờ giấy! trước khi rơi xuống đất!
Mẹ Có Khuôn Mặt Cô Hồn
Mẹ nhận được giấy mời, tham dự buổi họp phụ huynh đầu tiên của trường.
Điều làm cậu bé sợ hãi đã thành sự thật! Mẹ lại đã nhận lời tham dự.
Cậu tưởng tượng giây phúc cô giáo và các bạn cùng lớp gặp Mẹ.
Một người Mẹ có một bộ mặt, ai nhìn cũng giật mình sợ hãi, vì khá kinh dị. Một nửa khuôn mặt Mẹ nhăn dúm, một mắt lồi, thẹo chằng chịt! Cậu đã cố kìm câu thắc mắc này hỏi Mẹ đã lâu, vì sợ Mẹ buồn.
Khi Mẹ bước vào lớp, nhiều tiếng ồ, kinh ngạc. Rồi khi Mẹ được giới thiệu, tránh nỗi mắc cở, cậu bé trốn ra hành lang, chìm vào góc tối, nhưng vẫn nghe rõ từng chữ của cuộc đối thoại.
Cô giáo hỏi: “Lý do nào mà Mẹ có khuôn mặt biến dạng như thế?”
Mẹ giải thích:
“Thường ngày, tôi phải gởi con cho người giữ trẻ để đi làm. Một ngày tôi đến đón con, căn nhà giữ con tôi, bốc cháy như ngọn đuốc! Tôi hét lên kêu cứu “có con tôi trong đó!” Nhưng lửa đang cháy phừng phực, không ai dám chạy vào cứu giúp cả. Không suy nghĩ, tôi lao vào đám lửa, người giữ trẻ thì không thấy, chỉ thấy thằng bé đang đứng giữa nhà khóc thét! Tôi ôm con lao ra cửa chính, trên đường ra, hành loạt những cây cột đang bốc cháy ngã đổ, tôi té ngã, nửa khuôn mặt dính vào cây cột đang cháy, tôi cũng không hiểu tại sao, tôi vẫn ôm con, mà lết được ra đến cửa chính. Tôi vui mừng vì thấy bóng dáng của những người lính cứu hỏa. Từ phút này, tôi chết ngất, không còn biết gì nữa cả.”
Bà Mẹ vẫn tiếp tục kể câu chuyện, nếu ai chú ý, thì thấy cậu bé rón rén ra khỏi chỗ nấp, đôi mắt đỏ hoe, nắm lấy bàn tay Mẹ, rồi ngồi cạnh Mẹ mình, suốt cả buổi họp bữa đó.
Bộ Phận Nào Của Cơ Thể, Quan Trọng Nhất?
Khi tôi khá lớn, có lần Mẹ tôi ra câu đố: “Phần nào trong cơ thể con người, quan trọng nhất?”
Tôi trả lời, cái tai, Mẹ lắc đầu. À đôi mắt, Mẹ cũng lắc đầu. Cuối cùng Mẹ nói: “Khi con khôn lớn, con sẽ hiểu.”
Vài năm sau, khi hay tin Bà Nội yêu dấu của tôi qua đời. tôi vội chạy về nhà.
Lần đầu tiên tôi thấy một hình ảnh nà đến bây giờ tôi còn nhớ mãi.
Ba tôi gục đầu trên vai mẹ tôi, khóc nức nở như một đứa trẻ!
Khi Ba tôi đã ngôi ngoai nỗi đau đớn, bước ra ngoài, Mẹ nhìn tôi nói: “Giờ con đã hiểu, bộ phận nào quan nhất rồi phải không.” Tôi gật đầu.
Mẹ giải thích thêm:
“Bờ vai quan trọng nhất, nơi đó, tất cả người thân thương của con, có thể dựa đầu quên đi mọi nỗi buồn phiền. Tất cả mọi thứ trên người là của con, nhưng bờ vai dành cho…người khác! Bờ vai là của tha nhân, con nhớ dùng nó thường xuyên nhé!”
Hoa Biếu Mẹ
Mẹ ở xa thành phố, hơn cả 200 dặm, gần 3 tiếng đồng hồ lái xe, lâu quá chưa về thăm mẹ. Ít ra cũng vài năm rồi, chần chờ mãi, nhưng chưa có dịp. Nhưng chuyện đó tính sau, giờ thì lo chuyện trước mắt.
Một người thanh niên, bước vào tiệm hoa, định mua một bó hoa tặng cho người tình.
Anh chú ý đến một bé gái, với khuôn mặt buồn so, đang đứng cạnh cửa.
-“Sao bé có gì cần giúp không?”
-“Con muốn mua một đóa hoa hồng tặng Mẹ, nhân ngày Sinh nhật, người bán hàng đòi 2 đô la, nhưng con chỉ có một đồng thôi à.”
-“Chuyện dễ thôi, để chú giúp cho.”
Trao cánh hoa hồng cho con bé, tự nhiên thấy thương, ngỏ lời: “Nhà bé gần đây không? Chú giúp chở về nhà cho.”
-“Cám ơn chú, không cần đâu, Mẹ con chết lâu rồi, đang nằm ở nghĩa trang, bước qua đường là tới! Hôm nay sinh nhật Mẹ, nhận được món quà này, chắc Mẹ sẽ vui mừng lắm.”
Nghe xong câu trả lời của cô bé, mắt người thanh niên bỗng cay sè, như có ai chà trái ớt vào đôi mắt mình. Anh quyết đinh ngay, không cầm bó hoa này đến nhà người bạn gái nữa, mà thẳng đường chạy xe về…thăm Mẹ!
Chắc Mẹ Lạnh Lắm!
Vào một đêm tối trời mùa đông lạnh lẽo, một người thiếu phụ đang mang thai, có lẽ có chuyện cấp bách, vội vàng, lại không quen lái xe trên đường tuyết, trơn trượt, nên đã gây ra một tai nạn thật khủng khiếp.
Chiếc xe đụng nát choét, lăn nhiều vòng, vì đụng phải cột xi măng cầu xa lộ.
Giữa trời lạnh giá, người Mẹ cố gắng chui ra khỏi xe, rặn đẻ đứa con, rồi ngất xỉu!
Tờ mờ sáng hôm sau, một người đàn bà khác lái xe qua, khám phá ra cảnh tượng đau thương này. Gọi xe cứu cấp, người mẹ thì đã chết, nhưng đứa bé còn sống, thoi thóp thở. Chứng kiến cảnh đau thương, người đàn bà nhận đứa bé làm con nuôi.
Khi bắt đầu lớn, cậu bé cứ thắc mắc về thân phận của mình. Người Mẹ nuôi đã kể lại câu chuyện đau thương này, từ đầu đến cuối.
Cậu bé có ước muốn được thăm ngôi mộ người Mẹ ruột cuả mình, người Mẹ nuôi vui vẻ sẵn sàng làm chuyện này.
Trước ngôi mộ của Mẹ, gió mùa đông lạnh cóng, thổi từng cơn, cậu bé giở nón, tháo chiếc khăn quàng cổ, đặt trên mộ Mẹ, rồi từ từ cởi hết áo choàng, đến áo len mùa đông, đắp lên nấm mộ.
Người Mẹ nuôi ngạc nhiên nhắc nhở:
“Mặc lại đi bé trai ạ, chỉ cần vài phút sau, con sẽ chết cóng vì lạnh mất!”
Cậu bé không vâng lệnh, cứ đứng run rẩy trước mộ, đôi mắt đỏ hoe, nấc thành tiếng: “Chắc Mẹ lúc sinh con ra, Mẹ đã phải chịu lạnh gấp trăm lần. Mẹ ơi, vì con, mà Mẹ…phải chết!”
Chúc Mừng Lễ Vu Lan Báo Hiếu 2021.
Lê Văn Hải
MỪNG NGÀY ĐỘC LẬP HOA KỲ – Văn Thơ Xướng Họa: Lê Tuấn + Chinh Nguyên & Phương Hoa & Minh Thúy
Mừng Lễ Độc Lập Hoa Kỳ
Minh Thúy
Ở trên đất Mỹ này, tôi gặp cô em tên Thanh 10 năm trước, lúc cô còn đang học tại San Jose State ngành Graphic Design, chúng tôi thường gặp gỡ trong vài sinh hoạt từ thiện. Cô rất năng nổ giỏi giang, tốt bụng và đầy tình người.
Mỗi đầu năm cô thường gởi tình thương về các Chùa nuôi cô nhi, các hội người mù với khoảng tiền không nhỏ. Khi còn ở VN cô là một hoạ sĩ, cho nên qua Mỹ cô theo học môn Graphic Design 4 năm, hiện tại làm marketing (quảng cáo) cho một hãng ở San Jose.
Cô lập gia đình với người Mỹ tên Tom, sau cuộc gặp gỡ trên khu đồi, lúc cô đặt giá vẽ bóng chiều trong ánh nắng nhạt nhòa rơi trên những muộn phiền, nỗi nhớ nhà khôn nguôi, với cánh én bay xa về tổ, với gió chiều lao xao giữa cô đơn, với vầng mây lờ lững phiêu lãng …và rồi cô bắt gặp ống kính chụp hình của Tom đang hướng về phía cô.
Từ đó hai người quen và kết nhau ở điểm họ mê cảnh đẹp thiên nhiên, thường trang trải nỗi lòng theo trời mây trăng gió trên nét vẽ, trên máy chụp hình.
Tom làm việc tại nhà với công việc Real Estate Investment, tánh tình rất hiền lành dễ mến. Thanh có thêm một số bạn và chúng tôi họp thành nhóm nhỏ. Các cô còn trẻ tuổi, rất cởi mở vui vẻ luôn miệng nói “Thỉnh thoảng phải gặp nhau để thay đổi không khí”, và ngôi nhà của Thanh là nơi tụ họp với điều kiện chỉ có phụ nữ.
Chúng tôi tổ chức sinh nhật cho nhau, khi có cuộc họp mặt là Tom sáng sớm lái xe ra khỏi nhà tôn trọng điều lệ vợ mình đặt ra, và dĩ nhiên chúng tôi cũng chỉ đến một mình.
Các em khuyến khích tôi tham gia vào sinh hoạt người Mỹ. Đó là việc quá cao đối với khả năng của tôi, vì tôi nghĩ chỉ có những vị đỗ đạt tại các trường học Hoa Kỳ, các vị thông thạo Anh Ngữ mới làm được. Chính những lúc tôi rụt rè thì các em luôn thoải mái đưa ra lập luận:
– Chị có biết xã hội phải muôn mặt, sự hợp lực luôn cần mọi tầng lớp. Ông kỹ sư cũng cần đi cúp tóc, bà bác sĩ cũng cần thợ may quần áo để mặc, em làm mệt nhọc về không nấu nổi cũng cần tiệm bán cơm v..v…như vậy mới thành xã hội.
Các em rủ tôi tham gia đi diễn hành, hoà niềm vui trong ngày lễ Độc Lập của Mỹ
Tại sao lại không nhỉ ? Được diễn hành cùng dân bản xứ và các sắc dân khác nhau trên xứ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, chẳng phải tìm vinh quang hay thi đua, chỉ đơn giản là để mừng ngày ra đời của một đất nước vĩ đại mà hiện tôi cũng là công dân Mỹ.
Thanh và chồng là Hội viên của ABC club, một tổ chức có tính cách giáo dục, hướng dẫn huấn luyện tuổi trẻ tập dạn dĩ, phải phát biểu ý kiến trước đám đông, tập nói ngắn gọn dễ hiểu để trong tương lai có thể trở thành Leadership (lãnh đạo), hay mọi lãnh vực khác.
Chương trình này đã sinh hoạt gần trăm năm trên nước Mỹ có tên là ABC Toastmasters, gần 15 năm trở lại đây đã mở rộng trên thế giới .ABC Toastmasters thường có cuộc hội họp vào mỗi thứ bảy lúc 10 giờ sáng tại Unitek College nằm trên đường Auto Mall Parkway. Trong cuộc hội họp bất cứ ai cũng có thể lên thực tập, nói đề tài nào đó, các diễn giả lắng nghe và nhận xét phong cách diễn đạt, rồi đúc kết nêu lên khiếm khuyết như nói dài dòng, thế đứng chưa được tự tin, giọng nói còn run ..v..v…
ABC Toastmasters đã đóng góp diễn hành vài năm qua và được xếp hạng nhì năm ngoái.
Bây giờ tôi xin kể tiếp về ngày vui lễ Độc Lập. Sáng sớm tôi lái xe đến nhà Thanh như đã hẹn, trong lúc chờ đợi tôi ra vườn ngắm cảnh thư thả với không khí trong lành. Ánh nắng ban mai thật dễ chịu, thỉnh thoảng có những cơn gió mát, đôi khi hơi lạnh, nhưng rồi những tia nắng ấm kéo lại cảm giác quân bình của thời tiết.
Tách cà phê chủ nhà trao, tôi nhâm nhi từng ngụm, hơi nóng và mùi thơm thấm vào môi lưỡi, tận hưởng những giây phút an nhàn thanh thản. Nhìn ngắm những đoá hoa xinh như mộng mở hé, e ấp đọng những giọt sương mai long lanh như thiếu nữ độ tuổi dậy thì tươi sáng, lòng tôi thấy phơi phới, rộn ràng đón nhận cảm giác vui mừng ngày lễ Độc Lập nơi xứ người.
Đọc Lịch sử, 4 tháng 7 là Independence Day cũng là ngày Quốc khánh của Hoa Kỳ. Năm 1779 bản Tuyên ngôn Độc lập ra đời, tuyên bố rằng mười ba thuộc địa đầu tiên ở Mỹ coi mình là một quốc gia mới, được gọi là Hoa Kỳ. Tác giả của bản Tuyên ngôn Độc Lập cùng đại diện 13 tiểu bang đầu tiên đã ký vào.
Lời mở đầu của bản Tuyên Ngôn là “Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng đấng tạo hoá đã ban cho họ những quyền tất yếu bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do mưu cầu hạnh phúc của mỗi công dân được luật pháp bảo vệ.”
Miên man về lịch sử và nguồn gốc ngày lễ, tôi uống cạn ly cà phê lúc nào không hay khi đang định nâng lên môi tiếp, cũng vừa đúng lúc các bạn réo gọi tập trung lên xe.
Điều đặt biệt là năm nào cũng có sự hiện diện của bà Mary mẹ chồng Thanh. Năm nay bà đã 87 tuổi nhưng tự lái xe một mình từ San Diego lên Fremont mất 8 tiếng đồng hồ cùng tham gia diễn hành.
Tinh thần người Mỹ rất mạnh mẽ và ý chí thật hào hùng. Chúng tôi đến địa điểm … sau hậu trường cảnh đông đúc đang chuẩn bị cho buổi diễn hành. Mọi người đã làm việc cực lực, hăng say, những công việc rất khó, nặng nhọc sửa soạn cho tiết mục của họ. Tôi đi quanh quan sát thấy rất nhiều hội đoàn như trường học, trung tâm thương mãi hay các sắc tộc có những màn riêng về sắc thái của họ. Nơi này các em nhỏ học mầm non được cô giáo tập dợt màn múa đầy hồn nhiên dễ thương. Nơi kia, trường dạy võ đang ôn lại màn kiếm đao, môn Karatedo các thiếu niên diễn thật ngoạn mục. Kìa ban trống nhạc đang sắp xếp vị trí biểu diễn và xem lại dụng cụ. Hàng xe hơi cổ điển được trang trí bằng màu đỏ, trắng, xanh, chứa đựng bộ máy lớn cùng loa và cờ trang trọng. Đoàn người diễn hành mặt mày hớn hở, chú tâm vào công việc của mình, ai ai cũng khoác y phục, đội mũ, mang tất hoặc cài nơ bông trên tóc bằng ba màu xanh trắng đỏ của lá cờ Mỹ.
Cảnh tượng sau hậu trường thật vui nhộn, tôi đi quanh quẩn chụp hình, thoải mái và hoà nhập.Đến giờ diễn hành, tôi được giao phó cầm bảng đi chung với các em Nhật, Phi, Ấn Độ và Việt Nam… theo sau xe classic của Tom (chồng Thanh) lái. Những bản nhạc yêu nước phát ra từ loa trên xe, tiếng nhạc xập xình hùng mạnh diễn hành trên những con đường dài. Chúng tôi khởi hành từ đường Civic Center, rồi đi qua đường chính Paseo Padre chạy dài cho đến khi chấm dứt nơi đường Capitol. Hai bên đường dân chúng mang ghế ra chuẩn bị đón xem, kẻ đứng người ngồi đông đúc chật ních suốt mấy con đường. Tiếng reo hò, cổ vũ chào nhau bằng câu “Happy July 4th”, có người chạy ra tiếp chúng tôi những chai nước lọc vì trời bắt đầu nắng gắt.
Trong nhóm chúng tôi có hai em hăng say dancing giữa đường rất ngoạn mục. Thanh cùng các em trai khác kéo thùng thổi bong bóng nước rất đẹp lôi cuốn các em nhỏ chạy ra theo đùa giỡn, cũng được thổi vào người, những bong bóng bay lên khiến các em nhỏ thích thú dang tay với và nhảy cười sung sướng. Cảnh tượng rất hào hứng đã mang ý nghĩa thiêng liêng của ngày lễ hội đủ sắc dân hợp lại, gây dựng lên quốc gia giàu mạnh, văn minh, tự do và dân chủ.
Buổi diễn hành chấm dứt sau một giờ trưa, trên đường về tôi thấy nhà nhà đều treo cờ trọng thể trước cửa, hầu như mọi người ở xa đều trở về ăn lễ cùng gia đình, các cháu của tôi cũng không ngoại lệ. Về nhà chị em nướng Barbecue gồm bò và gà đã được ướp tối qua, dùng bánh mì lát đơn giản cùng xà lách làm sẵn mua từ Costco.
Đến chiều cả gia đình, anh chị em con cháu hẹn ra bờ hồ Elizabeth, đem theo khăn trải, trái cây, chips, và nước uống để hứng gió sông chờ tối xem bắn pháo bông.
Người ta đông như kiến, vợ chồng, con cái, thậm chí, có bé chỉ mới vài tháng nằm trong car seat quấn khăn cũng được đem theo. Đúng 9 giờ tối bầu trời sáng rực, những bông hoa đủ màu sắc thi đua nhau rơi xuống với âm thanh rộn ràng náo nhiệt, liên tục không ngớt.
Tiếng la, tiếng reo hò, tiếng cười hợp lại tạo không khí tưng bừng náo nhiệt. Khi tiếng pháo từ từ chấm dứt, những bông hoa thưa thớt trả lại nền trời đen tối với các vì sao lấp lánh thì chúng tôi trở về nhà trong sự thoả mãn.
Đêm về… tôi thấm mệt với đôi chân rã rời vì đi bộ hơi nhiều, thỉnh thoảng còn sót tiếng pháo bắn lẻ tẻ đâu đó. Tôi tiếc nuối đứng nhìn qua khung cửa kính, bầu trời lại sáng lên khi một vài hoa pháo rơi xuống.
Tuy giấc ngủ đến muộn nhưng lòng tôi khoan khoái. Nằm trong bóng tối tôi mỉm cười nghĩ miên man về ngày lễ Độc Lập. Quê hương thứ hai đã cho tôi nhiều phước phần, có được điều kiện thực hiện chữ hiếu, giúp người thân nơi quê nhà, thực hiện những việc có ý nghĩa trong cuộc sống, và điều lớn nhất là cho tôi được hưởng bầu không khí tự do, no ấm.
Ngày mai chúng tôi cũng sẽ ăn mừng lễ tiếp với các thức ăn VN, ăn mừng các cháu học xa trở về, ăn mừng các cháu đúng mùa tốt nghiệp đại học, ăn mừng mọi sự thành công trên đất Mỹ.
Xin cảm ơn đất nước Hoa Kỳ, cảm ơn niềm vui hưởng của ngày lễ Độc Lập đầy thú vị.
July 4
Mừng lễ Độc Lập Hoa Kỳ
Ngày bốn tháng bảy đua thi tiệc tùng
Vui chơi liên tục tưng bừng
Cỏ cây hoa lá đón mừng Hạ sang
Nắng lên rực rỡ chói chang
Tô thêm hùng khí vẻ vang đất trời
Diễn hành lễ hội tuyệt vời
Pháo bông toả sắc sáng rơi bầu trời
Tự do Hạnh phúc muôn nơi
Dân giàu, nước mạnh cuộc đời ấm no
Minh Thúy – Lễ Độc Lập Hoa Kỳ 2019
THƠ THƯ PHÁP Mừng Ngày Từ Phụ VTLV -Phương Hoa & Đỗ Dung
KÍNH TẶNG CHUNG TẤT CẢ QUÝ NGƯỜI CHA TRONG VĂN THƠ LẠC VIỆT
Nguồn hình: Internet
MỪNG NGÀY TỪ PHỤ
(Kính tặng hết các vị Từ Phụ nhà Văn Thơ Lạc Việt)
*
Công cha núi Thái, khó đo lường
Dạy dỗ nên người, nặng trĩu thương
Khổ nhọc chườm vai, đều vững chí
Gian nan đối mặt, vẫn kiên cường
Con Hồng, nghĩa nước khuyên ghi nhớ
Cháu Lạc, tình nhà dạy đảm đương
Ngày lễ Father’s Day kính chúc
TOÀN CẦU THÂN PHỤ ĐẸP NGÔI VƯƠNG
Phương Hoa – FATHER’S DAY 2021
*****
DƯỚI ĐÂY LÀ ĐẶC BIỆT KÍNH TẶNG NHỮNG VỊ CHA TRONG BAN CỐ VẤN & ĐIỀU HÀNH VTLV VÀ VÀI VỊ ĐÀN ANH
Nguồn ảnh: Internet
Mừng Lễ Của Cha! Happy Father’s Day!
Ngày mai, Chủ Nhật, 20 tháng 6, là ngày Lễ Cha 2021. Lễ Mẹ tưng bừng bao nhiêu, thì Lễ Cha êm đềm bấy nhiêu. Lễ Mẹ thường các góc đường nào, cũng bày sạp bán bông. Lễ Cha, tìm cả thành phố, cũng không thấy một sạp!
Có vẻ bất công bằng chăng? Chẳng sao cả, vì những Người Cha vẫn muốn như thế. Họ là phần chìm của con tầu, để phần trên được nổi, du hành, tung tăng trên khắp đại dương. Họ là đất, là phân để cây trổ lên những bông hoa rực rỡ.
Chỉ khi nào cây hoa bị bứng ra khỏi chậu, khô héo, lúc đó mới nhận ra được sự quan trọng của Họ trong đời sống! Thường thì đã muộn!
Hãy trân quý báu món quà thương quý báu này, mà Thượng Đế ban cho mỗi con người.
Đừng để món quà vuột mất, chết rồi mới hối tiếc!
Hãy thương yêu người Cha của mình thường xuyên hơn, không thì ít ra cũng để ý Họ trong ngày Lễ này nhé. Họ xứng đáng được quan tâm đấy!
Mừng Ngày TGuwf Phụ!
Happy Father’s Day!
Văn Thơ Lạc Việt MỪNG LỄ CHIẾN SĨ TRẬN VONG: Lê Văn Hải, Lê Tuấn, Phương Hoa, Minh Thúy, Hoàng Mai Nhất
DƯỚI ĐÂY LÀ hai bài thơ phỏng dịch của Phương Hoa, một bài dịch thể thơ Lục Bát và bài kia thể thơ bảy chữ, từ bài thơ tiếng Anh của thi sĩ John Mccrae: “In Flanders Fields,” bài thơ nổi tiếng được viết trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất bởi Trung tá John McCrae, một bác sĩ người Canada, thường được đọc trong ngày lễ Memorial Day.
Mừng Lễ Phật Đản: ĐI CHÙA – MINH THÚY (Thành Nội)
ĐI CHÙA
Tôi đi Chùa theo Mẹ từ lúc chưa vào lớp tiểu học, hình như khoảng ba, bốn tuổi thì phải. Hồi đó Mẹ hay đi tụng kinh mỗi tối là ngôi Chùa Tịnh Bình nằm trên đường Tăng Bạt Hổ (thành phố Huế), sau mẹ có duyên quy y chùa Diệu Đế trên đường Bạch Đằng. Những mùa lễ lớn các chú điệu đạp xe vào đưa giấy mời, mẹ cúng dường tịnh tài, tới ngày lễ ghé chợ mua cá đem ra sông phóng sanh.
Còn nhớ tuổi thơ rất rõ… mỗi lần lên Chùa tôi thường được các cụ xoa đầu nựng má, cho bánh kẹo hoặc quả quýt và khen “cháu giỏi lắm, mẹ ngồi đọc kinh cả tiếng đồng hồ mà cháu ngồi yên không phá phách”, chưa kể được các chú điệu hay các thầy trẻ cho cả bọc bánh In đủ màu sắc (có lẽ lúc nhỏ vì ham quà bánh nên thích theo mẹ chăng?). Khi tuổi thiếu nữ không còn đi theo mẹ nữa, mà thích đi với bạn vào dịp lễ Phật Đản hoặc Vu Lan, lúc đạp xe tới Chùa gần, khi dùng hai chuyến xe Đò lên chùa Từ Đàm, chùa Tường Vân hoặc xa hơn là chùa Thiền Lâm Tự nằm trên núi. Mỗi lần đi cả nhóm ghé vô chợ Đông Ba mua hoa Sen dâng cúng Phật, hôm đó dặn nhau mặc áo dài trắng đàng hoàng nghiêm chỉnh, dù rằng không còn được quà nhưng ngôi Chùa có sức thu hút theo không khí hiền hoà, cảnh vật đầy hoa thơm đủ sắc thật đẹp, nhất là những cây hoa Sứ trước sân Chùa nở hoa trắng toát ra kỳ hương nhẹ nhàng.
Những năm từ 1980 đến 1984 tôi vào Sài Gòn tìm đường vượt biên, có lúc ở nhà Dung (bạn hàng xóm Huế) thêu hàng, em trai Dung khoảng 13 tuổi rất hiền lành thường ăn chay nhưng giấu gia đình, ngồi một góc nhai cơm với xì dầu, chị em hợp mạng, em hé môi cho biết mỗi tối lặng lẽ đi Chùa tụng kinh, từ đó sau giờ cơm chiều em nháy mắt tôi đi đúng giờ nhập lễ.
Vượt biên đến đảo trải qua cuộc hành trình tưởng bỏ mạng nơi biển cả, từ đảo Pulau Bidong chuyển tiếp qua trại Sungei Besi, hai nơi đều được dựng Chùa, nên mỗi chiều tôi thường lên bám víu lời kinh tiếng kệ cho tâm trí tỉnh lại. Qua Mỹ năm 1985 chân ướt chân ráo đã đi cày sáng mờ sương đến tối trời về đầu tắt mặt tối không còn thời giờ. Một buổi chiều được về sớm, cô em dâu chở tôi tới ngôi Chùa Đức Viên trên San Jose lúc đó Sư Bà Đàm Lựu làm trụ trì, tôi mừng hết lớn vì được ngồi trên xe ngắm màu nắng hai bên đồi của Freeway 680. Được thấy ngôi Chùa lần đầu nơi xứ Mỹ, tiếng trống Bát Nhã, hồi chuông thức tĩnh cho tôi cảm giác bồi hồi về kỷ niệm những ngày theo chân mẹ đi Chùa, tôi cố ngăn không để cảm xúc trào dâng nhưng nước mắt cứ tuôn ra như đứa con trôi sông lạc chợ, lăn lóc bụi thời gian đang trở về bến bình yên tạm thời giây lát.
Sáu năm sau tôi chuyển job, có được ngày cuối tuần nhưng chỉ thuận khi gặp một công mấy việc mới lên San Jose. Một trưa ghé Chùa thỉnh tượng Phật và tìm quyển Hư Hư Lục của sư cô Như Thủy, quý bác đang đổ bánh xèo dùng trưa, sự niềm nở mở rộng tấm lòng làm chúng tôi khó từ chối lời mời, tôi yêu không khí thanh tịnh, hình ảnh quý bác, quý sư cô ăn nói nhẹ nhàng cùng nụ cười nhân từ hiền hậu tăng sự kính mến của tôi vô cùng. Tuy nhiên đường xá xa xôi nên thỉnh thoảng mới viếng Chùa được, tôi hằng mơ ước giá chi dưới vùng mình sinh sống có được ngôi Chùa.
Trung Tâm Phật Giáo mọc lên nơi thành phố Hayward năm 1986 nhưng tôi không hề hay biết. Nhận job mới nên tôi dời nhà lên vùng Hayward tiện công ăn việc làm, tình cờ dự đám cưới, ngồi chung bàn nói chuyện, cháu B cho biết có ngôi Chùa nhỏ nằm trên đường Calaroga. Từ đó duyên đến với tôi, mỗi chiều thứ sáu sau giờ làm, lòng tôi hớn hở như bao người vì được “xả trại” nghỉ ngơi hai ngày weekends không bị kim đồng hồ báo thức, mà niềm vui trước nhất là được đi Chùa về tối sẽ ngủ dậy trễ sáng sau. Cuối tuần tôi dành thì giờ một ngày đi chợ, nấu ăn đàng hoàng thịnh soạn so với những ngày đi cày, chủ nhật lên Chùa sinh hoạt có khi cả ngày hoặc nửa ngày theo chương trình sắp xếp của Chùa.
Thầy Tôi
Tu hành “hữu xạ tự nhiên hương”
Dũa đức mài tâm giữa sắc thường
Giảm thiểu rau cà thông mạch lạc
Đơn sơ y áo ngộ am tường
Trì kinh sáng tụng rèn nhân đức
Điểm hạt chiều thiền quán thiện lương
Chúng dẫn, tăng dìu đường chánh pháp
Danh Thầy Từ Lực sáng vầng dương
MTTN
Thầy Từ Lực trụ trì ngôi Trung Tâm Phật Giáo Hayward là người con của xứ sông Hương núi Ngự, Thầy chuyên cần vừa học vừa tu đã tốt nghiệp cử nhân ngành thư viện, mỹ thuật tại San Francisco State University, sau đó tiếp tục theo ban cao học tại California State University Hayward. Thời gian ấy Thầy cũng rất vất vả vì ban ngày đi làm việc trên trường UC Berkeley, tối về hướng dẫn đại chúng tụng kinh vào thứ hai, tư, sáu. Càng ngày việc phật sự càng nhiều, đám tang cần ma chay tụng niệm cầu siêu người chết, những tiểu bang lạnh mời Thầy đi hoằng pháp lưu động, vì bên đó thiếu vắng Thầy. Các bác họp đạo hữu lại vận động mỗi người một tay cố gắng hỗ trợ tài chánh thêm nữa trang trải hàng tháng, và yêu cầu Thầy nghỉ việc giữ gìn sức khỏe, để còn hướng dẫn đại chúng tu tập. Tưởng yên thân thầy trò lo việc tu học, nhưng vài năm sau County gởi giấy về báo địa điểm Chùa không hợp lệ dùng nơi tụ tập đêm ngày, hàng xóm gởi đơn khiếu nại. Cuối cùng đạo hữu cho Chùa mượn trong vòng 5 năm không lấy tiền lời cộng thêm sự cúng dường của tứ chúng. Thầy tìm được địa điểm trên đường Meekland cũng thuộc thành phố Hayward, xem như Chùa Phổ Từ được thành lập từ năm 2000. Công trình xây cất gặp lắm gian nan vất vả, nói như kiểu người phàm thì thầy “làm dâu trăm họ”, nhưng rồi thiện thần hộ pháp che chở, mọi trở ngại từ nội ma, ngoại ma, nội chướng, ngoại chướng của thế gian cũng được túc đắc tiêu diệt.
CHÙA PHỔ TỪ
(Tung hoành trục khoán)
MÁI ấm tâm linh dội trống đồng
CHÙA Từ tĩnh lặng nhẹ ngân chuông
CHE lòng mộ đạo nơi thiền quán
CHỞ dạ mến Thầy chốn tịnh không
HỒN đậm pháp môn thường tự tại
DÂN đằm giáo lý cũng thong dong
TỘC hành cuộc sống gieo nhân thiện
NẾP SỐNG MUÔN ĐỜI CỦA TỔ TÔNG
MTTN
Ngày tháng tiếp tục đi qua từng mùa xuân, hạ, thu, đông…Tôi vẫn đều đặn sinh hoạt cùng quý bác, quý anh chị và bạn hữu như tìm về nơi chốn bình an cho tâm hồn, bên cạnh cuộc sống chồng chất nhiều lo âu, trách nhiệm đôi khi nhận chịu áp lực nặng nề đè nén tiếng thở dài.
Đến Chùa gặp những thiện hữu tri thức, tu tập hạn chế lời nói, họ chỉ thực hành bằng công việc cho tôi học hỏi gương tốt rất nhiều. Nhớ những sáng chủ nhật tới Chùa sớm, có lúc quét lá, có khi vào bếp phụ được việc gì trong lúc chờ đợi chương trình đúng 9 giờ hành lễ. Trước tiên Thầy hướng dẫn đại chúng ngồi thiền kêu gọi tâm trở về tĩnh lặng, tập hít sâu thở ra ý thức sự sống phút hiện tại, sau đó thầy trò tụng niệm kinh cầu an, hoặc nếu có cúng hương linh thì tụng thời kinh Di Đà, kinh Địa Tạng và Chú Vãng Sanh, 10 phút thư giãn hoặc thiền hành trong sân, kế tiếp Thầy ban thời pháp hướng dẫn các pháp của Đức Phật dẫn dắt con đường tươi sáng an lạc, buổi trưa dùng cơm thanh tịnh
“Có không còn mất chẳng bận lòng
Yêu ghét được thua chẳng mong trông
Mở rộng tâm ra lòng thanh thản
An vui tự tại dạ thong dong”
Mỗi tháng có ngày tu học từ sáng đến chiều, ngày xưa các cụ gọi là Thọ Bát Quan Trai phải tuân theo các điều lệ nghiêm túc (không đeo nữ trang, không phấn son, không nghe nhạc, chỉ thọ nhận buổi cơm trưa và không được ăn tối). Qua Mỹ cuộc sống bận rộn, thời gian quí báu, Thầy Tự Lực tìm con đường trung dung thích hợp mọi lứa tuổi nên đổi lại “Ngày Tu Học”. Sáng tham thiền, ôn tụng Tam Quy Ngũ Giới và Thập Thiện Giới, hành thiền và nhận thời pháp lời hay ý đẹp của đạo Phật. Thọ chay trước tiên ngồi quán chiếu và hồi hướng công đức tới người trồng ra thực phẩm, người mua về nấu nướng cúng dường cho mình thọ trai. Sau giờ nghỉ ngơi buổi trưa một tiếng, tiếp tục vào chánh điện dưới sự hướng dẫn lạy sám hối 108 lần. Buổi chiều ra về lái xe nhìn khung cảnh chung quanh thật đẹp, thật bình an, lắng đọng soi lại tâm mình để sửa đổi, ngẫm trong thời gian qua đã hành được bao nhiêu điều tốt, bao nhiêu việc thiện, bao nhiêu lần nóng giận, và bao nhiêu lần mắc khẩu nghiệp nói điều có thể làm người khác buồn lòng?
Ban đầu chúng tôi thọ “Tam Quy Ngũ Giới” tại Trung tâm Phật Giáo được Thầy quy y, tháng ăn chay 4 ngày, chỉ từng đó mà khó lắm đấy, gieo lòng sợ hãi của chúng sinh không đạt tới, nhưng nhờ có sự ân cần khéo léo của Thầy rằng :
– Cố gắng với nội tâm và ý chí nếu đạt được một điều, hai điều cũng là quý, từ đó mỗi ngày rèn luyện, thanh lọc thân tâm dần thêm.
“Trăm năm trước thì ta chưa gặp
Trăm năm sau biết có gặp lại không?
Cuộc đời sắc sắc , không không
Thôi thì ta hãy hết lòng với nhau”
Nhờ Thầy dẫn dắt đường đi nước bước nên bà con yên lòng tu tập. Hai năm sau tôi thọ Thập Thiện Giới tại Chùa Quang Nghiêm của Sư Ông Minh Đạt dưới Stockton trong buổi đại lễ, cùng đi cả nhóm đệ tử theo thầy Từ Lực, giới này phải ăn chay tháng 10 ngày. Biết bao nhiêu điều tu tập tôi rớt lên rớt xuống, tập đi tập lại nhưng rất hãnh diện đã thành công điều này. Chiêu dụ người khác theo mình cũng khó, tôi áp dụng tuần hai ngày, tuần ba ngày chay, những ngày còn lại nấu mặn. Nhiều chị bảo “cứ nêm nếm rồi nhổ ra súc miệng sạch hoặc nấu cầm chừng không nếm”, tôi nghĩ phải nấu đàng hoàng mới yên tâm không bị ray rức “bỏ đời theo đạo”, trong khi đang còn bổn phận trách nhiệm, thôi thì đem đạo vào đời, lúc sống cho mình và lúc làm vui lòng người khác.
Mong Trọn Tình Lam
“Thể Sắc Thái”
Tình lam đón tuổi mấy mươi ngoài
Đã hết xanh đầu thuở trẻ choai
Sắc tím chân trời còn đắm cảnh
Màu cam vạt nắng vẫn mơ loài
Lời vàng bút ký nào quên được
Ý ngọc thầy trao mãi nhớ hoài
Máu đỏ thi nhân hoà cảm xúc
Đen trời nguyệt tỏ gợi thơ ngoai
MTTN
Đến Chùa khung cảnh luôn tươi sáng, bông hoa nở rộ, chim hót ríu rít từ đầu cổng ra đến vườn lộ thiên Phật Quan Âm, bên cạnh có hòn non bộ. Ngồi yên, lắng lòng thanh tịnh, nghe tiếng chuông Chùa tĩnh thức đánh tan niềm tục lụy trong giây phút hiện tại. Hình ảnh bức tượng chiếu sáng trong tâm, cảm nhận sự nhiệm mầu của những bậc giác ngộ soi đường nở hoa. Gần gũi thấy lối sống quý sư Cô, quý Thầy suốt ngày lo việc Phật sự, bữa ăn đạm bạc, hình ảnh giản dị với bộ nâu sòng không sắc, cuộc sống thật đáng kính phục hơn nữa khi biết một số ra trường với mảnh bằng PHD hoặc Matter khi còn trẻ tuổi, nếu như ở ngoài đời đã kiếm tiền thật nhiều và dễ dàng, nhưng họ chẳng luyến tiếc để tìm con đường chân lý, hoằng hóa độ sanh thế giới đầy não trượt, buông bỏ vui thú trong cuộc đời giả tạm.
Ánh Sáng Phật Đạo
Đồng tu tứ chúng hương dâng nguyện
Thắp dậy niềm tin luyện pháp kinh
Hồi chuông lay động vô minh
Hành Tứ Diệu Đế tâm bình an vui
Dòng đời vạn biến vùi đau khổ
Bát Nhã chèo thuyền ngộ vực sâu
Trầm luân lắm cảnh bể dâu
Phật đài đánh lễ cúi đầu lắng tan
Thầm xin tuệ đuốc ban mầu nhiệm
Khép cửa tham, sân, nghiệm …Có, Không
Phật đường ánh đạo khai thông
Hoa bừng, chim hót nắng hồng vươn cao
MTTN
Đôi khi cũng có những nỗi lo theo sự khốn đốn của các Chùa nói chung, lòng cũng nặng nề khó tả, dẫu biết Chùa chiền mọc lên nhiều thì đất thánh nhiều càng tốt, nhưng chỉ là biết mà không kham hết được đành nhắm mắt tuỳ duyên. Tánh tôi thuộc loại cứng đầu cứng cổ, nhỏ lớn không để những vấn đề dị đoan ảnh hưởng như mua nhà xem phong thủy, coi ngày giờ, cầu xin…Tu hành cũng cần có tinh thần Bi, Trí, Dũng. Quý Thầy nói điều gì thuận thì nhập vào não và duy trì, điều gì không hợp thì quên nhanh, nhất là sau này nhìn những youtube bên VN người dân quá mê tín theo sự hướng dẫn sai lạc của một số Chùa thật là chán nản. Tôi đọc bài Tản Văn Phật Giáo (Đi Chùa để làm gì) của tác giả Mạnh Kim thấy biết bao nhiêu điều xấu làm mờ đi hình ảnh của ngôi Chùa, có đoạn của Albert Einstein từng nói “Chính những người dung thứ hay khuyến khích việc xấu ác đã làm cho thế giới này trở nên nguy hiểm nhiều hơn là những người nhúng tay vào việc ác”, (nói một cách đơn giản hơn thì sự im lặng trước những điều xấu ác cũng chính là đồng loã)
Một lần em chồng tôi lên Chùa nhờ Thầy cúng giải Sao, thầy Tự Lực nói khéo
– Chị gieo việc thiện nhiều sẽ tiêu trừ hoặc giảm bớt những nghiệp xấu.
Lần nọ trong buổi giảng pháp của Ôn Minh Đạt có người đến xin giúp việc ma chay, coi giờ tốt để chôn cất người mất. Ôn nhẹ nhàng nói:
– Thầy chỉ truyền thừa sứ mạng Đức Phật giao phó là có nhiệm vụ hộ niệm cho người mất, Thầy không biết xem giờ, khi họ ra đi có chọn được giờ tốt không?
Đó là những vị Thầy đã phát huy tinh thần giáo pháp của Đức Phật, ngày xưa Phật không cần Chùa, nhưng bây giờ số lượng đạo hữu quá đông cũng phải cần ngôi Chùa để sinh hoạt, nhất là nơi nuôi dưỡng tuổi trẻ gia đình Phật Tử mầm mống xây dựng xã hội lành mạnh, nên Chùa phải cần sự hộ trì tam bảo, giúp đại chúng cùng nhau nương tựa tìm con đường chánh pháp tu tập.
“Lắng lòng theo những nhịp chuông
Buông dần tục niệm bên tuồng đời kia
Miệt mài thương ghét sớm khuya
Rồi mai cũng vất xuống bia mộ mình”
Thầy giao chìa khoá cho tôi giữ tủ sách, những buổi lễ lớn dọn ra phát hành, một số phật tử về VN thăm gia đình, mua áo tràng, xâu chuỗi cũng như các tượng Phật, ly đèn nguyên thùng đem qua cúng dường Chùa gây quỹ, thì tôi phải dọn ra bán, thêm đồng nào cũng để bù vào những buổi cơm Chùa lo liệu, mời phật tử dùng trưa mỗi chủ nhật đến sinh hoạt. Lúc nhỏ tôi thường hay nghe người ta nói đùa “cơm Chùa, của Chùa không ăn cũng uổng”, giờ tôi mới thấy tận mắt cảnh ấy… một bàn dài thức ăn, không kể quen biết hay xa lạ, đã đến Chùa là được Sư Cô, bạn đạo mời dùng. Cà phê trà nóng sẵn bình, các ông nội bà nội, ông ngoại bà ngoại hay cha mẹ dẫn con cháu đi học tiếng Việt, sinh hoạt gia đình Phật Tử, trong lúc chờ đợi, cha ông đi dọn rác làm vườn, mệt nghỉ vào uống cà phê, hoặc lấy thức ăn ngồi dưới gốc cây bóng mát dùng, các bà mẹ vào bếp nấu lo các em nhỏ. Tôi rất thích khung cảnh thanh bình tuyệt vời này, đó là điểm tuyệt vời tôi thích đến đây vì được thấy lối sống hiền hoà, tâm phật, ý Phật, tứ chúng cùng tu. Tâm người như ngựa không cương, nếu ở nhà chắc gì tôi được yên thân hay bị phone gọi, bếp réo chưa kể ma nhác nổi lên lười biếng.
Tôi được đi hành hương theo tổ chức của Chùa rất nhiều lần. Khi ghé về Sacramento và Stockton thăm Chùa Phước Thiện, Chùa Phổ Minh, Thiền viện Diệu Nhân, lúc lên San Francisco thăm dự lễ Tam Bộ Nhất Bái, hoặc thăm Chùa Sư Nữ người Mỹ, tràn ngập niềm vui trong tình đạo. Các đạo hữu tự sắp xếp chia ca, chia nhóm, mỗi người hai khay lo thức ăn cho ngày Tu Học hoặc các lễ nhỏ, những lúc khách đến bất ngờ quá đông, đạo hữu của Chùa nhịn miệng đãi khách phương xa, nhưng lúc thức ăn quá dư các sư cô nhắc nhở bới về, chị em lấy hộp nhận thức ăn cười và chọc nhau “tu tâm thì ít mà togo thì nhiều”.
Càng ngày bàn thờ vong càng đông, có những hôm lễ 49 hoặc 100 ngày cúng thất có tới 7, 8 di ảnh nhìn lạnh người. Sự chết không đợi lão 80, 90 mà vẫn có 60, 20, thậm chí ngay cả 5 tuổi. Đối diện và hộ niệm mỗi tuần, tôi thường quán chiếu về sự sống, sự chết, về lẽ vô thường, sâu xa triết lý là Không Sanh, Không Diệt để cố tu tập hơn nữa, ra đi chẳng đem theo thứ gì ngoài công đức để lại.
“Trăm năm nhìn xuống đời hư ảo
Phút chốc nhìn lên ngộ lẽ trời
Ta trồng hạt giống từ bi
Ngày sau kết trái vô vi cúng dường
Nguyện trên khắp nẻo vô thường
Người đi phổ độ vào đường chân như”
Có lần tôi gặp thầy (quên tên) nơi Chùa Thiên Trúc, thầy tốt nghiệp bằng tiến sĩ về môn Thần Học, ngồi trà đạo về đề tài Sống Chết, thầy cười chỉ nói một câu “chết là một cuộc chơi”, không hiểu sao câu nói đó truyền trong tâm thức tôi sự bình thản, khiến tôi không cảm thấy sợ hãi trước sự chết. Đời người một lần ra đi, còn hơi thở ngày nào biết ngày đó, tôi tâm niệm quan trọng khi sống là biết chia sẻ, góp công những điều phước thiện làm đẹp cho đời sống. Sinh, Lão, Bệnh, Tử, nhưng con ma vô thường vẫn không đợi tuần tự như vậy, dĩ nhiên khi đối diện cảnh ngộ của sinh ly tử biệt, ai cũng đau lòng, nhưng phải chuyển hoá sự suy nghĩ để bớt khổ đau hơn, và nghiệp báo mỗi người mang theo phải chấp nhận, chỉ nên cố gắng tu tập, can đảm nhận mọi thử thách và rèn luyện kiên nhẫn như kinh Đức phật từng nhắc nhở “Như Lai chỉ là bậc Đạo Sư, học hay không là do chính bản thân mình, có học thì tới, không học sẽ không bao giờ tới “
“Vô minh rớt lại ta bà
Soi trong tự tánh thấy ta lại về
Thoát ra từ vực u mê
Vô thường được mất có hề chi đâu”
Chỉ còn vài ngày nữa Lễ Phật Đản, năm nay tình trạng bệnh dịch đang còn phòng ngừa dẫu đã được chích thuốc, thôi thì ở nhà dâng hoa quả thắp hương tưởng nhớ đấng Từ Phụ, vị Phật trong tâm nhắc nhở con mỗi khi sai phạm lỗi lầm, nhắc nhở con soi lại tấm gương nội tâm. Mùa của quý Thầy nhập hạ, mùa cho tôi sống nhiều kỷ niệm êm đềm thời thơ ấu bên mẹ, thời hoa mộng bên bạn bè viếng những ngôi Chùa xa gần “che chở hồn dân tộc” nơi thành phố Huế thân yêu thuở nào….
Tán Phật
Bảy bước hoa sen xuất thế trần
Ta bà hoá độ khắp hoàn luân
Rừng cây suối cỏ thiền an trí
Góc gội Bồ Đề quán tịnh thân
Khai ngộ môn tu bừng ánh đuốc
Tri thông Phật pháp tỏa làn vân
Mười phương ánh đạo lan truyền sáng
Bốn biển năm bề độ cõi nhân
Minh Thúy (Thành Nội)
Mùa Phật Đản 2021
Lời Chúc Mừng Đại Lễ Phật Đản 2021- LÊ VĂN HẢI & Thơ Phương Hoa – Hoàng Mai Nhất