KIỀU MỸ DUYÊN – Chương Trình CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA




KIỀU MỸ DUYÊN – NGÀY CỦA MẸ




SƯƠNG LAM -Quê Người Quê Nhà Trong Trái Tim Tôi


Quê Người Quê Nhà Trong Trái Tim Tôi

AnhthoPortlandThoMong.jpg

Đây là bài số bảy trăm năm mươi chín (759) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ ORTB.

Cứ mỗi lần Tháng Tư đến là chúng ta  được nghe, được đọc những bài thơ, bài văn, bài nhạc nói về Ngày Quốc Hận 30 Tháng Tư.  Ai trong chúng ta cũng có niềm đau nỗi nhớ về ngày đau buồn này.

 Thời gian trôi qua nhanh quá. Thế là đã 50 năm trôi qua lặng lẽ.   Đa số chúng ta đã trải qua một thời gian gian khổ của kiếp thuyền nhân lênh đênh trên biển cả mênh mông như lời thơ của tôi   dưới đây:

 1713700143769blob.jpg

……Có những con thuyền thật mỏng manh
Lang thang cuối bãi đến đầu gành
Một cơn sóng lớn đưa thuyền đến
Địa ngục trần gian giữa biển xanh 

Có những hôn mê dưới nắng trời
Chập chờn theo gió nổi mây trôi,
Đói cơm, khát nước, bao già trẻ,
Một thoáng “thiên đàng” đã đến nơi

Có những bàn tay chới với tìm 
Chiếc phao, mảnh gỗ, để ngoi lên 
Trời ơi! Sao lại là con nhỉ?
Và xác con yêu nhẹ nhẹ chìm …

(Trích trong Kiếp Thuyền Nhân- Thơ Sương Lam)

Và thế giới chỉ có biết:

Người chỉ biết những con tàu đã đến

Còn bao nhiêu lạc nẻo hoặc chìm sâu

Giữa phong ba xanh thẳm chỉ một màu

 Ai đếm được bao nhiêu mồ giữa biển?

Hết gió bão lại sa vào giặc biển

Cướp bạc tiền và cướp cả đời hoa

 Biết làm sao cho thế giới hiểu là

 Nỗi đau đớn người dân Nam gánh chịu..

 (Trích trong Biển và Dân Việt- Thơ Sương Lam)

  Bao nhiêu chiến sĩ đã hy sinh để bảo vệ màu cờ vàng ba sọc đỏ, bao nhiêu gia đình đã ly tán, bao nhiều người đã tử nạn trong biển sâu rừng vắng trên bước đường tìm tự do, bao nhiêu sự cực khổ gian nan trong cuộc sống nơi xứ người đã vẽ lên bức tranh quốc hận đau thương.  Bởi thế  vào tháng Tư hằng năm, bạn và tôi,  xin hãy dành một phút tưởng niệm đến những người đã khuất cho lý tưởng tự do, bạn nhé!.

Ngày tưởng niệm! Chẳng đợi kêu mời rước

Ngày đau buồn! Dân Việt khắp năm châu

Một phút thôi! Xin kính cẩn cúi đầu

Để truy niệm đến những người đã khuất

Saigon cũ giã từ trong u uất

Nơi xứ người, Tôi, Bạn  nhớ Quê hương

Tháng Tư Buồn! Người ở lại quê hương

 Hờn vong quốc! Ai buồn hơn ai nhỉ?

 (Trích trong Portland Tháng Tư Buồn- Thơ Sương Lam)

 GSaigonngayxua.jpg

Theo vận nước nổi trôi, tôi lưu lạc nơi xứ người. Nhờ Trời Phật ban phúc lành, gia đình bé nhỏ của tôi được sum họp, đoàn tụ với các em của tôi như cha mẹ chúng tôi hằng mong muốn.

Chúng tôi đã chọn Portland là quê hương thứ hai của chúng tôi và chúng tôi đã sống ở nơi đây hơn 40 năm rồi.  Đời sống tình cảm của tôi lại gắn liền với từng bụi cỏ, từng gốc cây, từng tên đường ở Portland như tôi đã sống ở Sài Gòn ngày cũ.

Xin hãy cảm thông tâm tình của người viết trong những ngày đi học đầu tiên của khóa mùa Thu ở  “đại học trường làng” Portland  Community College ở Portland, Oregon.

“Khi còn ở quê nhà chốn cũ
Vẫn mơ về bến mới Tự Do
Nào hay đâu đã đến được bờ
Lại mang nỗi u hoài khó tả

Những buổi sáng trên đường tới lớp
Trời Thu buồn khắp nẻo sương giăng
Bao niềm thương nỗi nhớ xa gần
Trong thoáng chốc quay về lũ lượt

Nào cha mẹ, trường xưa, bạn cũ
Nào những ngày khốn khổ điêu linh
Nào bao nhiêu kỷ niệm, ân tình
Hình ảnh ấy bao giờ xóa được

Rồi tôi lại ngậm ngùi khi nhớ về Saigon:

Từng thu đến, lại từng thu đến
Gió lạnh về tê tái, cô đơn
Kẻ sĩ xưa ôm mối đau hờn
Nơi xứ lạ sống đời viễn khách

U hoài ấy biết ai tâm sự
Nửa cuộc đời sống ở quê hương
Sài Gòn ơi! Cách biệt đôi đường
Còn gì nữa, để quên để nhớ!


(Saigon Còn Gì Ðể Quên Ðể Nhớ – Thơ Sương Lam)

Tôi đã chọn Portland, Oregon là quê hương thứ hai của tôi cũng như nhà văn nữ Nguyễn Thị Thanh Dương đã chọn Texas là quê hương của bạn ấy.

 Chúng tôi là bạn văn nghệ thân thiết cùng sinh hoạt trong Diễn Đàn Cô Gái Việt tâm ý tương cảm tương thông rất nhiều.

 Xin mời đọc một trích đoạn trong bài viết mới nhất  “50 Năm Quê Nhà Quê Người” của bạn tôi nhé.  Cảm ơn Thanh Dương rất nhiều vì cùng một cảm nghĩ như tôi.

50 Năm Quê Nhà Quê Người50-nam-que-nha-que-nguoi.jpg

“……..Nước Mỹ đã là quê hương thứ hai, đã thấm vào tim tôi bao tình cảm, bao gắn bó thân thương. Nhà của tôi đây, vùng Dallas Fort Worth tiểu bang Texas nơi tôi đã sống mấy chục năm cho đến bây giờ. Tôi yêu mến nơi này. Chồng  thường hay trêu đùa:

–          Đối với bà tiểu bang Texas  đẹp nhất trong 50 tiểu bang nước Mỹ và nước Mỹ thì đẹp nhất thế giới luôn.

Thỉnh thoảng tôi đi thăm con ở tiểu bang Utah, California hay thăm em ở Edmonton Canada, ở lại một hai tuần tôi đã nhớ thành phố tôi ở, nhớ căn nhà của mình, nhớ sân trước vườn sau, nhớ chợ búa tôi thường đi. Khi đến ngày trở về, vừa đến phi trường Dallas Fort Worth tôi đã cảm xúc vui mừng đứa con đi  xa được trở về nhà.

Tôi cũng từng mơ thấy mình trở về Việt Nam, chờ đợi tôi vẫn là cảnh cũ người xưa, vẫn là bao kỷ niệm của trước khi tháng Tư 1975  ập đến, chuyến bay đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất tôi có cảm giác sung sướng vui mừng được trở về nhà y như thế này. Nhưng đó chỉ là mơ thôi.

Thấy tôi bâng khuâng chồng hỏi:

–          Bà nghĩ gì mà lặng người ra thế?

–          Quê nhà, quê người. Tháng Tư vết thương không bao giờ lành. Tháng Tư vẫn mãi là trang sử buồn.

Rồi tôi tỉ tê:

–          Chúng ta mấy triệu dân Việt lưu vong, bất kể người miền Nam thua cuộc hay bên thắng cuộc miền Bắc chắc rằng ai cũng có câu trả lời vì sao họ phải rời bỏ quê hương…

–          Kìa, bà đang khóc đó sao?

Tôi lấy tay lau nước mắt ướt mi và cười thật tươi:

–          Em khóc em buồn chứ. Xong rồi, em đang cười vui  đây, 50 năm quê nhà quê người, quá khứ và hiện tại, mất mát đau buồn và thành quả  nhận được. Em yêu hiện tại tốt đẹp này và ước mong tương lai tươi sáng tốt đẹp nhiều hơn nữa, cộng đồng người Việt chúng ta, các thế hệ cháu chắt chúng ta  ở khắp nơi trên thế giới sẽ gặt hái được nhiều thành công trên mọi lĩnh vực, dù họ mang quốc tịch gì nhưng cội nguồn vẫn là người Việt Nam sẽ làm thơm danh người Việt Nam.

Nguyễn Thị Thanh Dương.

( Viết cho Tháng Tư 1975- 2025 )”

Chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé. 

 Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn

Sương Lam

(Tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi-MCTN 759-ORTB 1190-4-30-25)

Sương Lam

Website: www.suonglamportland.wordpress.com

http://www.youtube.com/user/suonglam




THANH THANH – NGUYỄN VĂN PHƯỢNG*

NGUYỄN VĂN PHƯỢNG*

THANH THANH

Phượng ơi!  Chính thực anh là ai?

Sứ-giả thiên-đình Thượng-Đế sai?

Hay một thiên-thần tình-nguyện xuống?

Anh-Hùng Dân-Tộc tái đầu-thai?

     *Đại-Uý QLVNCH, từ trại An-Điềm

       đến Trại “Đồng-Mộ” ngày 24-04-79,

       chết tại “Nhà Trắng” ngày 10-10-80.

Anh là ánh đuốc giữa đêm tăm!

Nghệ-sĩ tài-ba rút ruột tằm!

Đại-diện muôn lòng đang uất nghẹn

Thét lên tiếng thét của hờn căm!

Như nhà thám-hiểm giữa rừng sâu,

Đánh rắn đầu tiên đánh đỉnh đầu!

Anh đã đâm lao vào tử-huyệt

Già Hồ — như hạ một con trâu!

Nhớ hôm “sinh hoạt” kiểm phê anh:

Anh đã công-khai chửi đích-danh!

Anh nhắc cho ghi từng điểm một

Vào trong biên-bản để chuyền quanh!

Có người cũng đã có chê-bai

Chính-sách lầm hư! chủ-thuyết sai!

Chống đảng, kình quyền, khinh cán-bộ!

— Đụng vào “lãnh tụ” thì chưa ai!

Bạn-bè nén hận trong cô-miên,

Nhưng chỉ mình anh dám nói lên!

Bản án tuyên cho đầu-đảng địch

Cũng là bản án tự anh tuyên!

Thế rồi anh bị chúng đưa đi!

Anh bị ra sao?  bị những gì?

Anh đủ can-trường mà chịu đựng

Như bao lần trước đã kiên-trì?

Thế rồi… anh chết, chết âm-u

Trong gọng gông cùm trong biệt-khu

Trong trại kiên-giam trong cấm-địa,

Nói lên thân-phận — một tên tù!

Bao nhiêu viễn-vọng, những mê-đam,

Và những vần thơ anh đã làm…

Phảng-phất đâu đây trong gió núi,

Chân trời màu tím, sương trời lam…

Anh vừa đốt đuốc giữa đêm tăm,

Vừa viết hùng-ca, rút ruột tằm;

Anh chọn “huy-hoàng rồi chợt tối

Hơn buồn le-lói suốt trăm năm”!

Phượng ơi!  Anh đã chẳng tham-sinh!

Đã tự nêu cao chí-khí mình!

Hơn kẻ quyền cao và chức trọng

Mà hèn, thì chỉ đáng chê khinh!

Phượng ơi!  Anh đã sống anh-hùng! 

Anh chết là niềm hãnh-diện chung!

Tất cả nhờ anh mà phấn-khởi,

Ngửng đầu đỡ ngượng với không-trung!

        “Nhà Trắng” Tiên-Lãnh 2, 10-10-1980

                          THANH-THANH

ReplyForwardYou received this via BCC, so you can’t react with an emoji



HỒI KÝ Nhà Văn HỒNG THỦY: ĐỔI KIẾP

Hồi ký Hồng Thủy

Đời sống bận rộn với những hối hả của cuộc sống trên đất Mỹ khiến 50 năm qua nhanh đến không ngờ.

Nhớ ngày nào của tháng 4 năm 1975. Chúng tôi rời quê hương trong lúc dầu sôi lửa bỏng với một tâm trạng lo buồn cùng cực. Lo vì không biết tương lai sẽ đi về đâu. Buồn vì bỗng dưng phải rời bỏ tất cả. Bỏ cuộc sống yên bình, đầy đủ, sung sướng bao nhiêu năm qua; bỏ quê hương thân yêu với biết bao kỷ niệm từ thời thơ ấu; bỏ mẹ tôi và ông ngoại già yếu bơ vơ.

Mọi việc xảy đến bất ngờ tưởng như một giấc mộng hãi hùng.

Chồng tôi đang là Chỉ huy trưởng Trung tâm huấn luyện Hải Quân Cam Ranh. Chúng tôi được ở trong bán đảo Cam Ranh thơ mộng. Vùng bất khả xâm phạm, chỉ dành riêng cho các cơ quan thuộc quân lực VNCH  nên rất riêng biệt và yên tĩnh.

Ngôi nhà tôi ở là một biệt thự rộng lớn được Hải Quân xây từ thời Pháp thuộc. Căn nhà nhìn ra bãi biển thơ mộng để mỗi tối khi màn đêm yên lặng tôi có thể nghe được tiếng sóng vỗ rì rào. Những đêm sáng trăng ngồi trên ban công, tôi say sưa ngắm mặt nước biển lấp lánh ánh trăng vàng, thoảng trong gió phảng phất hương thơm nhẹ nhàng của những cây dạ lý hương ở góc vườn. Khi hè đến, hai cây phượng trước sân nhà đua nhau khoe sắc thắm như chào đón những chú ve sầu ca hát rộn ràng. Mùa xuân những cây mai vàng nở hoa rực rỡ, rải rắc thấp thoáng trên những đồi cỏ hai bên lối đi vào bán đảo. Đời sống thật êm ả, thần tiên. 

Bỗng một hôm nhà tôi đi họp ở Nha Trang về, sắc mặt anh rất buồn, anh nói với tôi mình sắp mất nước rồi. Tôi nghe tưởng như tiếng sét bất ngờ giáng xuống trên đầu.

Suốt cả tuần sau đó, anh ăn cơm rất vội vàng rồi vào trung tâm họp hành liên miên; khi anh về nhà là điện thoại reo liên tục không ngừng.

Một hôm, anh đang ăn cơm thì có điện thoại ông tướng vùng gọi, nói chuyện xong, anh ăn rất vội vã rồi lái xe vào văn phòng dù đã quá giờ làm việc.  Mãi tới nửa đêm anh mới về nhà. Anh nói tôi lo thu xếp quần áo cho tôi và hai đứa con gái, ngày mai anh sẽ gửi ba mẹ con theo máy bay Không Quân về Sài Gòn trước. Nghe anh nói tôi ngạc nhiên, bàng hoàng như người từ trên trời rơi xuống. Tự nhiên tim tôi đâp dồn dập, tôi hỏi như người hụt hơi

– Tại sao, tại sao vậy anh?

Giọng anh nghẹn ngào

– Quân đội được lệnh phải buông súng và rút lui. Việt Cộng chiếm dần hết các tỉnh miền Trung rồi.

Tôi nói với anh, tôi không muốn xa anh, cho tôi ở lại bên anh; chồng đâu vợ đó, sống chết có nhau. Tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Anh nói với tôi thời gian cấp bách lắm rồi, phải khó khăn lắm anh mới xin được 3 chỗ trên máy bay cho ba mẹ con tôi quá giang. Tôi phải đi trước cho anh yên tâm. Ngày mai anh sẽ liên lạc với không quân Mỹ xin chỗ cho 2 con trai tôi quá giang về trước. Anh ở lại lo cho gần 4 ngàn nhân viên và khóa sinh di chuyển về sau. Nếu mẹ con tôi còn ở lại, anh sẽ bận tâm lo cho gia đình và không làm việc được.

Cả đêm đó tôi không ngủ, đồ đạc không được mang theo vì không có chỗ,  chỉ một cái va li nhỏ với mấy bộ quần áo của 3 mẹ con mà tôi sắp mãi chưa xong. Quần áo bao nhiêu, biết mang cái nào bỏ cái nào.  Tôi cứ cầm lên bỏ xuống, vừa làm vừa khóc, mặt mày ngơ ngẩn, tóc tai rũ rượi như con mẹ điên. Trời ơi cả một cái nhà to lớn như vậy, bao nhiêu vật dụng, đồ quí, mà tôi chỉ được mang theo có vài bộ quần áo thôi sao. 

Mấy mẹ con tôi về Sài Gòn được đúng 3 hôm thì đường giây điên thoại Sài Gòn – Cam Ranh bất khiển dụng hoàn toàn. Tôi không làm cách nào liên lạc được với chồng tôi nữa, lòng tôi như lửa đốt,  tình hình chiến sự càng ngày càng sôi động. 

Khi nghe tin Việt Cộng đã chiếm Nha Trang tôi như người điên, tôi khóc lóc gọi điện thoại tứ tung cho những người bạn Hải Quân của chồng tôi làm việc ở Sài Gòn để hỏi thăm tin tức. Không ai cho tôi nguồn tin rõ ràng, ai cũng nói những lời an ủi mơ hồ cho tôi yên tâm.  Tôi biết mạng sống của  chồng tôi và các khóa sinh đang treo trên sợi tóc. Nha Trang – Cam Ranh quá gần, chỉ vài quả pháo kích là Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Cam Ranh biến thành tro bụi.

Suốt cả tuần tôi cứ ôm cái radio nghe tin tức và đọc kinh cầu nguyện liên miên. Cuối cùng chồng tôi và 4 ngàn khóa sinh cùng nhân viên cũng được tiếp cứu và đưa về Sài Gòn.

Ở Sài Gòn chồng tôi phải cấm trại lu bù, mỗi ngày thời gian được về nhà ăn cơm thật ngắn ngủi. Ăn xong phải vào trại liền. Chồng tôi luôn dặn dò những lời như trối trăn: Việt Cộng có thể tấn công Sài Gòn bất cứ lúc nào, nhiều cơ hội chúng sẽ vào theo ngả xa lộ Hàng Xanh, gần cư xá sĩ quan Thị Nghè là nơi gia đình tôi cư trú. Nếu như vậy, anh không thể trở về nhà lo cho tôi và các con. Anh sẽ phải cùng anh em chiến đấu, sống chết có nhau. Tôi phải tự lo cuộc sống không có anh, cố gắng nuôi con. Nếu Chúa thương cho anh còn sống, anh sẽ tìm cách liên lạc với tôi sau. Những lời dặn dò xé lòng đó làm tôi sống trong hãi hùng, lo sợ từng phút từng giây.

Chiều tối 29, đau xót thay, khi Việt Cộng trên đường tấn công Sài Gòn, tất cả quân nhân được lệnh tan hàng để lo di tản. Hải Quân được lệnh phải mang tất cả chiến hạm qua Phi Luật Tân để trao trả cho Hoa Kỳ, họ không muốn cho bất cứ chiến hạm nào lọt vào tay Cộng Sản.

Lúc đó gia đình tôi cũng chen chúc lên tầu một cách khó khăn như một thường dân vì anh là đơn vị di tản từ Cam Ranh về, không có tầu bè, không có bất cứ một phương tiện nào. Chúng tôi cùng đoàn người chờ đợi ở bến tầu, lũ lượt chen lấn nhau để lên một chiến hạm đang trong tình trạng sửa chữa ở Hải quân công xưởng. Tầu cố nổ máy để kéo lê giúp đoàn người đi tìm ánh sáng tự do dù không nước uống, không lương thực.

Ra đến Côn Sơn người Hạm trưởng định lái tầu quay trở lại vì bị áp lực của bà vợ đòi trở lại Sài Gòn. Bà có ông anh Việt Cộng làm lớn, bà hy vọng ông anh có thể giúp gia đình bà.  Bà dọa nếu tiếp tục đi bà sẽ nhẩy xuống biển tự tử. Khi biết ông Hạm Trưởng sẽ lái tầu quay trở lại, các quân nhân đi quá giang trên tầu rất bất mãn, một số quân nhân Nhảy Dù nóng nẩy đòi giết ông Hạm trưởng vì họ không muốn chiếc tầu với gần 5 ngàn sinh mạng muốn đi tìm tự do phải quay trở lại sống dưới chế độ Cộng Sản. Thấy tình hình quá căng thẳng, chồng tôi là sĩ quan thâm niên nhất trên tầu phải ngăn cản và đứng ra dàn xếp. Anh liên lạc với ông Tư lệnh Hải quân đang ở trên một cái tầu khác xin phương tiện cho ông Hạm trưởng và gia đình ông trở lại Sài Gòn bằng 1 cái tầu nhỏ. Sau đó nhà tôi được lệnh làm Hạm trưởng lái chiếc tầu qua Phi Luật Tân. Tại đây tất cả tầu của HQ VN di tản đã tụ tập tại Subic Bay để giao trả lại cho Hải quân (HQ) Mỹ.   Đoàn người di tản được chuyển sang một thương thuyền thật lớn của Mỹ để đưa đến trại tị nạn ở đảo Guam.

Tôi không sao quên được phút cuối cùng khi các quân nhân Hải quân VNCH rời tầu để chuyển giao lại cho HQ Mỹ. Mọi người đã làm lễ chào Quốc Kỳ VNCH một lần chót.  Bài Quốc ca vang lên trong nghẹn ngào, mọi người nhìn lá cờ vàng ba sọc đỏ đang bay phất phới trên đài chỉ huy bị từ từ kéo xuống,  ai cũng ngậm ngùi chảy nước mắt. Giã từ Việt Nam! Giã từ đất nước thân yêu!

Tất cả các quân nhân được yêu cầu cởi quân phục bỏ lại trên tầu để thay bằng quần áo dân sự. Nhìn anh buồn bã cởi bỏ bộ quần áo HQ tác chiến mầu xanh xám, bộ đồ anh mặc hàng ngày đi làm suốt bao nhiêu năm trời, lòng tôi đau thắt lại. Anh cầm bộ đồ và cái mũ trong tay ngần ngừ một lát, tôi không sao quên được nét mặt anh lúc đó, sau cùng anh buông tay cho bộ đồ và cái mũ rơi trên sàn tầu, và xách mấy túi hành lý bước vội đi như chạy trốn. Tôi dắt các con đi theo nước mắt ràn rụa. Tôi ngoái lại phía sau nhìn bộ quần áo và cái mũ của anh nằm trơ trọi trên sàn tầu, tôi có cảm tưởng như mình đã bỏ rơi một người thật  thân yêu gần gũi. Nghĩ ngợi 1 giây, tôi vùng chạy trở lại, gỡ bộ lon của anh, bộ lon mà anh đã phải đánh đổi với hơn 20 năm binh nghiệp. Nhét vội bộ lon vào túi xách, tôi chạy theo anh cho kịp với đoàn người di tản đang xếp hàng để lên bờ. Bắt đầu từ giờ phút đó tôi mang cảm giác của một người vừa đổi kiếp.

Kiếp trước là người có một cuộc sống thật đầy đủ hạnh phúc,  bỗng dưng “bừng con mắt dậy, thấy mình tay không”. Danh vọng tiền bạc biến hết. Hai vợ chồng, 4 đứa con thơ: đứa lớn nhất 13 tuổi, bé nhất 8 tuổi, phải rời bỏ quê hương, ra đi với 2 bàn tay trắng theo giòng người di tản không biết sẽ trôi dạt đến đâu.

Cũng may nước Mỹ mở rộng vòng tay chào đón những người tị nạn. Cho dù guồng máy chính trị của đất nước này đã dự phần trách nhiệm làm chúng tôi mất quê hương về tay Cộng Sản. Nhưng những người dân Mỹ tốt bụng, họ có trách nhiệm gì với chúng tôi đâu mà vẫn cố gắng giúp đỡ chúng tôi trong những bước đầu khó khăn, không cửa không nhà, không công ăn việc làm. Họ đón chúng tôi bằng cảm tình nồng ấm. Tôi nhớ mãi nụ cười của một bà lão da đen thật hiền hòa khi thấy tôi đi qua trước mặt bà. Những bàn tay nhỏ bé của mấy em học sinh, trên xe bus vàng của nhà trường, vẫy vẫy tôi, khi tôi đứng đợi đèn xanh để qua đường. Một người đàn ông Mỹ ân cần hỏi tôi có cần ông ta giúp khi thấy tôi khệ nệ ôm bịch đồ ăn mới mua ở chợ ra xe. Những cử chỉ nhỏ của thuở ban đầu đó, là niềm an ủi, niềm vui cho những kẻ tha hương chân ướt chân ráo đến một đất nước xa lạ.

Nhờ có bà dì ruột đã ở sẵn bên Mỹ vì chồng bà làm cho tòa Đại Sứ VN ở Washington DC, chúng tôi được trưởng nam của bà là Nguyễn Hoàng Diệu có quốc tịch Mỹ bảo lãnh gia đình và cho chúng tôi được tá túc trong nhà bà trong thời gian đầu khi mới đặt chân lên đất Mỹ. Hai vợ chồng, 4 đứa con ở chung trong một phòng dưới basement nhà bà. Tuy chật chội nhưng ấm cúng tình gia đình, nên chúng tôi rất vui mừng.

Khi tôi kể chuyện về thời gian đầu cho 1 cô bạn thân nghe, cô ấy đã trêu tôi “Trong thời gian ở chung như vậy làm sao hai vợ chồng mi làm ăn?” Tôi phì cười và ngẩn mặt ra “Ừ nhỉ, nếu tôi nhớ không nhầm thì suốt thời gian dài ở nhà bà dì, vợ chồng chúng tôi đã quên luôn “cái khoản đó”.

Ban ngày 2 vợ chồng lo đi lao động. Vợ đi làm bồi cho một coffee shop. Chồng làm cashier cho một tiệm ăn Hy Lạp. Cả 2 vợ chồng về đến nhà là mệt nhoài, lo cho 4 đứa con và cũng phải phụ lo cơm nước với bà dì. Tối đến vợ chồng con cái 6 mạng chui vào phòng ngủ chung, “làm ăn” gì nổi cơ chứ, và “làm ăn” cách nào, khi 4 đứa con với 8 con mắt tinh như ma ở xung quanh trong 1 cái phòng chả rộng rãi gì cho lắm. Lúc đó chúng tôi còn trẻ, vợ 34 tuổi, chồng mới có 43. Vậy mà cuộc sống bận rộn khiến chúng tôi chả nghĩ gì đến những chuyện “trần tục” đó, và quả thật cũng không thấy cần thiết nữa.

Sau khi dành dụm được 1 số tiền nhỏ, chúng tôi mới dọn ra riêng. Chồng tôi là một người cha thương con và lo cho con vô cùng. Cả 2 vợ chồng tôi đều coi việc lo cho các con là ưu tiên số 1. Hồi ở VN, cả 4 đứa con tôi đều học đàn piano. Cuộc di tản làm việc học đàn của các cháu gián đoạn gần hai năm trời.  Sửa soạn ra ở riêng, chồng tôi nghĩ ngay đến việc phải cho các cháu được tiếp tục học đàn vì gián đoạn lâu quá sợ các cháu sẽ quên hết. Vì việc học đàn của các con, chúng tôi phải thuê nhà riêng để ở thay vì có thể ở apartment, mỗi tháng tiền thuê rẻ bằng nửa tiền thuê nhà, nhưng họ không cho phép đánh đàn vì sợ ồn làm phiền hàng xóm.

Có nhà ở rồi chúng tôi tính tới việc mua đàn cho các con tập dượt. Vì học đàn mà không có đàn để tập hàng ngày thì cũng như không. Việc mua đàn mới là một sự liều lĩnh ít ai dám làm vào thời điểm đó. Khi dọn ra ở riêng, sau khi mua 1 cái xe cũ để gia đình có phương tiện di chuyển, vốn liếng chúng tôi  dành dụm trong thời gian ở nhờ nhà bà dì và tiền cơ quan thiện nguyện cho khi mới tới còn chưa được 2 ngàn đô. Chúng tôi đi kiếm mua 1 cái đàn cỡ trung bình giá là 1600 đô. Chúng tôi xin mua trả góp. Nhìn số lương của chúng tôi mà phải nuôi tới 4 đứa con, chủ tiệm đàn nói phải có người co-sign vì không đủ điều kiện để ký giấy mua 1 mình.

Tôi nhờ cậu em bảo lãnh gia đình tôi co-sign dùm cho chúng tôi mua đàn cho các cháu thì cậu tròn mắt lên ngạc nhiên nhìn tôi như nhìn một con quái vật và hỏi tôi bằng 1 giọng thật gay gắt “Anh chị có điên không? Bây giờ lo sao cho đủ ăn đủ mặc là may, còn bày đặt cho con học đàn. Bộ chị tưởng anh ấy vẫn còn là Đại tá HQ à? Em còn không nghĩ đến chuyện cho con em học đàn, huống hồ anh chị, mới chân ướt chân ráo đến đây, còn nghèo mạt rệp mà đã tính chuyện nuôi con như thời vàng son ở VN. Dẹp những chuyện viễn vông đó đi.” Biết là cậu em nói rất đúng, nhưng tôi cũng tủi thân và dù cố kìm hãm mà nước mắt vẫn ứa ra. Tôi kể lại cho nhà tôi nghe rồi hai vợ chồng bàn tới bàn lui, cuối cùng nhà tôi quyết định là vẫn mua đàn và trả cash luôn hết. Lý do vì chúng tôi nghĩ âm nhạc rất cần thiết cho đời sống, nó làm cho đời sống thăng hoa và tâm hồn con người phong phú hơn. Nếu các con tôi có thú vui giải trí là âm nhạc thì sẽ không còn thì giờ rảnh rỗi đàn đúm bạn bè để có thể sa ngã vào những thói hư tật xấu của tuổi trẻ.

Sau khi mua đàn cho các con, vốn liếng gia đình tôi còn đúng 90 đô. Chúng tôi đã tạo dựng cuộc sống mới trên đất Mỹ với con số khởi đầu là 90 đô. Mua đàn cho các con rồi thì phải lo tìm thầy dậy đàn cho chúng. Chúng tôi đã may mắn tìm được 1 bà giáo dậy đàn người Nhật. Bà Ellen Sakai rất tốt bụng, bà bằng lòng đến tận nhà dậy cho 4 cháu, mỗi tuần 2 giờ, mỗi đứa được học nửa giờ và chỉ lấy nửa giá là $10/1 giờ, thay vì giá của bà là $20/1giờ. Tiền lương 2 vợ chồng tôi vừa đủ cho việc trả tiền nhà, điện nước đổ xăng và tiền chợ. Bây giờ mỗi tháng phải chi thêm 80 đô tiền học đàn cho các con. Kiếm đâu ra bây giờ? 80 đô thời đó khá lớn, vì lương tối thiểu có $2.10/1 giờ rồi còn phải trừ thuế nữa.

Cuối cùng tôi kiếm được việc làm thêm ngày cuối tuần, dọn nhà cho một bà khách hàng người Mỹ vẫn đến coffee shop tôi làm uống café. Bà ấy bằng lòng trả tôi $20 cash mỗi lần đến dọn nhà, lau chùi, hút bụi cho bà Tôi mừng húm nhận lời liền. Tôi vui vẻ, hào hứng khi hút bụi, lau chùi cửa kính cho căn nhà rộng lớn của bà không nề hà công việc vất vả. Nhưng khi phải dọn dẹp phòng tắm và cúi xuống lau cái bồn cầu dù rất sạch sẽ, nước mắt tôi bỗng ứa ra. Tôi còn nhớ, tôi đã đóng kín cửa, đứng khóc lặng lẽ một mình rất lâu khi nghĩ đến những ngày vàng son ở VN và nghĩ đến thân phận mình bây giờ. Càng nghĩ, càng tủi thân và cứ đứng khóc mãi. Hôm đó tôi về nhà, lòng nặng trĩu u sầu. Nhưng buổi tối, khi nghe tiếng đàn réo rắt từ những bàn tay nhỏ bé của các con, tôi bỗng vui ngay và tự nhủ lòng “mình hy sinh cho các con được tiếp tục cuộc sống đầy đủ như những ngày còn ở VN, thì mình phải cảm thấy hài lòng và hãnh diện chứ, sao lại tủi thân và buồn!”

Từ đó, mỗi tuần khi dọn nhà cho bà khách hàng người Mỹ, đến lúc phải chùi cầu tôi không cảm thấy buồn nữa mà ngạc nhiên thấy mình rất vui vẻ và miệng còn hát líu lo. Tôi tiếp tục công việc dọn nhà cho tới hơn 1 năm sau, khi tôi học xong nghề Cosmetologist và đi làm rồi tôi mới “say goodbye” bà khách hàng của tôi.

50 năm qua, đời sống đã ổn định, các con đã thành đạt. Đời mình đã bước vào tuổi hoàng hôn, có thể “chợt tắt” bất cứ lúc nào. Tôi vẫn không quên được cái “thuở hàn vi” đó và cảm thấy thật hài lòng là vợ chồng tôi đã cố gắng hết mình để lo  tròn bổn phận và trách nhiệm với 4 đứa con thân yêu, để chúng bước vào đời thật vững chắc và toàn vẹn.

Hồng Thủy




CHÙM THƠ CAO MỴ NHÂN: TẢN MẠN VUI VỀ CHUYỆN XƯA: BƯU ĐIỆP “TẠ TỪ” – A I. VÀ ANH – KHÓC CÙNG NIÊN KỶ.

BƯU ĐIỆP “TẠ TỪ”   –  CAO MỴ NHÂN
 
===
Thưa quý vị
Ngày xưa, trước 1975, tất cả các Phòng, Ban đơn vị đều có BAN VĂN THƯ để nhận công văn ĐẾN và chuyển công văn ĐI. 
Phòng, Ban đơn vị nào cũng có nhân viên thảo văn thư, quý Đơn vị trưởng sẽ duyệt lại, ký tên, nhân viên đóng dấu, ghi số công văn rồi gởi đi . 
Bấy giờ Cao Mỵ Nhân hay tự ý viết các công văn liên hệ tới công tác xã hội của mình, nên các hình thức như CÔNG ĐIỆN, BƯU ĐIỆP, SỰ VỤ LỆNH vv…thảo xong, đưa nhân viên đánh máy, rồi ký gởi đi, để không phải sửa lại, thay đổi ý kiến …

Do đó công việc phần hành văn thư rất thích cái tính ôm đồm, ham hố và nghịch ngợm của Cao Mỵ Nhân, Trưởng Phòng Xã Hội QĐI/QKI . 
Một hôm, cô thư ký chuyên thảo văn thư ” thách ” CMN làm một bài thơ với hình thức BƯU ĐIỆP TÌNH YÊU. 
Thế thì Cao Mỵ Nhân thảo ngay, với đầy đủ chi tiết hình thức một bản BƯU ĐIỆP , nên buộc lòng CMN phải ghi đủ các điều trích dẫn . 
Vậy thưa các chữ in hoa, chính là của mẫu mã BƯU ĐIỆP bình thường. Chớ quý vị ngó vào các điều khoản chuyển đi, e khiếp đảm vì sao mà người viết ham hố thế . 
Xin mời đọc, và bỏ qua cho cái lỗi ” tầm phào ” của Cao Mỵ Nhân tôi nha . 
 

BƯU ĐIỆP ” TẠ TỪ “
 
NƠI GỞI: Người yêu đã sang sông
Không mong NƠI NHẬN : Tạc trong lòng
Thiệp hồng THÔNG BÁO: Ân tình hết
XÁC NHẬN: Thôi đừng nhớ với mong
 
Điện tín về anh KHẨN cấp kỳ 
Tình chưa tuyệt vọng đã sầu bi

Bên sông nức nở vài tơ liễu
Lời MẬT đường đưa tiễn chuyến đi
 
BẢN VĂN từ tạ gởi cho nhau
Với một tiêu đề hẹn kiếp sau
Dang dở kiếp này xin xoá bỏ
Ngàn năm ấp ủ ảnh hình đầu
 
Ảnh hình THỨ NHẤT khắc trong tim
Đã nhạt phai theo mỗi thoáng nhìn
Mắt biếc tham lam ôm vũ trụ
Tình yêu chân thực tưởng là điên
 
Hình ảnh THỨ NHÌ vụt thoáng qua
Bao nhiêu hình ảnh cùng mơ hoa
Bấy nhiêu kỷ niệm toàn hư ảo
Vì một tình yêu mới bỏ xa
 
Trang giấy THỨ BA chép chuyện buồn
Vòng tay thả lỏng những hoàng hôn
Từng đêm rét mướt và đau khổ
Tê buốt vai gầy, nặng nhớ nhung
 
Rồi mối tình tên gọi THỨ TƯ
Tưởng mùa đông đến, khiến bơ vơ
Tâm tư băng giá, hoa đời khép
Héo nụ tầm xuân mãi đợi chờ
 
Tình viết sau cùng là THỨ NĂM
ÔI bao ẩn ức, bấy âm thầm
Cho tôi suy tụng ân tình cũ
Để góp đèn hoa kết gối chăn …
 
(KBC 4109-  19/6 /1972) 
 CAO MỴ NHÂN (HNPD)

A I. VÀ ANH.   –  CAO MỴ NHÂN 

Một mình ngó mãi không gian 

Thấy con chim én vượt đàn, đăng cao

Chim ơi, bay tới phương nào

Mùa xuân đang ở chốn dào dạt mơ

*

Một mình hỏi khẽ, ngẩn ngơ

Người trăm năm cũ bây giờ còn không

Ô hay, lời lẽ điên khùng

Hay trong tư tưởng mịt mùng a, i  ( AI ) 

*

Thôi rồi hớn hở, sầu bi

Âu lo, trách cứ , điều gì hoang mang

Nhanh như trái đất tan hoang

Vượt mau trí tuệ nhân gian vạn đời

*

Người trăm năm thốt ra lời 

Giấu em tình cũ đất trời hiện sinh

AI ơi, anh đã hiển linh

Bao nhiêu ký ức tạo hình thực hư

*

Từ đây thời khắc vô tư

Trăm năm, vạn chuyện sẽ như hiện hành

AI về tổng hợp cùng anh

A, I  mở cửa trời xanh tuyệt vời …

Utah   17 – 4 – 2025

CAO MỴ NHÂN (HNPD)  

20 – 4 – 2025

KHÓC CÙNG NIÊN KỶ.      CAO MỴ NHÂN

Trăng lênh đênh trôi lãng đãng trở về

Cho thấy được cuộc đời là hư ảo

Mây lướt thướt bay chập chờn phiền não 

Mới bình minh sao nhuốm vẻ hoàng hôn

*

Khói sương tan trong bát ngát linh hồn

Em mờ mịt tháng năm đầy quá khứ

Tuổi anh lỡ trải dài đường viễn xứ

Đừng nói thêm quê quán chốn hoang liêu

*

Biết đâu tìm ân nghĩa với thương yêu

Tình đã lạt phai tưởng lầm trễ hẹn

Không có gì sao thế gian bịn rịn

Chuyến đò vơi trăng cạn nỗi riêng tư

*

Quán thu phong hơi lạnh buốt bao giờ

Ai viết dở dang chờ người nhuận sắc 

Vách lá ẩm ướt lời xưa mất mát 

Ta đang cùng niên kỷ khóc chơi vơi…

         CAO MỴ NHÂN

   22 – 4 – 2025




ĐỖ THÔNG MINH – Thư Đông Kinh Mới 1-5-2025 




KIỀU MỸ DUYÊN SHOW: Cái Nhà Là Nhà Của Ta & Và Nhiều Thông Tin Khác.




KIỀU MỸ DUYÊN – Chương Trinh CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA.




VÕ ĐẠI TÔN – CHÚT TÀN HƠI VẪN GỌI MẸ VIỆT NAM




GS TS Mai Thanh Truyết: “MẠN ĐÀM VỀ CON ĐƯỜNG DÂN CHỦ HÓA VIỆT NAM” YouTube




Taj Mahal – Tuyệt Tác Kiến Trúc và Tình Yêu Bất Diệt – PHẠM PHAN LANG

Hành Trình Đến Taj Mahal – Tuyệt Tác Kiến Trúc và Tình Yêu Bất Diệt

Khoảng một năm trước, tôi và Barry, chồng tôi, đã có một chuyến viễn du kéo dài 22 ngày cùng Enrichment Journeys, khám phá Ấn Độ và các quốc gia Nam Á bằng cả đường bộ và du thuyền. Trong 10 ngày đầu tiên, chúng tôi rong ruổi trên đất liền, ghé thăm những thành phố nổi tiếng như Delhi, Agra, Jaipur, Mumbai và Goa, trước khi lên tàu để tiếp tục hành trình qua Sri Lanka, Thái Lan, Malaysia và Singapore.

Trong số những điểm đến kỳ vĩ của Ấn Độ, Taj Mahal ở Agra là nơi để lại trong tôi nhiều ấn tượng sâu sắc nhất. Ngày hôm ấy, đoàn chúng tôi gồm khoảng 20 du khách được hướng dẫn viên địa phương đưa đến khu phức hợp Taj Mahal. Vì chân Barry bị đau, chúng tôi thuê một chiếc xe lăn do người dân bản xứ đẩy đi. Điều này giúp chúng tôi có thể di chuyển dễ dàng hơn và tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp huy hoàng của công trình kiến trúc vĩ đại này.

Taj Mahal – Biểu Tượng Của Tình Yêu Vĩnh Cửu

Taj Mahal không chỉ là một kiệt tác kiến trúc mà còn là minh chứng cho tình yêu bất diệt. Công trình này được xây dựng vào thế kỷ 17 theo lệnh của Hoàng đế Shah Jahan để tưởng nhớ người vợ yêu dấu Mumtaz Mahal, người đã qua đời khi sinh đứa con thứ 14. Truyền thuyết kể rằng trước khi mất, bà đã yêu cầu nhà vua xây một lăng mộ thật đẹp để biểu tượng cho tình yêu của họ.

Mất hơn hai thập kỷ để hoàn thành, Taj Mahal huy động khoảng 20.000 thợ thủ công từ khắp nơi trên thế giới, cùng với những kiến trúc sư tài ba từ Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Á. Được làm hoàn toàn bằng đá cẩm thạch trắng nhập từ Rajasthan, Taj Mahal tỏa sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời, biến đổi màu sắc theo từng thời khắc trong ngày.

Vẻ Đẹp Kiến Trúc Huyền Bí

Ngay từ khi đặt chân đến khu vực cổng chính, tôi đã bị choáng ngợp bởi vẻ đẹp của Taj Mahal. Lăng mộ chính với mái vòm hoàn hảo cao 73 mét, được trang trí bằng những hoa văn tinh xảo, đá quý và thư pháp Hồi giáo trích từ Kinh Koran.

Bố cục của Taj Mahal được thiết kế theo nguyên tắc đối xứng hoàn hảo. Hai bên lăng chính là hai công trình bằng sa thạch đỏ – một nhà thờ Hồi giáo và một nhà khách – tạo nên sự hài hòa trong tổng thể kiến trúc. Phía trước Taj Mahal là một khu vườn Mughal rộng lớn, với các kênh nước phản chiếu hình ảnh lăng mộ như một tấm gương, tạo cảm giác huyền bí và thơ mộng.

Cảm Nhận Khi Đặt Chân Đến Taj Mahal

Người ta thường nói rằng không có bức ảnh nào có thể lột tả hết vẻ đẹp thực sự của Taj Mahal, và điều này hoàn toàn đúng. Khi đứng trước công trình này, tôi cảm nhận được một sự thanh tịnh và trang nghiêm kỳ lạ. Cảm giác như thời gian dừng lại, và tôi có thể hình dung được tình yêu sâu đậm mà Hoàng đế Shah Jahan dành cho người vợ của mình.

Mặc dù chúng tôi không thể vào bên trong lăng mộ chính, nhưng chỉ cần dạo quanh khuôn viên và nhìn ngắm Taj Mahal từ nhiều góc độ khác nhau cũng đã đủ để khiến chúng tôi trầm trồ và cảm phục. Chúng tôi chụp rất nhiều ảnh để lưu giữ khoảnh khắc đẹp đẽ này, và mỗi bức ảnh đều phản ánh một nét huyền ảo riêng biệt của công trình.

Một Ký Ức Khó Quên

Chuyến thăm Taj Mahal không chỉ là một điểm đến du lịch mà còn là một hành trình cảm xúc, giúp tôi hiểu thêm về tình yêu, sự hy sinh và tài hoa của con người. Đó là một trải nghiệm đáng nhớ mà tôi sẽ luôn trân quý trong suốt quãng đời còn lại.

Xin mời thăm lăng mộ Tal Mahal qua hình ảnh, hy vọng quý vị sẽ cảm nhận được một phần sự kỳ diệu mà Taj Mahal đã mang đến cho chúng tôi.

https://photos.app.goo.gl/jvdmKJVhfduFa4uj7

Kính chúc sức khỏe và bình an.

Thân kính,

Pham Phan Lang

Bảng Tiếng Anh

Journey to the Taj Mahal – A Masterpiece of Architecture and Eternal Love

About a year ago, my husband Barry and I embarked on a 22-day journey with Enrichment Journeys, exploring India and other South Asian countries by land and sea. During the first 10 days, we traveled through famous cities such as Delhi, Agra, Jaipur, Mumbai, and Goa, before boarding a cruise to continue our adventure through Sri Lanka, Thailand, Malaysia, and Singapore.

Among all the magnificent destinations in India, the Taj Mahal in Agra left the deepest impression on me. That day, our group of about 20 tourists was guided to this legendary monument. Since Barry had some difficulty walking, we rented a wheelchair pushed by a local assistant, which allowed us to move easily and fully appreciate the grandeur of this extraordinary architectural wonder.

The Taj Mahal – A Symbol of Eternal Love

The Taj Mahal is not only an architectural masterpiece but also a symbol of undying love. This stunning mausoleum was commissioned in the 17th century by Emperor Shah Jahan in memory of his beloved wife, Mumtaz Mahal, who passed away while giving birth to their 14th child. According to legend, before she died, she asked the emperor to build a magnificent tomb that would stand as an eternal testament to their love.

It took over two decades and around 20,000 skilled artisans from across the world to complete the Taj Mahal. Talented architects from Persia, Turkey, and Central Asia contributed to its design. Constructed entirely from white marble sourced from Rajasthan, the Taj Mahal shimmers under the sunlight, changing hues at different times of the day.

The Enchanting Architecture

From the moment we entered through the grand gateway, we were mesmerized by the sheer beauty of the Taj Mahal. The main mausoleum, with its perfect 73-meter-high dome, is adorned with intricate floral motifs, semi-precious stones, and Quranic inscriptions meticulously carved into the marble.

The layout of the Taj Mahal follows an impeccable symmetrical design. Flanking the central tomb are two red sandstone structures—a mosque and a guesthouse—creating a harmonious architectural balance. In front of the Taj Mahal lies the vast Mughal garden, with reflecting pools that mirror the image of the mausoleum, adding to its ethereal charm.

A Profound Experience

People often say that no photograph can truly capture the essence of the Taj Mahal, and I completely agree. Standing before this monument, I felt an overwhelming sense of serenity and reverence. It was as if time had stopped, allowing me to reflect on the depth of love that inspired its creation.

Although we couldn’t enter the inner sanctum of the mausoleum, simply walking around the complex and admiring the Taj Mahal from different angles was more than enough to leave us in awe. We took countless photos to preserve these precious moments, each picture revealing a unique, magical perspective of this wonder.

A Memory to Cherish Forever

Visiting the Taj Mahal was more than just a sightseeing excursion—it was an emotional journey that deepened my understanding of love, sacrifice, and human creativity. It is an experience that I will always hold dear.

Please enjoy a virtual visit the Taj Mahal through this photo collection, and we hope it will convey a part of the awe and wonder the Taj Mahal inspired in us.  

https://photos.app.goo.gl/jvdmKJVhfduFa4uj7

Wishing you good health and peace always.

Warmest regards,
Pham Phan Lang




VTLV CHÚC MỪNG Và TRÂN TRỌNG GIỚI THIỆU NHÀ THƠ ĐÔNG RY NGUYỄN Sắp Ra Mắt – Thi Tập “NGƯỜI LÍNH LÀM THƠ NHƯ VIẾT SỬ” .

*

VĂN THƠ mầm tốt mãi gieo trồng

LẠC VIỆT mừng chung với cộng đồng

NGƯỜI LÍNH LÀM THƠ NHƯ VIẾT SỬ

Danh tài trải bút tựa ghi công

DONRY thời chiến tay ngời súng

Thi sĩ ngày nay chữ nhói lòng

 Hải ngoại anh hùng thương cố quốc

Thanh bình đất Mẹ vẫn hoài mong.

*

Phương Hoa – BBT VTLV

MAR 21st, 2025

VTLV HÂN HẠNH GIỚI THIỆU MỘT SINH HOẠT VĂN HỌC NGHỆ THUẬT ĐỘC ĐÁO, HIẾM CÓ, VÀO NỬA TIẾNG ĐẦU, TRONG CHIỀU NHẠC “TÌNH CHA & TÌNH LÍNH” CHỦ NHẬT TUẦN NÀY!

RMS: 50 NĂM VẬN NƯỚC & THI TẬP “NGƯỜI LÍNH LÀM THƠ NHƯ VIẾT SỬ” CỦA TÁC GIẢ DONRY NGUYỄN, THÀNH VIÊN CỦA VTLV, TỪ NAM CALI LÊN!

Vài nét về tác giả:

-Nguyễn Đình Chiến là tên thật, bởi vì sinh đúng ngày 20/7/1954, ngày ký hiệp định Đình Chiến-Genève, chia đôi đất nước! Tác giả sinh ra tại một làng quê gần chân núi Đá Bia, cực nam tỉnh Phú Yên miền trung nước Việt, là nơi chiến tranh diễn ra rất sớm, từ những năm đầu tiên. Năm 7 tuổi, đã phải tản cư theo cha mẹ đi khắp nơi, vừa mưu sinh vừa học hành. Mùa hè đỏ lửa 1972, theo lệnh tổng động viên của chính phủ, tham gia quân lực VNCH, trở thành người lính pháo binh, thuộc pháo đội C, tiểu đoàn 221 pháo binh, sư đoàn 22 bộ binh. Vùng hành quân từ Bình Định đến Pleiku, Kon-Tum. Những bài thơ lính được viết trong thời kỳ này. Tháng 3/75, cả đơn vị tan hàng trên đường di tản từ Cao nguyên về Tuy Hòa. Sau 75, chịu cảnh tù đày hơn 4 năm, tại trại tù A30 Phú Khánh. Những bài thơ sáng tác trong tù giai đoạn này, được chép rất nhỏ, trong những tờ giấy quyến vấn thuốc, nhét vào các vật dụng gửi cho người nhà, lúc thăm nuôi, được người yêu sau này là người vợ đầu, chép lại lưu giữ. Trong 10 năm nỗ lực sáng tác rất nhiều thể loại, từ thơ cho đến truyện ngắn, ký và chuyện hài…hầu như mỗi ngày đều có một bài thơ, tất cả đều được đăng trên Facebook. Bút hiệu Donry không phải là tên Mỹ, đây là một cách chơi chữ, nếu đọc trại Đông Ri tức Đi Rông! Cả đời làm gì cũng thất bại, ngoại trừ đi rông, nên được bạn bè đặt cho cái tên Donry Nguyễn! Còn thầy giáo cũ gọi là Chàng Đông Ry Nguyễn, bút danh này được ký trong những bài viết trên Facebook. “NGƯỜI LÍNH LÀM THƠ NHƯ VIẾT SỬ” là tác phẩm đầu tiên của Donry Nguyễn, xuất bản tại Hoa Kỳ. Thi sĩ là một thành viên xa của VTLV, nên thi phẩm này, sẽ được giới thiệu trong phần đầu trong Chiều nhạc “ Tình Cha, Tình Lính” Chủ Nhật này. Mong Quý Khách yêu thơ ủng hộ.

VTLV CHÚC MỪNG: THI PHẨM “NGƯỜI LÍNH LÀM THƠ NHƯ VIẾT SỬ” CỦA DONRY NGUYỄN ĐÌNH CHIẾN, TRONG NGÀY RMS TẠI SAN JOSE

Lúc 2 giờ chiều Chủ Nhật, ngày 15 tháng 6 năm 2025. Tại Quán Cà phê Lover, 1855 Aborn Rd, San José.

*

THƠ CHÚC MỪNG

(*Viết tặng chiến hữu Donry Nguyễn)

   Tin mừng Lính Pháo Thủ ra thơ

   Gặp mặt đồng hương khắp bến bờ

   Tiếc mãi, “phe mình” không đến gặp

   Vui nhiều, chiến hữu đã tròn mơ

   Nhắc nhau nhớ lại thời ôm súng       

   Trò chuyện nào quên thuở phất cờ

“Người Lính Làm Thơ Như Viết Sử“

   Chúc luôn sáng tác chẳng phai mờ

   Hoàng Mai Nhất

       (11/6/2025)

Có Những Niềm Riêng!” Của Người Lính Làm Thơ Như Viết Sử, Donry Nguyễn.

-Cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc 50 năm, nhưng xem ra nỗi buồn của người dân miền

nam và vết thương của người lính VNCH, vẫn còn mưng mủ, vì sự đối đãi thù hằn của những

người anh em cùng chung nòi giống.

Người lính VNCH không gây ra chiến tranh, họ chỉ cầm súng bảo vệ tự do cho người dân

miền nam Việt Nam.

Lẽ ra họ không đáng bị trả thù, khi đã chấp nhận đầu hàng.

Tôi chỉ là một người lính tầm thường, nhưng số phận cũng đã phải gánh chịu những nỗi đau

thương, bi thảm, theo cơn thăng trầm hưng phế của non sông.

Những bài thơ tôi viết ra, là những gì tôi đã chứng kiến và cũng là nạn nhân trong đó, mục

Đích, chỉ để mọi người hôm nay, cùng quay nhìn lại, chiêm nghiệm sự mất mát, không sao bù

đắp được, trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn vừa qua; cũng là dịp để nhận thấy sự vô

nghĩa và phi lý của nỗi đoạn trường, nồi da xáo thịt!..




KIỀU MỸ DUYÊN – 50 NĂM NHÌN TỚI + CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA –




CA KHÚC MỚI – ẢO MỘNG – THƠ MINH THÚY THÀNH NỘI – NHẠC THÁI PHẠM – CA SĨ THANH HOÀI – Kana Ngọc Thúy




LÊ XUÂN NHUẬN – HỒI KÝ

VÙNG CHIẾN-TUYẾN của LÊ XUÂN NHUẬN

        Thế là tôi đã trở thành Giám-Đốc An-Ninh Và Phản-Gián của Miền Trung.

Trước kia, thủ-phủ của Vùng này là cố-đô Huế; Đà-Nẵng chỉ là một Thị nhỏ, nhượng-địa, chịu nhiều ảnh-hưởng của Pháp hơn là Nguyễn-triều.

Lần đầu tiên tôi đến Đà-Nẵng là vào năm 1954.

Tôi được động-viên vào Quân-Lực với tư-cách chuyên-môn – văn-nghệ-sĩ & ký-giả – từ tháng 4 cùng năm.  Sau Hiệp-Định Geneva, tôi cùng đi với nghệ-sĩ Tô Kiều Ngân, nhà-báo Huy Vân, nhà quay phim Lê Đình Ấn, thuộc đoàn phóng-viên chiến-tranh, tháp-tùng Bộ Tư-Lệnh Đệ-Nhị Quân-Khu trong cánh quân xuất-phát từ Huế vào, trong chiến-dịch tiếp-thu các Tỉnh Quảng-Nam, Quảng-Ngãi, Bình-Định, Phú Yên, khi cộng sản rút ra khỏi Miền Nam.  Trên đường đi, tôi có ghé vào Đà-Nẵng, nhưng vào ban đêm, và trong chốc lát, nên chỉ nhìn thấy Đà-Nẵng khiêm-nhường, dè-dặt, trong buổi giao-thời phức-tạp của tình-hình chung: Ô. Ngô Đình Diệm về nước nhậm-chức Thủ-Tướng; Trung-Tướng Nguyễn Văn Hinh, Trưởng Tổng-Tham-Mưu, chống-đối Diệm; Đệ-Nhị Quân-Khu, dưới quyền tư-lệnh của Đại-Tá Trương Văn Xương, chuẩn-bị bích-chương, biểu-ngữ, trứng thối, cà chua… để đợi Diệm từ Sài-Gòn ra chủ-tọa lễ tiếp-thu là tổ-chức dàn chào đả-đảo Diệm, với khẩu-hiệu “Mười vé phi-cơ cho tập-đoàn họ Ngô [đi ra nước ngoài], hay là hằng trăm ngàn [mạng sống của] chiến-sĩ quốc-gia!”; quân-lực Pháp đã chấm dứt hành-quân nhưng cố-vấn quân-sự Pháp vẫn còn hoạt-động trong quân-ngũ Việt-Nam; chính-đảng Đại-Việt mà lực-lượng vũ-trang hậu-thuẫn là các tiểu-đoàn Nghĩa-Dũng-Quân tinh-nhuệ, chống Cộng mà cũng chống Diệm, đồng-minh giai-đoạn của Hinh…

Chỉ mấy tháng sau, Đà-Nẵng, cùng với toàn-quốc, đã đổi khác hẳn – trong đó có phần công-trạng của tôi.

Lần này, tôi cùng đi với bạn tôi, là Thompson A. Grunwald, Giám-Đốc Phòng Thông-Tin Hoa-Kỳ, trụ-sở tại Huế, đại-diện chính-thức đầu tiên của Mỹ tại Miền Trung.  Ảnh-hưởng trực-tiếp của Mỹ đối với Việt-Nam bắt đầu lan dần.  Tôi được đồng-bào nồng-nhiệt khen-ngợi Chương-Trình Phát-Thanh “Tiếng Nói Quân-Đội tại Đệ-Nhị Quân-Khu” mà tôi là Trưởng Đài, và phần “Anh-Ngữ Thực-Hành”, lớp dạy tiếng Anh đầu tiên bằng phương-tiện vô-tuyến dành cho thính-giả Việt-Nam, mà tôi chủ-trì thực-hiện với sự hợp-tác của Tôn Thất Đát bên cạnh Thompson…

Kế đến, sau vụ cộng-sản tổng-công-kích Tết Mậu-Thân 1968, nhạc-phụ tôi mất, tôi từ Pleiku đáp phi-cơ Air America ra Đà-Nẵng dự lễ tang.

Các viên-chức tình-báo Trung-Ương Hoa-Kỳ (CIA) sắp xếp các chuyến bay đã giúp-đỡ tôi rất tận-tình, nhưng tôi thấy rõ là họ đồng-thời bận-rộn liên-tục với khá nhiều công-tác khác,  hòa nhịp với quang-cảnh rộn-rịp náo-nhiệt của các giống người – mà nổi bật nhất là da trắng, da đen -, các loại vũ-khí, xe-cộ, máy-móc, dụng-cụ, hàng-hóa – trên đất – cùng với các loại phi-cơ quân-sự và dân-sự gầm rú – trên không – và những tiếng súng đại-bác, đại-liên từ xa vọng về từng hồi…  Đà-Nẵng với phi-trường lớn có thể đón phi-cơ B-52 đáp cánh khẩn-cấp, với hải-cảng lớn phục-vụ cho toàn Miền Trung, với các cơ-quan chính-quyền cấp Vùng và Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn/Quân-Khu từ Huế dời vào, đã phát-triển mạnh, xứng-đáng là thủ-phủ chiến-lược của Miền Bắc Trung-Nguyên Trung-Phần…

Lần này, tôi đến thì Đà-Nẵng lại có một bộ mặt khác.

Từ mái nhà trở xuống là những bộ quân-phục nhiều màu như cũ, nhưng chỉ khoác trên những thân người chung một da vàng và chung một tiếng nói, Việt-Nam – Việt-Nam-Hóa? – và từ mái nhà trở lên là ngót cả tá đảng-kỳ, giáo-kỳ, đoàn-kỳ, hội-kỳ, hiệu-kỳ…; nhưng nổi bật hơn hết là những dãy bốn lá quốc-kỳ của các nước trong Ủy-Hội Quốc-Tế, sặc-sỡ, tạo thành hai cặp, có cùng sắc màu mà vị-trí đối-nghịch nhau, như muốn nói lên cái thói trớ-trêu của một trò chơi quốc-tế về quốc-kỳ: Ba-Lan thì trắng-đỏ, Nam-Dương thì đỏ-trắng, đỏ-trắng-lục là Hung-Gia-Lợi, và lục-trắng-đỏ là Ba-Tư…

A red and white flag

AI-generated content may be incorrect.
Flag Indonesia.png

Cờ Poland (Ba Lan)                     Cờ Indonesia (Nam Dương)

A red white and green flag

AI-generated content may be incorrect.
A flag with a red white and green stripe

AI-generated content may be incorrect.

Cờ Hungary (Hung Gia Lợi)       Cờ Iran (Nam Tư)  

Chính trước bối-cảnh chung đụng và đụng chung của những con người và của những nhóm người được tiêu-biểu bằng những màu cờ sắc áo đó, mà tôi bị bắt-buộc và cũng tự mình bắt-buộc mình phải đóng một vai trò “thiêu-thân” dưới ánh đèn sân khấu rọi sáng một khung không-gian và một quãng thời-gian nghiêm-trọng nhất trong lịch-sử của nước Việt-Nam Cộng-Hòa.

Con thiêu-thân thì nhỏ, nhưng khán-giả không thể không trông thấy, vì cái bóng của nó đã được phóng lớn, chập-chờn trên các lớp phông màn.

LÊ XUÂN NHUẬN 




THƠ PHỤC SINH – CAO MỴ NHÂN

NẮNG PHỤC SINH.      CAO MỴ NHÂN 

Cả không gian cháy bùng rừng lửa đỏ

Khi mùa xuân khép dần đôi cánh vàng

Tiếng gào thét gọi hồi sinh đất vỡ

Bầy quạ đen hãi hùng kêu kinh hoàng

Về đâu nữa tinh cầu buồn dĩ lỡ

Khắp nơi nơi nghe đạn nổ, bom rơi 

Cả bầu trời xé toang mây sầu khổ

Khiến sông xưa, biển cũ bốc thành hơi

Nắng Phục Sinh về tưới xanh đồng cỏ

Bóng Thiên Thần trải mộng nước non xa

Cuốn Thánh Kinh trên tay đang rộng mở

Chúng ta chào lễ nhạc đón mừng Cha

Đường Thánh Giá lui sâu vào quá khứ

Người thương yêu, vạn vật sống thanh bình

Hồn tĩnh lặng, ánh hào quang rực rỡ

Thế gian vui bước tiếp cuộc hành trình…

          CAO MỴ NHÂN 




KIỀU MỸ DUYÊN – NHỮNG BẤT TRẮC CÓ THỂ XẢY RA KHI MUA BÁN BỞI CHỦ (FOR SALE BY OWNER).




CHÙM THƠ THÁNG BA – ĐÔNG RY NGUYỄN




CHÙM THƠ CAO MỴ NHÂN – LẺ HÀNG.

Nguồn hình: Internet

LẺ HÀNG. CAO MỴ NHÂN

Chỉ có một người nghĩ: chắc người yêu
Hóa ra không phải, chỉ là tưởng tượng
Bởi lẽ người đó thường hay nuông chiều
Hóa ra mộng mị vô tình vui sướng

Hóa ra tình đời cũng nhiều điều chướng
Từ khi ươm nụ tới lúc hoa tàn
Hương chưa kết tụ đã vội vỡ tan
Thế là chia tay, quay lưng bình thản

Thế là nhìn nhau, vô cùng chán nản
Có lẽ vì mình không hợp ý thôi
Thủa còn vô tư tình tự chơi vơi
Nhìn về một hướng vui cười thích thú

Nhưng nay tám hướng, mười phương dĩ lỡ
Đổ lỗi tình buồn khổ lụy riêng ai
Nào có ai đâu, muốn xếp hàng hai
Thành ba nhân vật, một người bị lẻ …

Rancho Palos Verdes 7 – 3 – 2025
CAO MỴ NHÂN

=

NẮNG PHỤC SINH. CAO MỴ NHÂN

Cả không gian cháy bùng rừng lửa đỏ
Khi mùa xuân khép dần đôi cánh vàng
Tiếng gào thét gọi hồi sinh đất vỡ
Bầy quạ đen hãi hùng kêu kinh hoàng

Về đâu nữa tinh cầu buồn dĩ lỡ
Khắp nơi nơi nghe đạn nổ, bom rơi
Cả bầu trời xé toang mây sầu khổ
Khiến sông xưa, biển cũ bốc thành hơi

Nắng Phục Sinh về tưới xanh đồng cỏ
Bóng Thiên Thần trải mộng nước non xa
Cuốn Thánh Kinh trên tay đang rộng mở
Chúng ta chào lễ nhạc đón mừng Cha

Đường Thánh Giá lui sâu vào quá khứ
Người thương yêu, vạn vật sống thanh bình
Hồn tĩnh lặng, ánh hào quang rực rỡ
Thế gian vui bước tiếp cuộc hành trình…
CAO MỴ NHÂN

=

HƯƠNG CỎ HOA . CAO MỴ NHÂN

Vẫn còn dáng dấp thân quen
Đài trang, huyền hoặc, ưu phiền, dửng dưng
Nhưng trong buồn bã, vui mừng
Lại tìm ra được dấu dừng chân xưa

Vẫn còn ân nắng, nghĩa mưa
Trong ta tình tự lưa thưa nỗi sầu
Ngập ngừng xoá bỏ niềm đau
Bâng khuâng hoa nở mùa đầu chưa phai

Cầu sương, điếm cỏ đơn sai
Nghe như có tiếng thở dài trong thơ
Trăm năm huyễn mộng thực hư
Ngạt ngào hương cỏ tỏa dư ngát trời …

Rancho Palos Verdes 29 – 6 – 2023
CAO MỴ NHÂN

=

MÊ CUNG KHÓI LỬA. CAO MỴ NHÂN

Đất trời trong lúc giao thoa

Nước dâng nguồn vỡ, non nhòa khí thiêng
Trăm năm sông núi ước nguyền
Tinh khôi trái đất lưu truyền thế gian

Cây nhân sinh mọc vô vàn
Nở hoa thân ái ngập tràn yêu thương
Nước kia trôi nổi đại dương
Còn trong tay chút hoang đường thiên sơn

Người ngồi thầm lặng cô đơn
Châu thân rã rượi u hờn mây bay
Chơi vơi tâm sự bão đầy
Vòng ôm trống rỗng tháng ngày phiêu linh

Từ phen cúi mặt tạ tình
Áo khăn để lại trường đình mê cung
Dấu chân rối loạn mịt mùng
Đắm say chiến sử ngựa hồng chinh yên …
Utah 3 – 3 – 2025
CAO MỴ NHÂN

VỀ NGUỒN. CAO MỴ NHÂN

Nguồn ơi, nước chảy trong xanh

Mây tha hương bỗng bay nhanh vào rừng
Mùa xuân đứng sát sau lưng
Đá thiên thu chợt reo mừng hồi sinh

Suối vang âm điệu thanh bình
Trôi ngang trận tuyến thủa mình trẻ trai
Thác xô thân phận u hoài
Mấy mươi năm trước bao người dấn thân

Công danh giờ đã phù vân
Nguồn xuôi châu thổ thành sông êm đềm
Văn chương lưu thuỷ đôi miền
Bờ xô cát lở, bờ thêm đất bồi

Nguồn ơi, chữ nghĩa bên trời
Thoắt như vô tự sóng rời biển xa
Từ đây vọng tưởng quê cha
Quyên thương quốc tổ, lệ sa nối dòng…
CAO MỴ NHÂN

CUỐI TUẦN. – CAO MỴ NHÂN

Cuối tuần, gió mở cửa trời
Bao nhiêu mây nổi thả rơi xuống trần

Áo em ai vẽ hoa xuân
Mầu vàng rực rỡ đông quân vạn mùa

Cuối tuần, chắc sẽ không mưa
Bờ lau trắng ngọn hoa chưa nở nhiều
Bởi vì sông chở tình yêu
Đang qua mấy vạt cầu kiều lênh đênh

Cuối tuần, anh dành cho em
Tháng năm còn lại nỗi niềm tiêu sơ
Hoang mê một chút bơ thờ
Đắm say chỉ thấy trong thơ tình buồn

Cuối tuần, gió khép cô đơn
Sau then cửa mộng tủi hờn lạt phai
Em ơi rực rỡ hoàng mai
Làm sao phai lạt tình ai mà buồn …

CAO MỴ NHÂN (HNPD)
6 – 2 – 2025

MÙA XUÂN VỪA MỚI HẾT. – CAO MỴ NHÂN

Trên đỉnh núi mây hồng

Đã tan ra thành suối
Mầu hoa đào chập chùng
Em gặp anh lần cuối

Anh tìm em muộn màng
Giữa không gian cô tịch
Áo em rực rỡ vàng
Đón kỷ nguyên thanh lịch

Khi gặp lại người tình
Mùa xuân vừa mới hết
Mang đi của chúng mình
Cành hoa đào cánh kép

Chapa bỗng u buồn
Đào hoa ươm nỗi nhớ
Bước chân sau lưng dồn
Đẩy anh vô quá khứ …

CAO MỴ NHÂN (HNPD)
4 – 3 – 2025




KIỀU MỸ DUYÊN: CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA ANA REAL ESTATE MAR 12 2025.




KIỀU MỸ DUYÊN CHUYỂN BÀI VIẾT: VĨNH BIỆT KIM THANH NGUYỄN KIM QUÝ. Tác Giả Vương Trùng Dương