SƯƠNG LAM – Về Miền Đất Phật – Nơi Phật Đản Sinh.

****
PLEASE BẤM VÀO MŨI TÊN BÊN GÓC TRÁI KHUNG HÌNH BÊN DƯỚI ĐỂ LẬT TRANG:
***
SƯƠNG LAM – Về Miền Đất Phật – Nơi Phật Đản Sinh.
Tiếng Hát Ngọc Huyền Mtl: Ca Khúc Lettre à Elise (Cho Tình Yêu). 2) Toi Jamais – (Anh Thì Không).
Lettre à Elise (Cho tình yêu) tiếng hát Ngọc Huyền Mtl
**
2) Toi Jamais (Anh Thì Không) Ngọc Huyền Mtl:
Ca Khúc NHỚ SÀI GÒN – Thơ Tuyết Vân – Music Created By Phương Hoa – Trình Bày: SunoSinger
KIỀU MỸ DUYÊN – NÊN MUA NHÀ MÙA NÀO? – ĐỪNG ĐỢI MÙA HÈ! – NGƯỜI CÙI SAO NHIỀU QUÁ? và Chương Trình CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA!
MEMBER LIST (TEST)
CA KHÚC MỚI: MỘNG TƯỞNG và NIỀM QUÊ. Thơ: Phạm Phan Lang – Nhạc: Trần Đại Bản và Mộc Thiêng. Ca sĩ: Anka Ngọc Thúy & Đông Nguyễn.
==
BÀI SƯU TẦM – THẰNG NGỤY CON
Khi bị chuyển về khám đường Bà Rịa, tôi bị nhốt vào một căn phòng rất nhỏ. Trong phòng ấy đã có sẵn một người: ông Đoàn. Cửa phòng là một bửng sắt khá dày, bị sét rỉ toàn bộ, chứng tỏ nó đã khá lâu đời. Sét rỉ đã xoi tấm cửa này thủng nhiều lỗ cỡ đầu ngón tay. Đặc biệt có một lỗ dưới cùng rộng có thể thò lọt cả bàn tay. Những lỗ đó đã cho chúng tôi chút ánh sáng trong căn phòng ít khi được mở này.
Một hôm, tôi đang rầu rĩ bỗng nghe nhiều giọng nữ xôn xao bên ngoài. Tôi chạy lại cửa dán mắt vào mấy lỗ thủng. Thì ra phòng tù nữ ở gần phòng tôi được cho ra tắm giặt. Thật là một cảnh sinh hoạt rộn ràng.
Tiếng gàu thau chạm nhau rổn rảng, tiếng người thúc giục nhau, chen lấn cãi cọ nhau ỏm tỏi. Họ giặt đồ, tắm rửa, chải tóc, phơi quần áo…. trông ai cũng làm việc với vẻ gấp rút. Người quá đông mà chỉ có hai cái giếng, thì giờ cho phép lại giới hạn, nên họ sợ hết phần …
Tôi bỗng giật mình khi thấy một thằng nhỏ từ trong hiên nhảy ra. Nó chạy vụt lại phía hai con vịt xiêm đang rỉa lông cho nhau trước cửa phòng tôi làm chúng hoảng hốt bay xa một đoạn. Một người đàn bà gọi với:
-Không được nghịch, mẹ đánh đấy!
Thằng nhỏ đứng lại. Qua giây phút hoảng hốt, đôi vịt lại tiếp tục rỉa lông cho nhau. Thằng nhỏ khoảng chừng ba bốn tuổi, trắng trẻo, kháu khỉnh làm sao! Tại sao nó lại lọt vào chốn tù ngục này? Nó làm sao chịu được cảnh thiếu ăn, thiếu bạn bè, thèm khát đủ thứ, ngày ngày ru rú trong một căn phòng chật hẹp với không khí ngột ngạt, hôi hám ấy? Tâm tính nó sẽ ra sao về sau? (Sài Gòn trong tôi/ Ngô Viết Trọng)
Thằng nhỏ có vẻ khoái đôi vịt xiêm lắm. Nó đang say sưa ngắm chúng thì mẹ nó gọi trở về phòng. Nó vừa đi vừa ngoái cổ nhìn lui làm mẹ nó phải giục mấy lần. Tôi quay lại hỏi ông Đoàn:
-Bên phòng nữ có một thằng nhỏ dễ thương quá! Vì sao nó phải vô trong này ông biết không?
Ông Đoàn nói:
-Nghe đâu cha nó là một viên thiếu tá đã đi Mỹ còn mẹ nó là một nhân viên Thiên Nga. Khi tôi vô đây đã thấy có nó rồi! Lúc đó nó mới biết đi lẫm đẫm.
Tôi tức cười thốt lên:
-Sau này có thể nó phải ghi vào lý lịch: Mới một tuổi tôi đã phải sống trong lao tù khổ sai của bọn cộng phỉ man rợ …
Mấy hôm nay tôi chỉ được phát mỗi ngày hai vắt nhỏ bột sắn xay chia làm hai bữa với một ít canh cải bẹ xanh mặn chát. Không hiểu thằng nhỏ có được phát tiêu chuẩn khẩu phần không hay phải ăn vào phần của mẹ nó? Tôi nói:
-Thằng nhỏ mặc sức mà thèm đường thèm sữa!
Ông Đoàn cười:
-Ông khỏi lo! Mấy ngày thăm nuôi nó được cán bộ thả đi lung tung, người ta cho nhiều quà lắm. Ngay tại phòng nó lại có rất nhiều người đã từng làm mẹ, làm chị, chẳng ai nỡ để một đứa nhỏ dễ thương như thế đói đâu! Tôi đã từng thấy một con chó mẹ nằm cho mấy con mèo con bị mất mẹ bú. Thiên tính thương trẻ của các bà làm mẹ hẳn còn cao hơn nhiều!
Tôi cảm thán:
-Vậy sao? Hoá ra nó lại sướng hơn lũ con tôi! Tôi có ba thằng con, thằng út có lẽ cũng cỡ tuổi nó. Khi tôi đi tù nó mới vừa đúng một tuổi, chưa biết đứng. Trước kia mình đâu biết dành dụm lo xa, khi vào tù tôi chẳng có chút gì để lại cho vợ con cả. Nghĩ đến cảnh một người đàn bà chân yếu tay mềm phải chạy vạy để nuôi sống ba đứa con giữa lúc này tôi đau ruột lắm Nhưng ăn năn cũng muộn mất rồi!
Mấy hôm sau phòng tù nữ lại được mở cho ra tắm giặt. Thằng nhỏ sau khi tắm rửa xong lại chạy sang trước phòng tôi. Không thấy đôi vịt, nó ngồi vào bậc thềm lưng dựa vào cửa phòng. Tôi thò ngón tay ra lỗ thủng chọt vào lưng nó một cái. Nó giật mình nhỏm dậy quay lại:
-Hết hồn!
Tôi lấy làm thú vị khi nghe một thằng tí hon lại dùng cái tiếng “hết hồn” có vẻ người lớn đó. Biết tôi đùa, thằng nhỏ lại ngồi xuống chỗ cũ. Tôi hỏi:
-Cháu tên gỉ?
-”Ngụy con”!
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
-Chú hỏi cháu tên là gì?
-”Ngụy con”!
-Ai đặt tên ấy cho cháu?
-Mấy chú cán bộ!
-Thế mẹ cháu không đặt tên cho cháu à?
-Có, mẹ cháu đặt tên “con”, mấy chú cán bộ thì kêu “ngụy con” rồi các cô dì trong phòng cũng kêu cháu là ”ngụy con”!
Trời đất ơi! Cái tên này có thể tạo một ấn tượng khó đoán khi thằng nhỏ khôn lớn! Tôi định hỏi vài câu nữa nhưng nó đã bị mẹ nó gọi về phòng
Rồi ngày thăm nuôi đến – ngày đó coi như ngày Tết của khám đường. Các phòng giam đông người đều được mở cửa suốt thời gian cho thăm để người ta tiện đưa đồ thăm cũng như dẫn dắt những người được gặp mặt người thân ra vào.
Những người được ra gặp người thân phải mặc đồ lành sạch. Ai không có phải đi mượn đồ của người khác. Vì vậy, ngày thăm nuôi tù vẫn ăn mặc sáng sủa khác hẳn ngày thường. Các tên cán bộ cũng giả dối dẹp bớt cái vẻ nghiêm khắc hàng ngày để hồ hởi thưởng thức những hơi khói thơm…
Những người không được thăm cũng vui hơn vì ít nhất cửa phòng mở họ cũng hưởng được chút ánh sáng và không khí dễ thở. Họ cũng có thể hưởng ké được chút quà tươi hoặc sớt được phần ăn tiêu chuẩn của những người được thăm không dùng tới. Những phòng ít người phần nhiều đang bị kỷ luật, ít được thăm, cửa đóng im ỉm, nhưng ít nhất ngày đó họ cũng yên trí không bị cán bộ quấy rầy.
Nói chung, trong ngày thăm nuôi, bất cứ ai đang sống tại khám đường cũng chia được ít nhiều niềm vui, dù chỉ là niềm vui tạm bợ giữa một hoàn cảnh bất hạnh. Kẻ hưởng được hạnh phúc thật sự hoạ chăng chỉ có một người: “thằng ngụy con”!(Sài Gòn trong tôi – Ngô Viết Trọng)
Trong lúc cán bộ và tù trật tự bận rộn mang đồ thăm hoặc dẫn tù đi gặp người thân thì thằng nhỏ tung tăng chạy hết phòng này đến phòng khác. Nó rất khôn, cứ gặp cán bộ lại cất giọng lảnh lót “chào cán bộ” thật dễ thương. Vì thế không ai la rầy, cản trở nó cả.
Tôi nghĩ chính thằng nhỏ là một nhân tố làm giảm bớt vẻ ngăn cách giữa cán bộ và tù. Đến đâu nó cũng được tiếp đón nồng hậu, quà cứ nườm nượp vào tay nó. Bao nhiêu lần nó sung sướng ôm đầy quà trên tay: bánh tráng, cốm bắp, kẹo…về giao cho mẹ nó. Trông nét mặt hớn hở của nó vào những lúc ấy ai mà chẳng vui lây!
Rồi một tháng trôi qua, lại đến kỳ thăm nuôi. Hôm ấy trời mưa lâm râm và có gió hiu hắt. Tôi lại dán mắt trước cửa hưởng ké niềm vui của mọi người. Thằng nhỏ lại thả sức tung tăng đi nhận quà.
Thấy trời hơi lạnh, lại sợ con bị ướt nên mẹ nó đã cẩn thận bận thêm cho nó một cái áo mưa bằng nylon khá gọn. (Sài Gòn trong tôi/ Ngô Viết Trọng)
Lần ấy, có lẽ vì quà tặng hơi nhiều, thằng nhỏ lại không biết sợ lạnh, nó cởi cái áo mưa làm đồ đựng. Khi nó đang ôm bọc quà hí hửng chạy về phòng thì gặp Sơn, một tên cán bộ hung ác, nghiêm khắc nhất khám đường. Gã tươi cười một cách đểu cáng, mất dạy, đón nó lại:
-”Ngụy con” có nhiều quà quá, chia cho chú với nào!
Thằng nhỏ lính quýnh giẫm vào chỗ đất trơn, té oạch một cái làm quà văng lung tung. Tên Sơn cúi xuống lượm giùm. Xong, gã vờ bốc lấy một gói giấy, bảo:
-Gói này cho chú xin nghe!
Thằng nhỏ tưởng thật hoảng hốt:
-Không được đâu! Gói này không được đưa cho cán bộ coi!
Nghe thằng nhỏ nói hơi lạ tai, tên Sơn nghi ngờ mở cái gói ra xem. Gã bỗng trừng mắt đạp vào ngực thằng nhỏ một cái làm thằng bé ngã bật ngửa. Thằng nhỏ nằm lặng đi một hồi rồi mới khóc nấc ra tiếng. Ai nấy chới với chưa hiểu chuyện gì thì nghe tiếng tên Sơn nạt lớn:
– Đ.M. đồ cái giống nguỵ ra khác, chưa ráo máu đầu đã học phản động!
Quay lại phía tù trật tự, tên Sơn hét:
-Bắt nó quỳ dưới cột lưới bóng rổ!
Lập tức thằng nhỏ bị lôi dậy, kéo đi. Liền đó tên Sơn dẫn một anh tù trật tự khác đến phòng B5. Gã đứng trước cửa hoạnh hoẹ hỏi chuyện. Lát sau một anh tù vừa mới được thăm nuôi hồi sáng bước ra khỏi phòng. Tên Sơn bắt anh tù đứng nghiêm rồi tha hồ đấm đá người tù khốn khổ, tội nghiệp. Anh tù nhiều lần bị ngã nhưng tên Sơn lại bắt đứng lên để đấm đá tiếp hết sức tàn bạo.
Trong chốc lát anh tù đã xác xơ, rục rã. Nhưng tên Sơn ác ôn vẫn chưa tha, gã còng cắp cánh tay anh ta lại rồi sai người đưa vào phòng kỷ luật.
Trời vẫn mưa lâm râm, gió vẫn hiu hắt. Thằng nhỏ vẫn quỳ dưới chân cột lướí bóng rổ. Tên Sơn vẫn tiếp tục ra vào kiểm soát việc thăm nuôi. (Sài Gòn trong tôi/ Ngô Viết Trọng)
Quá nóng ruột, người mẹ phải liều vói mặt ra khỏi phòng van xin chéo véo. Nhưng tên Sơn cứ phớt lờ, cả giờ sau gã mới chịu cho thằng nhỏ tội nghiệp về phòng. Người nó lạnh như cục nước đá, run lập cập, nói không thành tiếng….
Buổi tối, khi đưa cơm vào phòng tôi, tên Sơn còn ác độc cảnh cáo:
-Các anh coi chừng, chớ lợi dụng “thằng ngụy con” để thông tin tức với nhau! Dù là chỉ hỏi thăm sức khoẻ tôi cũng trị trắng máu ra!
Giờ thì tôi đã hiểu là anh bạn tù ở phòng B5 đã phạm nội quy của khám đường. Về sau tôi được biết rõ hơn là anh này đã gởi quà với mấy lời nhắn cho một người quen ở phòng tù nữ. Vụ trừng phạt ấy cứ lởn vởn ở trong đầu tôi suốt đêm. Tội nghiệp thằng nhỏ đã bị đòn lại phải chịu đựng ướt lạnh suốt mấy giờ.
Sáng sơm hôm sau, tôi đã phải thức giấc bởi tiếng kêu cứu từ phòng tù nữ:
-Báo cáo cán bộ A5 có người bệnh nặng!
Tôi giật mình: biết đâu lại là thằng nhỏ? Tiếng từ phòng trực hỏi lại:
-Nặng bao nhiêu ký?
Tiếng kêu cứu từ phòng nữ có vẻ khẩn thiết hơn:
-Báo cáo cán bộ, phòng A5 có người sắp chết!
-Nghe rồi, đợi đó giải quyết!
Chừng nửa giờ sau tôi nghe có người nói chuyện ồn ào trước sân. Có lẽ cán bộ y tế đã đến.
Rồi cả khám đường yên ắng trở lại. Gần sáng tôi lại bị ông Đoàn đánh thức:
-Ông nghe gì không?
Tôi lắng tai để nghe. Trời ơi, rõ là tiếng kêu khóc thảm thiết của một người đàn bà:
-Con ơi con, sao nỡ bỏ mẹ mà đi như thế con ơi! Con tôi chưa đầy ba tuổi đã biết gì đâu mà phản động, đau đớn lắm trời ơi!…
Tôi giật mình thở dài: Trời ơi, thằng nguỵ con!!!
Liền đó, tôi nghe có tiếng nạt nộ của tên cán bộ Sơn mọi rợ ngu dốt, vô giáo dục:
-Để con bị sưng phổi không chiụ lo báo cáo sớm, bây giờ không để người ta chôn cất còn khóc gào đổ thừa cho ai?
Tiếp đó, tôi lại nghe nhiều tiếng khóc nấc nghẹn ngào, đau khổ, uất hờn của người đàn bà tội nghiệp…
(Sài Gòn )
THƠ BẢO TRÂM: Nửa Thế Kỷ & Cứu Nước.

Nửa Thế Kỷ
Nửa Thế Kỷ rồi vẫn cứ ngây
Non sông xứ Việt tiếp hao gầy.
Người già tủi nhục đời u uất
Lớp trẻ vô tình kiếp lắt lay.
Đất Nước Tiên Rồng e ảo mộng?
Linh Hồn Tổ Quốc có mờ say?
Dân ta quyết chí hầu thay đổi,
Đuổi giặc, cùng nhau phát lửa đầy
Bảo Trâm
===
Cứu Nước
Cứu nước ta cần phải đuổi thôi,
Tâm đồng giữ lửa chẳng nào nguôi.
Đuổi gian, diệt ác không ngơi nghỉ,
Đuổi quỷ, xua tà quyết sục sôi.
Đuổi bọn Tàu Phù phân chuột thúi,
Đuổi loài Cộng sản móng chồn hôi.
Đuổi cho đến một ngày tươi sáng,
Cứu Việt Nam xưa được phục hồi.
Bảo Trâm
VTLV TRANG ĐẶC BIỆT NGÀY CỦA MẸ. Thành Viên VTLV và Thân Hữu.

BÀI THƠ TẶNG MẸ. CAO MỴ NHÂN
Tặng Mẹ bài thơ viết dở dang
Đèn trời thắp sáng cửa thiên đàng
Mẹ đi khi đó con ngơ ngác
Bà khóc lúc nào lệ chứa chan
Hơn nửa trăm năm rời đất Bắc
Đôi phần nhật nguyệt sống trong Nam
Chẳng bao giờ nghĩ về quê cũ
Đốt nén hương xa thấy bẽ bàng
Ngày Lễ Mẹ danh vang xứ người
Hoan ca phụ nữ đón hoa tươi
Bạch hồng đài các thơm vòng cổ
Hoàng cúc hồn nhiên thắm nụ cười
Không một niềm vui thêm kỷ niệm
Tròn nguyên nỗi khổ mãi trùng khơi
Kiếp sau hạnh ngộ làm con Mẹ
Mẫu tử tình thâm suốt cuộc đời …
Rancho Palos Verdes 8 – 5 – 2025
CAO MỴ NHÂN
11 -5 – 2025
NHỚ MẸ HIỀN – THƠ Trần Công/Tiền Giang Tử
Nhớ thương Mẹ lắm, Mẹ hiền ơi!
Mẹ đã xa con mãi mãi rồi
Đã mấy mươi năm con mất Mẹ
Mà lòng thương nhớ vẫn không nguôi.
Mẹ đã đưa con đến với đời
Khổ công dưỡng dục con nên người
Đến ngày ly loạn con xa Mẹ
Không gặp mẫu thân thưa mấy lời.
Ngày Mẹ bước lên tàu thiên cổ
Con đang lưu lạc ở quê người
Không về gặp Mẹ giờ phút cuối
Đau lòng con lắm, Mẹ hiền ơi!
Nuôi con nhờ lúc tuổi về già
Đến lúc Mẹ già, con bỏ đi
Tích cốc phòng cơ, cơ bất cốc
Dưỡng nhi đãi lão, lão vô nhi.
Hương lòng bốc khói tận trời xanh
Tưởng nhớ công ơn đấng sanh thành
Đã lỡ kiếp này con bất hiếu
Xin nguyền đáp nghĩa kiếp lai sanh.
Hoa Đô(Lockwood House)
Trần Công/Tiền Giang Tử.

CHÙM THƠ VỀ MẸ – ĐÔNG RY NGUYỄN
BÁNH XÈO CỦA MẸ NGÀY MƯA
*
Hôm nay được đãi bánh xèo
Mực cơm tôm thẻ nước lèo rau xanh
Ngồi ăn trong dạ chẳng đành
Bâng khuâng chống đũa nhớ hình ảnh xưa
Bánh xèo Mẹ đúc ngày mưa
Bột không với chút dầu dừa mà ngon!
*
Nhớ thuở xưa những ngày mưa lạnh lẽo
Cha thường kêu mẹ đúc bánh xèo
Thấy đàn con háo hức hò reo
Mẹ vui vẻ liền đi ngâm gạo
Sang hàng xóm xay nhờ bột nhão
Lục măng-rê tìm lại chén dầu dừa
Rau ngoài vườn đủ thứ chẳng cần mua
Thế là đủ cho khuôn tròn lên bếp nóng:
Củi riu riu
…lửa hồng lan sức ấm
Dầu dừa thơm
…réo gọi vị con tì
Tiếng xèo xèo
…bột chín nổ văng đi
Bánh nóng hổi
…mẹ hớt vào lá chuối
Chén mắm cái
…đỏ au màu ớt tỏi
Chấm vào nhai
…tay quẹt mũi hít hà!
Nhìn con ăn
…ngấu nghiến mẹ cười xoà
Niềm hạnh phúc
…bừng lên bên ánh lửa
Cuộc sống nghèo
…nhưng nghĩa tình chan chứa
Quên sao đành
….hình ảnh mẹ thân thương!
Xa rồi tổ ấm quê hương
Giờ con chén đắng viễn phương một mình
Chiều nay mưa bất thình lình
Ngồi trong quán lạ nhớ hình ảnh xưa…
Bánh xèo mẹ đúc ngày mưa
Bột không với chút dầu dừa mà ngon!
–Chàng Đông Ry Nguyễn.

Mẹ Ơi…!
Kiều My
Tháng Năm lại về, mang theo nắng nhẹ và hương thơm của những cành hoa mẫu đơn – loài hoa tượng trưng cho tình mẹ. Giữa cuộc sống nơi xứ người, lòng con luôn hướng về Mẹ – người đã âm thầm nuôi con khôn lớn bằng cả một đời hy sinh. Dù Mẹ còn hay đã khuất, Mẹ vẫn là hình ảnh thiêng liêng không gì sánh bằng, hình bóng Mẹ vẫn luôn là nơi bình yên nhất trong trái tim con.

“Tình Mẹ” thật thiêng liêng và sâu lắng! Có lẽ trên đời này, không có tình cảm nào dịu dàng, bền bỉ và bao la như tình mẹ. Dù ta lớn lên, đi xa hay trải qua bao sóng gió, thì vòng tay và trái tim của mẹ vẫn luôn là nơi chốn bình yên nhất.
Khi con lớn khôn rời xa vòng tay Mẹ, đi đến những chân trời xa lạ rộng mở, con cảm thấy thấm thía nỗi nhớ mỗi lần nghe giọng Mẹ qua điện thoại, mỗi lần thấy bóng dáng ai đó giống Mẹ giữa chợ đông người. Những lời Mẹ dặn con năm nào, giờ đây vang vọng mãi trong tâm hồn con, như ngọn hải đăng soi lối giữa giông tố cuộc đời. Mẹ ơi, nếu có điều gì con luôn muốn nói – ấy là: Con thương Mẹ và con biết ơn từng phút giây được làm con của Mẹ. Dù Mẹ đã ra đi, con vẫn tin rằng tình yêu của Mẹ luôn dõi bước con đi trên đường đời đầy chông gai này và chở che con như thuở nào. Ngày Mother’s Day, con thầm nói: “Mẹ ơi… con thương Mẹ và nhớ Mẹ thật nhiều!”
Ngày Hiền Mẫu, để nhớ về người Mẹ đã ra đi trong nỗi ngậm ngùi– Người đã để lại trongcon một khoảng trống không gì lấp đầy; nhưng cũng là suối nguồn thương yêu bất tận, sống mãi trong tim con. Con nhận ra: Mẹ đã không còn nữa, Mẹ đã về cõi vĩnh hằng; nhưng tình yêu Mẹ để lại vẫn còn nguyên vẹn trong con như ngày nào. Con nhớ Mẹ từng khoảnh khắc sống trong đời, là khi con nấu món canh chua Mẹ từng ưa thích, nghe bài hát Mẹ hay hát không trọn vẹn, hay những câu nói ví von của Mẹ… Những điều nhỏ bé ấy cứ âm thầm nhắc con về Mẹ – về một hình bóng dịu dàng, thân thương mà vĩnh viễn con không thể gặp lại lần nữa.
Có những nỗi nhớ không thể gọi thành tên, chỉ biết rằng từ thẳm sâu trong tâm hồn, con luôn có một chỗ dành cho Mẹ – không ai có thể thay thế. Và con tin, ở một nơi nào đó thật bình yên và thanh thản, Mẹ vẫn dõi theo con. Mỗi lần con vấp ngã, con vẫn cảm nhận được bàn tay Mẹ vô hình đỡ con dậy. Mỗi lần con làm được điều tốt, dường như có nụ cười của Mẹ thoáng hiện trên nền trời mây trắng.
Ngày Mother’s Day, con không thể tặng Mẹ một bó hoa, không thể ôm Mẹ thật chặt; nhưng con có thể thắp lên một ngọn nến, một nén nhang và thì thầm với trời xanh: Mẹ ơi, con nhớ Mẹ vô cùng… và con sẽ sống sao cho xứng đáng với tình yêu Mẹ dành cho con cả một đời.
Ngày Hiền Mẫu, tôi nhớ lại ngày tôi rời nhà, Mẹ không khóc trước mặt tôi, đôi mắt Mẹ đỏ hoe và Mẹ nắm chặt tay tôi hơn thường lệ. Mẹ dặn dò đủ thứ –“Qua đó nhớ giữ gìn sức khỏe và cẩn thận mọi sự việc nơi xứ lạ quê người, nghe con…”; rồi Mẹ gói ghém từ cái áo ấm đến thuốc cảm cúm đặt trong giỏ xách cho tôi. Biết Mẹ lo, nhưng cũng biết Mẹ tự dặn lòng phải mạnh mẽ, để không làm tôi chùn bước. Mẹ tôi không biết nói những lời triết lý cao siêu, không giỏi thể hiện bằng những câu thơ văn, Mẹ chỉ lặng lẽ yêu thương bằng những chăm sóc chu đáo cho tôi. Tình Mẹ tưởng như giản dị mà hóa ra thiêng liêng vô cùng. Nhưng những ngày ấy đã lùi xa vào ký ức. Dù vậy, tôi biết tình mẹ chưa bao giờ xa tôi. Nó vẫn ở đây, trong từng nhịp thở, từng dòng chữ tôi viết, từng đêm trăn trở nhớ mẹ giữa mùa đông lạnh.
Ngày mẹ ngã bệnh, tôi đang ở xứ người và phải lo toan nhiều việc. Mẹ nói: “Đừng về vội, con à. Mẹ còn chịu được.” Tôi nghe mà nhói lòng, vì biết Mẹ sợ tôi lo lắng và bận tâm. Tôi cứ ngỡ còn thời gian một tháng nữa, hai tháng nữa, hay lâu hơn nữa… Rồi bỗng một ngày điện thoại reo giữa đêm khuya… Tôi lặng người! Thời gian không chờ ai, và Mẹ tôi… đã không chờ đợi được nữa!
Chuyến bay trở về nhà hôm ấy là chuyến đi dài nhất trong đời tôi. Không phải vì khoảng cách địa lý, mà vì lòng tôi nặng trĩu. Tôi không dám khóc giữa sân bay đông người, nhưng trong tim tôi, nước mắt đã chảy từ lâu – chảy từ khoảnh khắc tôi biết mình đã không kịp trở về, để nhìn Mẹ lần cuối và nghe Mẹ trối trăn!

Tôi đứng trước bàn thờ Mẹ, gục đầu, thì thầm: “Mẹ ơi, con về rồi đây… Nhưng muộn quá phảikhông Mẹ?” Mẹ lặng thinh! Chỉ có khói nhang bay lên di ảnh của Mẹ làm nhạt nhòe mắt Mẹ như ánh mắt Mẹ ngày tôi xa lìa gia đình. Từ ngày ấy, tôi sống với một vết thương không thể lành – vết thương của sự xa cách cuối cùng. Nhưng cũng từ đó, tôi hiểu sâu hơn về “tình mẹ”: đó là tình yêu không cần sự có mặt, vẫn âm thầm nâng đỡ tôi mỗi ngày, dù Mẹ đã đi xa. Giờ đây, mỗi khi nhìn lên bầu trời, tôi lại khẽ nói: “Mẹ ơi, con nhớ mẹ nhiều lắm.”Và tôi tin đâu đó, Mẹ vẫn mỉm cười nhẹ nhàng như những năm tháng xưa – khi Mẹ đứng trước cửa chờ tôi về, mái tóc bạc lấp lánh trong nắng chiều.
Mẹ –là hình dáng của tình yêu vĩnh cửu. Trong dòng đời hối hả, có một điều luôn âm ỉ cháy không tàn, đó là “ tình yêu của mẹ.” Tình yêu ấy không cần lý do để bắt đầu, cũng không chờ điều kiện để tồn tại. Mẹ là tiếng gọi đầu tiên ta thốt lên, là bóng hình cuối cùng ta giữ mãi trong tim. Có nhiều đại văn hào trên thế giới cũng đã từng ca ngợi “Tình Mẹ” như Victor Hugo viết: “A mother’s arms are made of tenderness and children sleep soundly in them.”
(Vòng tay mẹ được dệt bằng sự dịu dàng, và trong đó con trẻ ngủ giấc bình an.)
Mẹ không chỉ là người sinh ra ta — mà còn là người chắp cánh cho ước mơ, dạy ta biết yêu thương, biết vươn lên giữa giông bão. Dù thời gian có đưa Mẹ đi xa, thì tiếng gọi “Mẹ ơi” vẫn mãi là lời thì thầm thiêng liêng nhất đời người.
Plato đã từng nói: “There is no greater love than that of a mother.”
(Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của một người mẹ.)
Trong mắt Mẹ, ta luôn là đứa trẻ nhỏ cần được vỗ về, dù ta đã là người trưởng thành giữa cuộc đời. Mẹ âm thầm lo lắng khi ta đi xa, thầm lặng vui mừng mỗi lần ta trở về. Mẹ cười sau lưng những thành công của ta, và khóc lặng lẽ cho những tổn thương mà ta chẳng hay biết.
Có một câu nói khuyết danh, nhưng hàm chứa một chân lý sâu xa:
“God could not be everywhere, and therefore he made mothers.”
(Thượng đế không thể có mặt ở khắp nơi, vì thế Ngài đã tạo ra người mẹ.)
Mother’s Day không chỉ là dịp để tặng hoa, gửi quà, mà là một khoảnh khắc để ta lắng động tâm hồn, gởi đến Mẹ một lời cảm tạ từ trái tim. Dù Mẹ còn trên đời hay đã về bên kia thế giới, tình mẹ vẫn là nơi ta hướng về, mỗi khi đời bão giông.
Abraham Lincoln đã nói:
“All that I am, or hope to be, I owe to my angel mother.”
(Tất cả những gì tôi có được, hay hy vọng đạt tới, tôi đều nhờ người mẹ thiên thần của tôi.)
Cùng một nỗi niềm chung về “Tình Mẹ”, ngay trong thế giới âm nhạc mênh mông không biên giới, cũng vẫn có chỗ cho những bài hát ca tụng “Tình Mẹ”. Như hai ca khúc tiêu biểu: Maman oh Maman và Lòng Mẹ – hai bản nhạc cảm động đến tận cùng trái tim, tuy đến từ hai nền văn hóa, địa ly khác nhau; nhưng lại cùng chan chứa một tình yêu vĩ đại; đó là: tình mẫu tử.
“MAMAN OH MAMAN” – LỜI GỌI TỪ TRÁI TIM
Maman oh Maman là một ca khúc Pháp nổi tiếng, một bản tình ca dành cho Mẹ với tất cả yêu thương và biết ơn. Giai điệu của bài hát mộc mạc, dịu dàng như lời thủ thỉ của một đứa con nói với mẹ, nhưng lại chứa đựng cả một trời yêu thương và khát khao. Ca khúc này vượt thời gian và biên giới vì nó chạm đến sợi dây thiêng liêng nhất của con người – đó là tình mẹ. Mỗi lần nghe, người ta như được trở về thuở ấu thơ, được nép vào vòng tay yêu thương nhất, nơi không có lo toan, chỉ có hơi ấm và tiếng ru ngọt ngào.
Maman oh Maman, toi qui m’as donné. Tant de tendresse depuis tant d’années
Tu le sais bien, quand je serai grand. Je penserai à toi, Maman
Maman oh Maman, le jour et la nuit. Je veillerai toujours sur ta vie
Je serai là à tout les instants. Pour te protéger, Maman…
LÒNG MẸ” – BẢN THÁNH CA CỦA TÌNH MẸ
Nếu Maman oh Maman là lời hát của đứa con dành cho mẹ, thì Lòng Mẹ – một ca khúc bất hủ của nhạc sĩ Y Vân – là khúc ngợi ca cao nhất tình mẹ Việt Nam: sâu như biển Thái Bình, bao la như trời lồng lộng. Với những hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp:
“Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào
Tình Mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…
“Lòng Mẹ thương con như vầng trăng tròn mùa thu
Tình Mẹ âu yếm như làn gió đùa mặt hồ…”
Bản nhạc Lòng Mẹ rất tha thiết, mỗi khi âm điệu của bản nhạc cất lên làm rung động cả con tim và giọt lệ chợt ứa trong khóe mắt. Tình Mẹ sao quá đỗi ngọt ngào, Mẹ hy sinh cả một đời cho con, Mẹ luôn là người duy nhất không bao giờ bỏ rơi con, dù con thành công hay thất bại, giàu sang hay nghèo khó. Giai điệu ca khúc nhẹ nhàng, da diết, tràn đầy cảm xúc như lời ru vọng lại từ ký ức; khiến không ít người khi cất lên bài hát này đã không thể cầm được nước mắt.
Dù khác ngôn ngữ, khác văn hóa, nhưng Maman oh Maman và Lòng Mẹ đều chạm đến sâu thẳm trái tim người nghe. Mama oh Maman – như tiếng con trẻ nói với Mẹ với tất cả yêu thương hồn nhiên; Lòng Mẹ là tiếng hát thành kính, dạt dào như khúc thánh ca dâng lên người Mẹ hiền đã hy sinh cả cuộc đời cho con.
Hai ca khúc – hai thế giới – nhưng chung một tình yêu: – đó là Tình Mẹ vĩnh cửu.
Happy Mother’s Day
DẤU CHÂN MẸ
Kiều My
(Kính tặng những người Mẹ – còn đó hay đã xa…)
Trên đường đời con bước
Có dấu chân ai quen
Âm thầm như hơi thở
Nhưng ấm từng bước lên.
Có Mẹ là có nắng
Chợt một ngày đông tan
Có Mẹ là tiếng hát
Ru con suốt tháng năm.
Mẹ xa rồi trăng khuyết
Hương bếp cũ mơ hồ
Bóng Mẹ như trong gió
Về bên cửa đợi chờ…
Con ngồi nghe mưa rớt
Trên mái nhớ ngày xưa
Từng bữa ăn đạm bạc
Mẹ nhường con hơn thừa.
Dẫu Mẹ còn hay khuất
Trong tim con vẫn đầy
Một vầng trăng không tắt
Dẫn con suốt tháng ngày…
Trong cuộc đời viễn xứ, đôi khi chúng ta không ngờ rằng giây phút chia xa cuối cùng với Mẹ lại đến quá đột ngột. Những dòng hồi tưởng này chan chứa nỗi ngậm ngùi của một người con sống xa quê nhà, mang trong tim nỗi ray rứt không thể ở cạnh Mẹ trong những ngày cuối đời của Mẹ. Nhưng cũng từ đó, ta nhận ra rằng tình mẹ vẫn luôn hiện hữu – âm thầm, bao la, và vĩnh viễn không rời xa. Dù Mẹ còn trên đời hay đã đi xa, tình mẹ vẫn luôn là ánh sáng dịu dàng dẫn lối trong suốt hành trình của đời ta.
Kiều My
California, Mother’s Day 2025
THƠ PHỔ NHẠC PHẠM PHAN LANG:
Vào một mùa Lễ Mẹ của nhiều năm về trước, PL đã viết bài thơ “Mẹ” theo thể Haiku – ngắn gọn nhưng cô đọng những hình ảnh quê hương và nỗi nhớ mẹ da diết trong tim người con xa xứ. Bài thơ mộc mạc ấy đã được hai nhạc sĩ tài hoa ưu ái phổ thành hai ca khúc sâu lắng và cảm động.
MẸ
Buồng chuối chín sau vườn
Lá vàng rụng con mương ngoài ngõ
Văng vẳng tiếng ầu ơ
Con chinh chiến chưa về
Đêm nghe gió đường quê mơ màng
Thấy Mẹ trong giấc mơ
Áo hoa con biếu Mẹ ngày nào
Che phủ tấm lưng cong
Ngày xưa một đóa hồng
Nay áo đẹp má hồng Mẹ phai
Vườn sau xanh bông cải
Mẹ thương con tháng ngày dầu dãi
Trông con đầu bạc trắng
Dạ con tấc lòng son
Đêm nhớ Mẹ mỏi mòn từng đêm
Hoa sứ nở đầy cành
Dây trầu xanh lá vẫn vấn quanh
Con ơi, sắp về chưa?
Dù đường đời trắc trở
Con sẽ về têm miếng trầu xanh
phamphanlang
Bài thơ mộc mạc ấy đã được hai nhạc sĩ tài hoa ưu ái phổ thành hai ca khúc sâu lắng và cảm động:
- Nhạc sĩ Vĩnh Điện phổ nhạc và ca sĩ Diệu Hiền trình bày với giọng ca trong trẻo, ngọt ngào:
Mẹ – Diệu Hiền, nhạc Vĩnh Điện - Nhạc sĩ Mộc Thiêng cũng xuất sắc phổ thành ca khúc thứ hai, được thể hiện nồng nàn và truyền cảm qua giọng hát của ca sĩ Đông Nguyễn:
Mẹ – Đông Nguyễn, nhạc Mộc Thiêng
Nhân dịp Lễ Mẹ, PL xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến hai nhạc sĩ Vĩnh Điện, Mộc Thiêng và hai ca sĩ Diệu Hiền, Đông Nguyễn – những người đã thổi hồn vào bài thơ bằng giai điệu và giọng ca tuyệt vời, giúp bài thơ nhỏ bé này lan tỏa và chạm đến trái tim người nghe.
Xin kính mời quý vị cùng lắng nghe và tưởng nhớ những người Mẹ thân yêu trong mỗi chúng ta.
Kính chúc quý vị một mùa Lễ Mẹ an vui và tràn đầy yêu thương.
PLang
==
THƠ PHƯƠNG HOA
VÀ BÀI HÁT “NGÀY MẪU TỪ NHỚ MẸ“
NGÀY MẪU TỪ NHỚ MẸ
*
Từ xa con nhớ Mẹ nhiều
Mơ về cố quốc mỗi chiều quắt quay
Hoàng hôn bảng lảng vầng mây
Hạc vàng xoải cánh chở đầy yêu thương
*
Ngày con từ biệt quê hương
Mẹ già tóc bạc sầu vương chập chùng
Đông Tây sương khói mịt mùng
Bao năm chờ đợi tương phùng vấn an
*
Nhà đưa tin đến bàng hoàng
Đất trời chao đảo hoang mang vô bờ
Từng mong từng ước từng giờ
Ước mong gặp Mẹ cơn mơ ngập sầu
*
Ai làm biển cả ruộng dâu
Mẫu Từ vĩnh biệt lòng đau nghẹn ngào
Mộ phần hương khói ra sao
Đông tàn Xuân đến biết bao nỗi niềm
*
Chiều nay con nhớ Mẹ hiền
Từng cơn gió lượn ngoài hiên não nề
Gian nan đời Mẹ trăm bề
Vì con vất vả không hề trách than
*
Mẹ đà vĩnh biệt trần gian
Bước chân con vẫn lang thang cõi nào
Hoàng hôn thắm trải xôn xao
Nhưng lòng con trẻ dạt dào nhớ thương
*
Chiều về giọt nắng buồn vương
Cầu nơi Cực Lạc Mẹ nương phật đà
Thân con, bốn biển là nhà
Ngày Mẫu Từ, con nhớ Mẹ già…Mẹ ơi….
*
Phương Hoa – Ngày Mother’s Day, MAY 2025
===
THƠ SONG NGỮ VIỆT ANH VỀ MẸ
MẸ TÔI
Năm lên sáu
Tôi đã thích đá banh
Một bó giẻ tròn
Mẹ tôi khâu kết
Một trái bưởi xanh
Mẹ hái sau vườn
Tôi mê chơi
Tới tắt mặt trời
Quên cả giờ cơm
Mẹ la, mẹ rầy
Năm mười sáu
Tôi đã biết hẹn hò
Ðèn sách biếng lười
Mẹ buồn, mẹ lo
Tương lai con
Không được bằng người
Năm hai mươi
Tôi lên đường
Ðáp lời sông núi
Mẹ không mấy vui
Sợ mình sẽ mất
Ðứa con trai
Ðộc nhất trên đời
Ðơn vị đóng đồn xa
Cả năm không về
Lòng mẹ xót xa
Từng ngày từng giờ
Thương con mình vất vả
Mũi tên hòn đạn
Biết đâu ngờ
Những ngày về phép
Ít khi gần gũi mẹ
Quen tính lang bạt
Tôi tìm lại bạn bè
Ðàn ca xướng hát
Nửa đêm mới về
Mẹ hỏi
Sao con không ở nhà với mẹ?
Tôi hôn trán mẹ, mỉm cười
Vận nước nổi trôi
Chí trai không tròn
Tôi đi tù
Mẹ già không ai nương tựa
Thương con – Nỗi nhớ – Hao mòn
Mẹ tôi mất
Sáu tháng mới nghe tin
Không cầm được nước mắt
Hồn đau – Vỡ nát con tim
Trong trại tù
Con thèm một tiếng rầy la
Con thèm một lời hờn dỗi
Con thèm một bàn tay trìu mến
Con thèm một điệu ru hời
Cuả mẹ ngày xưa
Ðưa con vào đời
Nhưng, nay còn đâu nữa
Mẹ ơi!
NHƯ HOA
ANH NGỮ
MY MOTHER
When I was just a six-year-old boy
Iá began playing soccer to enjoỵ
A ball of rags my mother sewed around
A green pomelo picked from the rear ground.
I indulged in the matches forgetting to eat
Causing my mother to chide, nearly to beat.
When coming to the age of sixteen
I already became on dates keen.
I neglected my lessons to learn
Leading my mother to sadness and concern
That my future would be inferior to my peers’.
When I reached of age twenty years,
My country got in danger, I joined the army.
This position was not deemed balmy
But dangerous and made my mother fear
The loss of her only begotten son so dear.
My unit was stationed all year far away.
I had no home leave even for half a day.
It pained my mother again and again to regard
My trying conditions as too hard:
Exposed to arrows and bullets, who knows?
After surviving many deadly blows,
I obtained permission. But, used to roaming,
I went with friends on carousing and foaming,
And only came home late at night
Allowing myself little time within her sight.
My mother asked why. Fearing she got riled,
I kissed her on the forehead, and smiled.
The fortune of the country turned ill
From bad to worse against my he-man’s will.
I became a POW.
My mother had no help.
She loved me, missed me, but did not yelp.
I heard the sad news six months late
After she had pined away to fate.
I could not hold back and burst into tears;
I felt my heart broken for all my life’s years.
*
* *
During my days in the enemy’s jail,
How I wished I could hear at me you rail!
How I craved for your against-me grudge,
Your hand to move my mind hard-to-budge,
Your lullaby to raise my good-natured soul
Leading me into life, guiding me toward a goal:
But now I can’t about those myself bother
— Oh my dear mother!

==
THƠ VÀ NHẠC LÊ TUẤN
Hôm Nay Ngày Lễ Mẹ
Tôi muốn viết những vần thơ tặng Mẹ
Gửi lên trời nhờ mây gió mang đi
Mẹ ở trên cao ngàn thu cách biệt
Ngày lễ Mẹ, giọt lệ ướt trên mi.
Dâng lên Mẹ những vần thơ sầu muộn
Cách biệt thiên thu, hoài niệm quay về
Trên Thiên quốc nhìn về nơi trần thế
Hồn ca dao vang vọng gió hương quê.
Chiếc nôi êm ru con ngủ trưa hè
Lời Mẹ ru giọt mật thấm trong mê
Mẹ là dòng sông êm đềm xuôi bến
Tắm ướt hồn con soi sáng đường về.
Dòng sông ơi! Sóng vỗ về lưu luyến
Nhớ về Mẹ hồn đau nhói lệ rơi
Con ôm cả bó hồng dâng tặng Mẹ
Thắp nén nhang buồn khói toả chơi vơi.
Tế Luân
Tưởng nhớ đến Mẹ tôi
người đã yên nghỉ trên Thiên Đàng
Bó Hồng Tặng Mẹ
Con cung kính. Bó hồng riêng tặng mẹ
Cả tình thương, sâu thẳm của tâm hồn
Mẹ là suối nguồn, dòng chảy tinh khiết
Nuôi con một đời, đến tuổi lớn khôn.
Dâng lên Mẹ ngàn đóa hồng thắm đỏ
Dòng máu hồng. Mẹ trao tặng cho con
Ngày lễ Mẹ, bồi hồi thêm nỗi nhớ
Nhớ ơn người, nuôi nấng thuở măng non.
Tình yêu mẹ, dạt dào như sóng vỗ
Vỗ giấc bình yên, chăm sóc đời con
Viết về Mẹ, lời thơ đầy nước mắt
Vào nỗi buồn, tuổi xuân đã hao mòn.
Công ơn Mẹ, sánh núi cao, biển cả
Thấu trời xanh. Thượng Đế phải ngậm ngùi
Mẹ là thảo nguyên bao la bát ngát
Dòng suối nguồn, tuôn chảy những ngọt bùi.
Mẹ trên cao, như sao sáng trên trời
Mẹ hiền từ, ôm con cả một đời
Lời nguyện cầu, con ước mơ về mẹ
Tiếng mẹ dịu dàng, nhớ mãi không ngơi.
Tình yêu của mẹ bao la biết mấy
Sáng như mặt trời, đẹp như mây bay
Ai! Còn Mẹ, đừng làm Mẹ bật khóc
Đừng để buồn, giọt lệ ướt trên tay.
Xin gửi đến Mẹ, ngàn đóa hoa hồng
Thắm sương long lanh, ướt cả nỗi lòng
Lời nghẹn ngào, bài thơ ngày lễ mẹ
Buộc vào hoa, gửi mẹ những hoài mong.
Lê Tuấn
Vần thơ tưởng nhớ đến Mẹ.
Gửi đến Mẹ ngàn đóa hoa hồng,
Thấm ướt trên nhánh lá những giọt nước mắt long lanh
thương nhớ Mẹ hiền.
4 Ca Khúc Thơ & Nhạc Lê Tuấn – Hòa Âm & Trình Bày AI
===
Lịch Sử Ngày Lễ Hiền Mẫu, Mother’s Day!
-Ngày của Mẹ (Mother‘s Day) ấn định mừng vào ngày Chủ Nhật thứ nhì của tháng 5 hằng năm. Đây là ngày để tôn vinh các bà mẹ, bà nội, bà ngoại, vì những đóng góp to lớn của họ cho gia đình, cộng đồng và xã hội
Nguồn gốc ngày của Mẹ có từ rất lâu, vào thời kỳ cổ Hy Lạp và La Mã. Nhưng cái gốc lịch sử Ngày Của Mẹ, có thể tìm thấy ở Anh Quốc, nơi đó Chủ Nhật Ngày của Mẹ, đã được tổ chức tưng bừng, trước khi lễ mừng này được “di cư” thành hình, bên Hoa Kỳ.
Dầu vậy, việc ăn mừng liên quan của ngày này, lại được coi là một hiện tượng, chỉ mới gần đây, mới hơn một trăm năm.
Thật ra, phải cảm tạ công khó của những phụ nữ tiền phong, như Julia Ward Howe và Anna Jarvis, mà “ngày này” mới được chính thức thành hình.
Ngày nay, việc tổ chức, tiệc mừng cho Ngày của Mẹ, đã được trên 50 quốc gia của thế giới công nhận. (Mặc dầu vào những ngày khác nhau) Trở thành những Ngày Lễ ý nghĩa, mà mọi người yêu thích nhất! Hàng triệu người trên khắp thế giới, dùng cơ hội này để nhớ đến, kiếm cách trả ơn bà mẹ của mình, tri ân họ về việc sanh thành, dưỡng dục, để họ thành người.
Ngày của Mẹ, được tổ chức tưng bừng nhất ở những quốc gia như: Mỹ, Nga, Anh Quốc, Ấn Độ, Đan Mạch, Phần Lan, Ý, Thổ Nhỉ Kỳ, Úc Đại Lợi, Mễ Tây Cơ, Gia Nã Đại, Trung Hoa, Nhật Bản, và Bỉ. Người ta dùng cơ hội của ngày này, để tỏ lòng tôn kính mẹ của mình và tri ân họ về tình yêu thương, sự nâng đỡ của Mẹ trong đời sống.
Nhưng ngày này, càng ngày càng phai mờ ý nghĩa, vì bị thương mại hóa. Đường dây điện thoại thì bận rộn, kẹt cứng nhất trong năm. Tiêu thụ hoa, quà, card, nhiều nhất! Nhà hàng cũng có khách đông nhất vào ngày lễ này. Ngày của Mẹ trở thành ngày làm ăn hốt bạc, cho những tiệm cắm hoa, những nhà làm thiệp và người bán quà tặng, cho cả dịch vu du lịch. Cơ hội hiếm có để kiếm tiền trong ngày này. Bằng chứng qua những cuộc quảng cáo quy mô, trước đó vài ba tháng, để thu hút khách hàng.
Thật là tiếc để ghi nhận rằng, bà Anna Jarvis đã bỏ hết cuộc đời, cho việc vinh danh ý nghĩa cao đẹp ngày của Mẹ. Giờ chỉ còn là dịp để vui chơi, quà cáp, ăn uống, trong ngày lễ. Những bà mẹ già, vẫn cô đơn mừng ngày này, trong các viện dưỡng lão. Trong khi các con của mình, tưng bừng hội hè ăn chơi phía ngoài, chẳng còn nhớ gì đến Mẹ của mình cả. Thật chua xót về tính cách thương mại hóa của ngày này. Mà đâu phải một lễ này đâu, lễ nào trên đất Mỹ này cũng thế!
Những câu danh ngôn về Mẹ nổi tiếng và ý nghĩa nhất
1. Với mẹ, dù lớn bao nhiêu, con mãi là một đứa trẻ! trong trái tim mình.
(Khuyết danh)
2. Chúa không thể ở khắp mọi nơi, để ban tình thương, ơn lành, nên Ngài sinh, tạo ra người mẹ!
(Proverbe Yiddish)
3. Khi bạn nhìn vào mắt của một người mẹ, bạn sẽ nhận biết được, tình yêu tinh khiết nhất, tuyệt vời nhất, mà bạn có thể tìm thấy trên trái đất.
(Mitch Albom)
4. Mẹ là người có thể thay thế bất kỳ ai khác, nhưng không ai có thể thay thế được mẹ.
(Gaspard Mermillod)
5. Tương lai của đứa con, luôn là công trình, tuyệt phẩm! hãnh diện nhất của người mẹ.
(Napoleon)
6. Tình thương của người mẹ, không bao giờ bị già nua, khi năm tháng trôi qua.
(Tục ngữ Đức)
7. Vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt diệu, quý báu nhất, là trái tim người mẹ!
(Bernard Shaw)
8. Không tình yêu nào vĩ đại, như tình yêu của người mẹ, dành cho đứa con của mình.
(Khuyết danh)
9. Người mẹ thật sự chẳng bao giờ rảnh rỗi, hình bóng con, luôn luôn hiện diện trong đầu và trái tim của Bà suốt cả đời!
(Balzac)
10. Tình yêu của người mẹ là yên bình, bình đẳng. Nó không cần bạn phải thông minh, đẹp đẽ, giỏi giang. Nó không cần bạn phải xứng đáng hay không! Nhiều khi khuyết tật, bạn còn nhận được nhiều hơn nữa!
(Erich Fromm)
11. Mẹ hiền sinh con ngoan, cây tốt sinh trái ngọt, lúa tốt cho gạo ngon.
(Ngạn ngữ Trung Quốc)
12. Người ta không bao giờ hiểu hết, nói hết về Thượng Đế, cũng như nói hết về người Mẹ.
(Ngạn ngữ Ấn Độ)
13. Mẹ nuôi con biển bờ lai láng, con nuôi mẹ kể tháng kể ngày.
(Tục ngữ Việt Nam)
14. Con đi ngàn dặm mẹ lo âu, Mẹ đi ngàn dặm con chẳng sầu.
(Ngạn ngữ Trung Quốc)
15. Khi bạn là một người mẹ, bạn không bao giờ thực sự cô độc trong suy nghĩ của mình. Một người mẹ luôn phải nghĩ hai lần, một lần cho bản thân và một lần cho con cái.
(Sophia Loren)
16. Một người mẹ vẫn mãi là một người mẹ, luôn luôn quan tâm đến những đứa con. Cho dù những đứa con đó đã lớn lên, vẫn là những đứa trẻ của riêng mình.
(Khuyết danh)
17. Trái tim của người mẹ là vực sâu muôn trượng, mà ở dưới đáy, bạn sẽ luôn tìm thấy sự tha thứ.
(Balzac)
18. Làm mẹ là một thái độ sống, thiêng liêng, không chỉ là mối liên hệ về sinh học.
(Robert A Heinlein)
Phong tục “Happy Mother’s Day!” tại các nước trên thế giới
-Đa số các quốc gia trên thế giới ngày nay, ăn mừng Ngày của Mẹ, với các phong tục bắt nguồn từ Bắc Mỹ và Châu Âu. Khi được phổ biến tại các nước khác, ngày của mẹ đôi khi được thay đổi đôi chút, để phản ảnh nền văn hóa từng nơi. Một số nước để hợp nhất ngày lễ này, với những sự kiện quan trọng của nhiều phong tục bản xứ (ví dụ như tôn giáo, lịch sử, và truyền thuyết)
*Ngày của mẹ ở Anh
Ngày của mẹ ở Anh cũng trùng vào ngày Chủ Nhật, bởi vậy mọi người thường tới nhà thờ làm lễ, sau đó mới trở về nhà của mình. Các thành viên trong gia đình, dù ở xa cũng sẽ cố gắng họp mặt đông đủ trong ngôi nhà của cha mẹ. Họ thường tổ chức một buổi tiệc có thiệp mừng, bánh gato, hoa quả, rượu và tặng quà cho những người mẹ.
*Ngày của mẹ ở Mỹ
Ngày của mẹ được khởi xướng trở lại sau thế chiến thứ hai tại Mỹ, do bà Anna Marie Jarvis đấu tranh xác lập, tại phố Grafton, tiểu bang Tây Virginia, Hoa Kỳ. Bà Anna Marie Jarvis quyết tâm thực hiện di nguyện của người mẹ quá cố. Người mẹ của bà Anna khi còn sống là một nhân viên an sinh, luôn đấu tranh không ngừng để làm rạng danh các bà mẹ, tri ân công sức của họ trong đời sống và vì hòa bình. Sau khi người mẹ mất, cộng thêm thái độ thờ ơ lãnh đạm của người dân Hoa Kỳ với thân mẫu của mình, càng thôi thúc quyết tâm của bà. Sau nhiều năm đấu tranh quyết liệt, vào năm 1911, Ngày Của Mẹ được tổ chức ở hầu hết các tiểu bang ở Mỹ. Vào ngày 8/5/1914, tổng thống Mỹ đã ký quyết định ấn định ngày Chủ nhật thứ hai của tháng Năm hàng năm là Ngày của Mẹ. Dần dần trở thành, một trong những ngày lễ được yêu thích nhất. Tiệc tùng cũng linh đình nhất!
*Ngày của mẹ ở Ấn Độ
Người Ấn Độ gọi ngày của mẹ là Durga Puja, trong đó “Durga” là tên của một nữ thần bảo vệ cho người dân Ấn Độ, khỏi mọi nguy hiểm trong cuộc sống. Họ tổ chức Ngày của mẹ như một lễ hội lớn vào tháng Mười, trong vòng… mười ngày! Đồng thời, với những người mẹ thật sự trong cuộc sống, mang nặng đẻ đau 9 tháng 10 ngày, cũng sẽ được người con vào bếp trổ tài nấu ăn và tặng quà cho mẹ.
*Ngày của mẹ ở Tây Ban Nha
Ngày của Mẹ được tổ chức vào ngày Chủ Nhật đầu tiên của tháng năm ở Tây Ban Nha. Người lớn thường tặng mẹ sôcôla, thiệp chúc mừng hay một số món quà ý nghĩa khác. Còn trẻ em thì tự tay làm tặng mẹ những tấm thiệp, hoặc làm món quà đơn giản.
*Ngày của mẹ ở Nhật Bản
Trong ngày của mẹ, trẻ em sẽ vẽ những bức tranh dành tặng cho mẹ của mình và tập hợp những bức ảnh đó thành một cuộc triển lãm nhỏ, với chủ đề tình cảm mẹ con và sự hi sinh thầm lặng của các bà mẹ Nhật.
*Ngày của mẹ ở Úc
Hoa cẩm chướng là loài hoa biểu trưng cho ngày của mẹ ở Úc. Bông hoa cẩm chướng vàng dùng để tặng người mẹ đang còn sống. Còn hoa cẩm chướng trắng được dành tặng một người mẹ đã quá cố. Vào ngày này, trẻ em thường dậy sớm, làm tặng mẹ đồ ăn sáng và mang đến bên giường ngủ, để mẹ thức dậy và thưởng thức.
Con Xin Hôn Mẹ!
(Thơ Trần Quốc Bảo)
-Con quí trọng vết nhăn trên mặt Mẹ,
Lớp da chập chùng như sóng đại dương!
Ấp ủ muôn trùng, lòng Mẹ yêu thương,
Muôn trùng hi sinh! – Muôn trùng đau đớn!
Để con sinh ra, để con khôn lớn.
Để hôm nay, con hiện diện giữa đời.
Me dạy con sống trọn đạo với Trời!
Và yêu người, như chính mình ta vậy.
Con không bao giờ quên lời Mẹ dạy,
Yêu Quê hương, yêu Tổ Quốc, giống nòi.
Mẹ đã dạy con: Thất bại mỉm cười…
Vịn lời Mẹ mà đứng lên can đảm!
Lời Mẹ dạy con: Thành công điềm đạm,
Mở rộng vòng tay giúp đỡ tha nhân.
Mẹ đã về Trời, xa cõi trầm luân…
Con vẫn yêu Mẹ như xưa còn bé.
Vì trong tim con, đậm hình bóng Mẹ!
Kỷ niệm tràn đầy như sóng đại dương.
Lòng Mẹ dạt dào, biển cả yêu thương.
Con xin hôn lớp nhăn trên mặt Mẹ!

Nỗi Buồn – Ca Khúc Mới Thơ Tế Luân – Hòa Âm AI
GS/TS MAI THANH TRUYẾT – Ngày Con Ong Thế Giới – World Bee Day – 20 Tháng 5.
KIỀU MỸ DUYÊN – Chương Trình CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA
KIỀU MỸ DUYÊN – NGÀY CỦA MẸ
SƯƠNG LAM -Quê Người Quê Nhà Trong Trái Tim Tôi
Quê Người Quê Nhà Trong Trái Tim Tôi
Đây là bài số bảy trăm năm mươi chín (759) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ ORTB.
Cứ mỗi lần Tháng Tư đến là chúng ta được nghe, được đọc những bài thơ, bài văn, bài nhạc nói về Ngày Quốc Hận 30 Tháng Tư. Ai trong chúng ta cũng có niềm đau nỗi nhớ về ngày đau buồn này.
Thời gian trôi qua nhanh quá. Thế là đã 50 năm trôi qua lặng lẽ. Đa số chúng ta đã trải qua một thời gian gian khổ của kiếp thuyền nhân lênh đênh trên biển cả mênh mông như lời thơ của tôi dưới đây:
……Có những con thuyền thật mỏng manh
Lang thang cuối bãi đến đầu gành
Một cơn sóng lớn đưa thuyền đến
Địa ngục trần gian giữa biển xanh
Có những hôn mê dưới nắng trời
Chập chờn theo gió nổi mây trôi,
Đói cơm, khát nước, bao già trẻ,
Một thoáng “thiên đàng” đã đến nơi
Có những bàn tay chới với tìm
Chiếc phao, mảnh gỗ, để ngoi lên
Trời ơi! Sao lại là con nhỉ?
Và xác con yêu nhẹ nhẹ chìm …
(Trích trong Kiếp Thuyền Nhân- Thơ Sương Lam)
Và thế giới chỉ có biết:
Người chỉ biết những con tàu đã đến
Còn bao nhiêu lạc nẻo hoặc chìm sâu
Giữa phong ba xanh thẳm chỉ một màu
Ai đếm được bao nhiêu mồ giữa biển?
Hết gió bão lại sa vào giặc biển
Cướp bạc tiền và cướp cả đời hoa
Biết làm sao cho thế giới hiểu là
Nỗi đau đớn người dân Nam gánh chịu..
(Trích trong Biển và Dân Việt- Thơ Sương Lam)
Bao nhiêu chiến sĩ đã hy sinh để bảo vệ màu cờ vàng ba sọc đỏ, bao nhiêu gia đình đã ly tán, bao nhiều người đã tử nạn trong biển sâu rừng vắng trên bước đường tìm tự do, bao nhiêu sự cực khổ gian nan trong cuộc sống nơi xứ người đã vẽ lên bức tranh quốc hận đau thương. Bởi thế vào tháng Tư hằng năm, bạn và tôi, xin hãy dành một phút tưởng niệm đến những người đã khuất cho lý tưởng tự do, bạn nhé!.
Ngày tưởng niệm! Chẳng đợi kêu mời rước
Ngày đau buồn! Dân Việt khắp năm châu
Một phút thôi! Xin kính cẩn cúi đầu
Để truy niệm đến những người đã khuất
Saigon cũ giã từ trong u uất
Nơi xứ người, Tôi, Bạn nhớ Quê hương
Tháng Tư Buồn! Người ở lại quê hương
Hờn vong quốc! Ai buồn hơn ai nhỉ?
(Trích trong Portland Tháng Tư Buồn- Thơ Sương Lam)
Theo vận nước nổi trôi, tôi lưu lạc nơi xứ người. Nhờ Trời Phật ban phúc lành, gia đình bé nhỏ của tôi được sum họp, đoàn tụ với các em của tôi như cha mẹ chúng tôi hằng mong muốn.
Chúng tôi đã chọn Portland là quê hương thứ hai của chúng tôi và chúng tôi đã sống ở nơi đây hơn 40 năm rồi. Đời sống tình cảm của tôi lại gắn liền với từng bụi cỏ, từng gốc cây, từng tên đường ở Portland như tôi đã sống ở Sài Gòn ngày cũ.
Xin hãy cảm thông tâm tình của người viết trong những ngày đi học đầu tiên của khóa mùa Thu ở “đại học trường làng” Portland Community College ở Portland, Oregon.
“Khi còn ở quê nhà chốn cũ
Vẫn mơ về bến mới Tự Do
Nào hay đâu đã đến được bờ
Lại mang nỗi u hoài khó tả
Những buổi sáng trên đường tới lớp
Trời Thu buồn khắp nẻo sương giăng
Bao niềm thương nỗi nhớ xa gần
Trong thoáng chốc quay về lũ lượt
Nào cha mẹ, trường xưa, bạn cũ
Nào những ngày khốn khổ điêu linh
Nào bao nhiêu kỷ niệm, ân tình
Hình ảnh ấy bao giờ xóa được
Rồi tôi lại ngậm ngùi khi nhớ về Saigon:
Từng thu đến, lại từng thu đến
Gió lạnh về tê tái, cô đơn
Kẻ sĩ xưa ôm mối đau hờn
Nơi xứ lạ sống đời viễn khách
U hoài ấy biết ai tâm sự
Nửa cuộc đời sống ở quê hương
Sài Gòn ơi! Cách biệt đôi đường
Còn gì nữa, để quên để nhớ!
(Saigon Còn Gì Ðể Quên Ðể Nhớ – Thơ Sương Lam)
Tôi đã chọn Portland, Oregon là quê hương thứ hai của tôi cũng như nhà văn nữ Nguyễn Thị Thanh Dương đã chọn Texas là quê hương của bạn ấy.
Chúng tôi là bạn văn nghệ thân thiết cùng sinh hoạt trong Diễn Đàn Cô Gái Việt tâm ý tương cảm tương thông rất nhiều.
Xin mời đọc một trích đoạn trong bài viết mới nhất “50 Năm Quê Nhà Quê Người” của bạn tôi nhé. Cảm ơn Thanh Dương rất nhiều vì cùng một cảm nghĩ như tôi.
50 Năm Quê Nhà Quê Người
“……..Nước Mỹ đã là quê hương thứ hai, đã thấm vào tim tôi bao tình cảm, bao gắn bó thân thương. Nhà của tôi đây, vùng Dallas Fort Worth tiểu bang Texas nơi tôi đã sống mấy chục năm cho đến bây giờ. Tôi yêu mến nơi này. Chồng thường hay trêu đùa:
– Đối với bà tiểu bang Texas đẹp nhất trong 50 tiểu bang nước Mỹ và nước Mỹ thì đẹp nhất thế giới luôn.
Thỉnh thoảng tôi đi thăm con ở tiểu bang Utah, California hay thăm em ở Edmonton Canada, ở lại một hai tuần tôi đã nhớ thành phố tôi ở, nhớ căn nhà của mình, nhớ sân trước vườn sau, nhớ chợ búa tôi thường đi. Khi đến ngày trở về, vừa đến phi trường Dallas Fort Worth tôi đã cảm xúc vui mừng đứa con đi xa được trở về nhà.
Tôi cũng từng mơ thấy mình trở về Việt Nam, chờ đợi tôi vẫn là cảnh cũ người xưa, vẫn là bao kỷ niệm của trước khi tháng Tư 1975 ập đến, chuyến bay đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất tôi có cảm giác sung sướng vui mừng được trở về nhà y như thế này. Nhưng đó chỉ là mơ thôi.
Thấy tôi bâng khuâng chồng hỏi:
– Bà nghĩ gì mà lặng người ra thế?
– Quê nhà, quê người. Tháng Tư vết thương không bao giờ lành. Tháng Tư vẫn mãi là trang sử buồn.
Rồi tôi tỉ tê:
– Chúng ta mấy triệu dân Việt lưu vong, bất kể người miền Nam thua cuộc hay bên thắng cuộc miền Bắc chắc rằng ai cũng có câu trả lời vì sao họ phải rời bỏ quê hương…
– Kìa, bà đang khóc đó sao?
Tôi lấy tay lau nước mắt ướt mi và cười thật tươi:
– Em khóc em buồn chứ. Xong rồi, em đang cười vui đây, 50 năm quê nhà quê người, quá khứ và hiện tại, mất mát đau buồn và thành quả nhận được. Em yêu hiện tại tốt đẹp này và ước mong tương lai tươi sáng tốt đẹp nhiều hơn nữa, cộng đồng người Việt chúng ta, các thế hệ cháu chắt chúng ta ở khắp nơi trên thế giới sẽ gặt hái được nhiều thành công trên mọi lĩnh vực, dù họ mang quốc tịch gì nhưng cội nguồn vẫn là người Việt Nam sẽ làm thơm danh người Việt Nam.
Nguyễn Thị Thanh Dương.
( Viết cho Tháng Tư 1975- 2025 )”
Chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.
Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn
Sương Lam
(Tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi-MCTN 759-ORTB 1190-4-30-25)
Sương Lam
Website: www.suonglamportland.wordpress.com
http://www.youtube.com/user/suonglam
THANH THANH – NGUYỄN VĂN PHƯỢNG*
NGUYỄN VĂN PHƯỢNG*
THANH THANH
Phượng ơi! Chính thực anh là ai?
Sứ-giả thiên-đình Thượng-Đế sai?
Hay một thiên-thần tình-nguyện xuống?
Anh-Hùng Dân-Tộc tái đầu-thai?
*Đại-Uý QLVNCH, từ trại An-Điềm
đến Trại “Đồng-Mộ” ngày 24-04-79,
chết tại “Nhà Trắng” ngày 10-10-80.
Anh là ánh đuốc giữa đêm tăm!
Nghệ-sĩ tài-ba rút ruột tằm!
Đại-diện muôn lòng đang uất nghẹn
Thét lên tiếng thét của hờn căm!
Như nhà thám-hiểm giữa rừng sâu,
Đánh rắn đầu tiên đánh đỉnh đầu!
Anh đã đâm lao vào tử-huyệt
Già Hồ — như hạ một con trâu!
Nhớ hôm “sinh hoạt” kiểm phê anh:
Anh đã công-khai chửi đích-danh!
Anh nhắc cho ghi từng điểm một
Vào trong biên-bản để chuyền quanh!
Có người cũng đã có chê-bai
Chính-sách lầm hư! chủ-thuyết sai!
Chống đảng, kình quyền, khinh cán-bộ!
— Đụng vào “lãnh tụ” thì chưa ai!
Bạn-bè nén hận trong cô-miên,
Nhưng chỉ mình anh dám nói lên!
Bản án tuyên cho đầu-đảng địch
Cũng là bản án tự anh tuyên!
Thế rồi anh bị chúng đưa đi!
Anh bị ra sao? bị những gì?
Anh đủ can-trường mà chịu đựng
Như bao lần trước đã kiên-trì?
Thế rồi… anh chết, chết âm-u
Trong gọng gông cùm trong biệt-khu
Trong trại kiên-giam trong cấm-địa,
Nói lên thân-phận — một tên tù!
Bao nhiêu viễn-vọng, những mê-đam,
Và những vần thơ anh đã làm…
Phảng-phất đâu đây trong gió núi,
Chân trời màu tím, sương trời lam…
Anh vừa đốt đuốc giữa đêm tăm,
Vừa viết hùng-ca, rút ruột tằm;
Anh chọn “huy-hoàng rồi chợt tối
Hơn buồn le-lói suốt trăm năm”!
Phượng ơi! Anh đã chẳng tham-sinh!
Đã tự nêu cao chí-khí mình!
Hơn kẻ quyền cao và chức trọng
Mà hèn, thì chỉ đáng chê khinh!
Phượng ơi! Anh đã sống anh-hùng!
Anh chết là niềm hãnh-diện chung!
Tất cả nhờ anh mà phấn-khởi,
Ngửng đầu đỡ ngượng với không-trung!
“Nhà Trắng” Tiên-Lãnh 2, 10-10-1980
THANH-THANH
| ReplyForwardYou received this via BCC, so you can’t react with an emoji |
HỒI KÝ Nhà Văn HỒNG THỦY: ĐỔI KIẾP

Hồi ký Hồng Thủy
Đời sống bận rộn với những hối hả của cuộc sống trên đất Mỹ khiến 50 năm qua nhanh đến không ngờ.
Nhớ ngày nào của tháng 4 năm 1975. Chúng tôi rời quê hương trong lúc dầu sôi lửa bỏng với một tâm trạng lo buồn cùng cực. Lo vì không biết tương lai sẽ đi về đâu. Buồn vì bỗng dưng phải rời bỏ tất cả. Bỏ cuộc sống yên bình, đầy đủ, sung sướng bao nhiêu năm qua; bỏ quê hương thân yêu với biết bao kỷ niệm từ thời thơ ấu; bỏ mẹ tôi và ông ngoại già yếu bơ vơ.
Mọi việc xảy đến bất ngờ tưởng như một giấc mộng hãi hùng.
Chồng tôi đang là Chỉ huy trưởng Trung tâm huấn luyện Hải Quân Cam Ranh. Chúng tôi được ở trong bán đảo Cam Ranh thơ mộng. Vùng bất khả xâm phạm, chỉ dành riêng cho các cơ quan thuộc quân lực VNCH nên rất riêng biệt và yên tĩnh.
Ngôi nhà tôi ở là một biệt thự rộng lớn được Hải Quân xây từ thời Pháp thuộc. Căn nhà nhìn ra bãi biển thơ mộng để mỗi tối khi màn đêm yên lặng tôi có thể nghe được tiếng sóng vỗ rì rào. Những đêm sáng trăng ngồi trên ban công, tôi say sưa ngắm mặt nước biển lấp lánh ánh trăng vàng, thoảng trong gió phảng phất hương thơm nhẹ nhàng của những cây dạ lý hương ở góc vườn. Khi hè đến, hai cây phượng trước sân nhà đua nhau khoe sắc thắm như chào đón những chú ve sầu ca hát rộn ràng. Mùa xuân những cây mai vàng nở hoa rực rỡ, rải rắc thấp thoáng trên những đồi cỏ hai bên lối đi vào bán đảo. Đời sống thật êm ả, thần tiên.
Bỗng một hôm nhà tôi đi họp ở Nha Trang về, sắc mặt anh rất buồn, anh nói với tôi mình sắp mất nước rồi. Tôi nghe tưởng như tiếng sét bất ngờ giáng xuống trên đầu.
Suốt cả tuần sau đó, anh ăn cơm rất vội vàng rồi vào trung tâm họp hành liên miên; khi anh về nhà là điện thoại reo liên tục không ngừng.
Một hôm, anh đang ăn cơm thì có điện thoại ông tướng vùng gọi, nói chuyện xong, anh ăn rất vội vã rồi lái xe vào văn phòng dù đã quá giờ làm việc. Mãi tới nửa đêm anh mới về nhà. Anh nói tôi lo thu xếp quần áo cho tôi và hai đứa con gái, ngày mai anh sẽ gửi ba mẹ con theo máy bay Không Quân về Sài Gòn trước. Nghe anh nói tôi ngạc nhiên, bàng hoàng như người từ trên trời rơi xuống. Tự nhiên tim tôi đâp dồn dập, tôi hỏi như người hụt hơi
– Tại sao, tại sao vậy anh?
Giọng anh nghẹn ngào
– Quân đội được lệnh phải buông súng và rút lui. Việt Cộng chiếm dần hết các tỉnh miền Trung rồi.
Tôi nói với anh, tôi không muốn xa anh, cho tôi ở lại bên anh; chồng đâu vợ đó, sống chết có nhau. Tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Anh nói với tôi thời gian cấp bách lắm rồi, phải khó khăn lắm anh mới xin được 3 chỗ trên máy bay cho ba mẹ con tôi quá giang. Tôi phải đi trước cho anh yên tâm. Ngày mai anh sẽ liên lạc với không quân Mỹ xin chỗ cho 2 con trai tôi quá giang về trước. Anh ở lại lo cho gần 4 ngàn nhân viên và khóa sinh di chuyển về sau. Nếu mẹ con tôi còn ở lại, anh sẽ bận tâm lo cho gia đình và không làm việc được.
Cả đêm đó tôi không ngủ, đồ đạc không được mang theo vì không có chỗ, chỉ một cái va li nhỏ với mấy bộ quần áo của 3 mẹ con mà tôi sắp mãi chưa xong. Quần áo bao nhiêu, biết mang cái nào bỏ cái nào. Tôi cứ cầm lên bỏ xuống, vừa làm vừa khóc, mặt mày ngơ ngẩn, tóc tai rũ rượi như con mẹ điên. Trời ơi cả một cái nhà to lớn như vậy, bao nhiêu vật dụng, đồ quí, mà tôi chỉ được mang theo có vài bộ quần áo thôi sao.
Mấy mẹ con tôi về Sài Gòn được đúng 3 hôm thì đường giây điên thoại Sài Gòn – Cam Ranh bất khiển dụng hoàn toàn. Tôi không làm cách nào liên lạc được với chồng tôi nữa, lòng tôi như lửa đốt, tình hình chiến sự càng ngày càng sôi động.
Khi nghe tin Việt Cộng đã chiếm Nha Trang tôi như người điên, tôi khóc lóc gọi điện thoại tứ tung cho những người bạn Hải Quân của chồng tôi làm việc ở Sài Gòn để hỏi thăm tin tức. Không ai cho tôi nguồn tin rõ ràng, ai cũng nói những lời an ủi mơ hồ cho tôi yên tâm. Tôi biết mạng sống của chồng tôi và các khóa sinh đang treo trên sợi tóc. Nha Trang – Cam Ranh quá gần, chỉ vài quả pháo kích là Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Cam Ranh biến thành tro bụi.
Suốt cả tuần tôi cứ ôm cái radio nghe tin tức và đọc kinh cầu nguyện liên miên. Cuối cùng chồng tôi và 4 ngàn khóa sinh cùng nhân viên cũng được tiếp cứu và đưa về Sài Gòn.
Ở Sài Gòn chồng tôi phải cấm trại lu bù, mỗi ngày thời gian được về nhà ăn cơm thật ngắn ngủi. Ăn xong phải vào trại liền. Chồng tôi luôn dặn dò những lời như trối trăn: Việt Cộng có thể tấn công Sài Gòn bất cứ lúc nào, nhiều cơ hội chúng sẽ vào theo ngả xa lộ Hàng Xanh, gần cư xá sĩ quan Thị Nghè là nơi gia đình tôi cư trú. Nếu như vậy, anh không thể trở về nhà lo cho tôi và các con. Anh sẽ phải cùng anh em chiến đấu, sống chết có nhau. Tôi phải tự lo cuộc sống không có anh, cố gắng nuôi con. Nếu Chúa thương cho anh còn sống, anh sẽ tìm cách liên lạc với tôi sau. Những lời dặn dò xé lòng đó làm tôi sống trong hãi hùng, lo sợ từng phút từng giây.
Chiều tối 29, đau xót thay, khi Việt Cộng trên đường tấn công Sài Gòn, tất cả quân nhân được lệnh tan hàng để lo di tản. Hải Quân được lệnh phải mang tất cả chiến hạm qua Phi Luật Tân để trao trả cho Hoa Kỳ, họ không muốn cho bất cứ chiến hạm nào lọt vào tay Cộng Sản.
Lúc đó gia đình tôi cũng chen chúc lên tầu một cách khó khăn như một thường dân vì anh là đơn vị di tản từ Cam Ranh về, không có tầu bè, không có bất cứ một phương tiện nào. Chúng tôi cùng đoàn người chờ đợi ở bến tầu, lũ lượt chen lấn nhau để lên một chiến hạm đang trong tình trạng sửa chữa ở Hải quân công xưởng. Tầu cố nổ máy để kéo lê giúp đoàn người đi tìm ánh sáng tự do dù không nước uống, không lương thực.
Ra đến Côn Sơn người Hạm trưởng định lái tầu quay trở lại vì bị áp lực của bà vợ đòi trở lại Sài Gòn. Bà có ông anh Việt Cộng làm lớn, bà hy vọng ông anh có thể giúp gia đình bà. Bà dọa nếu tiếp tục đi bà sẽ nhẩy xuống biển tự tử. Khi biết ông Hạm Trưởng sẽ lái tầu quay trở lại, các quân nhân đi quá giang trên tầu rất bất mãn, một số quân nhân Nhảy Dù nóng nẩy đòi giết ông Hạm trưởng vì họ không muốn chiếc tầu với gần 5 ngàn sinh mạng muốn đi tìm tự do phải quay trở lại sống dưới chế độ Cộng Sản. Thấy tình hình quá căng thẳng, chồng tôi là sĩ quan thâm niên nhất trên tầu phải ngăn cản và đứng ra dàn xếp. Anh liên lạc với ông Tư lệnh Hải quân đang ở trên một cái tầu khác xin phương tiện cho ông Hạm trưởng và gia đình ông trở lại Sài Gòn bằng 1 cái tầu nhỏ. Sau đó nhà tôi được lệnh làm Hạm trưởng lái chiếc tầu qua Phi Luật Tân. Tại đây tất cả tầu của HQ VN di tản đã tụ tập tại Subic Bay để giao trả lại cho Hải quân (HQ) Mỹ. Đoàn người di tản được chuyển sang một thương thuyền thật lớn của Mỹ để đưa đến trại tị nạn ở đảo Guam.
Tôi không sao quên được phút cuối cùng khi các quân nhân Hải quân VNCH rời tầu để chuyển giao lại cho HQ Mỹ. Mọi người đã làm lễ chào Quốc Kỳ VNCH một lần chót. Bài Quốc ca vang lên trong nghẹn ngào, mọi người nhìn lá cờ vàng ba sọc đỏ đang bay phất phới trên đài chỉ huy bị từ từ kéo xuống, ai cũng ngậm ngùi chảy nước mắt. Giã từ Việt Nam! Giã từ đất nước thân yêu!
Tất cả các quân nhân được yêu cầu cởi quân phục bỏ lại trên tầu để thay bằng quần áo dân sự. Nhìn anh buồn bã cởi bỏ bộ quần áo HQ tác chiến mầu xanh xám, bộ đồ anh mặc hàng ngày đi làm suốt bao nhiêu năm trời, lòng tôi đau thắt lại. Anh cầm bộ đồ và cái mũ trong tay ngần ngừ một lát, tôi không sao quên được nét mặt anh lúc đó, sau cùng anh buông tay cho bộ đồ và cái mũ rơi trên sàn tầu, và xách mấy túi hành lý bước vội đi như chạy trốn. Tôi dắt các con đi theo nước mắt ràn rụa. Tôi ngoái lại phía sau nhìn bộ quần áo và cái mũ của anh nằm trơ trọi trên sàn tầu, tôi có cảm tưởng như mình đã bỏ rơi một người thật thân yêu gần gũi. Nghĩ ngợi 1 giây, tôi vùng chạy trở lại, gỡ bộ lon của anh, bộ lon mà anh đã phải đánh đổi với hơn 20 năm binh nghiệp. Nhét vội bộ lon vào túi xách, tôi chạy theo anh cho kịp với đoàn người di tản đang xếp hàng để lên bờ. Bắt đầu từ giờ phút đó tôi mang cảm giác của một người vừa đổi kiếp.
Kiếp trước là người có một cuộc sống thật đầy đủ hạnh phúc, bỗng dưng “bừng con mắt dậy, thấy mình tay không”. Danh vọng tiền bạc biến hết. Hai vợ chồng, 4 đứa con thơ: đứa lớn nhất 13 tuổi, bé nhất 8 tuổi, phải rời bỏ quê hương, ra đi với 2 bàn tay trắng theo giòng người di tản không biết sẽ trôi dạt đến đâu.
Cũng may nước Mỹ mở rộng vòng tay chào đón những người tị nạn. Cho dù guồng máy chính trị của đất nước này đã dự phần trách nhiệm làm chúng tôi mất quê hương về tay Cộng Sản. Nhưng những người dân Mỹ tốt bụng, họ có trách nhiệm gì với chúng tôi đâu mà vẫn cố gắng giúp đỡ chúng tôi trong những bước đầu khó khăn, không cửa không nhà, không công ăn việc làm. Họ đón chúng tôi bằng cảm tình nồng ấm. Tôi nhớ mãi nụ cười của một bà lão da đen thật hiền hòa khi thấy tôi đi qua trước mặt bà. Những bàn tay nhỏ bé của mấy em học sinh, trên xe bus vàng của nhà trường, vẫy vẫy tôi, khi tôi đứng đợi đèn xanh để qua đường. Một người đàn ông Mỹ ân cần hỏi tôi có cần ông ta giúp khi thấy tôi khệ nệ ôm bịch đồ ăn mới mua ở chợ ra xe. Những cử chỉ nhỏ của thuở ban đầu đó, là niềm an ủi, niềm vui cho những kẻ tha hương chân ướt chân ráo đến một đất nước xa lạ.
Nhờ có bà dì ruột đã ở sẵn bên Mỹ vì chồng bà làm cho tòa Đại Sứ VN ở Washington DC, chúng tôi được trưởng nam của bà là Nguyễn Hoàng Diệu có quốc tịch Mỹ bảo lãnh gia đình và cho chúng tôi được tá túc trong nhà bà trong thời gian đầu khi mới đặt chân lên đất Mỹ. Hai vợ chồng, 4 đứa con ở chung trong một phòng dưới basement nhà bà. Tuy chật chội nhưng ấm cúng tình gia đình, nên chúng tôi rất vui mừng.
Khi tôi kể chuyện về thời gian đầu cho 1 cô bạn thân nghe, cô ấy đã trêu tôi “Trong thời gian ở chung như vậy làm sao hai vợ chồng mi làm ăn?” Tôi phì cười và ngẩn mặt ra “Ừ nhỉ, nếu tôi nhớ không nhầm thì suốt thời gian dài ở nhà bà dì, vợ chồng chúng tôi đã quên luôn “cái khoản đó”.
Ban ngày 2 vợ chồng lo đi lao động. Vợ đi làm bồi cho một coffee shop. Chồng làm cashier cho một tiệm ăn Hy Lạp. Cả 2 vợ chồng về đến nhà là mệt nhoài, lo cho 4 đứa con và cũng phải phụ lo cơm nước với bà dì. Tối đến vợ chồng con cái 6 mạng chui vào phòng ngủ chung, “làm ăn” gì nổi cơ chứ, và “làm ăn” cách nào, khi 4 đứa con với 8 con mắt tinh như ma ở xung quanh trong 1 cái phòng chả rộng rãi gì cho lắm. Lúc đó chúng tôi còn trẻ, vợ 34 tuổi, chồng mới có 43. Vậy mà cuộc sống bận rộn khiến chúng tôi chả nghĩ gì đến những chuyện “trần tục” đó, và quả thật cũng không thấy cần thiết nữa.
Sau khi dành dụm được 1 số tiền nhỏ, chúng tôi mới dọn ra riêng. Chồng tôi là một người cha thương con và lo cho con vô cùng. Cả 2 vợ chồng tôi đều coi việc lo cho các con là ưu tiên số 1. Hồi ở VN, cả 4 đứa con tôi đều học đàn piano. Cuộc di tản làm việc học đàn của các cháu gián đoạn gần hai năm trời. Sửa soạn ra ở riêng, chồng tôi nghĩ ngay đến việc phải cho các cháu được tiếp tục học đàn vì gián đoạn lâu quá sợ các cháu sẽ quên hết. Vì việc học đàn của các con, chúng tôi phải thuê nhà riêng để ở thay vì có thể ở apartment, mỗi tháng tiền thuê rẻ bằng nửa tiền thuê nhà, nhưng họ không cho phép đánh đàn vì sợ ồn làm phiền hàng xóm.
Có nhà ở rồi chúng tôi tính tới việc mua đàn cho các con tập dượt. Vì học đàn mà không có đàn để tập hàng ngày thì cũng như không. Việc mua đàn mới là một sự liều lĩnh ít ai dám làm vào thời điểm đó. Khi dọn ra ở riêng, sau khi mua 1 cái xe cũ để gia đình có phương tiện di chuyển, vốn liếng chúng tôi dành dụm trong thời gian ở nhờ nhà bà dì và tiền cơ quan thiện nguyện cho khi mới tới còn chưa được 2 ngàn đô. Chúng tôi đi kiếm mua 1 cái đàn cỡ trung bình giá là 1600 đô. Chúng tôi xin mua trả góp. Nhìn số lương của chúng tôi mà phải nuôi tới 4 đứa con, chủ tiệm đàn nói phải có người co-sign vì không đủ điều kiện để ký giấy mua 1 mình.
Tôi nhờ cậu em bảo lãnh gia đình tôi co-sign dùm cho chúng tôi mua đàn cho các cháu thì cậu tròn mắt lên ngạc nhiên nhìn tôi như nhìn một con quái vật và hỏi tôi bằng 1 giọng thật gay gắt “Anh chị có điên không? Bây giờ lo sao cho đủ ăn đủ mặc là may, còn bày đặt cho con học đàn. Bộ chị tưởng anh ấy vẫn còn là Đại tá HQ à? Em còn không nghĩ đến chuyện cho con em học đàn, huống hồ anh chị, mới chân ướt chân ráo đến đây, còn nghèo mạt rệp mà đã tính chuyện nuôi con như thời vàng son ở VN. Dẹp những chuyện viễn vông đó đi.” Biết là cậu em nói rất đúng, nhưng tôi cũng tủi thân và dù cố kìm hãm mà nước mắt vẫn ứa ra. Tôi kể lại cho nhà tôi nghe rồi hai vợ chồng bàn tới bàn lui, cuối cùng nhà tôi quyết định là vẫn mua đàn và trả cash luôn hết. Lý do vì chúng tôi nghĩ âm nhạc rất cần thiết cho đời sống, nó làm cho đời sống thăng hoa và tâm hồn con người phong phú hơn. Nếu các con tôi có thú vui giải trí là âm nhạc thì sẽ không còn thì giờ rảnh rỗi đàn đúm bạn bè để có thể sa ngã vào những thói hư tật xấu của tuổi trẻ.
Sau khi mua đàn cho các con, vốn liếng gia đình tôi còn đúng 90 đô. Chúng tôi đã tạo dựng cuộc sống mới trên đất Mỹ với con số khởi đầu là 90 đô. Mua đàn cho các con rồi thì phải lo tìm thầy dậy đàn cho chúng. Chúng tôi đã may mắn tìm được 1 bà giáo dậy đàn người Nhật. Bà Ellen Sakai rất tốt bụng, bà bằng lòng đến tận nhà dậy cho 4 cháu, mỗi tuần 2 giờ, mỗi đứa được học nửa giờ và chỉ lấy nửa giá là $10/1 giờ, thay vì giá của bà là $20/1giờ. Tiền lương 2 vợ chồng tôi vừa đủ cho việc trả tiền nhà, điện nước đổ xăng và tiền chợ. Bây giờ mỗi tháng phải chi thêm 80 đô tiền học đàn cho các con. Kiếm đâu ra bây giờ? 80 đô thời đó khá lớn, vì lương tối thiểu có $2.10/1 giờ rồi còn phải trừ thuế nữa.
Cuối cùng tôi kiếm được việc làm thêm ngày cuối tuần, dọn nhà cho một bà khách hàng người Mỹ vẫn đến coffee shop tôi làm uống café. Bà ấy bằng lòng trả tôi $20 cash mỗi lần đến dọn nhà, lau chùi, hút bụi cho bà Tôi mừng húm nhận lời liền. Tôi vui vẻ, hào hứng khi hút bụi, lau chùi cửa kính cho căn nhà rộng lớn của bà không nề hà công việc vất vả. Nhưng khi phải dọn dẹp phòng tắm và cúi xuống lau cái bồn cầu dù rất sạch sẽ, nước mắt tôi bỗng ứa ra. Tôi còn nhớ, tôi đã đóng kín cửa, đứng khóc lặng lẽ một mình rất lâu khi nghĩ đến những ngày vàng son ở VN và nghĩ đến thân phận mình bây giờ. Càng nghĩ, càng tủi thân và cứ đứng khóc mãi. Hôm đó tôi về nhà, lòng nặng trĩu u sầu. Nhưng buổi tối, khi nghe tiếng đàn réo rắt từ những bàn tay nhỏ bé của các con, tôi bỗng vui ngay và tự nhủ lòng “mình hy sinh cho các con được tiếp tục cuộc sống đầy đủ như những ngày còn ở VN, thì mình phải cảm thấy hài lòng và hãnh diện chứ, sao lại tủi thân và buồn!”
Từ đó, mỗi tuần khi dọn nhà cho bà khách hàng người Mỹ, đến lúc phải chùi cầu tôi không cảm thấy buồn nữa mà ngạc nhiên thấy mình rất vui vẻ và miệng còn hát líu lo. Tôi tiếp tục công việc dọn nhà cho tới hơn 1 năm sau, khi tôi học xong nghề Cosmetologist và đi làm rồi tôi mới “say goodbye” bà khách hàng của tôi.
50 năm qua, đời sống đã ổn định, các con đã thành đạt. Đời mình đã bước vào tuổi hoàng hôn, có thể “chợt tắt” bất cứ lúc nào. Tôi vẫn không quên được cái “thuở hàn vi” đó và cảm thấy thật hài lòng là vợ chồng tôi đã cố gắng hết mình để lo tròn bổn phận và trách nhiệm với 4 đứa con thân yêu, để chúng bước vào đời thật vững chắc và toàn vẹn.
Hồng Thủy

CHÙM THƠ CAO MỴ NHÂN: TẢN MẠN VUI VỀ CHUYỆN XƯA: BƯU ĐIỆP “TẠ TỪ” – A I. VÀ ANH – KHÓC CÙNG NIÊN KỶ.

BƯU ĐIỆP “TẠ TỪ” – CAO MỴ NHÂN
===
Thưa quý vị
Ngày xưa, trước 1975, tất cả các Phòng, Ban đơn vị đều có BAN VĂN THƯ để nhận công văn ĐẾN và chuyển công văn ĐI.
Phòng, Ban đơn vị nào cũng có nhân viên thảo văn thư, quý Đơn vị trưởng sẽ duyệt lại, ký tên, nhân viên đóng dấu, ghi số công văn rồi gởi đi .
Bấy giờ Cao Mỵ Nhân hay tự ý viết các công văn liên hệ tới công tác xã hội của mình, nên các hình thức như CÔNG ĐIỆN, BƯU ĐIỆP, SỰ VỤ LỆNH vv…thảo xong, đưa nhân viên đánh máy, rồi ký gởi đi, để không phải sửa lại, thay đổi ý kiến …
Do đó công việc phần hành văn thư rất thích cái tính ôm đồm, ham hố và nghịch ngợm của Cao Mỵ Nhân, Trưởng Phòng Xã Hội QĐI/QKI .
Một hôm, cô thư ký chuyên thảo văn thư ” thách ” CMN làm một bài thơ với hình thức BƯU ĐIỆP TÌNH YÊU.
Thế thì Cao Mỵ Nhân thảo ngay, với đầy đủ chi tiết hình thức một bản BƯU ĐIỆP , nên buộc lòng CMN phải ghi đủ các điều trích dẫn .
Vậy thưa các chữ in hoa, chính là của mẫu mã BƯU ĐIỆP bình thường. Chớ quý vị ngó vào các điều khoản chuyển đi, e khiếp đảm vì sao mà người viết ham hố thế .
Xin mời đọc, và bỏ qua cho cái lỗi ” tầm phào ” của Cao Mỵ Nhân tôi nha .
BƯU ĐIỆP ” TẠ TỪ “
NƠI GỞI: Người yêu đã sang sông
Không mong NƠI NHẬN : Tạc trong lòng
Thiệp hồng THÔNG BÁO: Ân tình hết
XÁC NHẬN: Thôi đừng nhớ với mong
Điện tín về anh KHẨN cấp kỳ
Tình chưa tuyệt vọng đã sầu bi
Bên sông nức nở vài tơ liễu
Lời MẬT đường đưa tiễn chuyến đi
BẢN VĂN từ tạ gởi cho nhau
Với một tiêu đề hẹn kiếp sau
Dang dở kiếp này xin xoá bỏ
Ngàn năm ấp ủ ảnh hình đầu
Ảnh hình THỨ NHẤT khắc trong tim
Đã nhạt phai theo mỗi thoáng nhìn
Mắt biếc tham lam ôm vũ trụ
Tình yêu chân thực tưởng là điên
Hình ảnh THỨ NHÌ vụt thoáng qua
Bao nhiêu hình ảnh cùng mơ hoa
Bấy nhiêu kỷ niệm toàn hư ảo
Vì một tình yêu mới bỏ xa
Trang giấy THỨ BA chép chuyện buồn
Vòng tay thả lỏng những hoàng hôn
Từng đêm rét mướt và đau khổ
Tê buốt vai gầy, nặng nhớ nhung
Rồi mối tình tên gọi THỨ TƯ
Tưởng mùa đông đến, khiến bơ vơ
Tâm tư băng giá, hoa đời khép
Héo nụ tầm xuân mãi đợi chờ
Tình viết sau cùng là THỨ NĂM
ÔI bao ẩn ức, bấy âm thầm
Cho tôi suy tụng ân tình cũ
Để góp đèn hoa kết gối chăn …
(KBC 4109- 19/6 /1972)
CAO MỴ NHÂN (HNPD)
A I. VÀ ANH. – CAO MỴ NHÂN
Một mình ngó mãi không gian
Thấy con chim én vượt đàn, đăng cao
Chim ơi, bay tới phương nào
Mùa xuân đang ở chốn dào dạt mơ
*
Một mình hỏi khẽ, ngẩn ngơ
Người trăm năm cũ bây giờ còn không
Ô hay, lời lẽ điên khùng
Hay trong tư tưởng mịt mùng a, i ( AI )
*
Thôi rồi hớn hở, sầu bi
Âu lo, trách cứ , điều gì hoang mang
Nhanh như trái đất tan hoang
Vượt mau trí tuệ nhân gian vạn đời
*
Người trăm năm thốt ra lời
Giấu em tình cũ đất trời hiện sinh
AI ơi, anh đã hiển linh
Bao nhiêu ký ức tạo hình thực hư
*
Từ đây thời khắc vô tư
Trăm năm, vạn chuyện sẽ như hiện hành
AI về tổng hợp cùng anh
A, I mở cửa trời xanh tuyệt vời …
Utah 17 – 4 – 2025
CAO MỴ NHÂN (HNPD)
20 – 4 – 2025
KHÓC CÙNG NIÊN KỶ. CAO MỴ NHÂN
Trăng lênh đênh trôi lãng đãng trở về
Cho thấy được cuộc đời là hư ảo
Mây lướt thướt bay chập chờn phiền não
Mới bình minh sao nhuốm vẻ hoàng hôn
*
Khói sương tan trong bát ngát linh hồn
Em mờ mịt tháng năm đầy quá khứ
Tuổi anh lỡ trải dài đường viễn xứ
Đừng nói thêm quê quán chốn hoang liêu
*
Biết đâu tìm ân nghĩa với thương yêu
Tình đã lạt phai tưởng lầm trễ hẹn
Không có gì sao thế gian bịn rịn
Chuyến đò vơi trăng cạn nỗi riêng tư
*
Quán thu phong hơi lạnh buốt bao giờ
Ai viết dở dang chờ người nhuận sắc
Vách lá ẩm ướt lời xưa mất mát
Ta đang cùng niên kỷ khóc chơi vơi…
CAO MỴ NHÂN
22 – 4 – 2025
ĐỖ THÔNG MINH – Thư Đông Kinh Mới 1-5-2025
KIỀU MỸ DUYÊN SHOW: Cái Nhà Là Nhà Của Ta & Và Nhiều Thông Tin Khác.
VĂN THI SĨ CHINH NGUYÊN, NHẬN ĐƯỢC BẰNG KHEN, VINH DANH NHIỀU NHẤT! TRONG MỘT NGÀY!

Hôm qua, là ngày bận rộn cho Tang quyến Ông Chinh Nguyên và cho Cơ sở thi văn Lạc Việt, vì tới tấp nhận được bằng khen, sáng trên Quận, chiều ở Thành phố.
Trong Một Ngày! Ông Chinh Nguyên, Văn Thi Sĩ Việt, Đã Nhận Được Bằng Vinh Danh Nhiều Nhất! Từ Cấp Thành Phố, Đến Cấp Quận Hạt. Trước Đó Chính Quyền Cấp Tiểu Bang, Cũng Đã Gởi Nhiều Bằng Khen Đến Tang Gia Và VTLV.

Khắp Nơi Ghi Nhận, Sự Đóng Góp Của Ông.
Vào đầu tháng 4 này, nhà văn Chinh Nguyên, đã giã từ gia đình cùng bạn bè, Văn nghệ sĩ bốn phương, tìm về dưới chân Chúa, để lại bao niềm thương tiếc cho thành viên Văn Thơ Lạc Việt cùng bằng hữu. Ông là nhân vật đã tiếp bước nhà văn Đông Anh trong 13 năm, với chức Chủ Tịch VTLV, lèo lái con thuyền vững vàng trên Dòng Sông Văn học Nghệ Thuật Việt Nam nơi đất Mỹ, cụ thể là Vùng Thung Lũng Hoa Vàng, Bắc California. Những thành quả tốt đẹp về con đường gìn giữ bản sắc Dân Tộc đó, đã được chính quyền địa phương công nhận và tặng bằng khen thưởng.
Giám sát viên Betty Dương, đã đề xuất và Hội Đồng Giám Sát Quận hạt Santa Clara, đồng thuận cấp bảng Vinh Danh cho Cố Nhà Văn Chinh Nguyên.
Sáng Thứ Ba, ngày 22 tháng 4 năm 2025, hồi 9.30, tại Phòng Họp Board Chambers Quận hạt Santa Clara, số 70 W.Hedding, Trong cuộc họp của Hội Đồng Giám Sát Hạt Santa Clara, với phần Adjournment in Memoriam, Bà Betty Dương, thay mặt Hội Đồng, trao Bảng Vinh Danh cho Bà Thanh, Vợ của người quá cố Chinh Nguyên, cùng gửi lời chia buồn sâu sắc đến Gia đình Văn Thơ Lạc Việt. Giây phút cảm động nhất, cả Hội Đồng Giám Sát, đều rời khỏi ghế, xuống bắt tay chia buồn, chụp hình chung với Tang gia và VTLV.
Ông Lê Văn Hải đương kim Hội Trưởng VTLV và Tiến sĩ Nguyễn Hồng Dũng, đã vắn tắt, bày tỏ Lời Cám ơn đến Chính quyền và mọi người tham dự.
Tại Hội Đồng Thành Phố San Jose.

Chiều cùng ngày, trên 20 thành viên và thân hữu đã tham dự, trong giây phút trang trọng, Thành phố vinh danh người quá cố. Anh Hội trưởng, thay mặt Tang quyến và VTLV, có lời cám ơn Hội đồng thành phố như sau:
“Cảm tạ hội đồng thành phố San Jose, đã vinh danh Ông Chinh Nguyên, cựu chủ tịch hội văn thơ lạc việt, 13 năm. Ông là một nhân sĩ, chiến sĩ văn hóa, có nhiều đóng góp tích cực trong cộng đồng người Việt chúng tôi, tại vùng Bay Area, California, nói riêng, và cộng đồng người Việt Hải Ngoại nói chung. Sự vinh danh của Ông hôm nay, khuyến khích người lớn giữ gìn ngôn ngữ, “tiếng Việt còn, nước Việt còn!” Khuyến khích con em chúng tôi, vừa hòa đồng trên đất Mỹ, vừa giữ bản chất tốt đẹp của người Việt. Một lần nữa, tôi xin được thay mặt Hội, thay mặt Tang gia cảm tạ buổi vinh danh này. Cám ơn nhiều!”
Sau đây là một vài hình ảnh phần trao Bảng Vinh Danh cho ông Chinh Nguyên, tại Quận hạt và Thành phố, xin được Chia sẻ Cùng Quý Vị và Các Bạn.
Thân ái
Mpd&lvH









