THƠ VĂN VÕ ĐẠI TÔN -LỜI NGƯỜI VỢ THƯƠNG BINH VNCH & NGHĨ VỀ NGƯỜI VỢ LÍNH
LỜI NGƯỜI VỢ THƯƠNG BINH VNCH
(Kính tặng Quý Chị-Em một đời tận tụy thủy
chung lo cho người chồng Thương Binh từ
trận chiến trở về…)
Võ Đại Tôn
*
Bao năm trời chiến chinh
Từng đêm nghe tiếng súng.
Lòng thảng thốt, em nguyện lời kinh tụng
Cầu xin anh được mọi an bình.
Ôm con vào lòng, trong nỗi nhớ lặng thinh,
Luôn mong đợi phút anh về, chiến thắng.
Dòng lệ âm thầm giữa đời mưa nắng
Còn tình nhau, nuôi sống tâm hồn.
Rồi một chiều mưa, trong bóng xế hoàng hôn
Tin anh về, xác thân không toàn vẹn!
Em nhìn anh, cố lau dòng lệ nghẹn,
Anh vẫn còn! – Như thế đủ cho em.
Đồng đội bao người vào Quân Sử, không tên,
Anh còn sống – Đời cho em diễm phúc.
Hoàng Tử lòng em, dù máu loang quân phục,
Vẫn còn nguyên Tình đẹp thuở anh đi.
Con nhìn anh, đầu thơ dại nghĩ gì,
Như muốn hỏi: – “Ông nào đây, xa lạ!”.
Em khẽ nói: – “Con hãy nhìn tượng đá
Dù rêu mờ, vẫn đẹp giữa trời xanh”!
Xác thân anh không còn được nguyên lành
Em vẫn sống cùng tim anh trọn kiếp.
Hơn 40 năm – bao nhọc nhằn nối tiếp
Sá gì đâu! – Ta mãi sống bên nhau.
Quê hương mình còn bao nỗi khổ đau
Ta cố sống – dù cháo rau từng bữa.
Dìu nhau đi, như ngày xưa đôi lứa
Dưới hàng me tan học, bước chân về.
Xin anh cười, em vẫn vẹn câu thề
Bờ hạnh phúc, thuyền em không tách bến.
*
Một ngày mai bình minh rồi sẽ đến
Quê Hương mình vui hát bản Tình Ca.
Em tưởng thấy nạng gỗ nở thành hoa
Anh chiến thắng, cùng Toàn Dân trẩy hội.
Em và con dìu anh chung bước vội
Trên đường Xuân Tổ Quốc đã hồi sinh.
Anh vẫn còn tình đồng đội bên mình
Và có cả em-con cùng chia sống.
Dù thân tàn, anh mãi là hoa mộng
Một đời em: – Xin hãnh diện về anh,
Người Thương Binh, chung máu tạo Công Thành!
Võ Đại Tôn – Hải Ngoại.
***
NGHĨ VỀ NGƯỜI VỢ LÍNH
Võ Đại Tôn
Đêm xứ người, trời bỗng nhiên trở lạnh. Chập chờn qua khói thuốc còn
đọng lại trong căn phòng âm u, tôi nghe tiếng nấc của bà quả phụ Thiếu
Tướng Lê Văn Hưng thoát ra từ cuộn băng ghi âm : “Xin mình cho em
chứng kiến giây phút cuối cùng của mình…”. Một tiếng đạn nổ, khô khắc
vang lên từ ống loa hay từ một thuở nào trong cơn biến loạn. Có lẽ cũng từ
lòng tôi. Ngậm ngùi, tôi đứng dậy tắt máy. Nhìn ra khung cửa mù sương,
trí tưởng nhạt nhòa lại đưa tôi về một vùng trời hẻo lánh Tiền Giang (Gò
Công) với khu đồn Giồng Đình bó rọ trong mấy vòng kẽm gai hoen rỉ và
mười sáu quả lựu đạn cuối cùng. Nghĩa Quân Lê Văn Hùng và người vợ
lính Phạm Thị Thàng. Hơn mấy chục năm về trước, thuở tóc tôi chưa đau
từng sợi bạc. Quân ta tăng viện, chiếm lại khu đồn sau trận tiến công biển
người của địch. Trong khói lửa ngập vùng, hỏa châu bừng sáng, tiếng nấc
của thương binh và tiếng vặn mình của gỗ sắt hòa lẫn với tiếng nổ rời rạc
của vài viên đạn gặp lửa bùng lên. Tôi nghe anh Phó Đồn cụt chân kể lại : –
sau khi chồng bị tử thương, chị Thàng ẳm hai con nhỏ bị thương núp sau ụ
đất với một thùng lựu đạn 16 quả. Cánh tay của người vợ lính vung lên,
từng tiếng nổ ầm, át cả tiếng khóc trẻ thơ. Mười lăm quả lựu đạn vút đi,
ngăn chân biển địch.
Thùng lựu đạn chỉ còn đây một quả
Em dâng anh với cả tình yêu.
Chị Thàng đã tự sát cùng với hai con trẻ để đi theo chồng là Nghĩa Quân
Lê Văn Hùng vào cõi vĩnh hằng, cô đơn, côi cút và âm thầm trong cuộc
chiến. Người vợ lính đã nuôi con bằng gạo Quân Tiếp Vụ, hạnh phúc bình
thường qua bữa cơm với cua đồng cá nội. Ảnh của chị đã được treo lên tại
góc đường Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt ở Saigon một thuở nào giữa
dòng người thờ ơ qua lại. Người phụ nữ miến Nam với nụ cười đơn sơ chất
phác, e ấp qua mảnh khăn rằn. Từ Bến Hải đến Cà Mau, bước chân của
người vợ lính ẳm con đi theo chồng khắp bốn vùng chiến thuật. Không có
những móng chân đỏ hồng nhưng đã tạo nên những vần Thơ dường như
huyền sử.
Tôi quay lại bấm máy. Tiếng nói của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn vang lên qua
từng loạt đạn nổ … “Thiếu Tướng biểu y lệnh hả Chị ? Dạ, tôi sẵn sàng…”
Tôi lại tắt máy, không dám nghe nữa, có lẽ vì mặc cảm tự ti, hay thấy mình
quá nhỏ bé trước những tiếng vọng anh hùng. Lại châm thêm điếu thuốc,
ngọn đồi Chu Prao hiện về. Người nữ sinh sắc tộc Thái Trắng sinh tại Đơn
Dương, hoa khôi Đà Lạt một thời với tên Đèo-Nàng-Hoa. Lấy chồng là
Trung Sĩ Biệt Kích Trường Sơn, tên Neo Krông, da sạm đen với bắp tay
cuồn cuộn như một nhánh cây rừng. Trong một lần đi toán, Neo Kkrông đã
không về lại. Tặng tiền tử của chồng cho một viện mồ côi, Đèo-Nàng-Hoa
đã đi tu và xin chuyển ra làm việc trong trại cùi ở Qui Nhơn. Có một lần tôi
gặp lại nàng khi tôi đến thăm mộ Hàn Mặc Tử. Người nữ sinh vợ lính thuở
nào như bóng của huyền thoại đã trở thành Dì Phuớc. Nhìn cặp mắt đen
mà nghe cả tiếng thông reo. Bàn tay của Dì Phước Đèo-Nàng-Hoa đã bắt
đầu ửng đỏ bệnh phong, sự thật hay do tôi tưởng tượng ? Khi ra khỏi trại
cùi, tôi không dám quay nhìn lại, tâm hồn của người vợ lính bình thản đã
nạm vàng trong khi bóng tôi bên đường chỉ là cát bụi. Tiếng thơ của Hàn
Mặc Tử lại vọng qua gió thổi rì rào : “Run như run hơi thở chạm tơ vàng”.
Tiếng của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam trầm buồn nhưng cương quyết
: “Làm tướng mà không giữ được nước được thành thì phải chết theo thành
theo nước…”. Tôi nghe mủi lòng rưng rưng. Hình ảnh của người vợ lính
ven sông Thu Bồn dắt con qua bao chuyến tàu chợ từ Quảng Nam ra miền
Bắc tìm chồng trong tù gọi là “cải tạo”. Nước mắt âm thầm chảy xuống
dặm đường oan nghiệt, chân giẫm lên sỏi đá chia lìa. Một gói đường phèn,
một lon muối ớt, với tất cả tình thương mộc mạc, đơn sơ như thửa ruộng
bờ đê, chắt chiu từng đồng, lặn lội gần một tháng trường gian khổ để chỉ
được vài ba tiếng đồng hồ im lặng nhìn con, nhìn chồng tả tơi trong manh
áo tù không án. Tù của một giai đoạn lịch sử oan khiên, tù của một chế độ
bạo tàn, mà người mẹ và vợ lính không bao giờ hiểu nghĩa. Gần suốt đời
cam phận bóng mờ di chuyển theo chồng qua bao trại gia binh, sinh con
trong những khu đồn hẻo lánh, để rồi hôm nay bên cạnh tên cúng cơm lại
bị ghi thêm hai chữ “Vợ Ngụy” ! Từ ngữ sao mà cay nghiệt, nặng trĩu hận
thù!
Người vợ lính chẳng hiểu vì sao ?
Có người cầm tấm thiệp mời dự Ngày Quân Lực, mấy chục năm rồi xa Tổ
Quốc, nhếch môi phán rằng : Quân với Lực làm gì nữa, phí một ngày đi chơi
cuối tuần ! – Tôi cũng cầm tấm thiệp, vặn máy tăng âm cho tiếng vang từ
cuộn băng bừng lên, căn phòng dồn dập tiếng đạn xa xưa … Tôi ôm đầu,
quặn đau cả lòng. Từ trong tâm tưởng, tôi nghe có tiếng bước chân âm
thầm của những người mẹ và vợ lính. Phạm thị Thàng, Đèo-Nàng-Hoa… và
hàng triệu bóng dáng phụ nữ Việt Nam một thời khói lửa, son sắt thủy
chung, đang nhìn tôi qua màn sương lạnh. Nỡ nào quên tình đồng đội,
quên những người mẹ và vợ lính đạm bạc, không cần lịch sử ghi danh, đã
và đang khóc, thương con thương chồng cùng thương Nước với tấm lòng
biển rộng trời cao ! Hình ảnh của người mẹ và vợ lính sống mãi trong Hồn
Dân Tộc với niềm hãnh diện cô đơn.
Riêng tại vùng trời lưu vong hải ngoại sau ngày mất Miền Nam 30.4.1975
trong số gần cả triệu người đã tìm được đường sống qua bao cảnh chết
tang thương để mong thoát sự bạo tàn của chế độ cộng sản, lại có thêm
những người vợ “lính Phục Quốc”. Ngoài một số cựu quân nhân QLVNCH
tâm nguyền tiếp bước hành trình, có những thanh niên chưa từng nhập
ngũ vì trong thời chinh chiến tại miền Nam vẫn còn niên thiếu, vào thập
niên 80 đã trưởng thành tại nhiều quốc gia tạm dung, tình nguyện gia nhập
vào các Phong Trào Kháng Chiến Phục Quốc (Úc Châu – Hoa Kỳ – Âu
Châu) trở về lại quê hương xuyên qua đường biển, hoặc đường rừng từ
Thái-Lào, từ giã những người vợ trẻ bơ vơ nơi xứ người. Những anh hùng
Phục Quốc đầu tiên này, một số đông đã bị tử thương trên đường xâm
nhập, một số khác đã sa cơ tại biên giới Lào-Việt, bị cộng sản VN giam cầm
đày đọa, chết dần mòn trong lao tù vì bệnh hoạn, thương tích, tra tấn,
hoặc bị thủ tiêu tàn nhẫn, hoặc bị tử hình không cần án xử. Những người
vợ Kháng Chiến Quân tự nguyện này vẫn âm thầm nuốt nước mắt nuôi
con, bơ vơ nơi xứ người đầy Tự Do Nhân Bản. Mỗi người “vợ Phục Quốc”
này mang một cảnh đời cô đơn trong nghĩa tình chung thủy, chẳng hề than
thở cùng ai. Và đến nay, mấy chục năm đã trôi qua, không còn ai nhắc đến
những người “Vợ Lính Phục Quốc ” này !.
Rồi một ngày không xa, tôi cầu mong sẽ được vô vàn diễm phúc đứng bên
cạnh đường lịch sử vinh quang rợp bóng Cờ Vàng trên quê hương để ngắm
nhìn các Mẹ, các Chị, các Em, mỉm cười trong ân nghĩa Tình Người :
Gặp nhau biết nói gì hơn
Cười vui trong gió tóc vờn cờ bay !
Võ Đại Tôn