Thơ : Tháng Tư 2014 của những tác gỉa trong VTLV
Tưởng Nhớ Tháng Tư
Bây giờ là tháng Tư năm 2009. Ðối với tháng Tư năm 1975 là 34 năm đã trôi qua. Thời gian trôi qua mau, nhưng những tồn tại trong quãng thời gian ấy đã bám trụ, đã nảy nở, đã kéo dài, đã trì triết con người, nhất là con người Việt Nam chúng ta hứng chịu bao đắng cay buồn tủi.
Một cuộc đổi đời, cả đất nước bỗng nhiên trở thành một nhà tù khổng lồ. Những nơi danh lam thắng cảnh đột nhiên biến thành bãi sắn nương khoai, người người khánh kiệt, nhà nhà khánh kiệt, sống một cuộc sống vô vọng không có ngày mai. Nhìn chung quanh chỉ thấy đói rét hận thù. Bà mẹ già quấn vội mảnh khăn tang trên đầu em nhỏ. Ðôi mắt người vợ ngơ ngác thất thần nhìn người chồng bị trói chặt dẫn đi trong đêm tối.
Ngày 30 tháng Tư một lời rao trên đài phát thanh, lời kêu gọi buông súng đầu hàng. Lời rao từ cuối ngõ đến đầu làng luôn luôn đem lại những tin tức ghê rợn, những buồn đau nhức nhối. Ai nghe đến lời rao cũng tê liệt tâm hồn, bàng hoàng thân xác. Từ người dân giả cho tới những bậc sĩ phu đều ngao ngán rụng rời.
Ngày Ba Mươi tháng Tư năm đó
Một lời rao hoa cỏ ngẩn ngơ
Nỗi đau chợt đến bất ngờ
Nhói trong huyết quản, sững sờ con tim
Cả Sài Gòn đắm chìm ngộp thở
Khắp miền Nam bỡ ngỡ kinh hoàng
Mây trời kết mảnh khăn tang
Giọt mưa đầu hạ như hàng lệ rơi
Ðến khi nhìn trên màn ảnh nhỏ, thấy những người ăn trên ngồi chốc hôm qua, nay thui thủi ươn hèn, mặt ngờ nghệch, tay chắp buông xuôi, lưng còng xuống thấp, hạ giọng nói lời khiêm nhu mà ngao ngán sự đời. Thấy kẻ chiến thắng hung hăng hách dịch, đi tới đi lui mặt đằng đằng sát khí, phát ra những lời bất nhã kiêu căng lại càng tủi nhục cho thế thái nhân tình.
Nghe như thế, nhìn như vậy mà hình như chưa đủ thấm, phải mãi về sau, những người đàn ông vắng bóng trong mái gia đình để đi vào lao cải, những đứa trẻ nhỏ không có trường để học, những bà mẹ già đến chùa thì chùa đóng cửa, hương khói lạnh tanh, những ông già đến nhà thờ thì thấy xe tăng vây kín, ra tượng đài cầu nguyện thì bị đuổi xô. Chuông giáo đường, chuông chùa đã ngừng ngân nga từ dạo đó.
Những người phụ nữ bị tách ra khỏi những phong gấm rủ là, bị đẩy ra giữa đường giữa chợ. Những người phụ nữ giờ đây đóng vai chính trong cuộc sống, bương trải để có gạo nuôi con, che dấu hình hài để tồn tại.
Năm nay sau 34 năm, tháng Tư bây giờ vẫn còn đầy dẫy những bất công, dân nghèo càng ngày càng nghèo, cán bộ, giai cấp cầm quyền càng ngày càng giàu có. Dân nghèo đến độ phải chấp nhận lưu vong, lấy chồng ngoại quốc. Nạn buôn bán phụ nữ Việt đã coi thường đạo lý, ngược với nhân luân và rẻ rúng đồng bào. Từ cổ chí kim không có một dân tộc nào chịu khổ đau đến thế, không có nhà cầm quyền nào táng tận lương tâm đến thế. Mấy trăm ngàn phụ nữ Việt Nam còn trẻ đã phải mang chính bản thân mình đi hầu hạ bàn dân thiên hạ khác giòng giống, khác chủng tộc. Hệ lụy của tháng Tư đen vẫn còn đau đớn bàng hoàng.
Ðối với đảng Cộng Sản đàn anh, quan thầy Trung Quốc thì ra mặt nô lệ. Cắt đất dâng biển, biếu đảo. Tài sản của ông cha, đất đai của tổ tiên, xương máu của đồng bào, những kẻ cầm quyền Hà Nội không cần đếm xỉa tới. Vì muốn giữ ghế quyền lực của mình, vì muốn đảng Cộng Sản yên thân bền vững, vì muốn bảo vệ cơ nghiệp của kẻ ăn trên ngồi chốc, vì muốn vinh thân phì gia cho nên những kẻ đương quyền vô liêm sỉ đã dâng hai đảo Trường Sa, Hoàng Sa. Chưa đủ, chúng còn kéo lui biên giới để Bản Giốc, Nam Quan biến thành đất Tàu. Hệ lụy tháng Tư vẫn còn kéo dài ảnh hưởng đến giang sơn, tủi nhục đến cả linh hồn tổ tiên, đến niềm đau Tổ Quốc.
Tháng Tư năm nay, trong chương trình phát thanh này, chúng tôi xin đề cập đến những vần thơ viết về tháng Tư đen.
Du Sơn Lãng Tử lấy điển tích của 3 ngàn năm trước Thiên Chúa, một cuộc đại di cư qua biển đỏ để mô tả những người Việt Nam vượt biển máu Thái Bình Dương. Cuộc vượt biển liên tục từ 1975 của dân Việt đi tìm tự do khiến hàng vạn người đã bỏ thây trên biển cả.
Người Việt Nam như một bầy di điểu bỏ xứ tránh bạo tàn, tìm nơi nắng ấm thanh bình:
Mờ mịt phương trời ngút khoảng không,
Một đàn di điểu giữa mênh mông.
Sau tháng Tư di tản, mang mang niềm đau ly xứ, dấn thân vào cuộc sống lưu vong, nhà văn Giao Chỉ nhìn con đường lưu lạc chợt thấy lối về mờ mịt xa xăm:
Ðường đời muôn vạn nẻo, đâu lối về cố hương?
Ngọc Bích là nhà thơ hoạt động với Thi Văn Ðoàn Bốn Phương, đã nói về Tháng Tư như sau:
Tháng Tư khăn trắng đầy đầu
Tháng Tư phượng đỏ một màu chia ly
Tháng Tư lịch sử còn ghi:
Tháng Tư quyền sống cướp đi kiếp người
Tháng Tư đã mang khăn tang trắng, đã chia ly tan tác, đã cướp đi quyền sống và tính mạng người Việt Nam.
Tháng Tư nước mắt chan hòa, tháng tư là bỏ nhà bỏ cửa, tháng Tư là chôn vùi sĩ khí, nhưng tháng Tư Ngọc Bích cũng nhắc nhở rằng ra đi sẽ về:
Tháng Tư nước mắt chan hòa
Tháng Tư lìa cửa lìa nhà ra đi
Mà trong lòng vẫn khắc ghi
Tháng Tư thề hẹn ra đi … sẽ về
Trưa 30 tháng Tư cả miền Nam bàng hoàng khi cơn mộng dữ đã thành thảm họa đổ ập xuống trên mỗi thân phận con người, trên mỗi gia đình của cả miền Nam. Song Nhị nói về thân phận con người Việt Nam, nhất là những người đã từng cầm súng chiền đấu để bảo vệ quê hương thế mà nhiệm vụ không hoàn thành, nước đã mất, nhà đã tan thì còn thiết gì đến thân phận chiến binh:
Người rã ngũ rồi non nước đâu
tim ta máu đọng khối thâm sầu
hỡi ơi, trời đất cùng rơi lệ
trang sử lật rồi cuộc biển dâu!
Trong cuộc đổi đời bao nhiêu đớn đau dồn dập, bao nhiêu mất mát tang thương, cả nước xoay tròn trong cơn lốc. Tất cả được Song Nhị ghi lại trong bài thơ Ðổi Ðời như sau:
Dừng lại nơi đây giây phút này
tiếng khóc của chim
lời than của gió
em biết không em
ngã đời chia biệt
một phía sau lưng
một thuở son vàng
cùng với máu xương hoang tàn tội lỗi
Ta chẳng còn chi
ngọn sóng cuồng lưu xóa vùi đạo lý
nhân loại ai còn tiếng gọi từ tâm
ngôn ngữ văn chương lời rao quỷ dữ
đâu đó hồn thơ máu chảy tim người
ôi, mấy nghìn năm sử Tần lại viết
phố thị đã bừng ngọn lửa phần thư
Em biết không em
ta chẳng còn chi
hôm nay con người thọ hình lột xác
đồng bào nhìn nhau qua lớp kính mù
những bộ xương da thay hình trâu ngựa
không còn nhìn thấy nhau
thế gian thêm hận thù đố kỵ
thêm bất công khốn khó cơ cầu
Hôm nay anh không còn em
mọi người không còn nhau
đàn thú dữ tung hoành nanh vuốt
người lương thiện thành kẻ tội đồ
lũ gian ác nói điều thánh thiện
Hôm nay mặt trời màu xám
mặt đất màu đen
cây cỏ chim muông gục đầu chịu tội
hàng triệu linh hồn nhập tượng đá không tên
Sau tháng Tư đen người Việt Nam vội vàng vượt biên, vượt biển mong thoát nanh vuốt của đảng cầm quyền đi tìm tự do. Theo như mọi người ước tính số người bỏ nước ra đi chia làm 3 phần, một phần đến xứ tự do, một phần nằm trong lòng biển cả hoặc rừng sâu, một phần còn lại vào tù. Từ xưa đến nay chưa có dân tộc nào bỏ thây trên biển nhiều như dân Việt Nam. Tiềng than van rì rào trên biển cả nghe kỹ đó là tiếng Việt.
Sóng vỗ rì rào ai khóc than
Hỏi ra mới biết tiếng hồn oan
Dân nào rải rác thây trên biển?
Khắp thế gian này chỉ Việt Nam!
Chinh Nguyên hoài niệm về tháng Tư, tưởng rằng chuyện đó xa xăm. Ba mươi năm mà dài như thế kỷ chứa chất những đau thương trong bài BÂY GIỜ LÀ THÁNG TƯ như sau:
Bây giờ là tháng tư
Ðời tôi như chim lạ
Bay hoài trên biển nhớ
Lạc loài trong đám đông
Bây giờ là tháng tư
Lòng xót dâng biển mặn
Khóc bạn tôi nằm xuống
Nỗi sầu ôi mênh mông
Bây giờ là tháng tư
Trong đạn pháo giặc thù
Người tình thôi cũng mất
Ðời như đỉnh lá thu
Bây giờ là tháng tư
Mẹ tôi vẫn đứng chờ
Nơi biển Ðông gió lộng
Nhớ thằng con bơ vơ
Chinh Nguyên, chàng sĩ quan không quân gẫy cánh, vẫn cứ tự hỏi mình rằng Tháng Tư đi đâu? Về đâu?
Bây giờ là tháng tư
Nhục nhằn tủi quê người
Hai chín năm rồi đó
Buồn đong đầy không vơi
Bây giờ là tháng tư
Tỉnh say trong giọt sầu
Ðêm hoang lê hè phố
Tôi đi! đi về đâu!
Nhà thơ Hoa Văn đã trải tù đày từ Nam ra Bắc, vì là một sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị nên luôn luôn bị theo rõi. Ông cũng lênh đênh theo thân phận của những kẻ tù đày. Kết từ những khổ lụy, những hờn căm, những tình yêu, những chung thủy thành một đóa hoa để tặng em và cũng để tặng người:
Tặng Em một đoá hoa này
Kết từ khổ lụy những ngày trầm luân
Kết từ ngục thất tối tăm
Ngày tra đêm hỏi thiếu ăn đói lòng
Kết từ hai chữ thủy chung
Xẻ chia đùm bọc tình trong tình ngoài
Kết từ nghiã nặng hai vai
Tình yêu Tổ quốc rộng dài tháng năm
Kết từ vận nước buồn câm
Ra đi mang nỗi đau thầm được thua
Kết từ lời nguyện thề xưa
Cờ vàng sọc đỏ bấy giờ mai sau
Kết từ thơ ý ban đầu
Trăm năm trăm tuổi bỏ sầu trên tay
Tặng Em một đoá hoa này.
Nhà thơ Hải Phương khi bị chuyển ra cải tạo tại miền Bắc, sau ba ngày trên tàu biển từ Sài gòn ra Bến Thủy và hai ngày trên xe lửa từ Vinh lên Yên Bái, lúc vừa bước chân xuống bến phà Âu Lâu, đã bật ra những vần thơ lục bát để đời:
Chiếc xe lửa chạy ngật ngừ
Ngổn ngang từ đáy ngục tù bước ra
Hai hàng họng súng A ka
Lạnh tanh mùi thép chào ta lưu đày
Phần đông những người tù cải tạo muốn ghi lại những cảm nghĩ trong cuộc sống tù đày, hoặc ghi bằng bút, hoặc ghi bằng đầu:
Ðem ngòi bút nối tình sau trước,
lấy vần thơ gạn đục khơi trong,
viết về nỗi nhớ non sông,
viết lên thảm cảnh cùm gông đọa đầy.
Băng Ðình vẫn còn xục xôi lửa hận trong bài Hát Ô Hành độc vận trắc:
Phố Lu mắt lệ mờ Lào Kay
Yên Bái nhục nhằn đêm đả khảo
Thanh Chương ngục đỏ giữa sông Hồng
Thanh Phong, Thanh Lâm ai dám ngạo
Cả nước thi đua bụng đói meo
Nửa nước bị chẻ đầu tẩy não
Nhà thơ Băng Ðình quyết chí trở về cứu non sông thoát vòng quỷ đỏ:
Bởi đã đi nên quyết sẽ về
Tổ quốc ta trường sinh bất lão
Ông mong mỏi Việt Nam thành một xứ sở thanh bình trong yêu thương tốt đẹp như mùa xuân miên viễn
Tâm huyết ta sắt đá bắc cầu
Ðẹp mãi một mùa xuân vĩnh hảo
Ðông Anh viết nhẹ nhàng về cuộc lưu đày khốn khổ ra Bắc bằng những vần thơ:
Từng in chân nơi Nghĩa Lộ Văn Bàn
Nhỏ mồ hôi xuống Hà Tây, Thanh Hóa
Lũ chúng tôi không phải vài ba đứa
Mà hàng ngàn hàng vạn kẻ bại vong
Mang oan khiên ra rửa nước sông Hồng
Ðem uất hận trút lên rừng Yên Bái
Ðứa gục xuống bón cây rừng Bắc Thái
Cho lá xanh, cho rừng cỗi đơm hoa
Ðứa truyền ra chính nghĩa khắp Nam Hà
Cho lẽ phải sáng bừng trong đêm tối….
Vũ Ðức Nghiêm, người nhạc sĩ đã phổ nhạc bài thơ của Hà Thượng Nhân, Bàn Tay khô Héo thành bài nhạc Xin Làm Cỏ Biếc Vướng Chân Em Ði. Một nhà thơ cùng một nhạc sĩ bị biệt giam với nhau tại Thanh Chương. Xa cách hẳn bạn tù nhưng lại được gần nhau để cùng xướng họa. Một hôm nhà thơ nêu câu hỏi: “Học tập tốt, lao động tốt, đem đi nhốt! trước sau như một” Nhac sĩ bèn trả lời bằng bài thơ sinh nhật thứ 51 của mình:
Tuổi trời cho ta năm mươi mốt,
Ðau đớn thay, năm năm bị nhốt
Sáng sáng đẩy xe vài chục xe,
Chiều chiều ngô hột dăm trăm hột.
Thi đua lao động chẳng cần hay,
Học tập tăng gia không mấy tốt.
Thơ thẩn loay hoay, ngày lại ngày,
Lòng son sắt trước sau như một.
Chốt đã qua sông liền thí chốt.
Ba năm kiếm củi, một giờ đốt
Thảm thương thay, kẻ sĩ mang cùm,
Ngao ngán nhẽ, cáo cầy đội lốt.
Sông cạn khát khao vài trận mưa.
Núi cao chuyển mình từng cơn sốt.
Mơ ngày phục quốc, cứu quê hương,
Thù giặc Cộng, minh tâm khắc cốt.
Hà Thượng Nhân đọc Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị trong tù vào năm 1979 tại Thanh Chương, Nghệ Tĩnh. Sau đó ông viết tập thơ Bên Trời Lận Ðận lấy cảm hứng từ câu Cùng một lứa bên trời lận đận, gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau của Bạch thi sĩ.
Ông viết như sau: “Tâm sự, cảnh ngộ của Bạch Cư Dị đâu phải là tâm sự, cảnh ngộ của tôi, nhưng tấc lòng cay đắng Bên Trời Lận Ðận kia cũng là tấc lòng cay đắng của chính mình”
Vài củ sắn ăn chay suốt tháng
Một căn buồng trăm mạng chia nhau
Mỗi năm cơm sạn vài thau
Mắt thèm quên cả niềm đau thuở giờ
Tôi riêng bảo muốn khôn hãy dại
Lỗi tại ai? Lỗi tại chính mình
Trùng khơi thả sức cá kình
Chuồng con hổ báo cũng thành hươu nai
Tôi chỉ có vài tờ giấy xấu
Ngọn bút chì rướm máu bi thương
Những chiều mưa gió thê lương
Nhớ vô cùng nhớ con đường vào Nam
Ôi cơn gió heo may thuở trước
Lạnh ngàn năm sông nước Tầm Dương
Về đây rừng núi Thanh Chương
Nghe heo may nổi canh trường ngẩn ngơ
Nhưng dù đất lở trời long cũng không thể nào giam giữ được cái ngang tàng của nhà thơ, không thể nào níu được bước chân đã mỏi:
Thuở nhìn cảnh đồng bào đói khổ
Quyết xông lên đạp đổ bất công
Nắm tay dành lại non sông
Mà tô cho được màu hồng tự do
Khắp nam bắc ấm no hạnh phúc
Ta về bên khóm trúc nhìn trăng
Ngày nay gặp cảnh bất bằng
Ðêm đêm vẫn nghiến hàm răng đợi chờ!
Hà Dzi sau khi đi tù vì mất nước đã viết hờn vong quốc, mang thân chiến bại từ ngõ trầm luân:
ta về từ ngõ trầm luân
quê hương còn lại mộ phần nước non
em tôi đôi mắt lạnh buồn
nhìn nhau xoa vết roi đòn trái ngang
Lao đao vì tháng Tư, nhà thơ sống trong cảnh chơi vơi, đã lạc lõng trong một xã hội mà xung quanh toàn kẻ thù:
ta về đêm mất thăng bằng
và em nước mắt muộn màng khóc ai
buồn chung một cảnh hoang thai
cùng vương một tuổi mang tai ách đời
ta về lạc lõng chơi vơi
hoàng hôn chế độ liệm người tôi trung
hùm sa cơ thét giữa rừng
ngàn cây rũ bóng lưng chừng tóc râu
Tuy vậy niềm tin vẫn được nuôi dưỡng. Hà Dzi tin ở lòng người và tin ở mối tình chung thủy ngàn xưa:
đêm về che nửa địa cầu
sau lưng bóng tối tìm nhau rửa hờn
em về tô lại vệt son
trên đôi môi mẹ đã sờn vết nhăn
và ta qùy gối ăn năn
xin hồn vong quốc vành khăn quấn đầu
ta và em vẫn còn nhau
vẫn niềm tin ấy và câu ước thề
Sau ba mươi tư năm lưu lạc Nhà thơ Hồ Công Tâm vẫn có Niềm Tin Bất Diệt. Tin vào tương lai của chính mình, tin vào tinh thần dân tộc để xác tín vào lá cờ vàng ba sọc đỏ như một biểu tượng muôn đời bất diệt cho lịch sữ mãi trường tồn:
Tháng Tư từ độ ấy chia tay
Kẻ ở người đi vẫn nhớ ngày
Thép súng bao năm trơ sét rỉ,
Vàng son phút chốc thoắt mây bay!
Ta còn ấp ủ niềm tin ấy,
Lòng vẫn chưa nguôi mối hận này!
Xác tín cờ vàng ba sọc đỏ
Trường tồn cùng Sử Việt hôm nay.
Thư Khanh nhìn vùng trời tây bắc Mỹ, tuyết rơi lạnh mà nhớ Sài Gòn nắng ấm, mà thấy lòng mình bỗng đắng cay
Vùng trời Tây Bắc Mỹ .
Mịt mờ mưa đang bay .
Tôi ngồi bên cửa sổ .
Ngẫm nghĩ và … đắng cay !
Sài Gòn : Tháng Tư Ðen .
Bỗng hiện về trong trí .
Tiếng lòng nghe khe khẽ :
“ Em chưa quên sao em ? ! “
Tháng Tư, chồng đi tu,ợ một mình bơ vơ giữa chợ đời, lạc lõng ngay giữa lòng quê hương, Thư Khanh không bao giờ quên được
– Tôi vẫn chẳng sao quên .,
Những ảnh hình tan nát :
“ Sài Gòn vừa sụp đổ
Vẫn còn dài trong tôi ! “
Mấy chục năm xa rồi .
Niềm đau chưa tan biến .
Nước mắt sầu bịn rịn .
Từng giờ mong đổi thay …
Ngày đêm thương nhớ nước, thương nhớ chồng là nhà thơ Phan Lạc Giang Ðông. Những hình ảnh nhà và nước khiến Thư Khanh nuôi một niềm hy vọng
Tôi vẫn chờ Tương Lai :
“ Nước Ði Nước Lại Về ”
Có một ngày hy vọng ?
– Ôi lòng đầy tái tê .
Sáng nay ! Tây Bắc Mỹ .
Mưa vẫn giọt đều đều .
Âm thầm lên tiếng nấc .
Nước mắt sầu dâng theo .
Thư Khanh cô đơn nhưng vẫn hướng dẫn cho đàn con giữ vững niềm tin. Tin sẽ có ngày trở về trong vinh quang để nhìn Sài Gòn Hà Nội ăm ắp tình thương.
Lưu Thái Dzo luôn ghi nhớ Quốc Hận. Ông đếm từng ngày, đếm cho đến năm thứ 34 để viết vần thơ về NHỮNG TỜ LỊCH CUỐI THÁNG TƯ:
Những tờ lịch cuối tháng tư đen
Thầm nói cùng ta, nói với em
Rằng nhục tủi kia còn nhọn hoắt
Còn xuyên da thịt giống Rồng Tiên .
Những tờ lịch cuối tháng tư buồn
Thúc hối người lo chạy áo cơm
Ðến nỗi vùng tim đau, sợ nợ
Khi đời lưu xứ vẫn cô đơn .
Những tờ lịch của nhà thơ Lưu Thái Dzo đếm cuộc đổi đời, đếm thời gian và những chặng đường của tù đày, của lưu vong và của uất nghẹn:
Những tờ lịch cuối tháng tư về
Vẽ lại mùa xưa chạy loạn ly
Người một giống dòng sao đuổi bắt
Vạn thân gục chết, một đường đi ?
Những tờ lịch cuối tháng tư rơi
Gợi nhớ, phương xa, những miệng cười
Hay chỉ là chùm môi hát nhé
Bài ca ý cũ, đổi thay lời ?
Nhà thơ Nguyễn Ðông Giang sau khi ở tù về thấy Sài Gòn mất tên đã gom lại niềm đau mà viết bài NGÀY SÀI GÒN ÐỔI TÊN:
Từ ngày Sài gòn đổi tên
Nỗi đau vật vã , oằn mền trang thơ
Trở tay không kịp ván cờ
Choàng cơn ác mộng , bơ vơ xứ người
Sài gòn đã mất tên, bao nhiêu người Sài Gòn ôm một nỗi đau. Ðau từ trong tâm khảm đến tứ chi. Ðau trong lòng người, đau cả ngoài hè phố và đau cả đến thi ca:
Từ ngày Sài gòn mất tên
Thi ca bật dậy, tiếng rền thiên thu
Xưa đi chinh chiến xa mù
Nay đổi di trú , đi tù núi cao
Còn em vượt biển năm nào
Biển xanh đâu nở , mà sao chẳng về ?
Hay là em nặng lời thề
Quê hương đỏ khói , chưa về làm chi
Nỗi đau như quanh quẩn, chợt bùng lên, khi nén xuống, khi ở khi đi thì nỗi đau vẫn cứ lẽo đẽo theo hoài người mất nước:
Sài gòn từ thưở mất tên
Bàn dân thiên hạ , trở nên khác thường
Ði thì nhớ ở thì buồn
Ðã đi vẫn ở , ở tuồng như đi
Em ơi còn nói được gì
Lỡ tay buông súng, tức thì mất tên
Rồi Sài gòn mất tên, một cái mất mát to lớn vô cùng, Nguyễn Ðông Giang đã gào lên mà hỏi:
Núi sông xưa lạ mất rồi, sao em ?
Sài gòn, ơi hỡi cái tên
Thơ ta vẫn mãi, gọi em bên trời…
Huệ Thu nhớ lại nỗi đắng cay của người thua cuộc. Chồng ngoài trận chiến chưa về, bồng con nhỏ trên tay mà ôm nỗi đau nhoi nhói lòng:
Lại tháng Tư rồi, buổi Tháng Tư !
Làm sao đau đớn bỗng dưng từ…
Có ai còn nhớ quê ngày ấy
Nón cối về đầy chật Thủ Ðô ?
Qua bao chặng đường vượt biên vượt biển, nay sống ở quê người mà nhà thơ vẫn cứ nhớ quê, nhớ cảnh, nhớ Sài Gòn hai chữ thân thương:
Bỗng nhớ làm sao một buổi chiều
Ôi ! Sài Gòn cũ đất thân yêu
Hình như ai đọc câu thơ cũ
Lại khiến mình thêm nhớ bấy nhiêu
Ba mươi bốn năm qua đi, nét rừng rú cũng phai dần, tính tinh khôn và đục khoét lại tăng cao, xã hội ngày thêm băng hoại, tình đời mỗi lúc nhạt phai và lòng yêu nước lại lu mờ, chỉ tôn thờ cá nhân và dục vọng. Hồn cáo còn đưa đường dẫn lối, ngàn đời dân Việt vẫn long đong!
Người tù lao cải đã thoát cũi xổ lồng, tìm tự do trước mặt bỏ quê hương đất nước sau lưng. Ðường đi muôn vạn ngả, nhưng đường về chỉ có một lại bị cấm ngăn, đóng cửa rút cầu cho nên cứ triền miên làm kiếp lưu vong, suốt đời thành chim di trú. Nhìn quê hương xa mà lòng đau như cắt. Sống ở quê người mà tâm hồn thổn thức không nguôi.
Hàng năm cứ mỗi lần tháng Tư qua, lại nghe lòng mình dào dạt, những tiếc nuối, những khắc khoải lại trở về chứa chất nặng chĩu trong lòng mọi người dân Việt trong cũng như ngoài nước như nhắc nhở cùng nhau nạn nước, đổi đời. Mọi người vẫn hằng ao ước có một đất nước thanh bình yên vui để nắm tay nhau quên hết hận thù cho má thắm điểm hồng môi thiếu phụ Trời xuân lại ngọt, gió xuân tươi, để chim di trú được họp bầy dưới ánh nắng Trường Sơn.
Nhớ tới quê hương sau ba mươi bốn năm xa xứ, mỗi người trong chúng ta đều hoài vọng, tuy mỗi người một cách khác nhau, nhưng tựu chung nỗi lòng hướng về tổ quốc vẫn là một. Lòng yêu nước thiết tha vẫn nằm trong tâm khảm mỗi người, cho nên ai cũng mong cho giang sơn được thanh bình, tự do no ấm, người dân được mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình.
Ðông Anh
Nguyệt Thực 15/4
NIỀM TIN BẤT DIỆT
Tháng Tư từ dạo ấy chia tay
Kẻ ở người đi vẫn nhớ ngày
Thép súng bao năm trơ sét rỉ
Vàng son phút chốc thoắt mây bay
Ta còn ấp ủ niềm tin ấy
Lòng vẫn chưa nguôi mối hận này
Xác tín cờ vàng ba sọc đỏ
Trường tồn cùng Sử Việt xưa nay
Hồ Công Tâm
Tháng Tư !
Đời vất vưỏng thiên thu sứ ngoại…
Nhìn mưa rơi nhớ nước sông Hồng
Bóng nghiêng đổ soáy niềm thương cũ
Tóc bạc tơ lòng hận tháng tư.
Chinh Nguyên
hà dzi
NGÀY SÀI GÒN ĐỔI TÊN
Từ ngày Sài gòn đổi tên
Nỗi đau vật vã , oằn mền trang thơ
Trở tay không kịp ván cờ
Choàng cơn ác mộng , bơ vơ xứ người
Từ ngày Sài gòn mất tên
Thi ca bật dậy, tiếng rền thiên thu
Xưa đi chinh chiến xa mù
Nay đổi di trú , đi tù núi cao
Còn em vượt biển năm nào
Biển xanh đâu nở , mà sao chẳng về ?
Hay là em nặng lời thề
Quê hương đỏ khói , chưa về làm chi
Sài gòn từ thưở mất tên
Bàn dân thiên hạ , trở nên khác thường
Đi thì nhớ ở thì buồn
Đã đi vẫn ở , ở tuồng như đi
Em ơi còn nói được gì
Lỡ tay buông súng , tức thì mất tên
Sài gòn từ thưở đổi tên
Nhặng ruồi đươc bật, đèn xanh bay vào
Cùng ma cùng quỷ lao xao
đỏ trời vì những , vị sao lạ đời
Hỡi ơi vật đổi sao dời
Núi sông xưa lạ mất rồi , sao em ?
Sài gòn , ơi hỡi cái tên
Thơ ta vẫn mãi , gọi em bên trời .
Cali – NGUYỄN ĐÔNG GIANG
Nỗi buồn tháng tư.
TĐL.
BUỒN ….
Mười sáu trăng tròn năm bảy lăm
Theo cha theo mẹ mấy chục năm
Suốt đời bận rộn nào ai biết
Bây giờ nhớ lại, thiệt khổ tâm!
Ngày đó ra đi chẳng biết gì
Tuổi thơ khờ dại lắm ngu si
Bạn bè dăm đứa theo biển rộng
Mỗi đứa một đời, cỏi biệt ly
Ngày xưa năm ấy kéo nhau đi
Ngóng trước nhìn sau chẳng thấy gì
Tương lai mù mịt sầu muôn thuở
Dẫm dấu chân khờ ở chốn ni
Ba chín năm rồi ai biết không?
Nhiều khi ngồi nghĩ, chỉ buồn lòng
Ra đi để hồn thờ với thẫn
Đất nước yên lành, lắm đợi mong!!!
lmm
4/17/2014
Ngồi nhớ lại.. đã 39 năm xa quê nhà….. hic hic
4/23/1975 là ngày lên phi cơ tại phi trường TSN Sài Gòn – Đúng 39 năm!!!
LÁ THƯ GỬI NGƯỜI EM QUÊ HƯƠNG
Chị ở bên này vùng trời Tây Bắc Mỹ
Cái gì cũng thừa duy thiếu Việt Nam
Mở miệng nói ra …- Người cười bảo: “ Xuẩn ! “
Nhưng thực tình chị rất thiếu Việt Nam .
Chị giải thích thế nào cho em rõ .
Trong khi em đang đói khát từng ngày .
Đêm bới rác dưới đèn đường leo lét .
Mặt trời lên em gục ngủ gốc cây …!
Mấy chục năm trời giai cấp bị trị .
Em nghèo hèn : Một con chó . Tên người .
Tên em đó Cột Kèo Soài Mận …
Tháng năm dài nghèo đói có ai hay .
Thuở sinh ra không tên – không lý lịch .
Bố mẹ chết vùi – bom đạn tháng tư .
Biết bao xương khô máu đỏ chan hoà .
Chị ở đây cái gì chị cũng có .
Riêng thương về em . Không có Việt Nam .
Nhớ mẹ ruột vùi thây trong bom đạn .
Đất nước dâng Tầu – mất hết Non Sông !
Thôi em nhé lá thư dài hay ngắn .
Tựu chung là lòng chị vẫn thương đau .
Ở bên này dù đất trời đầy đủ .
Nhưng khóc trong lòng . Em hiểu vì sao ? !
THƯ KHANH
Phù Dung
Tháng Tư nắng rụng bên ngàn
Dật dờ gió chướng điêu tàn phù dung
Bao năm mải miết trên rừng
Về đây thành phố ngập ngừng ra đi
Phù dung hoa nở đương thì
Nhạt nhòa nắng quái, rù rì gió ngang
Em đi nước mắt hai hàng
Gót son rướm máu bàng hoàng biệt ly
Bên trời lạnh ánh sao khuya
Bên mình ngàn nỗi phân chia hãi hùng
Nước non dâu bể khôn cùng
Tình ta bỗng chốc ngàn trùng cách xa
Phù dung rũ cánh chiều tà
Héo hon nửa kiếp cũng là phù vân
Ai về nẻo cũ quan san
Cho ta gửi cánh hoa tàn tháng Tư
Ba Mươi Năm cũng là dư!
Đông Anh
ĐÊM 30 THÁNG 4 NĂM 1975
Saigon tối 30/4/1975
BÂY GIỜ LÀ THÁNG TƯ
Bây giờ là tháng tư
Đời tôi như chim lạ
Bay hoài trên biển nhớ
Lạc loài trong đám đông
Bây giờ là tháng tư
Lòng xót dâng biển mặn
Khóc bạn tôi nằm xuống
Nỗi sầu ôi mênh mông
Bây giờ là tháng tư
Trong đạn pháo giặc thù
Người tình thôi cũng mất
Đời như đỉnh lá thu
Bây giờ là tháng tư
Mẹ tôi vẫn đứng chờ
Nơi biển Đông gió lộng
Nhớ thằng con bơ vơ
Bây giờ là tháng tư
Nhục nhằn tủi quê người
Hai chín năm rồi đó
Buồn đong đầy không vơi
Bây giờ là tháng tư
Tỉnh say trong giọt sầu
Đêm hoang lê hè phố
Tôi đi… đi về đâu…!
San Jose April 29, 2004
Chinh Nguyên
NIỀM TIN BẤT DIỆT
Phan Ni Tấn
Thùy Vị Xuân Lai
Nhất niên hựu nhất niên,
Hối dạ hận miên miên.
Bích hỏa huyền cô trủng,
Cuồng nha lộng phế điền.
Tặc kim tiền mãn trạch,
Dân khổ ách thao thiên.
Hạo hạo hàn đông tịch,
Hà phương mịch cố viên.
(Trần Văn Lương)
NHỮNG TỜ LỊCH CUỐI THÁNG TƯ
( Ghi nhớ Quốc Hận Thứ 34 ( 30-4-1975 – 30-4-2009 )
—***—
Những tờ lịch cuối tháng tư đen
Thầm nói cùng ta, nói với em
Rằng nhục tủi kia còn nhọn hoắt
Còn xuyên da thịt giống Rồng Tiên .
Những tờ lịch cuối tháng tư buồn
Thúc hối người lo chạy áo cơm
Đến nỗi vùng tim đau, sợ nợ
Khi đời lưu xứ vẫn cô đơn .
Những tờ lịch cuối tháng tư về
Vẽ lại mùa xưa chạy loạn ly
Người một giống dòng sao đuổi bắt
Vạn thân gục chết, một đường đi ?
Những tờ lịch cuối tháng tư rơi
Gợi nhớ, phương xa, những miệng cười
Hay chỉ là chùm môi hát nhép
Bài ca ý cũ, đổi thay lời ?
04/2009
LƯU THÁI DZO