CAO MỴ NHÂN – VĂN: 2 Truyện Ngắn Và CHÙM THƠ CAO MỴ NHÂN.

**
CHUYỆN HÔM KIA. CAO MỴ NHÂN
*
Chuyện hôm qua đã cũ rồi, nên “Chuyện hôm kia” còn cũ rích hơn nữa.
Anh đang mỉm cười xem thử mình định nói gì ?
Có gì đâu mà …nỏi chớ, đó là một cụm từ, tưởng giống như một chùm hoa trong bài thơ ” Chiêm bao” của thi sĩ Bùi Giáng .
Anh lặng người đi một thoáng, anh biết lúc này mình đang buồn lắm, anh có thể khiến mình vui tức khắc, nhưng anh vẫn không làm.
Tại sao thế?
Người ta rất thương một tha nhân hấp hối, có thuốc cứu sẵn trong tay, nhưng vẫn nhất định không đưa cho kẻ hấp hối đó uống.
Vì nếu kẻ hấp hối đó sống lại, tha nhân đó sẽ biến thành thân nhân của vị đại phu ngay.
Nên đã quyết liệt thề, là cùng thiên nhiên bỏ mặc khách hấp hối bên trời, nếu Thượng Đế cho người hấp hối đó sống, thì được sống, mà nếu không tự lực được, như cánh chim không vươn lên nổi, phải tan ra thành cát bụi vô thường…
Thì cũng đành thôi…
Anh, chẳng lẽ anh lại ” tàn bạo ” thế sao ?
Anh trầm tư, rồi ung dung trả lời: ” sao không bảo là tôi ác, còn cố tránh tiếng ” ác ” này ? Có phải vì quá đắm say tôi đó không?”
Tại sao anh cứ đọc được ý nghĩ của mình, tôi phải nghe trọn một ngày những bài thơ của Bùi Giáng, do đủ các thành phần các giới trong nước bàn soạn,tán tụng ông thi sĩ cuồng chữ này.
Khởi sự, nhà thơ họ Bùi chỉ gàn bướng, khinh khi thế nhân, trong phạm vi khả năng khiêm tốn nhất, là ” điên ” cho thiên hạ khỏi thắc mắc.
Người ta có thể điên theo mức độ bất như ý của mình …
Điên vì thời cuộc, vì danh dự, vì tự ái, vì bị áp bức, ganh ghét, xấu hổ, mất mát, ân hận…vv…
Chắc tôi có thể bị điên vì mức độ nhẹ nhất trong những lý do nêu trên, vì mất mát và ân hận.
Anh thở dài: ” có thể chỉ vì ân hận thôi, nhưng trong tâm tư vẫn như vương vấn một điều là tiếc nuối phải không ?
Lại hình như đúng quá. Song nếu chờ anh đưa linh đan cho uống, thì, có lẽ mình đã ở đỉnh tháp ngàn thương rồi.
Do đó cả 2 người : anh và mình, phải đào huyệt chôn cất cuộc tình buồn…
Ngắm mộ tình bơ vơ trong nỗi sầu tư thơ Bùi Giáng kể lại “chuyện hôm kia “, mình đành tự bạch với thinh không, và thấm nhuần tư tưởng hư vô ngay khi mình đang có tất cả .
Thế nhưng, mình có thể tìm anh trong nỗi nhớ, ấy là mình tiết lộ cho anh hay:
Thực ra, riêng bài thơ Chiêm Bao của thi sĩ Bùi Giáng, có cái tên tức cười lắm : ” Tặng Lyn Rô “, tức là ông nhà thơ cuồng chữ đó tặng Nữ tài tử điện ảnh Mỹ Marilyn Monroe từ năm 1962 lận .
Sao anh không cười vậy ? Này nhé :
Màu xuân trắng mơ màng pha in mặt
Khắp môi hường nhắc lại chuyện hôm kia
( Lyn Rô. Bùi Giáng 1962 )
Anh không cười, nhưng cũng không trách mình sao hoang phí thời gian, thay vì mình học thêm computer, English …để không la hoảng lên mỗi lần Ipad lung tung xoè, mà nay không hỏi được anh, vì đang bị cấm vận IPhone .
Ca tụng một ngôi sao rực rỡ, nữ tài tử da trắng xoá, mà thép bút vẫn không xa nghiên mực cổ thư:
Màu tô tỉnh sáng bừng tờ phương cảo
Đã từng soi bóng nguyệt lạc tin hoa
Giờ bất tuyệt giậy ngần trong thủy thảo
Dừng âm thanh ngoài cõi sóng thu loà
( Lyn Rô – Bùi Giáng )
Có phải quan võ đang ” hỡi ôi”, nghĩ rằng có thể người đang kể chuyện này, cũng may ra chỉ hiểu một phần nào ý thơ Bùi Giáng, còn thì cứ Ma Ma, Phật Phật …trong đầu thôi .
Đúng vậy, nhất là đoạn thơ tiếp :
Thành đất quạnh vàng rêu mưa thấm liễu
Nẻo Thương lương làn sóng động đêm ngà
Vừng phơ phất loà xoà em có chịu
Giục Đào Nguyên anh ngó hẳm Liêm Hà
( Lyn Rô – Bùi Giáng )
Bao nhiêu đấy, đủ rồi câu “chuyện hôm kia” của thi sĩ Bùi Giáng, thành cặp vấn đáp :
Hỏi người quê ở nơi đâu ?
Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà ! ( Bùi Giáng )
Một học giả uyên bác thế, mà vẫn đơn sơ, mộc mạc, chân chất, nhưng có chút ưu phiền, nên cuộc chia tay chỗ ông đến chơi một vài ngày, như trong thơ tặng Lyn Rô, đã kết thúc thật cảm động:
“Ồ ly biệt tơi bời bờ lảo đảo
Em ra đi, đời bưng mặt khóc oà …” ( Bùi Giáng )
Anh thở dài thực sự rồi, anh đang thương cảm Bùi Giáng , bậc hiền triết tài hoa.
Vị thi sĩ này rất hiền, rất triết, không khổ tâm, không chán ghét đời…
Thi sĩ Bùi Giáng đã đạt tới đỉnh điểm của hư vô, sao mình không có được một chút nhỏ an nhiên tự tại ?
Chẳng lẽ lại nói rằng: anh đang là mặt bằng suy tưởng, là vị thần xúc cảm của mình mà lâu nay mình vẫn tôn thờ…
Nhưng mình phải bình thản hơn nữa, để căn bệnh bồn chồn lo lắng không trầm kha thêm.
Hình như anh gật đầu ….
Có phải anh đang gác kiếm, để luyện linh đan cho mình dưỡng khí, dưỡng chí …không ?
Để anh sẽ từ thật xa, xa lắm, thổi luồng gió mát phương nam tới, cho hoa lá quanh mình hồi sinh .
Thế thì, mình bắt chước thi sĩ Bùi Giáng, viết thử :
Hỏi mình khổ não vì đâu
Xin thưa chính tại xưa, sau một người
Nên chi cứ giữ nụ cười
Mai kia tái ngộ vạn lời bâng quơ… ( thơ CMN ).
CAO MỴ NHÂN
**
CUNG KIẾM NHỚ. CAO MỴ NHÂN
Trời đang giữa hạ mà sao lòng mình cứ ẩm ướt như sắp sửa vào thu .
Ngó lên bầu trời xanh, những đám mây trắng đứng lại ngoài cửa sổ lớn, bên hông căn phòng của mình.
Buổi trưa khô ráo, nhưng mát mẻ lạ lùng …
Anh đang ở đâu rồi? Giờ này thì nhất định đang ngồi trên chiếc tàu, bay về hướng đông .
Anh lúc nào cũng quay lưng lại mặt trời …người ta bảo nếu không phải vô tình, thì anh là một cánh chim đi trốn …hiện tại .
Anh đừng có bĩu môi chê bai nhé, vì mặt trời biểu hiện cho hiện tại, chúng ta phải nhiệt tình với hiện tại, đưa tay ôm lấy mặt trời, để cái hiện tại này không bị bôi xoá bởi thời gian .
Nói thì ” trạng ” thế, chứ thực tình mình cũng không muốn mặt trời đổ nắng chan hoà xuống cái nơi, mà mỗi ngày mình nhớ anh ít nhất một lần…
Nghĩ tới đây, mình thấy như …hờn anh quá . Mình chẳng bao giờ giận anh cả, còn hờn anh là vì không chịu tin anh, trong lúc anh rất thành thật .
Anh với mình lại đang trong tình trạng không là gì của nhau, nhưng vẫn cứ như là không thể vắng nhau được một ngày .
Mình thử quên anh một buổi xem thế nào, thì chính mình lại kiếm cách đi tìm anh, như người vô rừng đi tìm ” trầm “, mà không dám ngậm ngải .
Tại sao anh không biết điều đó nhỉ ?
Lầm rồi, chẳng những anh biết như mình nghĩ, mà còn biết rõ hơn mình nghĩ nữa. Ôi , thời gian quý hoá này, như đã xế trưa, sang chiều, có lẽ nào anh với mình đuổi bắt một cánh chim lạc trong mây ?
Sáng nay, mình đã nghe chỉ một trường ca ” Hòn vọng phu ” của nhạc sĩ Lê Thương, do người ca sĩ gốc Quảng Trị trình bày .
Nghe 2 tiếng đồng hồ luôn, tưởng là mình sắp hoá đá.
Chẳng lẽ mình ” thân kính ” anh đến độ nghĩ anh là chinh phu của mình, dẫu đó chỉ là chinh phu trên sân khấu kịch đời, mà mình lại là diễn viên khổ lụy nhất.
Không thoát ra được vai diễn, đành phải sống với mộng mơ, hư huyễn vậy thôi.
Phía chân mây xa kia, mây trắng cứ mịt mù như hàng trăm ngàn cuộn khói bốc lên, thấy hình như có một cánh chim mầu sáng bạc đang mải miết bay …
Nỗi hờn giận, hơi giận thôi, vừa xẫm mầu chiều lệch, bỗng tan ra thành những sợi tơ mềm vương vấn hồn thơ, giọng anh quyện chặt lấy cái IPhone của mình, anh đã tới nơi anh hẹn đến .
Ngày mai, tiếng trống khai quân sẽ vang lên ở phương trời viễn mộng, lòng anh sẽ nôn nao mênh mang, hồn anh sẽ mở rộng tới chân trời …
Chắc chắn vậy rồi, những hội ngộ của một thời lửa đạn xa xăm, mà ai cũng biết là chỉ còn trong ký ức .
Anh cứ sống thật với đời anh đi, lúc này, vì đã sống thật nơi quá khứ, để không phải nuối tiếc ở ngày mai, lỡ chẳng còn dịp gặp nhau …
” Quan với quân lên đường, đoàn ngựa xe cuối cùng…” chao ôi, đẹp quá, ngọn cờ vàng phấp phới trong không gian …dẫn đầu hành trình đó .
Ông nhạc sĩ Lê Thương tác giả bài nêu trên, hiện diện trong cuộc đời trước thế hệ chúng tôi .
Khi ông đứng trước mặt tôi vào một năm cuối thập niên 80 thế kỷ trước, ở Câu Lạc Bộ Dưỡng Sinh Viện Y Dược Học Dân Tộc Saigon xưa, thành phố đã bị đổi tên, tôi thưa là: ” trường ca Hòn Vọng Phu nhạc sĩ đưa nhiều địa danh VN vào huyền thoại, nhưng vẫn có Thiên San, Man Khê vv …trong thi thoại đó, thành người nghe vẫn mang cảm xúc mơ hồ ,cổ điển …
Thời gian đó tôi đang làm Huấn luyện viên Dưỡng Sinh kiêm phụ trách chương trình văn nghệ Câu Lạc Bộ DS, nên nhạc sĩ tác giả Hòn Vọng Phu xuất hiện như hình ảnh một lão phu, mang truyền thuyết sử ca …
Tuy nhiên, thế hệ anh và các chiến hữu anh, những chàng chinh phu thiệt thọ, khi quan với quân lên đường, không cần phải trường đình, tửu quán …mới tác động tinh thần kẻ ở, vì những người đi năm ấy, rồi năm ấy vv…đã mỗi người là một trang sử sáng chói trên nền Cộng Hoà rực rỡ ở bên này sông Bến Hải rồi .
Vì thế cho nên, những ngày xa xứ của thế hệ lưu vong chúng ta hôm nay, còn mãi hận thù khi kể chuyện …ngàn năm, dù ngàn năm khác sẽ qua …
Phải gặp nhau ở những đại hội thao trường, mới vuốt ve được nỗi sầu quyết tử, hun đúc chí anh hùng …một thời đã yêu cung kiếm nào xưa, để hoài tiếc nhớ ngày nay…
Anh “Thân Kính ” , chúc anh cùng quý ông hăng say, nhiệt thành nơi đại hội huynh đệ chi binh, cùng thương mãi …nghiệp lính dở dang của chúng mình …
CAO MỴ NHÂN
****
CHÙM THƠ CAO MỴ NHÂN
ÁNH HÀO QUANG. CAO MỴ NHÂN
Em giống loài thiêu thân
Mê si anh thật gần
Rất cần như ánh sáng
Đang rực rỡ tình xuân
*
Anh có là hào quang
Hay lân tinh mơ màng
Tóc tơ em ướt rối
Khóc cuộc tình dở dang
*
Người yêu dấu xa xưa
Hay tình nhân bây giờ
Hỡi người anh thân quý
Bóng đèn hiu hắt mưa
*
Trong vũng nước hào quang
Một lần thôi bẽ bàng
Hồn thơ em say đắm
Cánh sầu rơi mênh mang …
*
Hawthorne 22 – 7 – 2025
CAO MỴ NHÂN
*
ĐƯỜNG THÁNH CHIẾN. CAO MỴ NHÂN
Đó là đạo “ Tình Yêu “
Tuy ngó chung một chiều
Anh với em thánh chiến
Không rao giảng tín điều
*
Anh giành ngôi Giáo chủ
Ban phát khắp thế gian
Hiến dâng phù sinh đạo
Cho tất cả giai nhân
*
Đứng trên bờ ma giáo
Lằn ranh hú chính, tà
Trái tim sa chú nguyện
Lời mật tông quá đà
*
Thần sầu, quỷ khốc ơi
Thiêu đốt cả mặt trời
Lửa càn khôn cháy đỏ
Anh Vĩnh Cửu tuyệt vời …
*
Rancho Palos Verdes 8 – 7 – 2025
CAO MỴ NHÂN
*
CHUYỆN NHÀ THƠ. CAO MỴ NHÂN
Anh nói với em rằng:
” Nếu không làm được một bài thơ hay
Thì chẳng bao giờ nên nhân danh Thi Sĩ “
Em mắc cở quay đi …
*
Bài thơ hay phải viết thế nào
Các thi sĩ chưa từng hỏi : ” làm sao ? “
” Làm sao ư, chỉ là tưởng tượng
Một bài thơ trong ý nghĩ xôn xao…”
*
Đã có người hỏi Thi Sĩ Tô Thuỳ Yên
” Xin cho biết bài thơ hay nhất của ông ? “
Nhà Thơ tên tuổi ấy lắc đầu ngay:
” Tôi chưa vừa ý bài viết thực sự “
*
Thi Sĩ Thanh Tâm Tuyền tư lự
Mỗi lần ai hỏi về thơ
” Rằng thơ tác giả X đó hay, hay dở ? “
Lặng yên, nói: ” Mỗi thơ một riêng tư “
*
Mùa thu năm 1994, ở Praha Tiệp Khắc
Thi Sĩ Cung Trầm Tưởng suốt đêm nói Thơ
” Này, Thơ là cái Đạo
Tuỳ theo người tôn sùng tôn giáo …vẩn vơ …”
*
Vậy thì, thơ là vu vơ, riêng tư
Đừng đưa ra bàn luận
Hay thích tỏ bày cảm nhận
Hãy ngâm lên, coi thử tha nhân
Rung động hay thản nhiên
CAO MỴ NHÂN
*
BÓNG THỜI GIAN. CAO MỴ NHÂN
*
Vừa thấy bóng thời gian đua ngoài cửa
Tung bụi mù trong khoảnh khắc hoang mê
Đoàn xích thố cuồng phi ngang biển lửa
Nhưng ngựa anh vĩnh viễn quên đường về
*
Người yêu hỡi tháng năm qua lãng đãng
Con đò tình thủa đó trôi lang thang
Sa trường nào xô anh vào dĩ vãng
Để hồn thơ em xa xót điêu tàn
*
Như điệp khúc tuyệt tình ca bất tận
Rượu hoàng hoa thấm ướt đất trời này
Non sông nào gầm lên câu uất hận
Nỗi kinh hoàng khổ lụy tựa cơn say
*
Rồi tất cả biến tan vào hiu quạnh
Những lời câm hoang phế huyễn hư trào
Bầy ngựa chiến ngủ yên ngoài đất lạnh
Thời gian nằm thổn thức khóc chiêm bao…
CAO MỴ NHÂN
*
BẠN VÀ TÔI. – CAO MỴ NHÂN
Lâu nay tôi bạn hiếm khi gần
Lỡ sống in tuồng một … cố nhân
Cạnh biển, nhìn xa : đâu cũng thích
Bên non, ngó cận : đó là thân
Thơ như lũ lụt, càng thương bút
Chữ tưởng hạn khô, mới nợ vần
Hỏi đã bao giờ nghe xúc cảm
Tâm viên ý mã vụt qua sân …
CAO MỴ NHÂN (HNPD)
5 – 7 – 2025
*
NƠI BÁT QUÁI ĐỒ. – CAO MỴ NHÂN
*
Một nửa trăm năm em nhớ anh
Nhưng thôi, nói mãi cũng không đành
Thời gian như mối thù truyền kiếp
Nó khiến mình già cỗi, mỏng manh
*
Tơ tóc ngày xưa hết mượt mà
Tâm tình thì vẫn rộng bao la
Chỉ không êm ả, mà khô khốc
Ngó mãi đâu còn vẻ thướt tha
*
Xuân sắc chưa phai đã nát tan
Bao nhiêu ưu ái bỗng than van
Ô hay chân thực, thành hư huyễn
Duy có điều thương xót chẳng tàn
*
Thế kỷ thường ca tụng vĩ mô
Ôi thôi vạn sự xếp trong mồ
Thế nên tất cả đều an nghỉ
Nơi chốn ngàn thu “ bát quái đồ “
*
Rancho Palos Verdes 12 – 5 – 2025
CAO MỴ NHÂN (HNPD)
18 – 5 – 2025
*
GIÓ THÌ THẦM. CAO MỴ NHÂN
*
Mỗi ngày anh gọi tên em
Một lần, rồi cũng anh quên nhiều lần
Bởi vì danh tính phù vân
Nghe như hơi gió thì thầm bên tai
*
Thôi thì địa ngục, thiên thai
Kêu tên thay tiếng thở dài, thưa anh
Mỗi ngày tình muộn mong manh
Gió lên, mây nổi cuốn thành biển khơi
*
Tháng ngày cõi thế rong chơi
Có anh, nên đất với trời dửng dưng
Hồn chơi vơi giữa núi rừng
Lòng hoang liêu giữa đón mừng, chia phôi
*
Mỗi ngày anh hỡi chung đôi
Mà sao sương khói đơn côi đi về
Thở than hay tự vỗ về
Thiên thai, địa ngục cận kề tình ơi…
*
CAO MỴ NHÂN
*
CHO TÀN TẠ XƯA. CAO MỴ NHÂN
*
Năm năm thêm muộn màng hơn
Vẫn trong song cửa, sao hờn chân mây
Đông tây chất ngất sầu cay
Niềm tin mòn mỏi, tháng ngày triền miên
*
Năm năm xa xót oan khiên
Chén buồn tri kỷ từng phiên dặn dò
Để rồi dang dở hồn thơ
Vừa mong hạnh ngộ, đã chờ quan san
*
Năm năm trúc vọng thở than
Bỏ sông núi lại cho tàn tạ xưa
Bây giờ thời cũng qua trưa
Quyên kêu khản giọng, quốc chưa hẹn về
*
Năm năm buông thả lời thề
Ai mang trống lệnh đặt kề binh đao
Chiêu quân, khai hội chiến hào
Năm năm đã trễ tuyến đầu sử xanh…
Suối Bạc 28 – 11 – 2014
CAO MỴ NHÂN
VTLV CHÚC MỪNG THÀNH VIÊN 103 TUỔI: TRẦN CÔNG – LÃO MÃ SƠN – Được Văn Bút VNHN và VBVNHN VĐBHK Viếng Thăm & Tặng Quà – Vinh Danh Nhân Dịp Tưởng Niệm 50 Năm Văn Học Hải Ngoại.

*
VTLV CHÚC MỪNG VTS TRẦN CÔNG/LÃO MÃ SƠN
*
VĂN THƠ LẠC VIỆT kính xin mừng
Bách Tuế thêm ba đẹp quá chừng
LÃO MÃ SƠN – thơ tràn ngút biển
TRẦN VĂN CÔNG – chữ trải đầy rừng
Thương dân – thuở ấy luôn phò trợ
Giúp nước – ngày xưa cũng đã từng
Guinness chúc người giành kỷ lục
VĂN THƠ LẠC VIỆT tiệc tưng bừng!
Gia đình VTLV kính chúc thọ ANH HAI
Phương Hoa – July 23, 2025

VĂN THI SĨ TRẦN CÔNG – LÃO MÃ SƠN
- Cựu Sĩ quan Hiến Binh Quốc Gia.
- Cựu Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia VNCH
- Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương (Quân sự)
- Chương Mỹ Bội Tinh (Hành chánh).
NHỚ ĐỂ MÀ BUỒN
Ngồi buồn nhớ lại chuyện năm xưa
Tôi bỏ quê hương một chiều mưa
Lang thang xứ lạ đời vô định
Buồn tha hương nói mấy cho vừa
*
Năm tháng qua mau trên đất khách
Quê hương bỏ lại mấy thu rồi
Khi ra đi đầu còn xanh tóc
Nay mái đầu đã trắng như vôi
*
Tuổi tôi đã một trăm lẻ mấy
Tuổi càng cao càng nhớ quê hương
Nhớ thật nhiều, nước mắt tuôn rơi
Khóc cho quê nhà (và) khóc cho tôi
Hoa Đô (Lockwood House)
Trần Công – Lão Mã Sơn



KIỀU MỸ DUYÊN – TỊNH XÁ GIÁC LÝ: CHUẨN BỊ TRÙNG TU
VTLV TƯỞNG NIỆM 100 NGÀY ANH CHINH NGUYÊN LÌA TRẦN.

Tưởng Niệm 100 Ngày Cố Chủ Tịch Chinh Nguyên:
Một Buổi Sáng Đầy Xúc Cảm
San Jose, California – Sáng thứ Tư, ngày 16 tháng 7 năm 2025, khoảng 20 thân hữu và thành viên trong Văn Đàn Văn Thơ Lạc Việt đã cùng tụ họp tại tư gia cố Chủ tịch Chinh Nguyên để tham dự buổi lễ tưởng niệm 100 ngày kể từ ngày anh vĩnh viễn ra đi.
Trong không khí trang nghiêm và thấm đượm nghĩa tình, các văn hữu lần lượt phát biểu những lời chia sẻ ngắn gọn nhưng chân thành, đầy xúc động. Hiện diện trong buổi tưởng niệm có các vị: Lê văn Hải (Chủ tịch Văn Thơ Lạc Việt), Bác sĩ Phạm Đức Vượng, Giáo sư Nguyễn Đức Lâm, Ký giả Mạc Phương Đình, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Dũng, Ca sĩ Đồng Thảo, cùng nhiều thân hữu khác.
Mặc dù lời mời của anh Lê Văn Hải, tân Hội trưởng Văn Thơ Lạc Việt, chỉ mới được gửi ra trong vòng 24 giờ, nhưng tình cảm mọi người dành cho cố Chủ tịch Chinh Nguyên đã vượt qua mọi khoảng cách. Rất nhiều anh chị em văn hữu ở xa tuy không thể hiện diện đã nhanh chóng gửi email chia sẻ cảm xúc, bày tỏ lòng thương tiếc và kính trọng đối với người bạn văn khả kính, người đã từng góp mặt và để lại dấu ấn sâu đậm trong sinh hoạt văn học hải ngoại.
Anh Chinh Nguyên không chỉ là một người bạn văn, một người anh tận tụy trong sinh hoạt văn học nghệ thuật hải ngoại, mà còn là một nhà thơ và nhà văn, tác giả của nhiều tác phẩm song ngữ Việt–Anh mang chiều sâu tư tưởng và đậm đà bản sắc dân tộc. Qua ngôn ngữ và tâm huyết, anh đã góp phần nối liền tâm hồn người Việt ly hương và giới thiệu văn hóa Việt đến với bạn đọc khắp nơi trên thế giới.
Một trong những khoảnh khắc khiến nhiều người không khỏi rưng rưng là khi chị Thanh, phu nhân của cố Chủ tịch, nghẹn ngào không cầm được nước mắt trong lúc nói lời cảm tạ đến mọi người hiện diện. Nỗi đau mất mát vẫn còn đó, nhưng tình cảm ấm áp của bằng hữu văn chương là nguồn an ủi quý báu cho gia đình.
Buổi tưởng niệm thêm phần sâu lắng khi thi sĩ Minh Thúy, một thành viên kỳ cựu của Văn Thơ Lạc Việt, đã xúc động xuất khẩu thành thơ, kính viếng người bạn văn khả kính bằng bài thơ:
100 Ngày Cựu Hội Trưởng Chinh Nguyên
Văn Thơ Lạc Việt viếng trăm ngày
Kính mến Chinh Nguyên nghĩa trọng đầy
Cả hội yêu thương cùng tưởng nhớ
Dầu rằng anh đã bước lên mây
Có Thầy, Tiền Bối với anh em
Hội trưởng Hải Lê, bạn hữu kèm
Thắp nến dâng hương màn khói tỏa
Hoa Lan, hoa Cúc trắng xinh mềm
Dung nhan hiền hậu đẹp tâm hồn
Anh vẫn bên đời trọng ngữ ngôn
Thi Phú bút chương còn để lại
Văn Thơ Lạc Việt quyết lưu tồn
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 7/16/2025
Không dừng lại ở đó, thi sĩ Thái Huy cũng góp mặt bằng một bài thơ đầy suy tưởng mang tựa đề “Niềm Nhớ Dâng Đầy”, tưởng niệm cố thi sĩ Chinh Nguyên:
NIỀM NHỚ DÂNG ĐẦY
Một thoáng vèo bay tợ bóng câu
Tròn trăm Trung Chính đã qua cầu
Ý xin sớm đạt nơi thiên quốc
Lời nguyện mau qua chốn vực sâu
Lỗi tội dương trần Cha xóa giải
Hồng ân cõi phúc Nguyễn gom thâu
Gia đình thân hữu hằng mong vậy
Xa đó nhưng lòng chẳng cách đâu.
Thái Huy – 7/16/2025
Đáp lại thâm tình đó, thi sĩ Minh Thúy đã tức cảnh họa lại bài thơ bằng một thi phẩm mang tựa đề “Nhớ Anh Chinh Nguyên”, theo thể họa hoán vận – bốn vần:
Nhớ Anh Chinh Nguyên
(họa hoán vận – bốn vần)
Lại đến trăm ngày vụt vó câu
Thời gian tựa nước chảy bên cầu
Mầm chương mấy thủa hài kho rộng
Ý mộng bao mùa thỏa mộ sâu
Nắng rực khung trời chờ Phượng thắm
Cây xinh khóm lá đợi Ve sầu
Chinh Nguyên ngủ ấm vòng tay Chúa
Lạc Việt văn đàn nghĩa đậm thâu.
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 7/16/2025
Sau phần lễ, mọi người cùng ngồi lại bên nhau, ôn lại những kỷ niệm thân thương với anh Chinh Nguyên — từ những buổi sinh hoạt văn nghệ, những lần ra mắt thơ văn, đến những buổi họp mặt đầy tiếng cười và tinh thần gắn bó.
Cố Chủ tịch Chinh Nguyên, với tâm huyết và những đóng góp bền bỉ, đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong lòng anh chị em văn nghệ sĩ. Sự ra đi của anh là một mất mát lớn, nhưng tình cảm và di sản tinh thần anh để lại vẫn sẽ còn mãi trong lòng những người ở lại.
— Tường trình từ ký giả Mạc Phương Đình
TƯỞNG NIỆM 100 NGÀY ANH CHINH NGUYÊN
*
Hôm nay vừa đúng Trăm Ngày
Chinh Nguyên anh đã chia tay lìa trần
VĂN THƠ LẠC VIỆT họp quần
Nén hương hoa kính muôn phần tiếc thương
*
Từ anh rời cõi vô thường
Những người ở lại tiếp đường anh đi
Văn Thơ Lạc Việt khắc ghi
Chinh Nguyên căn dặn hãy vì quê hương
*
Mặc cho thế sự nhiễu nhương
Văn Hoá Việt Ngữ khuếch trương không ngừng
Hôm nay kỷ niệm tưng bừng
Rằng anh an lạc trên từng mây xanh
*
Cùng nhau nhắc nhở về anh
CHINH NGUYÊN đức trọng tâm lành biết bao
Người rơi lệ kẻ xuyến xao
Nhìn lên đi ảnh dạt dào nhớ thương
*
Ngẫm ra cuộc sống vô thường
Người đi kẻ ở vấn vương tấc lòng
Chúc anh đất Chúa thong dong
Hộ trì LẠC VIỆT tiếp dòng VĂN THƠ…
Phương Hoa – July 16, 2025
100 NGÀY CỰU HỘI TRƯỞNG CHINH NGUYÊN
*
VĂN THƠ LẠC VIỆT viếng trăm ngày
Kính mến CHINH NGUYÊN nghĩa trọng đầy
Cả hội yêu thương cùng tưởng nhớ
Dầu rằng anh đã bước lên mây
*
Có Thầy, Tiền Bối với anh em
Hội trưởng HẢI LÊ, bạn hữu kèm
Thắp nến dâng hương màn khói tỏa
Hoa Lan, hoa Cúc trắng xinh mềm
*
Dung nhang hiền hậu đẹp tâm hồn
Anh vẫn bên đời trọng ngữ ngôn
Thi Phú văn chương còn để lại
VĂN THƠ LẠC VIỆT quyết lưu tồn
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 7/16/2025
*
THƠ ĐƯỜNG XƯỚNG HỌA NHÂN TƯỞNG NIỆM 100 NGÀY ANH CHINH NGUYÊN
*
NIỀM NHỚ DÂNG ĐẦY
Một thoáng vèo bay tợ bóng câu
Tròn trăm Trung Chính đã qua cầu
Ý xin sớm đạt nơi thiên quốc
Lời nguyện mau qua chốn vực sâu
Lỗi tội dương trần Cha xóa giải
Hồng ân cõi phúc Nguyễn gom thâu
Gia đình thân hữu hằng mong vậy
Xa đó nhưng lòng chẳng cách đâu.
Thái Huy 7/16/25
THƠ HỌA
NHỚ ANH CHINH NGUYÊN
(Họa hoán vận – Bốn vần)
Lại đến trăm ngày vụt vó câu
Thời gian tựa nước chảy bên cầu
Mầm chương mấy độ hài kho chất
Ý mộng bao mùa thỏa mộ sâu
Nắng rực khung trời chờ Phượng thắm
Cây xinh khóm lá đợi Ve sầu
CHINH NGUYÊN ngủ ấm vòng tay Chúa
Lạc Việt văn đàn nghĩa đậm thâu.
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 7/16/2025
*
VỜI TRÔNG BÓNG NHẠN
(Họa cùng thi huynh Thái Huy)
Trăm ngày như gió thoảng bờm câu
Chớp mắt từ anh vượt thế cầu
Cố Vấn Văn Thơ lưu nghĩa đậm
Chinh Nguyên Lạc Việt khắc tình sâu
Người đi ái luyến đà buông xả
Kẻ ở thương buồn mãi níu thâu
Vọng tưởng trông vời theo bóng nhạn
Những ngày xưa cũ biết tìm đâu.
Phương Hoa – July 16, 2025
*
KHÔNG ĐỀ
Bóng nguyệt trôi nghiêng vạt gió sầu,
Trăm ngày qua vụt như bóng câu.
Văn gieo vạn chữ hồn thơ cũ,
Ý kết muôn điều mộng bấy lâu.
Phượng thắm đợi ai trong khung nắng,
Ve ngân nhớ bạn đẫm hàng châu.
CHINH NGUYÊN giã bạn về tiên giới,
LẠC VIỆT hồn xưa nối nhịp cầu.
Yên Sơn













THƠ SONG NGỮ – RƯỢU TIỄN: HUYỀN CHI – THANH THANH Chuyển ngữ.

SƯU TẦM – CHUYỆN NGẮN CẢM ĐỘNG: Giấc Mơ Trên Bãi Ngàn Sao – Tác Giả Vương Hà
Giấc Mơ Trên Bãi Ngàn Sao
Vương Hà
Posted by GLN
Cả bản Phiêng Đao ồn ào, kháo nhau bởi chuyện ông Hom quyết định nhận nuôi bé Nhủm: Con bé thật tội nghiệp, bố mẹ chết vì đi đãi vàng bị sập hầm, họ hàng lại chẳng còn ai. Thân hình Nhủm gầy còm nhom, người ngợm lem luốc, duy chỉ có đôi mắt là đẹp như mắt thiên thần, con ngươi tựa viên ngọc trong veo,
Phong cảnh Phiêng Đao vô cùng quyến rũ, đẹp như một ngôi sao sa xuống mặt đất và mãi mãi không muốn trở về bầu trời. Vì thế, những người đầu tiên đến đây lập bản đã đặt tên bản là Phiêng Đao với ý nghĩa là bãi sao. Bãi ngàn sao.
Nhưng dân bản Phiêng Đao nghèo lắm, họ vẫn thường nửa đùa, nửa thật nói với nhau: “Bản ta nghèo đến mức con Bọ hung không chịu được, chỉ muốn chuyển tổ đi nơi khác”. Vậy mà nhà ông Hom lại còn nằm trong số những người nghèo nhất bản Phiêng Đao, cho nên mọi người mới bàn tán, ái ngại cho chuyện ông đón bé Nhủm về nuôi.
Tuổi ông Hom đã ngoài sáu mươi, da nâu, tóc bạc, khuôn mặt gầy cùng với rất nhiều nếp nhăn. Vợ ông đã mất từ lâu, có đứa con trai duy nhất thì lại mắc căn bệnh hiểm nghèo rồi cũng vĩnh viễn bỏ ông mà đi. Giờ đây ông sống cùng Hạnh cô con dâu và đứa cháu nội: Thằng Đức.
Ông Hom hiểu vì sao mọi người lại ồn ào, bàn tán. Dân bản thương ông, lo cho ông: Ông biết. Ông cũng do dự, nhưng khi nhìn Nhủm ngồi thu lu, run rẩy như con thú non lạc mẹ, lòng ông đau như ngày mất vợ, mất con.
Ông bàn với Hạnh chuyện nhận nuôi Nhủm, cô con dâu của ông không đồng ý.
– Nhà mình còn bữa no, bữa đói thì làm sao có thể nuôi thêm được nó hả bố? – Hạnh gàn.
Nghe nói vậy, Nhủm cúi đầu, đôi mắt buồn như một lỗ hổng không có đáy. Nhủm không khóc, nhưng dáng vẻ nom thất vọng đến tột cùng. Thà Nhủm cứ khóc thì người chứng kiến sẽ thấy dễ chịu hơn.
Ông Hom thở dài, trên khuôn mặt gầy lại có thêm những nếp nhăn. Ông suy nghĩ mung lung lắm.
– Cháu cứ ở lại đây với ông. Từ nay ông sẽ đặt lại tên cháu là Đao, là một ngôi sao để sau này cháu gặp được những điều may mắn. – Ông nói với Nhủm như thế và kiên quyết không thay đổi ý định.
Gia đình ông Hom sống chủ yếu nhờ nghề đan lồng gà đem bán hoặc đổi chác. Bãi vườn nhà ông trồng đủ các loại tre: Tre đắng; tre ngọt; tre bương; tre “mợi”; tre gai… Dưới bàn tay chăm sóc của ông Hom, tre mọc san sát nhưng đều thành hàng, thành lối. Những bụi tre lên cao thẳng, không bao giờ chịu gục đổ trước gió bão chính là tất cả tài sản quý giá nhất mà gia đình ông Hom có. Măng trên rừng thường mọc theo mùa, nhưng vườn tre nhà ông thì măng mọc quanh năm. Ngon nhất là măng tre ngọt, chiếc nào cũng bụ mập to như bắp vế, ăn sống ngọt tựa khoai lang trồng trên đất cát pha.
Nhà ông Hom, bữa cơm nào hầu như cũng có măng. Ông thường nói: “Nhà mình sẽ không bao giờ lo bị chết đói vì có măng”. Nhưng măng thì không thể cứ ăn mãi một món. Vậy là ông làm rất nhiều kiểu món để ăn cho đỡ chán: Măng chua; măng gio; măng khô; măng ngâm ớt;… măng nướng; măng xào; măng ỏm; măng nấu canh chảo; măng kho cá suối… Ông Hom hết sức tự hào: Nếu mỗi bữa chỉ ăn một món thì mất cả tháng cũng không thể nếm hết những món măng của ông. Có lẽ vì thế mà quần áo ông quanh năm bốc lên mùi măng chua hăng hăng, trái hẳn với cái tên Cha, Mẹ đã đặt cho ông: Hom có nghĩa là hương thơm.
Đao quấn quít bên ông Hom như hình bóng, bé theo ông ra ngoài bãi vườn chọn tre bương về đan lồng gà. Những thân tre mềm mại uốn theo làn gió hiu hiu. Lớp lá tre khô phủ dầy trên mặt đất thực sự là một tấm thảm êm. Khi chọn tre, bao giờ ông Hom cũng trở đằng sống dao gõ lên thân cây tre bương rồi dỏng tai nghe. Thân cây nào nghe gọn gàng tiếng cốc cốc là có thể hạ được, còn nếu nghe bộp bộp là tre chưa đủ độ, mang về đan lồng gà sẽ nhanh mọt hỏng.
– Đao, cháu xem, cây như thế này là chặt được! – Ông Hom chỉ tay vào cây bương trước mặt.
Bé Đao nhìn ngước lên ngọn bương, đôi mắt thiên thần thấy ở đó có một tổ chim. Ngoài tiếng gió xua cành tre đập vào nhau, bé còn nghe thấy cả tiếng chim non kêu rất khẽ. Chắc là lũ chim non đang đói và mong đợi bố, mẹ. Chim cũng như người, trẻ con khi khát sữa bao giờ cũng khóc.
– Ông ơi! Đừng hạ cây này, trên cây đang có tổ chim. Để cho chim non thành chim lớn đã hãy hạ ông ạ! – Bé khẩn khoản.
Ông Hom nheo mắt, nhìn vút lên tổ chim rồi nở nụ cười đôn hậu. Dân Phiêng Đao vẫn có tục lệ: Khi vào rừng đi săn, không bao giờ được bắn, giết thú đang có mang hoặc đang nuôi con. Vì vậy, lẽ nào ông lại có thể hạ cây, phá tổ chim non. Ông bước từng bước khoan thai chuyển sang bụi tre khác, tiếp tục trở sống dao gõ thử lên từng thân tre. Đao vui lắm vì tổ chim đã được an toàn. Bé nhìn lại tổ chim lần nữa rồi đi theo sau ông. Gió thổi lá tre reo như khúc hát ru khiến Đao lúc nãy chân còn nhảy tưng tưng, nay mắt bỗng buồn díp lại, muốn ngả mình lên thảm lá tre khô ngủ một giấc thật êm đềm.
Đao là đứa trẻ chẳng lúc nào chịu ngồi yên: Bao giờ bé cũng nghĩ rằng mình cần phải giúp ông, giúp cô Hạnh làm một việc gì đó. Thế là trong nhà có mấy chiếc nồi đen sì, cáu bẩn muội bám, bé mang ra cạo sạch bong. Mình còn có thể giúp ông làm gì nữa nhỉ? À! Vẫn còn những mảnh giẻ ông thường dùng quấn các ngón tay khi chuốt nan đan lồng gà. Đao nghĩ: Cần phải đem chúng đi giặt thật sạch, nếu không lỡ bị đứt khi chuốt nan, tay ông lại nhiễm trùng thì khổ. Đao mang giẻ ra suối ra sức vò thật kỹ, lòng bàn tay của bé đỏ ửng vì bị cọ xát, những ngón tay con con thì trắng hồng lên. Sau đó bé thử xem giẻ có thật sạch không bằng cách hái lá khoai môn đặt lên hõm đá, rồi vắt nước vào đó để xem đã trong bằng nước suối hay chưa? Đao vô cùng hài lòng: Sạch quá rồi đấy! Thế giới trong tâm hồn Đao thật hết sức đơn giản: Bé yêu quý mọi người trong gia đình và luôn muốn được làm việc để giúp mọi người.
Đưa Đao về ở cùng được một thời gian, ông Hom nghĩ đến việc cho Đao đi học. So với độ tuổi bắt đầu vào lớp 1 thì Đao đã muộn mất 2 năm. Hạnh làm căng, bảo là lấy tiền đâu cho con bé đi học. Không thể để cho con trẻ phải thất học vì cuộc sống khốn khổ, rồi sẽ lại phải sống khốn khổ vì thất học, ông Hom quyết tâm đến nhà trường xin cho bé Đao được đi học.
Đến lớp thì phải có túi đựng sách. Ông Hom ngắm nghía chiếc quần dài của mình, ông chắt lưỡi: Ống quần mặc dẫu có ngắn đi một chút cũng chẳng sao. Vậy là ông cắt bớt hai cái ống quần dài, chập lại để khâu thành túi đựng sách cho Đao. Đàn ông khâu vá bao giờ cũng vụng về, không khéo như đàn bà. Mắt ông Hom kém, lại không có kính, kim đâm phải tay ông chảy cả máu. Ông không dám nhờ Hạnh. Bây giờ con dâu đang giận, nhờ nó làm khác nào chất thêm củi, thổi thêm gió vào đám cháy. Sẵn còn có ít chỉ màu, ông nghĩ cần phải thêu thêm hình mây và núi làm đẹp cho chiếc túi. Đao chăm chú nhìn ông kiên nhẫn vắt từng mũi chỉ. Đường thêu rất vụng, nhưng chiếc túi nom cũng có vẻ đẹp hơn. Ông không tự tin lắm, ngượng ngập nói với Đao là ông thêu núi, thêu mây. Còn Đao sau khi ngắm nghía lại quả quyết rằng những hình đó chính là măng và nấm.
Buổi đầu tiên Đao đến lớp, ông Hom hồi hộp chẳng khác gì ông mới là người đi học. Ông ngồi đan lồng gà, nhưng chốc chốc lại dừng tay, ngóng ra cổng. Đao tan học vừa về đến nhà, ông đã sốt ruột lấy ngay vở của bé giở ra xem. Nhìn chữ Đao viết, dù không biết đọc nhưng ông Hom vẫn cười nghiêng ngả, bởi chữ nét như tóc rối, nét như giun oằn, nét lại xiên dọc, xiên ngang giống những cành tre gai tấp ngoài bờ rào. Nói tóm lại, đám chữ cứ búi vào nhau không gỡ ra được. Cười xong, sợ Đao xấu hổ, ông động viên: ” Làm cái gì lúc mới bắt đầu mà chẳng khó. Cháu cố gắng thì thể nào cũng sẽ học được hết các con chữ”.
Đao học rất chăm. Nhờ được đi học mà Đao nhận thấy mọi thứ xung quanh mình thật tuyệt vời: Đường đến lớp có rất nhiều hoa dại và bướm, mặt đất thì hiền hoà và xanh rợn cỏ non. Đao học giỏi nhất lớp, ông Hom vui không biết để đâu cho hết. Ông sung sướng trào nước mắt khi nhìn Đao trực tiếp nắn nót viết hai chữ: Ông Hom. Nước mắt vui của người già cũng trong như nước mắt của con trẻ và nhẹ như bông.
Nhưng cô Hạnh thì không vui. Cô cho rằng: Nuôi Đao ăn thôi cũng đã là quá sức lắm rồi, nay còn bày vẽ chuyện đi học. Trong Hạnh như có nuôi một tổ ong đất. Đừng bao giờ đùa với ong đất, những con trâu to khoẻ nhất cũng có thể chết khi đã sa phải vào tổ ong.
Sự căng thẳng trong nhà ông Hom ngày càng trở nên tồi tệ, lũ ong đất xui Hạnh làm những điều không nên làm: Cô rắc cát vào gạo rồi nấu cơm. Cơm chín, cô dọn lên bình thường coi như không có việc gì xảy ra.
Nhai miếng cơm, ông Hom nhăn mặt:
– Sao cơm hôm nay ăn lại có nhiều sạn cát thế này?
– Nhà tự nhiên nuôi thêm người, phải độn thêm cát mới đủ ăn! Không ăn được thì đem đổ đi! – Hạnh nói, đồng thời hai tay chống nạnh với tư thế sẵn sàng thả đàn ong đất.
Ông Hom tê tái, cố và thêm miếng nữa. Nhưng cơm độn cát, ăn sao nổi. Vậy là cả nhà cùng nhịn đói. Thương nhất thằng Đức, bị đói oan bởi cái tội của người lớn. Đôi mắt nó đặt những dấu hỏi: Tại sao???. Không còn biết phải làm gì, ông Hom ngồi lặng như người câm, mặc kệ nước mắt chảy. Nước mắt buồn của người già, đùng đục và nặng như đá.
Mọi chuyện còn tiếp tục tệ hơn nữa, bắt đầu từ việc Hạnh hỏi:
– Tiền bán lồng gà dạo này đi đâu? Sao ông không đưa cho con?
Ông Hom dè dặt:
– Tiền lồng gà bán được, bố đã cho bé Đao đem mua hết sách vở rồi con ạ!
Hạnh quắc mắt, đá mạnh vào chiếc lồng gà phơi trên sân. Không tin nổi, chiếc lồng gà bay lên mắc vào bờ rào dựng bằng những cành tre gai.
– Đã bảo đừng cho nó đi học mà ông không chịu nghe. Người dưng như con khỉ trên rừng thì ông thương. Cháu nội ruột già máu mủ ông lại coi là cục đất. Gà không cần học cũng đẻ ra trứng. Nếu người nhờ đi học mà đẻ được ra trứng thì hãy cho đi – Hạnh vừa nói, tay vừa tự đấm thùm thụp vào lồng ngực.
– Con dâu à! – Tiếng ông Hom nhẹ nhàng – Con trách Bố không thương thằng Đức là không đúng. Bố chỉ nghĩ, nhà mình nghèo nhưng vẫn cố gắng nuôi thêm cái Đao được con ạ! Nếu mình đuổi đi thì nó biết cậy nhờ vào ai?
– Ông đã nói như thế thì từ ngày mai con với thằng Đức sẽ khắc nấu ăn riêng! Còn ông muốn làm gì thì làm, con mặc kệ! – Giọng Hạnh nặng nề, tưởng như không thể bay thoát được lên khỏi mặt đất.
Ông Hom ngồi lặng thừ, thở dài. Ông vô thức vớ lấy cái điếu ục, nhồi một mồi thuốc lào thật to, châm lửa rít lấy, rít để. Thứ thuốc lào được trộn thêm râu ngô phơi khô, mùi khét át đi cả mùi thuốc lào. Miệng ống điếu rộng, ông phải nghiêng hẳn một bên má để bịt cho kín miệng ống. Khi rít, má ông tóp lại nom thật tội nghiệp. Nhưng thuốc lào cũng không giúp gì hơn được cho ông. Ông tủi thân. Ông buồn. Ông hy vọng: Chắc tại con dâu nóng giận nên mới nói thế thôi, chứ thực ra nó vẫn là đứa con dâu tốt. Từ khi chồng nó mất, đã có mấy đám đến hỏi, vậy mà nó từ chối ở vậy nuôi con, nuôi bố chồng. Tính khí con dâu nay trở thành như vậy, cũng là do cái đói, cái nghèo đưa đẩy, khiến người ta phải ích kỷ, tính toán chi ly – Nghĩ thế, ông thấy đỡ tủi thân đi một chút.
Bếp lửa nhỏ nhà ông Hom đã phải chia ra làm đôi. Ông Hom chỉ nhận lấy hai chiếc nồi: một chiếc còn khá tốt, một chiếc hết sức méo mó. Chiếc nồi còn khá tốt ông dùng nấu cơm, chiếc méo mó ông để đun thức ăn.
Bữa nay, ông Hom dùng chiếc nồi méo luộc hai quả trứng gà, một quả ông mang cho bé Đức: Dù có chia ra ăn riêng thì Đức vẫn là đứa trẻ, là cháu nội ông. Một quả ông bóc sẵn bỏ vào bát cho bé Đao. Còn phần ông là bát ớt tuơi giã muối và đĩa măng luộc. Màu măng luộc cũng trắng tinh như màu lòng trắng trứng. Nhưng ở bản Phiêng Đao, một quả trứng có thể đổi được mười đĩa măng luộc.
– Cháu ăn đi! – Ông Hom cầm bát cơm có quả trứng đặt vào tay Đao.
Đao ngần ngừ, không nỡ nào ăn quả trứng, bé muốn nhường lại cho ông.
– Cháu không ăn trứng đâu! – Đao cười, chỉ vào đĩa măng luộc – Cháu thích ăn măng này cơ ông ạ!
Ông Hom dùng đũa ấn quả trứng sâu vào trong lòng bát cơm.
– Không, cháu phải ăn! – Ông nói dịu dàng nhưng kiên quyết – Trẻ con ăn trứng gà mới mau lớn chứ!
Đôi mắt Đao nhìn quả trứng gà. Miệng lưỡi Đao có nước bọt tiết ra. Quả trứng này không phải là trứng vàng trứng bạc. Lòng đỏ và lòng trắng của nó cũng như mọi quả trứng khác. Nhưng mình không thể ăn! Ông đã vất vả nhiều, cái gì ngon cũng đều nhường cho mình. Mình không thể ăn! Mình phải làm thế nào bây giờ nhỉ? Trí óc non nớt của Đao chợt nghĩ ra một cách mà bé cho là tốt nhất. Đao đưa hai tay ôm lấy bụng, khuôn mặt giả vờ nhăn nhó, rên rỉ:
– Ối, ông ơi! Cháu đau bụng quá, không ăn cơm nữa đâu!
Đao chạy lên nằm trên giường, úp mặt xuống gối. Ông Hom lo lắng chạy theo. Thấy Đao nằm úp sấp, rên khe khẽ, thỉnh thoảng lại quằn quại sang hai bên, ông nghĩ bé đang đau lắm.
– Cháu cứ nằm im đây nhé! Để ông đi hái búp ổi non cho cháu nhai xem có đỡ đau không – Ông nói.
Đao vẫn nằm úp, sấp mặt xuống gối, chẳng dám ngẩng lên bởi xấu hổ vì đã trót nói dối. Bé thì thầm trong miệng không để ông Hom nghe: “Ông ơi! Cháu chỉ giả vờ để nhường ông quả trứng. Ông ăn quả trứng đi là cháu sẽ hết đau bụng ngay thôi!”. Ôi! Không phải tất cả mọi lời nói dối đều xấu xa. Đôi lúc vẫn có những lời nói dối xứng đáng được tha thứ.
Phải sống và lớn lên trong điều kiện khó khăn thì chuyện mắc bệnh cũng không có gì lạ. Bệnh suyễn lúc đầu còn chầm chậm rồi sau đó ngang nhiên chặn bàn tay lên ngực thằng Đức. Cứ cách vài ngày, thằng Đức lại lên cơn hen. Lúc đó, mặt Đức tái ngắt, thân thể mềm oặt như cụm rêu trong lòng suối. Đao thương lắm, nó rất muốn được xoa giúp cho em Đức bớt khó thở. Nhưng Đao không dám đến gần em vì sợ cô Hạnh, bé chỉ dám đứng nem nép ở sau khe cửa để ngó vào. Ngồi bên cạnh em Đức, cô Hạnh xù lên như con gà mái bảo vệ con trước lũ quạ. Nhưng cô Hạnh không phải là gà. Cô Hạnh là Người nên cô khóc, nước mắt ướt hết hai vạt áo đằng trước. Đứng ở sau khe cửa, nhìn thấy vậy Đao cũng trộm khóc theo. Nếu Mẹ còn sống, mình bị ốm chắc chắn Mẹ cũng sẽ thương mình như thế!
Không ai bảo, nhưng Đao luôn để ý xem có ai biết cách chữa bệnh của em Đức. Ngay cả trong giấc ngủ Đao cũng thường hay mơ thấy em Đức khoẻ mạnh, rồi hai chị em được cô Hạnh dắt tay cùng đi hái sim trên bãi ngàn sao. Đao tin mãnh liệt: Một ngày nào đó chắc chắn sẽ có người chữa khỏi được bệnh cho em Đức!
Một buổi, Đao được ông bảo đem măng đến biếu bà Pòm, bà sống độc thân không con cháu trong một căn lều dựng ven chân đồi. Căn lều của người sống cô độc không cần có cửa. Vừa mới bước vào trong Đao đã cảm thấy mùi nồng của bã trầu xộc lên hăng mũi. Mùi này có chút gì đó hơi giống mùi măng chua mà Đao chưa nghĩ ra.
Bà Pòm giữ Đao ở lại ngồi chơi.
– Cháu phải về ngay thôi bà ạ! Lúc này ở nhà em Đức đang lên cơn hen. – Đao lễ phép từ chối.
– Ôi dào! Tưởng gì, bệnh hen suyễn thì chỉ cần bắt lấy 1000 con “Đuổng khem”, đem nướng lên ăn là sẽ khỏi! – Bà Pòm vừa nhai trầu vừa nói, đồng thời nhổ toẹt xuống đất một bãi nước bã trầu đỏ quạch.
Chính Bà Pòm cũng không ngờ rằng mình đã vô tình mở toang cho Đao biết một điều bí mật. Đôi mắt thiên thần sáng rực. Đao mừng quýnh, nhảy cẫng lên. Hay quá! Hóa ra chỉ cần ăn 1000 con sâu chít là chữa khỏi bệnh hen suyễn. Chủ nhật này được nghỉ học cả ngày, mình sẽ đi bắt 1000 con sâu chít chữa bệnh cho em Đức.
Nghĩ là làm. Tinh mơ chủ nhật, Đao nhẹ nhàng rút then cửa, rồi rón rén ra khỏi nhà. Đao nhằm hướng núi đá tai mèo mà đi. Chỉ có chỗ núi đá tai mèo mới mọc nhiều cây chít.
Chít mọc thành từng bụi, Đao chặt, rồi lễ mễ ôm dồn thành đống, và sau đấy chẻ chúng tìm sâu. Thoạt đầu, Đao nghĩ mỗi cây chít sẽ đều có một con sâu. Nào ngờ, chẻ tước cả đống may mới được 1, 2 con. Nhưng Đao không nản: Mình sẽ chặt thật nhiều để kiếm đủ 1000 con.
Trưa, nắng rọi đúng đỉnh đầu, Đao đổ lũ sâu chít kiếm được ra đếm: 100, 100,… lại 100 con nữa. Bao nhiêu 100 thì được 1000 nhỉ? Đao đã đi học nhưng mới chỉ biết đếm đến con số 100, chưa biết thế nào là 1000. Đao nhìn chỗ sâu chít: Ít như thế này chắc là vẫn chưa đủ. Đao nhìn kỹ xung quanh, những bụi chít dễ lấy thì Đao đã chặt hết, chỉ còn lại những bụi mọc cheo leo trên vách đá. Đao bặm môi trèo lên, đá tai mèo nhọn và sắc đâm vào chân trần buốt đến tận đỉnh óc. Đao nghiến răng cho khỏi bật tiếng kêu. Để chữa khỏi bệnh cho em Đức, dù đau hơn nữa mình vẫn chịu được.
Trong lúc Đao đang vật lộn, leo lên những vách đá tai mèo thì ông Hom lại lo lắng đi tìm cháu. Từ trước đến nay, chưa bao giờ con bé đi đâu mà không nói cho ông biết. Ông đến từng nhà để hỏi. Sau khi hỏi hết nhưng không ai nhìn thấy Đao, ông Hom liền trèo lên ngọn đồi cao chắn trước bản. Đứng từ trên đỉnh đồi, ông khum lòng hai bàn tay vào nhau, vòng trước miệng rồi ra sức hú dài, mong nếu bị lạc thì Đao cũng sẽ nghe thấy, theo tiếng hú mà về. Mỗi lần ông cất tiếng hú, dưới lớp da nhăn nheo, gân cổ nổi lên chằng chịt như đám rễ cây. Ông chợt nghĩ: Hay là sáng nay con bé ra suối, sau đấy bị ngã trượt chân…
Ông rùng mình không dám nghĩ tiếp, rồi cuống cuồng đi mượn ngay chiếc thuyền độc mộc của hàng xóm vẫn dùng đánh cá. Mình trần, mặc mỗi chiếc quần đùi, ông tất tưởi chống thuyền xuôi theo dòng nước tìm Đao.
Chiều chạng vạng, Đao mới về đến nhà, bụng đói, mặt bê bết mồ hôi và tái xanh vì mệt, nhưng tay thì vẫn giữ chặt miệng túi đựng những con sâu chít. Vừa nhìn thấy Đao, không thèm để ý đến những điều đó, Hạnh vơ ngay lấy chiếc chổi đập chan chát vào vách tường, bức vách được trát bằng bùn rơm bong ra từng mảng.
– Khốn nạn! Mày đi chết dấm, chết dúi đâu cả ngày nay bây giờ mới thấy mặt? – Thái độ Hạnh hung dữ đến mức Đao nghĩ rằng trời sắp sập.
Đao co rúm người lại, khuôn mặt đã tái xanh lại càng tái thêm. Hạnh nhào tới, giằng lấy chiếc túi thái bé đang khoác trên người ném mạnh xuống chân. Từ trong túi rơi ra một gói sâu chít trắng ngà và béo nẫn, chúng tung toé lên mặt đất. Hạnh lấy mũi bàn chân di lên từng con cho hả cơn tức. Sâu chít nát bét, chảy ra một thứ nước trắng nhờ như sữa.
Đao quỳ xuống, mếu máo:
– Cô ơi! Cháu xin cô đừng đánh cháu! Cháu biết lỗi rồi. Chỉ tại cháu nghe thấy người ta bảo nếu ăn 1000 con sâu chít nướng thì sẽ chữa khỏi được bệnh hen suyễn, nên… nên cháu đi kiếm để mang về nướng cho em Đức ăn. Cháu… cháu sợ cô mắng nên không dám nói.
Chiếc chổi giật mình, cứng đờ, nó chỉ muốn được rời khỏi tay Hạnh, trốn vào một góc nhà nào đấy đứng yên tĩnh một mình để suy nghĩ.
Cũng vừa đúng lúc ấy ông Hom trở về, từ ngoài cửa ông đã nghe hết những lời Đao nói. Ông ôm chầm lấy bé và nghẹn ngào thốt lên hai tiếng “cháu tôi”. Mùi măng chua bốc lên từ quần áo của ông đem lại cho Đao cảm giác an lành. Chỉ có những đứa trẻ như Đao mới cảm nhận được rằng mùi măng chua cũng là một thứ hương thơm thân thiết. Ôi, hương thơm… mùi măng chua. Ông Hom bật khóc. Chiếc chổi thẳng đuỗn, vì không kịp lẩn tránh vào bất kỳ một xó xỉnh nào đó, nó đành phải lặng lẽ chứng kiến những giọt nước mắt buồn của người già: Đó là những giọt nước mắt đùng đục và nặng như đá.
Cả đêm hôm đấy, Hạnh nằm trằn trọc mãi không tài nào ngủ được. Chốc chốc cô lại trở mình, chiếc giường tre dưới lưng kêu rin rít như hơi thở khó nhọc. Chính vì không ngủ được mà Hạnh mới phát hiện ra rằng giường có rệp. Những đêm khác, làm việc quần quật suốt ngày mệt lử, nằm xuống là lập tức ngủ ngay nên rệp đốt cô cũng không biết. Hạnh ngồi dậy, thức soi đèn bắt rệp, được con nào cô đều đặt lên viên đá nghiền cho đến khi không còn nhìn thấy tí dấu vết nào nữa. Vừa bắt rệp, cô vừa tự trách mình cũng ác không khác gì con rệp. Gần sáng, mệt quá Hạnh ngồi bệt xuống đất, đầu gục vào thành giường rồi thiếp đi. Cũng vẫn trên chiếc giường đó, thằng Đức đang ngủ ngon lành say sưa, hơi thở đều đều, nhẹ nhàng. Đêm nay nó không lên cơn hen.
Hạnh thức dậy muộn hơn mọi khi. Cô mở toang cánh cửa để ngắm mặt trời mọc. Nắng bình minh tô hồng lên khuôn mặt mất ngủ của cô. Rồi đây thằng Đức sẽ có một người chị tốt và biết yêu thương nó – Hạnh nghĩ như thế. Cô rút mớ tiền lẻ nhàu nhĩ từ trong túi ra, rồi vuốt cho thật phẳng phiu. Hạnh quyết định: Chiều nay sẽ đi chợ mua món gì đó ngon ngon về nấu cơm cho cả nhà cùng ăn. Cũng khá lâu rồi, Mẹ con cô, ông Hom, bé Đao đã không ngồi ăn cơm cùng nhau.
Hạnh đến chỗ ông Hom đang ngồi giữa đám lồng gà ngổn ngang.
– Chiều nay ông đừng thổi cơm. Con sẽ đi chợ mua thức ăn về nấu cho cả nhà. – Cô nói mà mặt cúi gằm xuống đất, mắt không dám nhìn thẳng.
Ông Hom sốt sắng nhận lời. Vậy là con dâu ông đã thông. Ông vẫn luôn luôn cầu mong điều này, nay thì nó đã đến. Ông thở phào: Cơn mưa bão nào dù dữ dội đến mấy cũng có lúc phải tạnh.
Ông còn dặn Hạnh:
– Con dâu nhớ gánh theo chục chiếc lồng gà đi bán. Nếu bán được, con dâu mua thêm cho bố cút rượu!
Hạnh đi bộ hơn chục cây số đường rừng để đến chợ, có bao nhiêu tiền trong túi cô bỏ ra mua thức ăn bằng hết. Hạnh dường như đã phá bỏ, thoát khỏi được tổ ong đất, cả buổi chiều cô dành thời gian để chuẩn bị cho bữa cơm. Cô đi ra, đi vào, tất bật nấu nấu, nướng nướng. Bữa cơm chiều hôm nay phải thật ngon.
– Mẹ ơi! Hôm nay nhà mình có khách quý à? – Bé Đức hỏi.
Hạnh không trả lời, chỉ nghĩ: Còn quý hơn gấp nhiều lần khách quý!
Cả nhà ông Hom ngồi cùng nhau ăn một bữa cơm không có món măng. Thằng Đức là người vui nhất, bởi nó rất yêu quý ông nội và chị Đao. Hạnh tuy vẫn còn ngượng ngập nhưng vẫn luôn tay gắp những miếng ngon cho bố chồng và Đao. Ông Hom mỉm nụ cười nhẹ nhõm: Ông bao giờ cũng nghĩ con dâu là người tốt.
Ăn cơm xong, Đao cùng với Hạnh ngồi ngoài sân rửa bát. Bé kể cho Hạnh nghe những chuyện ngộ nghĩnh khiến cô phải bật cười. Đến tận hôm nay Hạnh mới ngắm nhìn Đao thật kỹ. Con bé thật nhanh nhẹn và xinh xắn. Tại sao mình không nhận thấy điều này sớm hơn nhỉ?
– Cháu có ra suối tắm cùng cô không? – Hạnh hỏi, giọng trìu mến.
Đao đưa mắt nhìn ông Hom như muốn hỏi ý kiến. Ông gật đầu. Đao phấn chấn chạy vụt ngay vào nhà lấy quần áo, gió tung mớ tóc dài mượt của bé vẽ vào không gian hình một suối sao băng.
Đây là lần đầu Đao đi tắm cùng cô Hạnh. Chắc chắn cô không còn giận mình và ông nữa. Đao hát líu lo, giọng bay lên cùng những giọt nắng cuối của một buổi chiều vàng rất đẹp, đàn suối hoà theo những âm thanh trầm bổng. Hạnh vui lây, lòng cô đã rũ bỏ được tổ ong đất, giờ đây nó như dòng mương được khơi thông, êm êm trôi chở nước cho những chân ruộng bậc thang.
Hai cô cháu cùng tắm khoả thân. Nước suối thượng nguồn vô cùng trong sạch và mát, tắm mình dưới làn nước ấy bao giờ cũng có cảm giác bình yên và thanh thản. Bàn tay Hạnh nhẹ nhàng kỳ cọ lên tấm lưng gầy gò của bé Đao, nơi xương sống nổi gồ lên như những gióng trúc cằn. Lòng cô dâng lên cảm xúc kỳ lạ: Trẻ con, bất kể chúng là đứa nào cũng đều hết sức đáng yêu! Hạnh xoay bé Đao quay mặt về phía mình rồi nhìn sâu vào đôi mắt đó. Đôi mắt thiên thần, con ngươi như viên ngọc trong veo.
Chợt Bé Đao rụt rè cất tiếng:
– Cô ơi! Từ nay cô cho cháu gọi cô là Mẹ, cô nhé!
Mũi Hạnh cay như sặc nước, cô choàng ôm lấy cơ thể bé Đao đang ướt sũng và thốt giọng nghèn nghẹn:
– Ừ! Ngay ngày mai Mẹ sẽ mua cho con bộ quần áo mới để con đi học. Con phải cố gắng học thật giỏi để mai kia có thể trở thành Cô giáo dạy chữ cho người dân trong bản Phiêng Đao.
Bé Đao “vâng” thật ngoan rồi dụi đầu vào bầu ngực Hạnh. Bầu ngực của những người mẹ bao giờ cũng rất ấm và êm ái. Chiều không còn nắng. Và lúc này, bầy côn trùng hoạt động về đêm đã bắt đầu tấu lên những thanh âm huyền diệu của sự sống. Trên trời cao lấp lánh đầy ánh sáng của muôn vì tinh tú, soi mênh mang xuống bãi ngàn sao.
Rất có thể về sau này, bản Phiêng Đao sẽ có một cô giáo chính là bé Đao ngày nào vẫn đến lớp với chiếc túi sách được khâu từ 2 mảnh ống quần thấm đẫm mùi măng chua./.
Vương Hà
VTLV TRÂN TRỌNG CHÀO MỪNG Tân Thành Viên VĂN-THI-SĨ-DỊCH GIẢ VƯƠNG THANH.

*
VTLV CHÀO MỪNG VĂN, THI SĨ, DỊCH GIẢ, VƯƠNG THANH
Vui mừng đón khách, khách tài ba!
Thung Lũng Hoa Vàng nắng trải hoa
DỊCH GIẢ tay tiên gom gió lượn
VƯƠNG THANH bút ngọc đón mây sà
VĂN THƠ lan tỏa tràn muôn nẻo
LẠC VIỆT gồm chung xúm một nhà
Quốc Ngữ Hồng Bàng luôn bảo vệ
Lưu truyền con cháu nước Nam ta.
Phương Hoa – July 13, 2025
***
THƠ HỌA
NGÔI SAO SÁNG VƯƠNG THANH
(Họa Hoán Vận )
Số một, không nhì chẳng thể ba
Thi đàn đón tiếp rực bông hoa
Văn Thơ tỏa nắng vui mừng hội
Lạc Việt bừng hương hãnh diện nhà
Dịch giả tài năng ngờ Thánh phóng
Thi nhân xuất chúng ngỡ tiên sà
VƯƠNG THANH tuyệt đỉnh gìn ngôn ngữ
Góp sức cho đời nhập hội ta.
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 7/14/2025
*CHÀO MỪNG VƯƠNG THANH
đáo nhậm diễn đàn VTLV
(Họa)
*
Nghe danh vần vũ tựa phong ba
Ngôn ngữ mênh mông vạn sắc hoa
Bút pháp VƯƠNG THANH dâng sóng nổi
Văn tài Thế Tộc lộng mưa sà
Đã từng loạn độc thư cao giá
Lại vẫn bình sinh đạo hạnh nhà
Hồn mộng thênh thang cùng đất nước
Tương lai nghĩa cả đẹp dân ta …
Hawthorne 14 – 7 – 2025
CAO MỴ NHÂN
*
THƠ HỌA CỦA VƯƠNG THANH
Cảm tạ tấm lòng thi hữu xa
Những vần thơ viết ngát hương hoa
Ấm tình văn nghệ khung trời cũ
Đẹp khúc tri âm đất khách xa
VĂN bút sẻ chia vần nhã nhạc
THƠ lòng trao gửi khúc hoan ca
LẠC Hồng mãi chảy trong dòng máu
VIỆT sử lưu phương thi nhạc ca.
Thân Kính,
Vương Thanh
*
ĐÓN CHÀO VƯƠNG THANH
(Họa)
Ngưỡng mộ vô ngần Mẹ với Ba!
Đà sinh quý tử dậy kỳ hoa
Mươi dòng đã chép âm thầm đọc
Cặp bướm vừa nghe hớn hở sà
Việt Ngữ tinh thông mời mọc khách
Hán Nôm lão luyện viếng thăm nhà
Năm châu bốn biển đều khen ngợi
Thỏa dạ bao người cả chúng ta!
Như Thu
07/16/2025

KIỀU MỸ DUYÊN- Ký Sự: SÔNG CÓ KHÚC, NGƯỜI CÓ LÚC; TRỞ LẠI CỔ THÀNH; Qua Cơn Bão Lửa (Phóng Sự Chiến Trường)
Ca Khúc “CÁNH NHẠN VỀ ĐÂU” – NHẠC TRẦN CHƯƠNG LƯƠNG – Thơ: Phương Hoa – Ca sĩ: Kana Ngọc Thúy – Hòa Âm: Hoàng Đệ Production
Bai Thơ Lyrics:
CÁNH NHẠN VỀ ĐÂU
(Viết tặng bạn hiền, nữ dịch giả T. Lan)
*
Trăng khuya Tháng Bẩy bơ phờ
Nhớ người phương ấy lòng ngơ ngẩn sầu
Ngân Hà Ô Thước giờ đâu
Gió hiu hắt rải hư hao vào rèm
*
Vườn thanh vò võ mình em
Sao anh đành để nỗi niềm riêng ai
Những mong năm tháng còn dài
Hẹn ngày tái ngộ trúc mai tỏ tường
*
Chừ răng chia cách đôi đường
Cả câu vĩnh biệt đoạn trường khôn trao
Biết khi mô thấy lại nhau
Em không đành hẹn kiếp sau hỡi người!
*
Lòng đau biếng nói thôi cười
Gửi bao tâm sự vời vời theo trăng
Kìa kia cánh nhạn băn khoăn
Quẩn quanh thơ thẩn cung Hằng đợi ai?
*
Gió mơn hôn tiếng thở dài
Giật mình ngỡ gót chân ngoài song thưa
Nghìn trùng phương hướng nắng mưa
Lật bài thơ cũ hương thừa còn vương.
Phương Hoa – July 22, 2024:

KIỀU MỸ DUYÊN: LÒNG BÌNH THẢN NGHE TIẾNG CHIM HÓT LÍU LO
ÂM NHẠC: Ca Khúc Wine Flagon Song (Hồ Trường) – Nguyễn Bá Trác – Vương Thanh Chuyển Dịch Sang Anh Ngữ và Thực Hiện.
LỜI HAY Ý ĐẸP: THÂY NHƯ NHIÊN THÍCH TÁNH TUỆ
TU HÀNH VỚI..” NHỮNG KHI ”..
– Khi phiền muộn , hãy nghĩ xem thật ra cuộc sống là những phép trừ , gặp nhau một lần là ít đi một lần , sống hết một ngày là giảm đi một ngày , có gì đáng để phí hoài ? Không quên tình nghĩa , không nhớ lỗi người , không nghĩ thị phi, không chấp oan trái , không nợ nần ai , không thẹn với lương tâm, là được.
– Khi không vui, hãy nghĩ xem mình còn lại bao nhiêu ngày để dằn vặt , còn bao nhiêu thời gian để phung phí? Bạn vui, một ngày cũng qua đi , bạn buồn , một ngày cũng kết thúc. Nếu nhận ra điều này hẳn sẽ không dễ dãi để cuộc sống mình âm u nữa.
– Khi thấy bi thương , hãy xem cuộc sống là một hành trình , chúng ta đến đây hai tay trắng thì rời đi cũng sẽ như vậy , không thể mang theo dù chỉ là hạt bụi hay một áng mây bay. Những công danh lợi lộc , những thế thái nhân tình đều phải để lại. Hiểu rõ điều này rồi thì có gì phải bận tâm mà phiền lòng?
– Khi nổi giận , hãy nghĩ xem có nên vì những kẻ không đáng mà ấm ức? Có cần vì những việc không quan trọng mà bực mình? Ăn uống đúng cách , làm việc điều độ , vận động vừa đủ, nghĩ ngơi hợp lý, khoản nào tiết kiệm thì tiết kiệm, phần nào nên tiêu thì chi ra. Bạn tốt thì gia đình và người thân mới tốt , mọi người đều sẽ tốt.
– Khi không được như ý, hãy so sánh với sự sống bận rộn, quần quật của những người giàu có , chúng ta sống biết đủ chính là niềm hạnh phúc. Rồi nhìn qua những người đang đau khổ trong bệnh viện , chúng ta vẫn mạnh khỏe chính là niềm hạnh phúc. Và hãy xem trên thế giới một giây có bao nhiêu người phải rời đi , chúng ta vẫn còn sống chính là niềm hạnh phúc… Con người muốn có một đời sống khỏe thì tâm phải đơn giản , thân phải nhẹ nhàng.
– Khi tính toán , hãy nghĩ xem con người đi một vòng trong thế gian đều trở về điểm 0, sao phải chi li so bì, không biết nhường nhịn? Nói nhiều thì tổn thương người, tính nhiều thì tổn thần khí, chi bằng đừng so đo nữa, làm một người vui vẻ dễ chịu, không thẹn với lòng!
” Vui thay chúng ta sống
Không gì gọi của ta
Ta sẽ hưởng hỷ lạc
Như chư Thiên Quang Âm..”
(Kinh Pháp Cú)
Namo tasa Bhagavato Arahato Samma sambuddhassa
Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ (Sưu tầm)
TRUYỆN NGẮN HAY SƯU TẦM: NGÀY CỦA CHA
NGÀY CỦA CHA
Một ngày, anh hẹn chị ra quán cà phê trước nhà ga chính của thành phố Bremen.
Câu đầu tiên khi gặp anh, chị nói trong sự cáu gắt:
– Ông lại bán xe rồi hay sao mà đi tàu lên đây?
Anh cúi đầu trả lời lí nhí trong hổ thẹn:
– Ừ thì bán rồi, vì cũng không có nhu cầu lắm!
Chị sầm mặt xuống:
– Ông lúc nào cũng vậy, suốt đời không ngóc đầu lên được. Hẹn tôi ra đây có chuyện gì vậy?
Khó khăn lắm anh mới có thể nói với chị điều mà anh muốn nhờ.
Chị cũng khó khăn lắm mới có thể trả lời từ chối:
– Nhưng mà gia đình tôi đang yên lành, nếu đưa con bé về e sẽ chẳng còn được bình yên nữa!
Anh năn nỉ, nhưng thật sự là anh rất bối rối:
– Con bé đã đến tuổi dậy thì, anh là đàn ông, không thể gần gũi và dạy dỗ chu đáo cho nó được. Anh chưa bao giờ cầu xin em điều gì, chỉ lần này thôi. Chỉ cần nửa năm hay vài ba tháng gì cũng được. Em là phụ nữ em gần nó, em hướng dẫn và khuyên bảo nó trong một thời gian để nó tập làm quen với cuộc sống của một thiếu nữ, sau đó anh sẽ lại đón nó về.
Chị thở dài:
– Ông lúc nào cũng mang xui xẻo cho tôi. Thôi được rồi, ông về đi, để tôi về bàn lại với chồng tôi đã. Có gì tôi sẽ gọi điện thông báo cho ông sau.
Anh nhìn chị với ánh mắt đầy hàm ơn. Anh đứng dậy, đầu cúi xuống như có lỗi, tiễn chị ra xe rồi thở dài, lùi lũi bước vào nhà ga đáp tàu trở lại Hamburg.
……….
Anh và chị trước kia là vợ chồng.
Họ yêu nhau từ hồi còn học phổ thông. Anh đi lao động xuất khẩu ở Ðông Ðức.
Chị theo học Ðại Học Sư Phạm Hà Nội
Ngày bức tường Berlin sụp đổ, anh chạy sang phía Tây Ðức.
Chị tốt nghiệp đại học, về làm giáo viên cấp 3 huyện Thái Thụy, Thái Bình. Họ vẫn liên lạc và chờ đợi nhau.
Khi đã có giấy tờ cư trú hợp lệ, anh về làm đám cưới với chị, rồi làm thủ tục đón chị sang Ðức.
Vừa sang Ðức, thấy bạn bè anh ai cũng thành đạt, đa số ai cũng có nhà hàng, hay cửa tiệm buôn
bán, chỉ có anh là vẫn còn đi làm phụ bếp thuê cho người ta.
Chị trách anh vô dụng.
Anh không nói gì, chỉ hơi buồn vì chị không hiểu:
Ðể có đủ tiền bạc và điều kiện lo thủ tục cho chị sang được đây, anh đã vất vả tiết kiệm mấy năm trời mới được. Chỉ vì vậy mà anh đã không dám mạo hiểm ra làm ăn.
“Ðồ cù lần, đồ đàn ông vô dụng…”
đó là câu nói cửa miệng chị dành cho anh, sau khi anh và chị có bé Hương.
Bé Hương sinh thiếu tháng, phải nuôi lồng kính đến hơn nửa năm mới được về nhà.
Khi bác sĩ thông báo cho vợ chồng anh biết bé Hương bị thiểu năng bẩm sinh.
Giông tố bắt đầu thực sự nổi lên từ đó: Chị trách anh, đến một đứa con cũng không làm cho ra hồn thì hỏi làm được gì chứ.
Anh ngậm đắng nuốt cay nhận lỗi về mình và dồn hết tình thương cho đứa con gái xấu số.
Bé Hương được 3 tuổi, chị muốn ly dị với anh.
Chị nói, ông buông tha cho tôi, sống với ông đời tôi coi như tàn.
Anh đồng ý vì anh biết chị nói đúng. Anh là người chậm chạp, không có chủ kiến và không có chí tiến thân, sống an phận thủ thường. Nếu cứ ràng buộc sẽ làm khổ chị.
Bé Hương 3 tuổi mà chưa biết nói.
Chị cũng rất thương con, nhưng vì bận bịu làm ăn nên việc chăm sóc con bé hầu hết là do anh làm. Vì vậy mà con bé quấn quít bố hơn mẹ.
Biết vậy nên chị cũng rất yên tâm và nhẹ nhõm nhường quyền nuôi dưỡng con bé cho anh khi làm thủ tục ly hôn.
Ly dị được gần 1 năm thì chị tái giá.
Chị sinh thêm một đứa con trai với người chồng mới.
Thành phố Bremen là thành phố nhỏ. Người Việt ở đó hầu như đều biết nhau.
Chị cảm thấy khó chịu khi thỉnh thoảng bắt gặp cha con anh đi mua sắm trên phố.
Chị gặp anh và nói với anh điều đó. Anh biết ý chị nên chuyển về Hamburg sinh sống.
Thấm thoát đó mà giờ đây con bé đã sắp trở thành một thiếu nữ.
Tuy chị không biết cụ thể thế nào.
Chị chỉ hiểu, dù con bé lớn lên trong tật nguyền hẩm hiu nhưng anh rất thương nó.
Chị cũng biết con bé gặp vấn đề trong giao tiếp, phải đi học trường khuyết tật. Nhưng con bé rất ngoan.
Anh cũng không phải vất vả vì nó nhiều.
Nó bị bệnh thiểu năng, trí tuệ hạn chế, phát âm khó khăn. Tuy vậy nó vẫn biết tự chăm sóc mình trong sinh hoạt cá nhân. Thậm chí nó còn biết giúp anh một số công việc lặt vặt trong nhà…
………..
Chồng chị đã đồng ý cho chị đón con bé về tạm sống với chị vài tháng, với điều kiện trong thời gian con bé về sống chung với vợ chồng chị, anh không được ghé thăm.
Chị cũng muốn thế, vì chị cảm thấy hổ thẹn khi phải tiếp xúc với vẻ mặt đần đần dài dại của anh.
Vợ chồng chị đã mua nhà.
Nhà rộng, nên con bé được ở riêng một phòng.
Chị đã xin cho con bé theo học tạm thời ở một trường khuyết tật ở gần nhà. Con bé tự đi đến trường và tự về được.
Ði học về, nó cứ thui thủi một mình trong phòng. Ðứa em trai cùng mẹ của nó, cũng như mẹ nó và bố dượng nó rất ít khi quan tâm đến nó.
Niềm vui duy nhất của nó là chờ điện thoại của bố.
Nó phát âm không chuẩn và nói rất khó khăn, nên hầu như nó chỉ nghe bố nói chuyện. Bố dặn dò nó rất nhiều và thỉnh thoảng còn hát cho nó nghe.
Em trai nó học thêm piano, nên nhà mẹ nó có cái đàn piano rất đẹp để ở phòng khách.
Có lần nó sờ và bấm bấm vài nốt.
Mẹ mắng nó không được phá đàn của em. Nên từ đó nó không dám đụng đến nữa.
Có hôm anh gọi điện thoại cho nó, nó nghèn nghẹn nói lõm bõm:
“…đàn… đàn…klavia…con muốn…” Anh thở dài và hát cho nó nghe.
Tháng đầu, hầu như ngày nào anh cũng gọi điện thoại cho nó.
Rồi thưa dần, thưa dần….
Cho đến một ngày anh không gọi cho nó nữa.
Sau một tuần đăng đẳng không nghe anh gọi điện thoại. Con bé bỏ ăn và nằm bẹp ở nhà không đi học.
Chị không biết gì cứ mắng nó giở chứng.
Một đêm, chị bỗng bật choàng dậy khi nghe tiếng đàn piano vang lên.
Chị chạy ra phòng khách, thấy con bé đang ngồi đánh đàn say sưa.
Nó vừa đánh vừa hát thì thầm trong miệng.
Chị cứ há hốc mồm ra kinh ngạc.
Chị không thể tưởng tượng nổi là con bé chơi piano điêu luyện như vậy.
Chị chợt nhớ ra, đã có lần anh nói với chị, con bé ở trường khuyết tật có học đàn piano, cô giáo khen con bé có năng khiếu. Lần đó chị tưởng anh kể chuyện lấy lòng nên chị không quan tâm.
Chị đến gần sau lưng nó, và lặng lẽ ngắm nhìn nó đánh đàn. Chị cúi xuống và lắng nghe con bé hát thầm thì cái gì… Và chị sởn cả da gà, khi chị nghe con bé hát rõ ràng từng tiếng một,
mà lại là hát bằng tiếng Việt hẳn hoi: “…Nhớ những năm xa xưa ngày cha đã già với bao sầu lo… sống với cha êm như làn mây trắng… Nhớ đến năm xưa còn bé, đêm đêm về cha hôn chúng con…với tháng năm nhanh tựa gió…
Ôi cha già đi, cha biết không…”
Chị vòng tay ra trước cổ nó và ôm nó vào lòng.
Lần đầu tiên chị ôm nó âu yếm như vậy. Chị thấy tay mình âm ấm.
Nó ngừng đàn đưa tay lên ôm riết tay mẹ vào lồng ngực.
Nó khóc.
Chị xoay vai nó lại, nhìn vào khuôn mặt đầm đìa nước mắt của nó.
Nó chìa cho chị một tờ giấy giấy khổ A4 đã gần như nhàu nát.
Chị cầm tờ giấy và chăm chú đọc, rồi hỏi, con biết bố con bị ung thư lâu chưa.
Nó chìa bốn ngón tay ra trước mặt mẹ. Chị hỏi, bốn tháng rồi hả.
Nó gật đầu.
Chị nhìn chăm chăm vào tờ giấy, và từ từ ngồi thụp xuống nền nhà, rũ rượi thở dài.
Con bé hốt hoảng đến bên mẹ, ôm mẹ vào lòng, vuốt mặt mẹ, rồi vừa ấp úng nói vừa ra hiệu cho mẹ.
Ðại ý là nó diễn đạt rằng:
– Bố lên ở trên Thiên Ðường rồi, mẹ yên tâm, con đã xin vào nội trú ở trường dưới Hamburg, ngày mai con sẽ về dưới đó, con không ở lại đây lâu để làm phiền mẹ và em đâu, con về ở tạm đây là vì bố muốn thế, bố muốn mình ra đi được nhẹ nhàng và yên tâm là có mẹ ở bên con.
(Đoàn Đức)
Nguồn fb Lê Trung Thận
CA KHÚC: SÀI GÒN NỬA TRĂM NĂM – Nhạc: Lê Hữu Nghĩa – Ca sĩ: Kim Chi
Bài Tình Thơ Tháng Bảy – SƯƠNG LAM – MỘT CÕI THIỀN NHÀN

Đây là bài số bảy trăm sáu mươi tám (768) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ ORTB.
Tháng Bảy xứ Mỹ rộn rã tiếng pháo mừng Ngày Độc Lập. Những năm mới đến xứ Mỹ, người viết cũng nôn nao sửa soạn mền chiếu, thức ăn thức uống để sang Vancouver, WA xem đốt pháo bông và cùng chung vui với cư dân sở tại. Thật là náo nhiệt, thật là vui vẻ. Những năm sau này, người viết ở nhà xem đốt pháo bông trên Tivi cho “tiện việc sổ sách” để khỏi mệt tấm thân “không còn trẻ nữa” của mình.
Nhìn những chùm pháo bông sáng đẹp trên bầu trời, nhìn những em bé nhảy múa ca hát vô tư, nhìn những nụ cười ánh mắt của người dân Mỹ đón mừng lễ hội một cách thoải mái, tự do trên màn ảnh, tôi thấy đất nước Mỹ này quả thật an bình, hạnh phúc. Tự nhiên trái tim của một người sống hơn 30 năm nơi xứ người bừng dậy lên tình cảm vui buồn lẫn lộn. Tôi ngậm ngùi nhớ đến chuyện xưa tích cũ nên đã cảm hứng viết xuống bài thơ Bài Tình Thơ Tháng Bảy để nói lên tâm sự của mình. Người viết nghĩ rằng đó cũng là tâm tình của những ai cùng một nhịp đập trái tim tình cảm như tôi.
Người viết xin được chia sẻ tâm sự này đến với các bạn và hy vọng rằng quý bạn sẽ cảm thông với người viết. Xin cảm tạ quý bạn.
Bài Tình Thơ Tháng Bảy
Tháng Bảy quê người hoa đăng lễ hội
Mừng đón Ngày Độc Lập với Tự Do
Pháo nổ trên cao, thiên hạ chuyện trò
Khắp chốn muôn nơi, mọi người ca hát
Tháng Bảy quê mình nắng vàng bãi cát
Cái nóng nung người đỏ lửa Trị Thiên
Đại lộ kinh hoàng thuở nọ hiện tiền
Bao già trẻ gánh gồng đi lánh nạn
Tháng Bảy nơi đây nắng hồng buổi sáng
Hoa nở đầy vườn muôn sắc khoe xinh
Khắp chốn muôn nơi, đờn trống xập xình
Mừng ngày Độc Lập hơn hai trăm năm lập nước
Tháng Bảy chốn xưa, kẻ sau người trước
Lẳng lặng ra đi bỏ cửa bỏ nhà
Bỏ lại quê hương, cha yếu mẹ già
Tìm bến Tự Do ở nơi xa chốn lạ
Một kiếp thuyền nhân lênh đênh nơi biển cả
Sóng nước bập bềnh trôi nổi chiếc thuyền con
Quyết chí ra đi với hy vọng sống còn
Cho con trẻ được sống đời hạnh phúc
Rồi thoáng đó, bóng thiều quang bay vút
Và bây giờ đã mấy chục năm qua
Đã bao lần Tháng Bảy lại trôi qua
Đã bao lúc ngắm pháo bông rực rỡ
Và tự hỏi: biết có ai trăn trở
Nhớ tích xưa Chức Nữ với Ngưu Lang
Tháng bảy mưa Ngâu, cầu Ô Thước nhịp nhàng
Đưa ta về trùng phùng người thân cũ
Những đứa trẻ lớn lên nhớ gì về quê cũ
Những người già nằm xuống hồn phách ở nơi đâu
Nhìn người vui sao ta lại ưu sầu
Ta viết xuống Bài Tình Thơ Tháng Bảy
Sương Lam
Người viết lại lang thang trên internet đi tìm tài liệu về ngày lễ quốc gia quan trọng này đem về đây chia sẻ với quý bạn để chúng ta, dầu muốn dầu không, một khi đã sống ở xứ Mỹ này cũng cần nên biết tại sao dân Mỹ đã đón mừng ngày Lễ Độc Lập này một cách tưng bừng, náo nhiệt như thế? Xin mời quý bạn đọc qua tài liệu dưới đây:
Ngày Độc lập Hoa Kỳ
Tại Hoa Kỳ, Ngày Độc Lập, còn gọi là 4 tháng 7 (the 4th of July), là một ngày lễ liên bang để kỷ niệm Tuyên ngôn Độc lập được ký năm 1776.
Ngày lễ này thường được đi kèm với những cuộc diễu hành, liên hoan ngoài trời, và nhiều buổi lễ công cộng. Từ năm 1777, pháo bông đã được đốt để đón mừng ngày lễ.
Lịch sử
Tuy ngày 4 tháng 7 đã được kỷ niệm từ lâu, nhiều người cho rằng ngày này không chính xác. Trong cuộc Chiến tranh Cách mạng, những người thuộc địa ở vùng Tân Anh (New England) đã đấu với Anh từ tháng 4 năm 1775. Kiến nghị đầu tiên trong Quốc hội Lục địa để giành độc lập được đưa ra trong ngày 8 tháng 6. Sau khi có nhiều bàn cãi, Hội nghị đã bí mật bầu (12-0) đòi độc lập từ Đế quốc Anh trong ngày 2 tháng 7. Hội nghị sau đó sửa đổi văn bản tuyên ngôn cho đến sau 11 giờ ngày 4 tháng 7, khi 12 thuộc địa bầu chấp nhận và đưa ra một phiên bản chưa ký cho các nhà in. (New York không bầu trong cả hai cuộc). Philadelphia đón mừng Tuyên ngôn bằng cách đọc nó với công chúng và đốt lửa mừng trong ngày 8 tháng 7. Mãi đến ngày 2 tháng 8 thì một phiên bản sạch mới được các thành viên trong hội nghị ký, nhưng vẫn giữ bí mật để họ khỏi bị quân Anh đánh trả đũa.
John Adams, được Thomas Jefferson cho là một trong những người quan trọng nhất trong phía đòi độc lập, viết thư cho vợ Abigail trong ngày 3 tháng 7 rằng ông tin rằng ngày 2 tháng 7 sẽ được kỷ niệm làm ngày độc lập trong các thế hệ tới. Ông đã sai hai ngày. Tuy biểu quyết trong ngày 2 tháng 7 là việc quyết định, ngày 4 tháng 7 là ngày được viết trong bản tuyên ngôn. Văn bản của Jefferson, sau khi được Hội nghị hiệu đính, được chấp nhận trong ngày 4. Đó cũng là ngày đầu tiên dân chúng Philadelphia nghe được tin về việc đòi độc lập chính thức này.
Phong tục
Ngày Độc lập được chào đón với những biểu hiện yêu nước. Nhiều nhà chính trị thường đọc diễn văn ca ngợi các di sản và người dân của Hoa Kỳ. Các gia đình thường làm cuộc liên hoan ngoài trời, thường tụ họp với những người bà con ở xa, vì được nghỉ nhiều ngày cuối tuần hơn. Các cuộc diễn hành được diễn ra sáng ngày 4, vào buổi tối thường có pháo bông ngoạn mục. Trong dịp lễ thì nhiều gia đình treo cờ Hoa Kỳ ở trước nhà để mừng
Trong một số tiểu bang, dân thường được phép mua pháo bông nhỏ hơn để đốt. Vì lý do an toàn, một số tiểu bang cấm điều này hay hạn chế cỡ của pháo bông.
(Nguồn: Trích trong vi.wikipedia.org)
Mời quý bạn thưởng thức youtube dưới đây do Sương Lam thực hiện thay cho lời kết bài tâm tình hôm nay của người viết, bạn nhé.
Youtube Mừng Ngày Quốc Khánh nước Mỹ – Happy 4th of July
Sương Lam thực hiện
Happy 4th of July
Chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.
Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn
Sương Lam
(Tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi-MCTN 768-ORTB 1199- 7-2-2025)
Sương Lam
GS/TS NGUYỄN HỒNG DŨNG: THĂNG HOA CUỘC ĐỜI – KỲ 105 NỬA THẾ KỶ MỘT ƯỚC MƠ
THĂNG HOA CUỘC ĐỜI
KỲ 105 NỬA THẾ KỶ MỘT ƯỚC MƠ
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Tôi sinh ra gần cuối thập niên năm mươi của thế kỷ XX khi chiến tranh Việt Nam không
chỉ là một cuộc đối đầu vũ trang đơn thuần giữa đôi Miền Nam Bắc, mà còn là cuộc đụng
độ khốc liệt giữa hai mô hình xã hội, hai lý tưởng chính trị hoàn toàn đối nghịch. Tôi lớn
lên giữa bi kịch của một dân tộc bị chia cắt bởi ngoại bang, nhưng sau đó lại bị cuốn vào
chính vòng xoáy ý thức hệ của chiến tranh lạnh toàn cầu và cứ thế tôi hít thở không khí pha
mùi thuốc súng.
Miền Nam Việt Nam với nền Cộng hòa non trẻ, được thành lập trên nền tảng tự do, dân
chủ; dù chưa hoàn hảo nhưng đã cố gắng mở ra một con đường để xã hội hướng tới sự phát triển nhân bản, nền giáo dục tương đối cởi mở, quyền tư hữu được công nhận và đời sống văn hóa đa dạng. Tuy nhiên, giai đoạn phôi thai này lại đối mặt với chiến tranh, những bất ổn nội bộ nên Miền Nam chưa định hình được nền dân chủ trọn vẹn. Nhưng so với Miền
Bắc, nơi được đặt dưới sự cai trị tuyệt đối của Đảng Cộng sản, thì xã hội Miền Nam vẫn
hơn hẳn khi giữ được hơi thở tự do. Ở Miền Bắc, kể từ sau cải cách ruộng đất và phong trào
“đấu tố” những thập niên 1950, một chế độ độc đoán đã được thiết lập. Đảng Cộng sản trở
thành lực lượng duy nhất nắm quyền, và mọi hình thức tư tưởng khác biệt đều bị xem là
phản động. Tự do ngôn luận, báo chí, tôn giáo bị kiểm soát nghiêm ngặt. Người dân sống
trong cảnh thường xuyên đối mặt với đói kém, họ buộc phải hy sinh với khái niệm “cách
mạng,” trong khi đời sống vật chất lẫn tinh thần vô cùng điêu linh.
Chiến tranh kéo dài càng ác liệt, cả hai miền đều không chỉ chiến đấu vì lãnh thổ, mà
còn vì một mô hình tương lai cho đất nước. Phía Bắc cho rằng chiến đấu để gọi là “giải
phóng Miền Nam”, còn phía Nam quyết tâm bảo vệ sự tồn tại của một quốc gia độc lập, tự
do, không bị Cộng sản xâm lược.
Người dân là nạn nhân, hàng triệu người chết, bị thương, hoặc mất tích. Những làng quê
yên bình trở thành bãi chiến trường. Trẻ thơ lớn lên giữa tiếng bom rơi, máu đổ, gia đình ly
tán, bạn bè trở thành kẻ thù chỉ vì đứng ở hai bên chiến tuyến. Dù nhìn từ phía nào, cuộc
chiến cũng là một thảm trạng của dân tộc nơi máu của đồng bào đổ xuống cho những quyết
định mà người dân không hề lựa chọn. Bây giờ sau năm mươi năm quốc hận từ một khoảng
cách lịch sử của nửa kiếp người cho phép tôi nhìn lại; giả dụ như quê hương không bị chia
cắt, nếu Việt Nam không bị lôi kéo vào cuộc cờ của những cường quốc thì dân tộc không
phải chịu đựng biết bao mất mát, đau thương, và chia rẽ dai dẳng kéo dài đến tận hôm nay.
Ngày Quốc hận Ba mươi tháng Tư năm Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm, Miền Nam
gục ngã, không chỉ là một cột mốc lịch sử, mà còn là vết thương chưa thể lành trong lòng
những người từng sống, từng yêu, từng chiến đấu vì một nền tự do ngắn ngủi nhưng đầy khí
phách. Qua những giờ phút cuối cùng trước khi Sài Gòn thất thủ, người ta vẫn còn mục kích
những trang sử oai hùng được viết bằng máu, bằng nước mắt và bằng trái tim của những
người lính Việt Nam Cộng Hòa, những người chưa từng đầu hàng số phận, dù hoàn cảnh đã
quay lưng với họ.
Tôi đọc trang quân sử viết về trận chiến Xuân Lộc trong tác phẩm “Khi Đồng Minh Tháo
Chạy” của tác giả Nguyễn Tiến Hưng, bản hùng ca cuối cùng của một đạo quân từng làm
Cộng sản phải e ngại. Trong thế trận bị vây ép, nơi mà Việt Cộng có quân số và hỏa lực gấp
nhiều lần, những người lính thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh vẫn kiên cường tử thủ, với tinh thần
không lùi bước. Thật đáng ngưỡng mộ! Nếu không có những quyết định chính trị bất lợi từ
thượng tầng như việc bỏ ngỏ hai Quân khu chiến lược khi chưa giao tranh (Quân khu I từ
Quảng Trị đến Quảng Ngãi và Quân Khu II bao gồm vùng Tây Nguyên và Duyên hải Nam
Trung bộ) thì có lẽ những địa danh như Xuân Lộc là niềm hy vọng chưa tắt vội nơi hàng
triệu trái tim Miền Nam.
Than ôi! Cuộc chiến không chỉ thua vì đạn pháo mà vì sự đơn độc khi đồng minh lớn
nhất bất ngờ quay lưng, phủi tay rút lui, Miền Nam bỗng trở thành một chiến địa trống trải,
chống chọi trong tuyệt vọng với một đạo quân Bắc Việt vừa được hậu thuẫn mạnh mẽ từ
Liên Xô và Trung Cộng. Tại Washington DC, Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford tuyên bố
chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt!!! nhưng thực ra, đó là dấu chấm hết cho niềm tin của
người dân Miền Nam vào một nền tự do cần được bảo vệ đến cùng.
Chiến tranh được xem như chấm dứt vào ngày Ba mươi tháng Tư năm Bảy lăm, nhưng
với hàng triệu người dân Miền Nam, đó không phải là khởi đầu của hòa bình, mà là bước
vào một giai đoạn đen tối kéo dài, nơi niềm hy vọng bị thay thế bằng sợ hãi, bất lực và khốn
cùng. Một chế độ mới lên ngôi, không qua lá phiếu của nhân dân, mà bằng họng súng, xe
tăng và khủng bố.
Ngay sau ngày quốc hận thì hàng trăm ngàn sĩ quan, viên chức, cán bộ và những người
từng phục vụ cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa bị gọi đi “học tập cải tạo”, một từ ngữ
nhẹ nhàng, nhưng đó là tấm vé “one way” vào những trại giam khắc nghiệt, không án, không
ngày về. Bao nhiêu mái đầu xanh, tầng lớp trí thức, thanh niên ưu tú có đào tạo bị giam đến
năm, mười, thậm chí hai mươi năm trong rừng sâu, núi thẳm. Những con người từng cầm
súng chiến đấu cho lý tưởng tự do phải lao động khổ sai, thiếu ăn, bịnh tật, và không ít trong
số đó đã chết âm thầm nơi rừng thiêng nước độc…trong lúc đó những thân nhân ngoài xã
hội thì bị kỳ thị, lùa đi vùng kinh tế mới, cướp nhà, cướp của, cướp mất tương lai.
Sài gòn và các tỉnh Miền Nam lúc đó bị nhà đương quyền Cộng sản đánh vào các giới
thương nhân những đòn thù “cải tạo công thương nghiệp tư sản mại bản”. Tài sản bị quốc
hữu hóa, nhiều người hóa thành vô sản chỉ sau một đêm. Chưa dừng lại ở đó, Cộng sản ra
lệnh hai lần đổi tiền, cú giáng đau đớn vào những người dân vốn đã nghèo thì mỗi gia đình
chỉ được đổi một số tiền nhất định, còn lại bị tịch thu hết sạch. Của cải tích góp cả bao nhiêu
đời tan thành mây khói.
Miền Nam, từng được biết đến với nền kinh tế năng động, Sài Gòn được mệnh danh là
“Hòn ngọc Viễn Đông”, có đời sống văn minh, văn hóa cởi mở và thị trường tự do hơn cả
Thái Lan, Hàn Quốc hay Singapore. Thế mà chỉ sau vài năm bị đặt dưới sự kiểm soát của
kinh tế tập trung bao cấp, cả nước rơi vào cảnh khốn khó. Người dân Miền Nam lần đầu
phải ăn bo bo, loại ngũ cốc từng dành cho gia súc, thời kỳ mà người ta chào nhau bằng câu:
“Có gì ăn chưa?”
Tôi từng sống ở Sài Gòn trước năm Bảy lăm, ký ức về một thành phố rực rỡ ánh đèn,
nhộn nhịp tiếng nhạc, tự do đi lại và báo chí đầy thông tin, thì sau ngày Sài gòn sụp đổ thật
là một cơn ác mộng. Thành phố ngọc ngà bị đổi tên, các đường lộ xóa bỏ những danh nhân
lịch sử kiểu như “Nam Kỳ khởi nghĩa tiêu công lý, đồng khởi vùng lên diệt tự do”.
Chưa dừng lại ở đó, cuối năm Một ngàn chín trăm bảy mươi tám, Việt Cộng bước vào
cuộc tàn sát với Campuchia. Biên giới Tây Nam rực lửa. Hàng trăm ngàn thanh niên bị đưa
đi nghĩa vụ quân sự, chết nơi rừng sâu, đất lạ!. Rồi tháng Hai năm Bảy mươi chín, Trung
cộng tấn công sáu tỉnh biên giới phía Bắc, lấy cớ “dạy cho Việt Nam một bài học”, lúc ấy,
người dân Miền Nam vốn đã kiệt quệ, lại càng thêm hoang mang khi cả đất nước bị cuốn
vào một vòng xoáy xung đột chưa có hồi kết.
Biển Đông tiếp tục dậy sóng, Hoàng Sa đã bị Trung cộng cưỡng chiếm từ tay Hải quân
Việt Nam Cộng Hòa năm Một chín bảy mươi tư rồi đến thập niên tám mươi, Trung Cộng
tiếp tục xâm lấn Trường Sa, biển đảo mất dần, ải Nam Quan, thác Bản Giốc đổi chủ còn dân
chúng thì oằn mình trong đói nghèo, thiếu thốn và sợ hãi.
Việt Nam từng có cơ hội phát triển như Hàn Quốc hay Singapore với tiềm lực, vị trí địa
dư và nhân lực dồi dào, không thua kém Thái Lan, Tawain; vậy mà chỉ sau vài năm Cộng
sản cưỡng chiếm Miền Nam bằng bạo lực thì Sài Gòn chìm sâu trong nghèo đói, bất ổn và
áp bức. Một giấc mộng về độc lập, tự do, hạnh phúc của toàn dân đã bị phản bội bằng chính
thực tế đắng cay của nhà đương quyền Cộng sản.
Tôi bị đi tù bởi tội danh “Phản Động” tại trại Kim Sơn, Nước Nhóc, Nghĩa Điền tỉnh
Bình Định và “Vượt biên trái phép“ tại Rạch Nò tỉnh Kiên Giang suốt sáu năm, sau những
ngày tháng tù đày dường như thời gian cứ đứng yên giữa rừng sâu, mỗi phút trôi qua chỉ
còn lại sự chờ đợi mông lung và nỗi khắc khoải vô hình … Rốt cuộc, tôi lại được trở về nhà
với hai bàn tay trắng, gia đình ly tán, nhà cửa bị tịch thu, bạn bè tản mác mỗi người một nơi.
Cuộc sống ngoài kia không còn gì thân thuộc nữa, nhưng điều đè nặng nhất lên trái tim tôi
không phải là cái đói, cái nghèo, mà là cảm giác bị tước mất quyền làm người, không còn
đất để sống trên chính quê hương mình.
Tôi đã quyết định ra đi. Lần đầu bị bắt, lần thứ hai thất bại, rồi thứ ba chuyển sang đường
bộ Campuchia nhưng cũng không lọt khỏi biên thùy… Cứ mỗi lần thất bại là một lần mất
hy vọng, mất thêm chút lòng tin và vàng bạc hao hụt. Tôi đã từng nằm co ro trong hầm tàu
chật hẹp, từng bị công an bắt giữa rừng ngập mặn, từng thấy người đi chung bị bỏ mạng vì
sốt rét, đói khát hay chỉ một tiếng súng bất ngờ nổ giữa đêm khuya. Tuy vậy, tôi không thể
quay lại vì không còn gì để mất, cũng không còn gì để sợ hơn nữa.
Chuyến đi thứ bảy, con số tưởng là xui xẻo ấy, lại là cánh cửa mở ra sự sống. Chúng tôi
lênh đênh trên biển gần ba tuần lễ. Nước ngọt, thức ăn, củ sắn không còn, trẻ thơ khóc ngặt
vì khát sữa, người lớn cầu nguyện và cứ lần lượt ra đi vì đói khát nên phải thủy táng theo
dòng chảy đại dương. Mỗi lần thấy một đốm sáng xa tít ngoài khơi, chúng tôi nín thở, dán
mắt nhìn trông nhưng không biết đó là tàu quốc tế hay hải tặc. Giữa trời đất mênh mông vô
tận, nước biển đen hơn mực tàu, mạng sống con người mong manh như một sợi chỉ treo
mành.
Tôi đã may mắn không bị bọn cướp biển sát hại, không bị cá mập nuốt chửng, không
chết chìm trong bóng tối kinh hoàng của biển cả như những người đồng hành trên con thuyền
ọp ẹp này. Tôi đặt chân lên đảo Palawan , một hòn đảo nhỏ bé nằm ở phía tây của
Philippines, nhưng với tôi lúc ấy, đó là thiên đường bao la vô tận. Tôi vẫn nhớ y như rằng
buổi sáng đầu tiên khi chân vừa chạm bờ cát, người run lẩy bẩy, nước mắt tuông trào, không
biết tương lai sẽ đi về đâu, nhưng ít nhất, tôi đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Tôi là một
trong những người may mắn “thập tử nhất sanh” để ngồi đây tâm sự, chứ có những con
thuyền đã ra khơi và không bao giờ trở về; có những đứa trẻ chưa kịp hiểu thế nào là tự do
đã nằm lại dưới đáy đại dương, và có biết bao mái đầu bạc đã mòn mỏi chờ đợi nơi quê nhà,
không bao giờ còn gặp lại người thân dù chỉ một cái tin sống chết. Thật ra vượt biên không
phải là tội, đó là hành động cuối cùng của những con người muốn được sống đúng nghĩa là
con người, với tự do, phẩm giá và niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp hơn.
Sau những tháng ngày tạm trú ở trại tị nạn Palawan, rồi chuyển qua Transit Bataan để
được định cư tại Hoa Kỳ, một miền đất xa lạ, nhưng mang theo hy vọng lớn lao của cuộc
đời được bắt đầu từ con số không, tôi đến đây với đôi bàn tay trắng, ít vốn liếng tiếng Anh
và tuổi trẻ năng động dù ít nhiều đã bị mài mòn bởi chiến tranh, tù đày và vượt thoát. Nhưng
nơi này tôi học được một điều rằng nếu chăm chỉ, trung thực và không ngừng học hỏi, cơ
hội sẽ mở ra vô tận. Hoa Kỳ không hứa hẹn điều gì dễ dàng, nhưng luôn sẵn lòng hỗ trợ
những ai chịu dấn thân, không đầu hàng số phận.
Tôi vừa làm vừa học, những công việc tay chân chẳng bao giờ làm tôi thấy chán nản.
Ngược lại, chính nhờ những công việc ấy, tôi từng bước dựng lại cuộc sống, từng chút một
gom góp cho tương lai, điều chỉnh cuộc sống trong một xã hội xa lạ nhưng công bằng.
Nơi định cư mới không đơn độc, bên tôi có cộng đồng người Việt đến trước, có nhiều
gia đình, bạn bè cũng trôi dạt sau biến cố tháng tư đen, cũng từng vượt biển, từng trắng tay,
cũng ly tán và cũng đang gắng sống một cách lương thiện, tử tế. Mỗi người là một hoàn
cảnh, một nỗi đau, nhưng ai cũng mang trong mình một niềm tin mãnh liệt, hễ còn sống là
còn vươn lên.
Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ là xứ sở của tự do không chỉ cho tôi một mái nhà, mà còn cho
cơ hội thăng hoa cuộc đời. Khi trình độ, khả năng và quyết tâm nỗ lực, các trường cao đẳng,
đại học đã mở cửa đón tôi như chào một người bạn mới. Tôi tiếp tục con đường học vấn vốn
dĩ chiến tranh, lao tù đã ngăn trở suốt bao năm tháng tuổi trẻ. Vừa học, vừa làm, vừa sống,
vừa đấu tranh, tôi từng bước đi vào cuộc đời bằng đôi chân của mình. Tôi tham gia vào sinh
hoạt Cộng đồng, tranh đấu cho một Việt Nam không Cộng sản, cho tự do tôn giáo, cho nhân
quyền và phẩm giá con người. Điều này không phải là sự hận thù mà là tiếng nói của công
lý, của tình yêu quê hương theo cách không chấp nhận sự im lặng trước bất công.
Tôi chọn vào ngành giáo dục, trở thành giảng viên đại học là một biến chuyển lớn không
chỉ cho cá nhân mà còn là niềm vui được truyền lửa tri thức cho thế hệ mai sau. Mỗi lớp
sinh viên đều mang trong mình một câu chuyện, một tương lai. Có những em sinh ra trong
các gia đình tị nạn, với tâm thế đầy tự hào nhưng vẫn mang theo khát khao hòa nhập. Cũng
có nhiều du học sinh đến từ Việt Nam, cam phận và tò mò, mang theo nỗi khắc khoải riêng
giữa khoảng cách văn hóa và chính trị.
Một điều thú vị, đôi khi cũng buồn cười là những cuộc tranh luận giữa sinh viên tị nạn
và du học sinh. Các em sinh ra và lớn lên ở Hải ngoại, tiếng Việt còn nhiều giới hạn, thường
“bí” giữa chừng và chuyển sang tiếng Anh đầy sôi nổi. Ngược lại, các em du học sinh đến
từ Việt Nam lại không thật sự thành thạo tiếng Anh, nên đành lúng túng. Và thế là tôi trở
thành trọng tài… bất đắc dĩ, người “phiên dịch” ngôn ngữ nhưng cũng là người kết nối hai
thế giới Việt Nam.
Thế hệ trẻ trưởng thành tuyệt vời ở môi trường tự do. Sau khi tốt nghiệp, phần lớn đều
tìm được công việc tốt vào các công ty lớn, có em chọn đi theo con đường phục vụ công
quyền, tham gia chính quyền dòng chính, góp phần định hình tương lai cho đất nước thứ hai
của mình. Đó là thành quả xứng đáng cho một thế hệ sinh ra trong gian nan nhưng không
đầu hàng, khuất phục.
Trên đất nước này Cộng đồng người Việt Hải ngoại vẫn luôn giữ lửa văn hóa. Các trường
Việt ngữ mọc lên trong các chùa, nhà thờ, trung tâm văn hóa… nơi mà tiếng mẹ đẻ được
gìn giữ như một phần hồn dân tộc. Chúng ta không dạy con cháu để chỉ biết nói tiếng Việt,
mà còn để chúng hiểu được nỗi đau, niềm kiêu hãnh, và gốc rễ của một dân tộc từng bị chia
lìa, sụp đổ và tái thiết.
Quốc hận 50 năm nhìn lại chính mình, từ người vượt biển tay trắng phải vươn lên để
sống, dõng mãnh và tự tin, tôi không khỏi xúc động vì đó chẳng là thành công cá nhân, mà
là minh chứng cho tinh thần Việt Nam: “Dù lưu vong, vẫn vươn lên sống mạnh. Dù xa quê
hương, vẫn không quên nguồn cội”.
Năm mươi năm sau ngày Miền Nam sụp đổ, ngày mà lịch sử tỵ nạn tưởng niệm “quốc
hận” thì trong tim tôi vẫn mang một ước mơ chưa bao giờ tắt: ước mơ một nước Việt Nam
không còn Cộng sản, không còn hận thù, không còn chia rẽ vì quá khứ hay ý thức hệ. Một
đất nước nơi mà quyền tự do bầu cử được tôn trọng, nơi người dân có quyền chọn lựa người
lãnh đạo mình bằng lá phiếu, chứ không phải qua súng đạn, áp lực hay tuyên truyền.
Tôi tin rằng ngày ấy khi chế độ vì dân và do dân bầu lên được thiết lập thì lớp thanh niên
trí thức gốc Việt ở Hải ngoại sẽ không ngần ngại quay về. Thế hệ trẻ là những anh tài được
đào luyện tại những đại học hàng đầu thế giới sẽ mang về cho quê hương không chỉ kiến
thức khoa học, kỹ thuật, kinh tế, nhân văn, mà còn là tư duy tự do, tinh thần trách nhiệm, và
đạo đức phục vụ. Đó là tài nguyên quý giá nhất mà Việt Nam hậu Cộng sản có thể kỳ vọng.
Việt Nam không thiếu người tài, chỉ thiếu những lãnh đạo chân chính và một môi trường
tự do để những tài năng có thể cống hiến mà không bị nghi ngờ, kìm hãm, hay kiểm soát tư
tưởng. Khi ấy, một nền hành chính minh bạch, một nền giáo dục khai phóng, và một xã hội
pháp trị thực sự sẽ đưa đất nước vươn lên, vượt qua cả những quốc gia tuy giàu có nhưng
đang thiếu nhân lực, tài nguyên và địa lý.
Tôi mơ một ngày được tự do đi dọc đất nước từ Nam chí Bắc mà không cần phải sợ bị
theo dõi, không cần phải giữ ý khi nói chuyện với người lạ. Một vùng trời mà người trí thức
được trân trọng, người lương thiện được khuyến khích, bảo vệ, và người dân có thể sống an
vui, hạnh phúc, không cần bỏ xứ ra đi để tìm tự do khao khát sự thật cho cuộc sống.
Bằng vào niềm tin ấy thì thế hệ mai sau ở trong nước sẽ không còn phải tìm đường vượt
biển, không bị xuất cảng lao động, làm dâu xứ người; thay vào đó, lớp trẻ Hải ngoại không
còn phải gói ghém quá khứ trong nỗi buồn lưu vong, hiên ngang trở về bằng hành trang là
kiến thức và tình yêu quê hương hầu dựng lại những gì đã mất, xây nên một nước Việt Nam
hùng cường, độc lập, tự do và nhân ái.
Nếu như thời gian quay chậm mà thế hệ chúng tôi không thể thấy ngày ấy hiện thực thì
mong sao từng dòng chữ này sẽ là một lời nhắn nhủ cho thế hệ kế tiếp rằng, dù ở đâu, trong
hoàn cảnh nào, thì người Việt Nam vẫn luôn giữ được phẩm giá, lòng yêu nước, sự tự tin và
ước mơ phục hồi quê hương trong tinh thần nhân bản, tự chủ.
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng – San Jose 30/4/2025
CA KHÚC LỜI TỎ TÌNH MÙA HẠ – LÊ TUẤN
VTLV & THÂN HỮU: TRANG ĐẶC BIỆT MỪNG LỄ ĐỘC LẬP HOA KỲ – INDEPENDENCE DAY



***
MỪNG NGÀY ĐỘC LẬP HOA KỲ
Phương Hoa
Đón mừng ĐỘC LẬP July Fourth
Thung Lũng Hoa Vàng ăn lễ to
Đất nước Cờ Hoa – hoa pháo rực
VĂN THƠ LẠC VIỆT – Việt thi hòa
Cali hạnh phúc từ muôn nẻo
Miền Bắc niềm vui khắp mọi nhà
Kính chúc bình an toàn Mỹ Quốc
Diễn hành thật đẹp tỏa lan xa.
Phương Hoa – BBT VTLV
THƠ CAO MỴ NHÂN
“JULY 4“ NGƠ NGẨN
*
Khi tới đây, tôi nhớ tháng ngày này
Fourth of July Lễ Độc Lập
Independence Day … vui dồn dập
Mới đó, đã phần ba thế kỷ
*
Đứng bên cầu Golden Gate năm 1992
Tôi cứ tưởng một lần rồi không tới nữa
Hơn ba chục mùa hạ vàng rực rỡ
Chính nơi này đẹp nghĩa đất Tự Do
*
Ngó về phương tây, mặt trời đỏ xuống thấp
Phố núi miên man ôm hình hài sắc tộc
Tiếng kèn đồng người dạo khúc tha phương
Quê Việt tôi bên kia Thái Bình Dương
*
Đêm July 4 th man dại cửa thiên đường
Nhưng nếu bạn kéo tôi về cố lý
Tôi sẽ nhảy xuống Cầu Vàng hệ lụy
Vì không muốn thấy những xót thương
*
Bầy quạ kêu chia sẻ nỗi đau buồn
Tôi đứng giữa lằn ranh đời cũ, mới
Mai mốt chắc chôn thân già nẻo cuối
Chốn quạnh hiu, sấp mặt khóc … vô thường …
*CAO MY NHÂN
San Francisco 30 – 6 – 2025
**
THƠ NHẠC PHẠM PHAN LANG
Mỗi năm khi tháng Bảy về, nỗi đau năm xưa lại âm thầm trở giấc trong tim tôi. Ngày Lễ Độc Lập 1985 đã vĩnh viễn cướp đi người chồng yêu quý – một sĩ quan Hải Quân VNCH can đảm, một người chồng, người cha luôn hết lòng vì gia đình và người khác. Anh đã hy sinh mạng sống mình khi lao xuống sóng dữ cứu các em bé đang bị cuốn ra khơi, trong đó có con gái út mới 11 tuổi của chúng tôi.
Trong niềm đau không nguôi của một người vợ, tôi viết bài thơ Hạ Buồn vào ngày July 4th 2014 để ghi khắc một ký ức định mệnh của đời mình. Năm năm sau, bài thơ được nhạc sĩ Vĩnh Điện phổ nhạc thành một ca khúc tha thiết và đã được danh ca Bảo Yến truyền cảm một cách xúc động đến nao lòng.
Xin mời nghe và chia sẻ…
PLang
HẠ BUỒN
Tháng Bảy lại về lòng buồn hiu hắt
Nhớ ngày này bao năm trước anh đi
Môi bất động anh chẳng nói lời gì
Và cứ thế anh đi không từ giã…
*
Đau đớn quá tôi điên cuồng vật vã
Trời Phật ơi xin cứu lấy chồng con
Anh nằm đây nhưng thân xác không hồn
Biết làm sao, làm sao anh trở lại??
*
Đã mấy mươi năm tôi còn nhớ mãi
Buổi sáng nào sóng dữ cướp đời anh
Để bao đêm nhìn trăng chiếu qua mành
Lòng thổn thức ôi mùa hè định mệnh…
phamphanlangJuly 4th 2014
Chuyển ngữ Tiếng Anh.
Every year, as July returns, a deep ache quietly stirs within me. Independence Day 1985 forever marked my life with grief, as it took away my beloved husband — a brave former Navy officer of the Republic of Vietnam, a devoted father, and a man who always put others before himself. He gave his life to save a group of children swept away by a sudden undertow, including our youngest daughter, who was only eleven at the time.
In the silence of anguish, I wrote this poem, Hạ Buồn (Summer of Sorrow), on July 4th, 2014, to honor that tragic yet heroic moment. Five years later, it was beautifully set to music by composer Vĩnh Điện and soulfully performed by the renowned singer Bảo Yến, whose haunting voice captured the heartache and depth of that day.
I invite you to listen, to feel, and to remember — through each verse and note — the weight of love and loss
SUMMER OF SORROW
July returns — my heart falls still,
Haunted by the day fate broke its will.
You left in silence, lips unspeaking,
No last goodbye… just slow soul-leaking.
Grief devoured me in raging cries,
I begged the heavens, tears in my eyes.
You lay there — body cold, soul flown,
How could I bring you back… alone?
So many years, and still I see
That morning wave that stole you from me.
Each night I watch the moonlight creep,
And ache for that summer I cannot keep…
phamphanlang
July 4th, 2014
Translated from Vietnamese poem “Hạ Buồn” by Phạm Phan Lang
MINH THÚY THÀNH NỘI
MỪNG LỄ ĐỘC LẬP HOA KỲ
*
Mùa hè đang rực rỡ
Ánh nắng đẹp tươi hồng
Cánh Én lượn thong dong
Bươm bướm bay tràn ngập
*
Cảnh ra đường tấp nập
Ngày lễ lớn Hoa Kỳ
Shopping chật người đi
Hớn hở vui đầu hạ
*
Bóng nắng xuyên cành lá
Đỏ, tím, vàng lối hoa
Con cháu trở về nhà
Tiệc tùng theo dòng họ
*
Cờ treo chào trước ngõ
Các nơi màn diễn hành
Trống nhạc dồn dập nhanh
Biểu dương sức hùng mạnh
*
Bầu trời đêm gió lạnh
Pháo bông bắn đì đùng
Những sắc màu nở tung
Chào mừng Lễ Độc Lập
*
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 7/4/2025

MỪNG LỄ ĐỘC LẬP HOA KỲ – NGUYỆN CẦU ĐỘC LẬP CHO UKRAINE
Phương Hoa
Lần đầu tiên tôi chú ý đến ông già Mỹ trắng ngồi xe lăn trên lề đường,
khi xe tôi dừng đèn đỏ chuẩn bị quẹo vào trung tâm bán sỉ Costco. Tôi
nhớ đó là khoảng thời gian quân Nga bắt đầu tấn công Ukraine, cách đây
cũng đã bốn, năm tháng gì đó. Chiếc quần jean lưng lửng, loang lổ vết
bẩn và rách te tua, lộ ra hai đầu gối nám đỏ bầm và đôi chân lông lá; áo
thun ngắn tay màu xanh rừng của lính, màu áo quen thuộc của Tổng
Thống Ukraine Volodymyr Zelenskyy, vị tổng thống anh hùng của một
dân tộc anh hùng mà cả thế giới đều kính nể; trên cánh tay áo ông ta còn
gắn một lá cờ màu vàng xanh của đất nước Ukraine.
Tôi chợt cười thầm. Là “fan” hâm mộ của tổng thống Ukraine đây mà.
Tôi cũng là người rất hâm mộ ông tổng thống thông minh gan dạ này.
Lần đầu tiên thấy Zelenskyy phát biểu với giọng nói hùng hồn, lời lẽ
khôn khéo, mạnh mẽ, kêu gọi thế giới giúp đỡ Ukraine, làm tôi rất khâm
phục. Nhưng khi nhìn ánh mắt chứa đựng sự oán hận, lẫn đau khổ, và sự
chịu đựng tột cùng của Zelenskyy, tôi muốn rơi nước mắt.
Ông già ngồi trên xe lăn khổ người phốp pháp với cái bụng bự tròn quay
nhú ra dưới lớp áo. Khuôn mặt khắc khổ và buồn bã, nhưng hàm râu
quai nón rậm rì khiến ông toát ra một vẻ mạnh mẽ kiên cường, và không
thấy có chút gì là đáng tội nghiệp, dù trên tay ông cầm tấm bảng có mấy
chữ viết tay xiêu vẹo: “Please help!”
Điều khiến tôi xúc động và chăm chú quan sát kỹ ông già là vì ông đội
chiếc mũ dìm đen có hàng chữ màu vàng in thật lớn: VIETNAM WAR
VETETRAN. Một cựu chiến binh Việt Nam. Người này đã từng bay
qua nửa vòng trái đất giúp dân tộc tôi gìn giữ tự do và hòa bình. Tôi biết chính phủ Mỹ rất ưu đãi các cựu quân nhân, tại sao ông già này lại đi ăn
xin như thế nhỉ.
Đèn chuyển sang màu xanh. Tôi chợt giật mình bừng tỉnh vì tiếng còi
hối thúc của xe sau. Làn đường hẹp không có chỗ tắp vô, nên tôi vội
chụp lấy cái điện thoại, moi hết số tiền lẻ trong ngăn bên của cái vỏ bọc,
và rà xe tới gần chỗ ông già. Hạ cửa kính xuống, tôi chồm tới nhét nắm
bạc lẻ vào tay ông rồi nhấn ga chạy đi, bỏ lại đàng sau ánh mắt sáng lên
đầy thiện cảm với đôi bàn tay chắp xá và tiếng “Com on” thật to. Vào
trong Costco lựa đồ mà tâm trí tôi mãi nghĩ về người cựu chiến binh Việt
Nam với cái vẻ mặt oai hùng nhưng buồn bã ấy.
Tôi ở không xa Costco, nên tôi thường xuyên đi mua đồ và đổ xăng ở đây. Những lần sau đó, mỗi khi đi Costco tôi đều cố ý mang theo một ít tiền để cho ông già này, vì hầu như ông luôn luôn ngồi tại chỗ cũ. Và tôi trở thành khách hàng của ông lúc nào không hay.
Một lần, chẳng hiểu sao ông lại đổi hướng, thay vì ngồi bên phải thuận tiện xe cộ qua lại dừng đèn đỏ cho tiền, ông lại chuyển sang ngồi phía bên trái, trên lề cái “only” quẹo trái ngăn đôi giữa hai bên đường xuôi và ngược chiều. Thế nên trên đường đến tôi không thể đưa tiền cho ông.
Mua sắm xong ra xe tôi lục lấy cái phong bì rồi bỏ tiền vào đó, và lái chầm chậm vô làn thứ nhì từ bên trái. Khi dừng lại đợi đèn xanh tôi hạ cửa xuống cầm lấy cái bì thơ, chồm ra ngoài và thảy qua cho ông già. Tôi cố ném vào chiếc xe lăn ông đang ngồi, nhưng không ngờ cái bì thư va vào chiếc xe sau vừa trờ tới, và nó rơi xuống đất nằm trong lòng đường. Bì thư không dán nên số tiền văng tung tóe, làm tôi cảm thấy rất áy náy. Tôi định đậu xe để xuống nhặt lại cho ông, thì người phụ nữ da trắng trong xe đã bước xuống gom hết lại những tờ bạc dưới đất và bước tới đưa cho ông già. Đúng là “Người Mỹ tử tế,” tôi thầm nghĩ. Từ những việc cỏn con này, tuy chưa một lần trò chuyện, tôi có cái cảm giác ông già Mỹ đã là “người quen.”
Nhưng đó là lần cuối cùng tôi cho tiền ông. Những lần sau tôi cũng mang theo tiền, nhưng không còn thấy ông già xuất hiện chỗ đó nữa, và mỗi lần chạy ngang qua tôi có cảm giác hơi buồn, nghĩ là chắc ông ấy đã … vĩnh viễn ra đi. Tồn tại từ thời chiến tranh Việt Nam, tuổi ông nay cũng đã cao rồi còn gì.
*
Ngày 4 Tháng 7 năm 2022, ngày Lễ Độc Lập Hoa Kỳ. Vì được “xả trại Covid,” mấy đứa con đưa tụi nhóc cháu nội đi chơi xa hết, không đứa nào về chung vui như trước kia, nên tôi rảnh rang việc nấu nướng. Qua hơn hai năm trốn dịch trong nhà cũng bị “cuồng chân,” ông xã tôi muốn dành ngày lễ Độc Lập đi tháp tùng đoàn diễn hành của thành phố cho thư giãn gân cốt. Đặc biệt, năm nay thành phố có tổ chức cuộc thi chạy bộ 5 km quanh thành phố, trước giờ xe hoa bắt đầu cuộc diễn hành, để gây quỹ cho Nhà Tạm Trú Phụ nữ và Trẻ em. Đáng tiếc, chúng tôi dù cũng từng là dân chạy bộ nhưng vì bận rộn quên mất thời hạn, ghi danh trễ nên không thể tham dự. Cuộc thi này rất thú vị, vì dọc đường các cơ sở kinh doanh địa phương cung cấp miễn phí thức ăn nhẹ, các loại nước uống, trái cây. Sau cuộc thi có cả… bia cùng rượu cho người lớn giải lao nữa. Tất cả mọi thí sinh đều được phát áo đồng phục với số báo danh.
Dọc đường ai mỏi mệt có thể dừng lại bốc vài cái bánh, chai nước, rồi
vừa chạy vừa thưởng thức. Già trẻ gái trai đều tham dự được, ai đến
đích trước nhận phần thưởng và huy chương, những người mỏi mệt cứ
chạy sau hay đi bộ tà tà thì khi đến đích cũng được tặng những món quà
an ủi.
Buổi sáng, tôi thức dậy ăn uống xong là “diện đồ July 4th” áo đỏ có hình cờ Mỹ rồi cùng nhà tôi đi bộ ra phố. Thành phố nhỏ chúng tôi dọn về sau khi nghỉ hưu ở gần biển, thuộc vùng Đông Vịnh San Francisco, là một thành phố cổ. Chính quyền và người dân ở đây luôn luôn giữ gìn truyền thống tổ chức diễn hành xe hoa trong ngày Lễ Độc Lập hàng năm, trừ vài năm dịch Covid vừa qua. Năm nay mở cửa trở lại nên cả thành phố náo nức rộn ràng lo chuẩn bị cho cuộc diễn hành và cuộc thi chạy bộ.
Theo lịch trình, sau khi cuộc thi chạy 5 km bắt đầu, thì đoàn xe hoa cũng khởi hành từ tụ điểm gần bờ biển, chạy quanh downtown, dọc theo khu vực dân cư, giáp một vòng thì về lại chỗ cũ, chiều dài cũng trên bốn, năm dặm. Tôi háo hức ngắm nhìn, chạy tới chạy lui theo đoàn xe đủ màu sắc và kiểu dáng để chụp hình. Tôi mãi mê nhìn những kỵ mã cảnh sát thành phố oai phong trên lưng những chú ngựa nòi cao lớn bờm lông đen mượt, khoác những bộ yên cương rực rỡ sắc màu, và tôi bỏ lạc ôngxã trong dòng người coi đông nghịt hai bên lề đường.
Đến đoạn đường có những chiếc xe hoa thật dài và đẹp, tôi vội đưa điện thoại lên. Bấm được vài tấm hình, tôi xoay lưng lại định đi tiếp bỗng đụng phải một người đang bước tới thật nhanh. Tôi bị mất trớn ngã nhào vào đám đông đang ngồi coi diễn hành trên lề đường. Chiếc điện thoại vuột khỏi tay, và theo phản ứng tự nhiên tôi chụp vội cái tay nắm của một chiếc xe lăn gần đó để giữ thăng bằng trở lại. Bị xấu hổ, tôi vội cúi nhặt chiếc điện thoại lên rồi lắp bắp lời xin lỗi với người ngồi trên chiếc xe lăn có cắm đầy những lá cờ Mỹ nhỏ:
“I’m… sorry!”
“No problem!’Người đó trả lời, và rồi kêu lên với vẻ kinh ngạc,“Oh….thì
ra là cô à?”
Tôi chưa kịp hoàn hồn, nghe thế bèn nhìn kỹ ông ta, và chợt nhận ra người ngồi trên xe lăn chính là người ăn xin gần Costco tôi vẫn cho tiền mấy lúc trước. Vẫn chiếc mũ dìm có hàng chữ in “VIETNAM WAR VETETRAN,” vẫn “chiếc áo thun Tổng Thống Ukraine,” và lá cờ vàng xanh trên tay áo. Nhưng nhìn ông ta gọn gàng hơn, sạch sẽ hơn, và thần thái ông lúc này trông rất tốt, mặt mũi tươi tắn, nét mặt sinh động, không còn nét bơ phờ và buồn phiền như trước nữa. Tôi vừa ngạc nhiên vừa vui. Rủi mà may, tình cờ được dịp gặp lại ông già cựu chiến binh Việt Nam, người mà lâu nay tôi thường nghĩ đến mỗi lần chạy ngang qua chỗ ông từng ngồi xin ăn.
“Thì ra là ông!” Tôi cũng kêu lên mừng rỡ như gặp lại bạn cũ. “Ông có
khỏe không? Lâu nay ông làm gì mà tôi không thấy ông nơi… chỗ cũ?”
Tôi nói, không tiện nhắc lại chỗ cũ là chỗ nào. Ông ta chỉ cười, rồi quay
qua người phụ nữ Mỹ trắng lớn tuổi ngồi trên chiếc ghế xếp bên cạnh:
“Honey, cô đây là người anh thường kể với em trước kia, người bao giờ
cũng dừng lại giúp anh mỗi khi cô ấy đi mua sắm ở Cotsco.” Quay sang
tôi, ông tiếp, “Xin chào! Tôi tên là Scott, còn đây là Sue, bạn gái tôi.
Bà Sue gật đầu chào tôi với nụ cười hiền lành và đầy thân thiện. Thấy bà
có vẻ xuề xòa tôi cũng chào bà tự nhiên không chút dè dặt, tự giới thiệu
tên mình, rồi quay qua ông, chỉ vào chiếc mũ ông đang đội:
“Ông là cựu chiến binh Việt Nam? Lần đầu tiên tôi chú ý đến ông vì
chiếc mũ này. Có phải ông đã từng sang Việt Nam chiến đấu giúp quê
hương tôi?”
“Yes, I did! Vâng, tôi đã từng.” Rồi như còn có rất nhiều điều muốn nói,
ông già vừa quay đầu chiếc xe lăn, vừa ra dấu cho tôi và bà bạn ông tách
khỏi đám đông, “Chỗ này ồn ào quá, chúng ta hãy qua bên kia nói
chuyện đi.”
Bà Sue cởi chiếc áo khoác máng vào thành chiếc ghế xếp bà vừa ngồi,
để người ta biết là ghế có chủ, rồi bước vội theo ông. Tôi cũng hào hứng
bước theo hai người đến chỗ gần trạm xăng, nơi có một rừng cờ Mỹ thật
lớn đang phất phơ tung bay trong nắng.
“Trước nhất, tôi xin cám ơn ông,” tôi nói khi xe ông dừng lại bên cạnh
hàng cờ bay phất phới, “ngày ấy đã sang tận Việt Nam chiến đấu giúp
quê hương tôi.”
Ông Scott vội lắc đầu, và nói bằng cái giọng có vẻ nặng nề:
“No! Chúng tôi đã không giúp được gì cho các bạn. Cho đến tận bây
giờ, tôi luôn nghĩ rằng chúng tôi còn mắc nợ các bạn.”
Tôi thấy tội nghiệp ông. Đã mấy chục năm qua mà ông vẫn còn ấm ức,
nói ra những điều tôi thường nghe trước giờ mỗi khi nói chuyện cùng
những cựu quân nhân Hoa Kỳ trở về từ Việt Nam. Ông nới một hơi,
phàn nàn về chuyện thời chiến tranh Việt Nam, về cánh báo chí phản
chiến Mỹ, về người dân Mỹ xuống đường biểu tình, về chính phủ Mỹ…
càng nói càng hăng, mặt ông đỏ bừng.
Bà Sue đứng im lặng nghe, thỉnh thoảng lắc đầu, có vẻ như bà đã quen
với chuyện này:
“Ông ấy vẫn thường như thế, mỗi khi có ai nhắc về chuyện chiến tranh
Việt Nam.” Bà nói.
Tôi muốn giúp ông quên đi cái quá khứ đau lòng ấy lúc tuổi già, nên
hướng qua chuyện khác:
“Cám ơn ông, Scott. Nhưng chuyện đã mấy chục năm rồi, làm ơn hãy
quên đi để cho tâm trí ông được nhẹ nhàng.” Tôi nói xong đổi đề tài:
“Bây giờ cho tôi hỏi, hình như ông rất hâm mộ Tổng Thống Zelenskyy
của Ukraine? Tôi thấy ông mặc áo màu giống Zelenskyy và còn đeo cờ
Ukraine, đã từ lâu lắm rồi?”
Ánh mắt Scott sáng lên, và tôi biết là tôi đã… bắt đúng huyệt của ông.
“Oh yeah! Absolutely, yes!” Tất nhiên rồi! Ông kêu lên đầy vẻ thán
phục. “Cũng nhờ chứng kiến sự kiên cường của họ mà tôi mới ‘là một
con người’ như bây giờ!”
Có lẽ sự thân thiện và kính trọng của tôi đối với ông lâu nay đã khiến
ông tin tưởng. Cho nên dù mới gặp lần đầu, qua vài câu hỏi tế nhị và
cảm thông của tôi (bạn tôi thường nói tôi có năng khiếu trong việc khai
thác thông tin từ người khác mà!), Scott đã mở lòng kể cho tôi nghe về
chuyện của ông, về lý do tại sao ông trở thành kẻ ăn xin và bây giờ thì
trở lại phong độ cũ.
Và rồi, tôi quên mất đoàn xe hoa diễn hành, quên mất ông xã đang đi tới
đâu, quên luôn đám đông đang vỗ tay từng đợt mỗi khi có chiếc xe hoa
chạy qua. Tôi đứng lặng người, đắm chìm vào câu chuyện đầy cảm
động và đau thương của ông già Mỹ.
*
Gần cuối năm 1974, ông Scott là thương binh trở về từ Việt Nam sau
một trận pháo kích của Việt Cộng vào nơi đóng quân của ông. Một mảnh
đạn pháo đi lạc đã ghim vào đốt sống nên ông bị liệt hai chân.
Người vợ trung thành Cathy và đứa con trai độc nhất Richard của hai người đã
chăm lo cho ông suốt cả cuộc đời. Con trai ông ăn học thành tài, ra đi
làm nhưng không hề kết hôn, dù anh ta cũng có bạn gái đó đây. Mấy
năm về trước, gia đình ông gặp phải một cơn đại họa. Vợ ông và
Richard đã qua đời cùng lúc trong một tai nạn xe hơi, bỏ lại ông một
mình với tấm thân tàn phế.
Ông bị sốc vì quá đau khổ, quá thương nhớ, làm cho bấn loạn tâm thần. Do dùng thuốc gây nghiện quá nhiều để giảm stress, và còn mượn rượu giải sầu, ông đã trở thành con nghiện cả hai món. Cuối cùng, ông làm thân “homeless” không nhà vô ngụ trong “shelter” của thành phố. Vì nghiện ngập, số lương hưu hàng tháng đều
bay sạch, nên ông phải đi xin thì mới có thêm tiền mua thức ăn hoặc
thuốc để “phê” hay vài lon bia để uống. Ông kể xong thì nói:
“Cho đến thời gian tôi gặp cô, là tôi đã làm ăn mày cũng hơn một năm
rồi.”
“Tôi thật là xin lỗi chuyện vợ con ông, Scott!” Tôi nói cùng với sự xúc
động tận đáy lòng vì câu chuyện thương tâm của ông. “Cầu Thượng Đế
phò hộ cho ông.”
“I’m okay now.” Bây giờ tôi ổn rồi, cám ơn cô.
“Cô biết không,” bà Sue nãy giờ đứng im, bây giờ thấy ông ngừng lại bà mới lên tiếng, “nếu không có chiến tranh Ukraine, không có Tổng Thống Zelenskyy, nhất là gần đây không có hai tù binh Mỹ bị Nga bắt giữ, thì hiện tại ông ấy vẫn còn đói khổ dài dài, còn ngồi ăn xin ở chỗ cổng vào Costco như cô từng thấy. Trước đó cho dù tôi đã hết lời khuyên can ông hãy đi cai nghiện nhưng ông không chịu nghe.”
“Là sao ạ?” Tôi hỏi với vẻ tò mò lẫn thích thú.
“Là do tôi quá ngưỡng mộ Zelenskyy và dân tộc Ukraine, tôi mới tự cai
nghiện!” Scott trả lời thay bà Sue. “Hằng ngày xem tin tức, tôi thương
đất nước họ lắm, những con người dũng cảm vô song.” Ông dừng lại
quay qua bà Sue, “Tôi quen Sue từ Trung tâm Tạm Trú cho kẻ không
nhà. Bà đã khuyên bảo và lo lắng cho tôi rất nhiều, và tôi nghe lời bà
mọi việc, ngoại trừ chuyện cai nghiện. Cám ơn em yêu!” Ông nói, đưa
tay vỗ vỗ vào lưng bà một cách rất âu yếm.
“Wow! Ông làm tốt lắm! Good Job, Scott!” Tôi nói và đưa ngón cái lên.
“Nhưng tôi hơi… chậm tiêu một chút, ông có thể cho biết tại sao ông
ngưỡng mộ Tổng Thống và dân tộc Ukraine mà ông tự cai nghiện thành
công? Chả lẽ ông muốn… qua Ukraine đánh nhau với quân của Putin
giúp họ?” Tôi đùa.
“I wish!” Tôi rất muốn thế! Không ngờ Scott hăng hái trả lời. “Phải, tôi
rất khâm phục họ, ước gì tôi lành lặn và còn trẻ, khỏe, tôi sẽ qua Ukraine
giúp họ ngay không chần chừ! Nhất là gần đây mỗi lần xem tin tức,
thấy hình ảnh Alexander và Andy Tai ở Alabama bị quân Nga bắt giữ tôi
thương họ vô cùng, và tôi đã tự nguyền rủa tôi. Tôi nghĩ lại mình thật vô dụng, khi bao nhiêu đồng đội của tôi đang trong vòng nguy hiểm chiến đấu cho tự do, thì tôi ở nhà ăn no mặc ấm lại đi hủy hoại đời mình trong một thời gian dài như vừa qua, đến xém chút nữa bỏ mạng. God, cám ơn Thượng Đế! Tôi đã làm được!” Ông nói với một vẻ tràn đầy hãnh diện.
“Đúng vậy, Scott đã tự mình cai nghiện, không cần tới trung tâm.” Bà Sue nói tiếp theo ông. “Và ông ấy đã làm rất tốt, kết quả chỉ trong vòng mấy tháng. Nhờ cả ngày ngồi theo dõi tin tức từ Ukraine, ông đã đánh gục và chiến thắng được các cơn ghiền vật vã. Tôi cũng phụ giúp ông nữa. Trong thời gian qua ông ấy và tôi đã tiết kiệm được một số tiền. Thay vì dùng mua ma túy và hoang phí rượu bia như trước, mới đây chúng tôi đã đem cho Hội Hồng Thập Tự Hoa Kỳ một ít để giúp cho người tị nạn Ukraine. Amazing! Quả là chúng tôi đã làm được điều đáng
kinh ngạc!”
Tôi cảm động đến rưng rưng, không thốt ra lời. Ông Scott đúng là một người rất giàu tình cảm. Mất hết một lúc im lặng, cuối cùng tôi nói:
“Scott, ông quả thật là người tốt! Xin Thượng Đế phù hộ cho ông!” Rồi
tôi hỏi: “Ông có biết một trong hai tù binh đó là người Việt Nam của
chúng tôi không, anh Andy Tai Huynh. Không biết bây giờ họ ra sao.”
“Tôi biết, Tai là người Việt Nam. Chính phủ Mỹ vẫn đang cố gắng bằng
mọi cách để đưa họ về với gia đình, cô yên tâm đi.”
Biết Scott theo dõi kỹ tin tức về cuộc chiến Ukraine, tôi hỏi:
“Theo ông, thì cuộc chiến Ukraine rồi sẽ đi tới đâu? Tôi xem tin tức thấy
tổng thống và dân tộc Ukraine rất kiên cường, nhưng quân Nga cậy
người đông tiền lắm, cứ tiếp tục xâm chiếm chứ không chịu dừng lại.
Bây giờ thế giới phải làm sao mới tốt cho Ukraine?”
“Chắc chắn có một ngày quân Nga sẽ phải rút thôi!” Scott nói như
khẳng định. “Quân dân vô tội của Ukraine đã thiệt mạng quá nhiều rồi.
Thượng Đế công bình sẽ phán xét, kẻ ác sẽ phải đền tội. Cũng có lúc, tôi
giận các nước phương Tây quá chết nhát “chicken” không chịu giúp vũ
khí sớm cho Ukraine, để Zelenskyy phải kêu gào khản cả cổ mới chịu
gửi vũ khí cho họ.” Ông ngừng lại, lấy chai nước từ phía sau lưng ra hớp
một miếng rồi nói tiếp, “Cho tới sáng nay, quân Ukraine vẫn đang cố
gắng chận đứng quân Nga ở biên giới Donetsk, nhưng chẳng biết họ có
giữ nổi hay không đây.” Ông nghẹn ngào, “Poor Ukraine! Ukraine tội
nghiệp, mỗi ngày đều có rất nhiều thường dân vô tội bị quân Nga giết.
Tính tới nay, đã có hàng chục nghìn thường dân Ukraine lớp bị giết lớp
bị thương.” Và ông bỗng cao giọng như nấc lên, “Cuộc chiến này không
thể kéo dài! Hãy cầu nguyện cho họ!”
Tôi gật đầu:
“Đúng vậy. Chúng ta nên cầu nguyện cho đất nước và người dân
Ukraine. Cầu nguyện cho cuộc chiến này chấm dứt càng sớm càng tốt!”
“Phải! Hãy cùng cầu nguyện. Xin Chúa thương xót và cứu lấy
Ukraine!” Bà Sue cũng nói và đưa tay lên làm dấu thánh giá. “Ukraine
không thể nào thua, Chúa ơi!”
Tự nhiên tôi cảm thấy trong lòng buồn bã vô cùng. Nếu rủi như Ukraine
không chiến thắng nổi quân Nga… Tưởng tượng tới đó, tôi chợt lắc đầu
rùng mình, không dám nghĩ tiếp.
Chào từ giã Scott và Sue, tôi thất thểu bước theo những chiếc xe hoa cuối cùng của đoàn diễn hành để về nhà.
Trời đã quá xế trưa. Ánh nắng hè rực rỡ lung linh, những chùm phượng tím hai bên đường đong đưa trong cơn gió nhẹ từ biển thôi vào man mác. Nhưng trong tôi mọi hào hứng của buổi mai khởi hành ra đi bây giờ đã biến mất.
Lạy Trời xin cứu lấy Ukraine. Tôi khấn thầm.
Phương Hoa
**

KHÁT VỌNG TỰ-DO
*
Đã quyết ra đi, chẳng trở về …
Ta thà chôn kín mối tình quê
Thay tên, đổi họ, đời du tử
Nuốt nhục vào trong chén rượu hề!
*
Đã quyết ra đi chẳng trở về …
Sá gì ngộ nhận hoặc khen chê.
Chí ta ta biết, lòng ta quyết,
Dứt áo ra đi chẳng trở về!
*
Lạy mẹ, lạy cha, một lạy này …
Xem như con chết kể từ nay
Họ tên xin chép vào bia mộ
Nhang khói hồn ma giữ lấy ngày.
*
Máu chảy đời nay ruột chẳng mềm,
Thù hằn chia cắt nghĩa anh em …
Ta đi … dẫu phải vào sinh tử,
Cũng lấy làm vui nấm mộ tàn
*
Đã quyết vung dao rạch đá thề
Bỏ mình biển cả hoặc sơn khê
Sướng khổ đói no đường đã chọn
Quyết chẳng lùi chân bước trở về …
*
Buồm đã căng rồi, lộng biển khơi
Hồn ta khát bỏng cánh chim trời
Đã quyết ra đi không ngoảnh lại
Tự do hay chết…một đường thôi!
-Chàng Đông Ry Nguyễn
**

GỬI EM NGƯỜI NỮ CHIẾN BINH UKRAINE
*
Thấy bom nổ trên đất người xinh đẹp
Ta tức mình căm ghét lão Putin
Nếu còn trẻ ta ngán gì trận mạc
Sẽ lên đường giáp mặt với đao binh
*
Bạn bè ta cũng đã từng chiến đấu
Rất ngoan cường chống lại lũ xâm lăng
Những thế lực vô thần tay vấy máu
Giỏi tuyên truyền chuyên lừa gạt nhân dân
*
Ráng lên em hãy vững vàng tay súng
Đừng yếu lòng mà tin tưởng ngây thơ
Với độc tài quy hàng là…chán sống
Nền tự do không miễn phí bao giờ
*
Ta rất tiếc không còn trai trẻ nữa
Bên chiến hào chia lửa đạn cùng em
Thơ ta viết là tấm lòng chan chứa
Mong ơn lành các em được bình an
*
Ngày mai đến khi tin mừng chiến thắng
Em trở về trong bao lớp hùng binh
Quăng tay súng cùng chung vai xây dựng
Trời Ukraine nắng đẹp gió thanh bình…
Donry Nguyen

TẾ SỐNG ĐỘC TÀI
*
Trong thời đại văn minh tiến bộ,
Lại bất ngờ xuất hiện thằng điên.
Nuôi tham vọng lên ngôi đại đế
Đạp lê dân dưới gót bạo quyền.
*
Xua quân lính xâm lăng bắn phá,
Gieo hãi hùng bom đạn đau thương.
Miệng nhe nanh những lời dối trá
Mặt lạnh tanh thủ đoạn khôn lường.
*
Cả nhân loại đồng lòng lên án
Thế giới cùng cấm vận bao vây.
Người Ukraine đêm ngày chiến đấu
Vì tự do quyết một trận này.
*
Trời vốn chẳng dung đồ man rợ,
Bọn độc tài phải bị tiêu vong.
Ta viết sẵn một bài văn tế,
Đợi đến giờ lịch sử sang trang.
Donry Nguyễn
NGÀY LỄ ĐỘC LẬP HOA KỲ – BIỂU TƯỢNG CỦA TỰ DO VÀ LÒNG YÊU NƯỚC
Thái Phạm
Ngày 4 tháng 7 hằng năm, người dân Hoa Kỳ cùng nhau kỷ niệm Ngày Độc Lập – một trong những ngày lễ quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc nhất trong lịch sử đất nước. Đây là dịp để tưởng nhớ sự kiện ngày 4 tháng 7 năm 1776, khi bản Tuyên ngôn Độc lập chính thức được thông qua, đánh dấu sự khai sinh của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ – một quốc gia được xây dựng trên nền tảng tự do, công lý và quyền bình đẳng.
Trước năm 1776, 13 thuộc địa ở Bắc Mỹ do Anh quốc cai trị đã chịu nhiều áp bức về thuế khóa và quyền tự quyết. Sau nhiều năm đấu tranh, vào ngày 4 tháng 7 năm 1776, tại Philadelphia, các đại biểu của 13 thuộc địa đã đồng lòng ký vào bản Tuyên ngôn Độc lập, do Thomas Jefferson chấp bút. Bản tuyên ngôn này không những tuyên bố Hoa Kỳ tách khỏi Anh quốc, mà còn khẳng định những giá trị cốt lõi về nhân quyền và dân chủ.
Ngày Lễ Độc Lập là thời điểm để người dân Mỹ thể hiện lòng yêu nước và tự hào dân tộc. Khắp nơi trên đất nước, các thành phố lớn nhỏ đều tổ chức diễu hành, bắn pháo hoa, hòa nhạc ngoài trời và các buổi picnic gia đình. Màu cờ đỏ – trắng – xanh xuất hiện khắp nơi, từ trang phục, trang trí nhà cửa đến các sản phẩm tiêu dùng, như một biểu tượng gắn kết tinh thần quốc gia.
Dù trải qua hơn hai thế kỷ, tinh thần của Ngày Độc Lập vẫn còn nguyên giá trị. Đó là lời nhắc nhở về khát vọng tự do, về quyền con người, và về trách nhiệm của mỗi công dân trong việc gìn giữ và phát huy những giá trị mà các bậc tiền nhân đã đổ máu để giành được.
Ngày 4 tháng 7 không chỉ là một kỳ nghỉ lễ, mà còn là một dịp để suy ngẫm: Tự do không phải là điều sẵn có – đó là thành quả của đấu tranh, của hy sinh, và cần được bảo vệ qua từng thế hệ.

Thơ mừng Ngày Độc Lập Hoa Kỳ
Bốn tháng Bảy, ánh dương hồng
Bừng lên khát vọng khắp non sông
Pháo hoa rực sáng ngàn mây biếc
Cờ Mỹ tung bay giữa muôn lòng.
“Con người sinh ra đều bình đẳng”
Jefferson ghi bằng trái tim nồng
Mở ra trang sử vàng rực rỡ
Tự do, công lý, sáng trong lòng.
Thái Phạm
KIỀU MỸ DUYÊN – Bút Ký: TẠ ƠN TRỜI, TẠ ƠN NGƯỜI, NGƯỜI VẪN THƯƠNG NGƯỜI & TRIỂN LÃM CÂY KIỂNG BONSAI VÀ HÒN NON BỘ NĂM THỨ 26.
***
ĐÔI DÉP LÀO Của Thầy LÊ THÍ – TRƯƠNG CÔNG HẢI

Trương Công Hải và Lê Thí
(Thân gởi các em lớp A8 THPT Trần Phú)
TRƯƠNG CÔNG HẢI
Tàn cuộc chiến, Lê Thí cũng như bao bạn bè trang lứa ở miền Nam đều phải đánh cược số phận mình theo một dòng bị trôi giữa đôi bờ chân lý của cuộc đời.
Niềm hãnh diện về danh xưng là giáo sư trung học của một thời, nay được dùng lại dưới màu áo kỹ sư tâm hồn, nhà giáo không những vui vì được lưu dung mà còn phải lo vá víu lại cuộc đời mình theo những ô đã kẻ sẵn trong tờ tem phiếu.
Là Thầy dạy Sử, ngoài những biên khảo về lịch sử địa phương, Thí còn làm thơ và viết truyện ngắn.
Xin giới thiệu đến bạn đọc một truyện ngắn tiêu biểu để hoài niệm về một thời mà câu nói đùa: “Thầy giáo tháo giày, giáo chức dứt cháo”, thấm thía hơn bao giờ hết.
ĐÔI DÉP LÀO CỦA THẦY LÊ THÍ
Khoảng đầu thập niên 1980, đời sống của người Thầy giáo cực kỳ khó khăn, tôi phải đi xe đạp thồ kiếm thêm tiền mua sữa cho con.
Cứ mỗi 5 giờ sáng là ra đứng đầu đường Hoàng Diệu Đà Nẵng để chờ khách, khi trời vừa rạng sáng, lại bỏ đường Hoàng Diệu vì đây là nơi gần trường đang dạy sợ dễ bị gặp học trò nên đổi xuống đường Lý Tự Trọng hoặc Trần Cao Vân dễ có khách hơn.
Có khách hay không thì cứ đến 10g30 cũng phải quay về nấu cơm trưa để còn lên lớp xuất chiều.
Một sáng nọ, đang gò lưng trên đường Trần Cao Vân về nhà chuẩn bị đi dạy, chợt có một bà cụ dáng ở quê ra đứng đón xe. Vừa mừng vừa lo, mừng vì được một cuốc xe có thêm tiền, lo vì sợ lỡ khách đi xa, về trễ cơm không kịp giờ dạy. Tôi dừng xe rồi hỏi: “Cụ đi mô”. Bà bảo “Đây xuống bến xe Vĩnh Trung mi lấy mấy?”.
Thấy tuyến đi trùng với lộ trình về nhà nên tôi nói: “Đúng giá là một đồng rưỡi, còn chừ cụ cho mấy cũng được, con đang trên đường về nhà mà.” Bà cụ cười giơ hàm răng toàn… lợi và nói: “Thằng ni đi xe thồ mà nói nghe vui hỉ !”
Nói xong bà cụ cúi xuống cầm đôi dép Lào đã mòn gót, cụ bỏ đôi dép vào giỏ xe và nói: “Xuống bến xe mi nhớ nhắc tau lấy đôi dép ni, chớ không phải mi đợi tau quên rồi lấy luôn nghe chưa!”
Tôi cười: “Cụ yên tâm, con không mang dép bằng tay nên không lấy đôi ni mô!”
Lên xe,chuyện qua chuyện lại mới biết bà ở Điện Bàn ra mang cho con trai đang làm công nhân ở cảng một ang gạo, vì nghe nói gạo tiêu chuẩn ăn không đủ, còn bà thì biết tôi là thầy giáo cấp 3 đi xe ôm ngoài giờ để kiếm thêm tiền mua sữa cho con.
Một chặp, tôi nghe bà ngồi sau chép miệng: “Răng ai cũng khổ hết trơn ri hè!”
Đến bến xe Vĩnh Trung, tôi quay lại dặn bà : “Cụ ngồi im, đừng lo, để con tìm xe Vĩnh Điện cho cụ đi.”
Tìm được xe đi Vĩnh Điện, tôi dừng lại, cám cảnh cám người, tôi liền nói với cụ: “Cụ nhớ lấy đôi dép, con chở hộ cụ một đoạn thôi không lấy tiền.” Bà liền giãy nãy: “Thằng ni nói nghe được, tau không trả tiền xe nhưng chờ tau một xí.”
Vừa nói cụ vừa lật lớp áo ngoài rồi mở cây kim băng cài túi áo trong, lấy ra 3 đồng đưa cho tôi. Tôi liền nói “Con nói rồi, con chở giùm không lấy tiền xe mà”. Cụ bà liền la lên: “Tau không trả tiền xe, tau cũng không cho mi, mi có chân, có tay, mi làm mi ăn, tiền ni tau gởi mi đem về mua sữa cho cháu tau, mi không lấy, tau la làng là mi móc túi. Răng? Nhận đi con cho bà vui”.
Nói xong cụ nhét tiền vào túi áo của tôi rồi cắp nách đôi dép Lào đã mòn gót leo lên xe.
Lần đó tôi đứng khóc một mình giữa bến xe Vĩnh Trung cho đến khi chuyến xe rời bến…
Bà ơi, giờ đây bà đang nơi mô, đứa cháu nhỏ năm xưa bà cho tiền mua sữa nay đã là tiến sĩ, giảng viên của một trường đại học danh tiếng ở nước ngoài.
Bà ơi, cho đến hôm nay trong cuộc đời này, từ lúc chia tay con vẫn còn nợ bà… một hộp sữa!
(Lê Thí – Sài Gòn, 26/5/2017)
Đây là một câu chuyện kể không hề có hư cấu, bởi người viết biết rất rõ về tác giả, vì cùng là bạn đồng nghiệp, đồng cảnh ngộ , dạy chung trường vào những năm đầu thập niên 80.
Câu chuyện đơn giản giữa đời thường nhưng nó đã chạm được tới đáy tâm hồn người đọc bởi nét bi hài của một xã hội thời cơ chế.
Hơn nữa, nó được khắc họa như một bức tranh hiện thực xã hội giúp ta thấy được nhiều điều:
* Bà cụ sợ mất đôi dép, chứng tỏ giữa người với người còn thiếu tin nhau, vì một cơ chế đang đưa nền kinh tế hậu chiến tới sự bần cùng.
* Cùng cảnh đói nghèo, con người dễ đồng cảm và xích lại gần nhau hơn. Ông Thầy xe ôm đã chạnh lòng, không tính tiền xe nhưng cụ bà vẫn trả, mà lại trả bằng đồng tiền mang mệnh giá nghĩa tình.
Với khí thế đang lên của ba dòng thác, thì một cụ bà dân dã, một Thầy giáo lưu dung, họ là hai phân số của hai cuộc đời khác biệt gặp nhau trên cùng mặt phẳng đói nghèo, bằng sự đồng cảm, họ đã tự động hòa đồng cùng mẫu số tình người, đó âu cũng là một cách thể hiện tinh thần hữu ái giai cấp vậy, vì khi nước cạn mới biết bèo sát đất.
Là một chuyện kể, nhưng xét về tính cách đặc trưng của nhân vật, hiệu ứng cảm xúc của người đọc và giá trị nhân văn mà câu chuyện mang lại, thì có thể coi đây là một tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn, bởi ngôn ngữ đối thoại trong câu chuyện rất tự nhiên, chân thực và sinh động, nói ít hiểu nhiều. Chính điều này đã khiến tính cách dân dã trong câu chuyện tự nó lột xác, hóa thân thành nghệ thuật, vì chỉ có nghệ thuật mới có khả năng khơi dậy, truyền tải cảm xúc nhanh, giúp ta nhận biết được sự sâu sắc ẩn mình trong những điều tưởng như bình dị và đơn giản.
Phần cuối truyện, tác giả có băn khoăn là đang nợ bà cụ một hộp sữa, phải hiểu đây là một món nợ ân tình, chưa gặp lại để thăm bà với một hộp sữa làm quà. Với thời này, chắc là sữa Ensure.
Điều người viết thích nhất là câu trả lời vừa dí dỏm vừa đủ gây niềm tin khi cụ bà lo bị mất cắp đôi dép: “Cụ yên tâm, con không mang dép bằng tay nên không lấy đôi ni mô!”. Ý nói là con cũng có dép rồi, đôi dép Lào đang mang dưới chân đây.
Như vậy trong câu chuyện kể còn có ẩn thêm một đôi dép nữa, là Đôi Dép Lào Của Thầy Lê Thí, tôi xin chọn câu này để làm tiêu đề cho bài viết của mình.
Nhìn chung, kịch tính của truyện nhẹ nhàng, tạo được nút thắt và cách tháo gỡ đặt căn bản trên hai chữ đồng cảm. Tình huống xử lý của cả hai đều phù hợp với tính cách đặc trưng của từng nhân vật.
Một câu chuyện tưởng như bình thường giữa đời thường nhưng nó hàm ý một thông điệp thấm đẫm tính nhân văn.
Có điều là, khi còn đứng trên bục giảng, ông Thầy xe ôm đã từng gởi nỗi lòng mình qua bài thơ “Gởi Học Trò Ngày Về Hưu “:
“Ngày tôi về, em đứng ở nơi đâu
Có thấy dáng tôi liêu xiêu
Trên hành lang nắng đổ
Em đâu biết bao điều tôi chưa nói
Bao điều tôi giữ lại riêng tôi.
…
Tôi đã diễn tròn vai điều phải diễn
Tôi khóc cười
Trên bục giảng rưng rưng .”
Nhưng còn khi đứng giữa chợ đời thường, qua câu chuyện kể này thì Thí đã không diễn, mà thực sống với tư cách của một nhà mô phạm đi ra từ nền giáo dục nhân bản và khai phóng trước 75.
Bây giờ người viết mới thấu hiểu được một trong những điều Thầy chưa muốn nói, biểu lộ qua khổ thơ cuối cùng của bài thơ cùng tên :
“Em đừng trách
Những điều tôi chưa nói
Chuyện áo cơm
Hèn mọn một kiếp người.”
Phải chăng đây là một góc khuất, một ẩn số cuộc đời mà bạn tôi chỉ muốn giữ lại cho riêng mình.
TRƯƠNG CÔNG HẢI
6/2025.