Ý NGHĨA CÁC NGÀY 19 THÁNG 8 VÀ 2 THÁNG 9 ĐỐI VỚI NGƯỜI VIỆT HIỆN NAY
Hàng năm, cứ đến tháng 8 dương lịch là chế độ CS Việt Nam tưng bừng tổ chức ăn mừng ngày 19 tháng 8, ngày họ cướp được chính quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945, và ngày 2 tháng 9, ngày ông Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn độc lập” tại công trường Ba Đình, Hà Nội. Ít hàng phía sau nhằm cung cấp chút hiểu biết cần thiết cho một số bạn ở thế hệ trẻ, những người chưa có hoàn cảnh biết nhiều về hai sự kiện lịch sử ấy.
Những người Cộng sản Việt Nam cũng luôn luôn khoa trương rằng họ có công lãnh đạo dân tộc trong hai cuộc chiến tranh lớn: 1) Đánh Pháp để giành độc lập, và 2) Đánh Mỹ để thống nhất đất nước. Vì thế họ có quyền – và được độc quyền — lãnh đạo đất nước. Họ đồng hóa thể chế của họ với Tổ quốc Việt Nam. Ở trong nước, ai lên tiếng phê phán chế độ sẽ bị ghép vào tội phản quốc.
Năm nay 2025, đúng 80 năm sau khi những người CS Việt Nam giành được chính quyền năm 1945 và đưa dân tộc vào hai cuộc chiến tranh thảm khốc, tuy chấm dứt năm 1975 nhưng hậu quả và tình trạng phân hóa tới nay vẫn còn trầm trọng, chúng ta cũng nên bình tâm xét lại thực chất của cuộc “cách mạng” cùng nguyên do của hai cuộc chiến tranh ấy, rồi nhận định một cách khách quan xem công nghiệp của đảng CS Việt Nam lớn đến mức nào.
- “Đánh Pháp để giành độc lập”
Sau khi Thế chiến thứ 2 (World War II) chấm dứt năm 1945, các cường quốc Âu Mỹ ý thức được rằng trong hoàn cảnh mới, việc tiếp tục giữ các nước châu Á làm thuộc địa là điều không chấp nhận được nữa. Chế độ thuộc địa đã đến lúc phải cáo chung. Vì thế:
–Hoa Kỳ trả độc lập cho Philippines. Philippines tuyên bố độc lập ngày 4 tháng 7 năm 1945.
–Anh trả độc lập cho Ấn Độ. Ấn Độ độc lập từ năm 1947.
–Anh trả độc lập cho Miến Điện (tên cũ Burma, tên hiện nay Myanmar). Miến Điện độc lập từ tháng 1-1948.
–Anh trả độc lập cho Mã Lai (tên cũ Malaya, tên hiện nay Malaysia). Vốn do nhiều tiểu bang hợp lại, khung cảnh chính trị có phần phức tạp, Mã Lai được tự trị năm 1948, và hoàn toàn độc lập năm 1957.
–Hòa Lan trả độc lập cho Nam Dương. Lúc đầu, giới thực dân Hòa Lan tham lam không chịu trả, dân Nam Dương phải tranh đấu bằng võ lực trong 4 năm. Sau nhờ áp lực của thế giới, nhất là từ Hoa Kỳ, Nam Dương được hoàn toàn độc lập từ tháng 12-1949.
–Dân tộc duy nhất ở châu Á phải tranh đấu gian khổ đến năm 1954 và sau đó, đất nước bị chia cắt, là Việt Nam. Tuy có cảm tình với nền độc lập của Việt Nam, Hoa Kỳ đã không làm áp lực với chính phủ Pháp như đã làm với chính phủ Hòa Lan tại Nam Dương, không ép họ phải trả độc lập cho chính phủ Hồ Chí Minh. Lý do: Đó là một chính thể Cộng sản, và Hồ Chí Minh với nhiều bí danh khác nhau, đã được phát hiện là một chuyên viên của Cộng sản quốc tế, từng được huấn luyện ở Nga. Theo Gs. Tường Vũ, trong cuốn Vietnam’s Communist Revolution (New York : Cambridge University Press, 2017), sau khi tìm đọc thật kỹ trong Văn Kiện Đảng Toàn Tập của chế độ CS Hà Nội, vị giáo sư Chính trị học và Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Á châu tại University of Oregon đã phát hiện rằng ngay từ năm 1946, trước khi Mao Trạch Đông thành công ở Trung Hoa, trong các văn kiện Đảng, chính thể Hồ Chí Minh luôn luôn ca ngợi “các lực lượng của xã hội chủ nghĩa” do Liên Xô dẫn đầu và kịch liệt đả kích “chủ nghĩa đế quốc” (chỉ Hoa Kỳ) ¹. Tuy cộng tác với một số sĩ quan OSS của Hoa Kỳ năm 1945, tuy dùng một tấm hình mang chữ ký của tướng Claire L. Chennault để khoe với nhiều người là “được Mỹ giúp,” tuy dẫn lời bản “Tuyên ngôn độc lập” của Hoa Kỳ cho bản Tuyên ngôn do mình soạn, ông Hồ Chí Minh không phủ nhận sự kiện là một người Cộng sản. Trong những năm 1945, 1946, bên cạnh việc viết thư cho Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman, ông cũng viết thư kêu gọi sự giúp đỡ của lãnh tụ Liên Xô Stalin, và cùng không được trả lời. Ngay từ những năm 1941, 1942, báo Việt Nam Độc Lập do Hồ Chí Minh chủ trương, đã đăng những bài ca tụng nước Nga như một thiên đường, và viết, “Chỉ khi nào nước Nga toàn thắng, thế giới mới được thấy những ngày vinh quang” ². Cuối năm 1945, tuy tuyên bố “đảng Cộng sản tự ý giải tán” để che mắt dư luận, báo Sự Thật của “Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác” do Trường Chinh điều hành, trong số ra ngày 5 tháng 12, 1945, vẫn xác quyết, “Con đường duy nhất có thể đưa nhân loại đến tự do, hòa bình, và hạnh phúc, là ‘thực hiện triệt để’ chủ nghĩa Mác” (các trang 104-105) ³.
Mấy chục năm sau nhìn lại, theo nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, cuộc “Cách mạng tháng Tám” của Mặt trận Việt Minh năm 1945, thực ra chỉ là một hành động cướp chính quyền, và những người CS cũng dùng động từ “cướp.” Đáng buồn hơn, việc cướp ấy không cần thiết vì ở Việt Nam, sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh ngày 15 tháng 8 năm 1945, ở Việt Nam có một khoảng trống quyền lực:
–Người Pháp: Đã bị người Nhật gạt ra bên lề sau cuộc đảo chính ngày 9 tháng 3 năm 1945, các nhân vật trọng yếu bị Nhật bắt giam.
–Người Nhật: Đã đầu hàng sau khi thua trận, nhất là sau khi nước Nhật bị hai quả bom nguyên tử. Họ đang chuẩn bị giao nộp võ khí để sẽ được đưa về nước.
–Chính phủ Trần Trọng Kim: Gồm một số nhà giáo, trí thức … không có tham vọng chính trị, được kêu gọi đứng ra quản trị đất nước sau khi chính quyền Pháp bị Nhật đánh đổ, chỉ quan tâm đến các vấn đề xã hội, cứu tế (đang có nạn đói trầm trọng), y tế, giáo dục …. Các vị sẵn sàng từ chức khi có người thay, và sau đó đã từ chức.
–Vua Bảo Đại: sẵn sàng thoái vị, tuyên bố “Thà làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ.”
Trong cuốn Bảo Đại, Trần Trọng Kim và Đế quốc Việt Nam (California : Truyền Thống Việt, 2017), Gs. Phạm Cao Dương đưa ra nhiều tài liệu cho thấy trong phiên họp giữa Hoàng đế Bảo Đại và Nội các Trần Trọng Kim ở Huế ngày 17 tháng 8 năm 1945, bên cạnh ý kiến giao hẳn quyền cho Việt Minh, có ý kiến của Luật sư Vũ Văn Hiền, Bộ trưởng Tài chánh, là: Việt Nam cần có một chính phủ hợp pháp để bảo đảm được trật tự, và để khi Đồng Minh tới, có sẵn một chính phủ đúng danh nghĩa pháp lý, có tư thế và thẩm quyền đối thoại với họ, không để họ mượn cớ là Việt Nam đang hỗn loạn, vô chính phủ mà giúp thực dân Pháp trở lại Việt Nam. Để đạt mục đích ấy, nên trao cho lực lượng Việt Minh quyền lập chính phủ, nhưng giữ lại thể chế quân chủ hiện có (đổi thành quân chủ lập hiến) ⁴. Ý kiến ấy được các vị Bộ trưởng am hiểu về luật, các ông Trịnh Đình Thảo, Trần Văn Chương và Phan Anh tán thành. Một đạo Dụ được soạn thảo ngay sau đó: Dụ số 105 ngày 17 tháng 8 năm 1945. Vua Bảo Đại sẵn sàng giao chính quyền cho Việt Minh là một tổ chức đấu tranh, và mời các lãnh tụ Việt Minh tới Huế để thành lập Nội các ⁵ .
Ngay từ đầu tháng 8 năm 1945, trong cương vị người cầm đầu Chính phủ, Thủ tướng Trần Trọng Kim cũng đã có ý định mời những người Việt Minh cộng tác. Nhân từ Huế ra Hà Nội, cụ nhờ Khâm sai Phan Kế Toại bắn tiếng mời Việt Minh cử đại diện đến nói chuyện. Tuy người tới gặp cụ còn rất trẻ, nhà giáo lão thành, tác giả Việt Nam Sử Lược đã nói như sau:
“Chúng tôi ra làm việc chỉ vì nước mà thôi, chứ không có ý cầu danh lợi gì cả, tôi chắc đảng các ông cũng vì nước mà hành động. Nếu vậy chúng ta tuy đi con đường khác nhau nhưng cũng một mục đích như nhau. Các ông thử xem ta có thể hợp tác với nhau, kẻ ở trong người ở ngoài, để cứu nước được không?” Trong những hàng phía sau, cụ Trần Trọng Kim tóm lược cuộc đối thoại giữa cụ và người đại diện của Việt Minh:
Người ấy nói:
“Sự hành động của chúng tôi đã có chủ nghĩa riêng và có chương trình nhất định để đem nước đến chỗ hoàn toàn độc lập. Chúng tôi có thể làm lấy được.”
–“Sự mưu cầu cho nước được độc lập cũng là mục đích của chúng tôi, nhưng vì đi đường thẳng có nhiều sự khó khăn nên chúng tôi phải uyển khúc mà đi từ từ có lẽ chắc chắn hơn.”
–“Chúng tôi chỉ có một con đường thẳng đi đến hoàn toàn độc lập chứ không có hai.”
–“Theo như ý các ông như thế, tôi sợ rất hại cho dân, mà chưa chắc đã thành công được.”
–“Chúng tôi chắc thế nào cũng thành công. Nếu có hại cũng không cần, có hại rồi mới có lợi. Dù người trong nước mười phần chết mất chín, chúng tôi sẽ lập một xã hội mới với một thành phần còn lại, còn hơn với chín phần kia” (nhấn mạnh của người chép lại).
Rồi người ấy ngồi đọc một bài hình như đã thuộc lòng để kể những công việc của đảng Việt Minh. Thấy thái độ người ấy như thế, tôi biết không thể lấy nghĩa lý nói chuyện được. Tôi nói:
–“Nếu các ông chắc lấy được quyền độc lập cho nước nhà, sao các ông không vào chính phủ làm việc, cần gì phải đánh phá cho khổ dân?”
–“Chúng tôi sẽ cướp lấy quyền để tỏ cho các nước Ðồng Minh biết chúng tôi mạnh, chứ không chịu để ai nhường.”
–“Các ông có chắc là các nước Ðồng Minh tin ở sức mạnh của các ông không?”
–“Chắc lắm. Chắc trăm phần trăm.”
–“Tương lai còn dài, các ông nhận lấy trách nhiệm đối với quốc dân và lịch sử ” ⁶.
Theo Gs. Phạm Cao Dương, người thay mặt Việt Minh đến gặp cụ Trần Trọng Kim hôm ấy là Lê Trọng Nghĩa. Các tài liệu về ông Nghĩa cho thấy ông sinh năm 1922 (năm 1945 mới 23 tuổi). Sau khi Việt Minh thành công ông được bầu vào Quốc Hội, rồi làm Cục trưởng cục Quân báo. Ông được thăng đến Đại tá Chánh Văn phòng, làm Trợ tá cho tướng Võ Nguyên Giáp. Năm 1968 ông bị bắt vì bị coi là có liên quan đến nhóm “Xét lại chống Đảng,” bị giam và phải “lao động cải tạo” từ 1968 đến 1976. Ông bị khai trừ khỏi đảng CS, mất hết chức vụ và quyền lợi. Sau 47 năm giữ im lặng, trước khi qua đời năm 2015 ông để lại di chúc yêu cầu được minh oan. Theo một bạn thân của ông là Trần Đĩnh (Đèn Cù, Quyển 2, trang 535-549), ông Nghĩa rất đau lòng vì nỗi khổ của các con: trong lý lịch, họ bị coi là con một người phản Đảng. “Nghĩa sau đó vào Cầu Giấy kể lại với tôi. Rồi ngơ ngác, ‘Thế là mất hết à’?” ⁷
Lệ Trọng Nghĩa còn được mời tới gặp Khâm sai Phan Kế Toại sáng ngày 16 tháng 8 năm 1945. Lần này ông Toại chính thức mời Mặt trận Việt Minh cộng tác với chính phủ Trần Trọng Kim, và “vui lòng chờ Mặt trận cử người tham gia chính phủ.” Người cùng đi với ông Nghĩa, ông Nguyễn Khang (Chủ tịch Ủy ban Quân sự Cách mạng Hà Nội) dứt khoát trả lời, “Tốt nhất ông Toại nên từ chức, trao chính quyền lại cho Việt Minh” ⁸.
Theo nhà biên khảo David G. Marr trong cuốn Vietnam 1945 (Berkeley, CA : University of California Press, 1995), dựa theo các tài liệu từ phía Hà Nội, thì trước khi gặp ông Lê Trọng Nghĩa ngày 16 tháng 8, Khâm sai Phan Kế Toại đã tiếp một phái đoàn của Việt Minh do ông Nguyễn Khang cầm đầu ngày 13 tháng 8. Qua ông Khang, Khâm sai Toại mời Việt Minh giữ một số chức vụ trong chính quyền, nhưng ông Khang nhất quyết từ chối ⁹.
Trong lần tiếp xúc sau, xảy ra lúc 8 giờ sáng ngày 18 tháng 8 năm 1945, tại một biệt thự ở số 101 đường Gambetta, nay là đường Trần Hưng Đạo, Hà Nội, đại diện chính phủ Trần Trọng Kim là giáo sư Hoàng Xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật, một học giả lỗi lạc và uy tín đương thời. Giáo sư Hãn tự giới thiệu là “người đại diện cao cấp nhất của Thủ tướng Chính phủ tại Hà Nội,” và tới để báo tin, “Chúng tôi biết chắc chắn có tin quân đội Đồng Minh đã bắt đầu lên đường, chia nhau vào chiếm Nam Bắc vĩ tuyến 16 nước ta rồi. Đất nước đang có nguy cơ đe dọa lại bị xâm chiếm và chia cắt một lần nữa.” Giáo sư Hãn gợi ý, “Chúng ta hãy tiếp tục thương thảo, nói chuyện với nhau. Việt Minh các ông cứ nắm tất cả các vùng nông thôn, nhưng để cho chính phủ quản lý một số thành phố lớn, cốt để có danh nghĩa mà nói chuyện với Đồng Minh trong lúc này, không thì nguy cả” ¹⁰.
Các học giả Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn không phải là những người có tham vọng chính trị. Khi đề nghị Việt Minh duy trì thể chế quân chủ nhưng được quyền lập chính phủ điều hành việc nước, cũng như khi đề nghị Việt Minh để lại cho chính phủ đương thời một số thành phố lớn để có tư thế đối thoại với các lực lượng Đồng Minh sắp đến Việt Nam, các ông chỉ nghĩ đến quyền lợi của quốc gia. Hành động “cướp chính quyền” của Việt Minh đã khiến chính phủ do họ lập ra năm 1945 không được nhìn nhận là một chính phủ có căn bản pháp lý. Giữa tháng 9 năm 1945, khi tướng Douglas Gracey của Anh đem quân tới Sài gòn để tước khí giới quân đội Nhật ở phía nam vĩ tuyến 16, đối mặt với những cuộc biểu tình hỗn loạn và tranh chấp bạo động dẫn tới đổ máu diễn ra quanh Sài gòn nhưng không tìm được người đại điện hợp pháp của Việt Nam để đối thoại, ông ta đã có những hành động thuận lợi cho người Pháp.
Theo Gs. Phạm Cao Dương, Lê Trọng Nghĩa còn đến dinh Khâm sai một lần nữa vào chiều ngày 18 tháng 8 để gặp bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, người đại diện chính phủ thay Khâm sai Phan Kế Toại đã từ chức, nhưng không phải để thảo luận mà chỉ cốt thăm dò tình hình.
Trong các lần tiếp xúc, trừ lần cuối cùng, các cụ Trần Trọng Kim, Phan Kế Toại và giáo sư Hoàng Xuân Hãn đều chân thành mời Việt Minh vào chính phủ làm việc để “cùng lo cho quyền lợi đất nước” nhưng tất cả đều bị từ chối. Lý do là Việt Minh, với nòng cốt là đảng Cộng sản, đã chủ trương “cướp chính quyển” để một mình lãnh đạo đất nước hầu thực hiện một cuộc cách mạng theo đường lối riêng, bất chấp những tai hại và nguy hiểm có thể xảy tới cho dân tộc, đúng như lời tuyên bố của Lê Trọng Nghĩa, “Dù người trong nước mười phần chết mất chín, chúng tôi sẽ lập một xã hội mới với một thành phần còn lại, còn hơn với chín phần kia.” Đó cũng là lý do trong những năm 1945, 1946, trước và sau khi giành được chính quyền, Việt Minh đã tìm cách tiêu diệt toàn bộ các nhà trí thức có uy tín và những người hoạt động chính trị không phải là Cộng sản. Chúng ta có thể kể Phạm Quỳnh, Khái Hưng, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn Ngà, Huỳnh Văn Phương, Trần Văn Thạch, Ls. Dương Văn Giáo, bs. Hồ Vĩnh Ký và vợ là bs. Nguyễn Ngọc Sương, Trương Tử Anh, Lý Đông A, Nhượng Tống… Các lãnh tụ tôn giáo có ảnh hưởng như Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ của Phật giáo Hòa Hảo cũng bị sát hại.
Ngày 17 tháng 8-1945 ở Hà Nội, lúc 3 giờ chiều, nhân một cuộc biểu tình của Tổng hội Công chức trước Nhà hát lớn để ủng hộ chính phủ sau khi Nhật đầu hàng, cán bộ Việt Minh tới cướp máy vi âm, hô “Hoan hô Việt Minh” và trương cờ đỏ sao vàng. Nhà biên chép lịch sử Đoàn Thêm cho biết như sau, “Rồi đoàn biểu tình được lệnh chuyển bước, tuần hành qua nhiều đường lớn… Tới ngã sáu Cửa Nam, vài anh áo cộc quần đen, chắc chắn không phải là công chức, vừa chạy vừa phất lá cờ đỏ giữa có ngôi sao vàng, anh khác giơ một vật ít thấy ở thời đó là khẩu súng lục, bắn vài phát như để thị uy: “Anh em hãy cùng tôi hô ‘Mặt trận Giải phóng muôn năm’.” Vài công chức, có lẽ hoảng sợ quá, đành “Muôn năm” theo một cách gượng gạo và máy móc” ¹¹.
Ngày 19 tháng 8, từ sáng sớm, Việt Minh tổ chức biểu tình tuần hành từ trước Nhà hát lớn để đi “cướp chính quyền.” Theo hồi ký của nhà biên khảo Hoàng Tường trong Việt Nam Đấu Tranh (Westminster, CA : Văn Khoa, 1987), “Lúc mới xuất phát chỉ độ 500 người, nhưng sau đó cứ mỗi khu phố đi qua lại có dân chúng hiếu kỳ đi theo, nên đoàn biểu tình trở nên đông đảo, ước độ 2000 người, đa số là thanh niên, thiếu nữ, thiếu nhi. Dẫn đầu là một lá cờ lớn (nền đỏ sao vàng), rồi đến biểu ngữ lớn nhỏ… Hai bên đoàn người biểu tình diễn hành còn có một đám người cỡi xe đạp cắm cờ trên ghi đông, vừa đạp vừa hô, “Ủng hộ Việt Minh nắm chính quyền” ¹² . Bác sĩ Nguyễn Tường Bách kể lại, “Có người cầm cờ đỏ, nhỏ, bằng giấy, có người hô khẩu hiệu, “Ủng hộ độc lập, Đả đảo thực dân Pháp.” Thỉnh thoảng có vài người đi kèm, họ chia nhau rẽ vào các nhà bên đường xua người ra phố tham dự biểu tình. Vì vậy người xuống đường càng ngày càng đông, nam nữ già trẻ đều có; vì nếu không hồ hởi để đi biểu tình, cũng khó mà từ chối không dự vào một hoạt động để ủng hộ độc lập” ¹³.
Nhà biên khảo Hoàng Tường viết tiếp, “Đầu tiên đoàn biểu tình dừng lại trước phủ Khâm sai. Trong khi tiếng hô “Ủng hộ Việt Minh nắm chính quyền” vang dậy thì một bọn chừng hơn 10 người tách khỏi đoàn biểu tình tiến vào trong dinh, trước bộ mặt ngơ ngác của một anh Bảo an binh đứng gác. Đi đầu là hai người tay cầm lăm lăm khẩu súng sáu, và hai người khác khiêng một lá cờ đại, nền đỏ sao vàng. Thế rồi chỉ một lát sau, lá cờ được kéo lên trước cửa dinh, ngạo nghễ tung bay trước gió. Anh Bảo an binh gác ngoài cửa cũng được thay thế luôn: một người trong đám biểu tình tách ra, nhận lấy cây súng trường anh Bảo an binh trao cho, và đứng gác trước dinh.¹⁴ ” Khâm sai Phan Kế Toại có cảm tình với Việt Minh, nhất là sau khi Phan Kế An, con trai ông, gia nhập và hoạt động cho họ. Tối 17 tháng 8, sau khi biết việc xin từ chức đã được chấp thuận, ông rời dinh Khâm sai về nhà riêng. Trước khi đi, ông dặn viên Chánh quản và một Bảo an binh có nhiệm vụ canh giữ dinh, “Không nổ súng” để tránh đổ máu một cách vô ích.
Sau đó, đoàn biểu tình lần lượt diễn hành đến tòa Thị chính, nhà máy đèn, nhà bưu điện, rồi đến các ty sở khác, đài phát thanh. Cuối cùng họ kéo đến trại Bảo an binh … Cuộc đoạt chính quyền diễn ra êm ru. Đảng viên Cộng sản xuất hiện rất đông đảo, khoa tay múa chân, miệng hô: “Cách mạng thành công! Cách mạng thành công!” ¹⁵
Thật ra, nếu đáp ứng lời mời của vua Bảo Đại, vào Huế lập chính phủ trong tinh thần đạo Dụ số 105 ngày 17-8-1945 như đã nói trên, những người Cộng sản cũng sẽ làm chủ tất cả những dinh thự ấy cũng như các dinh thự khác trên toàn quốc, vì trong thể chế quân chủ lập hiến, ngôi vua chỉ mang tính cách biểu tượng quốc gia. Nhưng điều họ muốn là có thanh thế thật mạnh (cướp được chính quyền) để sau đó có thể thực hiện thêm nhiều hành động “ngày long trời, đêm lở đất” khác.
Trong hồi ký Một Cơn Gió Bụi, học giả Trần Trọng Kim cho biết, “Lúc bấy giờ người Nhật có đến bảo tôi: “Quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Đồng Minh đến thay. Nếu chính phủ Việt Nam công nhiên có lời mời quân Nhật giúp, quân Nhật còn có thể giữ trật tự”. Tôi nghĩ quân Nhật đã đầu hàng, quân Đồng Minh sắp đến, mình nhờ quân Nhật đánh người mình còn nghĩa lý gì nữa, và lại mang tiếng “cõng rắn cắn gà nhà”. Tôi từ chối không nhận” ¹⁶.
Gần 70 năm sau, Trần Đĩnh, một nhà văn và biên khảo trưởng thành trong chế độ Hà Nội, cũng viết: “Tổng tư lệnh Nhật vào Huế, gặp Bảo Đại và Trần Trọng Kim, nói, ‘Nếu các vị yêu cầu, Nhật với 50,000 quân tinh nhuệ, có thể dẹp Việt Minh trong một đêm. Việt Minh có quá lắm là 5000 người, còn súng ống lại càng quá ít.’ Nhưng hai ông này từ chối” ¹⁷.
Sau khi Việt Minh cướp được chính quyền ở Hà Nội ngày 19 tháng 8-1945, vua Bảo Đại thoái vị, trao kiếm và ấn tượng trưng vương quyền cho đại diện của họ (Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận) ngày 25 tháng 8-1945. Một tuần sau, ngày 2 tháng 9-1945, ông Hồ Chí Minh đọc lời Tuyên ngôn độc lập.
Nhưng niềm vui không được lâu. Hơn 10 hôm sau, ngày 13 tháng 9-1945, theo tinh thần Thỏa ước Potsdam, Thiếu tướng Douglas Gracey của Anh đem quân tới Sài gòn để tước khí giới quân đội Nhật ở phía nam vĩ tuyến 16. Tình trạng chính trị ở miền nam Việt Nam những năm 1945-1946 không ổn định. Nhiều nhân sĩ trí thức ái quốc, nhiều tổ chức tôn giáo không chấp nhận sự thao túng và những biện pháp khống chế của các nhân vật Cộng sản. Phía Cộng sản khủng bố, hạ sát nhiều nhân vật ưu tú của miền Nam, đưa tới việc nhiều tổ chức tôn giáo và nhân sĩ (như nhà giáo Trần Văn Hương) vừa lo sợ vừa bất mãn, tách khỏi phong trào kháng chiến do CS chỉ huy. Tình trạng mất an ninh quanh khu vực Sài gòn – Chợ Lớn khiến tướng Gracey ban lệnh thiết quân luật và cho võ trang một số thường dân Pháp, giúp Pháp có lợi thế. Sau khi tướng Leclerc của Pháp đem quân tới vào tháng 10-1945, ông mở rộng phạm vi kiểm soát của Pháp đến hầu hết các thị trấn và tỉnh lỵ miền Nam, dồn lực lượng Việt Minh vào thế co cụm, phải lẩn tránh vào các vùng hẻo lánh, bưng biền. Một trong những tài liệu đáng tin cậy, giúp chúng ta biết một cách khái quát vể tình trạng miền Nam những năm ấy là cuốn Gió Mùa Đông Bắc của bác sĩ Trần Nguơn Phiêu (Amarillo, TX : Hải Mã, 2008). Sinh năm 1927, ở đúng tuổi 18 năm 1945, ông đã tích cực dấn thân vào phong trào tranh đấu cho độc lập trong mấy năm đầu ¹⁸.
Sau khi tạm ổn định trong Nam, tướng Leclerc đem quân ra Bắc, chuẩn bị đổ bộ ở Hải Phòng. Ngày 6 tháng 3 năm 1946, đại diện của Pháp là Jean Sainteny ký với ông Hồ Chí Minh một Hiệp ước sơ bộ, trong đó Pháp công nhận Việt Nam là một nước tự do trong khối Liên hiệp Pháp và trong Liên bang Đông Dương. Để đổi lại, chính phủ Hồ Chí Minh đồng ý cho Pháp đưa 15,000 quân vào miền Bắc trong vòng 5 năm. Mâu thuẫn Việt-Pháp sau đó gia tăng. Đêm 19 tháng 12-1946, Việt Minh tấn công quân đội Pháp ở Hà Nội, mở màn cho cuộc chiến tranh Việt Minh – Pháp kéo dài tới Hiệp định Geneva tháng 7 năm 1954.
Khi Việt Minh khởi sự giao tranh với Pháp cuối năm 1946 rồi bỏ Hà Nội và các đô thị chạy lên chiến khu, chỉ một tỷ lệ nhỏ dân chúng có phương tiện chạy theo hay tản cư tới những vùng tương đối an ninh gần quanh. Cư dân còn ở lại các thành phố vẫn cần được bảo vệ, trong đó có những trí thức và thành phần tư sản sẽ bị sát hại hoặc đàn áp nếu tới sống ở vùng do Việt Minh kiểm soát. Việc nhiều nước Á Châu được trả lại độc lập đã khiến một số không nhỏ người Việt nhận thấy nếu tập hợp quanh một nhân vật có uy tín, đủ tư thế đại diện, có thể tiến tới việc điều đình với người Pháp để thu hồi độc lập dần dần. Tháng 5 năm 1947, Cao ủy Pháp tại Đông Dương là Émile Bollaert đọc một bài diễn văn quan trọng ở Hà Đông, đưa ra quan niệm “độc lập trong sự liên lập,” và tuyên bố “sẵn sàng tham khảo tất cả các phe phái chính trị ở Việt Nam.” Đó là lý do khiến cựu hoàng Bảo Đại, người đã tự nguyện thoái vị năm 1945 với câu “Không muốn làm vua một nước nô lệ” được nhiều khuynh hướng chính trị người Việt tìm tới yết kiến, thỉnh cầu đứng ra làm đại diện. Cuộc chiến tranh cũng bị dư luận Pháp lên án. Vì thế Pháp và Việt Nam dần dần tiến tới Thỏa ước Hạ Long năm 1948, rồi Hiệp định Élysée năm 1949, trong đó Pháp công nhận nền độc lập của Việt Nam. Năm 1949 cũng là năm Cộng sản toàn thắng trên lục địa Trung Hoa. Hai khuynh hướng chính trị thành hình ở Việt Nam. Một bên là đoàn kết quanh một nhân vật có uy tín để điều đình với Pháp hầu thu hồi độc lập qua từng giai đoạn (phe Quốc gia), một bên là dựa vào sự giúp đỡ của Trung Cộng để đánh Pháp (phe Cộng sản).
Hiệp định Elysée chưa phải một hiệp định toàn hảo. Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập “trong Liên hiệp Pháp,” và xác nhận Nam Kỳ trở về lãnh thổ Việt Nam, nhưng về ngoại giao Việt Nam chưa hoàn toàn tự do. Việt Nam còn phải “phối hợp hoạt động với đường lối chung của Liên hiệp Pháp,” “các quốc gia được Việt Nam cử phái đoàn ngoại giao phải có sự tương đồng của chính phủ Cộng hòa Pháp.” Nói cách khác, năm 1949 khi ký Hiệp định Elysée, chính thể Quốc gia Việt Nam chưa được độc lập về phương diện đối ngoại.
Được tin Pháp ký Hiệp định Elysée với cựu hoàng Bảo Đại, ông Hồ Chí Minh phẫn nộ, tuyên bố “đó chỉ là một tờ giấy lộn.” Nhưng so với bản Hiệp định do chính ông ký với Pháp ngày 6 tháng 3 năm 1946, thì Hiệp định Elysée là một bước tiến xa và ở một cấp cao hơn.
–Trong Hiệp định ngày 6 tháng 3-1946, Pháp công nhận Việt Nam là một nước tự do “trong Liên bang Đông Dương và trong Liên hiệp Pháp.” Trong Hiệp định Elysée, Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập “trong Liên hiệp Pháp.” Liên hiệp Pháp là một hình thức kết hợp giữa một số quốc gia từng là thuộc địa của Pháp, cũng tương tự khối Liên hiệp Anh (British Commonwealth), gồm một số quốc gia từng có những gắn bó với Anh (như Úc, Tân Tây Lan [New Zealand], Canada, South Africa, và một số quốc gia nhỏ).
— Trong Hiệp định ngày 6 tháng 3-1946, Pháp không cam kết sẽ trả Nam Kỳ cho Việt Nam, chỉ nói rằng “chính phủ Pháp hứa sẽ thừa nhận những quyết định của dân chúng qua cuộc trưng cầu dân ý.” Trong Hiệp định Elysée, Pháp xác nhận Nam Kỳ trở về lãnh thổ Việt Nam.
–Người ký Hiệp định ngày 6 tháng 3-1946 với Hồ Chí Minh là Jean Sainteny, trong tư cách “phái viên của phủ Cao ủy Pháp, được sự ủy quyền của Đô đốc d’Argenlieu, đặc sứ toàn quyền của Cộng hòa Pháp.” Người ký Hiệp định Elysée với Cựu hoàng Bảo Đại là Tổng thống Cộng hòa Pháp quốc Vincent Auriol.
–Trong Hiệp định ngày 6 tháng 3-1946, ông Hồ Chí Minh nhận đón 15,000 quân Pháp vào đóng ở miền Bắc Việt Nam. Nói cách khác, ông không chống lại mà hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Pháp trong lãnh thổ Việt Nam.
Từ đó trên đất nước Việt Nam hiện diện hai chính phủ song hành là chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo, và chính phủ Quốc Gia Việt Nam do Quốc trưởng Bảo Đại đứng đầu. Chính thể Quốc gia là một lối thoát cho nhiều nhà hoạt động chính trị với tinh thần dân tộc và cho những người dân không thể sống dưới chế độ Cộng sản. Những năm sau đó, dân chúng bỏ vùng Việt Minh, hồi cư về các thành phố để sống dưới chính thể Quốc gia càng ngày càng đông.
Nhờ sự tận lực giúp đỡ của Trung Cộng, phe Cộng sản thắng Pháp ở Điện Biên Phủ năm 1954 và đất nước Việt Nam bị chia đôi ở vĩ tuyến 17. Miền Bắc theo chế độ Cộng sản. Những người tự thấy không thể sống với Cộng sản ở miền Bắc phải lánh vào miền Nam.
Trong cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp từ 1946 đến 1954, theo tài liệu của Việt Minh, số quân nhân tử trận và mất tích là 191,605 người. Theo các sử gia Tây phương, con số ấy từ 175,000 tới 300,000 người. Số thường dân Việt Nam bị chết được ước lượng từ 125,000 tới 400,000 ¹⁹. Việt Minh theo chính sách tiêu thổ kháng chiến, nên tất cả các đô thị bị đập phá tan hoang.
- “Đánh Mỹ để thống nhất đất nước”
Những hàng phía trên đã cho ta thấy khi Thế chiến thứ 2 chấm dứt năm 1945, nếu ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản không khăng khăng đưa đất nước vào con đường Cộng sản, Việt Nam có thể đã độc lập, nếu không sớm như Philippines và Ấn Độ (từ 1945 đến 1947), thì cũng tương tự Nam Dương (năm 1949), hay trễ lắm như Mã Lai (năm 1957). Đâu cần phải cầu xin Trung Cộng giúp đỡ để đánh Pháp rồi sau đó bị họ khống chế? Nếu các nhà lãnh đạo miền Bắc không khăng khăng áp dụng chủ thuyết Cộng sản, đất nước đâu đến nỗi phân đôi? Đâu cần một cuộc nội chiến thảm khốc để thống nhất đất nước?
Mặt khác, trong cuộc Chiến Tranh Lạnh (the Cold War) giữa hai đại cường quốc Nga – Mỹ (1947-1991), Việt Nam không phải quốc gia duy nhất bị chia đôi. Chúng ta cũng thấy có Đông – Tây Đức và Nam – Bắc Hàn. Đông – Tây Đức giữ tình trạng chia cắt cho đến khi thống nhất trong hòa bình năm 1990. Bắc Hàn chủ động tấn công năm 1950, gây nên cuộc chiến tranh Cao Ly (the Korean War) trong những năm 1950-53, nhưng sau tháng 7-1953 cũng chấp nhận chia cắt ở vĩ tuyến 38, giới hạn cuộc tranh chấp ở mức độ “chiến tranh miệng.” Việt Nam là quốc gia duy nhất trải qua một cuộc chiến thảm khốc với:
–Ở miền Bắc:
-Trên 849,000 quân nhân tử trận
-Trên 600,000 quân nhân bị thương
-Trên 232,000 quân nhân mất tích
-Số thường dân ở vùng do CS kiểm soát bị chết vì chiến tranh: từ 30 ngàn tới 182 ngàn.
–Ở miền Nam:
-313,000 quân nhân tử trận
-1,170,000 quân nhân bị thương
-Từ 195 đến 430 ngàn thường dân bị chết oan ²⁰.
Đúng là “nhất tướng công thành, vạn cốt khô”. Dân trong nước đã đưa ra lời nhận xét, “Con đường Bác đi là con đường bi đát.”
Đầu thập niên 1980, khi tướng Võ Nguyên Giáp bị đổi sang phụ trách “Ủy ban Sinh đẻ có kế hoạch,” trông coi việc hạn chế sinh đẻ và ngừa thai, người dân miền Bắc cũng đưa ra cặp câu đối:
Tướng Võ không còn Nguyên Giáp nữa,
Bác Hồ cũng chẳng Chí Minh đâu!
Đất nước hiện đã thống nhất nhưng lòng người vẫn chưa thổng nhất. Việt Nam bị tàn phá, trở nên lạc hậu, thua kém xa các lân bang. Trong khoảng đầu thập niên 1960, mức sống ở Hàn Quốc, Thái Lan, Mã Lai … thấp hơn ở Nam Việt Nam. Hiện nay họ tiến hơn rất xa. Có phải đó là “sự nghiệp vĩ đại” để các nhà lãnh đạo đảng CSVN muốn dân Việt phải “nhớ ơn?”
Để ép dân miền Bắc hi sinh, những người Cộng sản dùng tinh thần dân tộc và phương pháp lừa dối. Họ xuyên tạc là dân miền Nam bị “đế quốc Mỹ và tay sai” áp bức, vô cùng cực khổ, không có gì để ăn, nên thanh niên thiếu nữ miền Bắc cần hi sinh vào để “cứu” bà con ruột thịt miền Nam, như tinh thần câu thơ của Bùi Minh Quốc:
Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy
Dầu xa xôi gấp mấy cũng lên đường
Bùi Minh Quốc đã cùng vợ, nhà văn Dương Thị Xuân Quý, vào chiến trường miền Nam, gửi người con duy nhất của hai người là Bùi Dương Hương Ly nhờ bà ngoại nuôi hộ. Nhà văn Xuân Quý hi sinh ở miền Nam khi mới 28 tuổi, và khi con của hai người mới được 2 tuổi.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, theo chân đoàn quân chiến thắng vào tiếp thu Sài Gòn, nhà văn Dương Thu Hương đã “ngồi xuống vỉa hè ôm mặt khóc như cha chết,” vì nhận ra rằng, “Cái mô hình xã hội của miền đất bại trận mới chính là mô hình của nền văn minh, và chúng tôi, người trong đội ngũ chiến thắng, thì thực ra đã chiến đấu cho một mô hình xã hội man rợ.” “Điều đó khiến tôi hết sức cay đắng. Cả thế hệ của chúng tôi đã bị lừa…”. Theo bà, “Dân Việt Nam đã bị đẩy vào một cuộc chiến vô nghĩa.” Phía sau là đường dẫn đưa một số lời phát biểu đặc sắc của bà:
Đứng về phương diện kinh tế, mặc dầu trong hoàn cảnh chiến tranh, mức sống tại miền Nam vẫn cao hơn tại miền Bắc nhiều. Ca sĩ Ái Vân kể lại ngày đầu tiên bà từ Hà Nội đến thăm gia đình người chị ruột của thân phụ ở Sài gòn:
“Khi đến thăm cô Cả, cô sinh viên nghèo Ái Vân cũng mang biếu gia đình chút quà từ tiêu chuẩn ăn của mình. Chị Nga, … là con dâu trưởng của cô Cả, hỏi, “Cô mang cho chúng tôi quà gì thế?” Tôi trịnh trọng vừa mở bọc vừa nói, “Em biếu gia đình 2 cân gạo ạ, chắc nhà mình cũng đang cần.”
Ối giời, cả nhà cười nghiêng ngả, chị Nga cười đến nỗi suýt té từ trên ghế xuống sàn. Chị nói, “Giời ạ. Lại mang gạo cứu trợ cho chúng tôi nữa cơ đấy. Khổ thân em.” Rồi chị dắt tôi tới mở thùng gạo to tướng bằng nhựa, bên trong đầy ắp gạo, thứ gạo trắng muốt và thơm phức, nõn nà. Bây giờ tôi mới để ý trong nhà ngoài ti vi, tủ lạnh, còn có máy giặt và nhiều thứ lạ lẫm khác, cho thấy một cuộc sống rất tiện nghi, không thể có trong bất kỳ nhà nào ở miền Bắc tại thời điểm đấy…” ²¹.
Không riêng gì mức sống vật chất, nếp sống về tinh thần ở miền Nam năm 1975 cũng cao hơn ở miền Bắc. Ca sĩ Ái Vân cho biết tiếp:
“Trước đây cứ nghe nói đồng bào miền Nam “bị Mỹ Ngụy kìm kẹp,” khổ lắm, cứ hình dung dân Sài Gòn đói khổ lắm. Mới vào Sài Gòn tôi rất ngỡ ngàng. Chỉ cần nhìn cách ăn mặc, trang điểm, đi lại, ăn nói nhẹ nhàng; chỉ cần ra chợ mua gì cũng có câu cảm ơn và túi nilon đựng đồ đủ biết mình không cùng đẳng cấp văn minh với người ta rồi. Biết mình bị ngộ nhận với thông tin lệch lạc” ²².
Phía sau là những hàng tự thuật và nhận xét của một chuyên viên kỹ thuật miền Bắc được cử vào để “tiếp thu” miền Nam, Trương Minh:
“Xe vừa vào địa giới miền Nam, chúng tôi đã bấm tay nhau nhìn khung cảnh mới. Nhà cửa người dân cùng các công trình đô thị như cầu, đường gần các trục lộ giao thông trông đẹp và văn minh hơn hẳn miền Bắc. Đi rồi nghỉ ngơi rồi đi tiếp cho đến khi đoàn xe đến được khu công nghiệp Biên Hòa. Có quá nhiều nhà máy tại đây. Đoàn 18 người chúng tôi nhìn ngang nhìn dọc từng dãy nhà máy trong khu vực này, và tuy không ai nói với ai, đều trầm trồ trước công nghiệp miền Nam.
“… Ngay từ lúc còn ngồi trên xe buýt nhìn cảnh vật dọc theo đường và khu phố dẫn vào Sài Gòn, tôi đã thấy vượt trội nhiều lần so với thủ đô Hà Nội. Một vẻ bề ngoài sáng sủa, văn minh, lộ ra từ cách phục sức, sinh hoạt của người dân miền Nam.
“… Sài Gòn, hay nói rộng ra cả miền Nam, không phải là một xã hội lạc hậu, nghèo nàn, đói khổ, đầy rẫy cảnh người bóc lột người như bao lâu nay người dân miền Bắc được (hay bị) báo đài Hà Nội mô tả… Đây là mô hình của một xã hội văn minh, và người nào được sống trong xã hội này quả thật may mắn hơn sống ở xã hội XHCN tại miền Bắc. Tiếc thay! Một xã hội như thế lại vừa bị cướp mất đi” ²³.
Theo nhà nghiên cứu văn hóa Vương Trí Nhàn, “Không chỉ kinh tế tốt hơn mà giáo dục miền Nam lúc đó cũng hơn. Không chỉ đường xá tốt mà tư cách cá nhân của con người trong đó nói chung cũng trưởng thành hơn con người miền Bắc. Trình độ hiểu biết và tuân thủ pháp luật tốt. Giữa người với người có quan hệ tử tế, thanh thiếu niên lúc đó ham học và biết học hơn.” ²⁴
Trong bài “Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc” đăng trong tạp chí Nghiên cứu và Phát triển số 7-8 (114-115) năm 2014, với chuyên đề “Giáo dục miền Nam Việt Nam 1954-1975,” ông nhận xét thêm: “Trong khi khác biệt với giáo dục miền Nam, thì giáo dục miền Bắc cũng khác nhiều so với thế giới. Đủ hiểu tại sao sau khi đào tạo trong nước, ra tiếp xúc với xã hội hiện đại, cánh học sinh, sinh viên miền Bắc bọn tôi thường ú ớ, lạc lõng, trong khi những người được giáo dục miền Nam đào tạo thì hội nhập rất tự nhiên và hiệu quả” ²⁵ Phía sau là đường dẫn đưa tới trang blog đăng những bài suy tư của ông:
Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc
Xã hội miền Nam năm 1975 chưa phải là một xã hội toàn hảo. Nền dân chủ miền Nam đang xây dựng năm 1975 chưa phải là một nền dân chủ kiện toàn. Nhưng theo nhận xét của một nhà văn (Dương Thu Hương), một nghệ sĩ (Ái Vân), một chuyên viên kỹ thuật (Trương Minh), một nhà nghiên cứu văn hóa (Vương Trí Nhàn) cùng tới từ miền Bắc, xã hội ấy không cần các lãnh tụ Cộng sản tại Hà Nội xua quân vượt Trường Sơn để “giải phóng.” Hơn hai triệu người Việt đã bị hi sinh trong một cuộc chiến huynh đệ tương tàn thảm khốc và vô nghĩa. Như vậy ngày 19 tháng 8 năm 1945, ngày Việt Minh cướp chính quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim ở Hà Nội, trong khi vua Bảo Đại và các cụ Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn … nhiều lần mời cộng tác, có đáng được coi là một ngày để dân Việt “hân hoan kỷ niệm” hay không?
GHI CHÚ
1. Tường Vũ, Vietnam’s Communist Revolution (New York : Cambridge Univ. Press, 2017), trang 105.
2. Sách đã dẫn, trang 95-96.
3. Sách đã dẫn, trang 104-105.
4. Phạm Cao Dương, Bảo Đại, Trần Trọng Kim và Đế quốc Việt Nam (California : Truyền Thống Việt, 2017), pp. 288-289. Xem thêm Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Đình Huế đến Chiến Khu Việt Bắc (Tp HCM : NXB Trẻ, 1996), pp. 76-77.
5. Phạm Cao Dương, op. cit, pp. 289-290.
6. Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi (Saigon: Vĩnh Sơn, 1969), pp. 86–88.
7. Trần Đĩnh, Đèn Cù, Vol. 2 (Westminster, CA : Người Việt Books, 2014), pp. 545–547.
8. Phạm Cao Dương, op. cit., pp. 307–309.
9. Marr, David G. Vietnam 1945 (Berkeley: University of California Press, 1995), p. 374.
10. Phạm Cao Dương, op. cit., pp. 309-311.
11. Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên, 1939–1954 (Sài Gòn: Nam Chi Tùng Thư. Reprinted Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1969), pp. 47–48.
12. Hoàng Tường, Việt Nam Đấu Tranh (Westminster, CA : Văn Khoa, 1987), p. 68.
13. Nguyễn Tường Bách, Việt Nam Một Thế Kỷ Qua: Hồi Ký, Vol. I. (Westminster, CA: Thạch Ngữ, 1998), p. 169).
14. Hoàng Tường, op. cit, p. 68-69.
15. Ibid., p. 69.
16. Trần Trọng Kim, op. cit., p. 93.
17. Trần Đĩnh, op. cit., p. 478.
18. Trần Nguơn Phiêu, Gió Mùa Đông Bắc (Amarillo, TX: Hải Mã, 2008).
19. From Wikipedia:
First Indochina War – Wikipedia
20. From Wikipedia:
Vietnam War – Wikipedia
21. Ái Vân, Để Gió Cuốn Đi: Autobiography (Saigon: Hội Nhà Văn Pub., 2016), pp. 156–157).
22. Ibid., p. 156.
23. Trương Minh, “Chuyện kể của một người chiến thắng khi vào Nam” (Story of a victor entering the South.” In Nguyễn Tường Tâm, Cuộc Chiến Việt Nam 50 Ngày Cuối Cùng (San Jose, CA : NT Tâm, 2025), pp. 509–512.
24. “Cú sốc giáo dục khi vào Nam tiếp quản” (The educational shock when entering the South for takeover). In Nguyễn Tường Tâm, op. cit., pp. 517-518.
25. Vương Trí Nhàn, “Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc” (Some reflections on the differences between southern and northern education), in Nghiên Cứu và Phát Triển (Research and Development), Nos. 7–8 (114–115), 2014, p. 267.
TS NGUYỄN HỒNG DŨNG – THĂNG HOA CUỘC ĐỜI
THĂNG HOA CUỘC ĐỜI
Kỳ 125 Tư Tưởng Cấp Tiến Giữa Dòng Nguyên Thủy
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Kinh Duy Ma Cật ra đời không phải là sự ngẫu nhiên, mà phản ánh một nhu cầu thiết thực trong việc truyền bá Phật pháp cho quảng đại quần chúng. Từ sau kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, ngay sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tư tưởng về sự canh tân Phật giáo đã manh nha trong tâm trí của nhiều vị đệ tử. Điều này vốn là quy luật tự nhiên của bất kỳ một đoàn thể hay tổ chức nào vì khi số lượng thành viên càng đông, thì nhu cầu đổi mới, thích ứng với xã hội càng trở nên cấp bách; huống hồ giáo đoàn của Đức Phật ngày càng lớn mạnh, gồm đến một ngàn hai trăm vị Tỳ kheo, rồi hàng trăm Tỳ kheo ni, cùng vô số hàng Ưu bà tắc, Ưu bà di. Đứng trước thực tế ấy, việc đổi mới phương cách hoằng hóa là điều tất yếu để Phật pháp có thể thấm sâu vào đời sống con người.
Tất nhiên, Phật giáo nguyên thủy vẫn là nền tảng căn bản không bao giờ thay đổi. Đó là cốt tủy của giáo pháp như Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, giáo lý về vô thường, vô ngã, khổ, không, Niết-bàn… Đây chính là gốc rễ của cây Bồ đề, là nền móng vững chắc của đạo giải thoát. Nhưng xã hội con người luôn chuyển biến, phương tiện sinh hoạt luôn đổi thay, tầm nhìn và cách sống cũng ngày càng khác trước. Nếu cứ giữ nguyên hình thức cứng nhắc, e rằng quần chúng sẽ khó tiếp nhận. Ngược lại, nếu phóng túng quá, xa rời tinh thần uyên áo của Đức Phật thì dễ rơi vào tà đạo. Chính từ đó, Đại thừa Phật giáo ra đời, với sắc thái được ví như “gấm thêu hoa” bởi không phủ nhận nền tảng nguyên thủy, mà còn làm cho Phật pháp thêm phần phong phú, sinh động, dễ hội nhập vào xã hội, trong khi vẫn giữ vững cái cốt lõi bất biến.
Trong giáo đoàn thời Đức Phật còn tại thế, muốn gia nhập thì người ta phải rời bỏ gia đình, cạo tóc, khoác y, khất thực, tu tập thiền định… rồi mới có cơ hội chứng đắc thánh quả. Nhìn thoáng qua, sự xả bỏ ái tình, tiền của, địa vị để sống đời an bần lạc đạo quả là việc phi thường, khó ai bì kịp. Nhưng đối với hàng phàm nhân còn nặng nợ gia duyên, tài sản ruộng vườn, dục lạc cuốn hút, công danh sự nghiệp ràng buộc… thì con đường xuất gia ấy trở thành điều hầu như không thể. Vì thế, trong khi thời Phật tại thế có vài ngàn vị xuất gia, thì về lâu dài, sau khi Ngài nhập diệt, giáo đoàn sẽđối diện nguy cơ mai một. Người hộ trì Tam bảo thì nhiều, nhưng người thực hành di huấn của Phật lại ít. Đây chính là nỗi lo của các bậc thiện tri thức lúc bấy giờ rằng, liệu hạt giống Bồ đề có còn được duy trì lâu dài hay không?
Thoạt kỳ thuỷ, vai trò của hàng cư sĩ ban đầu bị giới hạn. Người tại gia chỉ được xem như hộ pháp, khó đạt đến quả vị tối thượng. Nhưng kỳ thực, trong kinh điển, Đức Phật đã dạy rõ ràng, hễ ai đoạn diệt được các lậu hoặc thì đều có thể giải thoát, bất kể là xuất gia hay tại gia. Như vậy, xuất gia là một lợi thế vì ít vướng bận, nhưng cư sĩ nếu tinh tấn tu tập thì cũng có thể chứng ngộ như thường. Đáng tiếc thay, trong giai đoạn sơ khai, các bộ phái đã dần đóng khung trong hình thức tu trì cứng nhắc, không mở ra con đường cho cư sĩ thành Phật. Do đó, đạo Phật trở thành pháp môn chỉ dành cho số ít người dũng cảm, khiến khả năng phổ độ chúng sinh bị hạn chế.
Phật pháp từ ngàn xưa đã được tôn vinh như viên kim cương bất hoại, tỏa ánh sáng nhiệm mầu giữa cõi Ta bà đầy khổ lụy. Dẫu thế gian đổi thay, dòng đời xoay chuyển, ánh sáng ấy vẫn chiếu rọi không hề phai nhạt, soi đường cho những tâm hồn khát khao giải thoát. Giá trị của Phật pháp không nằm ở sự huyền bí xa vời, mà chính ở chỗ giúp con người tìm lại bản tâm thanh tịnh, sống giữa th ế gian mà không bị đời lôi cuốn. Khi tâm an định, trí tuệ bừng sáng, thì chân lý hiển hiện ngay trong từng hơi thở, từng bước đi.
Người cư sĩ dù còn vướng bận gia đình, xã hội, nếu biết giữ tâm hướng đạo, tu tập giới, định, tuệ, thì vẫn có thể bước lên con đường Bồ đề đạo quả. Đó chính là tinh thần “thân không xuất gia mà tâm xuất gia” nghĩa là tuy vẫn sống đời thường, chưa rời bỏ gia đình, công việc hay xã hội, nhưng trong tâm đã có chí nguyện tu hành, buông xả tham sân si,
giữ lòng thanh tịnh và hướng về giải thoát. Xuất gia quan trọng nhất không chỉ là hình thức cạo tóc, khoác áo, mà là sự xuất ly phiền não, lìa bỏ dục vọng trong tâm. Người tại gia nếu giữ giới, nuôi dưỡng trí tuệ, lòng từ bi, sống chánh niệm, thì cũng được gọi là “tâm xuất gia”, và công đức ấy chẳng kém người mang hình tướng tu sĩ; điều này minh chứng rằng Phật pháp không giới hạn trong hàng ngũ Tăng già, mà mở rộng cho tất cả mọi người. Chính tính nhân bản ấy làm nên sức sống bất diệt của đạo Phật là ai cũng có cơ hội đạt đến giải thoát, ai cũng có thể thắp sáng trí tuệ và lòng từ bi.
Như viên kim cương tỏa chiếu muôn phương, Phật pháp mãi là ngọn đuốc soi đường, đưa con người vượt khỏi đêm tối vô minh để đến bờ an lạc, hạnh phúc và giải thoát. Trong suốt bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã vận dụng phương tiện thiện xảo, dùng khái niệm “Ngũ thừa” để chỉ những nấc thang tu chứng phù hợp với căn cơ và trình độ của mỗi chúng sinh. Ngài không áp đặt một khuôn mẫu duy nhất, mà mở ra nhiều lối đi, giúp mọi người từ phàm phu đến bậc trí đều có thể nương theo mà tu học. Bậc thấp nhất là Nhân thừa, dành cho người giữ gìn năm giới, thực hành mười điều thiện, nuôi dưỡng đời sống hiền hòa, đạo đức, nhờ vậy có thể duy trì phước báu tái sinh làm người. Cao hơn là Thiên thừa, vốn cũng lấy căn bản từ thiện hạnh, nhưng ở mức tinh tấn hơn, gieo trồng nhiều công đức, để hưởng quả báo
sinh lên cõi trời với sự an vui thù thắng.
Khi bước sang nấc thang giải thoát, có Thanh văn thừa, chỉ cho những ai nhờ nghe pháp mà giác ngộ Tứ diệu đế, từ đó tu tập đoạn trừ khổ đau, chứng đắc giải thoát cho riêng mình. Song song với đạo lộ đó là Độc giác thừa, vốn thuộc về những vị nào có căn cơ đặc biệt, không cần thầy chỉ dạy, mà nhờ quán chiếu nhân duyên vô thường liền trực ngộ chân lý, đạt đến thành quả giải thoát độc lập. Hai con đường này được gộp chung lại gọi là Nhị thừa, biểu hiện sự thanh lọc phiền não và đạt được an lạc cá nhân.
Cao nhất trong ngũ thừa Phật giáo là Bồ tát thừa, một con đường rộng lớn và cao cả. Người học Phật nơi đây không chỉ lo giải thoát cho bản thân, mà còn phát tâm quyết cứu độ tất cả chúng sinh, nguyện ở lại giữa đời để gieo duyên, dìu dắt, chia sẻ trí tuệ và từ bi. Con đường Bồ tát là đỉnh cao của tinh thần Phật giáo, chỗ trí tuệ soi sáng và từ bi lan tỏa, nơi tự giác và giác tha cùng hội tụ. Đó chính là Đại thừa, chiếc thuyền rộng lớn có thể chở vô số người vượt qua
bờ sinh tử, mở ra viễn cảnh giải thoát cho toàn thể chúng sinh chứ không chỉ riêng một cá nhân ai.
Nhìn tổng thể, Ngũ thừa chính là một hệ thống phương tiện khéo léo, từ thấp đến cao, từ nhân gian đến giác ngộ tối thượng, để ai ai cũng có con đường phù hợp mà bước đi. Và dù ở nấc thang nào, mỗi bước đều hướng về chân lý giải thoát mà Đức Phật đã khai mở cho nhân loại. Trong tiến trình lịch sử, Phật giáo từ Ấn Độ đã phân thành hai dòng lớn thành Nam truyền và Bắc truyền. Nam truyền (Theravāda, nguyên thủy) lan xuống phương Nam như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Cam bốt… với trọng tâm gìn giữ tạng Pāli, đề cao đời sống thanh tịnh, thiền định và hướng về con đường A la hán. Bắc truyền (Mahāyāna hay Đại
chúng) đi lên phương Bắc qua Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản…, phát triển thêm nhiều bộ kinh điển, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát, tinh thần nhập thế và “bất tư nghì giải thoát”.
Tuy nhiên, việc gọi Nam truyền là “Tiểu thừa” và Bắc truyền là “Đại thừa” dễ dẫn đến hiểu lầm. Danh xưng “Tiểu thừa” vốn mang tính tranh luận trong lịch sử, không phản ánh trọn vẹn giá trị tu tập của Nam truyền. Thực tế, căn cứ Luật tạng Hữu bộ và giáo pháp căn bản, bất cứ ai hành trì Bát Chánh Đạo, Tứ vô lượng tâm, Tứ nhiếp pháp thì đều đi trên con đường Đại thừa, vì đều hướng đến giải thoát và lợi ích chúng sinh.
Cả hai truyền thống đều dựa trên Tam học là Giới, Định, Huệ và Tứ diệu đế, chỉ khác ở phương tiện và hình thái phát triển. Nam truyền giữ nguyên vẹn tinh thần nguyên thủy, nhấn mạnh sự giải thoát cá nhân như một nền tảng chắc chắn. Bắc truyền mở rộng viễn tượng, đề cao tinh thần vị tha, nhưng cũng không rời khỏi cội nguồn căn bản. Nhìn khách quan, hai dòng truyền thừa bổ sung cho nhau: một bên là sự tinh nghiêm, nền tảng thiền quán; một bên là sự khai triển bao dung, uyển chuyển phương tiện.
Do đó, thay vì phân chia, người học Phật hôm nay nên nhận ra rằng cả Nam truyền lẫn Bắc truyền đều cùng chung một gốc, đó chính là tìm cầu giác ngộ và giải thoát khổ đau, chỉ khác nhau ở cách biểu đạt và phương tiện hành trì.
Kinh Duy Ma Cật mở ra một hướng nhìn đặc biệt trong lịch sử tư tưởng Phật giáo, tinh thần nhập thế gắn liền với trí tuệ giải thoát. Nhân vật trung tâm, cư sĩ Duy Ma Cật, không phải là một vị Tỳ kheo xuất gia, mà là một cư sĩ sống giữa lòng xã hội. Nhưng chính nơi vị cư sĩ này, ta thấy hội tụ đủ trí tuệ, từ bi và phương tiện thiện xảo để ngang hàng với các bậc Đại Bồ tát. Điều này hàm ý rằng giác ngộ không bị giới hạn trong hình thức tu tập, mà mở ra cho tất cả những ai đủ tâm đức và đại hạnh.
Biểu tượng nhập thế ở đây là điểm đặc sắc vì Duy Ma Cật không rời khỏi phố chợ, không xa lánh gia đình, mà vẫn hóa độ chúng sinh bằng sự hiện hữu đầy tự tại. Căn bệnh của ông, thay vì là một nỗi khổ, lại được dùng như phương tiện giáo hóa: “bệnh vì chúng sinh bệnh, khổ vì chúng sinh khổ”. Qua đó, ông làm sáng tỏ tinh thần đồng sự nhiếp, cùng chia sẻ khổ đau để dẫn dắt người khác đến chỗ giác ngộ. Nhập thế không phải để bị đời cuốn trôi, mà là để sống ngay trong trần thế với tâm sáng suốt, biến phiền não thành bồ-đề.
Đặc biệt, kinh nhấn mạnh đến “bất tư nghì giải thoát” là một cảnh giới vượt ngoài tư duy nhị nguyên. Bất tư nghì không chỉ là kỳ diệu siêu việt, mà còn là sự tự tại vô ngần giữa thế gian, như sen nở trong bùn mà chẳng nhiễm bùn.
Cảnh giới này khiến mọi giới hạn về hai mặt trong ngoài, sạch dơ, sinh diệt… trở nên rỗng không, để người học Phật tự do ứng hiện mà không bị trói buộc. Đó chính là chỗ “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”, vừa sống giữa đời vừa không mất đi bản tâm thanh tịnh.
Tinh thần ấy tương ứng với lời Lục Tổ Huệ Năng trong Pháp Bảo Đàn Kinh dạy: “Phật pháp tại thế gian, Bất ly thế gian giác. Ly thế mích Bồ đề, Do như cầu thố giác.” Ý nghĩa bốn câu trên là Phật pháp không xa rời đời sống, nếu lìa thế gian mà cầu giác ngộ thì chẳng khác nào đi tìm sừng thỏ, lông rùa. Đây là lời cảnh tỉnh mà Lục Tổ đã quan tâm rằng,
Phật đạo không ở nơi viễn mộng mà ở trong từng sát na hiện thực, trong từng việc làm bình dị của mỗi chúng ta. Như vậy, Duy Ma Cật trở thành biểu tượng của người sống giữa đời mà không bị đời chi phối, lấy trí tuệ và bi nguyện làm ngọn đèn soi sáng. Hình ảnh ấy nhắc nhở người học Phật hôm nay rằng, con đường giải thoát không tách rời xã hội, mà chính trong từng mối quan hệ, từng công việc hằng ngày, ta có thể sống được tinh thần “bất tư nghì giải
thoát”.
Trong tiến trình tu học Phật pháp, những ngộ nhận và thái độ cực đoan thường khiến con đường giác ngộ bị lệch lạc. Một số người mang danh đệ tử Phật nhưng lại tin tưởng vào những hình thức mê tín như cầu xin thần thánh, bói toán, đốt vàng mã, coi Phật như một vị thần linh ban phước giáng họa. Cách nhìn này hoàn toàn trái với tinh thần tự giác và tự lực mà đạo Phật đề cao. Ngược lại, cũng có những người đi vào cực đoan khác: quá thiên về nghiên cứu triết học, phủ nhận mọi nghi lễ, cho rằng tụng kinh, lễ bái, cúng dường chỉ là hình thức không cần thiết. Kết quả là Phật pháp trong cách tiếp cận ấy trở nên khô thiển, thiếu sức cảm hóa bậc tri thức và xa lạ với quảng đại quần chúng.
Đức Phật từng dạy về Trung đạo trong Kinh Chuyển Pháp Luân với bài pháp đầu tiên, Đức Phật đã chỉ con đường kỳ diệu đó hầu tránh hai thái cực, một bên là buông mình trong dục lạc thế gian, bên kia là khổ hạnh ép xác làm tổn hại thân tâm. Trung đạo không phải là sự thỏa hiệp nửa vời, mà là con đường sáng suốt, hướng về giải thoát. Con đường ấy chính là Bát Chánh Đạo gồm chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn,
chánh niệm và chánh định. Đây là nền tảng cho trí tuệ phát sinh, tâm được an tịnh, và rốt ráo đạt đến Niết-bàn. Trong tu học ngày nay, tinh thần Trung đạo càng cần được vận dụng. Nếu chỉ thiên về nghi lễ hình thức, ta có nguy cơ sa vào mê tín, biến đạo thành sự cầu khẩn. Ngược lại, nếu phủ nhận nghi lễ hoàn toàn, ta sẽ đánh mất một phương tiện nhiếp tâm, một cánh cửa đưa tâm vào định và nuôi dưỡng niềm tin. Do đó, người học Phật cần biết khéo dung hòa, giữ gìn nghi lễ như một phương tiện thiện xảo, nhưng đồng thời chăm lo tu tập nội tâm, giữ tâm tỉnh giác. Chính sự quân bình ấy mới giúp Phật pháp đi vào đời sống, vừa gần gũi vừa sâu xa.
Thực chất, nghi lễ không phải cứu cánh mà là phương tiện. Khi được thực hành bằng tâm thanh tịnh, nghi lễ giúp nuôi dưỡng lòng cung kính, tạo nên môi trường thuận lợi cho việc nhiếp tâm, gieo trồng hạt giống giải thoát. Không phải Phật hay thần linh ban phước, mà chính là tâm trong sáng của mình tạo nên cảnh giới an lạc và giải thoát ngay giữa đời
thường.
Kinh Duy Ma Cật ra đời không chỉ là một dấu mốc trong lịch sử Phật giáo, mà còn là thông điệp tuyệt vời gửi đến nhân loại muôn nghìn kiếp vị lai. Kinh đã mở rộng cánh cửa đạo, đưa Phật pháp từ chốn thiền môn đi vào mọi ngõ ngách đời sống, khẳng định rằng hàng cư sĩ cũng có thể là bậc thầy trí tuệ, là ánh sáng cho tha nhân. Tinh thần “bất tư nghì giải thoát” mà kinh trình bày đã phá vỡ mọi ranh giới giữa xuất gia và tại gia, giữa đời và đạo, giữa phàm phu và
thánh nhân. Đó là sự tự tại vô ngần vì sống giữa trần thế mà không nhiễm bụi trần, hiện hữu giữa đau khổ mà vẫn gieo mầm an lạc.
Ngày nay ở xã hội Tây Phương với khoa học phát triễn tột bực, trí tuệ nhân tạo đã chiếm lãnh thị phần hầu như trọn vẹn nhưng tâm thức con người vẫn không có loại cơ năng kỹ thuật kỳ diệu nào thay thế được, chính nhờ tư tưởng này, Phật pháp trở nên gần gũi hơn, thấm sâu hơn vào đời sống thường nhật, mà vẫn giữ trọn tinh hoa của giáo lý nguyên thủy. Người học Phật hôm nay, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, cũng có thể tiếp nhận ánh sáng ấy, để chuyển hóa khổ đau thành trí tuệ, biến phiền não thành bồ đề. Đây là giá trị phổ quát mà nhân loại đang cần thiết về một con đường không tách rời thế gian, mà hòa nhập để làm trong sáng thế gian. Duy Ma Cật trong thời đại kỹ thuật số lại càng rõ sứ mạng thiêng liêng bằng lời nhắc nhở rằng, giải thoát không ở đâu xa, mà ngay nơi đời sống này, nếu ta biết sống bằng tâm an nhiên và trí tuệ vô ngại.
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
GS/TS MAI THANH TRUYẾT – Con Đường Việt Nam VII – Làm sao mở rộng việc tiếp cận với Tây phương.
Con Đường Việt Nam VII
Làm sao mở rộng việc tiếp cận với Tây phương
Mở rộng tiếp cận phương Tây và duy trì quyền lãnh đạo: Hai khái niệm có đối lập nhau không?
Việc mở rộng tiếp cận phương Tây và tập trung quyền lãnh đạo không nhất thiết là hai xu hướng đối lập. Thực tế, nhiều quốc gia đã thành công trong việc kết hợp cả hai yếu tố này bằng cách học hỏi kinh nghiệm phương Tây để cải cách và phát triển nhưng vẫn giữ vững hệ thống chính trị của mình. Việt Nam có thể tham khảo các mô hình tương tự như Trung Quốc, Singapore hay một số quốc gia Đông Á khác để tìm ra hướng đi phù hợp.
1. Làm thế nào để mở rộng tiếp cận phương Tây mà không làm mất ổn định chính trị?
Chuyển đổi tư duy về hội nhập
- Không xem phương Tây là một thế lực đối lập, mà là một nguồn tài nguyên tri thức, công nghệ, kinh tế cần khai thác.
- Học hỏi những giá trị tích cực như quản trị minh bạch, nền kinh tế thị trường, khoa học công nghệ, nhưng vẫn giữ bản sắc riêng trong chính trị và văn hóa.
Mở rộng quan hệ kinh tế nhưng duy trì kiểm soát chính trị
- Việt Nam có thể tận dụng thương mại, đầu tư và công nghệ từ phương Tây để phát triển kinh tế, nhưng vẫn giữ quyền lãnh đạo của Đảng trong quy định của luật pháp. Nếu bao biện và độc đoán trong lãnh đạo sẽ hạn chế sự phát triển trên.
- Tiếp tục ký kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA) với phương Tây, thúc đẩy đầu tư nhưng không để nước ngoài kiểm soát các lĩnh vực nhạy cảm.
Cải cách hành chính và pháp luật để phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế
- Xây dựng hệ thống luật pháp công khai, minh bạch, giảm quan liêu và tham nhũng để tăng cường niềm tin của các nhà đầu tư và người dân.
- Đảm bảo một hệ thống tư pháp độc lập hơn trong lĩnh vực kinh tế, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển theo quy luật thị trường. Dứt khoát không “hô” khẩu hiệu.
2. Những quốc gia nào đã làm được điều này?
Singapore: Kiểm soát chính trị nhưng nền kinh tế thị trường cực kỳ tự do
- Dưới thời Thủ tướng Lý Quang Diệu, Singapore áp dụng các nguyên tắc quản trị của phương Tây (pháp trị, minh bạch, hiệu quả) nhưng vẫn duy trì sự kiểm soát mạnh mẽ của chính phủ.
- Kết quả: Một nền kinh tế thịnh vượng với mức sống cao nhưng hệ thống chính trị vẫn tập trung vào một đảng cầm quyền mạnh.
Các nước Bắc Âu: Dân chủ nhưng quản trị tập trung, hiệu quả
- Các quốc gia như Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch có nền dân chủ nhưng chính phủ vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nhiều lĩnh vực quan trọng như giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội.
- Kết quả: Phát triển bền vững, với mức độ hài lòng của người dân cao.
Nhận định: Việt Nam có thể học hỏi từ các mô hình này để tiếp cận phương Tây mà vẫn duy trì quyền lãnh đạo.
3. Những điều Việt Nam cần làm để cân bằng giữa hội nhập và kiểm soát chính trị
Cần minh bạch trong chính sách và trách nhiệm trong việc thực hiện
- Xây dựng hệ thống chính phủ điện tử để tăng cường tính công khai và trong sáng, giảm tham nhũng.
- Tạo ra các kênh đối thoại giữa chính quyền và doanh nghiệp thường xuyên; từ đó, người dân để phản hồi nhanh chóng và hiệu quả hơn.
Tăng cường hợp tác với phương Tây trong giáo dục và khoa học
- Khuyến khích các chương trình hợp tác giữa các trường đại học Việt Nam với các đại học hàng đầu phương Tây.
- Đầu tư mạnh vào các ngành công nghệ cao, AI, khoa học dữ liệu để không bị tụt hậu trong nền kinh tế toàn cầu.
Định hướng phát triển kinh tế theo mô hình thị trường tự do nhưng có kiểm soát
- Tiếp tục cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhưng vẫn giữ quyền kiểm soát với các ngành chiến lược như năng lượng, viễn thông, ngân hàng.
- Thúc đẩy khu vực tư nhân phát triển mạnh hơn, giảm bớt rào cản về thủ tục hành chính.
Mở rộng không gian tự do nhưng trong khuôn khổ ổn định
- Cho phép báo chí và truyền thông có vai trò giám sát nhưng trong giới hạn nhất định để tránh gây bất ổn.
- Tăng cường đối thoại chính trị thay vì đối đầu, để người dân có cơ hội đóng góp ý kiến một cách xây dựng.
4. Kết luận: Hai hướng đi không đối lập, nếu có lộ trình phù hợp
Việt Nam không cần lựa chọn giữa phương Tây hay giữ quyền lãnh đạo, có thể làm cả hai điều này song song và không vượt các quyền quy định trong hiến pháp.
Nếu tiếp cận phương Tây thông minh (tận dụng kinh tế, công nghệ, giáo dục) nhưng vẫn kiểm soát chính trị một cách hiệu quả, Việt Nam có thể phát triển mà không gây mất ổn định.
Học hỏi các mô hình như Singapore, hay Bắc Âu có thể giúp Việt Nam tìm ra hướng đi phù hợp nhất.
Vì vậy, Việt Nam trong quá trình hội nhập nên đi theo hướng dung hòa ứng hợp với nền văn hóa Á Đông, không quá khép kín bế quan tỏa cảng như thời phong kiến, cũng không “mở toẹt” như thế giới Tây phương trước khi hấp thụ/tiêu thụ một nền tự do mà Tây phương đánh đổi nhiều thế kỷ
Lịch sử đã cho thấy rằng khép kín hoàn toàn sẽ dẫn đến tụt hậu, trong khi mở cửa quá nhanh, thiếu kiểm soát có thể gây ra những biến động không lường trước được. Do đó, một lộ trình hội nhập có chọn lọc, phù hợp với bản sắc văn hóa và trình độ phát triển của đất nước là hướng đi bền vững nhất.
Mai Thanh Truyết
Houston – Tháng 9-2025
________________________________________
Mai Thanh Truyết https://maithanhtruyet1.blogspot.com/
https://www.facebook.com/MaiThanhTruyetUSA
Hãy để lại cho thế hệ nối tiếp một trái đất Xanh.
Let pass on to the next generation a Green Earth – Mai Thanh Truyết
Nói Với Đại Dương
René-François Sully Prudhomme (1839 –1907) là một nhà thơ và nhà tiểu luận người Pháp, sinh ra trong một gia đình chủ cửa hàng người Pháp ở Paris, ban đầu học để trở thành một kỹ sư, nhưng chuyển sang triết học và sau đó là thơ ca. Nhưng bệnh về mắt đã làm gián đoạn việc học, nên ông đã làm việc một thời gian ở vùng Creusot cho xưởng đúc thép Schneider, và sau đó bắt đầu học luật tại một văn phòng công chứng. Prudhomme quan tâm tới các chủ đề triết học và khoa học. Ông là nhà văn đầu tiên nhận giải Nobel Văn học, và ông đã cống hiến phần lớn số tiền giải thưởng để thành lập một giải thưởng thơ, giải thưởng này để cho Société des gens de lettres trao tặng.
Với suy tư triết học, ông để hồn mình nói chuyện với đại dương. Để thấu triệt tư tưởng của ông xin mời đọc bài thơ A L’OCÉEAN (NÓI VỚI ĐẠI DƯƠNG trong bài Anh Việt đối chiếu dưới đây:
“Satan! ngươi phải nhào xuống âm phủ, tận đáy vực sâu,
vì tội kiêu ngạo của ngươi! (Is. 14: 15)
Bài dưới đây đáng để suy gẫm cho kẻ kiêu căng cao ngạo,
bất tuân thánh chỉ: “MẾN CHÚA và YÊU THA NHÂN”
À l’Océan
1- Océan, que vaux-tu dans l’infini du monde ?
Toi, si large à nos yeux enchaînés sur tes bords,
Mais étroit pour notre âme aux rebelles essors,
Qui, du haut des soleils te mesure et te sonde ;
2- Presque éternel pour nous plus instables que l’onde,
Mais pourtant, comme nous, œuvre et jouet des sorts,
Car tu nous vois mourir, mais des astres sont morts,
Et nulle éternité dans les jours ne se fonde.
3- Comme une vaste armée où l’héroïsme bout
Marche à l’assaut d’un mur, tu viens heurter la roche,
Mais la roche est solide et reparaît debout.
Va, tu n’es cru géant que du nain qui t’approche :
Ah ! Je t’admirais trop, le ciel me le reproche,
Il me dit: «Rien n’est grand ni puissant que le Tout! »
Auteur: René-François Sully Prudhomme
NÓI VỚI ĐẠI DƯƠNG
1- Hỡi đại dương, biển cả! Ngươi có biết hay không?
Ngươi đáng chi trong vũ trụ mênh mông vô tận?
Dán mắt vào bờ, nhìn ngươi rộng thật mất hút,
Nhưng khi hồn ta nổi điên bay vút lên cao,
Đo dòng, dò đáy, ta thấy ngươi sao nhỏ hẹp!
2- Chẳng như sóng cả, ta bấp bênh, ngươi thiệt bền vững,
Nhưng số kiếp lao nhọc dập vùi, ngươi cũng như ta.
Ngươi thấy ta chết, mà tinh tú hoá ra cũng tắt.
Chẳng có gì vĩnh viễn khi chẳng kịp bắt thời gian.
3- Như máu anh hùng sục sôi nơi đạo quân hùng dũng,
Ào ạt tấn công tường thành, ngươi lại đụng đá tảng
Nhưng đá rắn chắc, nên đá vẫn đứng thẳng trơ trơ.
Chồm lên đi, rướn nữa đi, hỡi tên khổng lồ to xác!
Ngươi tưởng mình kếch xù bởi tên lùn đứng sát gần ngươi.
Quả là ta ngưỡng mộ ngươi, nhưng Trời nhạo cười ta điên.
Người dằn giọng quở la liền:
“Không gì hùng vĩ, vô biên, uy quyền
Hơn là Tạo Hoá vi-huyền,
Người là Thượng Đế dựng nên đất trời!”
Ben. Đỗ Quang Vinh diễn dịch
BÀI TỪ THÂN HỮU: Video Tưởng Nhớ Nhà Văn Phan Lạc Tiếp, Người Đồng Sáng Lập Uỷ Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển.

VIDEO
**
Video tưởng nhớ nhà văn Phan Lạc Tiếp, người đồng sáng lập Uỷ Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển
21 tháng 9 năm 2025
Nhân dịp đánh dấu 45 năm hoạt động trải qua 3 thế hệ
BPSOS, ngày 21 tháng 9, 2025
Chủ Nhật 21 tháng 9 là Lễ Chung Thất 49 ngày cho nhà văn Phan Lạc Tiếp và cũng là ngày BPSOS tổ chức bữa tiệc ở Orange County, California để đánh dấu 45 năm hoạt động liên tục. Vì phải lo Lễ Chung Thất, tang quyến không thể đến dự nên gửi gắm một video ngắn đến quan khách tham gia bữa tiệc: https://youtu.be/J6qXc_q6cYc?si=vYhvxwU9EbQ-pOJO
Nhà văn Phan Lạc Tiếp cùng với Giáo Sư Nguyễn Hữu Xương cùng một số nhân sĩ đã thành lập Uỷ Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển, tiếng Anh là Boat People S.O.S. Committee, năm 1980. Cuối năm 1990, sứ mệnh bảo vệ đồng bào thuyền nhân được chuyển giao cho chi nhánh vùng thủ đô Hoa Kỳ.

Chi nhánh này trở thành văn phòng trung ướng và đổi tên tiếng Việt thành Uỷ Ban Cứu Người Vượt Biển. Tên tiếng Anh vẫn giữ là Boat People SOS, cắt đi chữ Committee. Sau đó, tên được viết tắt thành BPSOS.
“Anh Phan Lạc Tiếp đại diện cho thế hệ mở đường,” Ts. Nguyễn Đình Thắng, Tổng Giám Đốc kiêm Chủ Tịch BPSOS, nhận định. “Chúng tôi thuộc thế hệ tiếp nối và đang trao truyền cho thế hệ trẻ hơn.”
Video ngắn sẽ được trình chiếu tại sự kiện đánh dấu 45 năm hoạt động của BPSOS để tưởng nhớ một trong những người mở đường: Nhà văn Phan Lạc Tiếp.
Bài liên quan:
Vĩnh biệt nhà văn Phan Lạc Tiếp, một trong số người khởi dựng BPSOS
https://machsongmedia.org/all/lich-su/van-kho-thuyen-nhan/vinh-biet-nha-van-phan-lac-tiep-mot-trong-so-nguoi-khoi-dung-bpsos.html
Tạp Chí VănHọc THẾ HỮU VĂN ĐÀN FIRMAMENT OCT 2025
GS/TS MAI THANH TRUYẾT: 1)-“xvczsaTừ Dân tộc Sanh tồn, qua Chủ thuyết Biến cải…” 2)- Bức tường đá Georgia Guidestones. 3)- Phong trào Gen Z ở Nepal. 4)- Sen Người và Sen Ta.
**
***
***
CA KHÚC BOLERO TÍM – Thơ Cô Gái Việt HỒNG THÚY – Nhạc Trần Chương Lương – ca sĩ KaNa Ngọc Thuý – Hoàng Đệ Production hòa âm.
TRUYỆN NGẮN Của Cô Gái Việt SỎI NGỌC: Hoàng Hôn Còn Sót Lại

Hoàng Hôn Còn Sót Lại – Sỏi Ngọc
Ông ta dí một xấp bạc trước mặt mẹ, hai hàm răng nghiến chặt, lăm lăm con dao nhọn hoắt:
– Đếm xem có đủ cho cô xài không?… Nếu thấy đủ rồi thì từ đây hãy ở nhà đi, tôi không muốn tôi bị truy ra tung tích từ cô!… Cô thật là cái nợ lớn cho tôi đó, biến đi! Bỏ tất cả mọi công việc ba xu đi!
– ……
– Còn không hiểu nữa sao mà ngước cặp mắt giả nai lên nhìn nữa! Từ giờ trở đi nếu chúng nó lùng ra tôi… Cô và con bé đừng trách tôi!… Thật phiền quá!
– Khoan! Anh à… Anh…
Ông ta hất mẹ té xuống đất, phóng người ra khỏi nhà bằng ngã sau, nhìn trước nhìn sau rồi biến mất. Mẹ không sao thốt nổi nửa lời, hàng nước mắt long lanh, quẹt nhanh. Vội vàng run rẩy quơ hết đống bạc trên bàn cho vào một cái túi nhỏ giấu dưới đáy tủ, sợ lỡ có ai nhìn thấy thì lại mắc họa vào thân.
Tôi ghì cái mền vào lòng, cắn chặt đôi môi cho khỏi bật khóc thành tiếng, hi hí mắt giả ngủ, nằm yên, thầm khẩn cầu Trời Phật cho ông ta biến mất khỏi cuộc đời khốn khổ của mẹ con tôi.
Tôi thù ông ta! Phải! Chỉ mới gần 8 tuổi thôi mà tôi đã có một kẻ thù không đội trời chung!… Là ông ấy! Đặc biệt vết sẹo dài vắt ngang chân mày trái làm ông ta giống như phù thủy, chiếc miệng không ngớt mắng chửi, đánh đập tôi khi ông về thăm nhà.
Tôi không hiểu sao ông ta có thể là cha ruột của tôi!
Ông đưa tiền cho mẹ một mà nạo tiền mẹ đến mười! Nếu mẹ không cất giấu những đồng tiền ấy đi thì sau này ông ta hỏi mà không có thì mẹ sẽ phải bị hành hạ đến chết!
Mẹ một mình nuôi tôi bằng đồng lương kham khổ, làm cô giáo cấp 1, và may thêm buổi tối ở nhà.
Những người đến đặt hàng may của mẹ, ai cũng hỏi tôi về cha, tại sao cha không bao giờ có mặt ở nhà. Những lúc như thế tôi lại úp mặt vào lòng mẹ, cảm thấy vừa tủi thân, vừa thù hận người đã mang danh hiệu CHA mà không tròn bổn phận với mẹ và tôi!
Mặc dù tuổi còn bé, tôi vẫn biết mẹ phải chịu đựng biết bao khổ sở cực nhọc vì miệng đời. Xã hội còn lạc hậu, nền nếp phong kiến xưa, và vì sự tồn tại của tôi, đứa con không mong muốn!
Tôi không khóc như mẹ, nhưng lì và thù hận ăn sâu trong tim óc non nớt của tôi, tôi nhất quyết phải làm một điều gì đó để cứu cuộc đời cực nhọc của mẹ ra khỏi cái hang hùm ấy.
Một hôm ông ta về nhà trong lúc tôi đang ngồi trước cửa chơi con búp bê bùn sình bẩn thỉu mà mẹ đã lượm từ đống rác cách nhà mấy mươi bước khi đi dạy học về. Ông kéo tôi xềnh xệch vào nhà:
– Đi tắm và lấy bộ đồ mới mặc vào!
– Đi đâu hả cha?
– Mày có quyền lên tiếng hả?
Chưa nói hết câu, ông đã sấn lại tát lên má tôi một cái thật đau điếng mà tưởng chừng thấy ngàn ngôi sao quay vòng vòng trên đầu. Té thụp xuống đất, tôi thút thít và biết là ông sẽ làm hại tôi:
– Con chờ mẹ về rồi mới đi…
– Mày còn trả treo hả? Đi ngay với tao! Tao không phải là cha mày sao?
Tôi lấy hết sức bình sinh và tất cả can đảm, hét lên:
– Không! Ông không phải cha tôi! Ông là người ác độc, ông là…
– Bốp! bốp!
Ông ta táng vào đầu tôi, túm tóc vặn ngược ra đàng sau. Hai con mắt đỏ ngầu, cả người ông tỏa ra mùi rượu nồng nặc, ông kéo lết tôi ngược ra sau nhà, hai cánh tay tôi níu ngược lại sau đầu, nương cho mái tóc như sắp lìa khỏi da đầu. Hai chân tôi cào cấu cố bám víu lấy những vật cản trong nhà, nhưng vô ích.
Ra đến sau bếp, ông mở nắp lu nước đầy 2/3, ông bế xốc tôi lên bỏ vào đó một cách gọn lỏn không do dự. Cái nóng đau rát cùng mồ hôi đổ túa ra đầu cổ từ nãy giờ, gặp lu nước lạnh mát bất thình lình, nhiệt độ trong cơ thể tôi tụt nhanh bất ngờ, tôi hoàn toàn mất tri giác, toàn thân mềm nhũn.
May là ngay lúc ông vừa bước ra khỏi bếp, thì mẹ tôi về đến nhà.
Điều đầu tiên bà làm là vô bếp múc nước rửa tay chân rồi mới bắt đầu làm bếp. Khi mở nắp lu nước ra thấy tôi nằm gọn lỏn trong đó, nước lên ngập đầu, tưởng là đã chết, mẹ hết sức bình sinh lật đổ cái lu, vỡ toang tành, tay chân mẹ bị mảnh sành của lu cứa đến trầy rất nhiều vết thương nhỏ máu, và bế xốc tôi sang nhà hàng xóm cấp cứu. Từ đó tôi và mẹ theo nhau bén gót, mẹ không dám hở tôi ra, sợ ông ta sẽ giết hoặc hại đến tôi.
Ông bà ngoại chỉ có mỗi mình mẹ là con gái duy nhất ở Cao Lãnh, gia đình khá giả nên mẹ được đi học đàng hoàng cho đến hết lớp 12. Một vụ pháo kích bất ngờ của Việt Cộng vào nhà dân khoảng năm 1973 đã làm cả xóm sụp đổ hoang tàn, bao người chết chóc, trong đó có ông bà ngoại! Mẹ được những người dân xung quanh vực dậy, di tản lên Sài Gòn. Mẹ chỉ biết hớt hơ hớt hải chạy theo đoàn người, với hai bàn tay trắng, tâm hồn rạn nứt, trái tim đã chết theo cái chết oan khiên của ông bà ngoại dưới đống đổ nát của nhà cửa làng mạc.
Ở Sài Gòn, chính phủ có xây một nơi tập trung khá rộng bằng mái tole cho những người chạy giặc từ quê lên tạm trú. Nơi đây mẹ một thân một mình, không người thân mà chỉ có những người cùng quê làng mà thôi. Mẹ phải bươn chải, phải tự tìm việc làm thêm để nuôi bản thân mình; còn những người khác ít học thì đi bán vé số, lượm ve chai, gánh hàng đi bán…
May là mẹ đã có một số vốn kiến thức thời trung học và ngoại ngữ loại khá nên làm cô giáo dạy toán và ngoại ngữ cho các em nhỏ ở SàiGòn.
Một buổi chiều đi dạy về tối, một đám côn đồ ra chặn đường, mẹ hốt hoảng không biết phải làm sao với ba bốn tên mặt mày hung dữ, mẹ chả có tiền bạc gì cho chúng cả, mẹ quỳ xuống van xin chúng đừng động tới mẹ, nhưng chúng chỉ cười hung ác, nhào vô cấu xé mẹ. Mẹ sợ đến ngất lịm trên nền đất bùn sình với bóng đêm ngày càng dầy đặc như để che đi cái dã man tàn ác của bọn côn đồ.
Khi chiếc áo nhỏ của mẹ vừa bứt ra khỏi người, tiếng cười man rợ của bọn ma cô vang lên thì ngay lúc ấy mẹ thấy một bóng người lao vút vào, con dao nhọn hoắt múa soạt soạt kinh hồn. Cả đám nhào vào đánh một người. Người “anh hùng” cứu mẹ bị một vết thương ở mặt, máu ào ạt tuôn ra, ông ta vẫn không cảm thấy đau mà cúi người xuống vác mẹ trên vai băng băng chạy thật mau vào những ngõ tối mà cả bọn lưu manh không biết đường đuổi theo.
Theo lời mẹ kể sau ngày ấy, mẹ ở với hắn. Hắn cũng chả yêu thương gì mẹ mà chỉ dùng mẹ như một công cụ kiếm tiền của hắn, một người phục vụ cho hắn. Đã bao lần mẹ muốn trốn đi nhưng không biết phải đi đâu, sợ ở cái đất Sài Gòn rộng lớn này mẹ lại bị hại nữa; mẹ như một con cừu non chưa ra đời, không biết phương hướng giữa bầy sói hoang, thà ở lại với tên lưu manh, phục vụ cho hắn còn hơn!
Thời gian trôi qua, hắn biết mẹ là người con gái đàng hoàng, trinh trắng, hắn là người đàn ông may mắn đầu tiên trong đời mẹ, nên hắn bớt hằn học và tin tưởng giao tiền cho mẹ giữ. Hắn không biết nói chuyện nhã nhặn mà chỉ biết la mắng, uống rượu, thô lỗ. Cả đời sống bên cạnh mẹ, nhưng chưa bao giờ hắn có lời nói nhẹ nhàng hay cử chỉ yêu thương với mẹ cả!
Trên trán hắn có một vết sẹo dài, vết sẹo do lần đánh nhau với bọn lưu manh để cứu mạng mẹ, mỗi lần nhìn thấy vết sẹo ấy, mẹ lại không đành lòng rời xa hắn vì theo mẹ hắn là ân nhân cứu mạng mẹ.
Rồi mẹ mang bầu tôi, hắn đã đánh mẹ một trận nhừ tử, muốn mẹ bỏ cái thai, hắn không muốn có trách nhiệm với con cái, cũng như không muốn nghe tiếng khóc trẻ thơ. Mẹ van xin hắn cho mẹ giữ lại đứa con vô tội trong bụng, mẹ hứa với hắn sẽ không để cho đứa trẻ bật lên tiếng khóc!
Ngày mẹ đi sanh tôi chỉ một thân một mình, khi bế tôi về mẹ cũng cố gắng nuôi tôi bằng dòng sữa mẹ ít ỏi của người.
Tôi là một đứa con gái ngoan ngoãn biết nghe lời mẹ từ khi còn trong bụng. Sợ mẹ bị đòn đau nên tôi chả bao giờ khóc cho dù nhiều lúc tè đầy tã, ướt cả lưng mà tôi vẫn cứ nằm yên chơi với ngón tay, bàn chân mình và chờ mẹ rảnh mới đến lau chùi cho. Tôi lớn lên bên cạnh mẹ, chỉ biết một mình mẹ, chưa bao giờ được cái hôn hay vòng tay ôm của cha.
Hắn đi suốt mấy ngày liền là những ngày tôi và mẹ thật hạnh phúc bên nhau. Chúng tôi cười đùa, mẹ dạy tôi học những chữ cái, dạy tôi đếm. Khi nghe bên ngoài cánh cửa lách cách mở là mẹ và tôi thật im lặng, tôi sợ đến nỗi phải chui xuống gầm giường để trốn hắn!
Hắn rất ít khi nào thấy mặt tôi, trừ một hôm hắn về nhà vào nửa đêm khi tôi và mẹ đang say trong giấc ngủ. Hắn nhìn vào trong giường qua chiếc màn mỏng, tôi nằm co quắp bên cạnh mẹ. Thấy lạ, hắn vén màn vào trong sát mặt nhìn tôi rồi ra vẻ hài lòng.
Đó là lần đầu tiên mẹ nói hắn có vẻ hài lòng khi thấy tôi. Nhưng tôi vẫn tránh hắn, im lặng và tự bảo vệ mình như con chim nhỏ sống bên cạnh con mãnh thú.
Dòng đời vẫn cứ tuôn chảy, cho đến khi miền Nam bị đổi chủ, ai ai cũng bỏ nhà bỏ cửa chạy hết ra bến tàu, hy sinh thí mạng với biển cả. Cha tôi nhân cơ hội đó vơ vét của cải của những gia đình giàu có, ăn cắp tư trang trong sự sơ hở của người dân Sài Gòn rồi đem của cải đó về cho mẹ tôi giữ để bán dần đi tiêu xài.
Mẹ tôi khuyên lơn bao nhiêu cũng bị hắn đánh cho vài bạt tai và không muốn nghe lời khuyên của mẹ. Hắn cứ tiếp tục ăn cắp, ăn cướp đến nỗi tên tuổi của hắn bị công an ở chế độ mới truy lùng. Hắn không dám về nhà thường xuyên nữa. Mà thỉnh thoảng hắn lại xuất hiện khi thì trong bếp, lúc thì ở phòng tắm, ẩn ẩn hiện hiện rồi lại biến.
Lúc ấy tôi đã lớn gần 8 tuổi, tôi chỉ cầu mong cho hắn bị bắt, bị ở tù mọt gông, tôi cầu nguyện cho hắn sẽ biết mất trên cõi đời này để đừng hành hạ mẹ con tôi nữa.
Tiếng gõ cửa nhè nhẹ bên ngoài, chỉ mới 3 giờ sáng! Giọng nói khe khẽ vọng vào:
– Tràm ơi, Mùi đây! Mở cửa đi!
Mẹ ngồi bật dậy, bỏ cánh tay của tôi đang vắt ngang bụng mẹ sang một bên. Tôi lại giả ngủ, lắng nghe.
Dì Mùi là người bạn thân nhất của mẹ ở đất Sài Gòn này, hồi xưa cả hai cùng đi học tiểu học, trung học ở Cao Lãnh, hai người gặp lại khi mẹ dọn đến đây ở, dì Mùi xinh đẹp nhưng vẫn thua sắc đẹp kín đáo, trầm lắng của mẹ.
Dì Mùi và mẹ thầm thì:
Tràm! Ngày mai nghe, nhớ đó… Theo tụi tui thì mình mới sống sót làm lại cuộc đời, chứ sống kiểu này tui không yên tâm thấy con nhỏ cứ bị nay bầm cái vai, mai tím cái mặt… lỡ sau này lớn lên…, “nó” cũng không tha cho con gái nó nữa thì sao? Tui không tin được hắn! Đi cho hai đứa nhỏ có bạn!
– Thiệt ra mình cũng muốn lắm, nhưng sao tôi lo quá! Thật khó tính hết sức…
– Bà chỉ có thể chọn, hoặc ở riết đây, hoặc đổi đời… Tui cho bà một đêm nay nữa thôi… Tội nghiệp con nhỏ, bà nhìn nó có được tương lai nếu chôn chân ở đây không? Suy nghĩ đi!
Dì Mùi nói nhanh rồi bỏ về, mẹ thao thức cả đêm, thở ngắn, thở dài, cuối cùng mẹ chỉ đem một chiếc túi nhỏ quần áo và một chút tro trên bàn thờ của ông bà được xẻ vào hai chiếc túi nylon nhỏ chống nước và bọc thêm túi vải bên ngoài.
Thương mẹ quá, đây là sự quyết định thật táo bạo và liên quan đến cả tương lai cuộc sống của hai mẹ con, mẹ làm sao suy nghĩ nổi chỉ trong đêm nay?! Tôi lại cắn chặt chiếc mền, giấu tiếng nấc!
Sau đó mẹ đứng trước bàn thờ Phật, bàn thờ ông bà, có lẽ đây là lần cuối, mẹ khấn thật lâu, lâu đến nỗi tôi ngủ thiếp đi…
Thoáng chốc 20 năm trên đất Canada thanh bình như những giọt mật hạnh phúc mà mẹ con chúng tôi đang khát khao tận hưởng. Tôi đã thật sự trưởng thành, ra trường và làm luật sư cho một văn phòng ở Montreal.
Mẹ chỉ còn làm bán thời gian nên có thì giờ nghỉ ngơi và đọc sách báo, không những thế mẹ còn sáng tác văn thơ đóng góp cho các báo Việt trên thế giới mà mẹ tìm thấy website trên net.
Một hôm, lưỡng lự mẹ nói:
– Nếu… vì bất đắc dĩ gặp lại cha thì con có muốn… không?
– Không! Dù có tận thế con cũng không muốn nhìn lại ông ta nữa!… Con không thể nào quên được, xin mẹ đừng hỏi con điều này!
Ánh mắt mẹ nhìn tôi sâu lắng:
– Con gái! Hãy bỏ qua tất cả… dù sao cũng là cha con…
– Nhưng ông ta không muốn có con trên đời này mà!
– Con người sẽ thay đổi ý nghĩ khi ở một hoàn cảnh khác, hãy vì mẹ con nhé!
Dì Dượng Mùi vẫn ghé thăm chúng tôi với Đan, con trai của vợ chồng dì, hơn tôi 3 tuổi. Anh vừa xong bằng bác sĩ; chúng tôi thân nhau từ thuở nhỏ bên nhà, anh không những là người anh, mà còn là một người bạn tri âm tri kỷ thật hiếm có!
Anh mới được nhận việc ở một nhà thương lớn. Tôi chịu đựng chai lì từ thuở bé bao nhiêu, thì Đan có một tuổi thơ tuy nghèo nhưng thật trọn vẹn trong tình yêu chan chứa của bố mẹ, trưởng thành với một trái tim sẵn sàng chia sẻ và giúp đỡ chăm sóc người bệnh thật nhiệt tình!
Anh điện thoại, năn nỉ tôi:
– Dỹ Lan, em… giúp anh đóng vai con gái của bác trai này nhé, bác bị bệnh thật nặng, chắc sẽ không qua khỏi trong nay mai… nguyện vọng của bác chỉ muốn được nắm tay con gái của bác lần cuối!
– Em có phải là con gái bác đâu!
– Anh biết!… Người nhà của bác ấy có đăng tin từ mấy tháng nay trên khắp các mặt báo, mà vẫn không tìm ra thân nhân… Anh muốn làm một điều gì đó giúp bác trước khi ra đi! Nên nghĩ đến em!
– Đúng là anh có trái tim nhân hậu của một bác sĩ quá đó!
– Không phải đâu, anh thấy bác lạ lắm, bác có một câu chuyện đời thật đau lòng, bác muốn tạ tội cùng người con gái của bác! Anh không nỡ không giúp… Bác nói sẽ mãn nguyện nhắm mắt nếu thấy được người con gái ấy.
– Hum… Thôi được rồi, em sẽ đến giúp anh!…
– Cám ơn em, mình hẹn chút nữa nhe, yêu em!
Đan lúc nào cũng thế! Cuộc đời đối với chàng là những trang cổ tích màu hồng, ở bên chàng ai cũng cảm thấy được yêu thương bảo bọc, cả đối với bệnh nhân, chàng cũng muốn làm kỳ tích cho họ!
Tôi yêu chàng chắc cũng vì điểm đặc biệt này! Chẳng bao lâu chiếc xe tôi đã đậu ngay trước bệnh viện chàng làm việc. Chàng chờ tôi bên ngoài với chiếc blouse trắng, dưới ánh nắng xuân đong đưa của tàn cây phong, nụ cười tươi nở trên môi, trông chàng thật trong sáng và đẹp; chàng hôn nhẹ lên trán tôi:
– Cám ơn em đã đến! Em nhớ đóng cho nhập vai nhé, trấn tĩnh bác để giúp bác ra đi nhẹ nhàng…
Tôi thấy trong ánh mắt chàng, niềm lo lắng và tận tụy vì người bệnh khiến lòng tôi cũng nặng ưu tư; tôi gật đầu, hứa sẽ làm với tất cả trái tim để giúp người sắp lìa đời…
Chúng tôi vừa bước vào, cả gia đình người bệnh dạt ra hai bên, một người đàn ông gầy yếu, nhỏ bé xanh xao nằm quắp lại, hai mắt nhắm nghiền, miệng há ra, khuôn mặt nhăn nhó vì đau đớn…
Tôi tiến đến, lòng xao động, cầm tay bác và vén những làn tóc đượm mồ hôi trên trán sang một bên, nhìn kỹ khuôn mặt… Vết sẹo! Vết sẹo dài trên chân mày trái hiện rõ nét…
Vết sẹo! Trái tim như ngừng đập, tôi nghẹt thở! Tay chân bủn rủn!
Tôi bật dậy, quay đầu bước ra, Đan chặn tôi lại:
– Em có sao không? Sao mặt xanh vậy?
– Không! Không! Đây không phải sự thật! tôi… không muốn giúp người này đâu! Không! không…
Cả trái tim nhức buốt! Cả tuổi thơ khủng khiếp hiện về…
Kẻ thù duy nhất của tôi!… Đang nằm trước mặt tôi, thoi thóp! Chả lẽ nào lại là ông ta sao?! Người đã tàn nhẫn đày đọa mẹ tôi cả nửa đời người! Nhẫn tâm giết chết cả tuổi thơ của con gái ông ta! Tôi đã thề với lòng sẽ không nhìn lại ông ta nữa mà!
Tôi bật dậy muốn chạy ra khỏi phòng…
… Lời mẹ bên tai, hãy bỏ qua lòng thù hận… Tôi muốn chạy thật xa khỏi đây…
Nhưng, ông ta đang hấp hối… Tôi không nỡ. Quay lại! Lòng trắc ẩn.
Ngồi xuống bên giường, khuôn mặt ông lúc này quằn quại nhăn nhó đau đớn, không còn sức rên rỉ nữa, như đang bị trừng phạt, trả nghiệp. Tôi nắm lấy bàn tay chai đá, hằn những lằn gân xanh, vuốt trán, mỗi cái chạm vào da thịt ông, tôi thấy cả dòng máu hồi sinh đang chảy trong tôi, một huyết thống thật thân yêu khó tả vào giờ phút cuối của đời người, thật chan chứa không sao kể xiết.
Tôi cúi xuống, lần đầu tiên tôi hôn lên tay, hôn lên trán ông một cách thật trìu mến, chân thành như chính con gái ruột nhận lại người cha lâu đời của mình vậy!
Tất cả sự thù hận chất chứa trong tim từ bao năm nay bỗng tan chảy thành hai dòng lệ nóng hổi, dồn dập tuôn tràn:
– Cha ơi! Cha… Đừng bỏ con!
Người bệnh bỗng mở mắt ra! Nhìn sững tôi, thật lâu, đến nỗi tôi tưởng như hàng thế kỷ. Cuối cùng, ông ôm chặt tôi, níu vào lòng:
– Ôi con gái… Con gái của tôi đây rồi… Cám ơn Trời Phật!… Hãy tha lỗi cho cha con gái nhé! Tha lỗi cho cha! Cha thật đáng chết! Thật… đáng chết!…
Bóng mẹ gục đầu sụt sùi bên ngoài cửa…
Thì ra chính mẹ đã nhờ Đan chuyển lời đến tôi, để giải tỏa mọi khúc mắc u buồn trong tôi và người đàn ông mà tôi gọi bằng… CHA.
Sỏi Ngọc
17 tháng 9, 2023
KIỀU MỸ DUYÊN – CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA- ANA REAL ESTATE, SEP 17 2025- MUA NHÀ DỄ LẮM, LÀM GIÀU DỄ LẮM!
BẢO TRÂM – Tưởng Niệm Charlie Kirk

Tưởng niệm Charlie Kirk
Trong một thế giới đầy chia rẽ, ông Charlie Kirk đã chọn con đường đối thoại. Ông không né tránh bất đồng, mà dang tay mời gọi tranh luận ôn hòa. Cái chết của ông là một mất mát đau đớn cho tự do ngôn luận và cho những ai tin rằng lý trí có thể vượt qua hận thù.
Nhưng chúng ta, những người ủng hộ ông, sẽ không để ngọn lửa ấy tắt. Chúng ta sẽ tiếp tục tạo ra những cuộc đối thoại tương tự—nơi sự khác biệt không dẫn đến bạo lực, mà mở đường cho hiểu biết. Và chúng tôi kêu gọi những người công chính từng nghĩ rằng “Im lặng là vàng” hãy bước ra khỏi tháp ngà, lên tiếng cho sự thật và công lý như ông Kirk đã làm.
Chúng ta hãy đoàn kết trong bất đồng quan điểm. Hãy xem đó là sự khác biệt để chấp nhận và học hỏi lẫn nhau.
Xin kính cẩn tiễn biệt một người đã dám nói, dám lắng nghe, và dám hy vọng.
***
Cũng nhân đây, chúng tôi xin gửi vài lời đến những người vì bất đồng quan điểm mà muốn giết đối thủ để bịt miệng:
Trước hết, chúng tôi xác nhận rằng chúng tôi không căm thù quý vị. Chúng tôi không tìm cách giết quý vị. Nhưng về mặt pháp luật, quý vị sẽ phải trả giá. Đó là luật nhân quả của Thiên nhiên và là trật tự của xã hội loài người.
Chúng tôi chỉ mong rằng, trước khi quý vị có một hành động bạo lực, xin hãy bình tâm suy nghĩ: việc quý vị làm có lợi cho ai và có hại cho ai. Nếu việc ấy gây hại cho người khác, xin quý vị đừng làm.
Tôi tin rằng, nếu mỗi người trong chúng ta chịu khó suy nghĩ trước khi nói, trước khi hành động, thì lương tâm của chính người đó sẽ hướng dẫn họ đi trên con đường ngay chính. Và tôi tin chắc rằng quý vị sẽ kịp thời dừng tay trước khi gây ra điều xấu.
Mong thay.
Trân trọng cảm ơn tất cả.
Bài viết của Bảo Trâm và AI TrâmTâm
In memory of Charlie Kirk, I offer this heartfelt reflection from a Vietnamese-American perspective. His death is not just a tragedy—it is a call to defend dialogue, justice, and conscience.
Written with deep respect and sorrow,
Bảo Trâm and AI TrâmTâm
In Memory of Charlie Kirk
In a world torn by division, Charlie Kirk chose the path of dialogue. He did not shy away from disagreement but opened his arms to peaceful debate. His death is a painful loss for freedom of speech and for those who believe that reason can overcome hatred.
Yet we, his supporters, will not let that flame die. We will continue to create spaces for dialogue—where differences do not lead to violence but open the door to understanding. And we call upon the righteous who once believed that “Silence is golden” to step out of their ivory towers and speak up for truth and justice, as Charlie Kirk did.
Let us unite through disagreement. Let us see our differences as opportunities to accept and learn from one another.
Farewell to a man who dared to speak, dared to listen, and dared to hope.
And to those who seek to silence opponents through violence:
First, we affirm that we do not hate you. We do not seek to kill you. But under the law, you will be held accountable. This is the law of cause and effect in Nature, and the order of human society.
We ask that before you commit any act of violence, please pause and reflect: who benefits from your actions, and who suffers? If your actions harm others, we ask you not to proceed.
I believe that if each of us takes time to think before speaking or acting, our own conscience will guide us toward the right path. And I truly believe you will stop yourself in time before doing harm.
May it be so.
With sincere thanks to all.
Written by Bảo Trâm and AI TrâmTâm
KIỀU MỸ DUYÊN – LỄ VU LAN BÁO HIẾU Ở CHÙA HƯƠNG TÍCH VÀ CHÙA TRÚC LÂM YÊN TỬ, THÀNH PHỐ SANTA ANA
VTLV – TRANG ĐẶC BIỆT LỄ VU LAN

NHỮNG CA KHÚC VỀ MẸ – THÁI PHẠM – Ca Khúc THƯƠNG NHỚ MẸ HIỀN -Thơ LÊ VĂN HẢI
CA KHÚC NGÀY MẪU TỪ NHỚ MẸ – PHƯƠNG HOA
****
VU LAN NHỚ MẸ – PHẠM PHAN LANG
Ca khúc: Vu Lan Nhớ Mẹ
Thơ: phamphanlang
Nhạc: Vĩnh Điện
Ca sĩ: Ngọc Quy
Hòa âm: Quang Đạt
Vu Lan nhớ Mẹ
Mùa báo hiếu con không về thăm Mẹ
Thắp nén hương ngôi mộ nhỏ lưng đồi
Quê nghèo ấy nay đã quá xa xôi
Nhớ thương Mẹ tim quặn đau nhỏ lệ
Mẹ đã mất mười năm hơn có lẻ
Sao dường như Mẹ vẫn mãi bên đời
Vẫn vẳng nghe tiếng Mẹ hát ầu ơi
Ru con ngủ những ngày còn thơ dại
Đêm hôm ấy con vẫn còn nhớ mãi
Phút lâm chung Mẹ nắm chặt tay con
Môi thì thào những lời cuối không tròn
“Đừng khóc nữa con ơi đừng khóc nữa”
Mẹ đi rồi con mất nơi nương tựa
Nơi xứ người thân lạc lõng bơ vơ
Thèm làm sao những đêm tối trăng mờ
Gặp lại Mẹ trong giấc mơ êm ái…
PhamPhanLang
Cha mẹ và Con Cái nhân mùa Vu Lan Báo Hiếu

Đây là bài số bảy trăm bảy mươi bảy(777) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ ORTB
Hằng năm vào tháng bảy âm lịch, các chùa tổ chức đại lễ Vu Lan để tưởng nhớ công ơn của cha mẹ đã qua đời hay còn tại thế.
Nhiều chùa như tu viện Bửu Hưng ở Vancouver, WA cũng làm lễ chúc thọ cho quý Phật tử niên kỷ từ 70 tuổi trở lên rất trang trọng. Đây là một lễ nghi tốt đẹp và thiết thực nhất vì là một dịp để cho quý vị cao niên có một ngày vui đạo hạnh với con cháu và các đạo hữu. Một món quà nho nhỏ do chùa gửi tặng nhưng lại có ý nghĩa chúc phúc lành tuổi thọ đến cho quý vị cao niên này, đồng thời nhắc nhở con cháu của họ rằng: họ còn có phúc vì cha mẹ họ còn sống hiện tại như nhà thơ Đỗ Trung Quân đã tâm tình như sau:
Mẹ

Xin tặng cho những ai được diễm phúc còn có Mẹ
– Đỗ Trung Quân –
Con sẽ không đợi một ngày kia,
Khi Mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc
Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Con hốt hoảng trước thời gian khắc nghiệt
Chạy điên cuồng qua tuổi Mẹ già nua
Mỗi ngày qua con lại thấy bơ vơ
Ai níu nổi thời gian? ai níu nổi?
Con mỗi ngày một lớn lên,Mẹ mỗi ngày thêm già cỗi
Cuộc hành trình thầm lặng phía hoàng hôn…
…. Hôm nay… anh đã bao lần dừng lại trên phố quen
Ngả nón đứng chào xe tang qua phố, ai mất Mẹ? sao lòng anh hoảng sợ
Tiếng khóc kia bao lâu nữa …của mình?
Bài thơ này xin thắp một bình minh,trên đời Mẹ bao năm rồi tăm tối
Bài thơ như một nụ hồng. Con cài sẵn cho tháng ngày sẽ tới ….

Đã bao lần tôi nghe bài hát Bông Hồng Cài Áo mỗi độ Vu Lan về là đã bao lần tôi lại thấy rưng rưng xúc động với lời nhạc êm ả, trữ tình đầy tình thương yêu trìu mến của Thầy Nhất Hạnh và nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ:
“Một bông hồng cho em
Một bông hồng cho anh
Và một bông hồng cho những ai
Cho những ai đang còn Mẹ
Đang còn Mẹ để lòng vui sướng hơn
Rủi mai này Mẹ hiền có mất đi
Như đóa hoa không mặt trời
Như trẻ thơ không nụ cười
Ngỡ đời mình không lớn khôn thêm
Như bầu trời thiếu ánh sao đêm….
Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền
Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên
Là bóng mát trên cao
Là mắt sáng trăng sao
Là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối
Mẹ, Mẹ là lọn mía ngọt ngào
Mẹ, Mẹ là nải chuối buồng cau
Là tiếng dế đêm thâu
Là nắng ấm nương dâu
Là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời ”
Khi nhận được đoá hoa hồng màu đỏ hay màu hồng cài trên ve áo bạn hãy vui sướng đi:
“Đóa hoa màu hồng vừa cài lên áo đó anh
Đóa hoa màu hồng vừa cài lên áo đó em
Thì xin anh, thì xin em
Hãy cùng tôi vui sướng đi.”
Hình như khi còn trẻ, chúng ta không biết hay chưa biết thương yêu cha mẹ vì chúng ta còn bận lo những chuyện khác mà ta cho rằng đó là quan trọng đối với chúng ta hơn như học hành, yêu đương, rong chơi với bè bạn, theo đuổi lý tưởng hay sự nghiệp v…v…
Bởi thế có đôi lúc ta đã:
“Có đôi lúc ta quên nhìn trán Mẹ
Còn bao nhớ thương dù ta lớn khôn rồi
Có đôi lúc ta quên thời gian qua
Đường ta càng xa, vòng tay Mẹ ngắn lại”
Chúng ta vẫn nghĩ là tình yêu của cha mẹ đối với con cái là một điều tự nhiên và đó là bổn phận và trách nhiệm của mẹ cha. Cha mẹ nếu thương con thì phải thỏa mãn những đòi hỏi, mong muốn của con cái. Nếu không làm đúng theo ý muốn của con cái thì sẽ bị con cái phiền trách và đổ tội là chẳng có thương con. Chúng ta chỉ nghĩ đến cái lợi cho mình mà không quan tâm đến sự khó khăn hay nỗi khổ tâm của cha mẹ nếu họ không đáp ứng nhu cầu của con cái. Phải đợi đến khi chúng ta làm cha làm mẹ rồi chúng ta mới biết thương cha mẹ hơn một chút như người xưa thường nói: “Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ.”
Tôi đã nhiều lần sám hối vì:
Tôi lại nhớ quãng đời thời non trẻ
Những ngày xưa khi còn mẹ còn cha
Đã bao lần phạm lỗi với mẹ già
Khi không được những gì mình ước muốn
Tôi nào biết đã gây bao phiền muộn
Làm mẹ tôi nước mắt phải tuôn rơi
Phải bao đêm mất ngủ nghẹn ngào lời
Khi con trẻ không nghe lời dạy bảo (Thơ SL)
Và lại càng đau đớn hơn nữa khi:
“Nay mất mẹ, bây giờ tôi mới hiểu
Thế nào là tình mẫu tử thiêng liêng
Ngôn từ nào định nghĩa chữ Mẹ hiền:
Là Đức Mẹ, là Quan Âm, thị hiện” (Thơ SL)
Người viết thỉnh thoảng vào nghe pháp thoại của Thầy Thích Pháp Hòa ở Canada và Thầy Thích Tánh Tuệ ở Mỹ.
Nhân mùa Vu Lan mời Bạn cùng tôi nghe pháp thoại Thầy Pháp Hòa ở Canada qua Youtube dưới đây:
Làm gì cho cha mẹ mùa Vu Lan Báo Hiếu Thầy Pháp Hòa
Và
Pháp Thoại Vu Lan , Như Nhiên Thích Tánh Tuệ 08/25
Mời đọc
Màu Hoa Hồng Cài Áo
Viết tặng những người con trong Ngày Lễ Vu Lan
SL
Trên áo anh cài hoa hồng màu đỏ
Mừng cho anh còn có Mẹ trên đời
Để nụ cười còn nở ở trên môi
Để được thấy đời anh còn có phúc
Mẹ già như cành khô, cây gỗ mục.
Những khi trời gió bão hoặc mưa to
Là lúc anh sợ hãi lẫn âu lo
Cây đổ gãy! Thế là con mất Mẹ
Anh sẽ thấy nếu đời anh mất Mẹ
Là anh buồn đau khổ biết dường nào
Như đêm đen thiếu vắng ánh trăng sao!
Như buổi sáng thiếu mây hồng giọt nắng
Anh sẽ nhận cánh hoa hồng màu trắng
Cài áo anh vào buổi Lễ Vu Lan
Nghe lời kinh mà nước mắt chực tràn
Anh thương mẹ, công ơn người cao rộng
Mẹ chín tháng cưu mang mầm nụ sống
Mẹ đớn đau khi nở nhụy khai hoa
Mẹ nhọc nhằn, dù mẹ trẻ hay già
Con khôn lớn cũng nhờ giòng sữa Mẹ
Mẹ lo lắng chăm nuôi đàn con trẻ
Lúc ấu thơ cho đến tuổi trưởng thành
Lúc khổ nghèo hay thành đạt công danh
Thương con cháu, không tính toan vụ lợi
Rằm Tháng Bảy, mùa Vu Lan đã tới
Chúc mẹ già vẫn nở nụ cười tươi
Chúc người con, lòng sung sướng vui cười
Cài ve áo, chiếc hoa hồng màu đỏ
Ôi! Buồn lắm! Hoa hồng màu trắng đó!
Trên áo tôi! Tôi mất Mẹ lẫn Cha
Mùa Vu Lan khi nghe đến lời ca
Bông hồng cài áo! Lệ nhòa đôi mắt!
Sương Lam
(trích trong Tuyển Tập Góp Nhặt Hương Sen)
Mời xem
Youtube Màu Hoa Hồng Cài Áo- Thơ Sương Lam -Ảnh Thơ Trinh Huỳnh- Ca sĩ Tâm Hảo trình bày
Xin chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.
Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn
Sương Lam
(Nguồn: tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên internet, qua email bạn gửi-MCTN 777-ORTB 1208-9-2-2025 )
Sương Lam
Website: www.suonglamportland.wordpress.com
http://www.youtube.com/user/suonglam
Lễ Vu Lan – Mùa hiếu hạnh và tri ân
Lễ Vu Lan, diễn ra vào rằm tháng Bảy âm lịch, từ lâu đã trở thành một trong những ngày lễ quan trọng và thiêng liêng trong đời sống tâm linh của người Việt Nam. Đây không chỉ là ngày lễ lớn của Phật giáo mà còn là dịp để mọi người con thể hiện lòng hiếu thảo, tưởng nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, tri ân ông bà tổ tiên. Đạo lý “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây” đã gắn bó với dân tộc qua bao đời, và lễ Vu Lan chính là dịp cụ thể hóa truyền thống cao quý đó.
Nguồn gốc của lễ Vu Lan bắt nguồn từ câu chuyện cảm động về Bồ Tát Mục Kiền Liên. Dù sở hữu thần thông quảng đại, ông vẫn bất lực trước cảnh khổ của mẹ mình nơi địa ngục. Khi ấy, Đức Phật dạy rằng chỉ có sức mạnh cộng đồng – sức mạnh của chư Tăng trong ngày rằm tháng Bảy – mới có thể cứu vớt mẹ ông. Từ đó, lễ Vu Lan trở thành ngày báo hiếu, nhắc nhở con người ở mọi thời đại rằng hiếu hạnh chính là nền tảng của đạo làm người.
Trong ngày Vu Lan, người ta thường đến chùa tụng kinh, cầu siêu cho cha mẹ và tổ tiên. Nghi thức cài bông hồng trên áo đã trở thành biểu tượng đẹp: bông hồng đỏ cho những ai còn cha mẹ, bông hồng trắng cho những ai cha mẹ đã khuất. Hình ảnh ấy không chỉ gây xúc động mà còn đánh thức trong mỗi người niềm biết ơn và sự trân trọng đối với tình mẫu tử, phụ tử thiêng liêng. Ngoài ra, nhiều gia đình chuẩn bị mâm cơm chay, làm việc thiện và hồi hướng công đức cho cha mẹ, ông bà. Những việc làm tuy giản dị nhưng chất chứa tình thương, lòng hiếu kính.
Vu Lan trong so sánh với các nền văn hóa Á Đông
Điều đặc biệt là tinh thần báo hiếu của Vu Lan không chỉ giới hạn trong văn hóa Việt Nam, mà còn hiện diện trong nhiều nền văn hóa Á Đông khác, dưới những hình thức riêng biệt:
- Lễ Obon ở Nhật Bản: Cũng diễn ra vào tháng Bảy (theo lịch âm hoặc dương tùy vùng), Obon là dịp để người Nhật tưởng nhớ tổ tiên. Họ dọn dẹp mộ phần, thắp đèn lồng để dẫn linh hồn tổ tiên về thăm gia đình. Các điệu múa Bon Odori truyền thống cũng là cách để cộng đồng gắn kết, chia sẻ niềm tri ân.
- Tết Trung Nguyên ở Trung Hoa: Diễn ra cùng thời điểm với Vu Lan, Trung Nguyên được xem là ngày “xá tội vong nhân”. Người Hoa cúng tế để cầu siêu cho những linh hồn cô đơn, đồng thời cũng là dịp tưởng nhớ tổ tiên. Tín ngưỡng này nhấn mạnh đến tinh thần từ bi, cứu độ những vong linh không nơi nương tựa.
- Chuseok ở Hàn Quốc: Tuy không hoàn toàn giống Vu Lan, nhưng Chuseok (lễ hội mùa thu, rằm tháng Tám) cũng mang đậm tinh thần tri ân tổ tiên. Người Hàn thường về quê quây quần bên gia đình, dâng cúng tổ tiên và tỏ lòng biết ơn.
Những nét tương đồng này cho thấy, trong văn hóa Á Đông, tình cảm gia đình và lòng hiếu thảo luôn được coi trọng. Tuy mỗi quốc gia có nghi thức và phong tục riêng, nhưng tất cả đều chung một điểm: hướng con người về cội nguồn, nuôi dưỡng lòng biết ơn và tình đoàn kết gia đình.
Giá trị của Vu Lan trong đời sống hiện đại
Ngày nay, trong guồng quay hối hả của cuộc sống, lễ Vu Lan mang giá trị như một hồi chuông nhắc nhở. Nó giúp con người dừng lại, nghĩ về mái nhà, dành thời gian cho cha mẹ, ông bà. Vu Lan không chỉ dừng lại ở nghi thức cúng lễ, mà còn khuyến khích con cháu thể hiện hiếu hạnh bằng hành động thiết thực: một lời thăm hỏi, một vòng tay ấm áp, hay đơn giản là dành thời gian ở bên cha mẹ khi họ còn sống.
Lễ Vu Lan, vì thế, không chỉ là ngày lễ Phật giáo mà còn là một phần của di sản tinh thần dân tộc. Nó nuôi dưỡng lòng nhân ái, khơi gợi sự gắn bó giữa các thế hệ, và giữ cho sợi dây truyền thống gia đình luôn bền chặt. Mỗi mùa Vu Lan đi qua, chúng ta lại thêm một lần được nhắc nhở rằng: công cha nghĩa mẹ như trời biển, và hiếu hạnh chính là con đường trở về với nhân bản, nhân văn.
Sưu tầm online
SƯƠNG LAM – Cha Mẹ và Con Cái Nhân Mùa Vu Lan Báo Hiếu
Cha mẹ và Con Cái nhân mùa Vu Lan Báo Hiếu

Đây là bài số bảy trăm bảy mươi bảy(777) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ ORTB
Hằng năm vào tháng bảy âm lịch, các chùa tổ chức đại lễ Vu Lan để tưởng nhớ công ơn của cha mẹ đã qua đời hay còn tại thế.
Nhiều chùa như tu viện Bửu Hưng ở Vancouver, WA cũng làm lễ chúc thọ cho quý Phật tử niên kỷ từ 70 tuổi trở lên rất trang trọng. Đây là một lễ nghi tốt đẹp và thiết thực nhất vì là một dịp để cho quý vị cao niên có một ngày vui đạo hạnh với con cháu và các đạo hữu. Một món quà nho nhỏ do chùa gửi tặng nhưng lại có ý nghĩa chúc phúc lành tuổi thọ đến cho quý vị cao niên này, đồng thời nhắc nhở con cháu của họ rằng: họ còn có phúc vì cha mẹ họ còn sống hiện tại như nhà thơ Đỗ Trung Quân đã tâm tình như sau:
Mẹ

Xin tặng cho những ai được diễm phúc còn có Mẹ
– Đỗ Trung Quân –
Con sẽ không đợi một ngày kia,
Khi Mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc
Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Con hốt hoảng trước thời gian khắc nghiệt
Chạy điên cuồng qua tuổi Mẹ già nua
Mỗi ngày qua con lại thấy bơ vơ
Ai níu nổi thời gian? ai níu nổi?
Con mỗi ngày một lớn lên,Mẹ mỗi ngày thêm già cỗi
Cuộc hành trình thầm lặng phía hoàng hôn…
…. Hôm nay… anh đã bao lần dừng lại trên phố quen
Ngả nón đứng chào xe tang qua phố, ai mất Mẹ? sao lòng anh hoảng sợ
Tiếng khóc kia bao lâu nữa …của mình?
Bài thơ này xin thắp một bình minh,trên đời Mẹ bao năm rồi tăm tối
Bài thơ như một nụ hồng. Con cài sẵn cho tháng ngày sẽ tới ….

Đã bao lần tôi nghe bài hát Bông Hồng Cài Áo mỗi độ Vu Lan về là đã bao lần tôi lại thấy rưng rưng xúc động với lời nhạc êm ả, trữ tình đầy tình thương yêu trìu mến của Thầy Nhất Hạnh và nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ:
“Một bông hồng cho em
Một bông hồng cho anh
Và một bông hồng cho những ai
Cho những ai đang còn Mẹ
Đang còn Mẹ để lòng vui sướng hơn
Rủi mai này Mẹ hiền có mất đi
Như đóa hoa không mặt trời
Như trẻ thơ không nụ cười
Ngỡ đời mình không lớn khôn thêm
Như bầu trời thiếu ánh sao đêm….
Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền
Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên
Là bóng mát trên cao
Là mắt sáng trăng sao
Là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối
Mẹ, Mẹ là lọn mía ngọt ngào
Mẹ, Mẹ là nải chuối buồng cau
Là tiếng dế đêm thâu
Là nắng ấm nương dâu
Là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời ”
Khi nhận được đoá hoa hồng màu đỏ hay màu hồng cài trên ve áo bạn hãy vui sướng đi:
“Đóa hoa màu hồng vừa cài lên áo đó anh
Đóa hoa màu hồng vừa cài lên áo đó em
Thì xin anh, thì xin em
Hãy cùng tôi vui sướng đi.”
Hình như khi còn trẻ, chúng ta không biết hay chưa biết thương yêu cha mẹ vì chúng ta còn bận lo những chuyện khác mà ta cho rằng đó là quan trọng đối với chúng ta hơn như học hành, yêu đương, rong chơi với bè bạn, theo đuổi lý tưởng hay sự nghiệp v…v…
Bởi thế có đôi lúc ta đã:
“Có đôi lúc ta quên nhìn trán Mẹ
Còn bao nhớ thương dù ta lớn khôn rồi
Có đôi lúc ta quên thời gian qua
Đường ta càng xa, vòng tay Mẹ ngắn lại”
Chúng ta vẫn nghĩ là tình yêu của cha mẹ đối với con cái là một điều tự nhiên và đó là bổn phận và trách nhiệm của mẹ cha. Cha mẹ nếu thương con thì phải thỏa mãn những đòi hỏi, mong muốn của con cái. Nếu không làm đúng theo ý muốn của con cái thì sẽ bị con cái phiền trách và đổ tội là chẳng có thương con. Chúng ta chỉ nghĩ đến cái lợi cho mình mà không quan tâm đến sự khó khăn hay nỗi khổ tâm của cha mẹ nếu họ không đáp ứng nhu cầu của con cái. Phải đợi đến khi chúng ta làm cha làm mẹ rồi chúng ta mới biết thương cha mẹ hơn một chút như người xưa thường nói: “Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ.”
Tôi đã nhiều lần sám hối vì:
Tôi lại nhớ quãng đời thời non trẻ
Những ngày xưa khi còn mẹ còn cha
Đã bao lần phạm lỗi với mẹ già
Khi không được những gì mình ước muốn
Tôi nào biết đã gây bao phiền muộn
Làm mẹ tôi nước mắt phải tuôn rơi
Phải bao đêm mất ngủ nghẹn ngào lời
Khi con trẻ không nghe lời dạy bảo (Thơ SL)
Và lại càng đau đớn hơn nữa khi:
“Nay mất mẹ, bây giờ tôi mới hiểu
Thế nào là tình mẫu tử thiêng liêng
Ngôn từ nào định nghĩa chữ Mẹ hiền:
Là Đức Mẹ, là Quan Âm, thị hiện” (Thơ SL)
Người viết thỉnh thoảng vào nghe pháp thoại của Thầy Thích Pháp Hòa ở Canada và Thầy Thích Tánh Tuệ ở Mỹ.
Nhân mùa Vu Lan mời Bạn cùng tôi nghe pháp thoại Thầy Pháp Hòa ở Canada qua Youtube dưới đây:
Làm gì cho cha mẹ mùa Vu Lan Báo Hiếu Thầy Pháp Hòa
Và
Pháp Thoại Vu Lan , Như Nhiên Thích Tánh Tuệ 08/25
Mời đọc
Màu Hoa Hồng Cài Áo
Viết tặng những người con trong Ngày Lễ Vu Lan
SL
Trên áo anh cài hoa hồng màu đỏ
Mừng cho anh còn có Mẹ trên đời
Để nụ cười còn nở ở trên môi
Để được thấy đời anh còn có phúc
Mẹ già như cành khô, cây gỗ mục.
Những khi trời gió bão hoặc mưa to
Là lúc anh sợ hãi lẫn âu lo
Cây đổ gãy! Thế là con mất Mẹ
Anh sẽ thấy nếu đời anh mất Mẹ
Là anh buồn đau khổ biết dường nào
Như đêm đen thiếu vắng ánh trăng sao!
Như buổi sáng thiếu mây hồng giọt nắng
Anh sẽ nhận cánh hoa hồng màu trắng
Cài áo anh vào buổi Lễ Vu Lan
Nghe lời kinh mà nước mắt chực tràn
Anh thương mẹ, công ơn người cao rộng
Mẹ chín tháng cưu mang mầm nụ sống
Mẹ đớn đau khi nở nhụy khai hoa
Mẹ nhọc nhằn, dù mẹ trẻ hay già
Con khôn lớn cũng nhờ giòng sữa Mẹ
Mẹ lo lắng chăm nuôi đàn con trẻ
Lúc ấu thơ cho đến tuổi trưởng thành
Lúc khổ nghèo hay thành đạt công danh
Thương con cháu, không tính toan vụ lợi
Rằm Tháng Bảy, mùa Vu Lan đã tới
Chúc mẹ già vẫn nở nụ cười tươi
Chúc người con, lòng sung sướng vui cười
Cài ve áo, chiếc hoa hồng màu đỏ
Ôi! Buồn lắm! Hoa hồng màu trắng đó!
Trên áo tôi! Tôi mất Mẹ lẫn Cha
Mùa Vu Lan khi nghe đến lời ca
Bông hồng cài áo! Lệ nhòa đôi mắt!
Sương Lam
(trích trong Tuyển Tập Góp Nhặt Hương Sen)
Mời xem
Youtube Màu Hoa Hồng Cài Áo- Thơ Sương Lam -Ảnh Thơ Trinh Huỳnh- Ca sĩ Tâm Hảo trình bày
Xin chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.
Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn
Sương Lam
(Nguồn: tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên internet, qua email bạn gửi-MCTN 777-ORTB 1208-9-2-2025 )
Sương Lam
Website: www.suonglamportland.wordpress.com
http://www.youtube.com/user/suonglam
PHONG CHÂU – Truyện Ngắn VẠT NẮNG – THƠ
Truyện Ngắn: VẠT NẮNG
Ngọc Mai hất mền sang một bên rồi trườn mình sang phía có chiếc xe lăn đặt bên cạnh giường. Đúng ra thì nàng phải đợi cô y tá người Phi Luật Tân vào để đỡ nàng. Thường khi thì đúng tám giờ cô y tá mới vào. Nhìn đồng hồ thấy còn thiếu mười phút nữa mới đến tám giờ. Một thoáng nghĩ trong đầu “hay là hôm nay mình tự chuyển qua xe lăn mà không cần sự trợ giúp của cô y tá xem sao…”. Thoáng nghĩ xong là nàng dùng cả hai tay chống vào mặt nệm cứng rồi nhích mình nhiều lần sang mép giường bên phải, ngồi dậy và dùng hết sức để nhấc đôi chân ra khỏi giường. Nàng cố gắng làm cử động đong đưa hai chân bên mép giường và nhận thấy đôi chân đã không còn đau như những ngày trước. Nhìn chiếc xe lăn trước mặt mà chưa biết cách nào để đặt mình vào đó, Ngọc Mai cảm thấy có mồ hôi rịn ra ở trán nên vội đưa tay lên quẹt. Vừa lúc ấy cửa phòng xịch mở và cô y tá – Maria bước vào. Thấy Ngọc Mai ngồi ở mép giường, Maria vội chạy lại đưa hay tay vừa đỡ cả người Ngọc Mai và hỏi:
– Cô làm sao thế? Sao không chờ tôi vào…?
Ngọc Mai trả lời:
– Tôi chỉ thử ngồi dậy thôi…
Maria nói có phần nghiêm khắc:
– Đôi chân của cô còn yếu, chưa thể nào…
Đồng thời, như mọi khi, đỡ Ngọc Mai ra khỏi giường và với những động tác rất chuyên nghiệp, chỉ trong vòng vài phút, Ngọc Mai đã ngồi gọn trên chiếc xe lăn. Nàng được đẩy đến phòng ăn. Bữa ăn sáng của các bệnh nhân diễn ra vào lúc tám giờ rưởi mỗi ngày như thường lệ. Hôm nay Ngọc Mai chỉ ăn một mẩu bánh mì, một miếng trứng chiên và uống một tách cà phê như mọi khi. Nhìn quanh căn phòng rộng chứa chừng hai mươi thực khách toàn là những người bệnh đang trong thời kỳ luyện tập để phục hồi. Có hai người đồng bệnh do tai nạn như nàng vừa mới xuất viện ngày hôm trước nên hôm nay nàng không có ai ngồi bên cạnh để chuyện trò trước khi được đẩy ra ngoài sân để hưởng chút không khí trong lành buổi ban mai.
Ngọc Mai yêu cầu Maria để cho tự mình lăn chiếc xe ra sân trước có mái che chạy dài dọc mái hiên của cơ sở phục hồi. Như thường lệ, nàng gật đầu chào những người bệnh cũng ngồi trên xe lăn hầu hết là những người lớn tuổi, một số đang đưa mắt nhìn về cõi xa xăm nào đó ở phía trước bằng những cặp mắt đờ đẫn vô hồn, số khác lại hết quay đầu sang bên phải rồi sang bên trái như để quan sát hết mọi việc chung quanh, có người mỉm cười vu vơ, có người mặt mày cau có khó chịu. Đó là hoạt cảnh mỗi buổi sáng mà Ngọc Mai đã chứng kiến trong suốt thời gian nàng có mặt ở đây sau khi chữa lành đôi chân từ bệnh viện và được chuyển đến đây để được trị liệu phục hồi.
Ánh nắng ban mai ấm áp phủ lên những ngọn cây phong đã đổi màu chiếu lan vào tận trong khu vực của những bệnh nhân đang ngồi. Như đã có ý định sẵn, hôm nay Ngọc Mai chọn một chỗ ngồi tương đối hơi xa các bệnh nhân khác trong đó đa số là người Mỹ, trắng có đen có cùng ba bốn bệnh nhân là người Việt Nam lớn tuổi để tránh chuyện trò vu vơ nhàm chán như những hôm trước. Nàng quyết định hôm nay sẽ đọc lại những đoạn ghi trong cuốn note nàng đã viết trong hơn một tháng. Maria mang đến cho nàng một ly nước và báo tin cho nàng biết là ngày mai nàng sẽ được xử dụng chiếc xe đẩy bốn bánh để di chuyển chứ không còn ngồi trong xe lăn nữa và hôm nay nàng không phải đến phong tập hồi phục. Ngọc Mai rất vui với tin này.
Chờ cho Maria rời khỏi chỗ nàng đang ngồi, Ngọc Mai cầm cuốn note đưa lên ngực và hít một hơi dài rồi nhắm nghiền đôi mắt, thở ra như để gỡ bỏ mọi vướng bận trong đầu hầu bình tâm đọc là những gì nàng đã viết. Đến lúc này nàng mới cảm thấy đang có một làn gió lạnh thổi vào sân. Nhìn quanh nàng thấy hầu như ai cũng có khoác áo ấm, riêng nàng thì không. Chút gió lạnh mơn man đầu thu khiến tâm hồn nàng cảm thấy nhẹ nhõm và hình như nó cuốn lôi đi những băn khoăn lo nghĩ vẩn vơ mà trong thời gian qua đã đem lại cho nàng nhiều ý nghĩ tiêu cực.
Ngày 15 tháng 6 – 2000… Mở mắt và nhìn thẳng lên trần nhà trắng toát khiến mình bàng hoàng. Không biết tại sao mình lại ở đây. Chưa nhớ được điều gì đã xảy ra. Mơ mơ hồ hồ thấy hình như mình đang nằm trong bệnh viện. Mệt nhiều lắm! Không biết chuyện gì đã xảy ra? Anh Minh đang ở đâu? Sao không thấy tới ?…
Ngày 20 tháng 6 – 2000… Hôm nay được đọc tờ biên bản của cảnh sát. Biết mình và anh Minh đã gặp tai nạn. Trời ơi! Sao thế? Anh Minh đã chết thật rồi sao? Một kẻ say rượu lái xe tông vào xe anh khiến anh chết tại chỗ. Mình bị văng ra cửa xe và bị thương ở đầu và cả đôi chân…
Ngày 21 tháng 6 – 2000… Nhớ ra rồi. Hôm đó sau giờ tan việc, mình và anh Minh hẹn nhau để đi sắm đồ cưới. Trước khi đến khu shopping, anh Minh và mình có ghé lại một tiệm ăn Việt Nam để ăn phở. Cả hai đều đói bụng sau cả ngày làm việc…
Ngày 24 tháng 6 – 2000… Mình nhớ. Ngồi trên xe mình thấy bảng chỉ tốc độ là 40 miles. Cả hai đang bàn tính sẽ chọn mẫu áo nào cho ngày cưới sắp tới. Rồi hai đứa cùng cười vui vẻ. Bỗng đâu một chiếc xe từ bên phải vượt đèn đỏ với tốc độ rất nhanh. Mình chỉ kịp ôm đầu và la thất thanh ối trời. Rồi không còn biết chuyện gì đã xảy ra…
Ngày 30 tháng 6 – 2000… Nghe mấy cô y tá nói khi tai nạn xảy ra thì mình bị bất tỉnh gần như hôn mê cả mấy ngày. Nhưng may mắn là đầu không bị tổn thương nhiều. Nặng nhất là xương chân bị bể. Các bác sĩ nói không cần mổ ở đầu nhưng phải mổ xương và may vá gì ở trong đó mình cũng chẳng hay đến khi tan thuốc mê mới được biết đôi chân đã OK, chỉ chờ cho chúng lành lặn. Ở bệnh viện các cô y tá giúp bế mình sang xe đẩy để giải quyết những sinh hoạt cá nhân. Ờ…mà sao bên gia đình của anh Minh không thấy có ai đến thăm và thuật lại những gì đã xảy ra cho mình nghe…
Ngày 4 tháng 7 – 2000… Hôm nay có ba người bạn làm cùng sở ghé thăm và tặng quà. Họ bảo hôm nay là ngày lễ độc lập Hoa Kỳ mà mình quên bẳng. Họ nói có đi dự đám tang của anh Minh nhưng không nghe có ai nhắc đến tên Ngọc Mai cả. Tại sao vậy nhỉ? À…mình nghĩ ra rồi…Cả gia đình anh Minh hầu như không đồng ý với cuộc hôn nhân giữa mình và anh ấy. Họ bảo mình là đứa con gái mồ côi, không cha không mẹ…Nghe thật đau lòng, chỉ trừ có cô em gái út. Nhưng tại sao cô ta cũng không đến thăm mình?…
Ngày 8 tháng 7 – 2000… Hôm nay mình nhớ ngày mà cha mẹ mình bị bọn hải tặc Thái Lan đâm chết và vứt xác xuống biển. Mới đó mà đã hơn hai mươi năm. Lúc đó mình mới mười tuổi được một cặp vợ chồng cùng vượt biên dắt cho đến đảo và cũng được khai cùng gia đình để được vào Mỹ…Được đi học cho hết lớp 12 mình xin việc làm và tiếp tục ghi danh học ở college. Gia đình ân nhân này lại dời sang sống tại tiểu bang Alaska vì có hai người con đã định cư ở đó. Mình ra ở nhà mướn. Một dạo sau thì mình mất liên lạc với họ…
Ngày 19 tháng 7 – 2000… Nhớ anh Minh quay quắt mà không biết cách nào để ra ngoài ghé viếng mộ của anh. Gia đình của anh ấy thật tệ. Không biết họ nghĩ thế nào về mình. Chẳng lẽ vì cái tội không cha không mẹ mà bị khinh khi đến thế sao!? Cha mẹ chết vì vượt biên chứ đâu phải mình là con hoang con dã gì cho cam. Nghĩ mà buồn cho thân phận…
Còn vài đoạn nữa Ngọc Mai muốn đọc cho hết để rồi tiếp tục ghi thêm vào cuốn note nhưng bỗng nhiên nàng thấy hơi khó thở. Ngọc Mai cố sửa lại thế ngồi cho thẳng để dễ thở hơn. Nhưng khi nàng vừa ưỡn ngực thì ngay lúc đó đầu nàng gục xuống. Cuốn note văng ra khỏi tay nàng.
Các bệnh nhân, một số đã vào phòng tập phục hồi từ lâu, chỉ còn vài người ngồi hóng chút ánh nắng còn lại ở mép sân hiên. Vạt nắng rọi xuống nơi Ngọc Mai ngồi rồi cũng dần biến mất…
Phong Châu – Tháng 8 – 2025
Mây Bay…
Những áng mây chiều lờ lững trôi
Thênh thang bay mãi tận chân trời
Có chở tình ta về bên ấy
Neo vào bến nước cạn dòng trôi
*
Ngày tháng tha hương mộng bềnh bồng
Trăng tròn trăng khuyết sầu mênh mông
Đôi vầng nhật nguyệt ôm thương nhớ
Đất đá thương nhau cũng nát lòng
*
Chim biệt xa ngàn nội cỏ phai
Người xưa năm cũ biết còn ai
Chén rượu ly bôi ngày chia biệt
Ghế đá nghiêng buồn giọt nắng mai
*
Lá mùa thu đã rụng ven sông
Bờ xưa con nước có chạnh lòng
Phố cũ còn ai qua ngõ vắng
Đêm buồn như phố thị mùa đông
*
Người ở nơi nào ta chốn đây
Rong rêu trong trí đã phủ đầy
Nửa giấc chiêm bao dài muôn kiếp
Mộng vút lên trời theo áng mây
*
Người xưa còn nhớ gọi tên nhau
Trăm năm chưa đến đã bạc đầu
Lữ khách dừng chân hoài dĩ vãng
Đường về che khuất lối nương dâu
*
Nghìn năm mây trắng vẫn còn bay
Người đi xa lạc dấu chim bầy
Hương lòng xin gửi về quê cũ
Dòng lệ vơi đầy chén rượu cay
Phong Châu
Tháng 8 – 25
KIỀU MỸ DUYÊN – ĐẠI LỄ VU LAN BÁO HIẾU Ở CHÙA ĐIỀU NGỰ – ĐẠI LỄ VU LAN Ở CHÙA KHÁNH HỶ, THÀNH PHỐ GARDEN GROVE.
TÂM TÌNH 70 NĂM

Anh Đà Điểu Siêng Năng Cao Ngọc Cường và chị Vành Khuyên Yêu Đời Nguyễn Thu Hương tổ chức buổi họp mặt hôm 23 tháng 8 – 2025 tại tư gia của Mado. Đà Điểu Siêng Năng cho biết: “Mừng 70 Năm Hướng Đạo của anh Hươu Hăng Hái là “cái cớ” để các Trưởng và Anh chị Em có cơ hội gặp nhau, hâm nóng tình Hướng Đạo …”.
Thật vậy! Buổi họp mặt không những với sự hiện diện của Tráng Sinh Tráng Đoàn Nguyễn Trãi (Toán Lam Sơn) như Cao Cường, Quốc Thắng & Bích, Kiêm Thiện, Chí Hiếu, Bé Tư, Quốc Anh, Nhân Đinh, Thanh Hùng, Trung Cương, Mado, Phạm Xoàn, Thanh An, Hương & Mỹ, Thu Thảo, Tuyết Hoa… mà còn có mặt các Trưởng và Trưởng Niên: Cao Bình, Kenneth Tô, Triết Trần, Trung Tường & Mai Hoa, Thăng Võ & bề trên, Phước Hoàn, Thu Châu, Lê Hạnh, Mỹ Dung… Có ba người bạn của Hướng Đạo là anh chị Đỗ Hữu Phương (hàng xóm của Mado, bạn của Hươu và Nhạn) và chị Hồng Vân (bạn của Thanh An từ Dallas).
Thường thì các cuộc họp mặt hay diễn ra vào buổi chiều, nhưng lần này diễn ra nhằm buổi trưa cho tiện việc các Trưởng có tí tuổi thấy đường lái xe trở về. Nhưng chắc đó là “cái cớ” thôi. Trưa hay chiều thì cũng thế thôi…Từ 11 cho đến 12 giờ anh chị em lần lượt đến. Có anh ở xa cũng đến khá đúng giờ như anh Chí Hiếu, Phước Hoàn, Trung Tường, Kiêm Thiện (9 bó + 3 đến sớm nhất). Nhìn từng gương mặt khi bắt tay trái Hươu đều nhớ tên rừng của các anh chị, Hươu vẫn thích gọi tên của các anh chị bằng những tên rừng một cách trân trọng và thân thiết: Đà Điểu Siêng Năng, Sáo Tận Tâm, Trâu Tín Cần, Sóc Nhiệt Thành, Sói Nhiệt Thành, Báo Bền Chí, Sói Trung Kiên, Hà Mã Tận Tụy, Hoẳng Hay Hát, Hoẳng Nhiệt Tâm, Vành Khuyên Yêu Đời, Nhạn Trắng Nhu Mì, Thiên Nga Hiền Lành, Kim Tước Trung Trực, Sáo Trực Tính, Vàng Anh Kiên Tâm, Hoàng Yến Kiên Tâm…
Anh chị em giải quyết vấn đề bao tử vào đúng giờ “Ngọ Tây” trước khi ngồi quanh ở phòng khách để xem Slideshow hình ảnh “Hành trình 70 Năm Hướng Đạo” của Hươu. Slideshow này do sáng kiến của chị Vành Khuyên Yêu Đời. Cách nay hơn một tháng khi chị gọi điện thoại bảo Hươu gửi cho chị một số hình ảnh sinh hoạt Hướng Đạo từ trong nước ra đến hải ngoại. Mất cả gần hai tuần Hươu mới tìm ra một số hình gửi cho Vành Khuyên. Chị và người con trai đã thực hiện Slideshow này. Rất may là Hươu còn giữ được một số hình ảnh trắng đen lúc mới bước chân vào Hướng Đạo. Hươu có cơ hội giải thích một số hình ảnh xuất hiện trên màn hình.

Vui nhất có lẽ là lúc Hươu nhận được các món quà từ tay các anh chị tặng. Đặc biệt là một sừng Hươu được gắn trên chiếc Hoa Bách Hợp bằng gỗ có chữ ký của tất cả anh chị em. Quà Hướng Đạo vẫn là những thứ vô cùng quý báu. Một mặt nó thể hiện được tình Hướng Đạo, mặt khác nó đem lại niềm vui lớn cho người nhận. Đối với Hươu, cái sừng Hươu hay những chú Hươu bằng gỗ, bằng kim loại, những chiếc bút nịt, những chiếc patche kỷ niệm các sự kiện Hướng Đạo đã làm giàu thêm cho kho tàng báu vật của Hươu lâu nay.



Ngoài những lời chúc mừng và tặng quà Hướng Đạo từ anh chị em đến dự buổi họp mặt, Hươu còn nhận được quà và những lời chúc mừng từ các Trưởng và anh chị em Tráng Sinh từ các nơi gửi về. Hai nữ Tráng Sinh Phan Nữ Lan (Dallas) tên rừng Bạch Yến Nhân Hậu và Ngô Lý Thị Thanh (Indiana) tên rừng Thỏ Đảm Đang đã gửi tặng một tấm plaque bằng thủy tinh mừng Hươu 70 Năm Hướng Đạo. Trưởng Nguyễn Thị Hai từ Dallas gọi chúc mừng và cho biết Trưởng hủy chuyến đi xuống Houston vì mấy cái răng của chị phản đối rất dữ dội nên phải đi nha sĩ trị chúng. Xin cám ơn chị Hải Ngưu Khéo Léo. Chị Minh Xuân từ thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts viết: “Chúc mừng anh Hươu Hăng Hái. Mong anh được vui khỏe để tiếp tục sinh hoạt lâu dài với Anh Chị Em. Tabtt. Minh Xuân”. Còn anh Hươu Điềm Tỉnh Nguyễn Cửu Lâm, đương kiêm Tráng Trưởng “muôn năm” của Tráng Đoàn Nguyễn Trãi thì viết qua email rằng: “Anh Hươu ơi! 70 Năm Hướng Đạo rồi, còn 30 năm nữa là tròn thế kỷ. Cứ thế mà đi nhé! Chúc anh mọi điều tốt lành. Tabtt. Hươu Điềm Tỉnh. California.”
Trưởng Nguyễn Văn Thuất – Voi Cần Mẫn ở thành phố Sydney, xứ Kangaroo tận phía nam bán cầu viết: “Chúc mừng anh Châu đến được một mốc điểm thật đặc biệt trên đường Hướng Đạo. Hoan hô những tình cảm chân thành và đậm đà của Anh Chị Em trong Tráng Đoàn Nguyễn Trãi. Tabtt. Thuất.”. Ngoài ra Trưởng Voi Cần Mẫn còn gửi tặng một chiếc Patch kỷniệm.

Tiết mục ca hát không thể nào không có trong những lần họp mặt như thế này. Những bài hát ngắn và vui kèm theo chương trình hát “Du Ca” đã được đưa vào chương trình sinh hoạt trong các kỳ trại miền hay trại họp bạn. Ca hát xưa nay vẫn là một mục trong sinh hoạt Hướng Đạo. Những bài hát này thường có nội dung đề cao lòng yêu nước, mến cảnh thiên nhiên, ca ngợi quê hương, ca ngợi lòng yêu nước và những anh hùng liệt nữ Việt Nam… Nhớ lại trước đây mỗi lẫn có trại họp bạn Miền hay Thế Giới thường có chương trình dành cho các Trưởng và phụ huynh. Hươu đã đưa chương trình ca hát này vào sinh hoạt bằng những tiêu đề “Hát Cho Việt Nam, Đêm Việt Nam…”. Chương trình thực hiện kể từ trại Thẳng Tiến X tổ chức tại Texas 2014 và tiếp sau đó trong các trại họp bạn XI, XII và các trại họp bạn Trưởng Niên cũng có tiết mục ca hát này.

Cơ hội để anh chị em cùng ngồi bên nhau hát bằng những bài hát đã trở thành phổ biến chẳng những trong Hướng Đạo mà còn cả trong một số hội đoàn Trẻ khác nữa. Với cây đàn thùng, anh Hoẳng Hay Hát giữ giọng và giữ nhịp, chị Vành Khuyên bấm máy cho các bài hát hiện lên màn hình. Lâu lâu được hát to, hát nhiều nên hình như anh chị nào cũng thấy hai lá phổi của mình có cơ hội hít và thở nhiều hơn…
Đồng hồ trên vách tường chỉ hơn ba giờ. Cuộc vui nào rồi cũng phải đến giờ chia tay. Một vòng tròn nhỏ, tay trong tay cất lời tạm biệt “Gặp nhau đây rồi chia tay. Ngày vàng như đã vụt qua trong phút giây. Niềm hăng say còn chưa phai. Đường trường sông núi hẹn mai ta sum vầy…” “Lúc thú vui này lòng càng quyên luyến anh em chúng mình. Lúc thú vui này lòng càng những muốn anh em thấu tình. Rời tay nhau chớ lâu nhé! Tình anh em chớ quên nhé! Lòng anh em nhớ nhau tuy xa mà hóa ra gần…”.
Mọi người quyến luyến ra về và không quên hẹn găp nhau trong trại mùa đông cuối tháng 10.

Đáng lẽ bài viết này đến đây là chấm dứt. Nhưng Hươu muốn nhân cơ hội này để thưa thêm đôi điều. Hươu muốn gửi lời cám ơn đến anh Đà Điểu Siêng Năng và chị Vành Khuyên Yêu Đời đã tổ chức buổi họp mặt thân tình này. Cám ơn các anh chị có mặt và tặng quà buổi hôm đó. Cám ơn các anh chị từ xa gửi lời chúc đến Hươu. Cám ơn chị Thỏ Đảm Đang và Bạch Yến Nhân Hậu tặng món quà quý và đẹp. Cám ơn Trưởng Nguyễn Văn Thuất từ Australia xa xôi. Không quên anh Sóc Nhiệt Thành đã tặng patch kỷ niệm 95 Năm và 100 Năm Hướng Đạo Việt Nam. Cám ơn anh Sói Nhiệt Thành đã design và giúp thực hiện patch 70 Năm cho Hươu…

Trong buổi họp mặt trên anh Đà Điểu Siêng Năng có nói với Anh Chị Em rằng: “Nếu anh Hươu chơi Hướng Đạo suốt mấy mươi năm như thế mà không có sự yểm trợ của vợ thì có lẽ cuộc chơi của anh cũng không được như ý …”. Vậy nên Hươu phải gửi lời cám ơn đến “người trong nhà” tức là vợ của Hươu mà trong anh em Hướng Đạo vui gọi là “bề trên”. Phải thành thật khai báo rằng “bề trên của Hươu chẳng những không ngăn trở mà cũng đã ghi danh sinh hoạt Hướng Đạo. Hai vợ chồng cùng đi họp, đi trại và tham dự các trại lớn từ khi còn ở trong nước cũng như lúc ra ở nước ngoài, cùng đi dự trại họp bạn thế giới. Cũng từng ngủ bụi ngủ bờ, lội sông, băng suối và chung một niềm vui với anh chị em Hướng Đạo. Tên rừng của “bề trên” Hươu là Nhạn Trắng Nhu Mì.

Có chút tâm tình Hươu cũng muốn thưa thêm. Nhìn lại quãng đời ngoài tám mươi tuổi của mình, trong đó có 70 năm gắn bó với Phong Trào Hướng Đạo. Xin nói thẳng: Nếu không “chơi” Hướng Đạo thì chưa chắc Hươu đã thành người tương đối tử tế như ngày hôm nay. Hươu chỉ dám nói “tương đối tử tế” thôi. Vì ngẫm lại Hươu vẫn còn nhiều điều bất cập, nhiều khuyết điểm, nhiều điều bất toàn trong cuộc sống đầy cam go, đặc biệt 17 năm sau năm 1975. Có một điều là dù bất cứ trong hoàn cảnh nào Hươu cũng đã “Cố Gắng” như một Sói Con, “Sắp Sẵn” như một Thiếu Sinh và “Giúp Ích” như một Tráng Sinh. Hươu đã từng tâm sự với một số anh chị em rằng: “Mình coi Hướng Đạo như là một triết lý sống”. Một thứ triết lý thực tiễn và hữu ích dẫn tới sự thành công trong đời, thành công về phẩm hạnh. Thành công về lòng trung chánh. Thành công trong nghĩa vụ “Giúp Ích”. Do vậy Hươu không thể không bày tỏ lòng biết ơn đối với Phong Trào Hướng Đạo. Nhớ ơn huân tước Baden Powell. Nếu không có Ngài thì làm gì trong hơn một thế kỷ qua giới trẻ (và cả người lớn) khắp năm châu có một Phong Trào “Luyện Người” hữu ích. Nhớ ơn Trưởng sáng lập Hướng Đạo Việt Nam Trần Văn Khắc cùng các Trưởng tiền bối đã dắt đưa Hươu vào con đường Thiện Lành.
Bảy Mươi Năm – Một chặng đường thật dài – Nhiều lần tưởng chừng như ngả quỵ. Nhưng rồi với Ba Lời Hứa và chiếc Gậy Nạng của “Tráng Sinh Lên Đường”, Hươu đã tránh được những “tảng đá ngầm” đang chực chờ nhận chìm mình. “Tảng Đá Ngầm” là hình ảnh mà huân tước Baden Powell đã dùng để khuyến cáo các Tráng Sinh khi vào đời được ghi trong cuốn “Đường Thành Công” xuất bản lần đầu vào tháng 6 năm 1922.
Ngoài ra, đời sống tâm linh cũng đã giúp cho Hươu có một nơi nương tựa vững chắc và tinh tấn.
Phong Châu
Tháng 8-2025



KIỀU MỸ DUYÊN – CHUONG TRÌNH CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA.
VTLV – TRANG ĐẶC BIỆT THÀNH KÍNH PHÂN ƯU Cùng Hội Trưởng LÊ VĂN HẢI và Phu Nhân KIỀU MY: KÍNH NGUYỆN CẦU CHO LINH HỒN CỤ BÀ MARIA PHAN THỊ THÊM Sớm Được Hưởng Nhan THÁNH CHÚA.
**
KÍNH BÁO TIN BUỒN VÀ LỜI CÁO PHÓ



Trong niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, và trong nỗi đau thương mất mát, không gì có thể diễn tả được…
Tôi xin bàng hoàng, nghẹn ngào báo tin buồn, đến quý thân bằng quyến thuộc, quý bằng hữu, thân hữu xa gần,
Thân mẫu của tôi là:

Bà Maria PHẠM THỊ THÊM,
Đã được Chúa gọi về nhà Cha trên trời,
Hôm qua! Lúc 8 giờ 30 tối, Chủ Nhật, ngày 24 tháng 8 năm 2025 Dương lịch, tức ngày mồng 2 tháng 7 năm Ất Tỵ, âm lịch.
Tại thành phố San Jose, tiểu bang California, Hoa Kỳ.
Hưởng thọ 94 tuổi.
Hiện linh cữu được quàn tại: Oak hill Memorial Park. 300 Curtner Ave, San Jose, CA 92125.
(Chương trình tang lễ, xin được thông báo sau.)
Chút về người mẹ thương yêu của tôi:
Mẹ tôi – người phụ nữ Việt Nam chân quê, bình dị, không một chút chữ nghĩa cao xa, cả một đời chỉ biết sống vì chồng, vì con. Vậy mà số phận nghiệt ngã không buông tha. Năm 1954, Mẹ dắt díu đàn con thơ di cư từ Bắc vào Nam, rồi tảo tần nuôi đàn con khôn lớn trong 20 năm, chiến tranh khốc liệt, luôn sống trong nỗi phập phồng đợi chờ tin dữ, khi đứa con trai, bắt đầu gia nhập cuộc chiến!
Sau biến cố 1975, những nỗi đau Mẹ sợ hãi ngày nào trở thành hiện thực: hai đứa con vĩnh viễn chìm vào lòng đại dương mênh mông, trên đường vượt biển tìm tự do! Nhưng ơn Chúa nhiệm mầu, cuối đời, Mẹ cũng được theo đàn con đến đất Mỹ, sum họp gia đình nơi xứ lạ quê người. Nhưng chưa được bao lâu, lại dính vào căn bịnh lạc trí nhớ hành hạ, cho đến khi qua đời!
Mẹ tôi cả đời chẳng làm gì nên tội, chỉ biết làm mẹ, vậy mà cả cuộc đời lận đận, long đong vì chiến tranh, chia ly, vì thời cuộc. Nhưng Mẹ không đơn độc – bởi phía sau Mẹ là hình bóng của hàng trăm ngàn người mẹ Việt Nam, trong cuộc chiến– đều chịu thương, chịu khó, chịu đựng và hy sinh đến tận cùng, cho chồng, cho con, cho cháu, cho tương lai.
Với tất cả lòng yêu mến, thương nhớ và tiếc thương vô hạn, tôi xin ngậm ngùi, thông báo tin đau buồn nhất đời mình này.
Trưởng nam: Lê Văn Hải
Xin quý thân bằng, quyến thuộc, bằng hữu xa gần, hiệp ý cầu nguyện cho linh hồn mẹ tôi, là Maria sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa.
Xin cảm tạ và thành kính khấp báo.
Điện thoại liên lạc tang gia: (408) 802-5045

**
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
VĂN THƠ LẠC VIỆT nhận tin buồn
Hội Trưởng vườn nhà đẫm lệ tuôn
LÊ HẢI Mẫu Từ vừa tạ thế
MARIA Cụ PHẠM mới về nguồn
Lòng đau chia cắt – đau oằn oại
Dạ xoắn ly từ – xoắn héo hon
Kính tiễn Người lên miền Đất Chúa
Nguyện cầu tang quyến bớt sầu thương.
*
Sầu thương mong giảm, gắng kham lời
Dẫu biết vì con ME một đời
Đất nước chia đôi, miền Bắc bỏ
Quê hương gãy khúc, phía Nam dời
Sinh thành nghĩa cả dường sông núi
Dưỡng dục tình sâu tựa biển trời
Nhưng lẽ vô thường nào tránh khỏi
Mong đừng bi lụy, lệ buồn vơi…
Phương Hoa – VTLV, AUG 26, 2025
**
THƠ HỌA CHIA BUỒN
**
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
Tin Thân mẫu Nhà Truyền Thông Văn Thi sĩ LÊ VĂN HẢI
mới được Chúa gọi về Trời, Xin chia buồn cùng ông bà LÊ VĂN HẢI và tang quyến.
Bài họa thơ để thay lời kính điếu .
CMN
TIỄN CỤ MARIA PHẠM VỀ TRỜI.
(Hoạ thơ chia buồn của Phương Hoa)
Kính Chúa yêu người vẫn thậm buồn
Mẹ đi cõi phúc lệ trầm tuôn
Ngàn trông nhan Thánh, mơ về cội
Vạn nhớ đàn con phước hưởng nguồn
Lạy đấng Ba ngôi ơn cứu chuộc
Van câu nhân thế nỗi buồn chôn
Hắt hiu Cha Cả thiên đường mở
Đón cụ Maria Phạm xót thương
*
Tin hãi từ xa tới nghẹn lời
Mẫu thân Lê Hải vừa qua đời
Trưởng tôn quý tử sầu bi thảm
Lạc Việt Văn Thơ viết tạm dời
Dào dạt tình cha tràn sóng biển
Chan hòa nghĩa mẹ ngập mây trời
Hồn bay về cõi thiên tiên ấy
Ơn Chúa đời đời chẳng thể vơi …
Rancho Palos Verdes 26 – 8 – 2025
CAO MỴ NHÂN
*
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
Biết được hung tin quá đổi buồn!
Mong rằng Anh Chị nén dòng tuôn!
Thung dung Bà Cụ xa rời nẻo
Nhẹ nhõm hương linh rảo đến nguồn
Nẫu dạ u sầu – len dạ cháu
Tím hồn thảm thiết – quyện hồn con
Thiên đàng rộng mở vòng tay ấm
Lạy Chúa yêu Người hãy đoái thương!
Xót Mẫu từ ly khiến quặn lời!
Hoài yêu kính Mẹ dẫu bao đời
Gia đình tiếc nuối nào lay chuyển
Bạn hữu thương yêu khó đổi dời
Hướng dẫn dâu hiền so tợ núi
Khuyên răn trẻ dại sánh như trời
Giờ xin kính cẩn thành tâm bái
Tang quyến thôi buồn, nỗi chóng vơi…
Như Thu
08/26/2025
*
VĂN THƠ CHIA BUỒN
**
Phương Thúy và nhóm CGV thành kính chia buồn cùng anh Lê Văn Hải và tang quyến.
Cầu xin Chúa và Đức Mẹ cứu rỗi linh hồn cụ Maria Phạm Thị Thêm.
Phương Thúy

**
Kính chia buồn đến anh Hải & chị My cùng tang quyến . Xin hiệp cầu linh hồn Maria Phan Thị Thêm sớm hưởng nhan thánh Chúa .
Minh Thúy và Lộc Lê
Mẹ Đã Đi Rồi
( Kính tặng anh Hải & chị My)
Mẹ bỏ con đi, giã biệt đời
Đau buồn thấm dạ lệ tràn rơi
Nghẹn ngào quặn thắt thương Từ Mẫu
Muốn nói môi run khóa nghẹn lời
*
Vất vả “năm tư“ bỏ ruộng nhà
Đôi bờ đất nước nghẹn chia xa
Vào Nam tần tảo nuôi con lớn
Thấp thỏm chiến tranh nối tiếp đà
*
Dưỡng dục công lao tựa biển trời
Mẹ từng chịu đựng khổ nào vơi
Là nguồn hạnh phúc đàn con tựa
Bóng mát còn đâu, mẹ tuyệt vời
*
Giờ cuối luyến lưu cạnh mẹ hiền
Người về bên Chúa ngủ bình yên
Tuổi bền “chín bốn” mùa ơn thọ
Phạm Thị Thêm đà được mãn viên
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 8/26225
**

**
KINH CHIỀU TIỄN BIỆT
San Joe (Jose) bảng lảng xám mây chiều
Chợt vẳng bi thương tiếng hạc kêu
Tách khỏi gian trần trong buốt xót
Xa rời ruột thịt giữa thương yêu
Chung lời khấn nguyện cùng thân quyến
Góp ý van xin với Chúa Dêu(*)
Tha thứ lỗi lầm cho cụ Phạm
Mary sớm hưởng phúc thiên triều.
(*) Tiếng xưa, Jesus
Thái Huy 8/26/25
**
Xin chia buồn cùng Anh Lê Văn Hải và tang quyến. Nguyện cầu hương linh Cụ Maria sớm về cõi Vĩnh Hằng
Kính
Mặc Khách _ Van Lau và Gia Đình

**
YÊN SƠN THÀNH KÍNH PHÂN ƯU VỚI KQ LÊ VĂN HẢI VÀ ĐỊAI GIA ĐÌNH TANG QUYẾN.

Thành kính chia buồn đến anh Lê Văn Hải và tang quyến.
Xin hiệp ý cầu nguyện cho Linh Hồn Maria Phan Thị Thêm sớm được hưởng nhan Thánh Chúa.
Sương Lam

Gia Đình tôi thành kính chia buồn cùng Anh Lê Văn Hải và Tang Quyến Nguyện xin Lòng Chúa Thương Xót , sự Cầu Bầu của Mẹ Maria ,Thánh Cả Giuse sớm đón nhận Bà Maria PHẠM THỊ THÊM Hưởng Nhan Thánh Chúa
Quốc Việt
888*****
Anh Lê Văn Hải thân mến,
Như Thu cùng gia đình xin gởi lời chia buồn khi hay tin Cụ Bà Maria Phạm Thị Thêm đã được Chúa gọi về, xin nguyện cầu linh hồn Cụ Bà sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa.
Mong Anh Chị Lê Văn Hải luôn nhiều sức khỏe, bình an và chóng vượt qua nỗi đau này.
Thành kính phân ưu cùng gia đình.
Như Thu

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
Nhận tin buồn, thành thật phân ưu cùng Anh Chị LÊ VĂN HẢI và TANG QUYẾNXin góp lời cầu nguyện Linh Hồn Cụ Bà MARIA PHẠM THỊ THÊM Sớm được HƯỞNG NHAN THÁNH CHUÁ.
Khánh Thọ & Đỗ Dung
**
Xin chia buồn với anh Lê Văn Hải.
Nguyện cầu xin Chúa thương đưa Linh hồn Cụ Bà Maria sớm hưởng Nhan Thánh Chúa.
Thành kính phân ưu,
Văn Duy Tùng
***

Được tin buồn thân mẫu anh Lê Văn Hải được Chúa gọi về
Xin chia buồn với anh Hải và tang quyến
Cầu nguyên linh hồn Cụ Bà Maria Nguyễn Thi Thêm được an lạc chốn Thiên Đàng
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
Ngoc Hạnh
***
Xin chia buồn cùng anh Lê Văn Hải và nguyện cầu cho hương linh của bác sớm được trở về nơi nước Thiên Đàng của Chúa.
Donry Nguyễn Dình Chiến
**
Thành Kính Chia Buồn Cùng Anh Lê Văn Hải Và Tang Quyến
Về Sự Mất Mát Quá Lớn LaoKhi Người Mẹ Thân Yêu Đã Bỏ Con Cháu Để Ra Đi
Điều Chắc Chắn: Cụ Bà Maria PHẠM THỊ THÊM
Sẽ Được Chúa Cho Đến Cùng Ngài Trong Vòng Tay Yêu Thương
Trên Nước Thiên Đàng
Phong Châu
Texas
**
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
Xin chia buồn cùng anh chị Lê Văn Hải và gia đình
PHÚC LƯU
***
Ngọc Huyền Em cũng xin góp nén tâm nhang đến linh hồn cụ bà Maria Phạm Thị Thêm, cầu mong linh hồn bà sớm về cõi vĩnh hằng an yên.
Xin chia buồn cùng gia đình anh Lê Văn Hải, cầu chúc anh và gia đình vượt qua nỗi đau mất mát to lớn này ạ.
Ngọc Huyền và gia đình
**
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU!
Nguyen Xin Linh hon Maria duoc huong nhan Chua!
Vo cung thuong tiec!!!
Xin chia buon cung anh Le Van Hai va quy quyen!
Dong Loi
***
SQ nhận được tin hiền mẫu của chủ tịch VTLV Lê văn Hải là cụ bà Maria Phạm Thị Thêm đã được Chúa gọi về vào ngày 24 tháng 8 năm 2025 tại San Jose – Cali HK hưởng thượng thọ 94 tuổi.
Gia đình Song Quang xin góp lời cầu nguyện đến hương linh Bà sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa
Và cũng xin chia buồn đến gia đình Chủ tịch VTLV .
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
SongQuang VÀ GIA ĐÌNH
**
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU CÙNG ANH CHỊ LÊ VĂN HẢI
VÀ TANG QUYẾN. NGUYỆN XIN LINH HỒN CỤ BÀ MARIA PHẠM THỊ THÊM ĐƯỢC VỀ NƯỚC CHÚA HƯỞNG PHÚC ĐỜI ĐỜI
𝓽𝓷𝓵- phannữlan
**
**
Tina Phạm xin chia buồn anh Lê Văn Hải và gia đình

Nguyện xin Thiên Chúa đưa linh hồn Maria mau về hưởng nhan thánh Chúa. Amen 
Tina Phạm
***
Anh Lê Văn Hải quí mến,
Xin hiệp ý cầu nguyện cho linh hồn Maria sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Xin mời anh chị Lê Văn Hải và tất cả các anh chị cùng cầu nguyện với tôi qua những nhạc phẩm:
01.MẸ ƠI | Thơ: Thánh Giáo Hoàng Phaolô II | Nhạc: Phạm Đức Huyến | Ca sĩ: Diệu Hiền
02.Nhớ Mẹ | Phạm Đức Huyến – Ca sĩ Thanh Hoài
03.Thương Cha – Phạm Đức Huyến | Nguyễn Hồng Ân
04.Mẹ Hiền | Phạm Đức Huyến | Ca sĩ: Thùy Dương
05.Mẹ Ơi Con Nhớ Mẹ – Tuấn Lê + Phạm Đức Huyến | Cs.Nguyễn Hồng Ân
06.Công Ơn Cha Mẹ – Phạm Đức Huyến
https://www.youtube.com/watch?v=5qjgAf3XBHg Quí mến
Phạm Đức HuyếnFollow on Facebook @gsnsphamduchuyenFollow for Youtube Music @gsnsphamduchuyen

