SƯƠNG LAM – Một Cõi Thiền Nhàn – VĂN – THƠ- NHẠC – Tản Mạn.
Portland Mưa Buồn Tỉnh Lẻ
Đây là bài số bảy trăm ba mươi lăm (735) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ ORTB.
Tháng Mười ở Portland đã có những cơn mưa lạnh.
Người viết ở Portland, Oregon hơn 40 năm rồi! Cái tiểu bang gì mà một năm 365 ngày thì đã có gần hết 300 ngày mưa rồi, ông xã tôi nói thế. Tuy nhiên, người viết đã quen rồi và lại còn yêu hơn nữa những ngày mưa lạnh ở Portland vì không khí trong lành, mát dịu hơn những nơi khác. Đặc biệt nhất là lúc Thu sang với sương lam giăng giăng khắp chốn, với lá vàng, với lá đỏ khắp nơi.
Lúc trời mưa người viết cũng thích đứng bên cửa sổ ngắm mưa rơi bên ngoài.
Người viết lại xúc cảnh sinh tình nhớ đến những cơn mưa Sàigon năm cũ.
Tháng Mười Nghe Mưa Rơi
Trời Tháng Mười, Portland mưa nhiều lắm
Mưa ban ngày, mưa luôn cả ban đêm
Nằm lắng nghe mưa đổ nước bên thềm
Lại chợt nhớ những cơn mưa ngày cũ
Tuổi mười tám, những mộng mơ ấp ủ
Tuổi học trò, tôi thích ngắm trời mưa
Bên người yêu, mưa rơi nhẹ cho vừa
Đủ ướt áo cho anh truyền hơi ấm
Bên hè phố đôi ta cùng lặng ngắm
Những giọt mưa rơi tí tách trên đường
Mưa lạnh buồn, mưa tạo mối yêu thương
Dưới dù nhỏ, đôi ta cùng chung bước
Rồi chinh chiến, nào ai mà biết trước
Những chia ly cách biệt, biệt trùng xa
Mưa xứ người càng gợi nhớ quê nhà
Nhớ bè bạn, nhớ mẹ cha, kỷ niệm
Lục ảnh cũ để chỉ mong tìm kiếm
Những hương xưa, tình cũ những ngày qua
Đã mất rồi những ngày tháng ngọc ngà
Khi đã mất mới thấy là đáng quí!
Dẫu buồn lắm nhưng ta không ủy mị
Mà quên đi những ngày đẹp đang chờ
Cuộc đời này vẫn tươi đẹp nên thơ
Khi ta biết vững niềm tin hiện tại
Dẫu sung sướng hay đau buồn vẫn phải
Sống thế nào không thẹn với lương tâm
Vẫn tự tin, vẫn hy vọng nhủ thầm:
“Hết mưa lạnh ngày mai trời lại sáng”
Hy vọng đó tôi xin trao cho Bạn
Đừng lo chi chuyện không có, có không
Hoa rụng rồi hoa lại nở trong lòng
Hết Đông lạnh là Xuân về, mai nở.
Sương Lam
Ở một nơi mà nhạc sĩ Từ Công Phụng đã gọi là “Xứ Thâm Trầm” này, người viết thấy rất an tĩnh, không bon chen náo nhiệt rộn ràng. Vợ chồng Từ Công Phụng cũng ở Portland như tôi và chúng tôi là bạn trong gia đình QGHC dễ thương của tôi.
Watch “XuThamTram-TCP-PhamAnhDung” on YouTube
Portland có hoa hồng mùa Xuân, biển mát mùa Hạ, lá vàng mùa Thu, tuyết trắng mùa Đông, cảnh đẹp như một Dalat ngày xưa mà tôi hằng ao ước được ở khi còn ở Việt Nam, thì đối với tôi là “The Dream Comes True” rồi, tôi còn đòi hỏi gì nữa chứ? Hơn nữa, trần gian chỉ là quán trọ, thì ở đâu cũng thế mà thôi!
Mời quý bạn đọc qua câu chuyện Thiền ngắn ngắn dưới đây xem có đúng không nhé?
Quán trọ
Một vị thầy tâm linh nổi tiếng đến trước cửa lâu đài của vị vua nọ.
Vì Thầy nổi tiếng rồi, nên các người lính canh không chặn ông lại khi ông đi vào và tiến thẳng đến trước mặt nhà vua đang ngồi trên ngai vàng. – Ông muốn gì? Nhà vua hỏi. – Tôi muốn có một chỗ để ngủ trong cái quán trọ này. Ông ta đáp. – Nhưng đây không phải là quán trọ, đây là tòa lâu đài của ta. Vua trả lời. – Xin hỏi bệ hạ rằng ai là sở hữu tòa lâu đài này trước bệ hạ? – Vua cha ta, Ngài đã chết rồi. – Và ai là sở hữu trước cha của bệ hạ? – Ông nội của ta, Ngài cũng đã chết. – Và cái chỗ này, nơi mà người ta sống một thời gian ngắn rồi đi, như vậy thì nó không phải là quán trọ sao?
(Nguồn: Trích trong Vườn Thiền Cottage)
Người viết cũng đã một đôi lần thơ thẩn tự bảo:
“Trăm năm trước ta từ đâu đến
Trăm năm sau ta sẽ về đâu
Cõi trần gian muôn sắc muôn màu
Ừ! Ghé tạm trăm năm sống thử”
(Thơ Sương Lam)
Quá khứ ta không biết, tương lai ta cũng chẳng biết gì hơn, chỉ có trong hiện tại ở trần gian có sướng, khổ, buồn, vui, có người đẹp mặc áo tím áo hồng, muôn sắc muôn màu đẹp quá thì ta hãy ghé tạm sống thử trăm năm cho biết nha bạn.
Con người thường đi tìm hạnh phúc ở những nơi khác mà không biết rằng nhiều khi hạnh phúc ở ngay bên cạnh chúng ta giống như con chim bị mù trong câu chuyện dưới đây đã lao đầu vào khung cửa kính để tìm một cảnh sắc xinh đẹp hơn.
Con chim bị mù
Con người thường đi tìm hạnh phúc ở những nơi khác mà không biết rằng nhiều khi hạnh phúc ở ngay bên cạnh chúng ta giống như con chim bị mù trong câu chuyện dưới đây đã lao đầu vào khung cửa kính để tìm một cảnh sắc xinh đẹp hơn.
Nơi khu vườn anh nhà văn nọ có một cây si rất rậm rạp, xanh lá quanh năm. Từ phòng viết của mình, qua một tấm cửa kính, anh có thể nhìn thấy cây si ấy. Thói quen của anh là thức sớm mỗi ngày để viết, và anh vô cùng ngạc nhiên khi ngày nào, cũng có một con chim tới đâm đầu vào cửa kính phòng anh. Nhiều ngày liên tục, liên tục, sáng nào cũng vậy, anh đã có ý nghĩ: Phải chăng con chim đó bị mù? Hay bị một chứng bệnh nào đó? Sự lý giải không được thỏa mãn, lại nhiều ngày tiếp tục trôi qua.
Cho tới một hôm, anh quyết định bước ra khỏi cửa phòng mình, đứng về phía con chim, đối diện với tấm kính để nhìn vào căn phòng. Anh không thể tin nổi vào mắt mình. Trước mắt anh là một cảnh tượng quá đẹp đẽ. Một cây si lung linh xanh thẫm in hình trên tấm kính, như thể ở một nơi nào đó thật xa, trong một không gian rộng hơn, sâu hơn. Và anh biết, con chim nhỏ bé kia đã “chán” cây si quen thuộc mỗi ngày của mình khi nó bất ngờ phát hiện ra một “cây si” khác. Nó đã đâm đầu vào đó để mong tìm tới một nơi đẹp đẽ hơn, lung linh hơn…
Đôi khi, chúng ta không biết những gì chúng ta đang có mới là điều quan trọng, là hạnh phúc thực sự của chúng ta, mà chúng ta cứ đeo đuổi những chuyện mãi đâu đâu.
(Nguồn: Sưu tầm trên Internet)
Người viết thường tâm tình với bạn hữu, chúng ta cần sống vui trong hiện tại, đừng lo lắng quá nhiều về những gì vượt quá tầm tay với.
Chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.
Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn
Sương Lam
(Tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi-MCTN 735-ORTB1166- 103024)
KIỀU MỸ DUYÊN – Chương Trình CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA.
VƯƠNG THANH: Cẩm Sắt – Thi Phẩm Bí Ẩn và Khó Hiểu Bậc Nhất của Trung Hoa.
ĐẠI HỘI LINH MỤC VIỆT NAM – HÀNH TRÌNH EMMAUS X, CON SẼ VỀ THĂM THẦY, và ĐẠI LỄ AN VỊ PHẬT CHÙA HẢI ĐỨC. Các Bài Viết Của Nữ Ký Giả KIỀU MỸ DUYÊN.
VĂN: THỞ DÀI RẤT NHẸ – CAO MỴ NHÂN
THỞ DÀI RẤT NHẸ. CAO MỴ NHÂN
Năm 2003, tôi có những việc gì chung, riêng, mà tôi phải lên miền Bắc Cali tới cả chục lần.
Nhưng không thể quên được mấy việc ” quan trọng ” với tôi, như thăm viếng, chia buồn đám tang cựu thượng nghị sĩ Trần Ngọc Nhuận, tức nhà văn, nhà báo Niên Dư, tác giả cuốn Đời Quân Ngũ . Rồi Kỷ niệm ngày thành lập tuần báo Tiếng Vang, của cựu thiếu tá Trần Văn Ngà.
Và nhất là, ra mắt tập Thơ Mỵ -” Sau Cuộc Chiến ” của tôi, có sự hiện diện của 2 nghệ sĩ tên tuổi hàng đầu miền nam VN trước 30-4-1975, là nghệ sĩ cải lương, kịch sĩ, diễn viên điện ảnh Bích Thuận, và minh tinh ca sĩ Khánh Ngọc trong Ban hợp ca Thăng Long .
Vì quá lâu không nghe tin tức của danh ca, diễn viên điện ảnh Khánh Ngọc, nên tôi có vẻ nôn nóng đợi gặp chị.
Trong lúc nghệ sĩ cải lương, dân ca Bắc phần Bích Thuận, thì hầu như mấy năm đầu thiên niên kỷ mới này, chị hay từ Pháp qua Mỹ thăm con gái chị ở San Jose, nên tôi thường được hạnh ngộ chị nơi các hội thơ, hội nhạc vv…
Mùa đã vào thu…
Buổi đó, chương trình phát thanh của người Việt tị nạn ở Sacto, tức thành phố Sacramento, mở cuộc phỏng vấn bàn tròn về cuộc hạnh ngộ mấy văn nghệ sĩ, tưởng đã về hưu lâu rồi, nên khá vui.
Ca sĩ Khánh Ngọc bị kẹt xe, đến chậm nhất, nhưng chị rất từ tốn, vui vẻ, hiếu khách …
Chúng tôi ai cũng quý mến quý vị cao niên, theo tuổi tác, chứ nhị vị thì vẫn xuân sắc, lịch thiệp lắm.
Riêng tôi, tôi cứ nhớ lại giai đoạn ca sĩ Khánh Ngọc vào đầu thập niên 60 thế kỷ trước. Một sơ xuất tình cảm, đã khiến chị phải rời xa VN, trong lúc có cháu bé còn rất thơ dại.
Tôi cứ bâng khuâng tưởng tượng bước đường gian truân, hồi đó, chị tới USA một mình …
Mới đó mà hơn 40 năm ( 1960- 2003), chị Khánh Ngọc, ca sĩ trong ban hợp ca Thăng Long trước kia, chị đang rất lạc quan, sao tôi lại rưng rưng nước mắt, rồi tràn lệ luôn…
Hình như người nghệ sĩ nào cũng dễ xúc động, nhất là biết được điều người ta khóc vì thông cảm, mến thương mình…
Chị xiết tay tôi thật chặt, thấy thoáng nỗi buồn trong đôi mắt vốn hồn nhiên của chị.
Dẫu chúng tôi chưa hề gặp nhau bao giờ, chị thở dài rất nhẹ, lại tiếp tục cười vui vẻ.
Tất nhiên chị hỏi thăm tôi, chị nói chị sẽ hiện diện trong buổi tôi ra mắt Thơ Mỵ – ” Sau Cuộc Chiến ” ở San Jose vào tháng cuối năm 12/2003.
Vì cuốn thơ mang tựa đề ” Sau Cuộc Chiến ” và tôi lại là một nữ ” Chiến sĩ HO”, nên quả là thu hút quý huynh đệ chi binh và độc giả thân hữu .
Buổi đó, nhị vị nữ lưu Bích Thuận và Khánh Ngọc cũng đã thân mến hiện diện, nghệ sĩ Bích Thuận hát chèo cổ Bắc phần, còn ca sĩ Khánh Ngọc trình bầy bài ” Đôi Mắt Người Sơn Tây ” .
Trong lòng tôi vẫn vấn vương cái điều buồn bã, tôi hỏi chị :
” Hay là chị hát bài Nửa Hồn Thương Đau, nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc thơ Thanh Tâm Tuyền …”
Chị nhìn tôi sâu lắng, rồi lại mỉm cười :
” Bài Nghìn Trùng Xa Cách ” của Phạm Duy cũng được, chị còn gật gật cái đầu .
Tôi biết chị Khánh Ngọc rất thật thà, nhiệt tình trong ca hát , nhạc hay thì hát thôi, không vướng bận chi cả .
Sự thực là thế, ” Nghìn Trùng Xa Cách ” đã được nhiều ca sĩ tên tuổi trình bầy như Thái Thanh, Ý Lan, và cả Thái Hiền, ái nữ của nhạc sĩ Phạm Duy trong đại hợp xướng Ngàn Khơi biểu diễn rất thành công …đó toàn là thành viên trong đại gia đình ban hợp ca Thăng Long.
Vài tuần sau, nữ ca sĩ, mình tinh kịch ảnh Khánh Ngọc mời tôi đến nhà dự một bữa cơm hảo hạng, như tiệc lớn ngoài tiệm sang trọng. Vì chị có một bà chị nuôi gốc Trung Hoa, thạo tiệc tùng khách khứa, vốn chị cũng có chút lai Trung Hoa, quý danh Hàn Thị Nam Lan .
Chị nói là chị chỉ có mấy người bạn gái thân, toàn đến Mỹ từ những năm 1960- 1968. Quý vị ấy đi du học, rồi ở lại, như chị đã đi năm 60 rồi ở lại vậy.
Có điều 2 trong số 4 bà bạn thân của chị hiện nay, lại là bạn tôi thời trung học Trưng Vương Saigon, nên chị nghĩ tôi cũng sẽ là bạn thân của chị .
Nhà chị ở trên xa hướng Bắc Los Angeles , là một khuôn viên đúng nghĩa, diện tích lớn đã đành, lại chỉ có chị và bà chị nuôi đó cư ngụ, vì các con chị ai nấy đều thành tựu, nên danh, nên phận, hết 3/6 người trai, gái, dâu, rể là …đại phu đấy .
Tôi không dám hỏi thêm. Điều tôi thích nhất ở gia trang biệt thự Khánh Ngọc, là hồ cá coi đẹp như trong truyện thần thoại, rất nhiều cá đủ mầu bơi lượn, và một bàn đào mà tôi tự đặt.
Đó là một thân cây to, có chu vi khoảng 10 vòng tay nối lại, đã được cưa ngang ngọn lâu rồi . Nay mặt bằng của thân cây có thể trải chiếu hoa trên đó ngắm trăng, vịnh nguyệt …
Cuộc sống quả là thần tiên, nếu tình cảm không bị xáo trộn bởi trăm thứ lý do phức tạp …
Sao tôi vẫn chưa hết được cái cảm giác băn khoăn, là hồi đó, đầu thập niên 60 thế kỷ trước, làm sao có thể xuất ngoại,nếu không phải quân đội VNCH đi tu nghiệp, các công cán ủy viên đi du hành quan sát, thậm chí công chức chuyên biệt, sinh viên tài giỏi vv…thì chị , nữ ca sĩ Khánh Ngọc, phu nhân của nhạc sĩ Phạm Đình Chương, đã lên đường bằng hộ chiếu nào ?
Như trên tôi đã trình bầy, chị Khánh Ngọc rất thành thật hồn nhiên, chị trả lời :
” Bác sĩ Trần Kim Tuyến lo cho mình đó, đi du học 4 năm ngành ca nhạc . Sau 4 năm có thể về bình thường, nhưng chị đã lập gia đình và ở lại Hoa Kỳ ” .
Bác Sĩ Trần Kim Tuyến đặc trách An Ninh Phủ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, thời đệ nhất Cộng Hoà miền Nam VN.
Là người dưng mà tôi vẫn … bâng khuâng . Chị đã kể thêm về chị , và khẳng định chị đã và đang rất sung sướng , hạnh phúc về các con cháu…
Người bạn tình … tôi trầm ngâm :
” …Vài cánh xương hoa nằm ép trong thơ
Rồi sẽ tan đi mịt mù… ” ( Phạm Duy )
Anh định nói gì vậy ?
” …Trả hết về người chuyện cũ đẹp ngời
Chuyện đôi ta, buồn ít hơn vui…” ( Phạm Duy )
Thế là thế nào ?
“… Mời người đem theo toàn vẹn thương yêu…” ( P. Duy )
Mình không chịu được nữa, lại sắp sửa khóc như lúc gặp chị Khánh Ngọc…
Nhưng sự việc … mật thiết hơn, anh muốn mời mình đem theo toàn vẹn thương yêu của anh sao ?
Người ta chỉ chia tay khi phải hy sinh, hay bị rơi vào thù hận . Anh với mình có cần gì phải hy sinh, lại càng tránh xa thù hận .
Chỉ có thương yêu và thương yêu mãi mãi … vì thực tế chỉ có những cành xương hoa được ép trong thơ …
Nhưng ” anh thân kính, anh vô cùng huyễn hoặc “, mặc dầu vẫn ở xa anh , nhưng mình lại cảm thấy lúc nào cũng đứng bên anh rất gần .
Thế mới biết trên cõi đời này, không có mẫu mã, hình thức nào giống nhau …
Điều hay là … đưa ra nguyên tắc, như anh đã từng không giao kết, mà mình cứ vanh vách thi hành …kỷ luật nhà binh của anh, để lúc nào chuyện cũng đẹp ngời, chỉ có vui tươi tràn ngập ngày tháng thôi .
Khi đăng lại bài này, nhị vị nghệ sĩ tên tuổi lừng danh : Bích Thuận ngành cổ nhạc, Khánh Ngọc ngành tân nhạc, đã mãn phần lâu nay rồi. ( chú thích Oct- 25- 2024 CMN )
CAO MỴ NHÂN
KQ Lê Văn Hải: VTLV MỪNG SINH NHẬT ANH CHINH NGUYÊN – Cựu Chủ Tịch và cũng là Cố Vấn VTLV.
Hôm Thứ Bảy vừa Qua: Thị Trưởng Và Các Nghị Viên Thành Phố San Jose, Đồng Ký Tên Trên Tấm Bằng Tưởng Lục, Vinh Danh Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt, Đã Đóng Góp Tích Cực, Trong Nhiều Lãnh Vực Văn Hóa, Nghệ Thuật, Nhất Là Mục Tiêu Gìn Giữ Và Phát Huy Tiếng Việt, Bền Bỉ, Đạt Nhiều Thành Tích, Đáng khen Ngợi, Trên 30 Năm Qua!
Thị Trưởng Và Các Nghị Viên Thành Phố San Jose, Đồng Ký Tên Trên Tấm Bằng Tưởng Lục, Vinh Danh Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt, Đã Đóng Góp Tích Cực, Trong Nhiều Lãnh Vực Văn Hóa, Nghệ Thuật, Nhất Là Mục Tiêu Gìn Giữ Và Phát Huy Tiếng Việt, Bền Bỉ, Đạt Nhiều Thành Tích, Đáng khen Ngợi, Trên 30 Năm Qua!
-Trong bữa cơm ca nhạc thân mật, trong tình gia đình, nhằm Mừng Sinh Nhật của Cựu Chủ Tịch Anh Chinh Nguyên và Mừng Thượng Thọ của Cụ Bà Bùi Thị Cẩm, thân mẫu của Ca Sĩ Thiên Duyên, và phu quân là Anh Dân, cũng là thành viên của VTLV.
Nhân dịp này, thành phố đã trao một bản tuyên dương, đến VTLV, về những hoạt động, đóng góp ích lợi, phục vụ cho cộng đồng, thành phố qua thời gian dài.
Nhà Thơ Chinh Nguyên và Anh Lê Văn Hải, cùng hiện diện trên sân khấu, đã trang trọng nhận bằng khen này, qua đại diện Ông Thị Trưởng, là Cô Tara Đặng và Anh Biên Đoàn, Nghị viên khu vực 7.
Nói đến VTLV, là một hội đoàn mạnh nhất, hoạt động hữu hiệu nhất, trên các lãnh vực văn học nghệ thuật, bảo tồn nét đẹp văn hóa Việt, được biết qua rất nhiều sinh hoạt, một năm ít nhất là 4, 5 lần: Những chiều nhạc chủ đề thơ văn, những buổi ra mắt sách, yểm trợ mọi sinh hoạt gìn giữ và phát huy tiếng Mẹ, nhất là cho giới thế hệ trẻ. (Như Tháng 11 tới đây, sẽ có một chương trình lớn, quy mô, dành cho tuổi thơ!) Đây là lãnh vực đặc biệt, hiếm hoi, ít thấy hội đoàn nào hoạt động, nên chính vì thế, buổi tổ chức nào của VTLV, cũng rất thành công!
Như hôm qua, khách tham dự chật cứng! phải kê bàn thêm, trên cả lối người đi bộ! Ít khi nào thấy cảnh lạ này!
Buổi cơm thân mật, diễn ra rất vui tươi độc đáo, với nhiều tiết mục hay lạ, ý nghĩa, người tham dự khó quên! Đông hơn sự mong muốn của BTC, vì có lẽ từ nhóm ca sĩ của Thiên Duyên, chưa kể ảnh hưởng không khí lễ hội những ngày cuối năm, bắt đầu rộn ràng!
KhôngQuan Lê Văn Hải
THƠ MỪNG SINH NHẬT ANH CHINH NGUYÊN
ANH! NGƯỜI CON CỦA CỘNG ĐỒNG
(Chúc mừng sinh nhật anh CHINH NGUYÊN)
Chúc Mừng ngày sinh nhật
Của cố vấn Chinh Nguyên
Toàn Văn Thơ Lạc Việt
THƯƠNG ANH!
Mong anh luôn bình yên!
*
Năm tháng qua, anh vẫn
Làm việc giúp cho đời
Văn Thơ Lạc Việt dẫn
NHỜ ANH!
Giúp tiến lên rạng ngời!
*
Bệnh tật quá vô tình,
Sao nỡ vào phá anh!
Cầu Chúa Trời ban phước
CHO ANH!
Hạnh phúc tràn ngày sinh.
*
Chinh Nguyên ơi, anh là,
Văn thi sĩ tài cao
Tấm lòng bao la rộng
ƠN ANH!
Giúp không vụ lợi nào.
*
Hội Văn Thơ Lạc Việt,
Anh điều hành khéo tài
Tình yêu văn hoá Việt
CÓ ANH!
Đem truyền tải từng ngày.
Chúc anh mau lành bệnh,
Vui khỏe khỏe hoài hoài
Mọi người đều yêu mến
QUÝ ANH!
Người con cộng đồng này!
HAPPT BIRTHDAY ANH CHINH NGUYÊN!
Phương Hoa & Minh Thúy – OCT 19, 2024
Chúc Mừng Sinh Nhật Anh Chinh
Chúc mừng sinh nhật cựu Nguyên Chinh
Bạn hữu đông vui trọn nghĩa tình
Hội trưởng Văn Thơ tràn tiếng tốt
Thi đàn Lạc Việt ngập danh vinh
Trà sen hợp xướng chung bàn tiệc
Tửu nhạc hòa ca kết bóng hình
Sức khỏe dài năm gìn hạnh phúc
Cuộc đời đẹp tựa nắng bình minh
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 10/19/24
Thông Tin Từ Trang Nhà Của Nhà Báo Mac Phương Đình:
Cuối tháng 11 năm 2024, bà Cindy Chavez, giám sát viên khu số 2 của Quận hạt Santa Clara, sẽ chấm dứt chức vụ và di chuyển về tiểu bang New Mexico để nhận công việc mới. Bà đã trải qua ba nhiệm kỳ hoàn tất công tác nội trợ cho khu vực quan trọng của kinh đô điện tử toàn thế giới. Từ một cô sinh viên trẻ tuổi sinh ra tại New Mexico, bà đến San Jose theo học tại SJSU và xây dựng sự nghiệp chính trị từ thành phố qua quận hạt. Năm nay 60 tuổi, bà trở về và tiếp tục làm việc tại cố hương.
Người phụ nữ gốc Mexico này đã trải qua nhiều năm làm nghị viên, rồi phó thị trưởng San Jose. Sau đó, bà đảm nhiệm ba nhiệm kỳ làm giám sát viên Quận Santa Clara trong 12 năm. Khi ra đi, bà Cindy Chavez đã để lại rất nhiều tình cảm của biết bao sắc dân địa phương, bao gồm cả cộng đồng người Việt tị nạn.
Riêng về công việc quản trị khu số 2 của Quận, nơi có 400.000 dân, nay bà sẽ làm quản trị viên cho quận lớn nhất ở New Mexico là Bernalillo với 672.000 dân. Sự khác biệt là từ công tác chính trị chuyển sang nhiệm vụ quản trị hành chánh. Các sắc dân địa phương thường biết đến chính khách qua các kỳ bầu cử, nhưng đối với riêng các giám sát viên quận hạt, mối liên hệ tình cảm lại nhiều hơn danh nghĩa cử tri.
Bà Chavez ra đi là một sự mất mát quan trọng của cả cộng đồng. Chúng tôi còn nhớ lại câu chuyện hơn 20 năm trước, khi có dịp gặp Cindy, phó thị trưởng San Jose đến tham dự buổi ra mắt dự án Việt Museum tại nhà hàng Kobe do luật sư Đinh Thành Châu bảo trợ. Hôm đó, đại tá không quân Vũ Văn Ước hát một bài tình ca tiếng Mexico giọng Tây Ban Nha để tặng cho cô dân cử trẻ tuổi, làm quen với cộng đồng Việt Nam. Tháng sau, cô dân cử thành phố tiếp tục tò mò đến thăm Khu bảo tàng bắt đầu triển lãm trên đường Park.
Ngày nay, Việt Museum chính thức hình thành trong San Jose History Park, nhưng các nhân vật cũ của chúng tôi đã lần lượt ra đi. Đối với riêng cơ quan IRCC, Việt Museum và Dân Sinh Media, chúng tôi đặc biệt trân trọng sự yểm trợ của Quận hạt Santa Clara trong suốt 30 năm công tác hỗ trợ dịch vụ di dân và tị nạn. Tuy nhiên, thành quả cụ thể đáng ghi nhận là tình cảm của hai vị giám sát, ông Dave Cortese và bà Cindy Chavez, đã xây dựng cho cộng đồng Việt một trung tâm dịch vụ Việt-Mỹ trị giá 70 triệu Mỹ kim. Thêm vào đó, Quận hạt đã dành số ngân khoản quan trọng hoàn tất bức tường Chiến sĩ Mỹ-Việt trong chiến tranh Việt Nam tại Vườn Truyền Thống Việt.
Chúng tôi phải thành thực ghi nhận rằng trong số 58 quận hạt tại California và tổng số 3071 quận hạt toàn quốc, không nơi nào có được một trung tâm danh dự như thế. Thêm một ý nghĩa đáng trân trọng là bà giám sát viên hết nhiệm kỳ đã tin tưởng và yểm trợ cho cô luật sư goc Viet Betty Duong tranh cử thay thế để tiếp tục con đường làm việc cho các sắc dân thuộc khu số 2. Một quyết định rất có tình và hợp lý. Phần còn lại do Trời quyết định.;Phần bà Chavez, gia đình nhà cửa vẫn còn ở San Jose, người sẽ trở lại…..
Cindy Chavez, Returning to Her Roots
At the end of November 2024, Cindy Chavez, supervisor of District 2 in Santa Clara County, will step down from her position and move to New Mexico to take on a new role. She has completed three terms serving this critical region in the heart of the global tech capital. From a young student born in New Mexico, she came to San Jose to attend SJSU and built her political career from the city to the county level. Now, at 60 years old, she returns to her roots to continue her work.
This woman of Latino descent spent years as a councilmember and then as vice mayor of San Jose. After that, she served three terms as a Santa Clara County supervisor, a total of 12 years. When she departs, Cindy Chavez will leave behind the warm sentiments of many local communities, including the Vietnamese refugee community.
In her role overseeing District 2, which has 400,000 residents, she will now transition to becoming an administrator for Bernalillo, the largest county in New Mexico, with 672,000 residents. This marks a shift from political work to administrative governance. While local communities often recognize politicians through elections, for county supervisors, the relationships tend to go beyond just the voter-candidate dynamic, forming more personal connections.
Cindy Chavez’s departure is a significant loss for the entire community. We fondly recall more than 20 years ago when we had the chance to meet Cindy, then vice mayor of San Jose, at the launch of the Viet Museum project at Kobe Restaurant, sponsored by attorney Dinh Thanh Chau. That day, Colonel Vu Van Uoc sang a Mexican love song in Spanish to welcome the young public official to the Vietnamese community. The following month, this curious city councilmember continued her interest by visiting the exhibition at the Museum site on Park Avenue.
Today, the Viet Museum is officially part of the San Jose History Park, but many of our original figures have since passed. For IRCC, the Viet Museum, and Dan Sinh Media, we especially appreciate the support Santa Clara County has provided over 30 years of assisting refugee and immigrant services. Notably, the deep care from two key supervisors, Dave Cortese and Cindy Chavez, helped the Vietnamese community build a Vietnamese-American service center worth 70 million dollars. Additionally, the county allocated significant funds to complete the Vietnam War Veterans Memorial at the Viet Heritage Garden.
We must sincerely acknowledge that among the 58 counties in California and the total 3,071 counties nationwide, no other place has such an honorary center. Another noteworthy gesture is that Supervisor Chavez, upon completing her term, has endorsed and supported attorney Betty Duong, a Vietnamese-American candidate, to succeed her and continue working for the diverse communities in District 2. It was a thoughtful and sensible decision, and the rest will be left to fate.
Mây đen kéo tới vào khoảng xế trưa thì chạng vạng trời đổ mưa như thác lũ, đồng ruộng vốn hạn hán từ mùa hè năm Giáp Thân nên trận mưa này là một ân sủng cho nông gia, nhưng thành An Tôn lại bị sạt lở lũy tây nam, cuốn hết những kỳ hoa dị thảo trong vườn thượng uyển trôi ra sông Mã (Sông Mã là một con sông của Việt Nam và Lào có chiều dài 512 km, trong đó phần trên lãnh thổ Việt Nam dài 410 km và phần trên lãnh thổ Lào dài 102 km. Lưu vực của sông Mã rộng 28.400 km², cao trung bình 762 m, độ dốc trung bình 17,6%, mật độ sông suối toàn lưu vực 0,66 km/km². Phù sa sông Mã là nguồn chủ yếu tạo nên đồng bằng Thanh Hóa lớn thứ ba ở Việt Nam. Sông Mã bắt đầu bằng hợp lưu các suối ở vùng biên giới Việt – Lào tại xã Mường Lói phía Nam huyện Điện Biên ngày nay)
Thật ra thành An Tôn tức Tây Đô mới vừa xây vào tháng Giêng năm Đinh Sửu (1397) dưới triều Trần Thuận Tông niên hiệu Quang Thái thứ Mười, tổng công trình sư do quyền thần Hồ Quý Ly đương kim giữ chức vụ Nhập nội Phụ chánh Thái Sư Bình chương quân quốc trọng sự tước Tuyên Trung Vệ quốc Đại vương Tể tướng chỉ huy. Hoàn tất trong thời gian ngắn, họ Hồ đã nuôi mộng soán ngôi để di dời cố đô vào nơi đây cai trị, do đó mà ba năm sau tức năm Canh Thìn (1400) ông lật đổ nhà Trần rồi lập nên nhà Hồ, liền quyết định thay đổi cơ cấu trung ương.
Thành xây trên đất Tây Giai và Xuân Giai thuộc tỉnh Thanh Hóa để làm kinh đô nước Đại Ngu bằng đá ong đặc biệt với lối kiến trúc tinh vi, độc đáo hiếm có thời bấy giờ; những thành lũy bằng những phiến đá rất lớn xây dựng chớp nhoáng trong vòng ba tháng mà đến bảy thế kỷ sau vẫn còn tồn tại, đó là điều khó lý giải những đặc thù kiến trúc thời trung cổ.
Mục tiêu của Hồ quý Ly là phế bỏ triều Trần mạt vận, sáng lập vương triều mới để thực thi một loạt chính sách cải cách về các mặt chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục nhằm thay đổi cuộc khủng hoảng di lụy bởi cuối triều Trần đặng củng cố chính quyền trung ương và chuẩn bị cuộc kháng chiến chống nhà Minh xâm lược. Đây là cuộc cách mạng táo bạo mà Hồ Quý Ly dám thực hiện, với cái nhìn khách quan thì ông ta là một nhà cải cách lớn với một hệ thống chính sách và biện pháp khá toàn diện, quy mô.
Tây Đô xây cất nơi địa thế đầy hiểm trở, có lợi thế về phòng ngự quân sự, bảo vệ quốc phòng bởi sông nước bao quanh, có núi non trùng điệp, vừa mang ý nghĩa chiến lược phòng thủ, vừa phát huy được ưu thế giao thông thủy bộ; nhưng về mặt chính trị, thương mại thì vô cùng khó khăn. Lối kiến trúc bao gồm thành nội và thành ngoại, phía ngoài được đắp bằng đất với số lượng gần trăm ngàn mét khối, trên trồng tre gai dày đặc cùng với một khoảng hào sâu có bề mặt rộng gần tới năm mươi thước bao quanh.
Bên trong là thành nội có mặt bằng hình chữ nhật chiều bắc nam và đông tây dài gần một cây số, phía ngoài của thành nội ghép thẳng đứng bằng đá khối kích thước trung bình dài hai thước, rộng một thước và dày bảy phân, mặt trong đắp đất. Bốn cổng thành theo chính hướng tiền nam, hậu bắc, tả đông, hữu tây đều xây kiểu vòm cuốn, đá xếp múi bưởi, trong đó to nhất là cổng chính Nam gồm ba cửa cuốn dài ba mươi bốn thước, cao mười thước, rộng mười lăm thước; các phiến đá xây đặc biệt lớn có độ dài tới bảy mét, cao gần hai mét, và nặng chừng mười lăm tấn.
Sức người như vậy phải điểm tô non sông hùng vĩ hơn, các triều đại hưng thịnh hay suy trầm đều nghĩ đến việc rèn luyện nhuệ khí thanh niên, kiến thiết nơi quyền lực kiên cố để lãnh đạo muôn dân bảo vệ giang sơn.
Người dân bao đời vẫn một nắng hai sương, triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần cũng vậy mà sau này cũng chẳng đổi thay nhiều. Cánh đồng bát ngát phía chính nam luôn trù phú, trúng mùa nên con trâu có phần mập mạp mà ruộng rẫy phía tây cũng sản sinh bao nhiêu ngô khoai đậu sắn khả dĩ làm phong phú cuộc sống nhân dân.
Tây đô nằm giữa sông Mã và sông Bưởi, thuộc địa giới của Vĩnh Tiến, Vĩnh Thành, Vĩnh Long, Vĩnh Yên, Vĩnh Quang, Vĩnh Ninh, Vĩnh Khang, Vĩnh Lộc và Vĩnh Phúc. Những chữ “Vĩnh” này là một ý chí của tiền nhân trong sự nghiệp bảo vệ dân tộc vĩnh cửu trường tồn.
Làng Cổ Định nằm trên hữu ngạn sông Mã, một vùng quê với ruộng đồng trù phú, phong cảnh hữu tình mà dân cư lại vô cùng khai phóng. Trong làng từ buổi ban sơ đã có người thi đỗ đại khoa. Xuyên suốt dòng lịch sử các triều đại Lý, Trần thì làng này đã có người được cử làm Chánh sứ sang bang giao với nhà Tống, nhà Nguyên, lại có kẻ làm đến chức Thừa tướng. Cuộc sống của hơn ba nghìn người đầm ấm yên vui, kẻ nông dân chăm lo cày cấy trên đồng, bậc nho sĩ miệt mài sôi kinh nấu sử, trẻ em thành thạo chữ nghĩa thánh hiền, phụ nữ tuân hành tam tòng tứ đức thì tai hoạ ập đến với làng….
Triều đại nhà Hồ đã bị tiêu diệt năm Đinh Hợi (1407) do đoàn quân xâm lược của Minh triều. Tháng Mười năm đó, Trần Ngỗi được Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân phò trợ lên ngôi lấy hiệu là Giản Định Vương. Mưu đồ đại sự của các đại tướng triều hậu Trần này là chiêu dụ nhân tài chống giặc ngoại xâm, nhưng sự nghiệp chưa thành mà Giản Định Vương lại hay nghe lời gièm pha của kẻ nịnh thần nên hai năm sau sát hại các trụ cột triều đình là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân rồi kéo cờ khởi nghĩa chống Minh, cuộc cờ chưa bao lâu thì Giản Định Vương lại thất bại nên các người con của hai trụ cột triều đình là Đặng Dung (thân tử của Đặng Tất) và Nguyễn Cảnh Dị (Thân tử của Nguyễn Cảnh Chân) lập Trần Quý Khoáng lên ngôi, niên hiệu là Trùng Quang vào năm Kỷ Sửu (1409). Cuộc khởi nghĩa tiếp tục chống quân nhà Minh kéo dài được bốn năm đến mùa Thu năm Quý Tỵ (1413) thì Trùng Quang cũng thất bại và bị tiêu diệt. Trong đoàn quân của triều đình có một võ quan nhỏ xuất thân từ nông dân tên là Nguyễn Chích, sức khỏe mạnh bạo, võ thuật cao cường bèn trốn thoát chạy về núi Hoàng Nghiêu phía tây tỉnh Thanh Hóa gần làng Cổ Định lập căn cứ chống lại giặc Minh.
Tướng giặc là Trương Phụ, Mộc Thạnh nhiều lần mang quân đến vây diệt, nhưng lần nào cũng thất bại nặng nề. Giặc Minh nhận thấy, ngoài căn cứ Hoàng Nghiêu, thì cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Chích phụ thuộc nhiều vào việc cung cấp lương thực và quân binh của nhân dân quanh vùng, trong đó có làng Cổ Định. Vì thế, năm Ất Mùi (1415), tướng giặc Trương Phụ xua quân đến vây giết cả làng. Hơn ba nghìn người bị sát hại, một số bị bắt đưa về Trung Quốc, chỉ còn mười tám người chạy thoát. Trong số trai tráng trốn thoát ấy có năm người thanh niên tên là Lê Lôi, Doãn Nổ, Lê Thìn, Lê Luận và Lê Lai.
Ngược thời gian về những năm tháng trước đây thì gia đình của Tiến sĩ Thanh Vận Sứ Lê Duy Luật trong thời đại cuối nhà Trần có ba người con trai tên là Lê Luận, Lê Lai và Lê Lôi đều là những người trai tráng sức khỏe cang cường. Khi Trương Phụ xua quân tới đánh giết dân làng thì ba anh em họ Lê bị bắt áp giải mang về Tàu. Trên đường lội bộ với quân Minh thì Lê Luận giả đò làm kẻ ngu đần, điếc lác, vừa la, vừa khóc, vừa cười nên bọn binh lính nhà Minh không thèm để ý. Khi đi ngang qua vùng núi hiểm trở ở Thanh Hóa vào ban đêm thì Lê Luận cùng hai em là Lê Lai và Lê Lôi trốn thoát vào rừng. Trong khi vượt thoát đầy hiểm nguy thì Doãn Nổ và Lê Thìn cũng tìm cách thoát thân, chạy theo ba anh em Lê Luận đào tẩu xuống hướng đông dọc bờ biển rồi tìm cách quy tụ dân làng quyết khởi nghĩa chống lại ngoại bang.
Đất Lam Sơn thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa là nơi có phong thủy hữu tình, cây cối tươi tốt, ruộng đồng phì nhiêu và dân tình khoáng đạt. Từ cuối đời nhà Trần thì nơi đây hoang vu, chướng khí được gọi là Lộ Khả Lam như những làng xã của thời cận đại. Một hôm có chàng thanh niên nho nhã đi dạo chơi ven bờ rừng thấy bầy chim bay lượn trên không ra chiều đất lành chim đậu. Chàng thanh niên sau đó có vợ và nghĩ đến vùng đất có nhiều bầy chim bay về làm tổ nên cùng vợ đến đây khai hoang, lập ấp. Người thanh niên đầy gan dạ ấy là ông Lê Hối cùng vợ là bà Nguyễn thị Ngọc Duyên ngày đêm phát gai làm ruộng, đốn cây làm chòi, chăm lo đồng áng, một nắng hai sương. Chẳng bao lâu sau, nơi ấy đã quy tụ vài chục nóc gia gồm những người thân tộc và hàng xóm kéo về đây cùng khai hoang, xây dựng tổ ấm. Ông Lê Hối là người tiên khởi nên được dân làng bầu làm Trưởng Lộ, hàng ngày lo việc phát triển xóm giềng, mở trường dạy học và xây dựng trại ấp lớn mạnh. Sau vài năm chung sống, Ông Lê Hối sinh được người con trai là Lê Đinh thông minh, cường tráng, Lê Đinh lấy bà Nguyễn Thị Quách được dân làng yêu mến tôn làm Hào Trưởng. Con trai của Lê Đinh là Lê Khoáng tính tình điềm đạm, hiền hòa, hiếu khách nên nhà cửa lúc nào cũng có bạn bè tứ phương thăm viếng. Lê Khoáng lấy vợ là bà Trịnh Thị Thương thì gia trang trở nên trù phú, sung túc mọi bề. Danh tiếng của dòng họ nhà Lê đất Lam Sơn trở nên uy tín vì sự chăm chỉ khai khẩn đất đai trở thành hào phú, vì thế mà dân làng kính nể, mến phục và nhiều người ở những địa phương khác cũng muốn dời nhà đến đây lập nghiệp.
Vào giờ tý ngày mùng sáu tháng tám năm Giáp Tuất (1384) bà Trịnh thị Thương đã khai hoa nở nhụy sinh cho chồng một cậu quý tử mặt mày khôi ngô tuấn tú. Người con trai chào đời thì gia đình ắt phải đầy lộc, đầy tài, đầy phước, đầy hạnh nên được đặt tên là Lê Lợi. Quả nhiên, Lê Lợi càng lớn lên thì gia trang càng mở rộng, trâu bò heo gà từng đàn, ruộng nương khai khẩn hàng ngàn mẫu và những phúc lợi cho dân được hình thành để đất Lam Sơn sống trong hạnh phúc, thanh bình.
====
THĂNG HOA CUỘC ĐỜI
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Kỳ 78 Anh Hùng Lê Lợi
Thực ra Lê Lợi sinh tại quê mẹ nơi Bản Chủ Sơn, Huyện Lôi Dương tức là làng Chủa, còn đất Lam Sơn tục danh là làng Cham, vì thế người đời thường gọi quê quán của Lê Lợi là “Nội Cham, Ngoại Chủa” để khẳng định gốc gác xuất thân từ đấy. Thuở nhỏ, Lê Lợi có thiên tư tuấn tú khác thường, tinh thần và dáng người tinh anh, mạnh mẽ, mắt sáng như sao, miệng rộng hình cánh cung, răng đều với vai u thịt bắp có nốt ruồi bên phía trái. Lê Lợi có giọng nói sang sảng như chuông đồng, đi mạnh như rồng, bước lẹ như hổ, kẻ thức giả nhìn thấy đều biết rằng đây là bậc phi thường. Ông có ba anh em trai là Lê Học, Lê Trừ và Lê Lợi đều theo nghiệp cha coi sóc điền trang, ngày đêm lấy việc đọc sách và đem điều hay nói cho những người thuộc hạ học hỏi, noi theo.
Năm ngoài hai mươi tuổi, Lê Lợi cưới bà vợ cả họ Trịnh Thị sinh ra Tư Tề, và bà vợ thứ là Phạm Thị sinh ra Nguyên Long. Năm ông hai mươi lăm tuổi thì anh cả là Lê Học qua đời, Lê Trừ bịnh hoạn nên Lê Lợi đảm nhận chức Trại chủ Lam Sơn, coi sóc việc điền trang rộng lớn. Đất rộng người thưa, ông cho khai vỡ đất hoang, xây dựng xóm làng nên người bốn phương tụ về đông đúc. Những con sông chạy quanh Lam Sơn như sông Lường là mạch nước tưới tiêu, ruộng đồng phì nhiêu phát triển, đường thủy lộ thuận tiện giao thông nên việc mua bán cũng trở nên sầm uất. Từ thời lập nghiệp các cụ tổ của dòng họ Lê là những bậc tôn trưởng có phẩm chất đạo đức và lòng nhân hậu từ tâm nên được mọi người trọng vọng nể vì. Lê Lợi tiếp tục thừa hưởng nền đạo đức gia phong đó nên phẩm chất của ông cũng đượm nghĩa đồng bào bởi không nỡ thấy cảnh chèn ép, đô hộ của giặc Minh mà làm ngơ, cúi đầu cam chịu. Hàng ngày chăm sóc công việc gia trang, Lê Lợi thường chong đèn đọc sách binh thư, thao lược, nghiền ngẫm về binh pháp, kinh văn. Trong thơ Nguyễn Trãi có câu: “Ức tích Lam Sơn ngoạn võ kinh, Đương thời chí dị tại thương sinh” nghĩa là xưa kia tại Lam Sơn đã đọc võ kinh, binh thư nên cái chí vì dân vì nước đã tỏ lộ từ đấy. Quả thật, là một người chủ trại giàu có nhưng Lê Lợi luôn băn khoăn về niềm uất hận của toàn dân trước cảnh nô lệ ngoại xâm. Ông quyết nuôi chí phục thù, rửa hận cho quê hương, thách đố đối với những kẻ đã gây nên khổ nạn cho nhân dân, gieo đau thương, tai hoạ đến đồng bào khiến mảnh đất không còn đơm hoa nẩy lộc.
Trong buổi gian truân này, biết bao sĩ phu phải ngao ngán than trời trách đất như “bạc đầu không phụ ái dân tâm” nghĩa là đầu bạc nghĩ phụ tấm lòng dân thương mà chưa làm gì cho họ được. Lê Lợi cũng vậy, ông cũng đau buồn và uất hận, nhìn tình cảnh của quần chúng sa sút, ông đã chỉ đích danh kẻ thù là nguyên nhân đày đọa dân tình. Lê Lợi đã vạch mặt bọn xâm lăng, tố cáo kẻ ác độc mà giờ đây đọc lại áng văn phẫn uất, chúng ta đồng thừa nhận nó trở thành văn kiện lịch sử của văn học cổ truyền dân tộc như trong sách Lam Sơn thực lục(1) có chép rành rành:
“Tội ác của giặc đầy dẫy, thần và người đều căm giận. Chúng đào mồ mả của ta, bắt bớ dân ta, chém giết người trung lương, ngược đãi kẻ cô đơn, góa bụa, nhân dân trong nước không thể sống nổi: pháp luật và hình phạt của chúng thì hà khắc, càn rỡ, chẳng việc gì là chúng không làm, nào là cấm mắm muối làm cho nhân dân khốn đốn về việc ăn uống, nào phu phen thuế má nặng nề, làm cho của cải nhân dân cạn kiệt. Chúng bắt dân lặn biển mò châu, đào núi lấy vàng, ngà voi, sừng tê, lông trả, gỗ thơm. Bất kể những thứ gì ta có, là chúng cố hết sức vơ vét, không sót tí nào để lấp cái lòng tham muốn sâu như hang hốc. Còn người dân nước ta, chúng bảo là người phản trắc khó trị; trước hết chúng dùng mẹo, lừa bịp, buộc dân dời đi nơi khác, hòng dễ bắt lính, gây chuyện binh đao không chán. Chúng lại xây đắp hàng chục tòa thành, chia quân lính đóng giữ để trấn áp lòng người, làm cho những bậc sĩ phu mưu trí của ta không thể nhấc chân, múa tay gì được. Chúng xảo quyệt đặt dinh này, ấp nọ, xếp đặt nào quan, nào tước, lừa bắt sĩ phu ta đưa về triều rồi đem họ đi an trí ở đất Bắc, v.v..”
Những sự kiện khổ đau của nhân dân đã khiến ông quan tâm lo lắng. Trại chủ Lam Sơn đã tiếp đón biết bao nhiêu số phận hẩm hiu của đồng bào, những cảnh ngộ éo le gây nên bởi giặc Minh tàn ác. Từ những nỗi niềm đó mà Lê Lợi đã biến thành hành động, ông thiết lập Lam Sơn thành nơi trú ẩn cho người sa cơ, nuôi kẻ mưu sĩ chuẩn bị thời cơ, phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi ngoại xâm.
Phải thừa nhận Lê Lợi là người mưu trí, trại Lam Sơn cách thành Tây Đô khoảng nửa ngày đường, sát nách quân thù mà hành động không bị lộ liễu. Chủ soái Lam Sơn được thương mến và là nơi quy tụ của anh hùng hào kiệt cả nước là do lòng nhân từ, đạo đức, tâm hỷ xả từ bi; vì điều tốt lành này mà nhân dân kính trọng chắc chắn giặc Minh cũng biết mà không hại được Lê Lợi, cho thấy sự khôn ngoan và uyển chuyển của ông đã đến hàng thượng thặng. Lê Lợi thường nói: “Kẻ trượng phu ở đời nên cứu nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ đâu chịu bo bo làm đầy tớ người ta…Ta dấy quân đánh giặc không phải vì tham phú quý mà vì muốn cho ngàn đời sau biết rằng ta không chịu thần phục quân giặc tàn ngược(2)”. Chính những lời tuyên bố dõng dạc này đã nói lên tư cách của một anh hùng, không dễ gì bị giặc mua chuộc, không nao núng trước quân thù, không lơ là đến nỗi thống khổ của đồng bào và quyết tâm đánh đuổi ngoại xâm, xây dựng một quốc gia độc lập.
Năm ba mươi bốn tuổi, bước vào ngưỡng cửa trung niên ông quy tụ nghĩa binh, chiêu mộ anh hùng nhân kiệt, tích tụ lương thảo, phất cờ khởi nghĩa ngày Mùng hai tháng Giêng năm Mậu Tuất (1418), ròng rã kháng chiến liên tục mười năm, cuối cùng cũng đuổi bọn xâm lược Minh triều cuốn cờ trốn về phương Bắc, dựng xây nền tự chủ, độc lập cho nước nhà.
Thật ra Lam Sơn là vùng núi rừng bao phủ bởi những ngọn đồi chập chùng mà dân địa phương quen gọi là núi Rồng ở hướng Tây Bắc, núi Hổ, núi Voi ở phía Tây Nam, núi Dầu ở hướng Bắc và núi Cốc ở hướng Đông Nam. Tất cả địa danh núi rừng nơi đây đều gắn liền với sự kiện lịch sử mà hàng hậu bối từng bùi ngùi khi nghe lại một khúc quanh lịch sử đầy hào khí song hành với sự nghiệp chống nhà Minh xâm lược của trại chủ đất Lam Sơn. Trước khi đi vào rừng núi ấy phải ngang qua ngọn núi Dầu, đất màu nâu và cây sậy cây lau mọc um tùm phủ kín. Tương truyền rằng, Trần Nguyên Hãn và Nguyễn Trãi đi tìm minh chủ ở đất Lam Sơn nhưng không gặp được, Trần Nguyên Hãn đã giả làm một người bán dầu, đội trên đầu một thùng lớn đi bán dạo, ngang qua khu núi nầy thì dầu tung tóe đổ ra làm cho đất trở nên nâu sẫm và lau sậy ở đây dễ đốt cháy, sau này chính loại lau sậy nơi đó đã góp phần trong công tác hỏa binh, đốt cháy biết bao đồn giặc, tạo nên thắng lợi cho nghĩa quân. Cũng từ chân núi này có một bà lão thường mang dầu tiếp tế cho nghĩa quân bằng ngọn đèn leo lét trong đêm khuya. Bà là một người yêu nước tình nguyện đốt đuốc chỉ đường cho ai muốn tìm về đất Lam Sơn hội tụ. Nhiều anh tài tuấn kiệt đến được với Lê Lợi cũng nhờ ánh đèn trong đêm khuya thanh vắng đó. Sau này giặc Minh dò xét được và bắt bà giết tại ngọn núi màu nâu ấy. Chủ Trại Lam Sơn cảm niệm và thương xót hành động vì đại nghĩa nên đặt tên đỉnh ấy là núi Dầu và di chúc cho con cháu nhớ giỗ bà hàng dầu kế sau ngày Lê Lợi mất. Thành ngữ có câu, “hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi, hăm ba giỗ bà hàng Dầu” là ý nghĩa đấy.
Dòng sông xanh thẳm và uốn lượn, bao bọc núi rừng Lam Sơn phát xuất từ thượng nguồn Sầm Nưa bên đất Thượng Lào có tên là sông Chu dài khoảng một trăm ba mươi lăm dặm mà người địa phương thích gọi là tên sông Lường. Mãi về sau, sông Lường được đổi sang âm Hán Việt là Lương Giang Hà đã đi vào lịch sử dân tộc Đại Việt chống quân Minh trong giai đoạn tiền khởi nghĩa. Trong Đại Nam quốc sử diễn ca có câu: “Lương Giang trời mở châu nhân, Vua Lê Thái Tổ ứng tuần mới ra”.
Suốt năm tháng hình thành để chuẩn bị mọi mặt cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà Lê Lợi là người khởi xưóng ra cuộc tranh đấu ấy đã đề ra chủ trương, trực tiếp đứng lên tập hợp lực lượng, xây dựng tổ chức, tạo nên cơ đồ của một cuộc khỏi nghĩa đi từ phôi thai đến binh bị hùng cường và cuối cùng giành thắng lợi kinh hoàng dưới lá cờ đại nghĩa Lam Sơn là một kỳ tích vô tiền khoáng hậu. Trước đó những phong trào chống Minh phát xuất từ nhiều xu hướng chính trị khác nhau như phong trào Hậu Trần do một số quý tộc họ Trần lãnh đạo để chống Minh, khôi phục vương triều Trần gia nhưng thời thế đã khác, nhân dân chán ngán các đời vua nhu nhược nên phong trào đó dù dấy lên mạnh mẽ một thời cũng không huy động được quần chúng ủng hộ và kết quả nhanh chóng tan rã, đi đến thất bại, tàn rụi theo năm tháng.
Cũng có những cuộc khởi nghĩa chống Minh của con cháu Hồ Quý Ly nhưng dù biểu hiện lòng yêu nước, khát vọng chống ngoại xâm nhưng lãnh tụ thường cục bộ, những khuynh hướng chính trị hẹp hòi, không đoàn kết đem theo bao nhược điểm và sai lầm chủ quan dẫn cuộc kháng chiến chống Minh đến chỗ bại vong.
Từ những bài học kinh nghiệm chết người đó mà cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ lúc bình minh, Lê Lợi đã chuẩn bị ngã theo một hướng đoàn kết cùng sinh tử có nhau. Mười chín thanh niên yêu nước đồng tham dự hội thề Lũng Nhai cùng hơn năm mươi tướng văn, tướng võ của nghĩa quân cho một quyết tâm lấy sanh mạng làm niềm tin quyết thắng.
Từ núi rừng Lam Sơn và Thanh Hóa đã đón chào những công dân ưu tú của mọi miền đất nước chung lòng, đồng sức, cùng hội tụ về đây: nào Nguyễn Xí từ Thượng Xá, Nghệ An; Nguyễn Trãi từ Thăng Long, Hà Nội; Phạm Văn Xảo từ vùng kinh lộ, Thăng Long; Trần Nguyên Hãn từ Sơn Đông, Vĩnh Phúc; Bùi Quốc Hưng từ Cống Khê, Hà Tây; Lưu Nhân Chú cùng cha là Lưu Trung, anh rể là Phạm Cuống từ Đại Từ, Thái Nguyên… và hàng trăm thanh niên ưu tú nhất tề tập hợp thêm anh hùng hào kiệt bốn phương xây nên binh hùng tướng mạnh Lam Sơn tụ nghĩa.
Nhờ sự tổng hợp của trí thức, hoàng gia, nông dân, thợ thuyền, nhân dân nam nữ các cấp một lòng yêu nước nên dễ dàng thu nhiếp những cuộc khởi nghĩa khác quy về một mối như trên đất Thanh Hóa, Nguyễn Chích là một nông dân nghèo đã cầm đầu một cuộc khởi nghĩa khá lâu từ căn cứ núi Nghiêu-Hoàng đã mở rộng hoạt động khắp vùng nam Thanh Hóa, bắc Nghệ An nhưng rồi nghe danh Lam Sơn nên Nguyễn Chích đã sớm hưởng ứng hịch cứu nước của Lê Lợi, đem toàn bộ lực lượng gia nhập khởi nghĩa Lam Sơn.
Hữu xạ tự nhiên hương, đất Nghệ An có các lực lượng chống Minh như Phan Liêu, Lộ Vãn Luật ở Ngọc Ma, Nguyễn Biên ở Động Choác, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh; Nguyễn Vĩnh Lộc ở Trang Niên, Yên Thành, Nghệ An; đều tự nguyện gia nhập hàng ngũ nghĩa quân Lam Sơn, đứng dưới lá cờ cứu nước của Bình Định Vương Lê Lợi.
Nhờ sự tài tình vận dụng được sức mạnh muôn dân thì kháng chiến chống Minh đến cuối cùng nhất định phải thắng lợi. Đó là yếu tính nhân quả của văn hóa dân tộc Đại Việt từ ngàn xưa, niềm tin quyết thắng.
====
THĂNG HOA CUỘC ĐỜI
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Kỳ 79 Quân Sư Nguyễn Trãi Anh Tài
Lam Sơn nằm ở hợp lưu sông Âm và sông Lương tức sông Khải Lam, chảy theo tả ngạn có sông Sảo ngược lên Bát Mọt, phía hữu ngạn có sông Dặt chảy qua vùng Trịnh Vạn là căn cứ địa của các triều Lê Trung Hưng thế kỷ thứ mười tám sau này. Phía tây bắc có huyện Lạc Thủy, phía nam là huyện Cổ Lôi thuộc thị trấn Lôi Dương với vùng đất Ba Cồn xảy ra trận huyết chiến với Mộc Thạnh nên còn đền thờ tên giặc này ở ngay bờ sông Khải Lam cạnh bến phà Mục Sơn nối hai miền Thượng du ngược và miền Kinh xuôi , thông qua ngả thị xã Thanh Hóa đến vùng Thọ Xuân băng ngang đập Sóp Sim thuộc miền Quan Hóa nơi hai tráng sĩ Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn hơn một lần dò hỏi người cầm đầu khởi nghĩa chống quân Minh.
Bến phà Mục Sơn rất sầm uất kẻ qua người lại, thuyền chài tấp nập thương lái buôn bán ngược xuôi. Một hôm người chài lưới tên Nguyễn Thận ra giữa dòng sông quăng lưới kéo lên được thanh kiếm sắt, ông thả lại sông rồi tiếp tục chài lưới. Cả ba lần kéo lên bỏ xuống đều chài được thanh kiếm sắt này nên đành mang về nhà. Khi Lê Thận gia nhập đoàn quân khởi nghĩa Lam Sơn với nhiều thành tích vào sinh ra tử nơi trận mạc để tiêu diệt lũ giặc ngoại xâm, nhân cơ hội chủ tướng Lê Lợi đến nhà Lê Thận ăn giỗ rồi phát hiện trong gian phòng tối om lại có luồng hào quang từ thanh sắt tóe lên ánh sáng thần kỳ. Lê Lợi đến gần cầm lấy xem và nhận ra có hai chữ “Thuận Thiên” khắc sâu vào lưỡi kiếm, vì Thuận Thiên nên trao cho Lê Lợi bởi ý nghĩa từ lòng nước, phải do con người năng động tạo nên văn hóa sông nước lúa khoai để trao cho người xứng đáng, người chài lưới vẫn không quên sứ mệnh trao lại lưỡi gươm thần bảo quốc an dân cho chủ soái Lam Sơn làm thống suất. Lúc ra về, Lê Lợi bắt gặp một chuôi kiếm thật đẹp nằm trên vệ đường liền nhặt lên rồi lắp lưỡi vào chuôi thì kỳ lạ thay, vừa vặn khớp nhau.
Đất Lam Sơn bao bọc một vùng rừng núi trù phú với các địa điểm từng ghi dấu ấn của cuộc khởi nghĩa chống nhà Minh. Uyên Thọ Xuân, Ngọc Lặc, Thường Xuân đến những nơi xa hơn như Thiệu Hóa, Đông Sơn Hoằng Hóa, Quảng Xương đều lưu lại những chứng tích hoặc di tích hay huyền thoại không kém phần linh ứng. Rừng Lim gần Lam Sơn là quân trường thao tập cho nghĩa quân ngày đêm, có những vòng tròn từng cây lim cổ thụ là nơi Nghĩa Quân thường buộc chân voi. Xã Thọ Hải có dốc Hương là nơi dân chúng tụ hội đốt hương đón chào đoàn quân khởi nghĩa ca khúc khải hoàn, làng Xuân Phá sản sinh những quyền thuật lồng dưới điệu múa Bình Ngô phá trận, chư hầu lai triều để rèn luyện thanh niên nam nữ ứng biến nhanh lẹ trong nghệ thuật phòng thân, phản công hay chiến đấu trong điều kiện tay không. Mỗi làng xã đã khẳng định tấm lòng yêu nước của người dân quê đầy trung hậu nhưng kiên quyết, đầy nhân từ nhưng luôn cảnh giác cao độ.
Ca dao có câu “Sông Cầu Chày chó lội đứt đuôi” đã nhắc đến sự tích người nông dân đánh lừa đoàn quân Minh để giúp Lê Lợi có thời gian chạy thoát khi quân giặc bao vây vùng yên Định hướng đông bắc Lam Sơn. Mấy tháng sau, khi Lê Lợi đem nghĩa quân ngang qua huyện Ngọc Lặc thì thấy một thây ma vô chủ đang chết giữa đường, động lòng nhân từ, ông bèn sai đào huyệt chôn cất tử tế thì vừa lúc ấy quân nhà Minh mai phục xông lên vây đánh. Lê Lợi chạy vào gốc cây Xé thật to thì quân Minh vừa trờ tới, chúng lấy giáo đâm túi bụi vào gốc cây Xé trúng vào đùi Lê Lợi, ông vội lấy vạt áo chùi máu nên không bị phát hiện. Đến lượt chó ngao đánh hơi thì một chú kỳ đà từ trên cao nhảy xuống khiến lũ chó đuổi theo bắt kỳ đà, nhờ vậy mà Lê Lợi thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Do đó mà cánh đồng chó đã nên danh từ đấy và gốc cây Xé trở nên linh mộc được dựng miếu thờ tự. Chính chú kỳ đà là hiện thân của người đàn bà xấu số vừa được an táng nên báo ơn cứu mạng Lê Lợi khiến người dân ở vùng Kiên Thọ, Nguyệt Ấn thuộc huyện Ngọc Lặc không bao giờ săn bắt kỳ đà làm thịt. Kiên Thọ cũng là quê hương của Tráng Sĩ “dịch bào thế quốc” Lê Lai, tức là người anh hùng đổi áo thay mặt vua, vị quốc vong thân. Vùng Ngọc Lặc có nhiều đồng bào Mường cư ngụ, xa hơn về hướng tây bắc ở đất Lạng Thánh, Bá Thước thì có dân tộc Thái cư trú; những sắc dân thiểu số này đã hợp lực với người Kinh để chống quân Minh là một tình cảm thiêng liêng tiêu biểu cho tinh thần đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm thời kỳ chống bắc thuộc lần thứ tư.
Phía tây nam Lam Sơn có huyện Thường Xuân, Như Xuân và Trường Xuân là vùng đất có đặc sản quý hiếm về loài dược mộc tức cây quế đã nổi danh khắp nước từ xưa đến nay. Trên vùng đồi Thường Xuân có một hòn đá phẳng phiu day mặt về dòng Lam Giang là nơi nghĩa quân quy tụ dưới trăng mài kiếm tập luyện thi thố tài năng. Một hôm Lê Lợi cùng nghĩa quân đang nghỉ chân trên hòn đá lớn thì các bô lão trong làng mang một bình rượu hiến tặng. Cảm kích tấm lòng của những người dân chất phác nhưng chỉ có một vò rượu mà quân sĩ quá đông, Lê Lợi bèn mang chum rượu đổ xuống dòng sông Lam Giang rồi cùng ba quân tướng sĩ múc uống, ai nấy cùng hoan hỷ vô ngần nên từ đó hòn đá được đặt tên là hòn Khao, tức là khao quân đãi tiệc. Trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi có viết nên câu: “Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào” phải chăng diễn tả lúc ba quân đồng lòng hiệp sức mà mang đến thành tựu vẻ vang, dựng độc lập, tự chủ cho nước nhà muôn thuở.
Đất Lam Sơn đã đi vào lòng người vì nơi ấy đã trở thành chiến tích, tuy nhiên một địa danh quan trọng trong tiến trình khởi nghĩa vào ngày mùng Hai tháng Giêng năm Mậu Tuất (1814) chính là nơi Mường Tẩm (Mường tẩm tức là Mường chính thuộc xã Quang hiếu, quận Lan chánh ngày nay) xã Quang Hiếu, huyện Lang Chánh, bản Mường này cách Lam Sơn khoảng chừng ba mươi dặm nằm lọt trong khu núi rừng hiểm trở, chung quanh có các bản Mường Rang, Mường Giao Lão đầy cây cao bóng mát phủ che, để đánh lạc hướng của quân địch nhà Minh, Lê Lợi đã chọn một địa thế vừa hiểm trở, vừa bảo mật mà đường giao thông cũng có thể tiến thối an toàn.
Tại làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương có một thanh niên nho sĩ văn hay chữ tốt tên là Nguyễn Ứng Long tức Nguyễn Phi Khanh(Nguyễn Phi Khanh: Ông sinh năm 1355 tại xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Tây. Ông tên thật là Nguyễn Ứng Long, sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống võ tướng. Nhưng ông lại là người say mê văn chương, am tường kinh sách, thơ phú, nên thuở trẻ khi chưa đỗ đạt, ông được quan Tư đồ Trần Nguyên Đán mời vào dạy học cho con gái đầu là Trần Thị Thái. Đó cũng là cơ duyên để ông trở thành con rể của vị Tư đồ danh tiếng này. Và vì thế, từ trước đến nay, ông được biết đến nhiều có lẽ chủ yếu là vì ông là con rể Trần Nguyên Đán và là cha đẻ của Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc văn võ kiêm toàn hơn là với tư cách một nhà thơ tiêu biểu của thời Vãn Trần. Ông để lại nhiều tác phẩm có đóng góp quan trọng vào sự phát triển của lịch sử văn học thời đó.Ông bị quân Minh bắt đem về Tàu năm 1407 và mất khoảng năm 1428) cưới con gái của quan Tư đồ Trần Nguyên Đánlà Trần Thị Thái sinh ra Nguyễn Trãi năm Canh Thân (1380), tư chất thông minh, học hành thông đạt từ thuở nhỏ. Năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly phế truất vua Trần Thiếu Đế, lật đổ nhà Trần, thành lập nên triều đại nhà Hồ; để kén chọn anh tài giúp nước, cũng trong năm đó, nhà Hồ mở khoa thi Nho học, Nguyễn Trãi tham dự và đỗ Thái học sinh, đứng hàng thứ tư nên được trao chức Ngự sử đài Chính chưởng. Nguyễn Phi Khanh cũng ra làm quan đến chức Hàn Lâm viện học sĩ kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Năm Đinh Hợi (1407), Minh Thành Tổ phái Trương Phụ đem quân xâm lược nước Đại Ngu, nhà Hồ kháng chiến thất bại, Hồ Quý Ly cùng nhiều triều thần bị bắt và bị đem về Tàu, Nguyễn Phi Khanh cũng chung số phận nên trước lúc từ biệt gia đình, dặn dò Nguyễn Trãi phải tìm mọi cách để đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Sau khi từ biệt cha, Nguyễn Trãi lênh đênh khắp chân trời góc biển, ngày nọ qua ngày kia mà không làm sao tìm được minh quân. Suốt chặng đường mười năm phiêu lãng, Nguyễn Trãi có cơ hội nghiên cứu phương sách diệt giặc Minh, cứu muôn dân đồ thán.
Một hôm Nguyễn Trãi kết giao với người anh em phía ngoại tức Trần Nguyên Hãn và cả hai nghe tiếng của Lê Lợi đất Lam Sơn là người đang chiêu nạp anh tài giúp nước. Hai người ngày đi đêm nghỉ, chẳng bao lâu tới được đất Lam Sơn, bọn họ cùng nán lại giả làm kẻ buôn bán để dò la tin tức. Quả nhiên mỗi ngày đều thấy các anh hùng kéo tới tụ hội khá đông nên Nguyễn Trãi quyết định ra mắt Lê Lợi bằng bản sách nghiên cứu chống Minh tên là Bình Ngô sách lược, trong đó Nguyễn Trãi vạch ra ba kế sách đánh quân Minh mà chủ yếu là “tâm công”, đánh vào lòng người để đi đến chiến thắng.Lê Lợi xem xong lòng rất hoan hỷ, phục tài hiểu thấu binh thư mà văn phong sáng tỏa uyên thâm, liền trọng vọng rồi mời Nguyễn Trãi vào Ban tham mưu.
Thật ra, khi nhà Hồ mất, quân Minh xâm lược, trăm họ lầm than, Trần Nguyên Hãn người huyện Lập Thạch, cháu nội Tư đồ Trần Nguyên Đán, có học thức, giỏi binh pháplà nhà quân sự, thông thái thuộc dòng dõi nhà Trần nuôi chí cứu đời giúp dân. Một hôm đến lễ thần ở đền Bạch Hạc, thấy thần ở đền núi Tản Viên bảo với thần ở đền Bạch Hạc rằng trời đã sai Lê Lợi, người ở Lam Sơn làm vua nước An Nam. Vì thế ông mới vào Thanh Hóa tìm Lê Lợi, một lòng theo. Lê Lợi biết tài lược của ông, đãi ngộ rất hậu, cho dự bàn mưu kín, cho theo đánh giặc luôn lập công. Năm Ất Tỵ (1425), ông được Lê Lợi lệnh cho ông cùng Thượng tướng Lê Nỗ, chấp lệnh Lê Đa Bồ đem hơn 1000 quân và một con voi đi đánh các xứ Tân Bình, Thuận Hóa (tức là các tỉnh từ Quảng Bình đến Thừa Thiên-Huế ngày nay), bao vây Đông Quan, công phá thành Xương Giang và chặn đường tiếp tế của quân Minh trong Trận Chi Lăng, Xương Giang đem đến thắng lợi cho nghĩa quân Lam Sơn năm 1427.
====
THĂNG HOA CUỘC ĐỜI
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Kỳ 80 Chung Một Lời Thề
Cùng nhau chung một lời thề; Hết quân xâm lược mới về bên nhau!Để có một đội ngũ những người tâm huyết, tin yêu và trung thành với lý tưởng phục vụ dân tộc, vì đại nghĩa giải phóng đồng bào khỏi ách nô lệ của giặc Minh, sau khi đã có nhiều anh hùng hào kiệt khắp nơi kéo về quy tụ, qua những cuộc bàn bạc về kế sách đánh đuổi giặc Minh, chủ trại Lam Sơn không thể không kết thâm tình cùng sống cùng chết với những anh hùng nghĩa hiệp khác, do đó trong cuộc họp dưới ánh trăng với nhiều nghĩa sĩ khác, Lê Lợi đã đề nghị kết tình thâm nguyện cùng sống chết trung thành tuyệt đối với lý tưởng cao quý đánh đuổi ngoại xâm. Chẳng ngờ vừa đưa ra ý kiến thì toàn bộ ban tham mưu đồng nhất tề hưởng ứng đòi chích máu ăn thề như Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi của Hội Bàn Đào (Hội bàn đào là Lưu Bị kết giao với Quan Vũvà Trương Phi ở gốc cây đào sau khi ăn tiệc. Ba người rất thân thiết với nhau, coi nhau như anh em một nhà. Lưu bị làm anh, đến Quan Vũ tức Quan Vân Trường và em út là Trương Phi) ngàn năm về trước.
Bấy giờ giặc Minh lùng sục giữ lắm, Lê Lợi chọn một nơi vừa linh thiêng, vừa bí mật mà cũng là nơi lui tới của nghĩa quân, đó là Lũng Nhai tại làng Lũng Mi, xã Ngọc Phụng, huyện Thường Xuân. Nơi đây có một bãi đất vuông vức, sạch sẽ, cây cối chung quanh che mát. Buổi sáng ngày Mùng Một tháng Hai năm Bính Thân (1416) khi núi rừng còn chìm trong sương sớm, Lê Lai đã chuẩn bị hương hoa trà quả, đèn đuốc sáng trưng, rượu cất mấy vò và bánh mứt vài mâm. Ánh bình minh vừa chiếu tia nắng xuyên qua rừng cây tỏ lộ mọi vật thì mười tám tráng sĩ y phục chỉnh tề cũng vừa kéo đến. Những người này không ai nói với ai, sự trang nghiêm tuyệt đối đó đã toát lên tính chất linh thiêng, huyền diệu mà hồn thiêng sông núi đang tỏa sáng bước đi đại nghĩa của những anh hùng kiệt xuất này. Theo tuần tự thứ lớp, mười tám nghĩa sĩ tề tựu ngay ngắn trước bàn thờ tổ quốc với khói hương nghi ngút gồm có:
Người thứ nhất là Lê Lai (1380 – 1419) là người làng Dựng Tú, sách Đức Giang, huyện Lương Giang, phủ Thanh Hóa. Ông sinh năm Canh Thân (1380), tính tình cương trực, dung mạo khác thường, chí khí cao cả, lẫm liệt, giàu lòng yêu nước, căm thù giặc Minh. Lê Lai cùng Lê Lợi và mười bảy người tổ chức hội thề Lũng Nhai nguyện một lòng đánh giặc cứu nước, ông được trao chức Tổng quản phủ Đô, tước quan nội hầu.
Ngày 18 tháng 8 năm Kỷ Hợi (1419), khi nghĩa quân bị giặc Minh vây hãm trên núi Chí Linh lần thứ hai, không còn đường rút lui, tình hình trở nên cấp bách, Lê Lợi họp các tướng bàn cách thoát hiểm, nhiều tướng đòi quyết chiến với giặc, riêng Lê Lai đã xin liều mình đổi áo cứu Lê Lợi, bảo toàn lực lượng nghĩa quân, ông nói: “… Bây giờ nguy khốn thế này, nếu ngồi giữ được mảnh đất nguy hiểm, Vua tôi đều bị tiêu diệt, sợ sẽ vô ích, nếu theo kế này may ra có thể thoát được, kẻ trung thần chết vì nước nào có tiếc gì…”, sau đó Lê Lai dẫn hai thớt voi và năm trăm quân sĩ xông tới doanh trại giặc quyết chiến và hi sinh anh dũng năm Kỷ Hợi (1419). Sau khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi hoàn toàn, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), xét công văn thưởng cho các vị khai quốc công thần, Lê Lai được phong làm công thần hạng nhất, tặng là: “Suy trung đồng đức, hiệp mưu bảo chính Lũng Nhai công thần”, hàm thiếu úy, thụy là Toàn Nghĩa. Tháng Mười hai năm Thuận Thiên thứ hai (1429), vua sai Thượng thư hành khiển Nguyễn Tiến viết hai bản thề ước trước và lời thề ghi nhớ công lao của Lê Lai để trong rương vàng, lại gia phong cho ông hàm Thái úy.
Năm Thái Hòa thứ nhất Quý Hợi (144) đời vua Nhân Tông, Lê Lai được ban tặng là Bình Chương quân quốc Trọng sự, ban cho túi kim ngư (túi cá vàng) và Kim Phù (ấn bằng vàng), tước huyện thượng hầu. Năm Canh Dần, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất (1470) – đời vua Lê Thánh Tông, ông được tặng là Diên Phúc Hầu.
Năm Giáp Thân niên hiệu Hồng Đức thứ mười lăm (1484), ông được tặng Thái úy Quốc công, sau gia phong là Trung Túc Vương.
Người thứ hai là Lê Thận tên thật là Nguyễn Thận, người sách Mục Sơn, huyện Cổ Lôi thuộc thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Lê Thận là một chàng trai khỏe mạnh, thạo nghề đánh cá, vào một đêm Lê Thận quăng lưới kéo được gươm thần từ dòng sông Chu, ông đem dâng Lê Lợi, hôm sau Lê Lợi bắt được chuôi gươm ở gốc đa vừa khớp với lưỡi gươm, từ đó Lê Lợi tin là có điềm tốt và Lê Thận dốc lòng phục vụ Lê Lợi.
Sau Hội thề Lũng Nhai, Lê Thận đã cùng nhiều nghĩa sĩ tổ chức nhiều trạm đón tiếp các tráng sĩ từ khắp mọi miền gia nhập nghĩa quân Lam Sơn.
Ngày mùng hai tháng giêng năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi dựng cờ khởi binh đánh giặc, xưng là Bình Định Vương, Lê Thận được trao chức Thứ thụ kỵ binh trong quân thiết đột, Lê Thận cùng Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng,… là những văn thần, võ tướng luôn sát cánh bảo vệ Bình Định Vương Lê Lợi vượt qua bao nguy hiểm, đóng góp nhiều công lao to lớn trong việc đánh đuổi giặc Minh xâm lược, đem độc lập cho dân tộc.
Sau khi đất nước hoàn toàn hết bóng giặc Minh, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế (1428), Lê Thận được xếp vào hàng thứ hai công thần Lũng Nhai, được phong là Trung Lượng đại phu, coi các vệ quân tả hữu Phủng thần, tước Đại trí tự.
Năm Thuận Thiên thứ hai (1429), Lê Thận được phong Á hầu. Đến đời vua Lê Thái Tông, Lê Thận được phong là Nhập nội Thiếu úy Tham tri việc quân các vệ thuộc Tây đạo. Tháng Sáu năm Đinh Tỵ, niên hiệu Thiệu Bình thứ tư (1437), Lê Thận được đổi sang Tham tri Bắc đạo, sau đó ông được cử giữ chức Tư Mã coi các vệ quân Bắc đạo, tham tri chính sự; tháng Tám cùng năm Lê Thận cùng Đỗ Đại, Lê Xí, Lê Thụ coi việc tứ tụng, đến đời Lê Nhân Tông, niên hiệu Thái Hòa (1443), Lê Thận được thăng chức Nhập nội kiểm hiệu Tư đồ Bình Chương sự. Năm Bính Dần (1446) Lê Thận cùng các tướng Trịnh Khả, Lê Khắc Phục đem quân đi dẹp giặc Chiêm Thành thắng lợi.
Năm Mậu Thìn (1448), vua Lê Nhân Tông xa giá về Tây Kinh (Lam Kinh), Đại Tư đồ Lê Thận cùng Đô áp nha Lê Bí được giao trọng trách Lưu thủ kinh sư, tháng Bảy năm đó ông mất, được truy tặng là Bình Chương quân quốc trọng sự. Năm Hồng Đức thứ mười lăm (1484) Lê Thận được tặng Thái phó Hoằng quận công.
Người thứ ba là Lê Văn Linh, quê ở xã Bảo Đà, huyện Lôi Dương, phủ Thiệu Thiên, xứ Thanh Hoa. Ngày mùng một tháng hai năm Bính Thân (1416) Lê Văn Linh là người đứng đầu trong số ba văn thần có mặt trong hội thề Lũng Nhai đó là Lê Văn Linh, Nguyễn Trãi, Bùi Quốc Hưng. Ông là người đứng hàng thứ tư trong số mười chín người tham gia hội thề sau Lê Lợi, Lê Lai và Nguyễn Thận tức Lê Thận.Ông tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ngay từ những ngày đầu, có những đóng góp to lớn trong việc đánh đuổi giặc ngoại xâm giành độc lập cho nước nhà. Khi Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa thì Lê Văn Linh cùng Nguyễn Tiến và Bùi Quốc Hưng là ba văn thần của nghĩa quân Lam Sơn từng vạch ra sách lược giúp Lê Lợi và được Lê Lợi ủy thác tất cả các việc quân cơ nội vụ. Mùa xuân năm Mậu Thân (1428), sau khi đất nước độc lập, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Thuận thiên năm thứ nhất, khi xét công ban thưởng cho các công thần, binh sĩ. Lê Văn Linh được phong là Bình Ngô khai quốc, Hiệp mưu bảo chính đại công thần, Nhập nội kiểm hiệu Bình Chương quân quốc trọng sự thiếu bảo, tước Khánh An hầu.
Người thứ tư là Lê Văn An sinh năm Giáp Tý (1384) tại sách Mục Sơn huyện Cổ Lôi, trấn Thanh Hoa. Từ năm mười ba tuổi Lê Văn An đã kết bạn với Lê Lợi, hai người lại cùng học một thầy nên thân nhau như anh em ruột. Lê Văn An tính tình điềm đạm, văn võ song toàn, luôn xung phong xông trận, Lê Văn An đã cùng với Lê Sát, Lê Ngân tấn công giặc Minh, bắt sống tướng giặc Chu Kiệt, chém tướng giặc Hoàng Thành tại ải Khả Lưu; cùng với Lê Ngân, Lê Bôi tiến công giải phóng châu Tân Bình và Thuận Hóa; vây hãm buộc giặc tại Nghệ An và thành Diễn Châu phải đầu hàng; cùng với các tướng Lưu Nhân Chú, Lê Sát, Lê Lý, Lê Vấn, Lê Khôi bao vây, truy sát, bắt sống tướng giặc là Thôi Tụ và Hoàng Phúc tại tả ngạn sông Hồng.
Sau mười năm kháng chiến gian khổ, với sự chỉ huy thiên tài của Bình Định Vương Lê Lợi đất nước độc lập. Sau khi lên ngôi, Lê Lợi đã ban thưởng cho Lê Văn An chức Nhập nội Thiếu úy, Tư Mã, suy chung bảo chính công thần, tham dự triều chính. Năm Thuận Thiên thứ hai (1429), Lê Lợi cho khắc biển ghi danh các vị khai quốc công thần, Lê Văn An được phong tước Đình Thượng hầu. Năm Nhâm Tý niên hiệu Thuận Thiên thứ năm (1432), Lê Văn An được gia phong Tán trị hiệp mưu công thần, Nhập nội kiểm hiệu Đại tư không Bình chương quân quốc trọng sự.
Năm Giáp Dần niên hiệu Thiệu Bình thứ nhất (1434), Lê Thái Tông phong cho Lê Văn An tước Đình hầu Duệ quốc công, Cái Bắc đạo Đô đốc Đồng tổng quản, lĩnh ấn tiên phong đem quân ngự tiền, quân thiết đột và quân bắc đi dẹp phản loạn ở Lạng Sơn. Đến đời Lê Thánh Tông, Lê Văn An được gia phong là Khắc quốc công. Cả cuộc đời Lê Văn An, kể từ khi là bạn học với Thái Tổ hoàng đế đến mười năm nếm mật, nằm gai trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh cũng như trong thời bình, Lê Văn An luôn tận tâm, tận lực với dân, với nước, là bề tôi tận trung với Vua.
Người thứ năm là Trịnh Khả sinh năm Quý Mùi (1403) tại làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, Trịnh Khả là người đứng hàng thứ năm trong số người cùng Lê Lợi tham gia Hội thề Lũng Nhai. Trong những ngày đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Trịnh Khả đã có nhiều công trong việc bảo vệ Lê Lợi đồng thời góp phần giao thiệp để Vua Ai Lao ủng hộ quân, lương, khí giới, voi chiến cho nghĩa quân Lam Sơn; Trịnh Khả là tướng dũng cảm trong trận mạc, thường đi tiên phong trong các trận chiến với giặc tại Thanh Hóa, Diễn Châu, Nghệ An, chỉ huy nghĩa quân vây thành Đông Đô, giữ vững ải Lê Hoa và góp phần đánh tan viện binh nhà Minh do Liễu Thăng và Mộc Thạch chỉ huy.
Năm Mậu Thân (1428), sau khi lên ngôi Hoàng đế, Lê Lợi phong cho Trịnh Khả làm Kim tử vinh lộc đại phu Tả Lân hộ vệ tướng quân, được ban túi kim ngư, ngân phù.
Năm Thuận Thiên thứ hai (1429), Lê Thái Tổ cho khắc biển công thần khai quốc, Trịnh Khả được phong là Liệt hầu, coi giữ trong cung điện và giữ chức Đô Thái giám bốn đạo, cai quản mọi việc trong ngoài, kiêm an phủ sứ ở Tuyên Quang, sau đó Trịnh Khả được gia phong chức Hành quân tổng quản xa kỵ quân sự đồng tổng quản, lĩnh các đội Thiết đột. Năm Thuận Thiên thứ sáu (1433), Trịnh Khả được thăng làm Bảo chính công thần gia kim tử vinh lộc đại phu Lương Giang trấn quán quân tướng quân, Nhập nội thiếu bảo tham tri quân sự các vệ thuộc đạo Hải Tây và chức Thái giám, coi các việc trong ngoài, Trụ quốc, ban kim ngân phù. Năm 1484, Lê Thái Tông truy tặng Trịnh Khả làm thiếu phó liệt quốc công, sau lại truy tặng làm Hiển Khánh Vương.
NHƯ NINH NGUYỄN HỒNG DŨNG
LÊ VĂN HẢI: Kính Mời Tham Dự: CHƯƠNG TRÌNH Tiếng Việt Còn, Nước Việt Còn!
Tiếng Việt Còn, Nước Việt Còn!
Trong mục đích lan tỏa và gìn giữ tiếng Việt đến thế hệ trẻ sống ở hải ngoại, vùng Bắc Cali (Vừa vui, vừa học!)
-Trân trọng giới thiệu một chương trình văn nghệ đặc sắc quy mô, chuẩn bị công phu cả năm, dành riêng cho giới trẻ, nhất là các em thiếu nhi, trong Mùa Lễ Tạ Ơn năm nay. Vào cửa, thức ăn nhẹ, nước giải khát, giải thưởng các trò chơi, hoàn toàn miễn phí!
Năm ngoái buổi Văn nghệ Tạ Ơn này, do VTLV bảo trợ, tại Cà phê Lover, đã thành công rực rỡ, quán không còn một chỗ trống. Tràn ngập lời khen từ Khách tham dự!
Thừa thắng xông lên! năm nay, BTC đã thuê mướn hội trường, lớn hơn gấp 4 lần, hy vọng mới đủ sức chứa!
Khó có chương trình nào dành riêng cho giới trẻ Việt vùng Bắc Cali, hay hơn chương trình này cả! rất nhiều phụ huynh cổ võ tiếp tục! Một năm mới có một lần, các phụ huynh có con em nhỏ, đây là dịp vui, vừa học tiếng Việt, nét đẹp văn hóa Việt, xin đừng bỏ qua!
Xin coi slideshow đính kèm, để ngạc nhiên, khen ngợi, cho những “nghệ sĩ tí hon!” nhưng tài năng không thua gì người lớn! Giới thiệu một số hình ảnh các em tham dự trình diễn, trong buổi “event” chủ đề “Tạ Ơn” năm nay.
https://youtu.be/MreIlk4l_ns
Nhớ ngày vui này nhé: Thứ Bảy, ngày 9 tháng 11 năm 2024, từ 2 giờ đến 6 giờ chiều
Tại Yerba Buena High School – Student Union Hall
1855 Lucretia Ave, San Jose, Ca 95122
Chương trình với trên hàng chục tiết mục trình diễn, lôi cuốn, trò chơi nào cũng hay, đặc sắc, chưa bao giờ thấy! chưa bao giờ có. Phải tham dự tận mắt mới tin!
(Quý Ân nhân muốn bảo trợ, hay muốn biết thêm chi tiết, xin theo dõi Flyer đính kèm)
Trân trọng kính mời
Trưởng BTC: Anh Lê Văn Hải
KIỀU MỸ DUYÊN: Chương Trình “CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA” Cùng Nhiều Thông Tin Hữu Ích.
KIỀU MỸ DUYÊN: NHÀ VĂN TRỊNH Y THƯ RA MẮT SÁCH.
Mùa Thu Trên Thung Lũng Hoa Vàng -Tùy Bút Louis Tuấn Lê.
Mùa Thu Trên Thung Lũng Hoa Vàng San Jose Miến Bắc Cali.Tùy Bút Louis Tuấn LêMùa thu đến rất âm thầm và thật kín đáo, cây lá từ từ chuyển màu, cảnh vật từ từ thay đổi, nhẹ nhàng xoay chuyển. Bởi vì mùa thu là mùa của tâm thức, mùa của sự lắng nghe hơi thở đến từ tâm hồn, lắng nghe làn sương khuya ẩm ướt phủ lên cây lá, lắng nghe làn sương khói bảng lảng nhạt nhòa, bay bay. Mùa thu nơi đây chính là mùa cảm nhận bước chuyển đưa xao xuyến của núi đồi, cỏ cây, của phố núi mây trôi. Mùa thu nơi đây chỉ được phát hiện từ tâm hồn thật lãng mạn của một thi nhân, đi tìm những khoảng trống mơ hồ của không gian và thời gian, hay đi tìm một chút hư vô trong làn sương khói nhẹ bay.
Mùa thu Thung Lũng Hoa Vàng dường như mọi thứ như chậm lại một chút, như thể em vừa bừng tỉnh vì buổi trưa quá giấc, uể oải và lơ đãng hơn một chút. Những buổi sớm mai sương khói nhiều hơn bay là đà trên những ngọn cây, làm cho góc phố vơi bớt đi ồn ào trở nên lắng đọng hơn. Người nghệ sĩ chưa kịp phân biệt mùi hoa cải nơi đây với mùi hoa cả vàng của mùa thu nơi khác. Nhưng dường như cả hai đã tan vào trong nhau vì mùa thu đến nơi đâu thì nơi ấy đều giống nhau. Tôi ghi lại một vài cảm xúc về mùa thu trên Thung Lũng Hoa Vàng San Jose.
Người nghệ sĩ lang thang trong tâm tưởng. Tế Luân
Thung Lũng Hoa Vàng
Thung lũng hoa vàng hương cải bay Thảo nguyên cỏ biếc đến nơi này Làm sao lòng chẳng mê cho được Mấy độ thu về chén rượu say.
Phố núi bình yên vọng tiếng ru Đồi cao thấp thoáng khói sương mù Mùi hoa cải dại thơm hương tóc Thung lũng hôm nay vàng nắng thu.
Em bước chân về theo lối mòn Thương màu kỷ niệm dấu hương son Mùa thu phố núi còn thương nhớ Nhớ chút hương xưa mộng vẫn còn.
VBS-KIEU MY DUYEN SHOW – PHỎNG VẤN HÒA THƯỢNG THÍCH NHƯ ĐIỂN & HÒA THƯỢNG THÔNG TRIẾT
BẦU CHO AI? – GIAO CHỈ SAN JOSE
A voter casts a ballot during the Super Tuesday primary at a polling station in an American Legion Post in Hawthorne, California, March 5, 2024. Americans from 15 states and one territory vote simultaneously on “Super Tuesday,” a campaign calendar milestone expected to leave Donald Trump a hair’s breadth from securing the Republican Party’s presidential nomination. (Photo by Patrick T. Fallon / AFP) (Photo by PATRICK T. FALLON/AFP via Getty Images)
Sau nửa thế kỷ công dân, bầu cho người nào?
Giao Chỉ, San Jose.
Hôm nay, gia đình chúng tôi nhận được hồ sơ bầu cử bằng thư. Chuyện bầu cử năm nay xem ra cực kỳ quan trọng, đặc biệt là chức vụ tổng thống. Không quan tâm thì thôi, nếu quan tâm mà lại nhiệt thành với một phía thì rất mệt. Xem qua danh sách tại vùng San Jose, các ứng cử viên hầu hết thuộc Đảng Dân Chủ. Phần lớn đã từng sống ở địa phương này nửa thế kỷ, nên các vị dân cử mới hay cũ chúng ta đều biết tiếng.
Quý vị hỏi tôi bầu cho ai? Xin phép trả lời. Chức vụ tổng thống có 6 vị ghi danh. Ông Trump (Cộng Hòa) và bà Harris (Dân Chủ). Còn 4 vị khác ghi danh thuộc các đảng Hòa bình, Độc lập, Tự do, v.v. Đại diện 2 đảng chính là Cộng Hòa và Dân Chủ, đàn ông và đàn bà. Nước Mỹ đã trải qua hơn 300 năm lập quốc. Đã tuyên ngôn độc lập, đã thảo hiến pháp mà mấy chục năm sau mới cho đàn bà đi bầu. Thiên hạ nhiều nơi chấp nhận đàn bà cầm quyền. Hai nước Bắc Mỹ như Canada đã có thời phụ nữ lãnh đạo. Bây giờ Mexico đã có tổng thống đàn bà. Tổng thống Mỹ lần này sẽ là tổng thống nữ. Muộn còn hơn không. Tôi bầu cho đàn bà.
Bầu dân biểu quốc hội: Tại địa phương này có 4 khu vực: số 16, 17, 18 và 19. Được biết khu 16 là bà Eshoo năm nay về hưu. Quý vị ở khu này có thể bỏ phiếu cho người quen là nguyên thị trưởng Sam Liccardo. Khu 17 cũng có người quen là Ro Khanna, và khu 19 là Jimmy Panetta. Đặc biệt lưu ý bầu bà Zoe Lofgren, khu 18, tranh cử mỗi 2 năm như thường lệ. Xin nhắc lại chuyện cũ, bà Zoe là thân hữu lâu năm với cộng đồng Việt tại San Jose, người tranh đấu số 1 cho nhân quyền tại Hoa Kỳ và dân quyền tại Việt Nam. Hãy ủng hộ và dồn phiếu cho Zoe Lofgren.
Bầu cử lên tiểu bang: Tại San Jose, chúng ta có 2 vị tranh cử năm nay: Dân biểu Ash Kalra khu 25 và Thượng nghị sĩ khu 15 là ông Dave Cortese. Cử tri gốc Việt đều biết 2 vị này. Tình nghĩa lâu năm rất nặng là ông Dave.
Cuối cùng là County Santa Clara: Quận hạt kỳ này có khu 2 và 5 quý vị hết nhiệm kỳ. Khu 1 và 4 đến năm 2026 mới bầu lại. Chúng ta nên bỏ phiếu cho ông Otto Lee khu số 3 và rất cần bỏ phiếu cho Betty Dương vào chức vụ giám sát viên khu số 2. Luật sư Dương chắc chắn sẽ là dân cử tốt nhất cho chức vụ này vì đã có nhiều năm kinh nghiệm làm phụ tá cho bà Cindy Chavez tại khu số 2. Bà Cindy cho biết hết sức tin tưởng và yểm trợ cho người xứng đáng nhất sẽ thay thế bà.
Tay cầm lá phiếu phân vân. Bâng khuâng không biết bầu cho người nào?
Xin trả lời:
Dân biểu Quốc hội Zoe Lofgren,
Thượng nghị sĩ tiểu bang Dave Cortese.
Santa Clara County khu 2: Betty Dương và khu số 3: Otto Lee.
Giao Chỉ, San Jose.
Ông Carter Của Chúng Tôi – GIAO CHỈ SAN JOSE
Kính gửi quý vị trong phái đoàn tham dự ngày sinh nhật Tổng Thống 39
Chúng tôi vô cùng cảm động ghi nhận tin tức các bạn đi về bình yên,
được đón tiếp tốt đẹp, và mọi chuyện đúng như chúng ta cùng mong muốn.
Chân thành cảm ơn tất cả các bạn. Lời cảm ơn chân tình gửi đến từng quý vị.
Kính mời góp sức với chúng tôi trong chương trình đóng góp và thăm viếng
Museum và thư viện của 5 vị tổng thống trong chiến tranh Việt Nam và 5 vị thời hậu chiến.
Đồng thời kính mời quý vị tham dự thành thân hữu hội viên của tổ chức IRCC, Việt Museum và Dân Sinh Media.
Trân trọng kính mời.
Vu van Loc
Ông Carter của chúng tôi
Khi người Việt di tản đến Hoa Kỳ là gặp ngay vị tổng thống hiền lành nhất trong số 40 vị lãnh đạo trải qua khoảng 300 năm lập quốc. Ông Jimmy Carter đứng thứ 39, và ông Reagan đóng vai thứ 40. Sau nhiệm kỳ đầu tiên, ông Dân chủ Carter tranh cử nhiệm kỳ hai, Ông Reagan phe Cộng hòa từ CA nhảy ra tranh cử. Dân Việt vẫn chưa quen với lịch sử chính trị Hoa Kỳ, chợt đọc báo thấy tay ký giả viết phiếm luận vui đùa đưa tin rằng, nước Mỹ chúng ta hết nhân tài nên kỳ này có ông kép hát hạng B tranh cử với ông tổng thống bán đậu phộng tại GA, Atlanta.
Bác Carter của chúng tôi vì không thành công trong vụ trực thăng vận biệt kích tại Trung Đông nên chịu thua ông Cowboy Reagan. Nhưng cả hai vị tổng thống Dân chủ và Cộng hòa đều là ân nhân của người Việt tị nạn. Trong nhiệm kỳ ngắn ngủi của bác Carter, biết bao nhiêu thuyền nhân đã may mắn tìm thấy tự do.
Vào một buổi chiều mưa gió, đồng bào ta biểu tình khóc cho thuyền nhân. Bác Carter đã chợt nghe thấy tiếng than khóc, ông tìm xem lại những tờ báo. Bác biết tin tàu chiến Mỹ gặp thuyền nhân trên Biển Đông chỉ tiếp tế nhưng không vớt. Carter bèn ra lệnh vớt. Ông đi họp quốc tế, hội nghị nào ông cũng nhắc nhở các nước nhận thuyền nhân, phần Hoa Kỳ đã tăng cấp khoản gấp đôi. Ông ký Refugee Act chính thức đón người tị nạn vào Mỹ.
Bác bay qua Hà Nội tuyên bố sẵn sàng giúp tái thiết sau chiến tranh. Mấy tay lãnh đạo cộng sản say men chiến thắng đòi bồi thường, Mỹ bèn tuyệt giao và cấm vận. Nước Việt Nam chiến thắng và thống nhất trở thành quốc gia độc tài bao cấp khốn nạn. Dân Sài Gòn miền Nam phải từ biệt những cột đèn ở lại và lần lượt ra đi khi nghe tin có tàu chiến Mỹ đang chờ đợi ngoài khơi Thái Bình Dương.
Xin ghi thêm câu chuyện bên lề. Khi chúng tôi đến định cư tại San Jose, có gặp ông dân biểu địa phương thấy Việt Nam bị cấm vận nên tuyên bố Mỹ nên tha tội cho Hà Nội vì dân Sài Gòn phải ăn toàn bo bo. Anh em ta biểu tình chống dân biểu San Jose. Tôi có dịp thảo luận với văn phòng dân cử và gặp cô sinh viên luật tập sự tại đây. Cô có tên là Zoe Lofgren. Mới ngày nào mà nay đã trên 40 năm, bà Zoe này đã trở thành vị dân biểu cao niên của miền Bắc CA.
Khi San Jose thành lập Viện Bảo Tàng Thuyền Nhân, bên nhờ bà Zoe mời tổng thống Carter về dự lễ khánh thành. Đúng dịp này, ông bận đi thu xếp hòa đàm bên Do Thái nên đã đến Atlanta thu một đoạn phim ân tình gửi cho Museum đầu tiên trên thế giới ghi danh Thuyền Nhân. Suốt từ ngày đó đã trải qua 2 thập niên, chúng tôi vẫn mong có dịp đến thăm viếng ngài tổng thống của thuyền nhân nhưng chưa có dịp. Nào ngờ đầu tháng 10 năm nay 2024 đã có cơ hội tổ chức phái đoàn Việt Nam về dự ngày sinh nhật 100 tuổi của tổng thống Carter.
Tại lầu tầng 2 của Museum Việt San Jose có một bản đồ Con Đường Tự Do ghi rõ 20 năm lịch sử thuyền nhân với thống kê 5 đợt ra đi. Tổng cộng 964 ngàn người tìm thấy tự do.
Chúng tôi hiện cũng có chương trình thực hiện các tài liệu triển lãm đặc biệt về chiến tranh Việt Nam, về cuộc ra đi tìm tự do sau chiến tranh. Đề tài người Việt ra đi đem theo những gì từ đất nước và đã để lại những gì tại quê hương.
Đem theo văn hóa, lá cờ vàng và tấm áo dài, bát phở và khúc bánh mì ăn sáng. Để lại những trại tù, thời bao cấp tem phiếu với kinh tế mới, đổi tiền và đánh tư sản. Tất cả những tài liệu đó sẽ đúc kết thành hình thức triển lãm đặt tại 10 museum và thư viện của 10 vị tổng thống Hoa Kỳ. 5 vị trong thời chiến tranh Việt Nam và 5 vị trong thời hậu chiến. Công việc này sẽ hoàn tất trước và sau 30 tháng tư năm 2025. Xin toàn thể đồng bào tiếp tay.
Sau đây là bản tường thuật rất đầy đủ của Thái Hà về chuyến đi dự 100 năm mừng tuổi tổng thống Carter:
. Phái đoàn chúng tôi bay từ 3 nơi về Atlanta. Gia đình anh Nam Phạm đi từ Boston. Đoàn làm phim và nhà báo từ Nam CA. Chúng tôi bay đêm từ SF hôm trước red eye flight on Sept 30 lúc 10:30 PM và đáp xuống phi trường ATL lúc 6:30 AM . Về đến hotel check in vài tiếng đủ để ăn sáng, sửa soạn cũng kịp giờ đến The Carter Presidential Center lúc 11:30 AM theo chương trình ấn định .
Đại diện Trung Tâm gồm có Dr Evans , Cô Amy và một vài nhân viên ân cần tiếp đón chúng tôi tại lobby và đưa chúng tôi viếng thăm Jimmy Carter Presidential Library and Museum. Trung Tâm này thành lập năm 1986 thuộc downtown Atlanta . Phong cảnh chung quanh rất thiên nhiên hữu tình, tọa lạc giữa Freedom Park xanh mướt. Đi 1 vòng thăm viện bảo tàng và thư viện khoảng 45 phút, sau đó chương trình nói chuyện và trao quà được diễn ra ngay trong khu vực triển lãm nói về những dự án nhân đạo của Ngài : Protecting Human Rights , Compassion, Healing Viet Nam … BTC để sẵn 1 bàn dài cho phái đoàn triển lãm plaque tri ân, poster của bác Lộc thiết kế, flyers và lịch 2025 của Việt Museum.Riêng chiếc tàu vượt biên được đặt riêng trang trọng trên 1 cái bục và Tôi không quên gắn thêm cờ việt Mỹ cùng pin logo việt museum lên chiếc tàu. Ai cũng trầm trồ chụp ảnh và thán phục ý nghĩa của chiếc ghe . Phái đoàn có khoảng 30 mn – 45 mn để trình bày chia sẻ và trao quà . Mỗi đại diện hội đoàn gồm có CDNVQG Georgia , 3 LTV Productions ( sản xuất film tài liệu the book of death ) với Jenny Thái, Alan Vo và Dr Thanh Long, đại diện Báo Los Angeles Tribune – Dr Emily Lê Trân, va Anh Nam Phạm từ Boston( cựu thứ trưởng bộ thương mại tiểu bang Massachusetts ) và phu nhân – đều lần lượt được mời lên phát biểu. Cũng có sự hiện diện của phái đoàn cộng đồng người Việt tại Atlanta.Riêng Việt Museum được Trung Tâm đặc biệt dành phần đúc kết chương trình và trao chi phiếu yểm trợ 10 ngàn US. Mọi người tham dự đều thấy rõ sự trân trọng và quan tâm của The Carter Center dành cho phái đoàn thăm viếng khi họ đã nhận thấy rõ mục đích tri ân ăn quả nhớ kẻ trồng cây của những đại diện tỵ nạn. Sau khi chào từ giã , chúng tôi ra cửa rời khỏi trung tâm thì 4 cô trong nhóm mặc áo dài đều quỳ trước sân cỏ chắp tay và cầu nguyện sức khỏe cho Ngài Tổng Thống . Ngay sau đó tình cờ TV Fox news đến trước cổng chính chờ đón con trai của President Carter, thấy chúng tôi mặc áo dài nên đã tiến tới hỏi chuyện . Alan Vo và Dr Emily Trần đã trả lời phỏng vấn của Fox News khoảng 15 mn và tất cả chúng tôi cùng kết thúc buổi phỏng vấn bằng lời chúc đồng loạt Happy Birthday President Carter trên TV. Sau đây là phần phát biểu của Thái Hà đại diện IRCC/ Việt Museum và Dân Sinh Media tại San Jose CA. My name is Tana Thái Hà- a board member of Việt Museum in SJ, CA . As a boat people refugee myself, I am so honored and grateful to have the opportunity to speak at this special occasion of President Jimmy Carter’s 100th birthday -who served as the honorary president of the Vietnamese boat people . In 1975, over one million Vietnamese citizens were exiled from their home country, forced to sail aimlessly into the sea, in search of freedom, enduring perilous journeys across Southeast Asia. Throughout the next two decades, hundreds of thousands of Vietnamese refugees found themselves either stuck in overcrowded refugee camps across Southeast Asia or, even worse, lost at sea. President Jimmy Carter wasted little time stepping in to right these wrongs.In 1979, President Carter took decisive action, ordering the U.S. Navy to rescue refugees stranded at sea and increased the immigration quota, allowing boat people to safely find refuge in the United States. He also urged other countries to allow Vietnamese refugees into their borders. The Vietnamese refugees and boat people around the globe will forever remember the humanitarian spirit of President Carter and also the kindness of the American people. It is because of President Carter’s advocacy that Vietnamese communities continue to grow and thrive across the nation.On behalf of Mr. Vũ Văn Lộc, the founder of Viet Museum, a 91 year old veteran and former colonel of the Army of the Republic of VN, and all Vietnamese people in the United States, we wish you, our 39th President Jimmy Carter, a wonderful 100th birthday.We will never forget the generosity that you and all American people showed to us during that time and, for that, we express our eternal gratitude. Thank you for your past and continued support of our people. Let me end this note with an uplifting quote from President Carter “ I have one life and one chance to make it count for something… My faith demands that I do whatever I can, wherever I am, whenever I can, for as long as I can, with whatever I have, to try to make a difference.”Quả là chuyến đi lịch sử quý giá may mắn được thực hiện khi Tổng Thống còn sống vì con trai Ngài có trả lời với media rằng Ngài tuyên bố sẽ cố gắng sống qua ngày bầu cử …Anh Nam Phạm (Boston)có đề nghị người Việt tỵ nạn vượt biên nên gây quỹ để cải tiến khu vực dành cho chiến tranh VN biến thành khu lịch sử thuyền nhân vì mỗi năm có bao nhiêu triệu người viếng thăm museum này và đó là cách bảo tồn lịch sử VNCH qua các thế hệ hữu hiệu hơn . Cá nhân tôi hoan nghênh ý tưởng này và nếu được góp phần xây dựng lịch sử tỵ nạn ngay trong Carter Presidential museum thì quả là 1 Vinh Hạnh và Ơn Huệ lớn cho tập thể người việt tỵ nạn Hải Ngoại. Được biết President Carter đang dưỡng bệnh tại Tư gia tại Plains, GA cách trung tâm khoảng 2.5 hrs lái xe . BTC có cho địa chỉ nhà riêng của Ngài nhưng vì chúng tôi phải bay về lúc chiều tối nên không kịp giờ đi ngang để chụp ảnh quay phim tài liệu. Được biết vào buổi chiều cùng ngày Oct 1, gia đình thân nhân của Ngài khoảng 30 người sẽ họp mặt tại tư gia mừng sinh nhật 100 Tuổi của Ngài. –
— Bùi Diễm (01/10/1923– 24/10/2021) là một chính khách Việt Nam. Ông nắm giữ chức vụ Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ nhiệm kỳ từ năm 1967 đến năm 1972.
–1908 – Mẫu xe T của Henry Ford, một “chiếc xe phổ thông” được thiết kế cho đại chúng, được bán lần đầu tiên.
1938 – Quân đội của Hitler chiếm đóng phần Sudetenland của Tiệp Khắc. Trong nỗ lực tránh chiến tranh, các nhà lãnh đạo Anh và Pháp đã đồng ý nhượng khu vực nói tiếng Đức cho Hitler, người sau đó đã phá vỡ thỏa thuận và chiếm đóng toàn bộ Tiệp Khắc.
1946 – Mười hai nhà lãnh đạo Đức Quốc xã đã bị kết án tử hình tại Tòa án Tội phạm Chiến tranh Quốc tế ở Nuremberg, Đức. Ngày 1 tháng 10 năm 1949 – Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập với Mao Trạch Đông làm Chủ tịch.
**02/10:
-1968 – Công viên Quốc gia Redwood của California được thành lập. Cây gỗ đỏ là loài cây cao nhất trong tất cả các loài cây, có thể cao tới 400 feet (120 mét) trong suốt cuộc đời có thể kéo dài 2.000 năm
– 1975 – Nhật hoàng Hirohito lần đầu tiên đến thăm Nhà Trắng.
– 1869: Nhà lãnh đạo chính trị và tinh thần Ấn Độ Mohandas (Mahatma) Gandhi (1869-1948) sinh ra tại Porbandar, Ấn Độ. Ông nổi tiếng khắp thế giới vì lối sống sùng đạo và phong trào đấu tranh bất bạo động đã chấm dứt sự cai trị của Anh đối với Ấn Độ. Ông bị một kẻ cuồng tín tôn giáo ám sát trong khu vườn nhà mình ở New Delhi vào ngày 30 tháng 1 năm 1948.
**03/10:
–Thánh Phanxicô thành Assisi (tiếng Ý: Francesco d’Assisi; 26/ 9/1181 – 03/10/1226), còn gọi là Thánh Phanxicô Khó khăn, là một tu sĩ Công giáo Rôma và người sáng lập Dòng Anh Em Hèn Mọn (Order of Friars Minor), được biết đến nhiều hơn với tên Dòng Phan Sinh. Giáo hội Công giáo xem ông là thánh bổn mạng loài vật, chim trời, môi trường, và nước Ý. Ngày 4 tháng 10 hằng năm là ngày lễ kính Thánh Phanxicô
– 1863 – Tổng thống Abraham Lincoln đã ban hành tuyên bố chỉ định thứ Năm cuối cùng của tháng 11 là Ngày Lễ Tạ ơn.
– 1929 – Nam Tư trở thành tên chính thức của Vương quốc Serbia, Croatia và Slovenia.
– 1990 – Sau 45 năm chia cắt trong Chiến tranh Lạnh, Đông và Tây Đức đã thống nhất thành Cộng hòa Liên bang Đức.-04/10/1965 – Giáo hoàng Paul VI trở thành Giáo hoàng đầu tiên đến thăm Hoa Kỳ và là người đầu tiên phát biểu tại Liên hợp quốc. – 04/10/1822 — Rutherford B. Hayes (1822-1893) Tổng thống thứ 19 của Hoa Kỳ sinh ra tại Delaware, Ohio. Ông phục vụ từ ngày 4 tháng 3 năm 1877 đến ngày 3 tháng 3 năm 1881. Ông là một đảng viên Cộng hòa nổi tiếng nhất với câu nói được trích dẫn nhiều của mình, ” Người phục vụ đảng của mình tốt nhất là người phục vụ đất nước mình tốt nhất–
Nhà viết tiểu sử Ari Hoogenboom nhận xét rằng thành tựu lớn nhất của Hayes là khôi phục niềm tin dân chúng vào các đời Tổng thống và ngăn được sự suy giảm quyền lực của nhánh hành pháp trong chính phủ liên bang – một điều đã xảy ra kể từ sau vụ ám sát Abraham Lincoln vào năm 1865.
***05/10:
– 1877 – Sau cuộc rút lui 1.700 dặm, Tù trưởng Joseph của người da đỏ Nez Perce đã đầu hàng quân Kỵ binh Hoa Kỳ tại Bear’s Paw gần Chinook, Montana. “Từ nơi mặt trời mọc, tôi sẽ không chiến đấu mãi mãi nữa”, ông tuyên bố.-1910 – Bồ Đào Nha trở thành một nước cộng hòa sau cuộc nổi loạn thành công chống lại Vua Manuel II. -1938 – Tổng thống Séc Tiến sĩ Eduard Benes từ chức và chạy trốn ra nước ngoài trong bối cảnh bị Adolf Hitler đe dọa. -1964 – Cuộc trốn chạy hàng loạt lớn nhất kể từ khi Bức tường Berlin được xây dựng xảy ra khi 57 người tị nạn Đông Đức trốn sang Tây Berlin sau khi đào đường hầm bên dưới bức tường. -1703 – Nhà thần học Jonathan Edwards (1703-1758) sinh ra tại East Windsor, Connecticut. Ông đã lãnh đạo cuộc phục hưng tôn giáo “Đại thức tỉnh” ở các thuộc địa của Mỹ và sau đó trở thành hiệu trưởng của Princeton. -1882- “Cha đẻ của Kỷ nguyên Không gian” Robert Goddard (1882-1945) sinh ra tại Worcester, Massachusetts. Trong suốt cuộc đời mình, ông đã bị công chúng và báo chí chế giễu vì ý tưởng chế tạo một cỗ máy bay vũ trụ. Năm 1926, ông đã phóng tên lửa nhiên liệu lỏng đầu tiên trên thế giới tại một trang trại gần Auburn, Mass. Năm 1935, tên lửa nhiên liệu lỏng của ông đã vượt qua tốc độ âm thanh. Những phát triển khác bao gồm một thiết bị lái cho máy tên lửa, tên lửa có hệ thống để đạt đến độ cao lớn, máy bơm nhiên liệu tên lửa và động cơ tên lửa tự làm mát.-1846- Kỹ sư và nhà phát minh George Westinghouse (1846-1914) sinh ra tại Central Bridge, New York. Ông đã phát triển phanh khí cho tàu hỏa và sau đó chịu trách nhiệm áp dụng hệ thống dòng điện xoay chiều (AC) để truyền tải điện năng tại Hoa Kỳ. Ông cũng là người sử dụng lao động đầu tiên cho nhân viên của mình nghỉ phép có lương.-1921-Phạm Duy (1921 – 2013), tên khai sinh Phạm Duy Cẩn là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam. Ông được nhiều người đánh giá là nhạc sĩ lớn nhất của nền tân nhạc Việt Nam với lượng sáng tác đồ sộ cũng như đa dạng về thể loại, trong đó có rất nhiều ca khúc trở nên kinh điển và quen thuộc với người Việt. ***06/10: -1927 – Phim nói đầu tiên được công chiếu tại New York. The Jazz Singer với sự tham gia của Al Jolson là bộ phim truyện dài đầu tiên sử dụng lời thoại. -1928 – Đại tướng Tưởng Giới Thạch trở thành tổng thống của Trung Hoa Dân Quốc sau khi ban hành hiến pháp mới. -1978 – Lãnh tụ tôn giáo Iran Ayatollah Khomeini được cấp quyền tị nạn tại Pháp sau khi bị trục xuất khỏi Iran vì phản đối Shah. -1981 – Tổng thống Ai Cập Anwar Sadat (1918-1981) bị những người theo chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan ám sát tại Cairo khi đang xem một cuộc diễu binh quân sự. Ông đã chia sẻ Giải Nobel Hòa bình năm 1978 với Menachem Begin của Israel. Ông đã ký một hiệp định hòa bình do Hoa Kỳ bảo trợ với Israel, nhưng đã bị các nhà lãnh đạo Ả Rập khác lên án.
-Bùi Giáng (17/12/1926 – 07/10/1998), là nhà thơ, dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Các bút danh khác của ông là: Trung niên thi sĩ, Thi sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bùi Văn Bốn, Vân Mồng… Ông nổi tiếng từ năm 1962 với tập thơ Mưa nguồn.
**08/10:
-1871 – Đại hỏa hoạn Chicago bùng phát. Theo truyền thuyết, nó bắt đầu khi con bò của bà O’Leary đá đổ một chiếc đèn lồng trong chuồng của bà trên phố DeKoven. Hơn 300 người đã thiệt mạng và 90.000 người mất nhà cửa khi đám cháy san phẳng 3,5 dặm vuông, phá hủy 17.450 tòa nhà. Tổng thiệt hại tài chính lên tới hơn 200 triệu đô la.
-1918 – Trong Thế chiến thứ nhất tại Rừng Argonne ở Pháp, Trung sĩ Hoa Kỳ Alvin C. York đã một mình tiêu diệt một tiểu đoàn súng máy của Đức, giết chết hơn một chục người và bắt giữ 132 người. Sau đó, ông được trao tặng Huân chương Danh dự và Huân chương Croix de Guerre của Pháp.
-1996 – Tổng thống Palestine Yasser Arafat đã có chuyến thăm công khai đầu tiên tới Israel để hội đàm với Tổng thống Israel Ezer Weizman tại dinh thự riêng của ông.-1962 – Uganda giành được độc lập sau gần 70 năm bị Anh cai trị. -1970 – Campuchia tuyên bố mình là Cộng hòa Khmer sau khi chế độ quân chủ bị cơ quan lập pháp bãi bỏ. -1940-John Lennon (1940-1980) sinh ra tại Liverpool, Anh. Ông là thành viên của The Beatles, một nhóm nhạc rock có sức ảnh hưởng đã thu hút khán giả đầu tiên ở Anh và Đức, sau đó là ở Mỹ và trên toàn thế giới. Ông đã bị sát hại tại Thành phố New York vào ngày 8 tháng 12 năm 1980.-Ernesto “Che” Guevara (tiếng Tây Ban Nha: [ˈtʃe ɣeˈβaɾa]- 14/6/1928 – 09/10/1967) là một nhà Cách mạng theo Chủ nghĩa Marx, bác sĩ, tác giả, lãnh đạo du kích, nhà ngoại giao và nhà lý luận quân sự người Argentina. Là một nhân vật quan trọng của Cách mạng Cuba, hình ảnh cách điệu của ông đã trở thành một biểu tượng văn hóa phản kháng phổ biến của sự nổi loạn và biểu tượng toàn cầu trong văn hóa đại chúng. **10/10:- 1954 – Hồ Chí Minh tiến vào Hà Nội, Việt Nam, sau khi quân đội Pháp rút lui, theo các điều khoản đình chiến chấm dứt cuộc đấu tranh kéo dài bảy năm giữa Việt Nam Cộng sản và Pháp. -1813 -Nhà soạn nhạc opera người Ý Giuseppi Verdi (1813-1901) sinh ra tại Le Roncole, Ý. 26 vở opera của ông bao gồm; Rigoletto, Il Trovatore, La Traviata và Aida, và là một trong những tác phẩm nhạc cổ điển phổ biến nhất được biểu diễn ngày nay.
**11/10:
-1521 – Vua Henry VIII của Anh được Giáo hoàng Leo X phong tặng danh hiệu “Người bảo vệ đức tin” sau khi xuất bản cuốn sách của Nhà vua chống lại Martin Luther.
-1976 – “Băng đảng bốn tên“, bao gồm cả góa phụ của Mao Trạch Đông, đã bị bắt tại Trung Quốc, bị buộc tội âm mưu đảo chính. Sau đó, họ đã bị xét xử và kết án về nhiều tội ác chống lại nhà nước.-1884- Eleanor Roosevelt (1884-1962) sinh ra tại Thành phố New York. Bà là vợ của Tổng thống Franklin Delano Roosevelt, Tổng thống thứ 32 của Hoa Kỳ. Với tư cách là Đệ nhất phu nhân, bà đã có một cuộc sống độc lập chưa từng có, phấn đấu cải thiện cuộc sống của mọi người trên khắp thế giới. Năm 1933, bà trở thành người vợ đầu tiên của một tổng thống tổ chức họp báo riêng tại Nhà Trắng. Bà đã đi du lịch khắp nơi một mình và được mọi người trìu mến gọi là “Đệ nhất phu nhân của thế giới”. Bà đã phục vụ với tư cách là đại biểu Hoa Kỳ tại Liên hợp quốc trong nhiều năm và đã giúp viết Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. **12 /10:-
Năm 54 sau Công nguyên – Hoàng đế La Mã Claudius qua đời sau khi ăn phải nấm do vợ mình, Hoàng hậu Agrippina đầu độc. -1492 – Sau chuyến hành trình kéo dài 33 ngày, Christopher Columbus đã đặt chân lên đất liền đầu tiên ở Tân Thế giới tại Bahamas. Ông đặt tên cho vùng đất đầu tiên được nhìn thấy là El Salvador, tuyên bố chủ quyền của mình theo tên của Vương miện Tây Ban Nha. Columbus đang tìm kiếm một tuyến đường biển phía tây từ châu Âu đến châu Á và tin rằng ông đã tìm thấy một hòn đảo của quần đảo Indies. Do đó, ông gọi những người bản địa đầu tiên mà ông gặp là “người da đỏ”.
-1775 – Hải quân Hoa Kỳ ra đời sau khi Quốc hội Lục địa lần thứ hai cho phép mua lại một hạm đội tàu.- 1792- George Washington đặt viên đá Nhà Trắng. Tòa nhà, tọa lạc tại số 1600 Đại lộ Pennsylvania, cao ba tầng với hơn 100 phòng và được thiết kế bởi James Hoban. Vào tháng 11 năm 1800, Tổng thống John Adams và gia đình chuyển đến. Tòa nhà đầu tiên được gọi là “Cung điện Tổng thống“, nhưng được gọi là “Nhà Trắng” khoảng 10 năm sau khi hoàn thành. Tòa nhà đã bị quân đội Anh đốt cháy vào năm 1814, sau đó được xây dựng lại, tân trang và tái chiếm vào năm 1817. – 1811 – Paraguay tuyên bố độc lập khỏi Tây Ban Nha và Argentina. – 1822 – Brazil giành được độc lập từ Bồ Đào Nha.- 1872 -Nhà soạn nhạc kiêm nhạc trưởng người Anh Ralph Vaughan Williams (1872-1958) sinh ra tại Down Ampney, Gloucestershire, Anh. Ông kết hợp các kỹ thuật sáng tác hiện đại với nhạc dân gian Anh truyền thống và nhạc Tudor để tạo nên một phong cách Anh độc đáo. Các tác phẩm chính của ông bao gồm; Mass cung Sol thứ, Fantasia về chủ đề Tallis và vở opera The Pilgrim’s Progress. Ông cũng sáng tác chín bản giao hưởng, nhạc nhà thờ và hợp xướng, nhạc phim và sân khấu và một số vở opera.
– 1884 – Greenwich được thiết lập là múi giờ chung để tính giờ chuẩn trên toàn thế giới.
– 1943 – Ý tuyên chiến với đối tác cũ của mình là Đức Quốc xã sau khi Mussolini bị lật đổ và chính phủ Phát xít của ông ta sụp đổ.
– 1960 – Trong một cuộc tranh luận về chủ nghĩa thực dân tại Liên hợp quốc, nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev đã cởi giày và đập liên hồi vào bàn làm việc.
** 13/10 Margaret Hilda Thatcher, Nam tước Thatcher (nhũ danh Roberts; 13 tháng 10 năm 1925 – 8 tháng 4 năm 2013), là Thủ tướng Vương quốc Anh từ năm 1979 đến năm 1990 và lãnh đạo Đảng Bảo thủ từ năm 1975 đến năm 1990. Thế kỷ 19, bà là người phụ nữ đầu tiên giữ chức vụ này. Với tư cách là Thủ tướng, bà đã thực hiện các chính sách được gọi là Chủ nghĩa Thatcher. Một nhà báo Liên Xô đã đặt biệt danh cho bà là “Người phụ nữ sắt”, biệt danh gắn liền với phong cách lãnh đạo và chính trị không khoan nhượng của bà.
Khi bước chân vào Dinh Thủ tướng ở số 10 đường Downing, bà trích dẫn lời của Francis thành Assisi:
“
Nơi nào có bất hòa, chúng ta đem đến đó sự hòa thuận. Nơi nào có sai sót, chúng ta đem đến chân lý. Nơi nào có nghi ngờ, chúng ta đem đến đức tin. Và nơi nào có tuyệt vọng, chúng ta đem đến niềm hi vọng.
** 14/10:
– 1912 – Cựu Tổng thống Theodore Roosevelt bị một kẻ cuồng tín bắn khi đang vận động tranh cử ở Milwaukee. Roosevelt được cứu sống nhờ chiếc áo khoác dày, hộp đựng kính và một bài phát biểu gấp trong túi áo ngực, tất cả đều giúp làm chậm viên đạn. Mặc dù bị thương, ông vẫn kiên quyết phát biểu khi viên đạn găm vào ngực và không đến bệnh viện cho đến khi cuộc họp kết thúc. Roosevelt, một người đàn ông ngoài trời khỏe mạnh, đã bình phục hoàn toàn sau hai tuần.- 1933 – Đức Quốc xã tuyên bố rút khỏi Hội Quốc Liên và tuyên bố sẽ không tham gia thêm vào Hội nghị Giải trừ quân bị Geneva. – 1964 – Nhà lãnh đạo Dân quyền Martin Luther King, Jr., trở thành người trẻ tuổi nhất nhận Giải Nobel Hòa bình. Ông đã quyên góp 54.000 đô la tiền thưởng cho phong trào Dân quyền. – 14/10/1890- Dwight D. Eisenhower (1890-1969) Tổng thống thứ 34 của Hoa Kỳ sinh ra tại Denison, Texas. Ông đã phục vụ hai nhiệm kỳ Tổng thống, từ ngày 20 tháng 1 năm 1953 đến ngày 20 tháng 1 năm 1961. Có biệt danh là “Ike”, ông tốt nghiệp West Point và là sĩ quan quân đội chuyên nghiệp, trở thành Tổng tư lệnh của Lực lượng Đồng minh tại Châu Âu trong Thế chiến II. Ông giữ cấp bậc Đại tướng năm sao của Quân đội.
Ngày 15 tháng 10,-1815 – Napoleon Bonaparte đến Đảo St. Helena bắt đầu cuộc lưu đày do Anh áp đặt sau thất bại của ông tại Trận Waterloo. – 1917 – Điệp viên Thế chiến thứ nhất Mata Hari bị một đội xử bắn của Pháp xử tử tại Trại lính Vincennes, ngoại ô Paris. -1945 – Pierre Laval, cựu thủ tướng của Vichy Pháp, bị xử tử vì hợp tác với Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ II. – 1964 – Lãnh đạo nước Nga Xô Viết Nikita Khrushchev bị phế truất khỏi chức Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Liên Xô và được thay thế bởi Leonid Brezhnev.
**16/10:
1701 – Đại học Yale được thành lập tại Killingworth, Connecticut (với tên gọi là Trường Cao đẳng Connecticut). Trường chuyển đến New Haven vào năm 1716. Hai năm sau, trường đổi tên thành Cao đẳng Yale để vinh danh Elihu Yale, một nhà từ thiện. Năm 1886, trường trở thành Đại học Yale. 1793 – Nữ hoàng Marie Antoinette bị chặt đầu trong Thời kỳ Khủng bố sau Cách mạng Pháp. Bà là vợ của Vua Louis XVI và đã trở thành biểu tượng cho lòng căm thù của người dân đối với chế độ cũ do sự xa hoa và phù phiếm của bà. Theo truyền thuyết, bà đã trả lời, “Hãy để họ ăn bánh ngọt” khi được bảo rằng những người nghèo không có bánh mì.
1853 – Chiến tranh Crimea bắt đầu sau khi Đế chế Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ tuyên chiến với Nga, Anh, Pháp và một số vùng của Ý liên minh với người Thổ Nhĩ Kỳ chống lại Nga. Đây trở thành cuộc chiến đầu tiên được các phóng viên báo chí và nhiếp ảnh gia quan sát tận mắt. Một trong những trận chiến đã được bất tử hóa trong bài thơ của Tennyson, The Charge of the Light Brigade. Trong điều kiện vệ sinh kém, bệnh tật đã giết chết nhiều binh lính Pháp và Anh bị thương. Y tá người Anh Florence Nightingale sau đó đã tiên phong trong các phương pháp vệ sinh theo phong cách hiện đại, cứu sống nhiều người.
1946 – Mười cựu lãnh đạo Đức Quốc xã đã bị quân Đồng minh treo cổ sau khi bị kết tội vì tội ác chiến tranh tại Nuremberg, Đức.1964 – Trung Quốc cho nổ quả bom hạt nhân đầu tiên tại bãi thử Lop Nor ở Sinkiang. 1978 – Hồng y Karol Wojtyla của Ba Lan được bầu làm Giáo hoàng. Ông là Giáo hoàng đầu tiên không phải người Ý được bầu sau 456 năm và lấy tên là John Paul II. 1758 – Giáo viên và nhà báo người Mỹ Noah Webster (1758-1843) sinh ra tại West Hartford, Connecticut. Tên của ông trở thành từ đồng nghĩa với “dictionary” sau khi ông biên soạn những cuốn từ điển tiếng Anh đầu tiên của Mỹ.
1854 – Nhà thơ và nhà viết kịch người Ireland Oscar Wilde (1854-1900) sinh ra tại Dublin, Ireland. Nổi tiếng nhất với những vở hài kịch bao gồm: The Importance of Being Earnest. Và trong tiểu thuyết The Picture of Dorian Gray, ông viết rằng, “Chỉ có một điều trên thế giới này còn tệ hơn việc bị bàn tán, đó là không được bàn tán”.
**17/10:
– 1777 – Trong Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ, Tướng Anh John Burgoyne và toàn bộ quân đội gồm 5.700 người của ông đã đầu hàng Tướng Mỹ Horatio Gates sau Trận Saratoga, chiến thắng lớn đầu tiên của người Mỹ.-17-25 tháng 10 năm 1944 – Trận chiến vịnh Leyte, trận hải chiến lớn nhất trong lịch sử, diễn ra ngoài khơi quần đảo Philippine, trong Thế chiến II ở Thái Bình Dương. Trận chiến có sự tham gia của 216 tàu chiến Hoa Kỳ và 64 tàu Nhật Bản và dẫn đến sự hủy diệt của Hải quân Nhật Bản bao gồm cả Thiết giáp hạm Musashi của Nhật Bản, một trong những tàu chiến lớn nhất từng được chế tạo. – 17/10/1912 – Giáo hoàng John Paul I (1912-1978) sinh ra tại Forno di Canale, Ý (với tên Albino Luciani). Ông được bầu làm Giáo hoàng thứ 263 của Giáo hội Công giáo La Mã vào ngày 28 tháng 9 năm 1978, nhưng qua đời tại Rome chỉ 34 ngày sau đó.-Thomas Alva Edison (11/2/1847 – 18/10/1931) là một nhà phát minh và thương nhân đã phát triển rất nhiều thiết bị có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống trong thế kỷ 20. Ông được một nhà báo đặt danh hiệu “Thầy phù thủy ở Menlo Park“, ông là một trong những nhà phát minh đầu tiên ứng dụng các nguyên tắc sản xuất hàng loạt vào quy trình sáng tạo, và vì thế có thể coi là đã sáng tạo ra phòng nghiên cứu công nghiệp đầu tiên.
**19/10: -1781 – Cuộc vây hãm Yorktown, còn được gọi là Trận Yorktown và sự đầu hàng tại Yorktown, bắt đầu vào ngày 28/9/1781 và kết thúc vào ngày 19/10/1781, đúng 10:30 sáng tại Yorktown, Virginia.
Khi ban nhạc của họ chơi bài The World Turned Upside Down, Quân đội Anh đã hành quân theo đội hình và đầu hàng quân Mỹ tại Yorktown. Hơn 7.000 quân Anh và Hesse, do Tướng Anh Lord Cornwallis chỉ huy, đã đầu hàng Tướng George Washington. Cuộc chiến giữa Anh và các thuộc địa Mỹ của họ đã chính thức kết thúc. Hiệp ước hòa bình cuối cùng được ký kết tại Paris vào ngày 3 tháng 9 năm 1783. – 1818 – Hoa Kỳ và Anh đã đồng ý thiết lập biên giới Hoa Kỳ-Canada ở vĩ tuyến 49.
– 1935 – “Cuộc hành quân dài” dài 6.000 dặm của Mao Trạch Đông đã kết thúc khi lực lượng Cộng sản của ông đến Diên An, ở tây bắc Trung Quốc, gần một năm sau khi chạy trốn khỏi quân đội của Tưởng Giới Thạch ở phía nam.
** 20/10:
-1968 – Jacqueline Kennedy kết hôn với doanh nhân triệu phú người Hy Lạp Aristotle Onassis, chấm dứt gần năm năm góa bụa sau vụ ám sát người chồng đầu tiên của bà, Tổng thống John F. Kennedy.
– 1973 – ‘Vụ thảm sát đêm thứ bảy’ xảy ra trong vụ bê bối Watergate khi Tổng thống Richard M. Nixon sa thải Công tố viên đặc biệt Archibald Cox và Phó Tổng chưởng lý William Ruckelshaus. Tổng chưởng lý Elliot Richardson đã từ chức. Một làn sóng phản đối chính trị nổ ra sau vụ sa thải dẫn đến những yêu cầu rộng rãi về việc luận tội Nixon.
20/10/1632 – Kiến trúc sư người Anh Christopher Wren (1632-1723) sinh ra tại Wiltshire, phía tây nam nước Anh. Được coi là một trong những bộ óc vĩ đại nhất thời bấy giờ, ông đã thiết kế Nhà thờ St. Paul và 52 nhà thờ cho Thành phố London. Các tòa nhà thế tục của ông bao gồm khu “mới” của Hampton Court gần London và Bệnh viện Greenwich, hiện là Cao đẳng Hải quân Hoàng gia.
**21/10:
– 1805 – Trận Trafalgar diễn ra giữa Hải quân Hoàng gia Anh và hạm đội liên hợp Pháp và Tây Ban Nha. Người Anh chiến thắng đã chấm dứt mối đe dọa xâm lược nước Anh của Napoleon. Người hùng hải quân Anh, Đô đốc Horatio Nelson đã bị thương nặng trên tàu Victory của mình. – 1879 – Thomas Edison đã thử nghiệm thành công một bóng đèn sợi đốt điện với dây tóc carbon hóa tại phòng thí nghiệm của ông ở Menlo Park, New Jersey, giữ cho nó sáng trong hơn 13 giờ. – 1915 – Tin nhắn thoại vô tuyến xuyên Đại Tây Dương đầu tiên được thực hiện bởi Công ty Điện thoại và Điện báo Hoa Kỳ từ Virginia đến Paris. – 1944 – Trong Thế chiến II ở Châu Âu, quân đội Hoa Kỳ đã chiếm được Aachen ở miền tây nước Đức sau một tuần chiến đấu ác liệt. Đây là thành phố lớn đầu tiên của Đức bị quân Đồng minh chiếm giữ. – 1967 – Hàng nghìn người biểu tình phản chiến đã xông vào Lầu Năm Góc trong một cuộc biểu tình phản đối Chiến tranh Việt Nam tại Washington, D.C. Khoảng 250 người đã bị bắt. Không có phát súng nào được bắn, nhưng người biểu tình đã bị đánh bằng dùi cui và báng súng trường.
– 1917 – Nghệ sĩ nhạc Jazz vĩ đại Dizzy Gillespie (1917-1993) sinh ra tại Cheraw, Nam Carolina (với nghệ danh John Birks Gillespie). Ông là một nghệ sĩ chơi kèn trumpet, nhà soạn nhạc, trưởng nhóm nhạc và là một trong những người sáng lập ra nhạc jazz hiện đại, nổi tiếng với đôi má phúng phính và chiếc kèn trumpet cong.
**22/10:
-1962 – Tổng thống John F. Kennedy xuất hiện trên truyền hình để thông báo cho người Mỹ về sự tồn tại của tên lửa Nga ở Cuba. Tổng thống yêu cầu dỡ bỏ chúng và tuyên bố “cách ly” Cuba trên biển. Sáu ngày sau, người Nga tuyên bố sẽ dỡ bỏ các loại vũ khí này. Đổi lại, Hoa Kỳ sau đó đã dỡ bỏ các tên lửa khỏi Thổ Nhĩ Kỳ. -22/10/1811 – Nhà soạn nhạc người Hungary Franz Liszt (1811-1886) sinh ra tại Raiding, Hungary. Ông là một nghệ sĩ piano tài năng, nổi tiếng nhất với tác phẩm Hungarian Rhapsody số 2, Liebestraum số 3 và các bản giao hưởng Faust và Dante.
**23/10
-1983 – Những kẻ khủng bố lái một chiếc xe tải chở đầy thuốc nổ TNT vào trụ sở của Hoa Kỳ và Pháp tại Beirut, Lebanon, kích nổ và giết chết 241 lính thủy đánh bộ Hoa Kỳ và 58 lính dù Pháp. -1989 – Hungary tuyên bố là một nước cộng hòa 33 năm sau khi quân đội Liên Xô đàn áp cuộc nổi loạn của người dân chống lại chế độ Cộng sản.
**24/10:
-1861 – Bức điện tín xuyên lục địa đầu tiên ở Hoa Kỳ được gửi từ San Francisco đến Washington, gửi đến Tổng thống Abraham Lincoln từ Chánh án Tòa án Tối cao California. -1929 – “Thứ Năm Đen” xảy ra tại Sàn giao dịch chứng khoán New York khi gần 13 triệu cổ phiếu được bán ra trong tình trạng bán tháo hoảng loạn. Năm ngày sau, “Thứ Ba Đen” chứng kiến 16 triệu cổ phiếu được bán ra.
-1931 – Tên gangster Chicago “Scarface” Al Capone bị kết án 11 năm tù vì tội trốn thuế thu nhập liên bang. Năm 1934, hắn bị chuyển đến nhà tù Alcatraz gần San Francisco. Hắn được ân xá vào năm 1939, mắc bệnh giang mai. Hắn nghỉ hưu tại dinh thự của mình ở Miami Beach, nơi hắn qua đời vào năm 1947. – 1945 – Liên hợp quốc được thành lập.
– Pelé:- Edson Arantes do Nascimento (23/10/1940 – 29/12/2022), được biết đến nhiều nhất với tên Pelé, là một cố cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Brazil. Với biệt danh “Vua bóng đá”, ông được coi là một trong những cầu thủ bóng đá vĩ đại nhất mọi thời đại. Vào năm 1999, ông được bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất thế kỉ 20 bởi hiệp hội IFFHS. Cũng trong năm đó, ông được IOC bầu chọn là Vận động viên của thế kỉ và được tạp chí TIME đưa vào danh sách 100 người có ảnh hưởng lớn nhất thế giới. Vào năm 2013, ông được FIFA trao tặng giải thưởng Quả bóng vàng danh dự (Ballon d’Or Prix d’Honneur).
**25/10:
-1955 – Áo giành lại chủ quyền sau khi lực lượng Đồng minh cuối cùng rời đi. Đất nước này đã bị Đức Quốc xã chiếm đóng từ năm 1938-45. Sau Thế chiến II, nó bị chia thành bốn vùng chiếm đóng bởi Hoa Kỳ, Nga, Anh và Pháp.
-1881-Nghệ sĩ Pablo Picasso (1881-1973) sinh ra tại Malaga, Tây Ban Nha. Ông là một họa sĩ thử nghiệm và cũng trở thành một nhà điêu khắc, thợ khắc và thợ gốm tài ba.
– 25-30 /10/ 1983 – Đảo Grenada ở Caribe bị Hoa Kỳ xâm lược để khôi phục “trật tự và dân chủ”. Hơn 2.000 lính thủy đánh bộ và lính biệt kích Lục quân đã giành quyền kiểm soát sau một cuộc đảo chính chính trị vào tuần trước đã biến hòn đảo này thành “thuộc địa của Liên Xô-Cuba”, theo Tổng thống Ronald Reagan.
**26/10:
– 1825 – Kênh đào Erie được mở ra như tuyến đường thủy nhân tạo lớn đầu tiên ở Mỹ, nối Hồ Erie với Sông Hudson, bỏ qua Sông St. Lawrence do Anh kiểm soát. Kênh đào này có chi phí hơn 7 triệu đô la và mất tám năm để hoàn thành.- 1951 – Winston Churchill trở thành thủ tướng Anh lần thứ hai, sau chiến thắng sít sao của Đảng Bảo thủ trong cuộc tổng tuyển cử. Trong nhiệm kỳ đầu tiên từ năm 1940-45, ông đã lãnh đạo nước Anh đấu tranh chống lại Đức Quốc xã. – 1955 – Ngô Đình Diệm tuyên bố Nam Việt Nam là một nước cộng hòa và tự xưng là tổng thống.
-1947- Hillary Rodham Clinton sinh ra tại Park Ridge, Illinois, ngày 26/10/1947. Bà là Đệ nhất phu nhân từ năm 1993-2001 trong thời kỳ chồng bà là Bill Clinton làm tổng thống. Năm 2000, bà trở thành Đệ nhất phu nhân duy nhất từng được bầu vào Thượng viện Hoa Kỳ, phục vụ với tư cách là đảng viên Dân chủ đến từ New York. Bà được bầu lại vào năm 2006 và sau đó bắt đầu chiến dịch tranh cử tổng thống, hy vọng trở thành nữ tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ. Bà đã để mất đề cử của đảng Dân chủ vào tay Barack Obama, người đã giành chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử và bổ nhiệm bà làm Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ vào năm 2008.
** 27/10:
– 1904 – Tàu điện ngầm Thành phố New York bắt đầu hoạt động, chạy từ Tòa thị chính đến Phố West 145, hệ thống đường sắt ngầm và dưới nước đầu tiên trên thế giới.- 1728 -Nhà hàng hải người Anh James Cook (1728-1779) sinh ra tại Yorkshire, Anh. Ông đã khám phá New Zealand, Úc và Quần đảo Hawaii. – 1858 -Theodore Roosevelt (1858-1919) Tổng thống thứ 26 của Hoa Kỳ sinh ra tại Thành phố New York. Ông kế nhiệm chức tổng thống sau vụ ám sát Tổng thống William McKinley. Roosevelt phục vụ từ ngày 14 tháng 9 năm 1901 đến ngày 3 tháng 3 năm 1909. Ông được nhớ đến nhiều nhất với câu nói, “Nói nhẹ nhàng và mang theo một cây gậy lớn.”
** 28/10:
– 1636 – Đại học Harvard, cơ sở giáo dục đại học lâu đời nhất tại Hoa Kỳ, được thành lập tại Cambridge, Massachusetts. Trường được đặt theo tên của John Harvard, một người Thanh giáo đã hiến tặng thư viện và một nửa gia sản của mình. Những cựu sinh viên xuất sắc bao gồm; Ralph Waldo Emerson, Henry David Thoreau, Henry James và người sáng lập NAACP W.E.B. Du Bois.
-1846 – Đoàn Donner khởi hành từ Illinois đến California. Đoàn có tổng cộng 90 người, bao gồm những người nhập cư, gia đình và doanh nhân, do George và Jacob Donner dẫn đầu. Thảm kịch sau đó xảy ra khi họ bị mắc kẹt trong tuyết ở Sierras, nơi nạn đói và nạn ăn thịt người đã cướp đi sinh mạng của họ. Có 48 người sống sót vào cuối cuộc hành trình của họ vào tháng 4 năm 1847.
-1886 – Tượng Nữ thần Tự do được khánh thành tại Đảo Bedloe ở Cảng New York. Bức tượng là món quà của người dân Pháp để kỷ niệm liên minh Pháp-Mỹ trong Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ. Được thiết kế bởi Frederic Auguste Bartholdi, toàn bộ công trình cao 300 feet (92,9 mét). Bệ đỡ có dòng chữ: “Hãy trao cho tôi những người mệt mỏi, nghèo đói, quần chúng chen chúc khao khát được hít thở tự do, những kẻ khốn khổ bị bỏ rơi trên bờ biển đông đúc của bạn. Hãy gửi những người này, những người vô gia cư, những cơn bão tố đến với tôi, tôi giơ cao ngọn đèn của mình bên cánh cửa vàng!”
-1918 – Cộng hòa Tiệp Khắc được thành lập, tập hợp từ ba tỉnh – Bohemia, Moravia và Slovakia – vốn từng là một phần của đế chế Áo-Hung trước đây.
– 1922 – Những người áo đen phát xít bắt đầu “Cuộc diễu hành đến Rome” từ Naples dẫn đến sự hình thành chế độ độc tài dưới thời Benito Mussolini.-1949 – Helen Anderson trở thành nữ đại sứ đầu tiên, được Tổng thống Harry Truman bổ nhiệm làm Đại sứ tại Đan Mạch. -1958 – Hồng y Angelo Giuseppe Roncalli, Thượng phụ Venice, được bầu làm Giáo hoàng, lấy tước hiệu là John XXIII. Nổi tiếng nhất với việc chủ trì Công đồng Chung lần thứ 21 (Vatican II). -1914 – Tiến sĩ Jonas Salk (1914-1995) sinh ra tại Thành phố New York. Năm 1952, ông đã phát triển một loại vắc-xin phòng ngừa căn bệnh bại liệt ở trẻ em (viêm tủy xám, còn được gọi là bại liệt ở trẻ sơ sinh). Vắc-xin của ông đã làm giảm 95% số ca tử vong do bệnh bại liệt ở Hoa Kỳ. -1955 – Nhà sáng lập Microsoft Bill Gates sinh ra tại Seattle, Washington, ngày 28/10/1955. Năm 1975, ông đồng sáng lập Microsoft với Paul Allen, thiết kế phần mềm cho máy tính IBM. Đến năm 1980, Microsoft đã trở thành công ty phần mềm hàng đầu cho máy tính tương thích IBM. Gates trở thành tỷ phú ở tuổi 31 và vẫn là một trong những cá nhân giàu nhất thế giới.
**29/10
-1618 – Nhà thám hiểm người Anh Sir Walter Raleigh bị hành quyết tại London vì tội phản quốc theo lệnh của Vua James I.- 1897 -Bộ trưởng tuyên truyền của Đức Quốc xã Paul Joseph Goebbels (1897-1945) sinh ra tại Rheydt, gần Dusseldorf, Đức. Được coi là một bậc thầy tuyên truyền, ông kiểm soát tất cả các tờ báo, đài phát thanh và sản xuất phim của Đức Quốc xã. Ông là một người bài Do Thái cực đoan, người ủng hộ việc tiêu diệt người Do Thái. Ông tận tụy với Hitler cho đến phút cuối cùng, ông đã chết tại hầm trú ẩn Berlin của Hitler vào năm 1945 sau khi đầu độc sáu người con của mình. **30/10:-1990 – Lần đầu tiên kể từ Kỷ Băng hà, Vương quốc Anh được kết nối với lục địa châu Âu, thông qua một đường hầm đường sắt mới dưới eo biển Manche. – 1735 -John Adams (1735-1826), Tổng thống thứ 2 của Hoa Kỳ sinh ra tại Braintree, Massachusetts. Ông phục vụ từ ngày 04/3/1797 đến ngày 03/3/1801. Ông từng là phó tổng thống của George Washington và là cha của John Quincy Adams, Tổng thống thứ 6. Ông qua đời vào ngày 04/7/1826, cùng ngày với Thomas Jefferson, vào đúng kỷ niệm 50 năm ngày thông qua Tuyên ngôn Độc lập.
**31/10:
– Halloween hay All Hallow’s Eve, một lễ kỷ niệm cổ xưa kết hợp lễ hội All Saints của Cơ đốc giáo với lễ hội mùa thu của người ngoại giáo.
-1940 – Trận chiến nước Anh kết thúc. Bắt đầu từ ngày 10 tháng 7 năm 1940, máy bay ném bom và máy bay chiến đấu của Đức đã tấn công các mục tiêu ven biển, sân bay, London và các thành phố khác, như một màn mở đầu cho cuộc xâm lược của Đức Quốc xã vào nước Anh. Các phi công Anh trên máy bay Spitfire và Hurricane đã bắn hạ hơn 1.700 máy bay Đức trong khi mất 915 máy bay chiến đấu. “Chưa bao giờ trong lĩnh vực xung đột của con người, rất nhiều người nợ rất ít người như vậy”, Thủ tướng Winston Churchill tuyên bố.
-1941 – Đài tưởng niệm quốc gia Núi Rushmore được hoàn thành sau 14 năm xây dựng. Đài tưởng niệm có các tác phẩm điêu khắc cao 60 foot về đầu của các Tổng thống George Washington, Thomas Jefferson, Abraham Lincoln và Theodore Roosevelt – đại diện cho nền tảng, triết lý chính trị, sự bảo tồn, mở rộng và bảo tồn của nước Mỹ.
– 1950 – Earl Lloyd trở thành người Mỹ gốc Phi đầu tiên chơi trong một trận đấu của Hiệp hội Bóng rổ Quốc gia (NBA) khi anh thi đấu cho đội Washington Capitols ở Rochester, New York.
– 1961 – Thi hài của Joseph Stalin được đưa khỏi lăng mộ ở Quảng trường Đỏ và được chôn cất lại bên trong các bức tường Điện Kremlin cùng với các ngôi mộ của những anh hùng Liên Xô kém cỏi hơn. Sự kiện này diễn ra như một phần trong chương trình phi Stalin hóa của Nga dưới thời người kế nhiệm Nikita Khrushchev. Tên của Stalin cũng bị xóa khỏi các tòa nhà công cộng, đường phố và nhà máy. Stalingrad được đổi tên thành Volgograd.-1968 – Trong Chiến tranh Việt Nam, Tổng thống Lyndon Johnson đã ra lệnh ngừng ném bom Bắc Việt Nam của Mỹ. -1984 – Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi bị ba thành viên Sikh trong đội cận vệ của bà ám sát khi đang đi dạo trong vườn nhà bà ở New Delhi. – Người lính và chính khách Trung Quốc Tưởng Giới Thạch (1887-1975) sinh ra tại Chiết Giang. Được đào tạo tại Học viện Quân sự Wampoa, ông đã lãnh đạo lực lượng Quốc dân đảng (dân tộc chủ nghĩa) trong cuộc đấu tranh chống lại quân đội Cộng sản do Mao Trạch Đông lãnh đạo.
Sao vẫn Còn mùa Thu | Hao Vì Sao Lạc
KIỀU MỸ DUYÊN: NHỮNG THÔNG TIN HỮU ÍCH
VĂN -THƠ: CAO MỴ NHÂN
CÙNG BIẾT THU VỀ
Quả là mùa thu đến thực rồi, nhưng để làm gì đối với một hoàn cảnh đất nước buồn tênh. Đưa tiêu để thật già lão: “Thu ẩm Hoàng Hoa Tửu” ra, để nói về “Mùa thu… chết” thì thật là tương phản. Nhân tiết thu thanh tao, mát mẻ, quý cụ, đôi khi có cả các vị trung niên, gặp gỡ chỉ để thưởng thức rượu cúc mùa thu.
Rượu cúc mùa thu tinh chế bằng hương cúc quý, hoa của mùa thu, đặc biệt đã ủ trong thơ thưởng ngoạn bốn mùa của Thôi Hiệu (704-754), đã được diễn âm quen thuộc trong văn chương VN từ xưa lắm rồi:
Xuân du phương thảo địa
Hạ thưởng lục hà trì
Thu ẩm hoàng hoa tửu
Đông ngâm bạch tuyết thi
Thành ra hình ảnh quý vị tao nhân mặc khách, quí vị kẻ sĩ, chinh phu… thậm chí cả những khách rượu dân gian, tất cả đều có thể say men hoàng hoa tửu, đón thu trở về cõi thế…
Chỉ với bầu rượu cúc, đấng mày râu lãng đãng bên trời, đã cho thiên hạ cùng biết mùa thu sương khói quanh đây.
…
Song có cần chi phải vận dụng rượu cúc với khách tài hoa hiện diện giữa đất trời này, mới hay thu đến, mà chỉ cần một chiếc lá rơi rất bình thường thôi, đã thấy vàng võ cả khung thu ảm đạm rồi:
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu
Cái điển cổ, điển tích lẫn trong thơ cổ VN, giãi bày ra lời ví von thường nhật, dân tộc ta hầu như thân thuộc hình ảnh lá ngô đồng…
Tất nhiên không phải chỉ ở bên Tàu, mới có ngô đồng, tức cây phong, cây cao, mùa thu thoạt thì lá vàng rực rỡ, rồi lá đỏ sậm đi, lá sẽ khô, rụng xuống…
Thủa nữ sĩ Mộng Tuyết Tiểu Muội còn sinh thời. Tôi hay tới biệt thự Úc Viên ở Sài Gòn để… xướng họa thi ca Đường Luật, một hôm nghe như trời se lanh, bất giác tôi nhớ… tích cũ, đọc khẽ câu:
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu…
Còn cao hứng nói: “Mùa đã vào thu rồi đại tỷ ạ…”
Đại Tỷ Mộng Tuyết, niên trưởng hội thơ Quỳnh Dao của chúng tôi chợt mỉm cười:
“Sao biết mùa thu đã về, ở miền Nam này, chỉ có hai mùa mưa nắng thôi? Và có biết cây ngô đồng, chú vừa nói đó như thế nào không?”
Tôi là em út của quý nữ sĩ Quỳnh Dao, chuyên biệt thể thơ thất ngôn bát cú, nên niên trưởng Mộng Tuyết thường kêu rỡn tôi bằng “chú”, tức chú tiểu đồng.
Tôi ngần ngại trả lời: số là những ngày ở ngoài Trung, em có nghe ngay trong đại nội Huế, có mấy cây ngô đồng, từ thời vua Minh Mạng đưa từ Trung Quốc về.
Rồi em có nghe, người ta nói cây ngô đồng chính là cây vông đồng, lá để gói nem phải không đại tỷ?
Nữ sĩ Mộng Tuyết cười thật kẻ cả nhưng hiền hậu vô cùng, bà vốn cao lớn, mập mạp, người thích hoa cúc mỗi khi mua hoa ngày Tết Nguyên Đán, nên tôi vẫn duy nhất, là người đùa tặng bà danh hiệu “Cúc đại đóa”. Bà vô thư phòng, lật một cuốn sách thật dầy, lấy chiếc lá màu đỏ bầm, trao cho tôi, bảo rằng:
Này là chiếc lá phong, tức ngô đồng ở Đài Loan, hôm xưa đi họp Văn Bút bên đó, ép mấy lá đem về, tặng chú một lá cho biết nhé.
Sau này khi đến Hoa Kỳ, đi chơi mấy tiểu bang ở Đông Bắc Mỹ, đã thấy những rừng lá phong, mới hiu hắt nhớ những câu thơ Đoạn Trường Tân Thanh của thi hào Nguyễn Du:
Rừng thu tầng biếc chen hồng
Nghe chim như giục tấm lòng thần hôn
(Nguyễn Du)
Đó là hình ảnh tầng lớp lá phong ngả sang màu đỏ, còn đầy trên vòm cao, chưa kịp rụng. Mùa thu vốn võ vàng, quạnh vắng, buồn chơi vơi…
Nỗi buồn mùa thu là nỗi buồn lãng mạn, trữ tình, không cần phải có đối tượng mới thở than.
Người yêu thu, thương lá vàng rơi rụng, vẫn có thể thiết tha buồn thảm vì cảnh vật mơ hồ sầu muộn, nên, Guillaume Apo-llinaire (1980-1981) mới viết nên bài thơ Vĩnh Biệt gởi lại người đời… L’adieu…
Nhà thơ Bùi Giáng dịch là Lời Vĩnh Biệt, nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ thành Mùa Thu Chết.
Mùa thu chết còn được gọi là “Hoa thạch thảo”, bởi vì loài ấy, cũng có dáng dấp hoa cúc, màu sắc cúc… mà nếu bàn tới thì cũng có thể cả ngàn chương…
Chỉ cần bàn về hoa cúc, hoa thạch thảo mùa thu, lập tức quý vị sẽ có hàng loạt đề tài…
Nhưng tôi chỉ định… sơ qua một chút sao lại “Mùa thu chết”, cái điều so sánh: uống rượu cúc mùa thu, và ngắt đóa cúc “thạch thảo “để nhắc nhau mùa thu đã chết.
Mùa thu phải sống mãi để năm năm mời nhau uống rượu cúc chứ, song le mùa thu đã chết thực rồi vì đóa cúc thạch thảo trên tay… không còn nữa, như chính chúng ta, từ đây mãi mãi không thấy nhau, từ đây mãi mãi không thấy nhau…
Năm 1965 đó, nhạc sĩ Phạm Duy hoàn toàn cảm hứng bài thơ L’ Adieu của thi sĩ Guillaume Apollinaire, bên cạnh đó là Lời Vĩnh Biệt do thi sĩ Bùi Giáng dịch.
Nhưng độc giả và thính giả, lai cứ kéo ông vào chính trường thơ nhặc, rằng Mùa Thu Chết là nhạc sĩ Phạm Duy khẳng định cái mùa thu 1948 của ông ngoài kháng chiến chết rồi, chết thật rồi.
Mùa thu mà “nhạc tuổi xanh” với câu mở đầu: “Một mùa thu năm xưa cách mạng tiến ra đất Việt…” Đâu phải là câu trả lời, lỡ có ai hỏi nhạc sĩ còn cảm giác gì với cái mùa thu thanh niên Hà Nội rời năm cửa ô, ra đi chống Pháp, kiểu Tây Tiến của Quang Dũng cùng thời:
Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi…
(Quang Dũng)
Rồi 3 năm sau, 1968, Việt Cộng tấn kích Tết Mậu Thân, lạc lõng trong đô thành Sài Gòn Chợ Lớn, lại cứ bảo (đoán mò) có ai đó vô tận tư thất nhạc sĩ Phạm Duy, hỏi xem âm hưởng mùa thu xưa còn chút gì vẳng vọng, nhạc sĩ bèn trả lời “Mùa thu đó đã chết rồi”
Thật là hay, và cũng thật là ảo vọng.
Tuy nhiên cho dẫu thi ca, âm nhạc có chuyển tải được tư tưởng đó, cũng là điều quý giá.
Trở lại với mùa thu chân nguyên, trong sáng…
Đã qua cảnh nóng nực của mùa hè, chuẩn bị áo lạnh khăn len cho mùa đông để chờ xuân sang ấm áp… thì mùa thu là mùa thư giãn, nghỉ ngơi…
Là mùa của khoan dung, hoan hỉ đợi người về, đón chờ người tới, và tiễn biệt ai đi, tất cả đều… chìm đắm trong khung thơ mơ mộng, an bình, hiếu hỉ từ gia đình đến ngoài thiên hạ…