Cao Bồi Già,  Cao Mỵ Nhân,  Phương Hoa,  Thơ Đường Xướng Họa,  Văn

Văn – “HƯƠNG MÙA VU LAN: Tâm Minh Ngô Tằng Giao” – CAO MỴ NHÂN & THƠ ĐƯỜNG XƯỚNG HỌA: “HƯ KHÔNG” -Thơ Tâm Minh Ngô Tằng Giao và Thơ Họa

HƯƠNG MÙA VU LAN.      
* Cao Mỵ Nhân  

Ai cũng biết “văn là người” rồi. Qua thơ lại càng thấy rõ Thơ với Người không thể như đầu sông cuối bể. Bể là biển chứ không phải là cái bể nước dùng trong nhà. Và, Thơ với Người đã cùng bơi trên một dòng nước. Vì thế hôm nay tôi xin đan cử một dòng Thơ rất bình thường ở hình thức, nhưng lại vòng vèo, tươi mát như mưa xuân trú ngụ nơi tâm hồn.

Tác giả của dòng thơ tươi mát này vốn là một đạo hữu, luật sư, đã từng nhập thiền hàng buổi kể từ khi còn ở quê hương Đà Lạt, tới lúc qua Hoa Kỳ, mà cành Vô Ưu vẫn nở hoa trước mặt. Ông ta không phải đi tìm mới có bởi ông luôn chăm sóc vườn Từ Bi ngay tại ta gia, ngõ hầu bước ra xã hội, với một tâm tư tình cảm hoan ca, hướng về cõi Phật.

Thứ nhất là tu tại gia

Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.

(Ca dao Việt Nam)

Luật sư Ngô Tằng Giao dùng pháp danh Tâm Minh làm bút hiệu, sinh ở hà Nội, lớn lên ở Sài Gòn, và lập nghiệp ở Đà Lạt. Ông đã gia nhập Luật Sư Đoàn từ năm 1962, là cháu đích tôn của cụ Ngô Thúc Địch, Vị quan tham chánh thời Quốc Trưởng Bảo Đại.

Cụ cố Ngô Thúc Địch người Hà Nội, nói tiếng Bắc, theo đạo Phật, nên chẳng thể là thân bằng quyến thuộc của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, gốc Quảng Bình được, điều này cho thấy Tổng Thống Ngô Đình Diệm không kỳ thị tôn giáo, và đồng thời cũng cho thấy, cụ Ngô Thúc Địch tuy mang họ Ngô, song không chung gia phả với Tổng Thống thời đệ nhất Cộng Hòa.

Và, điều quan trọng hơn, người cháu đích tôn là đạo hữu, thi sĩ, luật sư Tâm Minh Ngô Tằng Giao khi biện hộ cho các thân chủ ở chốn quan trường, ông đang còn ở tuổi thanh niên, lại không ồn ào kiểu đấu tranh tâm lý, mà rất chính trị, là bày tỏ thái độ khoan hòa, thể hiện lẽ công bằng, thanh tịnh, hiền hòa như các tác phẩm sau này ở hải ngoại của ông.

Vì muốn phổ biến những lời hay ý đẹp của Đấng Thế Tôn, đạo hữu thi sĩ Tâm Minh Ngô Tằng Giao đã uyển chuyển viết những dòng tâm kinh Phật toàn thể bằng thơ lục bát, hầu phổ biến sâu rộng tới đại chúng, ngoại trừ hai cuốn Tìm Hiểu Kinh Pháp Cú và 101 truyện thiền, chuyển ngữ từ 101 Zen Stories của Nyozen Senzaki và Paul Reps bằng văn xuôi.

Bên cạnh 101 tác phẩm thơ, văn về “cõi Phật” là cuốn Mưa Xuân (Spring Rain) chuyển dịch thơ Anh ngữ của nhiều tác giả ngoại quốc từ nhiều không gian và từ nhiều thời đại, trong đó có tác giả Rudyard Kipling (1865-1936) mà thời trung học, tôi đã phải học thuộc lòng một bài thơ của tác giả đó.

Trong truyện Quan Âm Thị Kính, thi sĩ đạo hữu Tâm Minh viết lục bát như tất cả các thơ văn chương đại chúng khác, có điều nhà thơ gốc khoa bảng này kể chuyện ngọn ngành hơn:

Xuất gia từ thuở thiếu thời

Tu qua chín kiếp luân hồi thành tâm

Rũ gần sạch hết bụi trần

Và kỳ chứng quả cũng gần tầm tay

(Quan Âm Thị Kính)

Thế nhưng qua thơ chuyển dịch Mưa Xuân thì Tâm Minh trọn vẹn là thi sĩ trữ tình lãng mạn:

Mưa Xuân reo sấm không trung

Lòng em cuồng nhiệt trong lòng lửa yêu

Môi chàng từng thốt đã nhiều

Mắt chàng đêm đó muôn điều nói thêm

(Mưa Xuân)

Đó là thơ Spring Rain của Sara Teasdale (1884-1933) dòng thơ xúc cảm mang phong cách văn học.

Tâm Minh Ngô Tằng Giao chưa từng “vỗ ngực” ông sáng tác thơ mà luôn khiêm tốn nói mình là soạn giả. 

Tác phẩm của ông gồm:

– Truyện cổ Phật giáo 1, 2, 3.

– Cuộc đời Đức Phật Thích Ca

– Kinh Pháp Cú

– Tặng một vầng trăng

– Truyện thơ thần tiên Đức Phật 1, 2, 3, 4.

– Tìm Hiểu Kinh Pháp Cú

– Kinh Bách Dụ

– Niết Bản (dịch)

– Quan Âm Thị Kính

Và mới nhất đối với tôi, trong mùa Vu Lan này, trong gói quà đã cất kỹ từ vài năm nay, 2 cuốn thơ thật đẹp, thật sang, thật trân trọng hiện ra:

– Mục Liên Thanh Đề (Sáng tác)

– Mother’s Love (Tình Mẹ, dịch thuật)

Thi sĩ luật sư Phật tử thuần thục khẳng định đó là Hương Mùa Vu Lan, với 54 bài thơ tuyển về những hiếu hỉ vuông tròn của đấng sinh thành gương mẫu đáng ca ngợi với hình ảnh những người con tiêu biểu.

Tâm Minh Ngô Tằng Giao đã từ lâu mang vóc dáng của một thiền sĩ, tâm tư tình cảm lắng trầm, phóng khoáng, khá trọn vẹn là thi sĩ…thiền. Không dám viết thiền sư, vì tác giả, hiền thê và 3 ái nữ đều là Phật tử chính thống, hiện cư ngụ ở Virginia, nên nhà thơ đôi lúc cũng bồng bềnh trước thực hư, huyễn ảo, bài thơ gần nhất diễn tả cõi mù sương đạo, đời ấy:

Hư Không

Bồng bềnh ẩn hiện bóng ngư ông

Neo chiếc thuyền nan giữa bến sông

Rộn rã thả câu trong quạnh vắng

Lao xao buông lưới giữa mênh mông

Chập chờn cõi ảo mù sương bạc

Thấp thoáng bờ chân rạng ánh hồng

Muôn đợt sóng vàng loang nước biếc

Dập dồn khuất nẻo chốn hư không

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

*

Bài thơ này đã có một số vị họa, nhưng bởi tử vận “mông” cuối câu thực đề (câu thứ 4) khiến có bài họa đi vào…tai họa, là ngoài chữ “mênh mông” ra, thì còn gì hay hơn từ “mênh mông” đó chứ.

Thế nên, giới trân trọng Đường thi, không thể gò ép chữ “mông” tầm tầm, làm khách thưởng ngoạn phải chau mày khó cảm thông.

Vì nội dung là thơ thiền, nên một thi sĩ gởi bài họa thật tương đối, và thật tương kính là nhà thơ Đường Luật Nguyễn Kinh Bắc viết như sau:

Tâm Không

Cửa thiền thanh thản dáng sư ông

Vui cảnh huy hoàng của núi sông

Dân tộc âu ca thời thịnh Việt

Giặc thù tan tác, buổi bình Mông

Câu thơ ngan ngát non Yên Tử

Nền đạo bồi vun giống Lạc Hồng

Rừng Trúc đêm nay xào xạc gió

Một trời lắng đọng giữa tâm không

Nguyễn Kinh Bắc

Bài xướng thiền, nên bài họa cũng phải thiền, Tâm Minh Ngô Tằng Giao chơi “phá bằng” (bồng bềnh). Nguyễn Kinh Bắc cũng “phá bằng” (cửa thiền) và xử dụng nguyên nội dung lịch sử vua nhà Trần thời thịnh Việt, sau khi bình quân Mông Cổ, vua Trần đã lên núi Yên Tử lập chùa tu, phái Trúc Lâm Yên Tử, “rừng Trúc” đầu câu chuyển (thứ 7) được tôn phong từ đó, có thể vậy.

Như thế, bài thơ thiền Tâm Không, nhà thơ Nguyễn Kinh Bắc họa thật nhất khí (một mạch câu chuyện vua Trần Nhân Tông đánh giặc Nguyên Mông) và nhất quán (cùng cách nhìn thiền với tác giả bài xướng Hư Không của Tâm Minh Ngô Tằng Giao).

Mỵ tôi vốn cũng tập toạng làm thơ Đường Luật, qua phảng phất khói sương “thiền” thôi. Biết gặp vần “mông” tử vận ngay, bèn chợt nhớ một phần đời thơ của thi sĩ cận đại tài hoa Hàn Mặc Tử ở Quy Nhơn xưa. Cố thi sĩ được điều trị bệnh phong tại bệnh viện Trại Cùi Quy Hòa, ở bên kia Ghềnh Ráng, và nếu đi từ trong Nam ra, khách phải vượt đèo Cù Mông, xin tạm họa thế này:

Huyền Không

Nghe sầu lãng đãng bước thi ông

Biển gọi thuyền trăng ở cuối sông

Thấp thoáng lương y qua núi Ráng

Chơi vơi bạch mã vượt Cù Mông

Mõ xa ủ mãi tàn hoa lửa

Sân lạnh đầy thêm xác pháo hồng 

Đã khiến Hàn quân rời cõi tục

Tạ từ vần điệu gởi huyền không

Cao Mỵ Nhân (8/2014)

Sự thực thì thơ xướng được quyền “hay”, lý do thơ xướng thoải mái tìm vần điệu, ngôn từ, ý tứ. Thơ họa đúng nghĩa chỉ là…họa mà thôi, đôi khi ghép chữ lạc lõng, có khi còn vô nghĩa nữa.

Thế nhưng bài họa Tâm Không của Nguyễn Kinh Bắc lại có dáng dấp của bài thơ xướng khác, nếu như khách thơ không được đọc bài Hư Không của Tâm Minh Ngô Tằng Giao.

Còn bài Huyền Không của Cao Mỵ Nhân thì chẳng qua kẻ họa thơ muốn huyền ảo tâm tư cụ cố thi ông Hàn Mặc Tử, tác giả bài thơ lừng danh Đây Thôn Vỹ Dạ, có câu:

Thuyền ai đậu bến sông trắng đó

Có chở trăng về kịp tối nay

(Hàn Mặc Tử)

Nên tưởng tượng vị lương y qua Núi Ráng để chữa bệnh nan y cho Hàn thi sĩ, đồng thời khách văn nhân, người mộ điệu…phi ngựa trắng (bạch mã dành cho văn quan, tao nhân mặc khách) vượt Cù Mông là cái đèo cao ngất, xẻ đôi núi, hình chữ V ở Phú Thạnh, ngoại vi thành phố Quy Nhơn. Cũng chỉ vì vần “mông” của Tâm Minh Ngô Tằng Giao, mà Cao Mỵ Nhân phải xử dụng địa danh “Cù Mông” đấy ạ.

Do đó, để giới thiệu với quý vị độc giả Chốn Bụi Hồng, quý đạo hữu của Tâm Minh, quý thi hữu, bằng hữu của luật sư Ngô Tằng Giao, tôi xin được lần nữa vẽ lại hình ảnh tươi mát, trong sáng của dòng thơ đạo vô ưu, phẩm chất đức hạnh vô cùng, vô ngã, mà người Phật tử đã gởi gắm tâm tình vào các truyện thơ Phật Giáo Việt Nam, lời thơ chân phương, hỉ xả, mang âm hưởng trung hậu đầy dân tộc tính của Ngô thi sĩ nêu trên.

Hawthorne, 8-8-2015

Cao Mỵ Nhân (HNPĐ)

Kính thăm LUẬT SƯ NGÔ TẰNG GIAO

*

Mười lăm năm bặt tin nhau

Đông tây biền biệt một mầu nhạt phai

Xin thưa biển rộng, sông dài 
Còn nguyên ngưỡng mộ văn tài trượng phu

*

Vẫn nghe bạn xứ sương mù

Cho tin đạo hữu luật sư tinh tường 

Người cùng gia quyến bình thường

Quen tay vẫn viết những chương Phật Từ 

*

Mười lăm năm tưởng huyễn hư

Hoá ra tất cả riêng tư vẫn còn 

Vẫn nghe nước chảy đá mòn

Cuốn đi cát bụi vàng son đường đời 

*

Tháng ngày bạch mã rong chơi

Bỏ quên xích thố bên trời điêu linh

Tơ vương thơ buộc nỗi mình

Chỉ còn ngôn ngữ tự tình tháng năm.

*

CAO MỴ NHÂN

HƯ KHÔNG

Bồng bềnh ẩn hiện bóng ngư ông

Neo chiếc thuyền nan giữa bến sông

Rộn rã thả câu trong quạnh vắng

Lao xao buông lưới giữa mênh mông

Chập chờn cõi ảo mù sương bạc

Thấp thoáng bờ chân rạng ánh hồng

Muôn đợt sóng vàng loang nước biếc

Dập dồn khuất nẻo chốn hư không

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

Thơ Họa:

HUYỀN KHÔNG

Nghe sầu lãng đãng bước thi ông

Biển gọi thuyền trăng ở cuối sông

Thấp thoáng lương y qua núi Ráng

Chơi vơi bạch mã vượt Cù Mông

Mõ xa ủ mãi tàn hoa lửa

Sân lạnh đầy thêm xác pháo hồng

Đã khiến Hàn quân rời cõi tục

Tạ từ vần điệu gởi huyền không.     

Cao Mỵ Nhân

*

VÔ ƯU

Sóng gợn chao nhoà bóng cụ ông

La đà thả mái dọc ven sông

Trí xao người mộ nơi sầm uất

Tâm tĩnh ta cần chốn quạnh mông

Dẫu lúc bình minh trời điểm thắm

Hay khi chiều xuống cảnh tô hồng

Phong ba bão táp đang vần vũ

Lòng chẳng ưu phiền vẫn trống không

Phương Hoa

July 18, 2022

*

TĨNH TẠI

Bên bụi lau già, một lão ông

Hành thiền, tĩnh tại ở ven sông

Chiều buông lặng lẽ, ngày hiu hắt

Sương tỏa nhạt nhòa, cảnh quạnh mông

Mặt nước êm đềm loang sóng nhẹ

Chân trời yên ả phớt mây hồng

Bóng người trầm mặc như pho tượng

Màn tối loang dần, phủ khoảng không

 Sông Thu

( 20/07/2022 )

*

ÔNG CHÀI.

Thấp thoáng con thuyền một lão ông,

Buông cần đợi cá ở ven sông.

Trên bờ lau sậy bay phơ phất,

Mặt nước rong bèo nổi quạnh mông.

Nắng tắt sương sa mây khói xám,

Triều lên sóng cả lửa chài hồng.

Ngâm hò oán trách đời đen bạc,

Tâm sự đôi lời gửi cõi không.

  Mỹ Ngọc.

July 20/2022.

*

CÂU THỜI

Ghềnh đá hằng ngày có lão ông

Ra ngồi trầm mặc ở ven sông

Buông cần chẳng lưỡi nhìn xa vắng

Thả lưới không mồi ngó quạnh mông

Cá lội tung tăng làn nước biếc

Thuyền trôi lờ lững ánh chiều hồng

Vầng dương dần khuất người thư thả

Vui vẻ ra về chiếc giỏ không .

songquang

20220720

*

TĨNH LẠC

Tranh chiều lặng lẽ một mình ông

Thoải mái tâm hồn hưởng gió sông

Ngắm vạt trời trong cười vớ vẩn

Nhìn làn nước bạc nghĩ lông mông

Khung trần dạ cảm vầng mây tím

Dáng biểu lòng yêu giọt nắng hồng

Thả chiếc cần câu lùa sóng lặn

Xa vời cánh Hạc lượn tầng không

       Minh Thuý Thành Nội

Tháng 7/20/2022

*

BÃI VẮNG

Bãi vắng tinh sương một lão ông

Êm đềm thuyền cắm đậu bên sông

Lăn tăn bóng đổ in dòng nước

Lặng lẽ sào nghiêng lóe nắng hồng

Kéo vó trầm ngâm đời sắc ảo

Buông câu nghiền ngẫm biển sầu mông

Đó đan thưa cá bơi lờ lững

Lòng đã như chừng tấp bến không,

Lê Mỹ Hoàn

  7/20/2022

*

THEO DÒNG

Giữ nhà vui cháu,mới sinh ông*

Nước mạch theo nguồn chảy với sông

Tuổi lão chia tay thời khổ cực

Tâm già đối mặt nỗi hoang mông

Nhìn lên tóc đậm màu mây trắng

Ngó xuống hồn phai sắc nắng hồng

Những đóa hoa thơm vừa ngọt quả

Vô thường lấy có thả vào không…

Lý Đức Quỳnh

   20/7/2022

*Mượn ý:…Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông.

*

NGOÀI KIA

Ngoài kia thấp thoáng một ngư ông

Buông lái nghiêng mình ngắm dáng sông

Rót giọt nắng vàng ,tia lấp lánh

Đan màu ráng đỏ ,cảnh xa mông

Nước chao khuấy động bầy cò trắng

Gió thổi đong đưa cánh nhạn hồng

Lao vút khoảng trời về cuối nẻo

Để người khắc khoải với thinh không !

PHƯỢNG HỒNG

*

LẠC CHỐN KHÔNG

Thấp thoáng từ xa bóng lão ông,

Thuyền xuôi đánh cá dọc bờ sông.

Mắt nhìn chờ đợi đêm thanh vắng,

Dạ ngóng buồn trông cá bến mông.

Gió thổi vi vu khơi sóng bạc,

Mây bay lờ lững chiếu tia hồng.

Âm thầm chẳng thấy cần đong đẩy,

Thơ thẩn hồn trầm lạc chốn không.

HỒ NGUYỄN

  (20-7-2022)

*

BUÔNG

Nước biếc trời thanh một lão ông

Lơi chèo neo gió thả theo sông

Đìu hiu bến vắng đò thưa khách

Lác đác trên đê vạc ngó mông

Chiều xuống chân mây viền sắc tím

Hoàng hôn góc núi ửng tia hồng

Chuông chùa ngân vọng… vang lời kệ

Tịch tĩnh tâm buông, trú cõi Không

Kiều Mộng Hà

july 21st2022

*

BỒNG BỀNH

Bồng bềnh sóng vỗ dáng thi ông

Râu tóc bạc phơ thuyền lướt sông

Thơ phú ngao du qua bến nước

Sáo tiêu vi vút gợn sầu mông

Giải khuây tâm sự đời chồng chất

Xa tít tầng mây đượm vết hồng

Cõi thế trớ trêu luôn giận dữ

Khéo lo tránh khỏi giấc huyền không !…

 Yên Hà

21/7/2022

*

ÔNG LÁI ĐÒ

Thế sự bon chen chẳng có Ông

Chiều neo thuyền nghỉ cạnh bờ sông

Chân mây trải lụa, trời xanh biếc

Mặt nước giăng tơ, cảnh vắng mông

Bến đón, nào màng người chuốt lục

Đò đưa, mặc kệ kẻ tô hồng

Chuông chùa văng vẳng…khơi tâm đạo

Lão trượng mỉm cười ngẫm: sắc, không!

DUY ANH

07/21/2022

*

HOÁ KHÔNG

Đò đậu ven bờ có lão ông,

Ưu tư lòng nghĩ đến non sông

Thả cần câu cá hồn hiu hắt,

Đưa mắt nhìn sông nước quạnh mông.

Nhớ cảnh xưa đời luôn chói sáng,

Còn ngày nay mộng chẳng đơm hồng !

Trần duyên chợt nghĩ là hư ảo…

Trời đất rồi ra cũng hoá không !

Liêu Xuyên

*

CÓ MỘT ÔNG

Thú thật …nhà này có một ông

Dường như kiếp trước thuộc dòng sông

Dong  buồm …chẳng ngại trời se lạnh

Lướt sóng…nào lo cảnh quạnh mông

Hạ đến…đem về xâu ghẹ bự

Thu sang…bắt được giỏ rô hồng

Đông về…lặng lẽ xem thời sự

Mặc kệ cuộc đời tay trắng không !

Thy Lệ Trang

*

BÌNH AN VÔ SỰ

“Sắc sắc không không”

Gác mái neo thuyền bóng lão ông

Ngư nghề hưởng thú sống ven sông

Đợi thời vũ vận nơi xa vắng

Thả mộng phong vân chốn quạnh mông

Tỉnh rượu chập chờn chiều ráng đỏ

Say men thấp thoáng sớm mai hồng

Bình an bủa lưới rong rêu biếc

Vô sự giăng câu cá “sắc không” ?

MAI XUÂN THANH

    July 22, 2022

***