ĐIỆP KHÚC TƯỚNG QUÂN Cổ Mai xưa có một người Vì yêu mai trắng nên thường tới lui Ấp kia vua đã phong rồi Khát Chân dũng tướng một đời chinh sa Mùa đông sánh bước mai hoa Tuyết rơi mai nở một trời bạch vân Tịnh Huyên Đình dẫn đưa chân (1) Nửa vòng bán nguyệt ngắm hoa súng hồng Bạch Liên Hoa chính tay trồng Buông người trên lụa - ngài nằm suy tư Thả hồn theo gió mùa thu Tiếng tiêu văng vẳng chiều tà vang ngân Anh hùng cởii giáp chinh nhân Giáo gươm vứt bỏ - thi nhân thay bào Sơn hà trong lúc binh đao Hai lần chinh chiến vua Chiêm tan đời Nhớ ơn Quốc Tuấn một thời Khát Chân cho dựng đền thờ Lư Giang Quý Ly cướp đoạt giang san Khát Chân chống đối - thây vùi Đốn Sơn Đá xanh còn tạc tuổi tên Tương Mai xây tượng gấp đôi thân người (2) Đặt trên bệ đá tôn thờ Khắc lên tinh xảo hổ phù, ao sen Xả thân vì nước bao phen Bốn đền thờ phụng không quên ơn người Những năm thế kỷ hai mươi Tại làng Đông Mỹ có trồng Song Mai (3) Mai Lâm Động Chủ mất rồi (4) Mai buồn mất gốc hoang tàn đìu hiu Ngày nay dù đất phì nhiêu Bạch Mai ngày ấy....còn đâu ....mà trồng ? (5) Mùa đông trên mộ anh hùng Tuyết rơi...nhắc lại.....một thời ......đã xa......... Minh triều xâm lấn nước ta Nguyên Hãn can đảm phục hưng nước nhà Vốn là dòng dõi hoàng gia “Trần gia suy yếu, ta không thể hèn” Bảo lưu thanh kiếm di truyền (6) Ngày đêm kinh sách vùi mài võ công Trao dồi binh pháp mười năm (7) Tuổi thanh xuân khổ cày nương Rạch Gò (8) Duyên may thanh kiếm trời cho Đêm về trăng sáng thay đèn mài gươm (9) Sắt kia mài núi phải mòn Trên kia vết lõm chứng lòng kiên trinh Vết chém thử kiếm diệt Minh (10) Đá mài gươm bén lưu truyền ....ngàn năm Anh hùng chí hướng oai phong Dưới trăng mài sắt trở thành kiếm thiêng Giữa thời đất nước rối ren Kéo hai trăm lính mang tên Rừng Thần Hàng trăm kỵ mã trung thành Lam Sơn tụ nghĩa không màng lợi danh Đánh cho quân giặc tan tành Mong ngày tao ngộ gia đình đoàn viên Những năm chinh chiến liên miên Cùng thanh kiếm báu tung hoành dọc ngang Vua Lê đối xử phủ phàng Anh hùng ôm hận gieo mình Lô Giang (11) Ngày nay Quan Tử tên làng (12) Thờ gươm cùng đá nhớ người hùng anh Trần Nguyên Hãn - lòng vì dân Sử xanh sẽ mãi lưu truyền thanh danh ** GHI CHÚ : (1) Tịnh Huyên Đình : nơi thanh tĩnh riêng của Trần Khát Chân tại vườn Cổ Mai (2) Làng Tương Mai và 29 làng khác tại Cổ Mai đều thờ Trần Khát Chân để tưởng nhớ công lao của ông đã nuôi dạy dân nơi đây lúc còn sống (3) , (4), (5) . Người ta kể rằng khi Trần Khát Chân mất thì Hồ Quý Ly cho phá ấp Cổ Mai, đến thế kỷ 20 có 1 ông lão tự xưng Mai Lâm Động Chủ là có giống Song Mai như ngày xưa của Trần Khát Chân - 1 loại mai nở 1 chùm 2 hoa sánh nhau. Khi ông mất đi, loài hoa này cũng mất gốc (6) Trần Nguyên Hãn theo mẹ chạy giặc từ nhỏ nên cất giữ thanh kiếm của tổ gia Trần Quang Khải 7 đời truyền lại (7) Ông có 11 năm trau dồi binh pháp, 11 năm rèn kiếm dưới trăng . Trong thơ cháu chỉ làm 10 năm vì đọc nghe nó vần hơn (8) Thời tuổi trẻ ông cực khổ, nhân lúc cày nương Gò Rạch, đã đào được thanh sắt và quyết tâm mài thành kiếm . Gò Rạch cháu đổi thành Rạch Gò để làm thơ cho hay (9)-(10) . Người ta chỉ thường ưa nhắc về hình ảnh mài gươm của Đặng Dung mà quên rằng anh hùng Trần Nguyên Hãn dùng tâm chí kiên trinh nhẫn nại hơn 11 năm mài sắt thành gươm, ông không có thời gian vì buổi sáng phải đi bán dầu nuôi mẹ nên tối mới rảnh dưới ánh trăng thay đèn mài kiếm. Ông mài năm này qua tháng nọ khiến tảng đá phải mòn, ông chém vết dài trên đá thử xem có bén chưa, vết thử đó vẫn còn trên đá đến ngày nay (11)-(12) Lê Lợi hèn hạ sát hại ông, sau đó cho người quẳng kiếm và gươm mài đá xuống sông Lô ( nay là sông Hồng) , ngày nay cách đây khoảng mười mấy năm trước ( cháu không nhớ chính xác là năm 1998 hay năm nào nữa) người ta vớt gươm và đá năm xưa rồi lập đền thờ ông tại làng Quan Tử