08-b ở Nơi đất Nước Mặt Trời Lặn

Thảo luận trong 'Truyện ngắn dư thi' bắt đầu bởi administrator, Thg 3 18, 2012.

  1. administrator

    administrator Administrator Thành viên BQT

    Tham gia ngày:
    Thg 3 14, 2011
    Bài viết:
    211
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    Giới tính:
    Nam
    08

    08-B Ở NƠI ĐẤT NƯỚC MẶT TRỜI LẶN


    Có lẽ chưa ở đâu chất lượng công dân lại thấp kém như ở Việt Nam. Nếu Abrcham Maslow đã từng đưa ra thuyết năm nhu cầu của con người gồm : Nhu cầu tồn tại, nhu cầu an toàn, nhu cầu giao tiếp, nhu cầu được tôn trọng, nhu cầu tự khẳng định mình thì ở Việt Nam, chiêm nghiệm từ cá nhân tôi và gần 80 triệu dân kém may mắn khác, cả năm nhu cầu đó đều bị khiếm khuyết trầm trọng, xin được dẫn chứng cụ thể sau :
    I. Nhu cầu tồn tại (gồm ăn, mặc, ở) :
    Ai cũng biết Việt Nam là một đất nước nghèo nhất nhì khu vực Đông nam á, với thu nhập GDP vẻn vẹn dưới 1000 USD một đầu người một năm(*) kém cả Laò, Căm pu Chia, còn so với các châu lục khác trên thế giới, Việt Nam đứng ở vị trí 184 trên tổng số hơn 200 nước, chỉ hơn vài hòn đảo Châu Phi mà thôi. Cho dù ở thập kỷ 70, so sánh giữa Sài Gòn, hòn ngọc viễn đông với Thái Lan, Việt Nam cao gần gấp đôi. Nói chính xác hơn nền kinh tế của Thái Lan khi đó chỉ bằng 55% của Việt Nam. Hàn Quốc cũng chỉ bằng 85%. Khắp mảnh đất trù phú phương Nam đã mọc lên hàng nghìn trang trại nuôi bò, đìa tôm, rừng thông, đồn điền cao su. Công nghiệp có cả hãng sản xuất hon đa, ô tô của Nhật. Từ khi “giải phóng Miền Nam”, “thống nhất đất nước”, người dân cũng được “giải phóng” khỏi sự giàu có, sung sướng, một hạnh phúc có sẵn và mức sống trên thời đại do chế độ Mỹ - Thiệu để lại. Vì điều nhỡn tiền này mà người dân phải đặt thành lời ca câu hát, nghe thật nghịch nhĩ nhưng trung ngôn: “Đi ta đi giải phóng Miền Nam, đi đến khi nào người dân không còn cái quần, thì ta còn chiến đấu quét sạch chúng đi , lời bác xui dại bên tai, chiến đấu cho đến ngày Nam Bắc nghèo bằng nhau”.
    Nền kinh tế Miền Nam đang từ một xã hội phát triển, tiêu thụ, từng là thị trường đầu tư của Mỹ, chỉ vì dính líu đến Miền Bắc xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế quan liêu bao cấp (đồng nghĩa với sự bố thí) nên buộc phải mang nghiệm âm. Kinh tế sa sút, đói kém chưa từng thấy. Người người ra đi, nhà nhà ra đi, trong khi nhà nước ra sức tuyên truyền trên hệ thống loa phát thanh về một cuộc chiến tranh thần thánh, về cuộc sống mới tươi đẹp đang mở ra trước mắt, trong xã hội giàu đẹp, văn minh, nhân đạo gấp triệu lần tư bản, thì người dân ngậm đắng nuốt cay với những câu châm ngôn bất hủ của thời đại mình: “Hoặc là con nuôi má, hoặc là con nuôi cá, hoặc là má nuôi con (trong tù)...Kết cục, dù nhà nước dùng mọi biện pháp ngăn chặn làn sóng di tản ồ ạt này , song số người ra đi vẫn trùng trùng lớp lớp. Không phải Nam tiến ,bắc tiến mà là...Biển tiến . Người chết la liệt trên bờ biển đông. Ngàn vạn con cá mập sống bằng thân xác thuyền nhân . Biển biến thành mồ vùi chôn vĩnh viễn cả triệu con người ...Vì nhu cầu tồn tại, họ phải ra đi bởi cả ba yếu tố ăn, mặc, ở khi đó đều không đáp ứng được nguyện vọng tối thiểu của họ . Ăn chỉ có: “Bo bo trộn với mì, và đồng lương mỗi tháng dăm ngàn , ngày đi như trong đêm sâu , qua hết rồi những tháng năm vui tươi”... Đói vàng mắt, đói triền miên, đói thấy ông bà ông vải. Cái đói len lỏi vào tận bữa ăn, giấc ngủ. Bao nhiêu đứa trẻ lớn lên, ba mươi năm sau còn bị ám ảnh bởi câu nói của ba má khi đó: “Thôi hôm rày hổng có chi đâu, tụi bay lên giường mà ngủ sớm, ráng giữ sức mà sống, mai tính tiếp”. Có lẽ không câu nào chính xác hơn câu nói mà người dân tự đặt ra trong thời kỳ này: “No đột xuất, đói triền miên”, và câu hát của bọn trẻ trong những đêm mất ngủ: “Đói lắm nội ơi, suốt đêm em nằm em quấy, rét lắm ba ơi, sao nhà chẳng có chiếu chăn, đói khổ thế này bao giờ mới được ăn no?
    Cho đến bây giờ dù sau 25 năm đổi mới (tính từ thời điểm 1986, khi tổng bí thư Đảng là Trường Chinh, tức Đặng Xuân Khu ra khẩu hiệu: “Đổi mới hay là chết ? Phải biết rẽ ngoặt tư duy” tình hình có biến chuyển hơn, song so với thế giới, giữa thời hội nhập toàn cầu này vẫn là một trời một vực, bởi sự nghèo khó nào cũng có nguyên nhân sâu sa, căn bản của nó, đó là nạn tham nhũng tràn lan, từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài
    Là dân thường nhưng hầu như ai cũng biết tầng lớp lãnh đạo Việt Nam có cả vài chục tỉ đô la gửi ở ngân hàng Thụy Sĩ (nhờ tiền bán đất đai tài nguyên thiên nhiên làm sân golf, bãi biển, nhà hàng, khu vui chơi, du lịch, giaỉ trí , kéo dài cả 30 đến 50 năm cho liên doanh nước ngoài), còn người dân mỗi ngày bị thu hẹp diện tích sử dụng trên chính mảnh đất quê hương mình .
    Trong khi nhu cầu ăn, mặc ở của đa số lãnh đạo vượt quá mức cần thiết thì phần đông người dân không được đáp ứng. Về ở, lãnh đạo nào cũng có dăm bảy biệt thự, khách sạn nhà hàng, trải khắp ba miền đất nước, rộng vài trăm mét vuông, thì người dân kiếm được 5 đến 10 mét vuông đã khó .Ngay chỉ thị của nhà nước cộng sản đề ra: “Phấn đấu mỗi đầu người dân từ 5 mét vuông trở lên”, song nhiều nhà vẫn ba, bốn thế hệ, cả chín, mười con người ở chen chúc trong những căn hộ sập sệ cấp bốn, vẻn vẹn 20 đến 30 mét vuông. Sinh viên, học sinh , công nhân thuê nhà cũng chỉ dám mỗi người từ 2 đến 3 mét, kẻo tiền thuê nhà choán hết quỹ lương của họ, trong khi còn bao nhu cầu thiết yếu khác, đâu chỉ có ăn, mặc, ở. Vì thế khi nhà nước yêu cầu các đối tượng này phải thuê nhà với diện tích mỗi đầu người từ 5 mét vuông trở lên thì dân tình la oai óai , bởi một nhà 9 đến 12 mét vuông cho bốn đến sáu người đã là 1,2 đến 1,5 triệu một tháng. Nếu gấp đôi thì hỏi họ đào đâu ra? Ai chẳng có nhu cầu ăn sung mặc sướng, song cứ vung tay quá trán trong khi quỹ lương quá hẹp, họ đành chép miệng làm theo câu ví dân gian: “Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Với mức lương chưa đầy 1,5 triệu 1 tháng , tiền thuê nhà đã chiếm mất một phần ba đến một phần tư, họ chỉ ăn quấy quá rau cháo cho xong , mặc thì hoặc là hàng chợ Trung Quốc, hoặc hàng thùng si đa , cốt lành lặn, kín đáo là được, ai dám chơi cái áo vài triệu bạc, calavát 250 ngàn , hay áo lót hàng hiệu trên dưới trăm ngàn?
    Ngay trong thời kỳ “đổi mới tư duy” này , nhà văn quân đội Khuất Quang Thụy cũng rẽ ngoặt tư duy thơ để bần thần thốt lên:
    Sống mới khó làm sao
    Nữa là còn sáng tạo
    Nữa là còn tranh đấu
    Nữa là còn yêu nhau?
    Xem ra nhu cầu thiết yếu đầu tiên trong năm nhu cầu mà Arbham Slow đưa ra với người dân Việt Nam, có đến 80% không được đáp ứng, chỉ 20% còn lại thuộc tầng lớp lãnh đạo, con ông cháu cha hoặc con cháu Việt Kiều là được toại nguyện, thỏa mãn . Điều nghịch lý mà không hề nghịch nhĩ là trong khi bụng cán bộ lãnh đạo biến thành nấm mồ chôn sơn hào hải vị ,thì bụng người dân là một nấm mồ rỗng hoặc chỉ được lèn bằng rau dưa, thậm chí nhu cầu rau xanh cũng không đủ đáp ứng .Vùng rừng núi Quảng Bình nơi Tố Hữu từng viết” Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình” , thiếu rau đến nỗi người dân phải đẽo hết gai xương rồng đi, đem ngâm nước cho chảy mủ rồi luộc lên ăn thay rau... Thật chưa khi nào khoảng cách giữa giàu và nghèo lại lớn như ở Việt Nam. Nói cách khác, chưa thời nào làm quan sướng như thời Cộng sản, và ngược lại chưa thời nào làm dân khổ như thời Cộng sản. Bản thân người viết bài này , nhờ mạnh dạn đi bên lề trái, biết rẽ ngoặt tư duy, dám buôn lậu chữ nghĩa qua biên giới, lật mặt trái tấm huân chương của Đảng, đòi hỏi tự do cho Việt Nam mà đựơc anh em, bè bạn, bà con, cô bác và các tổ chức tiến bộ trên thế giới biết tới, đùm bọc, che chắn nên nhu cầu trên mới được cải thiện. Nếu không dù làm giáo bản, giáo làng hay làm phóng viên báo đảng, vẫn là cảnh “ăn theo, nói leo” hoặc “ăn cơm rau vật nhau với trẻ”, nghèo mạt vận, nghèo kiết xác, sớm muộn cũng bị dồn vào cái máng lợn khổng lồ như số đông người dân Việt Nam, đặc biệt là các tầng lớp nông dân, công nhân, sinh viên và dân nghèo thành thị (vì không chịu làm bồi bút, bốc thơm các tư tưởng độc đoán, dốt nát, bốc mùi độc tài của đảng)
    II- Nhu cầu an toàn:(Gồm cả an toàn về tính mạng và tài sản)
    Kể từ khi cướp được chính quyền từ tay nhân dân, Đảng cộng sản đã áp dụng phương pháp cộng tất cả tài sản của người dân lại bỏ vào túi cán bộ .Hàng ngàn ngôi biệt thự cao cấp của Pháp để lại , mỗi lãnh đạo chiếm cứ một căn riêng , rộng từ 150 đến vài trăm mét , các căn may mắn còn xót lại lập tức biến thành khu chung cư chật chội đông người. Cả 15,20 gia đình gồm hơn 100 con người bị dồn vào đó, ăn đời, ở kiếp, sinh con, đẻ cái mà diện tích mỗi người không quá 2 mét vuông , còn tài sản thì bị cướp trắng . Sau mỗi đợt cải tạo công thương nghiệp ở Miền Bắc, tư sản mại bản ở Miền Nam , dưới những khẩu hiệu mỹ miều: “Không tồn tại chế độ người áp bức bóc lột người”. Vì vậy trừ tầng lớp lãnh đạo, tất cả phải nghèo khổ, mạt hạng như nhau. Biết bao gia đình giàu có do làm ăn chân chỉ hạt bột, thức khuya dậy sớm bị quy thành địa chủ , bị cướp trắng cả tài sản lẫn tính mạng . Bao công ty hợp doanh bị xung vào công quỹ ...
    Trên thực tế, sau ngày Miền Nam bị cưỡng chiếm, tuy không xảy ra một cuộc tắm máu nào nhưng, nhưng sau vẻ hiền hòa êm ả giả tạo đó là cả một hỏa diệm sơn nóng bỏng thiêu đốt bao thân phận con người. Người ôm hận mà chết vì cả đống tài sản tích lũy được do năng động, đầu tư phút chốc rơi vào tay cán bộ lãnh đạo và bọn lâu la dưới quyền. Hàng triệu người phải đi học tập cải tạo (thực chất là chết dần chết mòn trong nhà tù khổng lồ của cộng sản) .Không những tính mạng không đảm bảo mà cả tài sản cũng không cánh mà bay.
    Trong khi người dân Miền Nam bàng hoàng vì sự cướp bóc mang tầm thế kỷ , thì người dân Miền Bắc cũng phải trải qua thời kỳ đen tối không kém .Hễ nhà nào mọc lên hai tầng thì y như rằng được coi là “tài sản bất minh” , do buôn lậu đầu cơ, tích lũy gian lận mà có, và lập tức phải xung vào công quỹ như: Vườn trẻ , mẫu giáo, trường tiểu học một thời gian để sau đó hợp pháp hóa thành nhà riêng của các lãnh đạo cơ quan đầu thành, đầu tỉnh
    Cho đến tận thời điểm 2011 này, sự an toàn về tài sản và tính mạng của người dân vẫn chưa hề được đảm bảo . Đối với người dân, tài sản của họ chính là đất đai của tổ tiên, song : “Khi dân ở chỉ là nơi đất ở, khi quan mua đất bỗng hóa tấc vàng” , nên lãnh đạo địa phương tha hồ bỏ tấc đất, tấc vàng vào túi mình, dưới các dự án treo, trung tâm dịch vụ ma v.v Ngay vùng rừng núi Bắc Ninh , Bắc Giang núi đồi thưa thớt , đất trống hoang hóa cũng bị cái lưỡi công nghiệp hóa và bàn tay cáu bẩn của lãnh đạo cộng sản liếm láp . Nhiều nhà mất toi cả ngàn mét vuông . Bình quân mỗi đầu người hiện tại chỉ còn trên dưới 100 mét vuông ,không thể trồng lúa được, họ đành vứt ráo cả cày bừa, liềm hái cho đồng nát rồi đi làm thuê, làm mướn kiếm ăn...Từ kho thóc, đụn gạo cất giữ trong mỗi nhà thành vác rá ăn đong từng bữa...Đồng tiền gắn liền khúc ruột, vì mất đất vô cớ mà bao nhiêu con người phải vùng lên đánh đổi tính mạng mình để tài sản không rơi vào tay lũ cướp ngày là bọn ma cô cộng sản, song ruộng đất cứ mất, người vào tù cứ vào , nườm nượp, bất chấp lý do, nguyên cớ
    Đối với các nhà đối kháng dân chủ , bất đồng chính kiến , thì nhu cầu an toàn còn bị đe đọa từng ngày . Kể từ đầu năm 1999, khi tác giả gửi chùm bài đầu tiên ra nước ngoài, qua một người bạn ở Đức về, lập tức bị công an Đảng bám riết từng ngày. Từ cửa nhà đến khu vườn trẻ (nơi tác giả gửi con), chợ búa hay tòa soạn báo (nơi tác giả làm việc )...đâu đâu cũng có bóng dáng slochome nội hóa, mặc thường phục theo dõi, bám đuổi từng ngày, từng giờ, cuối cùng là bắt nóng vào ngaỳ 22-10-2002, chỉ vì trong túi có một tập tài liệu trên mạng và vài bài viết của chính tác giả mà công an cho là tài liệu ngoài luồng, phản động, cấm phổ biến, phát tán . Ngay trong ngày hôm đó cả nhà tác giả bị lật tung tận nóc để thu đi hơn một ngàn đầu tài liệu (trọng lượng 6 kg giấy tờ, văn bản) trong đó có cả vài tác phẩm kinh điển như “Đêm giữa ban ngày”, “Tổ quốc ăn năn”, “Viết cho mẹ và cho quốc hội” v.v
    Tính cho đến thời điểm này , sau hàng chục lần bị chặn đường bắt giữ, với dủ thứ lý do trâng tráo, bịa đặt (chứng tỏ bản chất bỉ ổi, đê tiện, hạ đẳng của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam)...Nào buôn ma túy, nào bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới, nào có hành vi đe dọa giết người v.v và v.v, còn thêm hai lần ngồi tù, tính mạng ngàn cân treo sợi tóc, nhà cửa bị phá nát, giá trị tài sản gồm phương tiện đi lại và phương tiện làm việc như xe máy, ổ USB, máy com pu ter, máy in, máy scan, điện thọai di động v,v lên tới vài trăm triệu đồng...bởi cứ mỗi lần bị bắt, bị khám xét hành chính là mỗi lần tài sản bị cướp trắng, được hóa giá ngay trong các văn phòng, công sở của cơ quan công an ...Đó chỉ là một ví dụ hùng hồn sinh động trong số hàng nghìn các chiến sĩ dân chủ dân oan, lực lượng đối kháng khác ,như tôn giáo, nhà báo, doanh nhân v.v Người nào cũng bị đe dọa về tính mạng và tài sản. Hơi một chút là bị bắt, bị tịch thu trắng
    Tất nhiên, nếu chịu đựng được kiếp sống như giun như dế mù lòa, đảng bảo sao nghe vậy ,bắt bán đất đang canh tác với giá rẻ mạt , tự nguyện chấp nhận cuộc sống nghèo nàn , túng quẫn, chịu thiến hết chất anh hùng thời đại đi , chỉ còn lại chất tôi đòi hèn mạt . Nghèo đói cũng không được mở miệng ta thán . Khổ sở cũng cắn răng mà chịu đựng , bao bất công ngang trái cũng phải vùi chôn. Khi đó cái tính mạng tả tơi ,rách tướp mới được đảm bảo và chút tài sản không đáng giá mới không bị tịch thu.
    III Nhu cầu giao tiếp: Nhà giáo dục đại tài của Nga- Xulômkhinxki nhận định: “Ta sống giữa mọi người, niềm vui lớn nhất là niềm vui giao tiếp” . Song ở Việt Nam, ngôn ngữ giao tiếp chỉ ở trong giới hạn cho phép , ví dụ trong công việc xã giao, trong vòng vây của cuốn sổ chi tiêu gia đình chật hẹp ...Ngược lại, nếu không biết giữ mình trong giới hạn đảng quy định, lập tức lên trình diện tại đồn công an phường dài ngày hoặc đi tù mút chỉ ngay. Chỉ cần năm bảy người tụ tập giao tiếp với nhau , lập tức có con mắt thần của Đảng chiếu vào , tóm sống, đơn giản vì nếu không gặp nhau tụ tập mở xới bạc, cũng là hành động mờ ám, khuất tất : Hội họp để tuyên truyền kích động chống đối chính quyền v.v
    Trong khi Việt Nam xã hội hóa về măt nói dối , thì những người càng có nhu cầu giao tiếp lành mạnh , càng hay bị chú ý, không đơn thuần như cách ví dân gian : Giếng ngọt bị cạn trước , cây thẳng bị chặt trước, mà còn là tội không chịu đồng nhất mình với đảng, trưởng thành trong nỗi...coi thường các đồng chí . Từ lãnh đạo đảng viên đến những kẻ ăn theo, nói leo ,tự nguyện ôm chân các đồng chí đều coi việc nói dối là phương tiện cứu cánh trong mọi trường hợp v.v cho nên thói quen nói dối để lấy lòng cấp trên, nói dối để được việc đã trở thành phổ biến . Từ trước năm 1945, trong bóng đêm nô lệ, người dân chỉ đồn thổi, lưu truỳen câu ca: “Thằng cuội ngồi gốc cây đa, bỏ trâu ăn lúa gọi cha bời bời”, thì giờ đây thằng cuội đã ngồi gốc trung ương rôì... Càng quyền cao chức trọng, càng giao tiếp lắm, thì càng gian dối nhiều
    Từ đầu năm 2006, đích thân thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hùng hồn phát ngôn: “Nếu không chống được tham nhũng, tôi sẽ xin từ chức”... Song từ chức vị thủ tướng bao gian dối đẻ ra bời bời. Vì thế câu ca mới được người dân Việt Nam truyền khẩu:
    Thằng cuội ngồi gốc trung ương
    Bỏ dân chết đói , tha hương xứ người...
    Năm xưa Cuội nói cuội cười,
    “Tham nhũng không chết tôi rời ghế ngay”
    Năm nay vẫn chiếc ghế này
    Cuội bai bải cãi: “Tại mày bầu tao”
    Cuội ơi từ chức đi nao
    Kẻo quân Tàu cộng nó vào Việt Nam
    Cuội càng gian, nhũng càng tham
    Dân Nam đói khổ, băm vằm Cuội ra
    Kể từ năm 1945, khi đảng nắm quyền cai trị dân , nhu cầu giao tiếp đã bị thay đổi tận gốc, đặc biệt sau cuộc cải cách long trời lở đất, long cả đạo lý cha ông (1953-1957) một loạt địa chủ bị quy oan , chỉ vì đảng bằng sự tài tình và sáng suốt của mình , đã phát động phong trào đấu tố gay gắt trong gia đình làng xã ,nơi bao năm yên bình lịch lãm , nghĩa tình thơm thảo sẻ chia ,bảo ban nhau theo đạo lý cha ông:
    Công cha như nước thái sơn
    Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
    Một lòng thờ mẹ kính cha
    Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
    Đảng cộng sản Việt Nam, chui từ quốc tế cộng sản ra , lại dạy ngược lại :
    Công cha như rác, như phân
    Nghĩa mẹ như nước... trong quần chảy ra
    Giơ tay chỉ mặt mẹ cha
    Mày là cộng sản tao xa lìa mày
    Từ đó giao tiếp ngày càng rời xa giá trị căn bản của đời sống. Đạo đức luân lý bị đảo lộn , giao tiếp chỉ còn mang tính xã giao cho qua ngày đoạn tháng , theo kiểu bằng mặt chứ không bằng lòng, khi buộc phải nói thật, lập tức trên miệng họ roi rói những câu chửi thề, chửi tục.Tệ nói bậy, nói láo, nói lấy được, nói không cần suy nghĩ đã trở thành đặc tính căn bản của người Việt Nam trong thời đại xã hội chủ nghĩa. Nếu tiếng nói là hơi thở của tâm hồn thì thật kinh hãi cho nhu cầu giao tiếp ở Việt Nam, vì đó là những tâm hồn bệnh hoạn, mù lòa, bẩn tưởi, tăm tối của đa số người dân Việt , cũng là sản phẩm tất yếu dưới sự lãnh đạo duy nhất của đảng...Tất cả những gì đi chệch sự lãnh đạo đúng đắn này đều bị đe dọa nghiêm trọng, đến mức người dân phải lẩy kiều của Nguyễn Du để thở than :
    Đau đớn thay lời thật thà
    Không vào nhà đá cũng là trại giam
    Hoan hô cộng sản Việt Nam
    Bắt người lương thiện dẫu nhầm không tha
    IV- Nhu cầu được tôn trọng và tự khẳng định mình
    Có lẽ hai nhu cầu này ở Việt Nam vẫn còn là điều xa lạ với số đông người dân. Trong khi một công dân Mỹ được người lớn giáo dục: “Nếu mày giỏi, mày có thể ra ứng cử tổng thống, mày dốt thì làm thợ mộc , nhưng phải bảo vệ quan điểm của mày đến cùng , có như thế mới là mày”
    Ở Việt Nam, từ khi có đảng đến nay, người dân đã quen với việc “cha mẹ sinh con, đảng, đoàn, xã hội chủ nghĩa sinh tính, nhất nhất phải tuân theo đảng và lãnh đạo cấp cao, tất cả đều bị cào bằng, sơ đồ hóa, đều chằn chặn như những ngọn cỏ bị xén, nhìn xa tưởng đẹp ,nhưng còn đâu chỗ đứng cho thiên tài?
    Nhờ nhu cầu này – được tôn trọng và tự khẳng định mình mà nước Mỹ có một Ê Đi Sơn lừng vang thế giới với hơn một nghìn sáng kiến lớn nhỏ khác nhau , trong đó nổi bật lên là điện chiếu sáng, điện thoại, máy điện toán v.v , từ bóng đêm nô lệ ,nhờ điện, loài người thực sự thay đổi, làm chủ khoa học, làm chủ thiên nhiên , làm chủ bản thân, thông qua các phát minh vĩ đại của Ê đi Sơn
    Trong bối cảnh Việt Nam, vì cách hiểu bình quân chủ nghĩa, lối áp dụng máy móc và đơn giản hóa mọi chuyện đã xóa đi không biết bao nhiêu phẩm chất cá nhân độc đáo và riêng tư. Tất cả, từ luật sư, kỹ sư, danh nhân, học sinh đều ước lệ ,tẻ nhạt, tự thỏa mãn ở mức trung bình , vô thưởng vô phạt ,trình độ dân trí vì thế bị hạ thấp và đánh đồng như nhau, tất cả đều dừng ở mức phong trào, mang nặng tính phổ cập nhưng không thể nâng lên tầm chuyên nghiệp trong mọi lĩnh vực văn hóa, khoa học, xã hội ,kinh tế v.v ... Thật đáng buồn và không khỏi lo lắng cho tương lai dân tộc, vì sẽ để lại hậu quả lâu dài. Về kinh tế, 50 năm sau có thể hồi phục, duy trì, thoát khỏi nghiệm âm (so với thời điểm 1970 tại Miền Nam, Việt Nam, song tâm lý đã ăn sâu vào tiềm thức của dân tộc thì cả trăm năm sau khó có thể xóa nhòa, thay đổi được.
    Vì muốn khẳng định mình, tạo ra bước tiến cho dân tộc Việt Nam mà một loạt các nhà dân chủ ,lực lượng đối kháng xuất hiện, người mở lớp dạy nhân quyền cho học viên (Lê thị Công Nhân) người thành lập ủy ban nhân quyền (Nguyễn văn Đài) , người thành lập khối 8406 (Đỗ Nam Hải ) người ra mắt hội dân oan Việt Nam, người tổ chức treo khẩu hiệu, thả bóng bay nhân quyền ( Nguyễn Xuân Nghĩa, Vũ Hùng, Nguyễn văn Túc, Ngô Quỳnh, Nguyễn Kim Nhàn , Nguyễn văn Tính , Phạm văn Trội, Ngô mạnh Sơn ) v.v Người tọa kháng tại nhà phản đối chính sách ươn hèn của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong việc dâng đảo Hoàng sa và một phần Trường sa cho Tàu cộng (Phạm Thanh Nghiên ). Người tham gia vào diễn đàn kinh tế ,viết bài chỉ rõ vị thế của đồng tiền Việt Nam đang bị mất giá thảm hại , lạm phát từ đầu thiên niên kỷ thứ 3 đến nay là 80% (Trần Huỳnh Duy Thức). Người không chịu tuyên thệ với đảng cộng sản Việt Nam( Nguyễn Tiến Trung). Người dịch trang web: “Thế nào là dân chủ của Đại sứ quán Mỹ sang tiếng Việt (Phạm Hồng Sơn). Người chỉ rõ nguy cơ của Việt Nam dưới sự lãnh đạo “sáng suốt” của đảng: Chính trị lùng nhùng, kinh tế bế tắc, đạo lý đảo lộn , nhân cách xói mòn, pháp luật tồi tệ , đời sống đói nghèo dân tình kiệt quệ v.v (Nguyễn Vũ Bình ) v.v mà lần lượt tất cả phải vào tù, tra tay vào còng, đứng trước vành móng ngựa của đảng cộng sản, lĩnh án từ 3 đến 16 năm tù.
    Một nghịch lý ở Việt Nam là càng hiểu biết, càng trở nên nguy hiểm, càng không được tôn trọng, càng bị phân biệt đối xử. Trong khi ở Sanhgapore, một nhân viên bảo vệ khách sạn cũng phải biết ít nhất ba ngoại ngữ , tiếng mẹ đẻ, tiếng Anh, tiếng Pháp ...thì ở Việt Nam vang vọng câu ca: “Giàu nó ghét, nghèo nó khinh, tài giỏi thông minh nó không sử dụng”. Người tài, dù khắc phục mọi hạn chế, đội trần vượt lên , vẫn không được xã hội cộng sản chấp nhận, huống hồ “dân ngu cu đen” còn bị bỉ bai, miệt thị đến mức nào?
    Tóm lại để tồn tại ở Việt Nam, nơi đất nước mặt trời lặn, nơi đảng cộng sản cầm quyền cai trị , thì người dân Việt không được đòi hỏi bất cứ nhu cầu nào hết, ngoài nhu cầu tuân theo lệnh đảng, phải chia động từ “sợ” trong mọi lúc, mọi nơi, phải ép chặt ước mơ, phải kiềm chế nỗi buồn, phải gọt bớt cảm quan, phải xén mòn tâm tưởng...nghĩa là phải chịu bé hơn chính bản thân mình và mọi người, càng bé hơn tư tưởng ngu si của đảng bao nhiêu thì càng được hưởng thái bình bấy nhiêu. Nếu không viễn cảnh: “Toa dồn toa, chỉ vì hai tiếng tự do, nối tiếp dăt nhau ra tòa, cùng chung một kiếp tù đày” như hầu hết các nhà dân chủ đối kháng , bất đồng chính kiến khác đang phải chịu đựng trong nhà tù cộng sản.Từ Hỏa Lò ( Hà Nội) ; Khám Chí Hòa (Sài Gòn) Xuân Lộc (Đồng Nai) Trại 5 ( Thanh Hóa), Ninh Khánh (Ninh Bình ); Ba Sao ( Hải Hưng) v.v và v.v , không có gì là khó hiểu...Dù trong thời hội nhập Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản – trong một chừng mực nào đó vẫn là ốc đảo , bị bưng bít, khuất lấp trở thành góc tăm tối cuối cùng trong hành tinh nhân loại, chỉ vì chịu sự kiềm tỏa, độc đoán chuyên quyền, dốt nát và ngu muội của cái gọi là đảng cộng sản Việt Nam
    Buồn lắm thay, nơi đất nước mặt trời lặn, nên cả năm nhu cầu từ ăn, mặc ở, giao tiếp v.v đều không tồn tại, nếu không nói trắng ra là chỉ tồn tại trên miệng lưỡi lãnh đạo cộng sản mà thôi ./.
    08- B
    *Con số do đảng cộng sản đưa ra, nhưng thực chất chỉ là 5-600 USD/năm/một đầu người. Bởi hiện tại ở Việt Nam, nhiều người dân thu nhập không nổi 1 USD/ngày
     

Chia sẻ trang này

Share