Phạm Thắng Vũ : Ký Ức Một Thanh Niên Hà Nội Về Ngày 30-4-1975

Một thay đổi đã đến trong lòng tôi mà tôi biết điều này cũng sẽ đến với bất kỳ người nào từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa khi đặt chân vào miền Nam ở thời kỳ đó. Sài Gòn hay nói rộng ra cả miền Nam không phải là một xã hội lạc hậu, nghèo nàn, đói khổ, đầy rẫy cảnh người bóc lột người như bao lâu nay người dân miền Bắc được (hay bị) báo chí, đài phát thanh Hà Nội… mô tả

Ký Ức Một Thanh Niên Hà Nội Về Ngày 30-4-1975

 

Bài dưới đây là tâm tình của anh H, một người bà con trong họ đã kể cho nghe, PTV chép lại.


Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi đang ngồi trong căng tin của nhà máy Hoá Chất Việt Trì thì tai nghe những tiếng la hét ầm ĩ vui nhộn từ phòng thông tin của Công Đoàn nhà máy.    “Thắng rồi… Ta thắng rồi… Dương Văn Minh đầu hàng rồi.”  Tôi bỏ dở cốc nước chè và cùng vài người chạy vội ra xem chuyện gì. Một nhóm công nhân đang vây chung quanh anh Minh, thư ký Công Đoàn cho biết tin vừa nhận được qua đài Tiếng Nói Việt Nam là quân ta đã chiếm được Dinh Độc Lập, bắt Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng. Nghe vậy, những tiếng hét lớn vui mừng một lần nữa lại vang lên. Những ngày trước đây, kể từ sau trận đánh vào Buôn Mê Thuột, Đoàn Thanh Niên Lao Động Hồ Chí Minh của nhà máy đã làm một áp phích lớn vẽ bản đồ của 44 Tỉnh miền Nam Việt Nam Cộng Hòa và dựng nó gần cổng ra vào. Trên tấm áp phích đó, cứ mỗi khi được tin quân ta giải phóng thêm tỉnh nào thì lập tức tỉnh đó được vẽ một lá cờ Đỏ sao Vàng ngay. Tôi đã thấy càng lúc càng nhiều lá cờ Đỏ sao Vàng xuất hiện trên tấm áp phích chỉ trong một thời gian ngắn đến nỗi phải hoài nghi, dù không nói ra mặt. Bây giờ, điều nghi ngờ đó đã thật rồi, mừng quá đi. Thôi từ nay là hết chiến tranh và những thanh niên miền Bắc sẽ không còn phải xuôi Nam chiến đấu trong chiến trường B nữa. Và điều quan trọng tôi sẽ gặp lại người cha ruột đã xa cách gia đình tới 21 năm rồi. Hôm đó, như để cùng chào mừng với niềm vui lớn của đất nước, trừ những khâu cần phải vận hành máy chạy liên tục còn tất cả các khâu lao động trong các phân xưởng và các phòng ban khác được ban lãnh đạo nhà máy cho nghỉ việc sớm để mang tin vui về cho gia đình biết. Tôi phóng nhanh xe đạp về nhà báo tin cho mẹ tôi biết ngay tin vui này.

Về đến nhà, đắt xe vào trong, chưa kịp khoe tin thì mẹ tôi đã nói: “Sao nay con về sớm vậy? Bộ đội vào tới Sài gòn rồi con biết chưa?”.  Tôi trả lời mẹ là đã biết, được nhà máy cho về sớm định kể mẹ nghe đây. Mẹ tôi ngồi ở bàn sát cửa sổ như đang suy nghĩ điều gì. Tôi cởi áo đi ra giếng nước sau nhà múc nước tắm sau đó quay trở vào mà vẫn thấy mẹ tôi ngồi yên tại chỗ. Tôi bước lại bên bà, hỏi: “U sao vậy?”  và đặt tay tôi lên trán bà, tiếp: “U cảm hay sao nói cho con biết với”. Nhưng bà nhìn tôi, miệng cười mỉm, trả lời:

– Không con. Mẹ khoẻ mà… có điều mẹ đang nghĩ về thầy con thôi. Không biết thầy con bây giờ trong đó đang như thể nào?

Nghe thế, tôi đi mở cái tủ gỗ gụ cũ, lục lọi rồi lấy ra tấm ảnh đen trắng chụp chân dung cha tôi đã cũ, ố vàng. Trong ảnh, một người đàn ông mặc bộ đồ trận rằn ri, ánh mắt nghiêm nghị, đứng cạnh lề đường một khu nào đó trong thành phố Sài Gòn của miền Nam. Tấm ảnh này là tấm duy nhất, gia đình nhận được từ cha tôi, khi hai miền Nam-Bắc còn liên lạc được bằng thư từ.

 

Cha tôi, một chiến binh trong lực lượng Dù thuộc quân đội Liên Hiệp Pháp. Những ngày cuối cuộc chiến năm 1954, đơn vị ông được máy bay thả xuống tiếp sức cho căn cứ Điện Biên Phủ đang bị vây hãm để không lâu sau đó, căn cứ nầy lọt vào tay bộ đội Việt Minh. May mắn thoát chết, bị bắt làm tù binh rồi ông được trả tự do và theo đơn vị quay về Hà Nội. Những ngày cuối của Hiệp Định Geneva, ông đã cho người về quê Sơn Tây đón mẹ con tôi lên để cùng ông vào miền Nam nhưng chuyện không thành, ông phải theo đơn vị vô Sai Gòn trước. Thực ra chuyến đi ra Hà Nội khi đó, đoàn người làng có hai mẹ con tôi đã bị cán bộ Việt Minh lừa đưa vào tạm trú trong khu rừng vắng. Khi đoàn người được phép ra khỏi rừng thì thời hạn di cư đã qua, gia đình bị chia cắt từ đó lúc tôi mới được gần một tuổi.

Hai mẹ con quay trở về Hà Nội sống trong gian nhà của ông ngoại tôi. Là dân thành thị, mẹ tôi biết cắt may quần áo rất khéo và nhờ cái khéo tay này mà bà đã nuôi tôi ăn học. Tôi được nghe kể là các cán bộ đã tìm bà để đặt may quần áo cho họ rồi khi các Hợp Tác Xã May Mặc giải thể, bà đã tìm mua sở hữu thực thụ được một máy may cũ và nhờ vậy mà cuộc sống đỡ vất vả so với nhiều người khác. Tuổi ấu thơ của tôi gắn liền với thành phố Hà Nội từ những làn sương mờ buổi ban mai trên mặt Hồ Tây, mùi không khí đường phố quyện với lá cây sau các cơn mưa rào. Những buổi trưa mùa Hè, trốn mẹ đi chơi, tôi cùng chúng bạn đi lang thang vào vườn bách thú, quanh bờ hồ hoặc trèo lên những cây bên vệ đường để tìm bắt các chim non trong tổ. Có khi rình ném đá vào nhà hàng xóm buổi nghỉ trưa để rồi cả bọn ù té chạy khi chủ gia mở cửa ra nhìn. Khi tuổi lớn hơn, tôi mới nhận ra những khác biệt giữa mình và các bạn đồng trang lứa mỗi lần nghe chuyện chiến tranh về miền Nam. Có những buổi sinh hoạt chung mà người phụ trách không cho tôi tham dự. Lúc đó, tôi cũng không hiểu tại sao? Có khi về hỏi mẹ thì bà chỉ nói:        “Thôi con, họ không cho thì về nhà với mẹ”. Rồi những năm chiến tranh lan ra miền Bắc. Máy bay Mỹ ném bom nhiều nơi và ngay ở cả Hà Nội nữa. Những đợt bom chùm tuốt từ trên mây rải xuống đã phá huỷ nhiều khu phố lớn. Cảnh người chết mất xác trong các đống gạch vụn cùng lửa khói cháy nghi ngút khiến ai cũng sợ. Đành phải kéo nhau đi sơ tán về các miền quê cho an toàn. Hai mẹ con tôi về quê nội trong một làng ở tỉnh Sơn Tây cũ. Đây là vùng bán sơn địa có ruộng có vườn cùng các núi đồi rất đẹp. Trong làng có nhiều đứa thiếu niên trạc tuổi tôi và tôi rất muốn làm bạn cùng chơi với chúng nhưng họ không thích tôi ra mặt. Trẻ em đã vậy mà người lớn cũng nói xấu, dèm sau lưng mẹ tôi mỗi khi họ gặp mặt nhau trên đường hoặc trong phiên chợ. Tôi đành kết bạn với mẹ thôi, không ai khác.

 

Đến tuổi trưởng thành, thấy nhiều thanh niên xung phong vào bộ đội, tôi cũng giơ tay xung phong nhưng bị cán bộ trong Ban Tuyển Quân từ chối. Tuổi thanh niên, hình ảnh người lính với cây súng cuốn hút tôi lắm nhưng họ không nhận thì đành chịu. Về kể lại cho mẹ tôi biết, bà chép miệng nói làm sao họ cho con vào bộ đội được rồi trách khẽ: “Có mỗi một mình mẹ mà con định bỏ đi sao!”. Tôi rất chật vật khi xin một việc làm. Đơn gửi tận tay nhiều nơi mà không hề có chút hồi báo làm tôi buồn. Không lẽ thân đã lớn lại cứ để mẹ phải nuôi mình mãi nhưng đi xin việc không ra. Tôi có lúc nhủ thầm chắc số mình đến phải làm ruộng nhưng ruộng, nhà cũng không có. May mắn làm sao, mẹ tôi tình cờ gặp lại một người bạn học cũ với bà năm xưa khi còn trẻ. Người này nay là một cán bộ cao cấp và nhờ sự giúp đỡ của ông ta, tôi đã vào làm việc trong nhà máy Hoá Chất Việt Trì. Rồi cũng nhờ ông ta giúp mà tôi mới được công đoàn nhà máy phân cho một phòng nhỏ trong khu tập thể. Tôi đưa mẹ lên đó cùng sống chung.

Hai tháng sau cái ngày chiến thắng, mẹ tôi về lại Hà Nội để dò hỏi tung tích cha tôi. Trong họ hàng bên nội, có người vào miền Nam công tác và qua đó đã tìm được các thân nhân theo các địa chỉ cũ năm xưa. Khi quay trở lại miền Bắc, người bà con này gặp bà và cho biết các tin tức về cha tôi. Theo đó, ông là một sĩ quan quân đội cao cấp của chính quyền miền Nam và đã phải bị học tập cải tạo. Thêm một tin nữa, ông đã lập gia đình khác và có được hai người con gái. Quay về nhà mẹ tôi cho biết tin và khi kể chuyện, không hiểu vì nghĩ đến việc học tập cải tạo rồi liên tưởng những cảnh tù tội của cha tôi năm xưa lúc bị bắt làm tù binh hay vì cám cảnh thân phận mà mẹ tôi khóc rất nhiều.

 

Tôi dỗ mẹ đừng khóc nhưng rồi tôi cũng khóc theo mẹ.

Mẹ tôi rất muốn đi vào miền Nam ngay để biết thêm các tin tức về thầy tôi nhưng khi đó giao thông hai miền còn khó khăn lắm, vẫn còn hạn chế chỉ ưu tiên cho những cán bộ đi công tác. Đường xuyên Việt nhiều nơi phải sửa chữa và đường sắt nhiều vùng đã mất hẳn từ lâu. Chiến tranh bao năm trời đâu phải một sớm một chiều thông đường ngay được. Cơn háo hức vào miền Nam để tìm gặp cha tôi cùng gia đình riêng của ông cũng dần nguôi ngoai trong lòng mẹ tôi. Tôi vẫn tiếp tục đi làm, cũng không hề nghĩ là có ngày mình đặt chân vào miền Nam và thành phố Sài gòn. Nhà máy Hoá Chất Việt Trì tổ chức một cuộc họp lớn có sự tham dự của cán bộ Tổng Cục Hóa Chất từ trung ương về chủ trì. Theo đó, nhà nước cần khá đông cán bộ và công nhân viên trong ngành xung phong vào tiếp quản các nhà máy hóa chất trong miền Nam. Tin về một xã hội miền Nam đói nghèo, lạc hậu do chính miệng những bộ đội miền Bắc từ chiến trường miền Nam trở về kể lại trong các tháng trước đã làm con số người xung phong chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ai cũng sợ khổ, sợ phải xa gia đình để đến công tác trong vùng đất đói nghèo đến nỗi cả bát ăn cơm cũng không có. Kết quả, công đoàn nhà máy phải họp và xét hoàn cảnh từng người một để chỉ định bắt buộc. Tên tôi đã được họ chọn, đành phải chuẩn bị hành lý để theo đoàn vào Nam dù tôi không muốn.

Đường sắt vẫn chưa sửa xong, chúng tôi 18 người ngồi nằm chung với hành lý trong chiếc xe tải Molotova cũ kỹ của đoàn xe vào miền Nam. Trên xe tuy mệt nhưng có cái thú ngồi ngắm cảnh hai bên dọc đường. Chúng tôi qua nhiều vùng, địa danh trước giờ chỉ nghe tên trên báo. Hố bom, cầu sập, đường bị bóc từng tảng nhựa, các khu dân cư, chợ… xuất hiện đây đó dọc theo các đoạn đường xe qua. Ở các vùng xa thủ đô, người dân lam lũ, nghèo khổ, thiếu thốn lộ rõ trên ánh mắt, quần áo và khung cảnh sống. Miền Bắc quê hương xã hội chủ nghĩa còn như vậy thì miền Nam chắc chắn phải nghèo, thiếu thốn ghê gớm. Tất cả cũng do chiến tranh, do đế quốc Mỹ reo rắc mà ra…, người đi chung trên xe kết luận.

 

Xe vừa vào địa giới miền Nam, chúng tôi đã bấm tay nhau nhìn khung cảnh mới. Nhà cửa người dân cùng các công trình đô thị như cầu, đường gần các trục lộ giao thông trông đẹp và văn minh hơn hẳn miền Bắc. Đi rồi nghỉ ngơi rồi đi tiếp cho đến khi đoàn xe đến được khu công nghiệp Biên Hoà. Có quá nhiều nhà máy tại đây. Đoàn 18 người chúng tôi nhìn ngang nhìn dọc từng dãy nhà máy trong khu vực này và tuy không ai nói với ai nhưng đều trầm trồ trước công nghiệp miền Nam. Rồi chúng tôi được phân công vào công tác trong một nhà máy có cái tên VICACO. Một nhà máy sản xuất chất Sút (NaOH) từ muối biển và cả Acid Chlohidric (HCL) nữa. Một nhà máy bề ngòai trông rất nhỏ mà không ngờ bên trong lại lắp đặt các máy móc tối tân, sản xuất được các hóa chất với sản lượng, hàm lượng rất cao gấp nhiều lần so với công nghệ tại miền Bắc. Chúng tôi ngạc nhiên và ngầm thán phục trong bụng. Nhìn những công nhân miền Nam đang làm việc tại đây rồi sau đó làm việc chung với họ, tôi mới thấy người dân miền Nam khác xa người dân miền Bắc. Kiến thức chuyên môn và xã hội của họ hơn hẳn chúng tôi. Kỹ sư hơn hẳn kỹ sư ở miền Bắc và công nhân cũng vậy. Một sự rụt rè, cẩn thận tự nhiên nẩy sinh trong đoàn tiếp quản chúng tôi. Ai cũng sợ người trong nhà máy tại miền Nam này biết trình độ thực sự của cả đám chúng tôi. Sợ họ cười, nỗi lo chính trong lòng vì dầu gì mình cũng thuộc phía chiến thắng. Về nằm nghỉ trong căn phòng mà được biết trước đây là các phòng dành cho công nhân ngủ qua đêm nếu phải ở lại tăng ca, tôi suy nghĩ xã hội miền Nam không hề lạc hậu về công nghệ về con người… như lời nói trước giờ vẫn được nghe. Ngay cả trong buổi họp khi chọn người xung phong vào tiếp quản, cán bộ ngành từ trung ương cũng đã nói như vậy khi động viên cán bộ công nhân viên. Những dãy nhà nghỉ đầy đủ tiện nghi từ các trang bị như bàn ghế, giường ngủ, quạt trần, phòng vệ sinh, đèn chiếu… Ở đây, trong khu vực khép kín của khu công nghệ còn được như vậy thì trong thành phố Sài gòn chắc chắn phải rất đẹp. Tôi cũng chưa nghĩ sẽ ra sao khi tìm gặp được hai cô em gái tôi.

 

Rồi một ngày tôi theo đoàn vào làm các thủ tục công tác trong một toà nhà Tổng Cục Hoá Chất vừa tiếp quản nay trở thành trụ sở của Công Ty Hóa Chất Cơ Bản miền Nam nằm gần chợ Bến Thành. Lần đầu tiên trong đời tôi biết đến thang máy khi lên một phòng tuốt trên tầng thượng. Sau khi làm xong các giấy tờ và thụ tục, chúng tôi được thoải mái đi thăm phố xá. Ngay từ lúc còn ngồi trên xe buýt nhìn cảnh vật dọc theo đường và khu phố dẫn vào Sài gòn tôi đã thấy vượt trội nhiều lần so với thủ đô Hà Nội. Một vẻ bề ngoài sáng sủa, văn minh lộ ra từ cách phục sức, sinh hoạt của người dân miền Nam. Giờ đây đi bộ trên các con đường trong khu trung tâm thành phố mới thấy bản thân tôi, một người dân miền Bắc quá sức lạc hậu, nghèo nàn… từ bộ cánh (quần áo) trên người. Tôi rõ ràng xa lạ với các tiện nghi đang được người dân trong thành phố này sử dụng. Bên vệ đường và trong các cửa hiệu sang trọng đầy ắp hàng hoá thật đẹp và mới lạ lần đầu chúng tôi được thấy. Có tiền cứ việc vào mua thoải mái khác hẳn với cảnh chen chúc để chờ được tới lượt mua số hàng ít ỏi như cảnh thường thấy ở các khu phố ngoài miền Bắc. Phố xá thì thôi, những tòa nhà to đẹp thấp thoáng sau dòng xe gắn máy chạy hối hả trên đường. Khung cảnh y như ở nước ngoài, một người trong đoàn chúng tôi nói nhỏ cho nhau cùng nghe. Tôi bối rối ngắm nhìn các cô gái miền Nam nói chính xác là cô gái Sài gòn đang dạo bước trên đường. Họ đẹp quá sức, như tiên… từ dáng điệu, mái tóc, y phục mặc trên người và nhất là khuôn mặt của họ lộ rõ vẻ sung túc đài các so với những nữ cán bộ trẻ trong đoàn chúng tôi. Tôi mỉm cười, nghĩ thầm hai cô em gái tôi trong này cũng vậy. Tôi âm thầm tách ra khỏi đoàn để tự mình đi theo ý muốn. Tôi đi rảo qua nhiều con phố Sài Gòn rồi thấy mỏi chân, tôi lấy can đảm bước vào một hàng nước thật đẹp gần một giao lộ lớn, có tên là Cafe Minirex. Chọn một bàn sát khung cửa kính trong suốt có thể nhìn rõ người đi bên ngoài, tôi quan sát chung quanh. Bàn ghế, các bình hoa, quầy thu ngân, khách cùng vách tường trang trí cảnh một rừng cây thật đẹp… thật không khác một tiệm ở nước ngoài trong phim ảnh. Chợt một người hầu bàn bước đến, gật đầu chào tôi rồi hỏi:

– Thưa ông, ông dùng chi?

Trời ơi! Người hầu bàn này quá lịch sự khi tiếp xúc với khách hàng thật khác hẳn với cung cách của mậu dịch viên trong các tiệm ăn ngoài miền Bắc. Tôi lại nghĩ, hay ông ta biết tôi là cán bộ chế độ mới qua quần áo mặc trên người nên xưng hô như vậy? Tôi gọi nước uống và ngầm để ý xem sao. Nhưng không, bất cứ có khách nào vào quán, người hầu bàn này cũng một cách tiếp đón như vậy. Rất tự nhiên, lịch sự mà không khúm núm hoặc hách dịch.

 

Một thay đổi đã đến trong lòng tôi mà tôi biết điều này cũng sẽ đến với bất kỳ người nào từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa khi đặt chân vào miền Nam ở thời kỳ đó. Sài Gòn hay nói rộng ra cả miền Nam không phải là một xã hội lạc hậu, nghèo nàn, đói khổ, đầy rẫy cảnh người bóc lột người như bao lâu nay người dân miền Bắc được (hay bị) báo chí, đài phát thanh Hà Nội… mô tả về con người và xã hội của chế độ Ngụy quyền tay sai đế quốc Mỹ. Đây là mô hình của một xã hội văn minh và người nào được sống trong xã hội này quả thật may mắn hơn sống ở xã hội xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc.

 

Tiếc thay! Một xã hội như vậy lại vừa bị cướp mất đi.
Phạm Thắng Vũ

Phạm Thắng Vũ
Theo: Diễn Đàn Net




Tô Hải : MỘT LINH HỒN CHẾT

 

MỘT “LINH HỒN CHẾT” XIN LÊN TIẾNG !”

Vâng! Tôi, một “linh hồn chết” đã bỏ cái thân xác của “Hắn” ra đi từ những ngày “Cách mạng long trời lở đất”, mặc xác “Hắn” sống trong lo âu, sợ hãi.Mặc xác  “Hắn” lo cho vợ con “Hắn” không có bát cơm ăn, ” Hắn” sợ vì tính mạng “Hắn” chẳng biết lúc nào sẽ vào tù, đi cải tạo hoặc bị sát hại. ” Hắn” sống trong khắc khoải ,lo âu, sống giả vờ để làm tròn trách nhiệm của một đảng viên, của một cán bộ, của một cây kèn chuyên cất lên những giai điệu hào hùng,, thúc giục mọi người tiến lên đánh thắng mọi kẻ thù giai cấp một cách bất đắc dĩ.! Tôi ghét “Hắn”! nên.. kệ thây “Hắn” …Nhưng dù sao vì “tình nghĩa thể xác- linh hồn” thỉnh thoảng tôi cũng trở về nhập vào “Hắn” để xem “Hắn” suy nghĩ gì. Thì ra, “Hắn” vẫn còn dấu vết của linh hồn là tôi. Đặc biệt sau gần 40 năm tôi bỏ “Hắn” ra đi, “Hắn” đã có những hành động và việc làm đáng cho tôi phải nhập hồn giúp “Hắn” khỏi những “cơn đau thế kỉ”….

Kể từ khi “Hắn” đã xa rời mọi trách nhiệm, mọi toan tính cuộc đời để về ở ẩn tại một nơi xa vắng thì đầu óc của hắn  đã làm tôi muốn nhập hẳn về lại xác thịt Hắn. Và tôi đã làm đúng cái cương vị của một linh hồn, tuy chết rồi nhưng nay sống lại để nâng hắn đứng dậy, truyền thêm sức mạnh cho cái thể xác đã tàn úa, hom hem, tồn tại đúng như một cái xác không hồn suốt hơn 40 năm qua….

Mấy hôm nay, “Hắn” cặm cụi xem ti vi, đọc báo, lên mạng rồi băn khoăn chẳng biết nói gì trước những ý kiến của những lão thành cách mạng hơn “Hắn” cả về thành tích vào tù ra tội, xung phong nơi chiến địa ngoài Bắc, trong Nam, bên Lào, bên Căm,quyết tâm chống trả máu xương vì bài học của Đặng Tiểu Bình nơi biên cương Tổ Quốc…….”Hắn” đọc những trang lí luận dài dòng,Hắn” phân tích những tài liệu của các ông mà “Hắn” phục lăn như Đặng Quốc Bảo, Trần Độ… “Hắn”  gõ keyboard để xem lại các tài liệu từ Đông sang Tây, từ cổ chí Kim để ấp ủ một văn kiện gì đó mà “Hắn” sẽ công bố thật hoành tráng chăng? Tôi thấy thương “Hắn” quá, chỉ còn 5 ngày nữa là “Hắn” chính thức bước sang tuổi 84. Vậy mà “Hắn” vẫn ăn không ngon, ngủ không yên với những công việc mà chẳng ai cần hắn dính tới. Do đó, tôi- linh hồn chết của “Hắn” sống lại xin thay mặt “Hắn” làm cái việc mà tôi nắm được (vì tôi là linh hồn của “Hắn” mà) cái việc mà hắn vẫn luôn ngập ngừng khi phải gọi đúng chữ đúng nghĩa khi cần góp ý phản biện hoặc xây dựng một vấn đề gì liên quan tới vận mệnh của đất nước.

Vậy thì, tôi, là linh hồn của Hắn  ,cao hơn thể xác Hắn một cái đầu , nhân dịp này thay mặt Hắn phát biểu một ý kiến duy nhất mà nếu :hơn 3.000.0000 đảng viên đảng công sản VN kể cảcác vị lãnh đạo ,chịu lắng nghe và chịu thực hiện thì mọi vấn đề băn khoăn  của “Hắn” và hàng ngàn sĩ phu đất Việt khỏi tốn công lí luận dài dòng ! Đó là:

GIẢI TÁN NGAY CÁI ĐẢNG CỘNG SẢN ĐI

-Thực tế cái chủ nghĩa cộng sản do 2 ông Mác , Lê  nguỵ tạo ra một cách điên khùng đã làm đảo lộn thế giới loài người gần 1 thế kỉ qua ,làm chết cả trăm triệu con người nhân danh đấu tranh giai cấp…. Chẳng lẽ các ông không biết ?

-,Thực tế cái chủ nghĩa cộng sản bị toàn thế giới loài người lên án. Sang Tây, sang Mĩ, ở đâu cũng thấy những  đài tưởng niệm ,những nạn nhân và lên án những kẻ giết người .Gần đây nhất là sự thú nhận tội lỗi của ông cha mình gây ra vụ thảm sát hơn 20. 000 sĩ quan Ba Lan tại rừng Katyn bởi chính tổng thống Medvedev nước Nga đến dự lễ tưởng niệm phải liều mạng vượt dưới làn bụi tro khiến mọi vận chuyển hàng không phải đình chỉ…Chẳng lẽ các ông cũng không biết ?

– Thực tế là chủ nghĩa cộng sản đã xụp đổ ở những nước “thành trì cách mạng vô sản” và những  tượng đài cuối cùng  của 2 anh Mác ,Lê đã bị đập tan và vất vô bãi  rác ngay đúng giữa ngày ông Nguyễn Minh Triết có mặt tại Nga kỉ niệm ngày chiến thắng Phát Xít Đức Chẳng lẽ các ông  cũng không không biết ?

-Thực tế là ngay cái “chủ nghĩa xã hội” phát minh “ảo” của chủ nghĩa cộng sản làm người đời lầm tưởng với chủ nghĩa xã hội dân chủ hay chủ nghĩa quốc gia dân chủ (quốc xã của Hitler),nên  trên thế giới ngày nay,ngay đất nước anh “Kim điên” hay anh “Phi đen xồm”, anh Săm-béc Hun-sen, anh Cù Mông chi chít gì đó bên nước Lào,đặc biệt bên nước đàn anh “láng giềng 4 tốt”, cũng chẳng ai dám lấy nó để đặt tên nước .Vậy mà giữa lúc bị tứ bề bao vây,cấm vận,giữa lúc toàn dân ăn bo bo, cái tên Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam được chiềng làng một cách liều lĩnh,vô duyên! Ai quyết định? Vì sao phải thay đổi tên Đảng ,tên Nước ? Chẳng lẽ các ông không biết nốt ?

–  Thực tế là trên các văn kiện Đảng của nước bạn “16 chữ vàng”, họ đã chối bỏ chủ nghĩa Mác Lê nin thậm chí gần đây lên án nó, loại bỏ hình ảnh 2 ông Tây điên này cùng chủ tịch Mao của họ ra khỏi hội trường các đại hội Đảng gọi là cộng sản Trung Hoa của họ  Chẳng lẽ các ông cũng không  biết ?

–  Hồ Cẩm Đào nói những gì về việc “thay đổi cơ chế chính trị sớm nếu không muốn thành quả về kinh tế sẽ bị xụp đổ “trong chuyến viếng thăm Thâm Quyến vừa qua,… Tướng Lưu Á Châu , con rể Lý Tiên Niệm ,trong một tài liệu cực dài hi hữu được phổ biến công khai bên Tầu ,phủ nhận tất cả những thành quả thậm chí đạo đức tư cách của người Trung Hoa cộng sản và khẳng định con đường duy nhất tốt đẹp là đi…. theo con đường của Mỹ!. 16.000 ý kiến phản đối chế độ chính trị phản dân chủ ,sau khi có đường liên hệ bằng web thẳng từ 20 triệu công dân mạng tới Hồ Cẩm Đào Chẳng lẽ các ông không biết ?

– Anh em nhà Castro vừa giờ nói gì, làm gì ở bên kia bán cầu giữa lúc ông Nguyễn Phú Trọng đang có mặt tại Cuba chứng kiến việc mời gần 1.000.000 công chức nhà nước nghỉ việc ,ra khỏi biên chế ăn lương nhà nước mà buôn bán, kiếm sống bằng ….kinh tế thị trường đến nỗi cuộc gặp của ông Trọng và Fidel chẳng được chụp ảnh,quay phim ,và báo chí lề phải thì…im thin thít… Chẳng lẽ ông Trọng và tất cả các ông cũng không biết ?

Còn ở trong nước:

+ Cộng sản gì mà lại có hàng tỉ đô la, có hàng vạn công nhân ,có máy bay riêng, có du thuyền riêng, có thể tung ra hàng tỉ đồng để mua vui khen thưởng trong một kì thi hoa hậu, một trận bóng đá! Đây là chủ nghĩa cộng sản kiểu gi? Chẳng lẽ các ông không biết?

+ Chủ nghĩa cộng sản gì mà ruộng đất của nông dân trở thành của các tập đoàn tư nhân nước ngoài , nhà cửa đất đai của cá nhân kể cả các cựu chiến binh, của các bà mẹ anh hùng đều bị dỡ bỏ để cho họ hàng anh em các vị lãnh đạo thực hiện “dự án”, xây nơi ăn chơi nghỉ dưỡng , sân golf…Uất ức đi khiếu kiện hăng quá có khi vào tù ! Chẳng lẽ các ông cũng không biết ?

+ Giai cấp “công nhân tiền phong”  của quý vị được trả mỗi tháng mấy đồng lương và đồng lương đó có thể nào giúp họ kiếm được một miếng thịt ăn mỗi tuần, may được cái áo mỗi tháng, nuôi được đứa con mấy năm Chẳng lẽ các ông không biết ?

+ , Một ông giáo sư,một bác sỹ mới ra trường quý vị trả cho họ bao nhiêu đồng để đến nỗi họ phải làm thêm, mở phòng mạch thêm, dạy thêm … và cả ăn cắp thuốc, khai man bệnh nhân . Tại sao? Chẳng lẽ các ông không biết ?

+  Những cán bộ có quyền cao chức trọng, đặc biệt quyền kí cho ngân sách chi tiêu bạt mạng, cho vợ  con, anh em họ hàng nắm những “quả đấm thép kinh tế nhà nước”như Vinashin ,như các Ngân Hàng,các thị trường chứng khoán,các Tập Đoàn Dầu Khí,Than,Khoáng Sản, điện Lực …Họ là những ai! Làm và phá như thế nào? Chẳng lẽ các ông không biết ?

+ Những vụ quan tham làm vua ở mọi “sứ quân”, thậm chí chủ tịch xã com lê cà vạt đi thăm đồng nay cũng cưỡi cả xe Lexus, cũng chơi gái tập thể, cũng vẫn thao thao giảng dạy đạo đức tư cách Hồ Chí Minh. Hàng ngàn tiến sĩ giáo sư chẳng một ngày đi học ,đi dạy, chẳng bao giờ có đề án nghiên cứu hay công trình khoa học nhưng vấn được cấp văn bằng thật, được giới thiệu om sòm trên báo trên đài với những cái tên lạ hoắc, mặt mũi ngớ ngẩn, ăn nói lắp bắp, “L” thành “N”. Ở đâu ra? Chẳng lẽ các ông không biết?

+ Văn học nghệ thuật lai căng, đồi truỵ, phụ thuộc nước ngoài thậm chí “bán nước về văn hoá” như phim “Lí Công Uẩn…. đường về Bắc Kinh”. Giới khoa học ,lịch sử ,văn nghệ sĩ đang vạch trần cái mưu đồ Hán Hoá văn hoá Việt này thì ở bên nước “bạn” người ta cũng cho công bố những văn bản “Chiếu dời đô” bằng chữ  Hán và tuyên bố ngay trên báo chí là “Lý Công Uẩn chính là người Tàu” cho nên vở “kịch phim sân khấu” nói trên là một sự hợp tác ngay từ đầu để khẳng định một lần nữa là “người Việt Nam là dân Bách Việt của người Tàu,(!?) đất, biển Việt Nam chính là đất biển của người Tàu, nền văn hoá Việt Nam chính là văn hoá của người Tàu” Chẳng lẽ các ông không biết?

Chỉ kể qua mấy thực tế trong vài ba nước còn sót lại do chủ nghĩa cộng sản đẻ ra đang “chuyển hoá” về ý thức hệ cũng như về kinh tế xã hội.

Chỉ nói đến thực tế của xã hội Việt Nam, từ khi ông Đỗ Mười chúc mừng”toàn dân làm giàu” bắt chước  lời tuyên ngôn bất hủ của một Đảng viên cộng sản Trung Quốc (bốn lần bị khai trừ Đảng) nhưng khi nắm được chính quyền rồi  thì mới mạnh miệng : “Mèo trắng hay mèo đen đều tốt, miễn là bắt được chuột” rồi sang Mỹ đội mũ cao bồi, cưỡi ngựa sánh vai cùng tổng thống Hoa Kỳ thì mọi lý thuyết của cái chủ nghĩa cộng sản phản khoa học đã bị chính những người cộng sản chính thức gạt bỏ.

Cho nên, là một “linh hồn chết” nhưng tôi đã sống lại và “nhập” vào thân xác”Hắn” để nói lên hộ hắn những điều này:

– Chủ nghĩa cộng sản với cái Đảng của nó chưa hề và không thể có ở xã hội Việt Nam

–  Nó chỉ ra mặt chính danh bởi những vị lãnh tụ kiêu binh sau khi người Mĩ rút lui và  Việt Nam cộng hoà xụp đổ tưởng chừng “một nước nhỏ mà đánh thắng hai Đế Quốc to” thì làm gì cũng được, cái tên nước CHXHCN Việt Nam và đảng cộng sản Việt Nam mới vênh vang thay thế VNDCCH và Đảng lao động.

– Với sự thay đổi bốc nhằng này, các vị lãnh đạo cao nhất ,nhưng quá trẻ để  chẳng dám làm điều gì ngược ý tiền nhân đành cứ “anh đã phóng lao thì em phải theo lao”. Đành bày ra những Viện nọ Ban kia , cố gắng xây nên một nền lí luận tả pí lù vẫn theo chủ nghĩa cộng sản nhưng đổi mới bằng mảng kinh tế thị trường nghĩa là vẫn có tư bản bóc lột.. Vẫn đề cao ông Mác ông Lê nhưng vẫn bắt tay hợp tác những người đã vứt ông Lê ông Mác vào sọt rác.

Quý vị đều biết những gì mà chúng tôi biết ,và chúng tôi cũng biết quý vị biết chúng tôi biết những cái gì ! Chứ chẳng ai không biết những gì mà quí vị cũng như triệu triệu người khác biết mà không tiện nói ra đâu. Vậy mà quý vị cứ lúng ta lúng túng mãi trong những rừng rậm rịt chữ nghĩa của hết văn kiện này đến văn kiện khác mà nội dung cốt làm người đọc bị gỡ không ra trong cái mớ bòng bong chữ nghĩa để rồi chẳng hiểu nó nói cái gì vì toàn những con số , những phần trăm, những phương hướng , những dự án,những kế hoạch ,những tầm nhìn do những tiến sĩ không phải văn chương mà là tiến sĩ chính trị Mác Lê nin ảo soạn thảo cốt để làm nản lòng người đọc càng nhiều càng tốt.

Có một cái điều mà nhân dân mong đợi kể cả đảng viên mong đợi nhất đó là tuyên bố( hoặc không tuyên bố cũng được) : xoá bỏ chủ nghĩa mác Lê Nin, bỏ tên Đảng cộng sản mà ai cũng muốn cũng biết thì lần này lại… Không !Không !và Không!.

Cái gì đã làm cho quý vị không dám nói , không dám hành động như một Gorbachev,một Eltsine? Phải chăng là do quyền lợi, ngôi vị? Phải chăng vì chẳng ai tin ai  sợ…. Tổng cục 2  ,hay sợ một thế lực nào?

Riêng tôi ,thì tôi nghĩ, khi có một nhóm lãnh đạo cao nhất can đảm đứng lên như Khrút xốp vạch trần trội ác của Stalin tại đại hội Đảng cộng sản Liên Xô lần thứ 20 thì những người đó sẽ được toàn thể đảng viên cũng như nhân dân tung hô nhiệt liệt vì chính từ những ngòi nổ đó sẽ tạo thành cả chuỗi nổ tiếp theo, giải quyết mọi vấn đề mà các nước Nga,Đức, Tiệp, Hung đã “diễn biến hoà  bình” ,đã tự hoàn chỉnh để đi lên độc lập thật sự, hạnh phúc thật sự và giàu mạnh thật sự.

Vạn chuyện trên đời sẽ tiến lên hay thụt lùi cũng nhờ vào sự “mở miệng” của các ông Đảng viên cộng sản đó!. Có đi trước thì làng nước mới theo sau. Và lần này điều kiện để theo sau đang có đầy đủ không đến nỗi bị đơn độc, bị trừng trị, trấn áp như thời các ông Đặng Quốc Bảo, Trần Xuân Bách, Trần Độ, Quế Dương, Vũ Cao Quận, Hoàng Minh Chính… nữa  đâu. Mấy lời gọn gàng khó nghe nhưng dễ hiểu, nhân danh linh hồn chết của “Hắn”gửi tới các vị .

Xin vái các ông mớ bái, mong các ông ghi vào văn kiện: Giã từ chủ nghĩa Mác Lê Nin, vĩnh biệt chủ nghĩa cộng sản cho toàn dân nhờ!

Sài Gòn 16-9-2010

Tô Hải




Mũ Xanh Nguyễn Văn Phán : Huế, Mậu Thân và Tôi

 

Huế, Mậu Thân và Tôi

Mũ Xanh Nguyễn Văn Phán

Từ Cai Lậy về thủ đô, nhập ngay vào đánh giải tỏa trại Cổ Loa của Thiết Giáp và Xóm Mới Gia Ðịnh xong xuôi, Quái Ðiểu Tiểu Ðoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến về nằm dọc theo đường Ngô Tùng Châu. Mười hai giờ họp Tiểu Ðoàn, hai giờ sáng có mặt tại Tân Sơn Nhất, bốn giờ sáng lên máy bay đi, đi đâu không biết. Lương khô và tái trang bị không lãnh kịp. Cứ lên phi cơ rồi hay. Ðó đây những loạt pháo kích, những loạt đại liên rời rạc, những đốm hỏa châu lủng lẳng trên bầu trời. Tôi để lại Sàigòn mang nặng bộ mặt chiến tranh. Những chiếc phi cơ C.130 khổng lồ nuốt trọn tám trăm Quái Ðiểu và đưa chúng tôi lên cao trong đêm tối mịt mùng.

– Ði đâu vậy?

– Nha Trang, tao nghe Nha Trang đang có đánh nặng.

Lượm Ðại đội trưởng Ðại đội 2, dân Ðà Lạt, cãi:

– Ðà Lạt.

Phán Phu Nhân nói:

– Ði đâu cũng được, đổi vùng là khoái rồi.

(Khi vào Quân trường, Phán trình diện: Tui chánh quán làng Phú Nhơn, ở gần Hồ Tịnh Tâm, quận Thành Nội, Huế. Thế là sau đấy, giữa lửa đạn và thịt đổ xương rơi, và qua tiếng thét trong máy truyền tin, cái tên ngụy trang “Phu Nhân” ra đời, nghe thật lạ tai).

– Máy bay chi bay mãi ri bây?

Thời tiết thật xấu, và rồi bánh xe phi cơ cũng chạm đất, những cặp mắt đổ dồn ra khung cửa sổ phi cơ. Phú Bài ! Cơn gió cắt da, bãi cát trắng trải dài, mưa nặng hột. Thiếu áo lạnh, tất cả đều quấn Poncho đứng ngoài nhìn đoàn người gánh gồng xuôi ngược, hấp tấp và lo sợ, một số về Truồi, một số lên Gia Lê, An Cựu.

Phú Bài đó, Tịnh Tâm đó, Cầu Kho đó, Mạ, dì, chị và em mình đó mà không liên lạc được. Tình hình không biết làm sao, ruột như lửa đốt. Trách nhiệm nặng nề, tôi nằm trằn trọc suy nghĩ thật nhiều để chờ sáng mai. Kỷ niệm thời đi học kéo về trong trí tôi, đẹp quá, nhẹ nhàng quá, vụng dại quá.

Mười giờ sáng đoàn quân xa GMC đưa chúng tôi về Huế. Qua Gia Lê, đồng bào hổn loạn, nét lo âu hiện rõ trên mặt. Tới An Cựu, dân chúng thưa thớt, nhà hai bên đường đóng kín cửa. Dọc quốc lộ 1 từ Huế về Phú Bài,binh sĩ Nhảy Dù từng toàn dìu nhau âm thầm đếm bước. Những cái nhìn như nhắn gửi, như lo sợ giùm cho chúng tôi. Mạnh, Ðại úy Nhảy Dù, cùng khóa cho tôi biết:

– Huế tang thương và điêu tàn lắm Phán ơi. Thừa (cùng khóa) chết, Phạm Như Ðà Lạt bị thương…..

Mạnh khắp người băng bó đang được hai đệ tử dìu đi bộ về phi trường Phú Bài. Mạnh tiếp:

– Phán, mày cẩn thận. Không yểm trợ, không thực phẩm, không tiếp liệu, thời tiết quá xấu. Tụi nó chiếm hết Thành phố, Ðại Nội, Gia Hội. Tụi nó chốt rất kỹ, chỉ còn lõm nhỏ ở Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 1 tại Mang Cá.

Sau nầy được nghe nói: Vì nghe tin Tướng Trưởng kẹt nặng nên Ðại Bàng Lê Quang Lưỡng Lữ Ðoàn Trưởng Lữ Ðoàn Nhảy Dù đã xua quân đi bộ từ cây số 17 về Huế để cứu Tướng Trưởng. Tôi xin Tướng Lưỡng cho tôi được nghiêm mình chào một cách đầy kính phục cho cái tình nghĩa huynh đệ không bút mực nào tả nổi. Ðể đáp trọn tình nghĩa, Lữ Ðoàn của Ðại Bàng Lưỡng cũng hao hụt nặng nề.

Ðoàn xe dừng lại bên hông Ðại học Văn Khoa, cách con đường là trường Kiểu mẫu mới xây, đối diện là Ðài Phát Thanh Huế. Và trước mặt là cầu Trường Tiền, chiếc cầu tượng trưng cho xứ Huế, chiếc cầu đã hàng ngàn, hàng vạn lần qua lại, đầy ấp kỹ niệm.

Nhìn qua chợ Ðông Ba và phố Trần Hưng Ðạo mà lòng quặn thắt. Một mái chợ đã sập. Những cột khói ngút trời cách khoảng. Từ đầu đường đến cuối đường Trần Hưng Ðạo không một bóng người. Nhìn bên phải là cầu Gia Hội vắng tanh. Những cột khói khác vươn lên…. Cả thành phố đã chết, Huế tôi tang thương đến thế sao ! Một nhịp cầu đã sập, tôi nghĩ vành khăn tang đã cuốn lấy Huế.

Xuống tàu tại chân cầu Trường tiền, xuôi giòng Hương xanh biếc ngang Gia Hội, quẹo trái sang Hàng Bè. Cầu Ðông Ba đó, có tiệm La Ngu chúng tôi thường mua dụng cụ học trò. Tiếp tục xuống tiệm gạo Mụ Ðội, có người con gái đẹp não nùng tên Xuân mà con trai Huế lứa tuổi tôi đều hơn một lần đi quá đó để nhìn người con gái trời cho đẹp. Qua trường Bình Minh, nơi tôi học năm đệ tam, nhiều kỷ niệm đẹp. Ðến Bao Vinh, dân chúng nhốn nháo khi thấy một đơn vị lớn đang đổ bộ tại bến đò.

Tôi hướng dẫn đơn vi vào Mang Cá nhỏ để tới bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Ðịch chào đón bằng hàng loạt hỏa tiển 107 và 122 ly. Tất cả nằm sát bờ tường để tránh pháo và tìm chỗ phòng thủ. Tôi cho lệnh Sự, Trung úy Ðại đội phó kiểm soát con cái và chuẩn bị cơm chiều. Trung úy Sự là sĩ quan trẻ, có tài và đầy nhiệt huyết, xuất thân khóa 19 Vỏ Bị Ðà Lạt, thủ môn hội tuyển túc cầu Nha Trang, đúng là đa năng, đa hiệu. Tôi dự buổi họp Tiểu Ðoàn khẩn cấp và quan trọng. Tiểu Ðoàn trưởng ra lệnh:

“Phu Nhân hiểu rành địa thế dẫn đầu, Tám giờ sáng xuất phát. Kế tiếp là Tôn, Ðại đội 1, Lượm Ðại đội 2. Tiếp theo BCH Tiểu Ðoàn cùng Ðại đội Chỉ huy, sau cùng là Tổng đài 4. Mục tiêu Phu Nhân phải chiếm là Trường tiểu học Trần Cao Vân. Trước Trường có đơn vị Quân Cụ, Vào khoảng một Ðại đội bạn đóng ở đó không biết còn hay mất”.

Phán hỏi:

“Còn Phi trường Thành Nội thì sao? Tình hình trong Ðại Nội, Thiếu tá có nắm vững không?”.

“Không rõ, tụi nó chiếm hết, chốt rất kỹ. Tất cả các cửa Thành Nội tụi nó đều kiền và chốt rất chặt. Cửa Hữu, cửa Chánh Tây, cửa Sập, cửa An Hòa, cửa Ðông Ba, Kỳ Ðài Phú Vân Lâu…..tụi nó đều chiếm hết”.

Trong óc tôi, một bản đồ chi tiết hiện ra rất rõ cho một cuộc hành quân mà tình hình tôi nắm không được vững. Tôi cố tìm một con đường ngắn và an toàn cho đơn vị để tới mục tiêu. Có rất nhiều đường đưa tới Trường Trần Cao Vân, nơi từ 9 đến 19 tuổi tôi đã bao nhiêu lần đi lại. Con đường nào cũng đầy hoa và mộng. Nay tôi đang tìm một con đường không có nhiều máu để cho anh em chúng tôi đi.

Tám giờ sáng , tất cả đã gọn gàng, sẵn sàng di chuyển. Ba trăm thước từ Mang Cá đến nhà tôi sao quá dài. Bồn chồn, nóng ruột vì nơi đó Mạ tôi, dì tôi, chị tôi và em trai út của tôi đang trông ngóng. Không biết có bị gì không? Thiếu úy Duật, Trung đội trưởng Trung đội 2 dẫn đầu. Duật xuất thân khóa 21 Võ bị Ðà Lạt, hăng say, gan, thích sóc đĩa và gái đẹp, uống rượu rất ít, chỉ phá mồi. Phán và Bộ Chỉ Huy kế tiếp. Thiếu úy Nghênh xuất thân từ “Commando du Nord”, nhiều kinh nghiệm, gan lỳ, thích đánh phé nhưng đánh nhỏ, rượu rất ít và không thích gái. Kế đến Thượng sĩ Mã Khên, Trung đội trưởng Trung đội 3, xuất thân Commando trong Nam, rất gan lỳ, ít nói, mê rượu, không mê gái. Sau cùng là Thượng sĩ nhất Hải, Trung đội trưởng Trung đội súng nặng, Hải xuất thân Commando du Nord, người Nùng, lỳ lợm già dặn chiến trường, không rượu, không gái và không thuốc lá.

Hai bên đường dân chúng đứng chen chúc, vẻ mặt hớn hở thật tội nghiệp cho họ. Lần lần những khuôn mặt quen thuộc hiện ra, những cánh tay vẫy chào, nào mụ Ðội Dậu, mụ Ba, ông Sung, ông Dung, anh Thiên chủ bàn Ping Pong….Những tiếng nói đó đây:

“Anh Phán đó tề ! Anh Phán! Anh Phán …”

Tiếng gọi lớn dần và lan dài suốt con đường tôi đi. Con hẻm sát Hồ Tịnh Tâm là đường vào nhà tôi. Mạ tôi đó, dì, chị và em tôi đó. Xao xuyến quá ! Tôi đi nhanh đến ôm Mạ tôi, dì và chị tôi khóc như mưa. Thằng em luống cuống chạy quanh, bị Mạ tôi nạt:

“Mi chạy vô nhà lấy khúc cá kho khô và đòn bánh tét gói lại đem ra đây bới cho anh mi”.

Mạ tôi dụi vào tay tôi chai dầu Nhị Thiên Ðường:

“Con xức cho khỏi gió”.

Lính đi ngang hỏi nhau:

“Mạ Ðại úy sao đầu trọc lóc vậy bây?”.

“Bà ấy đi tu để phước cho con, tụi mình cũng được hưởng ké đấy”.

Phán và âm thoại viên vẫn còn dừng lại:

“Nhà có răng không Mạ? Bà con thân có ai bị chi không”.

“Nhà ông Quế chủ quán Chiều bị trúng hai trái nhưng người thì không răng. Nhà mình bị ngói đổ một góc, cây đào bị gãy ngọn. Còn thằng Chỉ không biết đi mô”.

Chỉ là bạn tôi xuất thân khóa 17 Võ Bị Ða Lạt. Tôi xót xa đắng miệng:

“Thôi con đi, Mạ và gia đình đừng lo cho con”.

Mạ tôi khóc òa, tôi thật não lòng. Những tiếng gọi anh Phán, anh Phán tiếp tục vang lên cho đến giữa Hồ Tịnh Tâm, tôi cho lệnh quẹo tay mặt theo đường lên nhà ông Như Ðạt. Như vậy bên hông mặt của con cái tôi lúc nào cũng có bức tường Thành và cái hồ che chở. Cuối đường Tịnh Tâm quẹo trái là Trường tiểu học Ðoàn Thị Ðiểm, nhưng tôi không đi con đường nầy. Tiếp tục đi thẳng qua con đường hẻm nhỏ, con đường đã bao lần đi lại, nào ăn cấp me, nào ăn trộm sấu, nào hái soài, nào đào sen, nào học thi, nào thăm người yêu…. Con đường nào cũng nhắc tôi bao kỷ niệm yêu dấu không quên.

Ðến Canh Nông, chưa thấy phản ứng nào của địch, gần sân bay Thành Nội dân chúng thưa thớt và kinh hãi. Tôi cho dừng quân bên này đường, một ông già mách:

“Con đường ni bắn rất rát, từ trong cửa Hòa Bình ở Ðại Nội bắn ra”.

“Con đường sân bay Thành Nội ra sao ông, có ai không?”.

“Ðánh nhau mấy ngày ni dữ lắm, mà tui không biết răng, không biết mình hơn hay thua nữa”.

Tôi chỉ con đường và hướng dẫn Duật:

“Băng qua khỏi con đường nầy, đến một xóm nhà, qua một cái cống thì bên trái là đơn vị Quân Cụ”.

Nghênh và Mã Khện yểm trợ bên mặt cho Duật, và sau đó băng qua đường theo tôi. Con đường có năm thước mà hơn một giờ mới vượt qua với sáu thằng em rơi rụng trên mặt đất. Lần mò theo mép đường tới sát ống cống, tôi cho dừng lại, Phi trường vắng tanh. Tôi bảo Duật:

“Mày cho một thằng con nhỏ qua trước làm đầu cầu bên kia cống, sau đó cho tất cả con cái mày qua rờ vào Thành Quân Cụ, chờ tao lên”.

Thành Quân Cụ cao khỏi đầu người, không liên lạc được với bên trong. Tất cả con cái nằm sát Thành để tôi và đám cận vệ bò tới cổng chính. Loáng thoáng thấy nón sắt, Field Jacket, giây ba chạc … Không phải tụi nó đâu, chắc chắn là bạn rồi. Thằng đệ tử tôi gọi lớn:

“Ê, Thủy Quân Lục Chiến đây”.

Một loạt đạn bay qua khỏi đầu một cách rùng rợn. Bò lết vào trong Thành, ông Ðơn vị trưởng Quân Cụ nói tiếng Huế đặc sệt, ông là Trung úy Cát, thủ môn nổi tiếng của Huế:

“Ðại úy ơi, bảy ngày không ra vào nổi, nó bao hết. Trường Trần Cao Vân, Ðại Nội, xóm nhà trước mặt và bao quanh doanh trại tụi nó chốt hết. Nhà Bảo Sanh sau lưng Trường cách cái hồ tụi nó chiếm luôn. Dân chúng chạy hết rồi, không còn ai cả. Tụi nó pháo liên miên, không cho ngóc đầu được, đủ loại: 61, 82, hỏa tiển 107, 122. Tôi ráng cố thủ đây được ngày mô hay ngày nấy, còn ngoài nớ tôi không liên lạc được nên không biết tình hình các nơi khác ra răng”.

Tôi trở ra báo cáo về Tiểu Ðoàn, lệnh của Tiểu đoàn trưởng:

“Phu Nhân chiếm bằng được trường Trần Cao Vân, dọn sạch chung quanh. Tiểu đoàn trưởng và BCH sẽ lên ở trại Quân Cụ”.

Quan sát địa thế thêm một lần nữa, trước mặt trường là cái Am lên đồng, bên cạnh là chỗ hớt tóc lợp bằng tranh chỉ có một cái ghế ngồi. Sát đó là ngã ba đường, một đường chạy lên cửa Sập, một đường chạy về trường Ðào Duy Từ và Một chạy đến trường Trần Cao Vân. Có bốn năm cái đầu lô nhô trong trường.

Duật phải chiếm Am trước, trong trường bắn ra mãnh liệt, có cả B. 40. Tôi ra lệnh cho Nghênh và Mã Khện cầm chân hỏa lực trong trường học. Duật chiếm xong Am không một tổn thất. Tôi gọi Thương sĩ Hải đưa hai đại liên và một 57 không giật lên tăng cường cho Duật yểm trợ cho Mã Khện vào trường học. Sau 45 phút dùng mưu kế cùng với hỏa lực và sự gan dạ, kinh nghiêm, Mã Khện đã chiếm được một lớp trong Trường học. Nghênh tràn vào cùng với Mã Khện lục soát và làm sạch sẽ. Hỏa lực từ góc Thành Nội đổ dồn về phía trường học. Không sao, có tường của các lớp học che chở. Tôi kêu Sự:

“Pháo binh có chưa? Kêu về Ðại Bàng Thanh Hóa cứ bắn vào góc Thành cho tao”.

Ðến chiều vẫn không có một trái pháo bắn, anh em tôi có bảy đã lót đường cho mục tiêu đầu và ba bị thương nặng. Tôi lên sát Duật và bảo đem cây 57 ly không giật đến:

“Nhắm ngay vào góc Thành, tụi nó bắn rát quá cứ phơ cho tao, trật trúng gì không cần, chỉ cần tiếng nổ”.

Qua một vạt đất trống, trong ngôi nhà gạch có bóng người lấp ló. Duật quay 57 nhắm thẳng:

“Nhột quá, cho em bung cái nhà nầy đi”.

Tôi bỗng thấy có người đàn bà, tôi la lớn:

“Khoan bắn, nhà Thầy Tiềm”.

Rồi tôi băng qua một khoảng đất trống đến nhà gặp cô và các cháu. Không thấy Thầy tôi chào cô và giới thiệu tôi học Sử địa với Thầy ở Trường Bồ Ðề và khuyên cô về dưới phố. Tôi trở lại vị trí mà lòng nao nao buồn. Giờ nầy vẫn chưa có pháo, làm sao khóa góc Thành đó lại. Duật bảo các con cái đào hầm hố thật kỹ, tôi dặn:

“Mày cố thủ tại đây cho Tiểu Ðoàn lên”.

Rồi cùng các đệ tử lúp xúp chạy đến chỗ tiệm hơt tóc để quan sát ngã ba đường và góc Thành Nội. Tôi chợt nghe tiếng đàn bà rên la quằn quại, sau cùng chỉ còn tiếng rên nho nhỏ. Nơi góc quán tối tăm, một người đàn bà máu me khắp nữa phần thân thể, vừa bị thương nặng lại vừa xảy một bào thai lờ mờ tượng hình đứa bé, trong giống như con rắn mốùi. Xót xa, chịu không nổi, tôi ra lệnh đem chôn đưa bé ngay và chuyển người mẹ về trại Quân Cụ cho bác sĩ Tựu cứu giúp. Ðến đây mười ba anh em đã hy sinh và ba bị thương nặng để trải thảm trên đường tiến quân của đơn vị.

Tối đó BCH Tiểu Ðoàn đến trại Quân Cụ. Sáng hôm sau, Tiểu Ðoàn trưởng cho Ðại đội 2 của Tôn và Ðại đội 1 của Lượm dưới sự chỉ huy của đại ca Ðã, Tiểu Ðoàn phó, chiếm nhà Bảo Sanh. Ðoạn đường có 30 thước mà phải trả bằng 50 đứa con thân yêu. Sau tám tiếng đồng hồ mới chiếm được nhà Bảo Sanh, Tôn bị thương ngay từ phút đầu. Lộc Ðại đội phó lên thay.

Mười ngày tiếp theo, nhìn nhau qua một con đường rộng năm thước vừa đủ cho xe chạy mà hai bên đều khựng. Mưa vẫn rơi ray rức lê thê, thỉnh thoàng cơn gió thật lạnh thổi qua. Có những cuộc tấn công chớp nhoáng của địch vào Ðại đội của Lượm và Lộc đều bị đánh bật lui. Ngược lại ta cũng nhiều lần cố tràn qua bên kia nhưng cũng không chiếm được thêm một tấc đất nào. Hai bên tải thương đều thấy nhau rất rõ. Lượm bị hao hụt nặng. Phu Nhân lên thay thế. Tôi và con cái bò lên từng toán một, địch và ta đã sát nhau, ngóc đầu lên là đạn bắn xuyên nón sắt ngay. Hơn nửa ngày mới trám hết vị trí của Lượm. Lượm và Tòng về phòng thủ cho Tiểu Ðoàn. Tối đến, pháo địch nổ vang trời. Xác chết của anh em nằm trên mặt đường, sình lớn mà không lấy được. Phía bên kia bốn năm xác địch vẫn để yên, tụi nó cũng không dám lên lấy xác về. Cố giữ đất, giữ vị trí và làm vài cuộc tấn công nhỏ vẫn không qua đường được.

Từ căn nhà hai tầng cuối đường nhìn xéo từ nhà Bảo Sanh, một thượng liên và một trung liên nồi của tụi nó kiểm soát con đường rất kỹ, dưới sự chỉ huy của một đứa con gái mặc áo choàng màu xám, tóc xỏa dài nhưng không thấy rõ mặt. Tay đứa con gái chỉ tới đâu thì đạn nổ dồn về hướng đó. Tôi nhắm bắn hai phát M.16 nhưng hụt, nó trốn nhanh vào sau cửa và mất luôn.

Hai mươi ngày nằm chịu pháo và bắn sẻ, tối nào hai bên cũng rà máy và chưởi nhau. Theo dõi máy, đột nhiên tôi bắt được một câu báo cáo của tụi nó: “Bồ câu hết thóc!” và nghĩ ngay tụi nó đang thiếu đạn. Nếu cứ nằm như thế này, một lúc nào đó tụi nó chỉ cần ho một tiếng thật to mình cũng bị mất vị trí ngay, chỉ vì áp lực quá nặng nề, tổn thất nhiều, tinh thần anh em quá mệt mỏi. Tôi đi đến kết luận riêng: nếu mình không đánh nó, chắc chắn nó sẽ tấn công mình. Tôi trình với Tiểu Ðoàn trưởng:

“Thiếu tá cho tôi luôn thằng 2 để tôi tấn công tụi nó. Tôi thấy tinh thần anh em xuống quá và sức khỏe ngày càng hao hụt”.

Tiểu Ðoàn trưởng không cho, bắt ráng giữ vị trí. Phu Nhân năn nỉ:

“Nếu không thì cho tôi đột kích, tôi cùng vài toán nhỏ tràn qua đường đánh đột kích rồi rút về. Mình phải chứng minh cho tụi nó thấy mình còn đủ sức chơi tụi nó, thời tụi nó không dám tấn công mình”. Tiểu Ðoàn trưởng nói:

“Làm kế hoạch xong cho tôi hay”.

Tại hầm của tôi anh em đang chờ, họ gồm: Lộc Ðại đội 2, Sự Ðại đội phó của tôi, Duật, Nghênh, Mã Khện. Tôi nói:

“Nằm chờ lâu tao chán quá, chỉ muốn đột kích tụi nó rồi rút về”.

Tất cả im lặng, tôi tiếp:

“Bốn giờ sáng mai mình đột kích. Nếu giữ được vị trí tao cho tràn qua luôn. Bây giờ tao chọn 4 toán:

– Toán 1 : Phán, Ðiểu, Việt, Can, Dư và Phúc mang máy.

– Toán 2 : Duật và ba người thật nhanh,gan dạ.

– Toán 3 : Nghênh và ba người.

– Toán 4 : Thượng sĩ Hải và ba người. Trang bị thật nhẹ: mỗi người 20 trái lựu đạn và hai băng đạn cong ráp ngược cho M.16. Sự và Lộc dẫn con cái ra sát bờ đường. Khi thấy khói xanh thì đưa tất cả tràn qua. Nếu thấy khói màu vàng, yểm trợ tối đa cho tụi tao dọt về. Sự và Lộc hãy về lo cho con cái, đúng bốn giờ sáng sẵn sàng tại vị trí”.

Duật, Nghênh và Hải ở lại, tôi nhìn anh em thật lâu rồi cho biết:

“Tao theo dõi tụi nó báo cáo qua máy, hình như tụi nó thiếu đạn. Do đó tao quyết định cuộc đột kích hôm nay”.

Tôi nghiêm mặt và lạnh lùng nói:

“Hai ông Duật và Nghênh tôi chỉ định phải đi với tôi. Riêng Hải, tôi cho ông suy nghĩ lần nữa. Lần nầy đi khó trở về, ông con cái đông, muốn ở lại vị trí tôi cho phép và tôi hứa rằng tôi không nghĩ ông thiếu can đảm”.

Suy nghĩ một lát, Thượng sĩ Hải trả lời:

“Ðại úy cho tôi ở lại vị trí”.

Tôi vui vẻ bằng lòng và gọi Mã Khện đến, Mã Khện đồng ý đi và xin đem theo Hạ sĩ nhất Mười. Tôi tiếp:

“Bây giờ các ông về chọn người xong lên gặp tôi”.

Tôi ngồi suy nghĩ miên man, liều, phải liều mới cứu được đơn vị.

Chiều hôm đó, lúc bốn giờ, các toán trưởng lên gặp tôi, có thêm Trung úy Sự. Tôi hỏi lần chót:

“Có ai xin ở lại cho tôi hay”.

Không ai trả lời. Tôi căn dặn Sự nhắc Lộc khi thấy khói xanh thì sao và khói vàng thì sao, phải nhớ kỹ. Tôi đưa ba toán trưởng bò đến hầm trú ẩn của nhóm tiền đồn ở sát ngã tư đường. Tôi chỉ từng căn nhà bên kia đường:

“Cái thứ nhất gần ngã tư đường là mục tiêu của tao, cai thứ hai kế tiếp có hàng rào là của Nghênh, căn thứ ba cũng có hàng rào và cây nhãn cao là của Mã Khện, căn thứ tư có mấy bụi chuối lớn là của Duật. Tất cả hay quan sát cho kỹ và cố chọn một con đường tiến quân thích hợp, không cần báo cáo miễn sao thích hợp thôi”.

Tiếp tục quan sát mục tiêu của tôi. Căn nhà bằng gạch có nhà trên và nhà dưới, kế đó là câu tiêu xây bằng đá lợp tôn, sát đường là cái giếng xây bằng xi măng. Trước sân có hai cây vú sữa cao và sai trái. Tôi biết phải làm gì để chiếm căn nhà đó. Tôi quay lại nói:

“Lần chót tôi hỏi các ông có ý kiến gì không? Ðúng bốn giờ sáng mai tôi sẽ chiếm trước, sau đó tùy các ông bằng mọi cách phải hốt cho bằng được các mục tiêu tôi ấn định”.

Trở lại vị trí, tôi dặn dò Ðiểu, Việt, Can, Dư và Phúc mang máy:

“Tối nay miễn gác, ba giờ sáng mai gặp tao ở đây”.

Sau đó tôi đi gặp Tiểu Ðoàn trưởng để trình bày kế hoạch Ông nói:

“Nguy hiểm quá, không được, chết cả lũ !”.

Tôi nói:

“Nếu Thiếu tá không làm bây giờ, một vài ngày nữa tụi nó ho là lính mình chạy hết !”.

Cuối cùng ông chấp nhận:

“Nhớ có gì thì trở về liền, càng sớm càng tốt”.

Tôi dạ nhưng trong đầu tôi nghĩ khác. Trước mắt tôi bây giờ không có cái gì ngoài đường từ tiền đồn qua cái giếng, lên cầu tiêu, tới nhà dưới rồi chiếm nhà trên. Tôi nằm suy nghĩ triền miên cho đến ba giờ sáng.

Trước khi bò ra tuyến xuất phát, tôi nhắc Sự và Lộc một lần nữa cho chắc ăn. Bốn giờ sáng kém mười, toán tôi có mặt tại tiền đồn. Trời vẫn mưa, mưa xứ Huế có dư âm cái lạnh của ngày Tết. Trời tối không thấy gì, tôi ngại bắn lầm nhau. Gắng chờ một chút nữa, đến 5 giờ sáng mưa vẫn không tạnh, trời vẫn tối mù. Năm giờ rưỡi, cái giếng đã nhìn thấy được. Chuẩn bị! Tôi cảm thấy hồi hộp. Chỉ cần bốn cái nhảy vọt là qua bên kia đường nhưng khó hơn đi lên trời vì con đường nầy là con đường của tử thần làm ranh giới bên ta và địch, hai mươi ngày trời không nuốt nổi năm thước đất. Rách nát bao nhiêu cũng vẫn không qua được. Bây giờ mình cắt băng khánh thành, phải làm để cứu đơn vị, phải hy sinh để cứu đồng đội. Vừa suy nghĩ xong, tôi phóng vụt qua ôm bờ giếng. Kế tiếp là Ðiểu , Việt, Can Dư băng theo. Tất cả ngồi ôm thành giếng, mồ hôi ra như tắm mặc dù trời lạnh như cắt. Ðiểu và Can chiếm cầu tiêu. Bỗng một loạt đạn thật gần, tôi quay nhìn ra đường. Phúc và cái máy nát mình nằm trên đường nhựa, dưới làn đạn mịt mù của địch. Tôi hét lớn:

“Dư, Việt chiếm nhà bếp”.

Tôi theo sát lên cầu tiêu bên cạnh Ðiểu và Can . Súng và pháo nổ dồn dập, một B.40 nổ ngay trên đầu mái tôn cong, cả ba thầy trò đều bị miễng nhỏ đâm đầy mặt, tóc râu và lông mày đều bị cháy. Cầu tiêu nhỏ quá nên tôi cùng Ðiểu và Can lên nhà bếp. Tôi ra lệnh:

“Ðiểu và Dư chiếm nhà trên, lục soát thật kỹ”.

Ðể Việt ở lại, tôi và Can cùng lên nhà trên. Ðiểu và Can giữ cửa chính nhìn ra sân, tôi và Dư giữ cửa sau nhìn ra vườn có nhiều luống khoai lang.

Trời sáng hẳn, tôi lắng tai chẳng nghe nhà bên cạnh có gì cả bèn bò trở ra bờ giếng và thấy Duật và Nghênh, Mã Khện vẫn còn bên kia đường. Tôi toát mồ hôi. Tôi nhìn thẳng vào mặt mấy ổng rất nghiêm và lấy ngón tay ngoắc. Tôi không dám gọi lớn tiếng, mấy ông kia gặt đầu. Tôi bò trở lên nhà trên. Lựu đạn, súng nhỏ, súng lớn nổ khắp nơi và nhất là bên phía tay mặt tôi. Tôi biết rằng tụi tôi đã băng được qua đường. Tôi hỏi khẽ:

“Thấy không Dư?”.

Dư lắc đầu, tôi nghe tiếng thì thào sát vách tường phía ngoài. Tôi đoán khoảng 7-8 người đang ở trong cái hầm, tôi dùng ngón tay đẩy nhẹ cửa sổ. Một loạt đạn từ phía nhà đối diện xuyên ào ào qua cửa sổ. Bỗng Dư chỉ tay về phía luống khoai, tôi đếm đủ mười một người đang bò qua, kaki Nam Ðịnh, súng AK và B.40, cách vách tường khoảng hai chục thước, 15 thước rồi 10 thước. Tôi đưa súng lên định bóp cò thi Dư kéo lại và ra dấu đừng bắn dùng lựu đạn. Tôi dựng cây súng xuống thật nhẹ, hai tay rút hai trái lựu đạn miệng cắn chốt. Dư cũng thế, bốn lựu đạn ném cùng một lúc, tiếng nổ xé trời, rồi bốn trái tiếp theo. Bên ngoài tường,tiếng hét lớn rồi tiếng rên và sau đó im lặng, tụi còn lại bò sát vào chân tường.

Nhìn ra cửa, năm xác địch nằm vắt trên luống khoai. Một loạt đạn nổ và tôi nghe:

“Chết em Ðại úy”.

Tôi sững sờ nhìn Dư, tay trái ôm ngón út của bàn tay phải đầy máu, ruột của Dư đổ ra lòng thòng. Dư ngã vật ra chết tại chỗ, nơi Dư đứng có nột lỗ hổng nhỏ ở vách tường. Vì mãi nhìn qua cửa sổ mà không để ý ở phía dưới: nguyên một họng AK thọc qua lỗ tường để sát bụng Dư mà nhả đạn. Tôi bắn một loạt M.16 ra cửa sổ, và cứ thế hết quả nầy qua quả khác tôi ném tất cả lựu đạn của tôi ra ngoài bờ tường. Hai thằng em đã hy sinh, còn bốn thấy trò phải giữ vững vị trí. Phía bên tay phải của tôi súng vẫn nổ dữ dội. Ðến mười giờ rưỡi sáng tôi cho Ðiểu liên lạc với Nghênh, Duật và Mã Khện. Ðiểu băng người ra đi, bốn căn nhà cách nhau mười phút đi bộ mà hơn một tiếng đồng hồ sau Ðiểu mới về báo cáo là tất cả chiếm được mục tiêu. Có đoạn đường nào xa và xấu hơn đoạn đường tôi đang đi! Toán Duật: một chết, một bị thương. Toán Mã Khện: hai chết. Toán của Nghênh một chết, một bị thương. Tất cả là 6 chết 2 bị thương, chúng tôi còn lại mười một người tại tuyến.

Ðiểu bò ra giếng cố đem qua cho tôi cái máy. Cột cái máy vào đầu dây và quang đầu dây kia qua cho Ðiểu kéo. Can mở máy liên lạc với Tiểu Ðoàn:

“Trình Ðại Bàng, tôi sẽ tràn ngập ví trí địch với thằng 2 của Lộc và thằng 3 của tôi”.

Ðại Bàng hỏi:

“Tai sao từ sáng đến giờ không chịu liên lạc với tôi? Tôi ra lệnh rút về ngay”.

Phán nài nỉ:

“Ðây là dịp may, tinh thần anh em đang lên, tôi xin Ðại Bàng cho làm luôn!”. Ðại Bàng Thanh Hóa nói bằng bạch văn không ngụy trang:

“Nếu anh không rút về, tôi sẽ đưa anh ra tòa án quân sự”.

Khí giận bừng bừng, tôi tắt máy không trả lời, trên tay vẫn cầm trái khói xanh. Suy nghĩ thật kỹ! Suy nghĩ thật kỹ! Hơn mấy giờ để đánh mục tiêu, bốn căn nhà và một con đường ngập máu. Mưa vẫn lạnh như cắt da mồ hôi vẫn ra như tắm. Cuối cùng tôi đành bảo Ðiểu chuyển lệnh cho các toán:

“Rút về ngay, mạnh toán nào rút toán nấy, không chờ đợi. Mang thương binh theo, xác chết bỏ lại”.

Năm thước đường đi đã khó, về còn khó hơn. Mỗi bóng người nhúc nhích là đạn nổ hàng loạt, liên hồi, đạn bắn chéo bao phía, đan lưới thật dày trên mặt đường và khắp vị trí. Làm sao trở về đây! Con cái bên kia đường đưa mắt theo dõi. Toán tôi bò ra giếng, bỗng mấy bóng đen vụt qua đường như sao xẹt, nhào vào bờ lề và được anh em kéo ra sau. Ðạn nổ dòn tan cày nát mặt đường. Ðây là mấy đứa bi thương nặng, tưởng là di chuyển không nổi, nhưng khi nghe lệnh rút chúng thu hết tàn lực vùng chạy về, chớp mắt không kịp thấy.

Hỏa lực ba phía nổ vùi vào vị trí chúng tôi. Các toán đột kích không liên lạc với nhau. Ðiểu và Can vẫn giữ căn nhà. Ðịch kiểm soát con đường bằng mấy cây thượng liên và trung liên, chúng bắn liên miên. Bên kia đường, Sự và Lộc đáp lễ bằng hỏa lực cơ hữu của khăn tím và của 2. Tôi lấy chân đạp vào thành giếng phong người băng qua đường, lăn mình, nhảy, chạy và té ào vô bờ lề. Anh em kéo vội tôi ra sau, tôi dừng lai bảo Lộc và Sự bắn từng loạt một để tụi nó dọt về. Nhìn thấy Việt ngồi thành giếng trổ mắt ngó về mà tội nghiệp. Sống và chết cách nhau có một con đường. Tôi hồi hộp xót xa cho mấy thằng em. Tôi vừa quay mặt hét: “Bắn kèm mấy cây thương liên”, thì một bóng bay vọt qua đường. Tim tôi thắt lại, đạn nổ mịt mù. Lần lượt tôi gặp Nghênh, Duật, Mã Khện và tất cả anh em. Tôi ôm ghì từng đứa, tụi nó còn sống cả. Can và Việt nhào đến ôm tôi dữ dội mà đậm đà trìu mến. Lính với tay sờ người, nắm nhẹ áo tôi:

“Ðại úy, tóc và râu cháy hết rồi, mặt bị dăm vài chỗ”.

Cả Ðại đội bất chấp đạn địch, đứng dậy nhìn nhau hãnh diện và sung sướng. Tôi báo cáo Tiểu Ðoàn:

“Tất cả đã về vị trí”.

Bỗng thấy thiếu một cái gì, tôi nhìn Can và Việt hỏi:

“Thằng Ðiểu đâu?”.

Tụi nó nói:

“Lần cuối cùng em thấy nó vừa khóc vừa chạy lung tung tìm xác Ðại úy ở bên ấy”.

“Thôi chết tao rồi, tao phải cứu nó, hai thằng bây theo tao”.

Tôi, Can và Việt bò trở ra đường. Bỗng nhiên một bóng người nhảy qua khỏi hàng rào, nhảy qua khỏi miệng giếng, phóng nhanh qua đường, nhào lăn rào rào vào vị trí và la lớn:

“Ê, tụi bây thấy anh Hai đâu không?”

Ðiểu đứng dậy nước mắt đầm đìa, tôi lao đến ôm Ðiểu:

“Tao định qua kiếm mày đây!”.

“Trời anh Hai, tụi nó nói anh chết rồi. Em đi lục hết căn nhà mấy chục lần, chỉ không dám ra ngoài hè mà không thấy xác anh Hai đâu. Hôm trước Mạ có dặn nhỏ với em, phải sát bên cạnh anh Hai, nếu có gì cũng phải nhớ đem anh Hai về cho Mạ …”.

Tóc tai mặt mày râu ria Ðiểu cháy nám, áo quần rách buôm, nó khóc mùi mẫn vì thấy tôi còn sống. Rồi nó lại bẻn lẻn cúi đầu hai hàng nước mắt lã chã nhỏ giọt xuống đất. Trong cuộc chiến bạc bẽo lại có chút tình nghĩa trao nhau qua mấy giọt nước mắt nóng hổi.

Sáu giờ chiều, xuống trình diện Tiểu Ðoàn trưởng, ông nói ngay:

“Ông làm những chuyện nguy hiểm quá, lỡ kẹt bên đó thì nói làm sao với Lữ Ðoàn?”.

Tôi dạ dạ vâng vâng cho qua rồi nghiêm mặt đề nghị:

“Thưa Thiếu tá, ngày mai cho tôi tấn công, tôi tin chắc sẽ tràn ngập vị trí chúng nó. Cho tôi thằng 2 của Lộc, để thằng 1 của Lượm đi sau thu dọn chiến lợi phẩm. Chỉ xin Thiếu tá cho tôi xin hai chiếc Tank kèm hai bên hông của tôi”.

Ông hỏi:

“Có chắc ăn không Phán?”.

Tôi cương quyết:

“Chắc, và nếu tràn được vị trí địch Thiếu tá cho phép tôi đánh thẳng lên Kỳ Ðài nếu còn thời gian”.

Tôi theo Tiểu Ðoàn trưởng lên trình diện ông Già Hự – Ðại tá Yên Tư Lệnh Phó. Ông già chấp thuận.

Trở về tôi hợp các Trung đội trưởng:

“Ngày mai, tám giờ sáng, Ðại đội 3 khăn tím bên trái, Ðại đội 2 của Lộc bên phải, dàn hàng ngang lấy con đường lên cửa Sập làm chuẩn tiến song song. Sau khi hai chiếc Tank yểm trợ bằng hỏa lực xong, cả hai Ðại đôi xung phong tràn ngập vượt qua mỗi chốt thật nhanh, không cần thu lượm chiến lợi phẩm, để cho Ðại đôi 1 đi sau làm chuyện đó. Tất cả ba lô và đồ ăn để lại, trang bị thật nhẹ. Khi tới xóm nhà sát cửa thành thì dừng lại tại chỗ chờ tôi”.

Ðúng tám giờ sáng ngày hôm sau, dàn quân, hai chiếc Tank Ontos hạng nặng tiến lên, mỗi chiếc trang bị sáu cây đại bác 106 ly. Tôi chỉ vị trí tác xạ cho hai Trưởng xa người Mỹ rồi ra lệnh khai hỏa. Hy vọng 12 cây 106 ly nầy sẽ san bằng mục tiêu trước mắt cho con cái tôi được dễ dàng đôi chút. Nhưng mỗi chiếc Tank chỉ bắn một phát đạn duy nhất rồi chạy lùi biến mất, không biết chạy về đâu. Tôi hết hồn, quân đã dàn xong, bắt buộc tôi phải ra lệnh xung phong. Tôi hét thật lớn, hét khan cả cổ: Xung Phong! Cả một đoàn quân dàn hàng ngang, không một ai nhúc nhích. Con đường trước mặt, con đường của hai mươi mốt ngày đầy máu và nuớc mắt của những người lính mũ xanh can cường, con đường tráng nhựa đẹp đẽ nhưng băng qua là đi vào cõi chết. Tôi tức giận chưởi thề lung tung rồi chụp lấy cây đại liên M.60 của người lính bên cạnh bắn một loạt dài rồi một mình vừa bắn vừa băng qua đường cùng với toán cận vệ: Can, Việt, Ðiểu và hai người mang máy. Qua khỏi đường xông tới trước, tiếng đại liên của tôi nổ dòn. Ðúng lúc ấy cả đoàn quân đồng thanh hô to “Xung Phong” và ào qua đường. Sau đó đoàn quân vượt nhanh qua mặt tôi và lướt tới trước. Súng nổ vang rền, đoàn quân tiến đều, M.16 bắn vãi vào chốt, lựu đạn ném vào chốt, đạp chốt, bang chốt, lướt qua, cố giữ đội hình. Tiếng nổ inh tai liên tục, tấn công thật mãnh liệt và chạy ào tới trước như vũ bão. Ðến ba giờ chiều, chúng tôi đến xóm nhà sát cửa Sập.

Lính vỗ vai nhau cười làm tôi bật cười lớn vì xóm nhà nầy rất quen thuộc với họ. Lính thường hay đến xóm nầy rồi về kể nhau nghe con nầy đẹp, con kia chân dài, con nọ…. Nào khăn, nào thau vứt bừa bãi khắp nơi. Lính vui vẻ kể chuyện tục cho nhau nghe và hồn nhiên đùa nghịch. Những tiếng cười đầy ham muốn thèm thuồng, hơn 40 ngày, từ Vùng IV về giải tỏa Sàigòn rồi ra đây, không thấy mặt một người đàn bà thật đàn bà, chỉ thấy toàn máu, nước mắt và mồ hôi.

Tôi ra lệnh:

“Lộc và Sự mỗi ông cho một toán 10 người băng thật nhanh đến áp sát mặt Thành xong ngồi xuống. Toán kế tiếp chạy đến leo lên vai toán thứ nhất để toán nầy, đôn lên mặt Thành. Khi bám được mặt Thành thì tác xạ tối đa và bằng mọi cách giữ vũng vị trí trên mặt Thành để làm đầu cầu”.

Con cái tôi hành động còn đẹp hơn tài tử xi nê. Tiếng đạn lớn nhỏ nổ rền, hai toán lên Thành chiếm xong vị trí. Tôi cho tất cả con cái đem bàn ghế ra chất sát tường và leo lên ngay. Tiếng đạn và pháo địch vẫn mãnh liệt trên nóc Thành, phải khóa lại. Một chặn đường xương máu đã vượt qua, bây giờ mục tiêu chính, mục tiêu của niềm hãnh diện, mục tiêu của ơn sâu và nghĩa nặng: Kỳ Ðài Huế. Ðây là nơi tượng trưng cho Hồn Thiêng Dân Tộc nói chung và cho Huế nói riêng. Duật và 20 anh em tiến chiếm 6 cây súng thần công to lớn, từ đó Duật dùng hỏa lực kềm địch ở cửa Ngọ Môn, yểm trợ cho Nghênh và Mã Khện đánh chiếm Kỳ Ðài. Ðịch bắn trả rất rát. Con cái tôi dùng hỏa lực tối đa và thần tốc tiến vào Kỳ Ðài. Phản ứng của địch bắt đầu yếu, năm giờ mười phút chiều, màu áo rằn ri TQLC đã làm chủ Kỳ Ðài. Lá cờ xanh đỏ sao vàng đầy hận thù còn trên không. Một anh em Lính rút đâu trong người ra lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ thật lớn. Tôi gọi về Tiểu Ðoàn:

“Tất cả đã sạch sẽ, xin Thiếu tá cho tôi treo cờ lên”.

Tôi nhớ rõ lệnh của Trung Tướng Lê Nguyên Khang:

“Một người lính Thủy Quân Lục Chiến duy nhất còn sống sót cũng phải dựng lại ngọn Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ tại Phú Vân Lâu”.

Trong niềm vui sướng tột cùng, Hạ sĩ Hạnh hét lớn: Thủy Quân Lục Chiến! Xong lấy hỏa châu đập mạnh định bắn pháo bông lên trời ăn mừng. Trong cơn say chiến Thắng, Hạnh xoay ngược đầu hỏa châu vào mình, hỏa châu nổ xuyên bụng. Hạnh cười nói:

“Em không sao Ðại úy”.

Phán nghĩ thằng em nầy tỉnh táo quá, chắc nó chết. Và nó chết thật.

Tiểu Ðoàn trưởng bảo Phu Nhân giữ đầu máy chờ. Sau nầy tôi được nghe: “khi báo cáo về Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 1, Chuẩn Tướng Trưởng xin Thủy Quân Lục Chiến dành vinh dự thượng kỳ cho Sư Ðoàn 1. Sáng hôm sau ngày 24 tháng 2 Phạm Văn Ðịnh dẫn một đơn vị của Sư Ðoàn 1 từ cửa Thượng Tứ lên làm lễ thượng kỳ.

Nhìn lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ phất phới trên nền trời màu xám của Huế, tôi hãnh diện thật sự vì thằng con của Huế đã góp phần dựng lại ngọn Cờ nầy. Trung úy Sự trình tôi:

“Thằng Hạnh chết, mình còn 67 anh em”.

Ðại đội ra đi hơn 170 người, sau 24 ngày và sau bao nhiêu lần bổ sung quân số, chỉ có ba mục tiêu: Con đương, cửa Sập và Kỳ Ðài mà bây giờ chỉ còn 67 người.

Sáng hôm sau tôi về phối trí đóng quân lục soátỉ ở khu vực cửa Ðông Ba, nhà Thương Nhỏ, chợ Xép, ngã tư anh Danh. BCH của tôi đóng tại một tiệm cầm đồ, tiệâm nầy có Tôn và Lưu cùng học một lớp hồi còn nhỏ. Trong nhà không còn ai cả. Chiều hôm đó tôi gặp lại rất nhiều bạn bè cũ. Tình hình chưa được an ninh hoàn toàn nhưng đóng ở đây chúng tôi nhẫn nha hơn trước nhiều. Tôi đi kiểm soát các vị trí và cho lục soát tàn quân địch. Lính canh gát bắt về một người đàn ông lớn tuổi, gầy ốm ăn mặc lếch thếch, áo vét nhàu rách, tóc tai rối bù và dơ bẩn, miệng nói lí nhí.

“Lệnh giới nghiêm, đã mười một giờ đêm sao ông này còn lang thang trên hè phố, em nghi quá”, người lính nói.

Tôi sững sờ nhìn người đàn ông.

“Thầy Cao Hữu Triêm! Trời ơi Thầy!”

Tôi gọi mấy tiếng lớn mà Thầy vẫn không nghe, Thầy tiếp tục lẩm bẩm rất nhỏ. Tôi cầm tay mời Thầy ngồi:

“Con là học trò cũ của Thầy đây”.

Một ánh mắt lạc lỏng xa vời:

“Ờ, ờ sao con khoẻ không. Thầy mấy ngày nay chưa ăn chi cả”.

Lính tôi kiếm cơm trắng và đĩa gà luộc về mời Thầy xơi. Tụi nó còn kiếm được một bình trà nóng mời Thầy. Sau một hồi Thầy tỉnh táo, và cho biết: Cô và sắp nhỏ vào Ðà Nẵng, thằng con lớn chết rồi, Thầy không muốn về nhà nữa. Rồi Thầy khóc, giọt nước mắt lăn dài trên đôi má nhăn nheo.

“Thôi Thầy ở đây với con cho yên”, tôi nói.

Lính của tôi thay nhau hầu hạ Thầy ân cần, đến ngày thứ tư Thầy đòi đi, tôi thu xếp để Thầy vô Ðà Nẵng. Từ đó, tôi mất tin tức của Thầy. Cầu mong Thầy được bình an.

Ðược sinh ra và lớn lên ở Huế, tôi cố trả một phần nào chữ Hiếu cho nơi chôn nhau cắt rún. Máu của tôi, của anh em tôi, của đồng bào tôi đã tạo thành một cơn sóng thần cuốn đi tất cả bọn giặc thù cộng sản để dựng lại ngọn Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ trên Kỳ Ðài tượng trưng cho dân tộc Việt. Hai mươi ba năm sau, hồi tưởng lại,máu và xương kia đã theo giòng sông Hương Giang cuốn tôi và bằng hữu ra biển bắt làm người biệt xứ. Lạy trời, một ngày nào đó, cũng Cố Ðô đó, cũng Kỳ Ðài đó, cho tôi được góp một phần dựng lại ngọn cơ một lần nữa để đền đáp ơn sâu nghĩa nặng, nơi tôi đã sinh ra, nuôi tôi lớn lên và cho tôi làm người trong lòng Dân Tộc Việt Nam./.




Bài viết hay của hai học sinh Trung học, tại vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn…

1/ Davis Trần : HAI QUÊ HƯƠNG – TWO HOMELANDS 2/ Ngọc Nguyễn : When I grow up, I want to be a person who changes the ordinary. And for now, I am the person who is not afraid to say, “I am proud that my family works at the nail salon because they do it for my future.”

 HAI QUÊ HƯƠNG – TWO HOMELANDS

 

Davis Trần

“Vẫn thấy quê hương đêm ngày réo gọi
Vẫn thấy trong tim canh cánh đường về
Vẫn thấy nơi đây chỉ là đất tạm
Thầm hẹn ngày về chết giữa quê hương”


Nhật Ngân

DAVIS TRẦN
WINNER OF THE “GIẢI KHUYẾN HỌC” 2010
FROM THE VIETNAMESE COMMUNITY OF DC, MD,VA

April 30, 1975: a day long to be forgotten but forever imprinted within the mind of every Vietnamese American. It was on this day when countless Vietnamese citizens gave up their daily lives to become boat refugees, waving good-bye to their homeland in hopes of a better life and a brighter future. I could never wrap my head around the dark events of that day as my mom retold her “vượt biên” account, nor could I imagine the rippling effect that would entail a mass exodus of Vietnamese immigrants for the next 35 years.

Sitting here in America, in a land where the principle of freedom is so sacredly held, offers me a distinct perspective on the war and its aftermath. As part of the 1.5 generation, reading about the war in American textbooks and watching historic clips did nothing to fill that empty void, to better connect myself with the communal suffering of my heritage. Music filled that void, thanks to the many Vietnamese composers that transcribed their feelings. From Trần Thiện Thanh’s “Rừng Lá Thấp” that brought me the emotions of a solider to Duy Khánh “Xin Anh Giữ Trọn Tình Quê” of nostalgic feelings, these songs bridge the gap of my generation and that of my mother’s. This genre of music not only captures the feelings of those that directly experienced such tragedies, but enables me, the later generation, to truly grasp what occurred. Just listening to the emotional lyrics provokes me to think about how fortunate I am, to think of the men and women who have endured so much, and to be proud of my Vietnamese roots. The Vietnam War has left a scar, but the Vietnamese community is thriving, transforming such adversity and pain into inspiration for success- something I long admire and follow.

My mom not only lives by this mantra, but exemplifies it to the fullest. Starting her life anew on foreign soil, without knowing a word of English to communicate, demonstrates the utmost sacrifice and perseverance more than any song. She speaks little of the war, only asking that I do well in school. As a child, I considered myself a spy in training, and only through my eavesdropping skills did I hear her retell her journey. I remember asking my mom why. Why would she give up her youth, jump into a boat among 60 others, and risk her life at sea when she couldn’t swim. She looked at me, stared into the void space and said, “vì tự do.” This made me think about my life, how I really don’t have an excuse to whine or complain about anything for the rest of my life. Only a few years ago, my mom dropped her barber profession to take care of my bed-stricken grandmother, a stroke survivor. My mom is truly the embodiment of the Vietnamese fighting spirit. Her account, along with other stories of suffering and endurance through both songs and tears, has taught me the true value of freedom as well as the meaning of sacrifice.

As Lan Cao ends her novel, Monkey Bridge, she’s reminded of home by the crescent moon in the shape of a dangling seahorse, the shape of Vietnam. I, too, am constantly reminded of my ethnic heritage thanks to the songs and stories. While I call America my home, I know my mom does not see it that way, but yearns to return back to her home, the land she calls quê hương, Việt Nam.

 

KÍNH TẶNG MẸ TÔI VÀ NHỮNG PHỤ NỮ VIỆT TRONG NGHỀ NAILS NHÂN NGÀY VU LAN 2010

 

Nguyễn Kim Ngọc

 

Những sự khó nhọc mà gia đình tôi đã đi qua chỉ vì họ muốn đem lại cho thế hệ sau một tương lai tươi đẹp. Vào lúc đó thì tôi chợt nghĩ rằng: Nếu ai đó đã cố gắng làm một công việc mà bị nhiều người khác chê cười, chỉ vì tương lai của con cái họ, thì người đó thật là đáng khen ngợi, đáng được tôn trọng. Người mà hy sinh bản thân và cuộc sống của mình để con cái được hạnh phúc thì thật là đáng nể. Bởi vì gia đình tôi đã can đảm làm những việc mà người khác coi thường, tôi đang sống nơi đây. Tôi đang có cơ hội để hiểu biết thêm về kiến thức. Tôi đang đi đến một tương lai sáng ngời. Và tôi đã tìm ra câu trả lời mà cô giáo Anh đã hỏi hồi năm xưa: Khi tôi lớn lên, tôi sẽ đem đến những sự đổi mới cho cuộc đời. Và hiện tại, tôi là một người không hề sợ hải hoặc e ngại khi nói lên, “Tôi rất tự hào là gia đình tôi làm nail vì họ làm điều đó cho tương lai của tôi.”

 “I want to be a person who changes the ordinary”

 

Ngọc Nguyễn

.

 

NGUYỄN KIM NGỌC
THÍ SINH ĐOẠT GIẢI KHUYẾN HỌC CDVN HTD, MD, VA

When I grow up, I want to be a person who changes the ordinary. And for now, I am the person who is not afraid to say, “I am proud that my family works at the nail salon because they do it for my future.”

Nguyễn Kim Ngọc

Just a few years ago, my English teacher asked her class who each person would like to be when he or she grows up. Some wanted to be doctors, scientists, and some wanted to be lawyers, engineers… When she asked me, I looked around and asked myself, “What do I want to be in the future?” A classmate yelled out, “Maybe you can work at a nail salon!” It was as if that was a joke, the class burst out in laughter. I felt hurt and discriminated. But most of all, I felt angry because in an attempt to make fun of me, that classmate has denoted something shameful about the job of a nail technician and about my own background.

My grandfather is a veteran from the Viet Nam war to gain independence for our beloved country. Though we had the help from American troops, after the war ended, grandpa was sent to an internment. Long after the suffering that grandpa endured, he and his family were finally brought to America by the American government to enjoy the freedom that he well deserves.

I’ve heard of many stories told by my dad about the struggle my grandpa’s family went through when they first came here, and I’ve always admired them because of their strength, their bravery, but most of all, their hard work. My grandpa entered the United States along with my grandma, and my five aunts and uncles. My uncles and aunts were no older than thirteen at that time, and so as the breadwinners of the family, my grandpa and grandma took on many jobs to support the family.

Life was hard because they had to learn English as a second language, alongside with finding jobs that would require no prior knowledge, training, or education. Yet to add on to the hardship, they had no relatives and no friends in America to lend a hand of support. My grandpa was a labor worker, my grandma worked as a nail technician, while my uncles took on part-time jobs as dishwashers at a restaurant near home.

I vividly remember my mom told me one day, “Con nhớ là phải học giỏi, để rồi mai mốt, con sẽ có tương lai tốt đẹp. Người Việt như mẹ với bà ngoại đây qua Mỹ trễ quá, mù chữ, nên phải làm nail, cực lắm con ơi.” That was when I realized that Vietnamese migrate to the United States to look for opportunities; opportunities, not for themselves, but for the future generation. I realized that my mom would withstand it when people criticized her position as a nail technician only to bring me a better future.

All the hard work my family has done was to develop a better and brighter future for the next generation to come. At that point, I realized that no matter what path people take in life, everyone deserves respect. Someone who is willing to work a job that people look down upon to support his or her children should deserve to be respected because that person is selfless; that person is willing to make sacrifices for the ones he or she loves. Because my family was brave enough to take on those jobs that are considered to be “low in standard”, I stand where I am today. I am getting an education. I am making a brighter future.

I found the answer to my teacher’s question: When I grow up, I want to be a person who changes the ordinary. And for now, I am the person who is not afraid to say, “I am proud that my family works at the nail salon because they do it for my future.”


Vài năm về trước, cô giáo dạy Anh của tôi hỏi tất cả học sinh rằng họ muốn làm gì khi họ lớn lên. Có bạn thì muốn làm bác sỹ, nhà khoa học. Bạn khác thì muốn làm luật sư, kỹ sư.. Khi cô giáo hỏi đến tôi thì tôi nhìn quoanh và tự hỏi mình, “Tôi muốn làm gì trong tương lai?” Có một ai đó la lên, “Bạn có thễ làm nail đấy!” Cứ thể như điều đó là một trò cười, ai ai trong lớp cũng bật cười. Tôi cảm thấy buồn và tức giận vì họ đã coi thường những người làm nail, và họ đã coi thường địa vị của gia đình tôi.

Ông ngoại tôi là cựu chiến binh từ hồi chiến tranh dành sự tự do cho nhân dân miền Nam. Việt nam đã có sự giúp của quân đội Hoa Kỳ, nhưng sau khi chiến tranh kết thúc thì phần thắng lại chẳng thuộc về những người đấu tranh cho sự tự do chính nghĩa. Và những chiến sĩ như ngoại tôi đã bị quân thắng trận giam giữ sau những năm tháng từ đấy. Nhiều năm gian khổ thì ông ngoại tôi lại được trở về nhà với gia đình và được chính phủ Hoa Kỳ đưa đến đất nước Mỹ để được hưởng sự tự do thật sự mà bao nhiêu năm đã bỏ biết bao công sức và tuổi thanh xuân để bảo vệ.

Năm 2003 chính là năm mà ngoại bảo lảnh gia đình tôi qua Mỹ. Tôi đã nghe ba tôi kể thật nhiều chuyện về sự khó khăn mà gia định ngoại đã trải qua khi họ bước lên đất nước Mỹ. Ông ngoại tôi sang Mỹ cùng với bà ngoài và 5 cậu, dì của tôi. Tôi luôn luôn khâm phục họ vì họ thật là mạnh mẽ, can đảm, và kiên trì. Ông ngoại làm việc lao động trong hảng, bà ngoại làm nail, còn các cậu thì rửa chén trong nhà hàng. Cuộc sống sao thật gian khổ vì ngoại vừa phải học tiếng Anh, vừa phải làm những công việc lao động – những công việc mà không cần đến sự hiểu biết tiếng Anh. Và để thêm vào nỗi đắng cay ấy, ngoại tôi chẳng quen biết ai trên đất nước Mỹ xa lạ này. Ngoại chẳng có ai để chia sẻ nỗi buồn, chẳng biết nương tựa vào ai khác trừ hai bàn tay trắng của mình.

Tôi nhớ có một ngày mẹ bảo tôi, “Con nhớ là phải học giỏi, để rồi mai mốt, con sẽ có tương lai tốt đẹp. Người Việt như mẹ với bà ngoại đây qua Mỹ trễ quá, mù chữ, nên phải làm nail, cực lắm con ơi.” Khi đó tôi mới biết rằng: Người Việt mình qua Mỹ để tìm cơ hội; một cơ hội không phải cho họ, mà cho con cái, cho thế hệ trong tương lai. Tôi biết rằng mẹ tôi đã nghiến răng chịu đựng khi mọi người chê báng nghề làm nail của mình chỉ để đem lại cho chị em tôi một tương lại sáng đẹp.

Davis Trần & Ngọc Nguyễn
Theo: Diễn Đàn Net




Đông A : Hương Ngọc Lan và Định Kiến

Ở nơi đây một cành hoa mai trắng mong manh trong vườn, một nụ cười thân thiện, những tiếng cám ơn giữa hai người không quen biết đã và đang biến mất dần. Làm thế nào để sống với Hà Nội mà không có những thứ đó ? Tôi chợt nghĩ đến một câu nói nổi tiếng mà không nhớ chính xác của ai: « Văn hóa là những gì học suốt đời vẫn không đủ. Văn hóa là những gì còn sót lại khi tất cả đã bị lãng quên ».

Hương Ngọc Lan và Định Kiến

Đông A

Hồi bé tôi thường được nghe câu ca dao « Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An ». Tôi được nghe giải thích rằng nó tượng trưng cho nếp sống người Hà Nội, thanh cao mà dịu dàng như hoa nhài. Tôi thích hoa ngọc lan hơn, dù hoa nhài cũng thơm một cách rất dễ chịu và khó quên. Tuy vậy mỗi khi nghe câu ca trên, tôi luôn cảm thấy bị dị ứng. Trước hết là vì khen lối sống của người Hà Nội, mà lại nói Tràng An, kinh đô cũ của nước Tầu: thật là vô lý. Giử thử nói câu này khen người Trung Quốc ở Tràng An lịch sự, thì dù rằng chẳng biết đúng sai, ít ra còn có thể thông cảm về mặt ngữ nghĩa. Đằng này, viết Tràng An mà lại bảo Hà Nội vì « cùng là kinh đô », thì quả là một sự nhập nhằng, thậm chí một sự nhận vơ đáng xấu hổ. Huống hồ, sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, tôi thấy đây chỉ là một định kiến vì người Hà Nội không luôn thanh lịch như lời ca dao dẫn.

Nếu nói đúng, phải nói là người Hà Nội có những nét thanh lịch không thể phủ nhận, nhưng cũng còn có nhiều thứ khác, khá lủng củng và đôi khi không thể giải thích. Để dẫn chứng, mời bạn đi dạo chợ Đồng Xuân từ khu ba mươi sáu phố phường. Tôi tin bạn sẽ phải dựng tóc gáy vì văn hóa chợ búa ở đây. Mua hàng bị cân thiếu và được ăn chửi là chuyện bình thường. Mà đã lăng mạ nhau thì rất lắm khi giữa cả người bán lẫn người mua. Thời kỳ bao cấp, cứ chỗ nào có vui chơi là có ăn trộm tụ tập, nổi tiếng nhất tại Bờ Hồ và vườn hoa Giám. Ngày hôm nay Bờ Hồ đã được « giải phóng », vườn hoa Giám được quy hoạch khang trang thành khu Văn miếu, nhưng vô số tệ nạn khác lại phát sinh ở khắp nơi. Các công viên buổi đêm vẫn là những tụ điểm của xì ke, nghiện hút, những người không lương thiện. Các con đường vẫn là những nơi xả rác vô tư, và các bờ hồ buổi tối bị biến thành những « chợ tình » bất đắc dĩ. Với tôi, Hà Nội đã và luôn là nơi chất chứa của vô số các tầng văn hóa, từ vô công rồi nghề, đến chợ búa, tiểu thương, hàn lâm, học sỹ. Nó chưa bao giờ thể hiện một sự thanh lịch tinh khiết, nhưng cũng không thể vì thế mà có thể đánh đồng nó với một thói xấu hoàn toàn. Tuy tồn tại và có thể cảm nhận được, nhưng nếp sống Hà Nội chỉ là một khái niệm không định hình. Khái niệm ấy vẫn bị tha hồ nhào nặn để người ta có thể chê bai hoặc khen khống nó, tùy theo tâm lý người nói chuyện với mình. Ôi, thành phố của tôi, thủ đô ngàn năm văn hiến.

Những người có đủ dũng cảm để viết ôn hòa về những thói xấu của Hà Nội vẫn là rất hiếm. Thông tin về Hà Nội luôn nằm giữa hai thái cực. Một bên là những bài văn lung linh hoành tráng mà trong đó Hà Nội hiện lên với những nét mờ ảo thiêng liêng, hào hùng, không đợm tì vết. Bên kia là vô số những tin vặt, tin giật gân, tin 3 dòng viết về những tệ nạn thành phố. Trong những mẩu tin này, chẳng ai nêu đích danh Hà Nội, chẳng ai dám gắn nó với nếp sống người Hà Nội, tất cả đều là tự hiểu. Tệ hơn nữa, có thể bắt gặp cả những lời chê bai cũng đầy định kiến của những người không sống tại Hà Nội. Nhưng để hiểu Hà Nội, và yêu nó, cần phải biết vứt bỏ các định kiến.

Dẫu không phải là người Hà Nội gốc, nhưng tôi vẫn thích mùi ngọc lan, hương thơm dịu dàng rất dễ chịu, khó quên mà hồi bé tôi vẫn được nghe giải thích là trượng trưng cho Hà Nội, nếp sống người Hà Nội thanh lịch, cũng giống như hoa nhài. Thật khó cho một đứa trẻ như tôi hình dung được nếp sống thanh tao ấy.

Nhưng lớn lên rồi, tôi vẫn không tài nào định hình được nét thanh lịch trong dòng ngỗn ngang đủ thứ tạp nhàng của Hà Nội hôm nay. Nếp sống người Hà Nội mang đầy chê bai, định kiến, từ chính những người ngược xuôi trong lòng Hà Nội và cả những người không ở Hà Nội.

Cố công tìm hiểu bề dày lịch sử của Hà Nội để hiểu thêm về nếp sống người Hà Nội, để định nghĩa được thế nào người Hà Nội, và rộng hơn là để biết điều gì làm nên văn hóa Nội thành, tôi chợt nhận ra rằng khái niệm nếp sống Hà Nội là một điều bí ẩn vì thiếu cơ sở lịch sử minh chứng, biến nét thanh lịch của người Hà Nội xưa thành một danh tiếng hầu như không được chứng thực mà chỉ được lan truyền ; và như thế, tạo nên định kiến đối với những người di cư vào Hà Nội đang làm nên Hà Nội. Và một nguy cơ to lớn là văn hóa Hà Nội đang có khuynh hướng trở thành một thứ tạp pí lù, bao trùm khắp to nhỏ.

Tôi muốn tin là Hà Nội thanh lịch. Tôi muốn Hà Nội trở nên thanh lịch…(*)
***
Hà Nội có một bề dày lịch sử mà không phải ai cũng cố công tìm hiểu. Do đó nếu nhận xét nó mà không đặt vào một cái nhìn bao quát lịch sử, thì nhầm lẫn sẽ là chuyện thường tình. Là thủ đô được vinh danh rồng bay thời vua Lý, là nơi thành không nhà trống chống quân Nguyên thời Trần, là nơi phế đô bị quên lãng ngắn ngủi đời nhà Hồ, rồi là nơi hội tụ hiền tài và tinh hoa đời vua Lê, Hà Nội đã ghi lại những biến động lịch sử lớn nhất của nước Việt. Đây là nơi hoàng đế Quang Trung đã đánh tan hơn hai mươi vạn quân Tàu, dạy cho chúng biết nước Nam là có chủ. Đây cũng là nơi Hoàng Diệu tử tiết, đánh dấu cho việc người Pháp thôn tính Việt Nam làm thuộc địa kéo dài suốt 80 năm. Hà Nội đã không ngừng thay đổi, không ngừng được xây dựng và phát triển. Nếu như nền văn hiến được thật sự đánh dấu bằng việc mở Quốc tử giám – trường đại học đầu tiên của Việt Nam, nét thanh lịch của người dân được dần dần quy tắc hóa trong suốt nhiều thế kỷ sau đó để trở thành môt tập hợp các cách ứng xử trong cuộc sống hàng ngày. Đó, trước hết, là đạo đức của sự hiếu học và văn hóa tôn trọng người thầy, được rèn rũa trong tiến trình văn minh của Hà Nội. Tôi vẫn nghe kể, và chính mình đã được học những quy tắc lễ nghi gia giáo. Phải lễ phép với người lớn, phải vâng dạ rõ ràng, đi đâu phải chào hỏi, khách đến nhà phải mời ngồi, mời nước …vân vân và vân vân.

Tập hợp các quy tắc này hẳn đã phải chịu thất lạc và thay đổi để thích ứng với các giao đoạn lịch sử. Cũng như địa giới hay dân số, nếp sống ở Hà Nội luôn thay đổi và không phải bao giờ cũng nằm trong khuôn thanh lịch. Do đó nói người Hà Nội thanh lịch có nguy cơ gặp phải hai lần lỗi. Lỗi thứ nhất là vì Hà Nội không hề là duy nhất, trước sau như một. Nó luôn là nó mà lại không phải là nó. Cũng như thế, thành phần dân số nơi đây luôn biến động. Vì thế khái niệm người Hà Nội cũng còn là một khái niệm mập mờ và không được nắm bắt kỹ lưỡng. Không hề có người Hà Nội chuẩn mực. Lỗi thứ hai là vì những người sống tại Hà Nội cũng không hoàn toàn thanh lịch, mà cũng còn có vô số thói hư tật xấu khác. Kết quả của hai yếu tố này là ta hoàn toàn có thể:

a. bị sốc vì người Hà Nội không thanh lịch, đơn giản vì trót có định kiến họ thanh lịch và,

b. khen người Hà Nội thanh lịch mà không biết rằng họ chưa chắc đã là « người Hà Nội » theo cách hiểu đơn phương và chủ quan của chính mình.

Câu hỏi được đặt ra là cần xác định Hà Nội như thế nào, để sau đó xác định thế nào là người Hà Nội ? Để có thể trả lời, chúng ta cần biết hai yếu tố. Thứ nhất là không gian địa lý của Hà Nội. Trong suốt thời gian tồn tại của mình, đô thị Hà Nội không ngừng được xây dựng, được thay đổi. Quá trình đô thị hóa lan dần từ hoàng thành, trung tâm Hà Nội ra các không gian sản xuất và trao đổi xung quanh, biến chúng thành các khu dân cư. Từ đó hình thành bộ mặt của thành phố. Cho đến tận cuối thế kỷ XIX, Hà Nội vẫn rất ít được xây dựng và bao gồm vô số các làng cổ. Xác định được không gian sống của người Hà Nội là điều không hề đơn giản. Thứ hai là phải dùng đối tượng dân cư nào để xác định người Hà Nội ? Liệu chỉ có thể tính những người dân đã sống tại đây từ nhiều đời, hay có thể tính cả những cư dân từ nơi khác dời đến đây sống ?

Trước hết hãy nói về yếu tố địa lý. Một thói quen thường thấy khi nói về Hà Nội cổ xưa, là dẫn chiếu đến khu 36 phố phường, khu hoàng thành, và Hồ Gươm, nghĩa là không tính các khu sản xuất. Chúng ta biết rằng sau khi được khai sinh, Thăng Long vươn ra từ các khu phụ cận với hoàng thành. Giảng võ đường, là nơi huấn luyện võ nghệ cho binh sỹ, Quốc tử giám, là trường đại học đầu tiên của Việt nam. Bản đồ 1 (trang 69, Papin). Ngày hôm nay, Hà Nội cổ ở mức ấy chỉ còn là vết tích các công trình xây dựng cũ: một mảnh tường thành cửa Bắc, cổng Ô Quan Chưởng, và rùa đá ở Văn Miếu. Khu hoàng thành cũ bị sử dụng làm là doanh trại quân đội. Hồ Gươm và 36 phố phường vẫn còn đó, nhưng bị biến thành những khu buôn bán và du lịch. Nhà cửa chật hẹp, cổ lỗ, các điều kiện vệ sinh và điện nước không đảm bảo một không gian sống. Nếu dừng lại ở giới hạn công trình xây dựng, thì Hà Nội quả là quá nhỏ hẹp. Nó chỉ là sự tập hợp của một nhúm người sống trong những địa điểm có chiều dày kiến trúc lịch sử. Khó lòng có thể tưởng tượng được nếp sống của họ thanh lịch như hoa nhài, và nhất là liệu có thể chấp nhận họ là đại diện cho những người Hà Nội gốc ?

Một khuynh hướng thứ hai là dẫn chiếu đến Hà Nội bao gồm tất cả các khu kiến trúc nói trên, và thêm vào đó Hồ Tây và các làng cổ phụ cận phục vụ sản xuất hàng hóa sinh hoạt thiết yếu. Đây hẳn phải là một cách dẫn chiếu hợp lý nhất vì nó làm cho đô thị (agglomeration) hiện hữu một cách tự thân đầy đủ. Đây cũng là cách dẫn chiếu được các nhà quy hoạch hiện đại sử dụng nhiều nhất, theo đó một đô thị có thể bao gồm thành phố trung tâm và các không gian kinh tế và không gian sống phụ thuộc vào nó. Các không gian này cung cấp hàng hóa, dịch vụ và sức lao động cho khu vực trung tâm.

Nếu sử dụng cách dẫn chiếu này thì Hà Nội sẽ bao gồm tất cả các làng cổ và làng nghề thủ công. Bản đồ của người Pháp vẽ Hà Nội vào thế kỷ XVIII, cuối thế kỷ XIX cho thấy các làng này còn chiếm một phần rất lớn địa giới của Hà Nội. Ngoài khu 36 phố phường, Hà Nội sẽ bao gồm lên các làng hoa ở Ngọc Hà, Quảng Bá, làng đào ở Nhật Tân, các làng mai ngày nay không còn tồn tại nhưng dễ dàng được nhận ra nhờ tên gọi cũ : Bạch Mai, Hoàng Mai, Mai Động…, các làng trồng rau ở Láng, làm giấy ở Yên Thái, Cầu giấy, làm lụa ở Nghi Tàm, đúc đồng Ngũ Xã. Nếu đi xa hơn nữa, ra hẳn ngoài ranh giới chính thức của nội đô, ta có thể tìm thấy ở Bát Tràng, Thanh Trì, Định Công, Vạn Phúc, Ngọc Hồi, dấu tích các làng cổ khác. Sự hình thành các làng cổ này tương ứng với thời điểm mà Hà Nội trở thành một điểm giao thương lớn của cả nước, nguồn gốc của cái tên Kẻ Chợ.

Khó khăn lớn nhất ở đây là phải biết liệu các làng này có tồn tại như những quần thể tương đối độc lập ? hay bị hòa nhập với toàn bộ Hà Nội như là một bộ phận của đô thị ? Nghĩa là nếu tính các làng cổ này, thì phải chỉ ra được chúng là những làng nào? được coi là Hà Nội từ những thời điểm nào ? Thời gian đã xóa nhòa rất nhiều thứ. Ngày hôm nay Nghi Tàm không còn dệt lụa, Giảng Võ không còn dạy võ, Ngọc Hà không còn trồng hoa. Đấy là chưa kể các làng nghề khác ở xa hơn chỉ trở thành một phần Hà Nội rất lâu sau này. Bao nhiêu người liệu có thể nói được các làng cổ cổ đến mức nào ? Tự bao giờ chúng là một phần chính thức của Hà Nội? Đến khi nào chúng không còn giữ những chức năng ban đầu của mình – Nghi Tàm thôi dệt lụa, Giảng võ ngừng thao luyện và Ngọc Hà hết đất trồng hoa ? Vào những thời điểm đó, những người sống tại các làng này đến từ đâu ? và có được coi là người Hà Nội hay không ? Sự thiếu vắng cơ sở xác định những yếu tố trên đã góp phần biến khái niệm nếp sống Hà Nội trở thành một điều bí ẩn, và biến nét thanh lịch của người Hà Nội xưa thành một danh tiếng hầu như không được chứng thực mà chỉ được lan truyền.

Một điều có thể chắc chắn là nếu tính những làng cổ, thì số dân trồng hoa, trồng rau và làm thủ công phải lớn hơn nhiều lần số người thanh lịch biết uống trà thưởng hoa thanh nhã. Điều này thiết tưởng cũng không lấy gì làm lạ vì về bản chất, Việt Nam là một đất nước nông nghiệp. Trong quá khứ, Hà Nội có thể đã là một nơi đô thị sầm uất hơn hẳn nơi khác, nhưng tránh khỏi nếp sống nông nghiệp là điều không thể. Đành rằng các làng trồng hoa không hẳn đã là nông dân như người kéo cày trồng lúa, nhưng cũng không vì thế mà không có sự nhọc nhằn vất vả. Sự vất vả của nghề nông có lẽ chính là một nguyên nhân đã làm biến mất nghề trồng hoa ở nội đô. Nhìn từ góc độ xã hội và với sự tôn trọng rất lớn những nghề nghiệp này, người ta không thể không nghi ngờ hai chữ thanh lịch khi chúng đại diện cho người Hà Nội. Đấy là chưa kể sự phát triển của chợ sẽ kèm theo sự ra đời của những hệ lụy không hay như rác rưởi bừa bãi, và các tệ nạn như cò con, lừa đảo, và trộm cướp.

Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ có một đoạn rất thú vị viết về nạn lừa đảo và trộm cướp, xin được trích dẫn ở đây. « Phường Diên Hưng (Hàng Ngang) và phường Đồng Lạc (Hàng Đào) là nơi phố hàng áo, bán các thứ tơ lụa vóc nhiễu rất nhiều. Phiên chợ là những ngày: mồng một, mồng sáu, mười một, mười bốn, rằm, hai mươi mốt, hai mươi sáu, ba mươi. Phiên chợ phường Bạch Mã (Hàng Buồm) cũng là một chỗ buôn bán rất huyên náo. Những quân trộm cắp hay thừa cơ cướp giật, có khi thò tay vào túi người ta móc lấy hết cả. Có khi chúng cố ý làm cho ồn ào, đổ xô nhau mà chạy để rồi cắp bọc áo người ta, hoặc khuân đồ vật hàng hóa. Có khi chúng huyên truyền là voi lồng ngựa sổ để các người chợ búa và người đi đường xô nhau chạy, hàng hóa đồ vật vứt bừa bãi; lúc biết là chúng huyên truyền láo thì quân kẻ cắp đã phỗng hết cả rồi. Một hôm, ở phường Đông Các (Hàng Bạc) có một bà lớn đi võng mành mành cánh sáo, đầy tớ lính hầu rậm rịch, đến trước cửa một nhà hàng bạc, truyền thị tỳ dừng võng lại để hỏi mua mấy chục nén bạc. Mà cả giá chưa xong, bà lớn ngồi trên võng truyền vú già hãy cầm chục nén bạc đem về dinh, trình quan lớn xem qua, sẽ định giá. Chủ nhà hàng cũng không ngờ gì. Một lát, thị tì và lính hầu lẻn dần đi hết, hai tên lính khiêng võng cũng cút mất. Trời đã gần tối, chờ mãi chẳng thấy người vú già cầm bạc trở lại, nhà chủ mới đến trước võng hỏi bà lớn để đòi bạc. Mở mành mành xem thì té ra là một mụ lão ăn mày, mù cả hai mát, mặc áo nhiễu điều, ngồi chễm chệ trong võng, mơ màng không biết nói ra sao. Nhà chủ cho đi tìm hết mọi nơi, không còn thấy tăm hơi đâu cả, chỉ bắt được có cái võng cũ nát, giá không đáng mấy quan tiền. Ấy, những lối ăn cắp lừa dối như thế rất nhiều, không thể kể hết được. Cái tài giỏi của kẻ gian cũng lắm lối rất buồn cười, xem thế đủ hiểu cái thịnh suy của đời thăng bình vậy ».

Ngày hôm nay, việc xác định Hà Nội chỉ còn có thể dựa vào tiêu chí cuối cùng là mốc địa giới của Nhà nước. Vấn đề là tiêu chí này chỉ làm việc nhận chân nếp sống Hà Nội là càng không thể. Trước kia, Đống Đa hoàn toàn là nơi ngoại ô (nằm ngoài cửa ô), hôm nay là một quận đông dân nhất thành phố. Sóc sơn, Gia Lâm trước là ngoại tỉnh, nay đã là những huyện ngoại thành. Và Hà Nội sẽ còn phải mở rộng nhiều để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của quốc gia. Khi chính phủ vừa quyết định đưa địa giới Hà Nội về Hà Tây và Hòa Bình, liệu chúng ta đã sẵn sàng để coi người dân những vùng này là người Hà Nội? Nếp sống Hà Nội càng lúc càng trở thành một khái niệm không thuần nhất. Bạn đọc xin đừng cho rằng tôi phê phán điều đó. Tôi chỉ muốn nói rằng không hề có một nếp sống thuần Hà Nội để có thể gọi nó là thanh lịch. Xin đừng quên Hòa Bình và Hà Tây cũng có những nét văn hóa riêng, và dù tốt, dù xấu trong mắt nhiều người, những luồng văn hóa này chưa chắc đã cần phải gắn mác Hà Nội để có thể tồn tại.

« Thời gian đã xóa nhòa rất nhiều thứ. Ngày nay Nghi Tàm không còn dệt lụa, Giảng Võ không còn dạy võ, Ngọc Hà không còn trồng hoa. »

Bây giờ xin đề cập đến yếu tố dân số. Dân số Hà Nội vào ngày tiếp quản thủ đô là 53,000 người, vào năm 1990 là 2,6 triệu người, vào năm 2009 là hơn 6 triệu người. Số chênh lệnh di dân hơn 10 000% đó đã làm nên sự thịnh vượng của thủ đô. Họ từ đâu đến ? Từ một vùng quê nào đó của nước Việt. Họ có phải người Hà Nội không ? Làm sao có thể nói không khi cuộc sống của họ gắn liền với cuộc sống của thủ đô ? Những con số này buộc chúng ta phải nghi vấn khái niệm người Hà Nội ? phải là người Hà Nội gốc ư ? Hay chỉ cần sống một thời gian đủ dài tại Hà Nội. Tôi ngả về tiêu chí thứ hai bởi vì lịch sử của Hà Nội là lịch sử của sự hội tụ. Những người đã làm nên Hà Nội đâu phải đều là người Hà Nội. Lịch sử của mảnh đất này được viết nên bằng máu của tất cả những người đã gìn giữ nó, và gìn giữ đất nước. Đó là những anh hùng dân tộc như Lý Công Uẩn, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương. Hay những danh nhân như Phan Chu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh, Lương Văn Can. Trong số này, không có ai là người Hà Nội « gốc ».

Suy nghĩ rằng người Hà Nội thanh lịch phải là người xuất thân từ phố cổ và làng cổ, cứ như thể chỉ những nơi này mới là chuẩn mực cho một nếp sống Hà Nội, như vậy rõ ràng không có tính thuyết phục xã hội. Có người nói muốn biết có phải người Hà Nội gốc hay không, phải xem gốc gác 3 đời. Theo tiêu chí này nếu đời ông bà là người Hà Nội, bố mẹ là người Hà Nội, và bạn sinh ra lớn lên ở Hà Nội, thì mới được tính là người Hà Nội. Đây quả là một kiểu phân loại lố bịnh và đầy ý niệm giai cấp, được lịch sử phong kiến để lại. Ông bà ngoại tôi là người Hải Dương, ông bà nội tôi ở Nam Định, mẹ tôi sinh ở Hà Giang và bố tôi ở Thái Lan. Sinh ra tại Hà Nội, nếu tôi không phải người Hà Nội thì sẽ là người ở đâu bây giờ?

Ở Hà Nội còn có bao nhiêu người vô danh không thể « đếm mặt, đặt tên ». Đó là những người bán hoa, bán hàng rong, bán quà sáng, những em bé đánh giày, bán báo, những anh xe ôm, đạp xích lô. Họ không phải người Hà Nội ư ? Cũng có thể. Vấn đề là một khi cuộc đời họ đã gắn bó với Hà Nội, nếp sống của họ sẽ hòa vào dòng chảy văn hóa nơi đây. Vì sao chối bỏ nó, vì sao ruồng rẫy nó ? Nếu thiếu nó thì Hà Nội cũng đâu còn là Hà Nội. Có hề hấn gì không khi ta không phải người Hà Nội gốc, nhưng hàng ngày vẫn sống cùng với nhịp đập của thành phố ?

Hà Nội, thành phố ở trong sông, cái tên ấy thật đẹp. Nhưng ngày hôm nay, Hà Nội không còn là thành phố ở bên trong sông. Con sông Hồng bãi lở bãi bồi đã từ lâu rồi lọt vào tầm ngắm quy hoạch dự án xây dựng. Những vườn hoa đào đang mất dần, thay vào đấy là những dự án lấy đất làm chung cư và khu giải trí. Một nguy cơ to lớn là văn hóa Hà Nội đang có khuynh hướng trở thành một thứ tạp pí lù, bao trùm khắp to nhỏ. Nó sẽ phủ rộng từ nông nghiệp đến công nghiệp, từ doanh nghiệp đến tiểu thương, từ thất nghiệp đến văn phòng, từ ăn mày đến hàn lâm, nghệ sỹ. Nó đang bị biến trở thành một thứ văn hóa của siêu đô thị trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. Nó trộn vào cuộc sống hiện đại sự du nhập của văn hóa tiêu thụ phương Tây, văn hóa hào nhoáng lòe loẹt của Trung Quốc, văn hóa gia phong khép kín của lịch sử, văn hóa chợ búa lừa đảo. Trong cái đống hỗn độn ấy của tắc đường, của chen lấn và khói bụi ấy, làm sao giữ được mùi hương ngọc lan? làm sao gìn giữ được những nét thanh lịch hào hoa mà chúng ta đang cố định hình ?
***
Tôi có quen một người Pháp đã giúp đỡ rất nhiều sinh viên Việt Nam du học tại Paris. Vốn sẵn máu phiêu lưu lại làm về quan hệ quốc tế nên ông đã có dịp đặt chân lên rất nhiều nơi trên thế giới. Thuộc týp người chỉ cần một balô trên vai và một chiếc máy ảnh trên cổ để đi từ những cánh đồng tuyết Siberi tới những đỉnh cao của dãy Himalaya, ông chụp rất nhiều ảnh. Ông đã cho tôi xem những bức ảnh của phố cổ Hà Nội những năm 1990, ngay đầu thời kỳ đổi mới. Ông có hơn 1500 bức ảnh chụp Hồ Gươm cũng vào cùng giai đoạn. Tôi thích lắm vì nó gợi lại cả một ký ức tuổi thơ khi tôi mới lớn, những thứ mà tôi đã được nhìn, nhưng chẳng bao giờ còn được nhìn lại. Ông thản nhiên nói với tôi rằng, Hà Nội là thành phố đẹp nhất châu Á không thể bàn cãi. Câu nói đó vô tình làm sống lại trong tôi tình yêu và kỷ niệm của quê hương. Tôi nhớ cái lạnh đầu đông Hà Nội. Tôi nhớ mùi hương ngọc lan. Tôi nhớ những con phố phủ đầy lá rụng trên vết rêu phong. Tôi nhớ chiều 30 Tết, tôi và em được cô đơn chiêm ngưỡng những vườn hoa đào bạt ngàn không bóng người ở Nhật Tân, những luống violet, hoa hồng, hoa cúc, hoa layơn muôn sắc. Cả Hà Nội đã bỏ trốn, để lại mình chúng tôi trên cánh đồng.

Tôi muốn tin là Hà Nội thanh lịch. Tôi muốn Hà Nội trở nên thanh lịch như Paris, London hay những thành phố lớn khác mà tôi đã đi qua. Nhưng tôi chán ngán với những sự thanh lịch giả dối. Kết cục của sự giả dối là sự pha trộn tạp nham những điệu bộ kịch cỡm, những cái bắt tay hững hờ và những ngôn ngữ cử chỉ trần trụi, vô học. Và tôi không muốn nhìn thấy một Hà Nội là con rồng cất cánh vật vờ thiếu bản sắc giữa một thế giới của quy luật tư bản đơn điệu. Những kiến trúc hào nhoáng, những trung tâm shopping liên hoàn, và những ngọn tháp chọc trời không biến sa mạc Arập Xêút thành nơi hội tụ văn hóa. Những cây phong, cây bàng, cây cơm nguội, những mái nhà rêu phủ, những cô gái xinh đẹp như hoa lan, nụ cười trong như nước, với tôi đấy mới là Hà Nội. Ở nơi đây một cành hoa mai trắng mong manh trong vườn, một nụ cười thân thiện, những tiếng cám ơn giữa hai người không quen biết đã và đang biến mất dần. Làm thế nào để sống với Hà Nội mà không có những thứ đó ? Tôi chợt nghĩ đến một câu nói nổi tiếng mà không nhớ chính xác của ai: « Văn hóa là những gì học suốt đời vẫn không đủ. Văn hóa là những gì còn sót lại khi tất cả đã bị lãng quên ».

Đông A

http://vi.wikipedia.org/wiki/Hà_Nội
Vũ Trung tùy bút, Phạm Đình Hổ. Bản dịch của NXB văn học 1972
http://www.sachxua.net/forum/index.php?topic=74.0
– Lịch sử của Hà Nội, Philippe Papin – Trường Viễn đông Bác Cổ, NXB Fayard, 2001 (Nguyên văn : Histoire de Hanoi)
(*) lời dẫn do biên tập viên thêm vào.

Đông A
Theo: Diễn Đàn Net




Phùng Nhân : Con Chó Với Người Mù

              Phùng Nhân

Hôm nay như thường lệ, hằng tháng tôi phải đi đến bịnh viện Concord NSW để gặp vị bác sĩ đặc biệt của mình; mặc dầu căn bịnh của tôi nay đã hết, có lẽ chỉ còn tái khám trong vài tháng nữa rồi thôi. Sau đó tôi sẽ tái khám định kỳ, có thể 3 tháng một lần, hay 6 tháng, hay một năm thì tôi chưa được biết. Vì mỗi lần sau khi khám vị bác sĩ thường mỉm miệng nở nụ cười, khi tìm đọc trên bảng kết quả thử máu của tôi, rồi bắt tay chúc mừng cho tôi đang chịu thuốc…

Sau mỗi lần tái khám như vậy thì tôi đi ra ngồi trước cổng bịnh viện đón xe đi ra ga xe lửa Strathfield, đón chuyến xe lửa đi trở ngược trở về ga xe lửa Cabramatta, rồi đón xe Bus đi thêm một chặn nữa mới tới nhà, nên thường thì một lần tái khám là tôi phải đi gần hết một ngày trời chớ không có ít!

Nhưng hôm nay trên băng ngồi đợi, tôi lại thấy một người mù trạc chừng 30 tuổi, cùng với một con chó dẫn đường đang nằm gác mỏm đợi xe, mà trên gương mặt rất thản nhiên chớ không có điều chi lo lắng. Làm cho tôi chạnh lòng nhớ lại một câu chuyện cách nay cũng hơn 20 năm rồi chớ không có ít, đã xảy ra ở trên đất nước Việt Nam của tôi vào giữa năm 1976…

     Hồi đó sau khi miền nam thất thủ, tôi vẫn còn là một thanh niên khỏe mạnh yêu đời, cho nên tôi không hề nề hà bất cứ công tác nào nếu được cấp chĩ huy phân công chỉ định, nhờ vậy tôi mới có cơ hội lội đi chích ngừa bịnh dịch tả khắp cả một vùng khi đất nước miền Nam khi vừa im tiếng súng. Toán chích ngừa của tôi gồm có 3 người, bắt đầu từ xã Tân Hiệp quận Bến Tranh, chích ngừa dài vô tới tận xã Phú Mỹ, rồi từ kinh Nguyễn Văn Tiếp bọc ra đụng xã Bà Tồn, nhưng tổ chích ngừa chúng tôi phải tự túc đóng ở nhà dân, nhờ vậy mà chúng tôi mới có dịp tiếp xúc với những người dân, đã từng đội bom đội đạn trong suốt 21 năm trời chiến tranh giặc giả.

Nhưng ở ngay trong xã Bà Tồn nằm cạnh quốc lộ 4 Miền Tây làm cho tôi phải chứng kiến một cảnh quá đau lòng, đó là một ông lão mù và một con chó mực lông tuyền. Ngày nào cũng vậy khi mặt trời sắp lặn xuống khỏi chòm cây trước sân trường học, thì ông lão và con chó cũng dắt nhau về trường học đó để đóng đô. Thoạt đầu chắc mấy người du kích xã cũng không ai để ý, vì hằng ngày họ còn phải bận tâm để xét xe đò, xe Lam, xe Honda, xe đạp để chận bắt gạo và tôm khô, cùng với hằng trăm thứ mặt hàng khác mà chánh quyền mới họ đang ngăn cấm. Cho nên ông lão mù và con chó rất ung dung, hằng ngày vẫn sống với cái lon nhôm từ tâm của những người bố thì, khi thì vắt xôi, khi thì trái bắp, khi thì củ khoai cũng tạm nuôi sống qua ngày, nước da của ông lão mù cũng bắt đầu mỡn ra, vì ăn uống có phần tạm đủ. Còn con chó thì lông lá vẫn mượt mà, có lẽ đó là loại chó lông tuyền nên rất dễ bắt mắt cho những người ăn nhậu say sưa, nên trong đám du kích đã có người dòm ngó.

Rồi vào một buổi chiều như thường lệ sau khi hùn gạo lại để nấu cơm ăn xong, tôi và thằng Tài rủ nhau đi dạo mát. Khi chúng tôi đi ngang qua trường tiểu học Bà Tồn, thì thấy có hai người du kích đang sân si với ông lão mù một cách rất dã man; động tánh hiếu kỳ bất chấp hiểm nguy, tôi và thằng Tài rủ nhau ghé lại xem coi việc gì đang xảy ra cho biết.

Trước mắt tôi là ông lão đang quỳ ôm con chó, để van lạy hai thằng du kích xin được sự sống còn, vì nếu hai ông mà bắt con chó đem đi, thì tôi đâu còn ai để dẫn đường xin ăn độ nhựt. Nhưng hai thằng du kích vẫn với gương mặt lạnh như tiền, đã hườm sẵn khẩu súng trên tay, dường như tụi nó đang đối phó với kẻ thù thuộc loại ác ông thứ dữ. Hai bên cứ lời qua tiếng lại một hồi, ông lão mù thì nhứt định lấy sinh mạng của mình ra để che chở con chó trong lúc nguy nan, còn hai thằng du kích thì cứ đứng canh chừng đợi con chó hở ra thì nổ súng. Cuối cùng rồi một thằng du kích đã phán xuống một câu:

– Chúng tôi đã theo dõi ông lâu lắm rồi. Ông là nhân viên CIA của Mỹ, làm bộ giả đui để đi dọ thám, cho nên ở trên chỉ thị xuống phải bắt giết con chó của ông, để xem ông còn đui nữa hôn cho biết.

  Ông lão mù nói qua màn lệ:

– Tôi đui nay cũng đã mười mấy năm rồi trong một tai nạn xe hơi, chớ tôi đâu có biết CIA là cái gì mà mấy ông nói vậy. Nếu không nhờ có con chó Mi Nô nầy dẫn đường thì tôi đã chết đói từ lâu, vậy mấy ông thương mà tha cho làm phúc. Chớ tôi là một kẻ tật nguyền, không vợ không con, thì tôi biết làm nghề gì để mà nuôi sống!

Một thằng du kích gằn giọng nói:

– Ông muốn sống bằng nghề gì đó là chuyện của ông, nhưng chế độ nhà nước của chúng ta không cho phép ông đi ăn xin ngoài đường, chúng tôi báo cho ông biết trước có ngày thì ông sẽ bị hốt đi lên vùng kinh tế mới.

Sau khi nghe qua những lời đối đáp, làm cho máu nóng trong người tôi lại bốc lên, nên tôi vội vã bước tới che ngang rồi nói nhỏ:

– Xin hai ông thương dùm ông lão mù nầy, nếu bắt con chó mực nầy đi, thì ông lão đâu còn ai dẫn đường để đi xin ăn, vì ông ta đã mù lòa đâu có biết làm gì để mà sinh sống!

Nhưng thằng du kích đầu đội nón tai bèo, chân mang giép lốp vỏ xe nhìn tôi nói lớn:

– Ông mà biết cái gì mà cũng xen vô, lạng quạng chúng tôi nổi nóng còng ông luôn mới báo.

Nhưng tôi không sợ, tôi vẫn trả lời:

– Việc đó thì tùy ông, nhưng chánh sách của nhà nước hiện nay chưa có bắt mấy người mù đi về vùng kinh tế mới, cũng như chưa có lịnh cấm mấy người mù nầy không được xin ăn, vì đó là phương cách kiếm sống cuối cùng của những người tàn tật!

Hai thằng du kích lườm tôi một phát, rồi bọn chúng xốc khẩu súng lên vai, sau đó đi một hơi ra chợ, làm cho tôi cũng ngơ ngác hết vài vây, vì tôi cũng không ngờ trên thế gian lại có những con người độc ác như thế nầy, nên tôi ngồi xuống cạnh ông lão mù an ủi:

– Thôi ông cũng đừng buồn, ngày mai lo kiếm chỗ khác để xin ăn, chớ còn nấn ná ở đây tôi e bất tiện. Vì bọn chúng đã muốn bắt con chó của ông, cho nên nó mới kiếm chuyện chụp mũ lên đầu, vậy ông hãy đề phòng đừng tranh cãi với bọn chúng mà không có lợi.

Ông lão mù sau khi lấy tay chặm mắt rồi nói:

– Nhưng tôi lại biết đi đâu, trong khi bốn bề đều săn đuổi, còn tôi thì hai mắt bị mù, bây giờ tôi biết phải lam sao, chỉ có con chó để dẫn đường, vậy mà họ cũng nỡ toan bắt đem đi làm thịt!

Tôi an ủi tiếp:

– Hay là ông đi về bến xe Mỹ Tho, ở nơi đó khách thập phương lại nhiều, có thể mình dễ kiếm miếng ăn hơn. Chớ còn ở nơi đây là vùng quê hẻo lánh, rủi có bề gì chỉ khổ thân ông, vì thời buổi bây giờ đâu có ai dám bận tâm mà binh vực…

Ông lão mù sau vài giây trầm ngâm rồi nói nhỏ:

– Hồi trước giờ tôi vẫn sống ở đó chớ ở đâu, nhưng bây giờ ở ngay bến xe có ông trung úy Thông hiện làm trưởng đồn công an rất là độc ác. Chẳng những ông ta đã cấm mấy người mù ăn xin, mà ông ta còn lấy cây đờn guiltar của tôi đập bễ, rồi còn bắt nhốt tôi hết một đêm, làm cho tôi bị muổi cắn sần mình, bây giờ nhớ lại tôi đây còn kinh hãi. Cho nên bây giờ tôi chỉ còn có một con chó mực nầy, nếu ở đây người ta bắt nó đem đi làm thịt, thì tôi biết sống với ai. Nói xong rồi ông lão mù lại sa nước mắt lưng tròng, làm cho tôi cũng phải chạnh lòng thương hại muốn khóc theo, khi chợt nhìn thấy trong hai hóc mắt dường như đang sâu thăm thẳm muôn trùng, để chứa đựng cả một cuộc đời vất vã gian truân, mà ông lão mù phải cam tâm gánh chịu cho đến ngày nhắm mắt!

Tôi chép miệng thở dài rồi nói nhỏ:

– Vậy đêm nay ông phải cẩn thận, đừng để cho con chó nầy chạy ra ngoài, vì sợ họ đang rình rập quanh đây, rôi ông cũng không có cách gì để mà bảo vệ.

Ông lão mù nhìn tôi rồi hỏi lại:

– Vậy chớ chú là ai mà lại dám tỏ lòng tốt với tôi trong lúc nầy, chú không sợ họ thù ghét hay sao, chính nghĩa cử của chú làm cho tôi vô cùng cảm động.

Tôi bàng hoàng trong giây lát, rồi nói nhỏ:

– Chúng tôi cũng như ông đã sanh ra và lớn lên ở miền Nam nầy, nhưng bây giờ phải đành cúi mặt để nín thở qua sông, phải mang một túi thuốc đi xuống xã để chích ngừa dịch tả cho đồng bào, chớ tôi cũng không phải là một người cán bộ nằm vùng, nên tôi không có quyền hạn để bảo vệ cho ông như lòng tôi mong ước.

Sau đó tôi và thằng Tài đứng dậy ra về với tấm lòng bàng hoàng xúc động, nhưng chúng tôi cũng không biết phải làm sao; vì chúng tôi là những người công chức của chế độ cũ đang bị chế độ mới bắt đi đày, lẽ ra với những mảnh bằng mà tôi đang có, tôi không thể bị điều về xã để làm một công tác như một người cán bộ y tế nông thôn. Nhưng nếu tôi không chấp hành thì tôi phải hồi cư về quê làm ruộng, hoặc đi về vùng kinh tế mới trên xã Bà Bèo, mà ở đó hiện tại đất phèn chưa có thể trồng xuống một thứ cây gì sống nổi!

Sáng hôm sau toán chích ngừa chúng tôi bắt đầu đi chích vào trong xóm nhỏ, cặp hai bên bờ kinh Bà Tồn nhà cửa san sát khang trang, để chứng tỏ nơi đây là vùng đất rất là trù phú. Nhưng phần đông dân chúng ở nơi đây họ đang thờ đạo Hiếu Nghĩa rất hiền hòa, hằng đêm họ phải tự nguyện ngồi cúng một thời kinh, cho nên trên gương mặt của họ rất là bình thản, chớ không có dấu hiệu lo toan, khi cuộc sống xung quanh mỗi ngày đang vây khổn.

Rồi một ngày làm việc chích ngừa cũng qua mau, khi bóng mặt trời đã ngả lần về tây, thì toán chích ngừa của chúng tôi rút lần ra lộ đá. Tôi và thằng Tài thì được ông chủ tịch xã gởi cho ở tạm tại nhà ông Bảy có đầu tóc cũng đang thờ đạo Hiếu Nghĩa, còn cô Loan thì được gởi đến ngủ nhờ ở nhà của bà chủ tịch hội phụ nữ xã Bà Tồn, nhờ tấm thân con gái có chút nhan sắc mặn mà, nên cô Loan lúc nào cũng sung sướng no nê, khi đã lọt vào cặp mắt thèm thuồng của những đứa con trai đang làm du kích xã.

Tắm rửa vừa xong thì trong dạ tôi lại bồn chồn khó chịu, dường như tôi đã linh cảm có một chuyện gì đang xảy đến cho ông lão mù, nên tôi biểu thằng Tài thôi bữa nay mầy ở nhà lo nhúm lửa nấu cơm, còn tao phải lội ra ngoài trường học một chút. Thằng Tài biết ý nhìn tôi rồi căn dặn:

– Mầy đi ra ngoài đó nếu thấy chuyện gì trái tai gai mắt thì cũng phải ráng dằn xuống nghe hôn, chớ mầy mà can thiệp ẩu thì có ngày nó bắt mầy đi cải tạo mút mùa lệ thủy. Tới chừng đó chỉ còn có nước cầm cây cuốc kêu trời; vì thời buổi bây giờ thân ai nấy lo, lạng quạng thì chết chùm mới khổ!

Tôi không nói không rằn, nhét vội gói thuốc lá thương nghiệp vào trong túi áo ra đi, mà trong lòng lại vẫn vơ lo sợ. Từ nơi nhà ông Bảy, rồi tôi leo lên móng cầu Bà Tồn mới quẹo trái vào trường tiểu học. Nhưng khi tôi tới nơi thì ông lão mù đang ngồi khóc hu hu, còn con chó mực ở nơi đâu mà tôi không nhìn thấy, làm cho tôi cũng chạnh lòng, khi đoán được một phần của hoàn cảnh ông lão mù đã xảy ra.

 Đợi cho qua cơn xúc động, rồi tôi ngồi xuống bên ông hỏi nhỏ:

– Con chó mực đâu rồi, tại sao ông khóc?

Ông lão mù nức lên một tiếng lớn rồi nói:

– Tụi nó đã bắt con chó của tôi làm thịt rồi!

Tôi hỏi tiếp:

– Ai bắt?

Ông lão mù đáp:

– Mấy thằng du kích…

Tôi hỏi nữa:

– Chúng nó bắt hồi nào?

Ông lão mù ngó qua tôi rồi kể:

– Hồi sáng nầy khi tôi và con chó đang ăn xin trong chợ Bà Tồn, khi đó chắc cũng được vài củ khoai, thì bất ngờ có mấy tên du kích xuất hiện, tiếp theo sau đó là một loạt đạn nổ vang, con Mi Nô rên lên vài tiếng rổi dảy chết!

Kể xong ông lão mù lại khóc rống lên vô cùng thảm thiết, khiến cho tôi cũng phải chạnh lòng nhưng không biết phải làm sao, nên tôi xoa lên vai ông rồi nói:

– Tôi cũng đoán trước chuyện đó phải xảy ra, vì tụi nầy đang thèm thịt chó, nên ông cũng khó lòng bảo vệ trước những cơn đói khát thèm thuồng. Thôi ông hãy ráng dằn lòng lại, đợi mai mốt đi kiếm một con chó khác về nuôi. Chớ còn bây giờ ngồi đây khóc lóc, rồi đêm tối tụi nó nhậu say, tìm đến ông để giết luôn thì uổng mạng!

Ông lão mù lại nức lên rồi nói:

– Nhưng con Mi Nô nầy đã ở với tôi từ nhỏ cho tới bây giờ, mất nó là tôi mất thêm nửa phần thân thể. Không phải con chó nào cũng khôn và trung thành như con Mi Nô nầy đâu, tội nghiệp cho nó hồi sáng nầy dường như nó đã linh cảm một điều gì, cho nên nó muốn dắt tôi đi vào trong xóm nhỏ. Nhưng tôi nghĩ buổi sáng sớm mình tạt vào chợ xin ăn thì chắc dễ dàng hơn, đến trưa thì mình đi xin trong xóm cũng được chớ không có gì gấp gáp. Tôi cũng không ngờ đó là một lần đi vĩnh biệt với tôi, nên bây giờ nhớ lại tôi vô cùng ân hận!

Tôi ngồi nói chuyện với ông lão mù thêm một hồi nữa rồi đứng dậy ra về, tôi cũng không quên gởi lại cho ông một chút đỉnh tiền, và khuyên ông ta hãy tạm thời gắn gượng để sống qua lúc nầy, vì ông có khóc lóc than van, cũng không làm động lòng cho những con người cuồng tín.

Tôi đã thất thểu đi trở ra bờ lộ, nhưng trên khóe mắt tôi giòng lệ nóng đã dâng trào, khi nghĩ tới cái cảnh quạnh hiu của một ông lão mù, rồi đây còn ai để dắt đi ăn xin trong xóm nhỏ. Không biết cuộc sống của ông lão rồi sẽ ra sao, khi đất nước hiện giờ đang đói khổ, thì làm sao người ta xúc động được mối từ tâm, để bố thí cho những kẻ ăn mày, thì ông lão mù nầy làm sao sinh sống!

Khi về đến nhà tôi và thằng Tài vừa và được vài miếng cơm, thì cô Loan lại đến nhìn chúng tôi vui cười rồi nói:

– Hai anh bữa nay ăn cơm với gì đó?

Tôi cười mỉm trả lời:

– Khô cá lù đù với rau lang luộc của ông Bảy mới cho. Còn cô Loan ăn cơm với gì mà trông vui thế?

Cô Loan ngồi xuống kế bên tôi rồi nói:

– Bữa nay em được bà chủ tịch hội phụ nữ đãi cho một bữa thịt chó hon, ăn với cơm nếp nên ngon thôi hết biết…

Vừa lúc đó thì ông Bảy chủ nhà lại xen vô nói:

– Hèn chi. Hồi sáng nầy tôi đi lại đằng ủy ban để xin một giấy phép đi đường, thì đã thấy mấy ổng đang thui một con chó coi mòi mập quá.

Tôi nhìn ông Bảy, rồi nhìn qua cô Loan nói nhỏ:

– Đó là con chó của một ông lão mù, đã từng dắt ông ta đi ăn xin trong mấy năm qua, bây giờ hiện tại ông lão đang nằm vật mình khóc than nơi trường tiểu học.

Ông Bảy ngạc nhiên nhìn tôi hỏi lại:

– Bộ chú Năm đã biết trước việc đó rồi hả?

Tôi buồn bã trả lời:

– Cháu mới vừa ở đằng trường tiểu học để an ủi ông ta, vì cháu đã biết trước khi ngày hôm qua đã tình cờ đi ngang qua đó.

Ông Bảy bập thêm một hơi thuốc nữa rồi nói:

– Hèn chi hồi sánh nầy trong lúc đang thui, thì ông chủ tịch xã với ông bí thư chi bộ, cùng với mấy người cán bộ ban ngành, họ đang chia thịt vơi nhau, có người lại còn kỳ kèo với nhau một khúc lòng, để đem về làm món rựa mận…

Tôi cố và thêm vài chén cơm lạc nữa rồi thôi, chớ tôi không còn lòng dạ nào để lo ăn uống. Qua ngày hôm sau toán chích ngừa của chúng tôi được lịnh gọi về điều xuống chích ngừa dịch tả ở dưới Gò Công, rồi 4 năm sau tôi tìm đường vượt biển, không biết ông lão mù giờ đã ra sao, chắc là ông ta đã hóa ra người thiên cổ, còn ông Bảy đạo Hiếu Nghĩa bây giờ có còn mạnh giỏi hay không, hay là ông đã nhắm mắt xuôi tay về với ông bà, đã để lại cho đời bao sự tiếc thương với một tấm lòng nhân hậu.

Còn tôi thì phải trôi dạt đến sống ở đất nước Úc Đại Lợi nầy, tuy tuổi tác cũng chưa hẳn là già, nhưng vì làm việc quá vất vã bây giờ đã mang trong người quá nhiều bịnh tật. Ngày hôm nay tôi phải ngồi đây, để đón một chuyến xe Bus để đi ngược ra ngoài ga xe lửa Strathfield, rồi đón tiếp xe lửa đi về Cabramatta mới tới nơi cư ngụ, đã che chở cho tôi sống hết một quảng đời thừa, mà nhiều khi gần tết tôi nhìn cây mận, cây xoài, rồi nhớ về xã Lộc Thuận huyện Bình Đại tỉnh Bến Tre, nơi chôn nhao cắt rốn bâng khuâng không sao ngủ được!

Trong lúc tôi còn đang hoài niệm để nhớ về quê hương đất nước của mình, thì người mù và con chó cứ thản nhiên ngồi đợi, dường như ông ta không cần biết đến thời gian đang lặng lẽ trôi qua. Thỉnh thoảng ông ta lại hát lên một bài hát bằng tiếng Anh rất là quen thuộc, rồi ông ta lấy tay rờ xuống đầu con chó, dường như đó là một cử chỉ nựng nịu mỗi ngày, nên con chó cũng lim dim, rồi đôi mắt hiền từ mơ màng nhắm lại.

Cũng có vài bà mở giỏ xách lấy vài cái bánh lạt đem đến cho con chó nằm ăn, rồi họ lại rờ đầu để cho con chó ngoắt đuôi tỏ ra thân thiện. Còn người mù thì thỉnh thoảng nói tiếng cám ơn, khi anh ta đã biết được con chó đã gây được sự cảm tình tốt đẹp với mọi người, nên trên gương mặt lại nở một nụ cười rất là mãn nguyện.

Thấy vậy tôi muốn làm quen nên hỏi nhỏ:

– Con chó nầy thuộc giống chó gì mà trông nó đẹp quá vậy ông?

Ông ta cười mỉm trả lời:

– Giống Lambardore khôn lắm…

Tôi lấy tay rờ lên mình con chó rồi hỏi tiếp:

– Ông bạn đi xe số mấy?

 Người mù trả lời:

– Xe số 461. Còn ông?

Tôi vỗ vai ông ta nói:

– Cùng một số xe với anh. Tôi xuống tại ga xe lửa Strathfield, rồi từ đó tôi lên xe lửa đi tiếp về ga Cabramatta.

Hai chúng tôi ngồi làm thinh một hồi, rồi ông ta hỏi:

– Vậy chớ bạn đến đây từ nước nào?

Tôi chậm rãi trả lời

– Đến từ Việt Nam. Còn anh?

Người mù sau vài tiếng thở ra dường như để nhớ về dĩ vãng, rồi ông ta nói nhỏ:

– Tôi là người Úc, sanh lớn lên ở đây. Nhưng đã bị mù lòa, từ khi tôi vừa lên 9 tuổi.

Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

– Anh bị bịnh, hay là bị trong trường hợp nào?

Ông ta ngước lên rồi nói nhỏ:

– Trong một tai nạn xe hơi…

Hai chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau thêm một hồi, thì chiếc xe Bus đã chạy tới rồi stop ngay tấm bảng. Tôi còn đang dự định để nhìn xem, làm thế nào người mù sẽ biết được chiếc xe Bus đó mà ông ta đang đón, thì con chó lại kêu lên tiếng kêu hư hử, dường như đó là một tín hiệu rất quen thuộc cho nên người mù cũng chuẩn bị đứng lên, rồi ông ta nói:

– Chắc ông bạn cũng đi chuyến xe nầy chớ?

Tôi vỗ vai ông ta rồi nói nhỏ:

– Vâng…

 Khi hai chúng tôi bước lên chiếc xe Bus, tôi mới để ý thấy con chó dắt người mù rất khôn ngoan, luôn tỏ ra vẩy đuôi để tỏ dấu thân thiện với tất cả mọi người, rồi nó dắt người mù tìm đến một băng ghế còn trống, rồi nó nằm xuống dưới gầm xe một cách hiền từ. Thấy còn một chỗ ngồi, nên tôi bước theo rồi ngồi xuống; con chó ngước mỏ lên rồi liếm vào tay tôi, trong giây phút đó làm cho tôi thật xúc động bùi ngùi. Khi tôi nghĩ tới hoàn cảnh của một người mù, chỉ có sống với trực giác xung quanh, chớ không thể nào nhìn thấy cuộc sống ở bên ngoài, vậy mà họ cũng vẫn thản nhiên vui sống.

Ngồi trên chiếc xe Bus chạy được một hồi, tôi hỏi:

– Con chó nầy được bao nhiêu tuổi rồi ông?

Ông bạn mù vui vẻ trả lời:

– Chắc trên 5 tuổi…

Tôi rờ đầu con chó rồi hỏi tiếp:

– Ông mua nó ở đâu, mà nó khôn quá trời quá đất dữ vậy?

Người mù dường như đang thỏa mản với một vật sở hữu của mình, nên ông ta mỉm cười rồi nói:

– Trong hội người mù họ cấp cho mình đó chớ. Chớ giống chó nầy nó mắc lắm ông ơi, muốn nuôi nó để trở thành một người bạn dẫn đường, thì phải bỏ vô trong trường huấn luyện rất là nhiều khóa…

Tôi hỏi tiếp:

– Còn chế độ nuôi dưỡng thì sao?

Anh ta nhỏ nhẹ trả lời:

– Cũng ở trong hội họ lo cho mình, từ việc chích ngừa cho tới dắt đi khám hằng năm, nên những con chó loại nầy đã có hồ sơ về bịnh án. Nếu nó bị cảm cúm hay đau yếu bất thường, mình gọi phone tới nhà thương thú y thì sẽ có người ta đi đến nhà chăm sóc.

 Chiếc xe Bus vẫn chạy trên một lộ trình nhứt định, con chó cũng yên phận mình nằm ở dưới sàn xe, thỉnh thoảng hàng lông bờm của nó cũng rung lên theo nhịp lắc. Còn đôi mắt thì cũng muốn lim dim, khi cơn gió từ bên ngoài cửa xe đang hiu hiu thổi tới, nên trông gương mặt của nó thật hiền từ, chớ không có dữ dằn như những con chó ở phi trường đang hửi hơi để tìm những gói xì ke, mà mỗi lần tôi có dịp đi ra phi trường cũng đều nhìn thấy.

Rồi chiếc xe Bus cũng chạy về tới nới bến đậu, tôi vội vàng bắt tay từ giả ông ta. Rồi tôi bước xuống đường hầm, để đi qua đường lane số 5 đón xe về lại ga Cabramatta, còn ông ta thì đi ngược trở lại đường lane số 3, để đi về một vùng ngoại ô nào khác.

Bỗng dưng trong lòng của tôi lại dưng lên một niềm xúc động bồi hồi, khi tôi bắt gặp hai hóc mắt sâu hoắm đang ẩn dấu sau cặp kiếng râm, mà ông ta phải chịu đựng đến suốt đời, cũng có thể ông ta đang tìm niềm vui riêng bên con chó!

Trên đường trở về nhà tôi cầu mong cho ông ta được bình an, mỗi khi đi đâu hay bước qua đường con chó phải biết khôn ngoan chờ đèn xanh rồi mới dắt. Đừng có một kẻ nào lại nỡ nhẫn tâm, khi nhìn thấy con chó đẹp rồi nổi lòng tham rình bắt trộm. Mặc dầu ở trên cái xứ nầy người da trắng không ai ăn thịt chó, nhưng thỉnh thoảng cũng thấy đăng báo tìm chó lạc đó sao, đó là trong những phút tủi lòng, tôi thật sự cầu mong cho ông ta tìm được nguồn vui trong cuộc sống tối tăm.

Trong phút giây bàng hoàng đó làm cho tôi nhớ lại cách nay chừng một tháng. Tôi đã có xem một cuốn phim với tựa đề : Sàigòn – Hà Nội Dân Chơi Thứ Thiệt. Từ vỉa hè cho đến mấy chỗ cao lâu, ở đâu cũng thấy người ta lo ăn nhậu, mà phải nhậu thịt rừng, toàn là những con vật sắp bị diệt chủng tới nơi, mặc dầu hội bảo vệ thú vật thế giới đã nhiều lần lên tiếng can thiệp. Nhưng có lẽ cũng không hiệu quả được bao nhiêu, vì hiện nay những kẻ làm ăn phi pháp có chức có quyền, thì họ cứ cho rằng hễ càng ăn thịt những con vật hiếm quý hiện giờ, thì sẽ giúp cho họ tăng cường thêm sinh lực trong việc gối chăn, cho nên họ cứ việc vung tiền qua cửa sổ…

Rồi cuốn phim đó chiếu qua cảnh đảo khỉ ở Nha Trang, thì ở nơi đây tôi được chứng kiến một cảnh rất hãi hùng, đó là một tốp cán bộ cao cấp của nhà nước đang ăn óc khỉ. Con khỉ được trói thúc ké hai tay chỏng ngược về lại phía sau, rồi họ bỏ vào trong một cái hộp bằng cây vừa khích, để cho con khỉ lòi cái sọ khỉ ra ngoài. Sau đó người bồi bàn họ đem lại bàn một dĩa muối tiêu chanh, rồi họ khoa lưỡi dao bén lên vớt ngang qua sọ khỉ. Những người khách man rợ đó, họ thong thả lấy cái muỗng đưa vào, rồi họ múc từng muỗng óc khỉ đưa lên miệng để ăn; rồi họ uống từng hớp rượu trắng mà trên gương mặt của họ trông rất là thú vị. Nhìn cảnh đó tôi thấy buồn lòng, dân tộc tôi bây giờ dã man đến độ vậy sao? Hay là mấy ông lớn đang ỷ có chức có quyền, rồi họ đòi hỏi phải có những món ăn như thời vua chúa!

Thế mà ngày hôm nay bỗng dưng mấy thước phim đó, lại làm sống trong ký ức tôi một cách mãnh liệt rất tình cờ, làm cho tôi chạnh nhớ lại cảnh một người Úc mù cùng với một con chó dắt đi đường, sao lúc nào tôi cũng thấy mọi người dành cho một cảm tình rất là nồng ấm, chớ chưa bao giờ có một người nào đó ao ước có được củ riềng, cùng với một cặp dừa khô, để đủ bộ tam xên đưa linh con chó đi đầu thai làm kiếp khác!

Ngồi suốt trên chuyến xe lửa mà đầu óc tôi cứ suy nghĩ vẫn vơ, tôi cầu mong cho dân tộc tôi hãy bỏ đi cái tật ăn thịt chó. Vì đó là một con vật có nghĩa rất trung thành, nó đã biết mừng rở vẩy đuôi, khi thấy người chủ nhà mỗi khi đi đâu về khuya khoắt. Cũng như với người mù hồi nãy, nếu không nhờ con chó dẫn đường thì ông ta không biết phải làm sao, trong khi đó trước mặt của cuộc đời chỉ là bóng tối. Chỉ có con chó mới thật sự trung thành, bất kể thời tiết nắng mưa, hễ người mù muốn đi đâu thì nó mừng rở vẩy đuôi rồi dắt người mù đi đến nơi về đến chốn. Một con vật khôn ngoan như vậy mà nỡ ăn thịt sao đành, đó là một điều nhức nhối mà tôi vừa mới chợt nhận ra, nhưng tôi cũng chỉ biết nén tiếng thở dài, khi nghe mấy người bạn nhậu tranh nhau kể về mấy món ngon thịt chó./-

                                                                                                                                Phùng Nhân




Phùng Nhân : HẦM CÁ VỒ VỚI MARY

HẦM CÁ VỒ VỚI MARY
Phùng Nhân

Anh Mai Cồ Tửng (Michael) lần đầu tiên về lại Việt Nam, anh nghe lạc lõng bơ vơ như một người ngọai quốc. Bởi vì ngày anh rời khỏi đất nước Việt Nam ở lứa tuổi 15, cho nên anh chưa ý thức được chế độ chánh trị và đời sống hiện giờ, mà anh đi vượt biển theo kiểu ăn có với người Hoa Kiều, khi gia đình anh đóng vàng cho người chủ ghe, rồi họ dắt anh đi như một người Ba Tàu chánh hiệu.

Sau những năm học trung học ở xứ Úc Châu nầy, anh bắt đầu ăn quen với những cái bánh Mc Donald, hay KFC mà họ quảng cáo đầy đường, nên cái tuổi như anh ăn vài lần thì bén mùi bén vị.

Rồi anh nghỉ học, đi làm như bao nhiêu người khác hiện đang tạm cư ở đây. Bởi tiếng Anh một khi học nó hết vô rồi, cho dù có nhồi nhét bao nhiêu cũng đều quên hết. Nhưng rồi sức vóc mỗi ngày một lớn, việc đòi vợ cũng là một việc hết sức tự nhiên của con người. Nhưng ai đã từng sống ở nước Uùc vào những năm 1975 cho tới năm 1985, thì mới thấy việc lấy được một cô vợ Việt Nam đâu phải dễ. Có khi chỉ có một đứa con gái, mà có tới cả chục thằng giành. Mấy ông già nào ở vào thời đó, nếu may mắn có được một đứa con gái, thì  sẽ được mấy đứa thanh niên vác bia tới nhà mời “bác” nhậu vậy thôi mệt nghỉ…

Trong khoảng thời gian đó, mấy đứa thanh niên người Việt tỵ nạn tới tuổi muốn vợ cũng không biết lấy ai, thôi thì lấy đại một con vợ Úc hay thổ dân cho rồi. Chớ còn muốn lấy con gái Việt Nam, thì biết ở đâu mà kiếm!

Cũng chính vì niềm đau thầm kín đó, mà cậu Mai Cồ Tửng phải đành lấy vợ Úc, cho nên gặp cảnh ngôn ngữ bất đồng. Nhưng được có cái con nhỏ nầy nó cũng chẳng so đo, nhờ vậy mà cuộc sống của gia đình cũng ấm êm hạnh phúc.

Cái ngày mà hai đứa quyết định sống chung vô cùng quan trọng, con Mary nó bắt buộc Mai Cồ Tửng phải tiến hành thủ tục như Tây. Là hai đứa phải dắt nhau ra ngòai Park, rồi nó ngồi dựa ngữa trên một cái ghế đá công viên, còn anh ta thì qùy gối đầu cúi xuống đất để xin được cưới em và đeo nhẩn. Thủ tục như vậy mà cũng rầy rà, bởi thằng con trai mà qùy gối cầu hôn, thì sau nầy thế nào cũng mang trong người chứng bịnh sợ vợ suốt đời là cái chắc.

Thế rồi trong năm nay má anh gởi thơ qua thúc giục biểu về, để cho bà được gặp mặt con dâu, thì bà mới yên lòng mà nhắm mắt mà lià xa dương thế. Cho nên anh phải quyết định dắt Mary về Việt Nam thăm lại mẹ già. Cũng chính vì thế mà anh đi mua vé máy bay không một chút đắn đo. Trong khi đó thì khối cộng đồng người Việt hải ngoại hiện giờ lên án rất gắt gao, cho rằng những người đi du lịch về Việt Nam là đã phản bội lại quốc gia dân tộc. Chớ họ có biết đâu rằng, đã là con người sinh ra, thì làm sao quên được quê hương nguồn cội của mình, thì việc trở về thăm lại mẹ già, đó cũng là một điều nói lên tấm lòng hiếu thảo của một người con.

Trước khi đi thì Mai Cồ Tửng có mời bạn bè lại nhà để làm một tiệc tẫy trần. Có người khuyên anh nên để dành tiền gởi về cho bà gìa xài, hoặc cất nhà hay mua xe cộ thì lợi hơn, chớ còn đi về bển trở qua rồi hối hận. Bởi vì ngoài tiền vé máy bay ra, sẽ còn vô số tiền phí tổn khác nữa…

Trong một bữa tiệc vui đang hồi bốc khói, bởi hơi Beer đang phả kín một vùng, thì thằng Tấn Bộng đang làm chung một hãng với Mai Cồ Tửng cất tiếng hỏi:

– Vậy chớ mầy có đánh điện về Việt Nam, biểu bà gìa làm sẵn cai Toilet cho vợ mầy chưa? Chớ còn tụi đầm mũi lỏ mắt xanh nầy, thì nó làm sao đi cầu trên hầm cá vồ cho được. Lạng quạng thì nó bị cá vồ táp rụng lông háng như chơi, cả vùng Cái Bè của mầy tao biết hết, tìm đâu ra được một cái Toilet trong nhà. Chi bằng mầy đánh điện về bên đó, biểu lo làm trước để sẵn đó đi, chớ đợi tới mầy đem con vợ đầm về tới xứ rồi, thì việc ỉa đái cũng rất là phiền phức.

Mai Cồ Tửng cười ruồi, rồi đáp nhỏ:

– Bữa nay cận quá, có làm cũng không kịp. Về tới bển có kẹt quá, thì tao cho bả đi bô, hay là tao biểu bà chị của tao, làm ơn dắt con Mary tập đi cầu cá vồ dùm tao chắc được.

Cả bàn tiệc cưới lên như đàn ong vở tổ. Thằng Tấn Bọng nói tiếp:

– Tối nay mầy phải sinh hoạt trước với bả, là bên xứ của mầy hiện nay bà con mình còn đi cầu trêân hầm cá vồ, chớ khôâng phải như ở bên nây, đi cầu tiêu máy xong rồi bấm nút xả nước là xong. Còn đi cầu cá vồ khi ngồi xuống, rặn xong thì phải coi chừng, mấy con cá thấy cái đít của vợ mầy trắng quá, tụi cá giành coi rồi quẩy nước văng lên, biểu nó phải liệu hồn mà xách cái quần đứng lên cho kịp lúc…

Mai Cồ Tửng bưng ly Beer lên hớp, rồi để xuống nói:

– Tao đã dạy cho bả nhiều thứ lắm, nhứt là tiếng Việt. Nhưng bình thường khi nói chuyện với tao, có lúc bả nói nghe cũng được. Tao chỉ sợ khi đụng chuyện, bả xổ toàn là tiếng ăng lê khôâng quá…

Vợ Mai Cồ Tửng là Mary nghe lén được, bèn nói:

– Cám ơn mấy ông anh đã có lòng tốt lo cho em. Nhưng anh Tửng đã lo cho em nhiều thứ lắm, thương chồng em phải lụy cùng chồng. Mắm nêm mà em còn ăn được, thì hà tất gì đến việc đi cầu cá vồ. Khôâng chừng tới chừng đó, em còn thích thú nữa là khác.

Cả bọn cười ồ lên, rồi đồng thanh bắt buột mỗi thằng phải uống cạn một lon, để ăn mừng văn hoá chồng chuá vợ tôi của mình còn được phát triển trêân nước Úc. Càng về khuya, tiếng mở nắp Beer nghe lắt cắt nhiều hơn là tiếng nói. Những lon Beer khôâng xếp lớp trong thùng, đã tạo ra một bầu khôâng khí vô cùng thân thiết, cho những người đã lìa bỏ xứ sở quê hương. Ông thì say mèm ngồi gục tới gục lui, ông thì âm thầm lấy chìa khóa ra mở cửa xe vọt lẹ.

Đợi cho mọi người ra về hết. Mai Cồ Tửng lo dọn dẹp lại bàn ăn. Bởi người Việt Nam mà lấy vợ Úc, thì kể như mọi việc trong nhà đều do thằng chồng làm hết. Còn con vợ đầm, thì nó chỉ có việc nằm đó phơi nây chờ Sex, chớ đời nào mà nó chịu dọn dẹp như người đàn bà Việt Nam bổn xứ của mình, mỗi khi trong nhà có mở ra đám tiệc. Căn nhà về khuya cũng lặng lẽ âm thầm, khi sương khuya bắt đầu nặng hột. Mai Cồ Tửng nằm xuống thì ngủ một giấc mê mang, còn Mary thì đang lo lắng trong lòng. Bởi cô ta đã nghĩ, chỉ còn có một tuần lễ nữa thì sẽ về tới Việt Nam, một đất nước mà chiến tranh đã xảy ra trên hai mươi năm mới vừa chấm dứt. Liệu rồi đây, mấy người chánh quyền ở đó, họ sẽ nhìn những người như cô ta bằng cặp mắt như thế nào. Nhưng rồi cô ta cũng phải đi thôi, bởi đó cũng là tiếng gọi thiêng liêng, của đạo vợ chồng mà cô ta đã vừa nếm trải.

***

Sau những ngày chờ đợi, thì hai vợ chồng Mai Cồ Tửng cũng ngồi trêân chuyến bay Qantas đi từ phi trường Sydney về thẳng tới Việt Nam. Khi chiếc máy bay vừa quay mũi hướng ra biển thì cũng được nửa đường, nên mấy người chiêu đãi họ lo cho bữa ăn trưa, khiến cho mấy trăm hành khách trêân chuyến bay bắt đầu thức giấc. Mary và Mai Cồ Tửng tự nãy giờ đã bàn tính với nhau rất nhiều chuyện gia đình, chẳng hạn như con dâu khi gặp bà gìa chồng thì phải làm sao, chớ không phải như ở cái xứ Úc Châu nầy, chỉ cần nói Hello thì kể như xong cái màn thưa thốt. Nhưng Mary trong dạ vẫn lo âu, bởi những hình ảnh người phụ nữ Á Đông ăn trầu, và cái đầu bới tóc làm cho cô ta hơi ngờ ngợ.

Rồi chiếc máy bay cũng đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhứt Sài Gòn một cách bình an, sau đó thì mọi người hành khách lật đật bước xuống cầu thang, leo lên chiếc xe Bus đang đậu sẵn để chạy vào ga trình giấy tờ xong rồi đứng sắp hàng chờ nhận hành lý.

Đây là lần đầu tiên Mary mới chứng kiến cái cảnh nầy, mọi người ai nầy cũng sắp hàng rồi móc cuốn sổ Passport cầm tay, nhưng phần đông họ đều có nhét một tấm giấy $10 hay nhiều hơn vào cuốn sổ Passport tùy theo hoàn cảnh mỗi người đang đứng sắp hàng chờ đợi. Trong số nầy lại có Mai Cồ Tửng cũng phải bắt buộc làm theo, bởi số phận người Việt Kiều vượt biển năm xưa, bây giờ chánh phủ Việt Nam họ đang dụ khị nâng lên là khúc ruột xa ngàn dặm trở về, nhưng đâu có người nào không sợ công an, khi nhìn thấy gương mặt của họ hầm hầm tỏ ra không thiện cảm.

Mary đứng nép sau lưng chồng một hồi, rồi cái hàng dài cũng lần lượt tới phiên. Người công an hải quan kiểm soát phi trường, sau khi lật cuốn sổ Passport ra thấy tấm giấy $20 thì ông ta lật đật đùa xuống nằm yên trong hộc bàn. Sau đó ông ta lại ngước lên mỉm cười, rồi hướng dẫn Mai Cồ Tửng điền thêm những ô còn trống. Có lẽ ông ta cũng hơi ngạc nhiên, khi thấy cái ông Việt Kiều nầy nhỏ con, vậy mà lấy được con đầm cao lớn chưn dài nầy cũng lạ…

Khi hai vợ chồng anh vừa bước ra khỏi phi trường, thì cơn nắng miền nhiệt đới dội xuống như một chão lửa than, làm cho Mary thấm mệt. Bởi không quen với khí hậu như vầy, nên Mai Cồ Tửng vẩy chiếc Taxi, rồi biểu tài xế chất valy lên cốp xe, sau đó biểu chạy về khách sạn Hữu Nghị tại bến Bạch Đằng.

Qua ngày hôm sau thì Mai Cồ Tửng đi ra sở bưu điện đánh điện tín về huyện Cái Bè để báo tin cho bà già ngày mai anh về đến. Suốt đêm hôm đó, làm cho anh thao thức trong giấc ngủ chập chờn, khi anh nhớ lại từng con đường làng dẫn vào vườn cây rợp bóng. Ở nơi đó, ngày xưa đã có những con trâu nghé chạy giỡn tung tăng dưới cây rơm còn thơm mùi rạ mới. Bây giờ biết có còn không, bởi đã trải qua bao nhiêu năm vật đổi sao dời. Trong phút giây bùi ngùi, làm cho anh nhớ nôn nao. Vì anh đã bó xứ ra đi kể ra cũng hơn 10 năm trời rồi chớ đâu có ít…

Sáng bữa sau thức dậy, Mai Cồ Tửng nghe nơi vùng thái dương hơi nằng nặng. Anh dắt Mary xuống Canteen uống Café và ăn điểm tâm. Mùi Café Buôn Ma Thuột tỏa ra thơm ngát một vùng, hình như trong hương vị còn nồng mùi đất đỏ cao nguyên, còn thơm muì mồ hôi dầu dải của người dân sơn cước. Mary sau khi hớp vài ngụm Café, rồi hỏi:

– Café nầy họ nhập cảng ở đâu về mà ngon quá vậy anh?

Mai Cồ Tửng đáp với vẻ tự hào:

– Café nầy là thổ sản của quê hương anh. Đâu Mary thử so sánh, coi có bằng của tụi Brasil không?

Mary hớp thêm một ngụm nữa, để nó thấm qua đầu lưỡi một hồi rồi nói:

– Café ở đây ngon hơn Café Brasil nhiều. Vị nó thơm mà dịu chớ không chát. Như vậy thì tại sao họ không xuất cảng ra bên ngoài thế giới hả anh?

Đây là một câu hỏi bất ngờ, nên Mai Cồ Tửng ậm ừ một hồi rồi nói:

– Hôm trước đọc báo. Anh nghe nói có hãng Café Trung Nguyên trụ sở ngoài Buôn Ma Thuột, cũng đang xin thủ tục xuất cảng nhưng không biết đến bao giờ mới xong.

Rồi anh ta nhìn xuống đồng hồ đeo tay, đoạn ngước lên giục:

– Nhanh lên đi Mary. Trễ lắm rồi, trả phòng xong thì mình nhờ bồi phòng kêu dùm một chiếc Taxi. Chớ từ đây về tới huyện Cái Bè, mình đi xe đò thì không tiện…

Trên đường đi từ Sài Gòn ra tới Phú Lâm, Mary thấy cái gì cũng lạ. Dân chúng họ cỡi xe Honda chạy trên đường như mắc cửi, chiếc nầy muốn đụng chiếc kia, vậy mà trên gương mặt của họ vẫn thản nhiên chớ không có gì là sợ hãi.

Chiếc máy chụp hình hiệu Canon được Mary đưa lên bấm liên tục, nhưng khi chiếc xe vừa chạy tới huyện Thủ Thừa thuộc tỉnh Long An, thì cô ta lại reo lên trong niềm vui thích thú, khi thấy một người nông dân đầu đội nón lá tơi, đang đánh cặp trâu cổ đi vòng quanh trên đụn lúa. Mary day qua Mai Cồ Tửng hỏi:

– Vậy chớ họ đang làm gì, mà đánh cặp trâu đi vòng tròn vậy anh?

Mai Cồ Tửng mỉm cười, rồi đáp:

– Người nông dân họ đang đánh trâu đạp lúa…

Mary nói với vẻ ngậm ngùi:

– Thời buổi nầy sao chánh phủ Việt Nam, không cải tiến nông nghiệp cho nó được tiến bộ hơn. Chớ còn bắt ông già, dang nắng như vầy mà năng xuất có được bao nhiêu!

Xe chạy thêm một đoạn đường nữa, bỗng nhiên có một hình ảnh hiện ra trước mắt làm cho Mary rất đổi xốn xang. Đó là một cảnh của hai vợ chồng nông dân, họ đang ngồi ăn cơm trong chòi vịt đã căng lên bằng tấm Nylon nơi mé lộ. Trong chòi vịt đó, đã có nhốt khoảng vài trăm con. Bộ lông ức vừa mọc ra lúng phúng, chung quanh được bao lại với những tấm liếp bện bằng phên tre vuốt mỏng, để giữ cho đàn vịt khỏi bị sút chuồng. Ông chồng ngồi ăn cơm trông mệt mỏi, có lẽ họ đang lo tới bầy vịt nầy khi nuôi lớn chừng một tháng nữa bán có lời hay không. Còn bà vợ thì ngồi thản nhiên, vạch vú ra cho con bú. Thằng nhỏ trong khẳng khiu, da nám đen nhíu lại nhưng chắc cũng hơi lớn tháng. Mary quay qua hỏi nữa:

– Họ sao trông khổ quá vậy anh? Đứa bé sao không gởi trong nhà trẻ, mà phải bồng theo dang nắng như vầy, và nó nút như vậy thì còn gì vú móm của người mẹ?

Mai Cồ Tửng buồn bã nói:

– Chắc gia đình đơn chiếc. Tháng nầy ai nấy cũng ra đồng, nếu đem gởi con, hay mướn người ta giữ thì tiền đâu mà trả. Bởi cái xứ nầy còn nghèo lắm em ơi!

Mary chặc lưỡi, than:

– Tội quá hả anh. Bên nước Úc Châu của mình, một con hưu con, một ngày tiêu chuẩn của nó là 16 lít sữa tươi, đó là chưa nói tới mấy thứ phí tổn khác…

Chiếc xe vẫn chồm lên lướt qua những ổ gà, quốc lộ 4 nầy là huyết mạch nối liền từ vùng Hậu Giang lên tới Sài Gòn. Tuy chính quyền hiện nay, có nới rộng ra, có tu sửa thêm nhiều chỗ. Nhưng hiện thân của nó, cũng là con đường quốc lộ ngày xưa. Nghe nói chánh quyền, đang có dự án để nâng cấp nó lên thành xa lộ…

Trong lòng Mary đang hổn độn, vừa thương cho đất nước Việt Nam sau hơn 10 năm thống nhứt chấm dứt chiến tranh, vậy mà đời sống của dân chúng cũng vẫn còn nghèo nàn lạc hậu. Mai Cồ Tửng vẫn nhắm mắt, dựa đầu vào nệm ghế. Thỉnh thoảng anh ta cũng hé mắt ra nhìn lại đất nước sau mười năm xa cách. Tình trạng vẫn y nguyên, có khi còn tồi tệ hơn nữa là khác.

Mary để yên cho chồng nằm nhắm mắt. Chị ta bắt đầu nhìn đất nước Việt Nam qua lăng kính của bà đầm. Khi chiếc Taxi chạy tới xã Tân Hội, ranh giới Mỹ Tho – Long An thì dưới ruộng nước có một bầy trâu và vài con nghé, xa xa còn có vài cánh cò bói cá thật nên thơ. Trên lưng trâu đưá bé trạc 12 tuổi ngồi vắt vẻo với chiếc roi tre, đầu đội cái nón đệm rộng vành bẻ cúp xuống bít phần gương mặt. Thích quá, Mary đưa máy hình lên bấm. Hy vọng đây là một tấm hình đồng quê sống động, mà cô ta đã từng mơ ước, xem đó là một tác phẩm nghệ thuật của mình. Bởi ở bên nước Úc chỉ có xa lộ và đồi núi mênh mông, chớ làm sao nhìn thấy một đứa trẻ đang ngồi trên lưng trâu trông nhàn nhã.

Khi chiếc xe Taxi vừa chạy tới thị trấn Trung Lương, Mai Cồ bừng tỉnh mắt. Anh ta biểu tài xế Taxi tốp lại, rồi anh hỏi Mary có muốn đi tiêu, tiểu gì không. Bởi đã ngồi trên xe Taxi tới mấy giờ đồng hồ rồi, chắc bây giờ cũng đang tới cử.

Nhưng Mary lại lắc đầu, chiếc xe Taxi tiếp tục chạy trên quốc lộ. Hai bên vườn cây, ruộng lúa lùi dần lại phía sau như một cơn sóng chạy dài. Khi chiếc xe chạy ngang qua huyện lỵ Cai Lậy, làm cho Mai Cồ Tửng nhớ lại ngày xưa. Trong lúc anh ta còn đang học bậc tiểu học ở đây, thì bỗng dưng có một trái hoả tiển 22ly không biết từ đâu bay tới, rồi nổ một tiếng long trời, làm cho học trò, cô thầy giáo lớp chết lớp bị thương không biết bao nhiêu mà kể!

Chiếc xe Taxi vẫn chạy với tốc độ đều đều, khi qua khỏi cầu Bà Tồn thì ngọn gió chướng thổi lồng lộng thốc vào mạn xe, bật ra những tiếng kêu u u như tiếng dều giấy thả bay trong mùa chướng.

Người tà xế Taxi hảm chiếc xe cho chạy chầm chậm, rồi quẹo theo hướng chỉ mũi tên vô huyện Cái Bè. Chạy thêm một đổi nữa, thì Mai Cồ Tửng day qua nói với người tài xế:

– Căn nhà ngói trước mặt là căn nhà tôi, vậy anh coi cho xe đậu chỗ nào cho tiện, để tôi xách mấy cái valy, vì cái cửa ngỏ hẹp chắc xe vô không lọt…

Tiếng con Vện già cất tiếng sủa khô khan, khi nó ngó thấy có mấy người lạ mặt toan bước qua cửa ngỏ. Trong khi đó; thì có mấy người ngồi trong nhà, đã nhìn thấy chiếc Taxi nên chạy vội ra mừng vui ríu rít. Có người còn la lớn. Trời ơi thằng Sáu Tửng nó đã về tới nơi rồi nè. Vậy mà trong nhà mắc lo nói chuyện không hay, nhờ có con Vện nó sủa vang lên mới biết…

Mai Cồ Tửng dúi vào tay người tài xế $20 đô tiền bo. Hiểu ý, anh ta noí tiếng cám ơn, rồi lễ phép chào hỏi mọi người, sau đó bước trở ra xe, để còn tiếp tục một cuộc hành trình của một người tài xế Taxi, tối ngày cứ quần trên đường để mà bắt khách.

Ở đây, ngay lúc nầy. Chỉ có Sáu Tửng, chớ không có mai Cồ Tửng, nên anh ta vòng tay ôm chầm lấy bà già trong tiếng khóc nghẹn ngào. Mới ngày nào má anh còn mạnh khỏe tần tảo nuôi con, vậy mà ngày hôm nay già yếu. Chân bước đi thật là yếu ớt, phải có một cây gậy để nương vào, lại thêm đôi mắt đã phủ một lớp mây mù, mọi cảnh vật bây giờ đối với bà mờ mờ nhân ảnh.

Sáu Tửng ngước mắt nhìn lên bàn thờ cha, một bình nhang khói toả, làm cho quang cảnh quá đổi lạnh lùng. Họ hàng mỗi lúc thêm đông, họ hỏi thăm anh về đời sống của người Việt tha hương bên nước Úc. Nó sung sướng ra sao, mà phong trào vượt biển đang dâng cao rầm rộ. Có người còn nói, tao nghe thiên hạ họ bàn tán, là nếu cột đèn đi được thì nó cũng đi. Còn mầy làm ăn gì có khá hôn, mà dám cả gan bợ con vợ đầm rồi dẫn về đây, không sợ bà già bả giận, rồi mầy đứng cửa giữa làm sao đây hả!

Trong số họ hàng ngồi nghe anh nói, người ta ngạc nhiên từ điểm nầy đến điểm khác. Xe hơi gì mà lền như bánh canh, vợ một chiếc, chồng một chiếc của ai thì nấy chạy. Nhưng họ khoái nghe nhứt là vấn đề cư trú tự do và “an sinh xã hội”, muốn ở đâu cũng được, chớ không có cái cảnh phải trình với ông trưởng khóm, hay ông xã trưởng gì đâu, vậy mà người nào phạm tội thì đừng mong gì trốn tránh…

Người dân ở đây đã bị chế độ cộng sản kềm kẹp họ từ tháng 4 năm 1975 đến nay, thấm thoát cũng đã hơn 10 năm rồi, nên họ đâu có biết rằng trong thế giới nầy đã có những nước có quyền tự do như nước Úc. Cho nên họ hỏi những câu nghe qua thật là tội nghiệp. Còn vợ anh là Mary cũng bắt đầu làm quen với gia đình bên nhà chồng, nên cô ta cũng nói những câu tiếng Việt nghe lơ lớ. Cô ta nhìn thấy cái bếp tro cũng rất lạ kỳ, chỉ cần kê mấy cục gạch chụm đầu vào nhau cũng thành cái bếp. Vậy mà họ cũng nấu ăn, nấu uống cho tới hết đời nầy qua tới đời kia, chớ đâu có thấy họ than phiền điều gì lộ ra ngoài trên khuôn mặt.

Qua ngày hôm sau, sau bữa cơm trưa thì Mary mắc đi cầu, nên cô ta đi tới đứng kế bên cô giáo Phụng hỏi:

– Bây giờ em muốn đi cầu, thì phải làm sao?

Cô giáo Phụng là chị thứ Tư của sáu Tửng, sau khi mỉm cười rồi đi vô buồng cầm ra một cuộn giấy Toilet Tissue rồi nắm tay Mary dẫn đi vòng ra sau vườn cách nhà chừng 20 thước. Nơi đó có một cái ao cá vồ cũng tới lứa ngoài kí lô 1 con, nhưng vì biết thằng Sáu Tửng sắp dẫn vợ nó về, nên bà già nuôi thúc để dành nấu canh chua chớ không có bán.

Về phần cô giáo Phụng nhìn thấy cái quần Jean cuả Mary đang mặc mà phát sợ, nó chật gần căng cái mông đít. Như vậy thì khi ngồi xuống đi cầu, bầy cá tra quẩy nước, thì làm sao nhóng cái đít lên cho kịp để tránh nước văng lên. Trong lúc đang chần chờ như vậy, tụi con nít ngó thấy con đầm tóc vàng sắp sửa đi cầu cá vồ thì bu lại cũng đông, nhưng tụi nó cũng đứng cách xa canh me chớ không dám tới gần, làm cho cô giáo Phụng thật là khó xử.

Thôi thì đàng nào cũng lở, phải dạy con Mary biết cách đi cầu lúc nầy. Chớ còn không, thì làm sao giải quyết. Bởi trong lòng đã quyết như vậy, nên mới đưa cuộn giấy Tissue cho Mary, rồi nắm tay dắt lên cầu chớ không thì bị té.

Bởi thông thường cây cầu cá vồ gia đình nào cũng vậy, họ làm rất là sơ sài. Chỉ có bắt một cây đòn đi lên không tay vịn, còn bốn phiá thì họ chỉ che có mấy miếng lá chầm, để khi ngồi xuống nó che khuất cái mông đít mà thôi, cho nên mỗi khi đi cầu cá vồ người ta đều ngồi thủ thế. Khi thấy bầy cá giành ăn, thì họ nhóng cái đít lên một chút. Sau đó họ tiếp tục bình thường, cứ nhóng xuống nhóng lên, chừng nào sạch ruột thì thôi, chớ cũng không thì thế nào cũng bị văng nước ướt mông đít.

Đàn cá vồ bắt đầu lượn dữ, sóng gợn từng hồi. Có con lại chạy nổi lưng, vì cái giống cá vồ từ lúc nhỏ cho tới bây giờ, nó thấy hơi người ta thì trừng đầu lên kiếm chác. Có con còn hả họng ra tác hoác để chực chờ, nếu không lanh lẹ thì làm sao no bụng.

Cô giáo Phụng ra dấu cho Mary kéo dây con rít trật ra ngồi xuống, trên bờ vườn phía bên kia, cái đám con nít bắt đầu chỉ trỏ. Bởi đây là lần đầu tiên tụi nó mới thấy một con đầm tóc vàng mà đi iả trên ao cá vồ, nên tụi nó mới hú hí bu lại coi chơi. Trong khi đó thì con Mary vẫn thản nhiên với bầy cá vồ, nhưng nào ngờ bầy cá vồ lại giành ăn với nhau phơi kỳ nổi lên như cá nằm trong rổ xúc. Có con lại hả họng ngước lên nhìn, dường thể nó muốn phóng lên để táp miếng mồi trước khi rơi xuống nước. Sợ quá Mary vội vả đứng lên mà quên kéo cái quần, cứ đứng như vậy mà xổ tiếng ăng lê tới mấy phút đồng hồ, để mặc cho mấy đứa con nít nhìn qua rồi cười ngất…

Vô tới nhà Mary oà lên khóc, khiến cho không khí trong nhà cũng bớt vui. Sáu Tửng ngồi kế bên an ủi, anh ta hứa chắc là nội ngày mai, anh ta sẽ rước thợ hồ đi lại nhà xây một cây cầu vệ sinh giựt nước đàng hoàng, chớ không thể để cho em đi cầu cá vồ nữa đâu, thôi em đừng sợ…

Cùng lúc đó, trong xóm nhỏ miền quê ở huyện Cái Bè, có một tốp con nít chạy đi khoe khắp xóm. Là tụi nó quả quyết, đã nhìn thấy con chim của con đầm nó không giống con chim ở đây, lông lá của nó vàng khè mà còn oăn như râu bắp nữa.

Khiến cho nhiều ông già nhậu vô cửng cửng, rồi đưa tay vuốt râu ngạnh trê nói phỏng. Tao biết trước hết rồi mà, như đám mạ cháy chớ có khác gì đâu. Bởi vậy tao đâu có thèm coi, ngồi nhà nhưng tao đây đều biết hết./-

Phùng Nhân




Nguyễn Thị Thanh Dương : Giấc Mộng Dài

Khiến cho nhiều ông già nhậu vô cửng cửng, rồi đưa tay vuốt râu ngạnh trê nói phỏng. Tao biết trước hết rồi mà, như đám mạ cháy chớ có khác gì đâu. Bởi vậy tao đâu có thèm coi, ngồi nhà nhưng tao đây đều biết hết./-

HẦM CÁ VỒ VỚI MARY
Phùng Nhân

 

Anh Mai Cồ Tửng (Michael) lần đầu tiên về lại Việt Nam, anh nghe lạc lõng bơ vơ như một người ngọai quốc. Bởi vì ngày anh rời khỏi đất nước Việt Nam ở lứa tuổi 15, cho nên anh chưa ý thức được chế độ chánh trị và đời sống hiện giờ, mà anh đi vượt biển theo kiểu ăn có với người Hoa Kiều, khi gia đình anh đóng vàng cho người chủ ghe, rồi họ dắt anh đi như một người Ba Tàu chánh hiệu.

Sau những năm học trung học ở xứ Úc Châu nầy, anh bắt đầu ăn quen với những cái bánh Mc Donald, hay KFC mà họ quảng cáo đầy đường, nên cái tuổi như anh ăn vài lần thì bén mùi bén vị.

Rồi anh nghỉ học, đi làm như bao nhiêu người khác hiện đang tạm cư ở đây. Bởi tiếng Anh một khi học nó hết vô rồi, cho dù có nhồi nhét bao nhiêu cũng đều quên hết. Nhưng rồi sức vóc mỗi ngày một lớn, việc đòi vợ cũng là một việc hết sức tự nhiên của con người. Nhưng ai đã từng sống ở nước Uùc vào những năm 1975 cho tới năm 1985, thì mới thấy việc lấy được một cô vợ Việt Nam đâu phải dễ. Có khi chỉ có một đứa con gái, mà có tới cả chục thằng giành. Mấy ông già nào ở vào thời đó, nếu may mắn có được một đứa con gái, thì sẽ được mấy đứa thanh niên vác bia tới nhà mời “bác” nhậu vậy thôi mệt nghỉ…

Trong khoảng thời gian đó, mấy đứa thanh niên người Việt tỵ nạn tới tuổi muốn vợ cũng không biết lấy ai, thôi thì lấy đại một con vợ Úc hay thổ dân cho rồi. Chớ còn muốn lấy con gái Việt Nam, thì biết ở đâu mà kiếm!

Cũng chính vì niềm đau thầm kín đó, mà cậu Mai Cồ Tửng phải đành lấy vợ Úc, cho nên gặp cảnh ngôn ngữ bất đồng. Nhưng được có cái con nhỏ nầy nó cũng chẳng so đo, nhờ vậy mà cuộc sống của gia đình cũng ấm êm hạnh phúc.

Cái ngày mà hai đứa quyết định sống chung vô cùng quan trọng, con Mary nó bắt buộc Mai Cồ Tửng phải tiến hành thủ tục như Tây. Là hai đứa phải dắt nhau ra ngòai Park, rồi nó ngồi dựa ngữa trên một cái ghế đá công viên, còn anh ta thì qùy gối đầu cúi xuống đất để xin được cưới em và đeo nhẩn. Thủ tục như vậy mà cũng rầy rà, bởi thằng con trai mà qùy gối cầu hôn, thì sau nầy thế nào cũng mang trong người chứng bịnh sợ vợ suốt đời là cái chắc.

Thế rồi trong năm nay má anh gởi thơ qua thúc giục biểu về, để cho bà được gặp mặt con dâu, thì bà mới yên lòng mà nhắm mắt mà lià xa dương thế. Cho nên anh phải quyết định dắt Mary về Việt Nam thăm lại mẹ già. Cũng chính vì thế mà anh đi mua vé máy bay không một chút đắn đo. Trong khi đó thì khối cộng đồng người Việt hải ngoại hiện giờ lên án rất gắt gao, cho rằng những người đi du lịch về Việt Nam là đã phản bội lại quốc gia dân tộc. Chớ họ có biết đâu rằng, đã là con người sinh ra, thì làm sao quên được quê hương nguồn cội của mình, thì việc trở về thăm lại mẹ già, đó cũng là một điều nói lên tấm lòng hiếu thảo của một người con.

Trước khi đi thì Mai Cồ Tửng có mời bạn bè lại nhà để làm một tiệc tẫy trần. Có người khuyên anh nên để dành tiền gởi về cho bà gìa xài, hoặc cất nhà hay mua xe cộ thì lợi hơn, chớ còn đi về bển trở qua rồi hối hận. Bởi vì ngoài tiền vé máy bay ra, sẽ còn vô số tiền phí tổn khác nữa…

Trong một bữa tiệc vui đang hồi bốc khói, bởi hơi Beer đang phả kín một vùng, thì thằng Tấn Bộng đang làm chung một hãng với Mai Cồ Tửng cất tiếng hỏi:

– Vậy chớ mầy có đánh điện về Việt Nam, biểu bà gìa làm sẵn cai Toilet cho vợ mầy chưa? Chớ còn tụi đầm mũi lỏ mắt xanh nầy, thì nó làm sao đi cầu trên hầm cá vồ cho được. Lạng quạng thì nó bị cá vồ táp rụng lông háng như chơi, cả vùng Cái Bè của mầy tao biết hết, tìm đâu ra được một cái Toilet trong nhà. Chi bằng mầy đánh điện về bên đó, biểu lo làm trước để sẵn đó đi, chớ đợi tới mầy đem con vợ đầm về tới xứ rồi, thì việc ỉa đái cũng rất là phiền phức.

Mai Cồ Tửng cười ruồi, rồi đáp nhỏ:

– Bữa nay cận quá, có làm cũng không kịp. Về tới bển có kẹt quá, thì tao cho bả đi bô, hay là tao biểu bà chị của tao, làm ơn dắt con Mary tập đi cầu cá vồ dùm tao chắc được.

Cả bàn tiệc cưới lên như đàn ong vở tổ. Thằng Tấn Bọng nói tiếp:

– Tối nay mầy phải sinh hoạt trước với bả, là bên xứ của mầy hiện nay bà con mình còn đi cầu trêân hầm cá vồ, chớ khôâng phải như ở bên nây, đi cầu tiêu máy xong rồi bấm nút xả nước là xong. Còn đi cầu cá vồ khi ngồi xuống, rặn xong thì phải coi chừng, mấy con cá thấy cái đít của vợ mầy trắng quá, tụi cá giành coi rồi quẩy nước văng lên, biểu nó phải liệu hồn mà xách cái quần đứng lên cho kịp lúc…

Mai Cồ Tửng bưng ly Beer lên hớp, rồi để xuống nói:

– Tao đã dạy cho bả nhiều thứ lắm, nhứt là tiếng Việt. Nhưng bình thường khi nói chuyện với tao, có lúc bả nói nghe cũng được. Tao chỉ sợ khi đụng chuyện, bả xổ toàn là tiếng ăng lê khôâng quá…

Vợ Mai Cồ Tửng là Mary nghe lén được, bèn nói:

– Cám ơn mấy ông anh đã có lòng tốt lo cho em. Nhưng anh Tửng đã lo cho em nhiều thứ lắm, thương chồng em phải lụy cùng chồng. Mắm nêm mà em còn ăn được, thì hà tất gì đến việc đi cầu cá vồ. Khôâng chừng tới chừng đó, em còn thích thú nữa là khác.

Cả bọn cười ồ lên, rồi đồng thanh bắt buột mỗi thằng phải uống cạn một lon, để ăn mừng văn hoá chồng chuá vợ tôi của mình còn được phát triển trêân nước Úc. Càng về khuya, tiếng mở nắp Beer nghe lắt cắt nhiều hơn là tiếng nói. Những lon Beer khôâng xếp lớp trong thùng, đã tạo ra một bầu khôâng khí vô cùng thân thiết, cho những người đã lìa bỏ xứ sở quê hương. Ông thì say mèm ngồi gục tới gục lui, ông thì âm thầm lấy chìa khóa ra mở cửa xe vọt lẹ.

Đợi cho mọi người ra về hết. Mai Cồ Tửng lo dọn dẹp lại bàn ăn. Bởi người Việt Nam mà lấy vợ Úc, thì kể như mọi việc trong nhà đều do thằng chồng làm hết. Còn con vợ đầm, thì nó chỉ có việc nằm đó phơi nây chờ Sex, chớ đời nào mà nó chịu dọn dẹp như người đàn bà Việt Nam bổn xứ của mình, mỗi khi trong nhà có mở ra đám tiệc. Căn nhà về khuya cũng lặng lẽ âm thầm, khi sương khuya bắt đầu nặng hột. Mai Cồ Tửng nằm xuống thì ngủ một giấc mê mang, còn Mary thì đang lo lắng trong lòng. Bởi cô ta đã nghĩ, chỉ còn có một tuần lễ nữa thì sẽ về tới Việt Nam, một đất nước mà chiến tranh đã xảy ra trên hai mươi năm mới vừa chấm dứt. Liệu rồi đây, mấy người chánh quyền ở đó, họ sẽ nhìn những người như cô ta bằng cặp mắt như thế nào. Nhưng rồi cô ta cũng phải đi thôi, bởi đó cũng là tiếng gọi thiêng liêng, của đạo vợ chồng mà cô ta đã vừa nếm trải.

 

***

 

Sau những ngày chờ đợi, thì hai vợ chồng Mai Cồ Tửng cũng ngồi trêân chuyến bay Qantas đi từ phi trường Sydney về thẳng tới Việt Nam. Khi chiếc máy bay vừa quay mũi hướng ra biển thì cũng được nửa đường, nên mấy người chiêu đãi họ lo cho bữa ăn trưa, khiến cho mấy trăm hành khách trêân chuyến bay bắt đầu thức giấc. Mary và Mai Cồ Tửng tự nãy giờ đã bàn tính với nhau rất nhiều chuyện gia đình, chẳng hạn như con dâu khi gặp bà gìa chồng thì phải làm sao, chớ không phải như ở cái xứ Úc Châu nầy, chỉ cần nói Hello thì kể như xong cái màn thưa thốt. Nhưng Mary trong dạ vẫn lo âu, bởi những hình ảnh người phụ nữ Á Đông ăn trầu, và cái đầu bới tóc làm cho cô ta hơi ngờ ngợ.

Rồi chiếc máy bay cũng đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhứt Sài Gòn một cách bình an, sau đó thì mọi người hành khách lật đật bước xuống cầu thang, leo lên chiếc xe Bus đang đậu sẵn để chạy vào ga trình giấy tờ xong rồi đứng sắp hàng chờ nhận hành lý.

Đây là lần đầu tiên Mary mới chứng kiến cái cảnh nầy, mọi người ai nầy cũng sắp hàng rồi móc cuốn sổ Passport cầm tay, nhưng phần đông họ đều có nhét một tấm giấy $10 hay nhiều hơn vào cuốn sổ Passport tùy theo hoàn cảnh mỗi người đang đứng sắp hàng chờ đợi. Trong số nầy lại có Mai Cồ Tửng cũng phải bắt buộc làm theo, bởi số phận người Việt Kiều vượt biển năm xưa, bây giờ chánh phủ Việt Nam họ đang dụ khị nâng lên là khúc ruột xa ngàn dặm trở về, nhưng đâu có người nào không sợ công an, khi nhìn thấy gương mặt của họ hầm hầm tỏ ra không thiện cảm.

Mary đứng nép sau lưng chồng một hồi, rồi cái hàng dài cũng lần lượt tới phiên. Người công an hải quan kiểm soát phi trường, sau khi lật cuốn sổ Passport ra thấy tấm giấy $20 thì ông ta lật đật đùa xuống nằm yên trong hộc bàn. Sau đó ông ta lại ngước lên mỉm cười, rồi hướng dẫn Mai Cồ Tửng điền thêm những ô còn trống. Có lẽ ông ta cũng hơi ngạc nhiên, khi thấy cái ông Việt Kiều nầy nhỏ con, vậy mà lấy được con đầm cao lớn chưn dài nầy cũng lạ…

Khi hai vợ chồng anh vừa bước ra khỏi phi trường, thì cơn nắng miền nhiệt đới dội xuống như một chão lửa than, làm cho Mary thấm mệt. Bởi không quen với khí hậu như vầy, nên Mai Cồ Tửng vẩy chiếc Taxi, rồi biểu tài xế chất valy lên cốp xe, sau đó biểu chạy về khách sạn Hữu Nghị tại bến Bạch Đằng.

Qua ngày hôm sau thì Mai Cồ Tửng đi ra sở bưu điện đánh điện tín về huyện Cái Bè để báo tin cho bà già ngày mai anh về đến. Suốt đêm hôm đó, làm cho anh thao thức trong giấc ngủ chập chờn, khi anh nhớ lại từng con đường làng dẫn vào vườn cây rợp bóng. Ở nơi đó, ngày xưa đã có những con trâu nghé chạy giỡn tung tăng dưới cây rơm còn thơm mùi rạ mới. Bây giờ biết có còn không, bởi đã trải qua bao nhiêu năm vật đổi sao dời. Trong phút giây bùi ngùi, làm cho anh nhớ nôn nao. Vì anh đã bó xứ ra đi kể ra cũng hơn 10 năm trời rồi chớ đâu có ít…

Sáng bữa sau thức dậy, Mai Cồ Tửng nghe nơi vùng thái dương hơi nằng nặng. Anh dắt Mary xuống Canteen uống Café và ăn điểm tâm. Mùi Café Buôn Ma Thuột tỏa ra thơm ngát một vùng, hình như trong hương vị còn nồng mùi đất đỏ cao nguyên, còn thơm muì mồ hôi dầu dải của người dân sơn cước. Mary sau khi hớp vài ngụm Café, rồi hỏi:

– Café nầy họ nhập cảng ở đâu về mà ngon quá vậy anh?

Mai Cồ Tửng đáp với vẻ tự hào:

– Café nầy là thổ sản của quê hương anh. Đâu Mary thử so sánh, coi có bằng của tụi Brasil không?

Mary hớp thêm một ngụm nữa, để nó thấm qua đầu lưỡi một hồi rồi nói:

– Café ở đây ngon hơn Café Brasil nhiều. Vị nó thơm mà dịu chớ không chát. Như vậy thì tại sao họ không xuất cảng ra bên ngoài thế giới hả anh?

Đây là một câu hỏi bất ngờ, nên Mai Cồ Tửng ậm ừ một hồi rồi nói:

– Hôm trước đọc báo. Anh nghe nói có hãng Café Trung Nguyên trụ sở ngoài Buôn Ma Thuột, cũng đang xin thủ tục xuất cảng nhưng không biết đến bao giờ mới xong.

Rồi anh ta nhìn xuống đồng hồ đeo tay, đoạn ngước lên giục:

– Nhanh lên đi Mary. Trễ lắm rồi, trả phòng xong thì mình nhờ bồi phòng kêu dùm một chiếc Taxi. Chớ từ đây về tới huyện Cái Bè, mình đi xe đò thì không tiện…

Trên đường đi từ Sài Gòn ra tới Phú Lâm, Mary thấy cái gì cũng lạ. Dân chúng họ cỡi xe Honda chạy trên đường như mắc cửi, chiếc nầy muốn đụng chiếc kia, vậy mà trên gương mặt của họ vẫn thản nhiên chớ không có gì là sợ hãi.

Chiếc máy chụp hình hiệu Canon được Mary đưa lên bấm liên tục, nhưng khi chiếc xe vừa chạy tới huyện Thủ Thừa thuộc tỉnh Long An, thì cô ta lại reo lên trong niềm vui thích thú, khi thấy một người nông dân đầu đội nón lá tơi, đang đánh cặp trâu cổ đi vòng quanh trên đụn lúa. Mary day qua Mai Cồ Tửng hỏi:

– Vậy chớ họ đang làm gì, mà đánh cặp trâu đi vòng tròn vậy anh?

Mai Cồ Tửng mỉm cười, rồi đáp:

– Người nông dân họ đang đánh trâu đạp lúa…

Mary nói với vẻ ngậm ngùi:

– Thời buổi nầy sao chánh phủ Việt Nam, không cải tiến nông nghiệp cho nó được tiến bộ hơn. Chớ còn bắt ông già, dang nắng như vầy mà năng xuất có được bao nhiêu!

Xe chạy thêm một đoạn đường nữa, bỗng nhiên có một hình ảnh hiện ra trước mắt làm cho Mary rất đổi xốn xang. Đó là một cảnh của hai vợ chồng nông dân, họ đang ngồi ăn cơm trong chòi vịt đã căng lên bằng tấm Nylon nơi mé lộ. Trong chòi vịt đó, đã có nhốt khoảng vài trăm con. Bộ lông ức vừa mọc ra lúng phúng, chung quanh được bao lại với những tấm liếp bện bằng phên tre vuốt mỏng, để giữ cho đàn vịt khỏi bị sút chuồng. Ông chồng ngồi ăn cơm trông mệt mỏi, có lẽ họ đang lo tới bầy vịt nầy khi nuôi lớn chừng một tháng nữa bán có lời hay không. Còn bà vợ thì ngồi thản nhiên, vạch vú ra cho con bú. Thằng nhỏ trong khẳng khiu, da nám đen nhíu lại nhưng chắc cũng hơi lớn tháng. Mary quay qua hỏi nữa:

– Họ sao trông khổ quá vậy anh? Đứa bé sao không gởi trong nhà trẻ, mà phải bồng theo dang nắng như vầy, và nó nút như vậy thì còn gì vú móm của người mẹ?

Mai Cồ Tửng buồn bã nói:

– Chắc gia đình đơn chiếc. Tháng nầy ai nấy cũng ra đồng, nếu đem gởi con, hay mướn người ta giữ thì tiền đâu mà trả. Bởi cái xứ nầy còn nghèo lắm em ơi!

Mary chặc lưỡi, than:

– Tội quá hả anh. Bên nước Úc Châu của mình, một con hưu con, một ngày tiêu chuẩn của nó là 16 lít sữa tươi, đó là chưa nói tới mấy thứ phí tổn khác…

Chiếc xe vẫn chồm lên lướt qua những ổ gà, quốc lộ 4 nầy là huyết mạch nối liền từ vùng Hậu Giang lên tới Sài Gòn. Tuy chính quyền hiện nay, có nới rộng ra, có tu sửa thêm nhiều chỗ. Nhưng hiện thân của nó, cũng là con đường quốc lộ ngày xưa. Nghe nói chánh quyền, đang có dự án để nâng cấp nó lên thành xa lộ…

Trong lòng Mary đang hổn độn, vừa thương cho đất nước Việt Nam sau hơn 10 năm thống nhứt chấm dứt chiến tranh, vậy mà đời sống của dân chúng cũng vẫn còn nghèo nàn lạc hậu. Mai Cồ Tửng vẫn nhắm mắt, dựa đầu vào nệm ghế. Thỉnh thoảng anh ta cũng hé mắt ra nhìn lại đất nước sau mười năm xa cách. Tình trạng vẫn y nguyên, có khi còn tồi tệ hơn nữa là khác.

Mary để yên cho chồng nằm nhắm mắt. Chị ta bắt đầu nhìn đất nước Việt Nam qua lăng kính của bà đầm. Khi chiếc Taxi chạy tới xã Tân Hội, ranh giới Mỹ Tho – Long An thì dưới ruộng nước có một bầy trâu và vài con nghé, xa xa còn có vài cánh cò bói cá thật nên thơ. Trên lưng trâu đưá bé trạc 12 tuổi ngồi vắt vẻo với chiếc roi tre, đầu đội cái nón đệm rộng vành bẻ cúp xuống bít phần gương mặt. Thích quá, Mary đưa máy hình lên bấm. Hy vọng đây là một tấm hình đồng quê sống động, mà cô ta đã từng mơ ước, xem đó là một tác phẩm nghệ thuật của mình. Bởi ở bên nước Úc chỉ có xa lộ và đồi núi mênh mông, chớ làm sao nhìn thấy một đứa trẻ đang ngồi trên lưng trâu trông nhàn nhã.

Khi chiếc xe Taxi vừa chạy tới thị trấn Trung Lương, Mai Cồ bừng tỉnh mắt. Anh ta biểu tài xế Taxi tốp lại, rồi anh hỏi Mary có muốn đi tiêu, tiểu gì không. Bởi đã ngồi trên xe Taxi tới mấy giờ đồng hồ rồi, chắc bây giờ cũng đang tới cử.

Nhưng Mary lại lắc đầu, chiếc xe Taxi tiếp tục chạy trên quốc lộ. Hai bên vườn cây, ruộng lúa lùi dần lại phía sau như một cơn sóng chạy dài. Khi chiếc xe chạy ngang qua huyện lỵ Cai Lậy, làm cho Mai Cồ Tửng nhớ lại ngày xưa. Trong lúc anh ta còn đang học bậc tiểu học ở đây, thì bỗng dưng có một trái hoả tiển 22ly không biết từ đâu bay tới, rồi nổ một tiếng long trời, làm cho học trò, cô thầy giáo lớp chết lớp bị thương không biết bao nhiêu mà kể!

Chiếc xe Taxi vẫn chạy với tốc độ đều đều, khi qua khỏi cầu Bà Tồn thì ngọn gió chướng thổi lồng lộng thốc vào mạn xe, bật ra những tiếng kêu u u như tiếng dều giấy thả bay trong mùa chướng.

Người tà xế Taxi hảm chiếc xe cho chạy chầm chậm, rồi quẹo theo hướng chỉ mũi tên vô huyện Cái Bè. Chạy thêm một đổi nữa, thì Mai Cồ Tửng day qua nói với người tài xế:

– Căn nhà ngói trước mặt là căn nhà tôi, vậy anh coi cho xe đậu chỗ nào cho tiện, để tôi xách mấy cái valy, vì cái cửa ngỏ hẹp chắc xe vô không lọt…

Tiếng con Vện già cất tiếng sủa khô khan, khi nó ngó thấy có mấy người lạ mặt toan bước qua cửa ngỏ. Trong khi đó; thì có mấy người ngồi trong nhà, đã nhìn thấy chiếc Taxi nên chạy vội ra mừng vui ríu rít. Có người còn la lớn. Trời ơi thằng Sáu Tửng nó đã về tới nơi rồi nè. Vậy mà trong nhà mắc lo nói chuyện không hay, nhờ có con Vện nó sủa vang lên mới biết…

Mai Cồ Tửng dúi vào tay người tài xế $20 đô tiền bo. Hiểu ý, anh ta noí tiếng cám ơn, rồi lễ phép chào hỏi mọi người, sau đó bước trở ra xe, để còn tiếp tục một cuộc hành trình của một người tài xế Taxi, tối ngày cứ quần trên đường để mà bắt khách.

Ở đây, ngay lúc nầy. Chỉ có Sáu Tửng, chớ không có mai Cồ Tửng, nên anh ta vòng tay ôm chầm lấy bà già trong tiếng khóc nghẹn ngào. Mới ngày nào má anh còn mạnh khỏe tần tảo nuôi con, vậy mà ngày hôm nay già yếu. Chân bước đi thật là yếu ớt, phải có một cây gậy để nương vào, lại thêm đôi mắt đã phủ một lớp mây mù, mọi cảnh vật bây giờ đối với bà mờ mờ nhân ảnh.

Sáu Tửng ngước mắt nhìn lên bàn thờ cha, một bình nhang khói toả, làm cho quang cảnh quá đổi lạnh lùng. Họ hàng mỗi lúc thêm đông, họ hỏi thăm anh về đời sống của người Việt tha hương bên nước Úc. Nó sung sướng ra sao, mà phong trào vượt biển đang dâng cao rầm rộ. Có người còn nói, tao nghe thiên hạ họ bàn tán, là nếu cột đèn đi được thì nó cũng đi. Còn mầy làm ăn gì có khá hôn, mà dám cả gan bợ con vợ đầm rồi dẫn về đây, không sợ bà già bả giận, rồi mầy đứng cửa giữa làm sao đây hả!

Trong số họ hàng ngồi nghe anh nói, người ta ngạc nhiên từ điểm nầy đến điểm khác. Xe hơi gì mà lền như bánh canh, vợ một chiếc, chồng một chiếc của ai thì nấy chạy. Nhưng họ khoái nghe nhứt là vấn đề cư trú tự do và “an sinh xã hội”, muốn ở đâu cũng được, chớ không có cái cảnh phải trình với ông trưởng khóm, hay ông xã trưởng gì đâu, vậy mà người nào phạm tội thì đừng mong gì trốn tránh…

Người dân ở đây đã bị chế độ cộng sản kềm kẹp họ từ tháng 4 năm 1975 đến nay, thấm thoát cũng đã hơn 10 năm rồi, nên họ đâu có biết rằng trong thế giới nầy đã có những nước có quyền tự do như nước Úc. Cho nên họ hỏi những câu nghe qua thật là tội nghiệp. Còn vợ anh là Mary cũng bắt đầu làm quen với gia đình bên nhà chồng, nên cô ta cũng nói những câu tiếng Việt nghe lơ lớ. Cô ta nhìn thấy cái bếp tro cũng rất lạ kỳ, chỉ cần kê mấy cục gạch chụm đầu vào nhau cũng thành cái bếp. Vậy mà họ cũng nấu ăn, nấu uống cho tới hết đời nầy qua tới đời kia, chớ đâu có thấy họ than phiền điều gì lộ ra ngoài trên khuôn mặt.

Qua ngày hôm sau, sau bữa cơm trưa thì Mary mắc đi cầu, nên cô ta đi tới đứng kế bên cô giáo Phụng hỏi:

– Bây giờ em muốn đi cầu, thì phải làm sao?

Cô giáo Phụng là chị thứ Tư của sáu Tửng, sau khi mỉm cười rồi đi vô buồng cầm ra một cuộn giấy Toilet Tissue rồi nắm tay Mary dẫn đi vòng ra sau vườn cách nhà chừng 20 thước. Nơi đó có một cái ao cá vồ cũng tới lứa ngoài kí lô 1 con, nhưng vì biết thằng Sáu Tửng sắp dẫn vợ nó về, nên bà già nuôi thúc để dành nấu canh chua chớ không có bán.

Về phần cô giáo Phụng nhìn thấy cái quần Jean cuả Mary đang mặc mà phát sợ, nó chật gần căng cái mông đít. Như vậy thì khi ngồi xuống đi cầu, bầy cá tra quẩy nước, thì làm sao nhóng cái đít lên cho kịp để tránh nước văng lên. Trong lúc đang chần chờ như vậy, tụi con nít ngó thấy con đầm tóc vàng sắp sửa đi cầu cá vồ thì bu lại cũng đông, nhưng tụi nó cũng đứng cách xa canh me chớ không dám tới gần, làm cho cô giáo Phụng thật là khó xử.

Thôi thì đàng nào cũng lở, phải dạy con Mary biết cách đi cầu lúc nầy. Chớ còn không, thì làm sao giải quyết. Bởi trong lòng đã quyết như vậy, nên mới đưa cuộn giấy Tissue cho Mary, rồi nắm tay dắt lên cầu chớ không thì bị té.

Bởi thông thường cây cầu cá vồ gia đình nào cũng vậy, họ làm rất là sơ sài. Chỉ có bắt một cây đòn đi lên không tay vịn, còn bốn phiá thì họ chỉ che có mấy miếng lá chầm, để khi ngồi xuống nó che khuất cái mông đít mà thôi, cho nên mỗi khi đi cầu cá vồ người ta đều ngồi thủ thế. Khi thấy bầy cá giành ăn, thì họ nhóng cái đít lên một chút. Sau đó họ tiếp tục bình thường, cứ nhóng xuống nhóng lên, chừng nào sạch ruột thì thôi, chớ cũng không thì thế nào cũng bị văng nước ướt mông đít.

Đàn cá vồ bắt đầu lượn dữ, sóng gợn từng hồi. Có con lại chạy nổi lưng, vì cái giống cá vồ từ lúc nhỏ cho tới bây giờ, nó thấy hơi người ta thì trừng đầu lên kiếm chác. Có con còn hả họng ra tác hoác để chực chờ, nếu không lanh lẹ thì làm sao no bụng.

Cô giáo Phụng ra dấu cho Mary kéo dây con rít trật ra ngồi xuống, trên bờ vườn phía bên kia, cái đám con nít bắt đầu chỉ trỏ. Bởi đây là lần đầu tiên tụi nó mới thấy một con đầm tóc vàng mà đi iả trên ao cá vồ, nên tụi nó mới hú hí bu lại coi chơi. Trong khi đó thì con Mary vẫn thản nhiên với bầy cá vồ, nhưng nào ngờ bầy cá vồ lại giành ăn với nhau phơi kỳ nổi lên như cá nằm trong rổ xúc. Có con lại hả họng ngước lên nhìn, dường thể nó muốn phóng lên để táp miếng mồi trước khi rơi xuống nước. Sợ quá Mary vội vả đứng lên mà quên kéo cái quần, cứ đứng như vậy mà xổ tiếng ăng lê tới mấy phút đồng hồ, để mặc cho mấy đứa con nít nhìn qua rồi cười ngất…

Vô tới nhà Mary oà lên khóc, khiến cho không khí trong nhà cũng bớt vui. Sáu Tửng ngồi kế bên an ủi, anh ta hứa chắc là nội ngày mai, anh ta sẽ rước thợ hồ đi lại nhà xây một cây cầu vệ sinh giựt nước đàng hoàng, chớ không thể để cho em đi cầu cá vồ nữa đâu, thôi em đừng sợ…

Cùng lúc đó, trong xóm nhỏ miền quê ở huyện Cái Bè, có một tốp con nít chạy đi khoe khắp xóm. Là tụi nó quả quyết, đã nhìn thấy con chim của con đầm nó không giống con chim ở đây, lông lá của nó vàng khè mà còn oăn như râu bắp nữa.

Khiến cho nhiều ông già nhậu vô cửng cửng, rồi đưa tay vuốt râu ngạnh trê nói phỏng. Tao biết trước hết rồi mà, như đám mạ cháy chớ có khác gì đâu. Bởi vậy tao đâu có thèm coi, ngồi nhà nhưng tao đây đều biết hết./-

Phùng Nhân

Phùng Nhân
Theo: Văn Thơ Lạc Việt




Mầu Hoa Khế : Ông Tư Đờn

Bây giờ tóc trên đầu cũng đôi ba sợi bạc, tấm lòng vàng của hai vợ chồng ông tôi cứ thấy nặng mãi ở trong tim. Thôi thì cứ theo dòng đời đưa đẩy, nếu kiếp này không cho tôi gặp lại hai người, hai vị ân nhân giúp người không cần báo đáp. Cho tôi hẹn lại kiếp sau bởi nợ gì cũng trả được chứ nợ ân tình làm sao mà trả cho xong !?… Mầu Hoa Khế Oct. 28. 2009 *Tôn Tẩn: nhân vật trong Tam Quốc Chí

Ông Tư Đờn

  • Có một chuyện cứ để nằm trong bụng , lâu lâu lại thấy như có lỗi với người ta vậy đó. Dễ chừng đã hai mươi lăm năm, nhớ hồi dẫn con Cà Na đi vượt biên nó mới hai tuổi đui. Hai má con theo sự sắp đặt của mấy người tổ chức. Chạng vạng cở đâu sáu bảy giờ tối, có chiếc xe Honda chạy xề tới nhà, người đàn ông mặt mày lạ hoắc bước vô nhà lấm la lấm lét như đi ăn trộm đưa ra tờ giấy xếp tư được nhét sâu trong túi quần. Tôi đọc thì mới hay là phải đi theo người này tới chỗ “ém gà “là địa điểm của một căn nhà trong đường giây tổ chức vượt biên, đặng khuya lên “taxi” là cái thuyền máy nhỏ, ém cở mười người để đưa ra thuyền lớn đang đậu núp ở một cái góc khuất nào đã được ăn chia với công an địa phương. Hai giỏ đồ được chuẩn bị cả tuần lễ trước, gồm mấy bộ đồ, ít lương khô, con Cà Na còn nhỏ nên mua thêm một ống sửa giống như ống kem đánh răng, rủi khi lên tàu nó có đói thì nặn ra cho có chút chất bổ dưỡng. Quan trọng là phải có thêm cái áo ấm dày, chứ trên biển cả làm gì có lửa củi mà hơ. Tôi bồng con Cà Na trên tay, con nhỏ ngơ ngơ hai mắt tròn đen tưởng má bồng đi chơi, nó đâu biết từ giây phút này hai má con đang giao số phận cho ông trời định đoạt. Bà ngoại con Cà Na rưng rưng nước mắt, còn ông ngoại nó quay ngoắt lưng để che giấu sự xúc động mãnh liệt ,bởi tôi nhìn cái bờ lưng ốm nhách của ông già như đang run rẩy .Tôi bồng con mạnh dạn đi bương ra cửa leo lên xe HonDa của người ta mà mắt không dám nhìn ngoái vô nhà, mà có nhìn vô chắc tôi cũng chẳng thấy gì bị nước mắt đã oà ra như mưa . Tới điểm hẹn , thì có người đàn bà ra dấu bảo đi theo sau bằng khoảng cách xa xa, bả làm người tốt xách dùm hai giỏ đồ mà tôi đã để hết tâm trí lo lắng. Nào là mang cái này hay mang cái kia, thêm cái này, bớt cái nọ . Vậy mà ác nhơn hết sức, khi tôi xuống cái ghe nhỏ thấy có thêm tám người nữa ngồi sẵn ở đó. Thì con mẹ lách mình ở ngõ nào đem theo luôn hai giỏ đồ sinh tử của tôi. Tôi sững sờ có miệng cũng không nói ra lời, nghẹn đắng họng, đắng hầu. Người đi cùng chuyến cũng lặng câm, ai nấy đều có chung một sự lo lắng không biết phong hiểm ra sao, nhưng tâm sự thì mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau nên cứ ngồi im mà ôn lại những gì đã có, đã qua trước giờ phút chia ly. Trời tối thật mau, tội con Cà Na không có chi ăn nằm trong lòng tôi khóc rấm rức, tôi thấy con khóc muốn đứt ruột rồi còn bị người cùng đi trừng mắt, khó chịu . Tôi thiệt là không biết kêu đâu cho thấu, chỉ biết ôm con dỗ sao cho mau nín , mà nó đói quá thì cũng lã người ra ngủ trên tay tôi . Chiếc ghe máy đi độ mấy tiếng thì ra tới sông Thủ Thiêm, chỉ chừng mười giờ đêm nhưng trên sông mênh mông thì thấy tối thui. Đang chạy ngon lành, trên ghe ai nấy cũng còn im thích chưa ai nói gì với nhau thì bỗng đâu nghe tiếng súng nổ, ban đầu nghe chừng ba phát, sau nghe thêm đùng đùng như đang tới gần chiếc ghe. Trên ghe bắt đầu hổn loạn, tôi nghe cái cậu trẻ lái ghe nói . – Chết mẹ rồi, công an tới rồi. Cả ghe nhốn nháo tròng trành như muốn lật nhào úp xuống nước, tôi quá hãi hùng càng ôm con chặt hơn. Tiếng cậu lái ghe lớn hơn giữa trời lồng lộng gió: – Bà con nghe tui , tui lủi vô chỗ cạn ai nấy nhanh chân nhảy xuống nhớ núp xuống xình nghen. Miệng chưa dứt câu cái ghe đã là là vô cái đám xình lau sậy ven sông. Trời tối không ai nhìn ra mặt ai, mọi người nhảy tủm xuống nước biến mất trong bóng đêm. Trên ghe chỉ còn hai má con tôi, thêm một ông già và một cô gái. Vừa lúc thuyền công an trờ tới bắc loa gọi bằng cái giọng bắc 75 đanh thép: – Mấy người bên kia bước ra lên thuyền mau. Vừa gọi vừa rọi đèn pha, họ thòng cho cái ván, cũng may khoảng cách gần xịch nên tôi ôm con bước lên không mấy khó khăn. Họ đưa vô một căn nhà giữa đồng không mông quạnh . Khi tới nơi thì tôi mới biết nơi đây đã có một số người cùng chung số phận với má con tôi. Cái đám người bắt chúng tôi nói có gì trong người phải nộp sạch . Cứ giống như mấy cuốn phim kiếm hiệp tôi coi trước đây là gặp phải bọn thảo khấu. Ai nấy đều lột ra hết bỏ trong cái nón lá .Còn tôi cái lá gan cũng to, dấu hai chỉ vàng cột trong đuôi tóc nhất định không lấy ra, ngẫm nghĩ nếu họ tìm thấy thì cứ giả ngu giả khờ kiểu Tôn Tẩn giả điên cho qua phà . Qua một đêm họ gọi là “mần việc”, sáng ra họ chở tới bến đò đưa ra trại giam ở Cần Giờ . Trên chuyến đò chúng tôi khoảng hai mươi người được 4 người công an đi theo canh giữ. Cùng đi trên tàu cũng có những người thường dân đi buôn bán. Họ thấy con Cà Na khóc vì đói nên có người hảo tâm cho nó cái bánh ú, tôi phải mâm mâm rồi đút cho con, hai tuổi mà ăn bánh ú dễ mắc nghẹn như chơi . Cả nhóm bị nhốt ở Cần Giờ mười ngày, thì nghe đâu tổ chức bỏ vàng ra xin chuộc, bị tôi đi cũng đã đóng trước 3 cây vàng, chờ tới đảo hay đâu đó thì đưa tiếp 3 cây vàng nữa . Ở tù thì ai mà chẳng biết nó cơ khổ tới mức nào, cũng nhờ có con nên tôi được châm chế cho mấy chuyện gọi là lao động . Nhà tù chưa xây cất thêm, nên nhóm người vượt biên được lùa chung ở một góc trại, chỉ có mái che chứ chung quanh trống rốc. Đêm trong tù lạnh lẽo, muỗi mòng, ai thấy con bé nhà tôi cũng thương, họ cho mượn cái khăn quấn kẻo bị muỗi cắn. Còn tôi thức trắng mấy đêm nằm đập muỗi cho con, phần lạnh buốt da không sao ngủ được . Có bà cụ cho mượn bộ đồ để thay , chứ đã năm ngày không tắm rữa hôi hám như ăn mày. Còn con Cà Na, thì có cái khăn quấn, nên hai Má con mang hai bộ đồ đi xã nước lạnh câu từ cái giếng nhỏ, chỉ có nước lên vào buổi sáng chứ tới trưa là cạn queo rồi mang ra phơi ở hàng rào kẽm gai để có mà thay đổi . Suốt mười ngày trong trại tù ở Cần Giờ, con Cà Na dễ thương hay không biết má nó dễ thương mà nó ngày được trái chuối, ngày được củ khoai. Lúc đi lấy cơm tù phần cơm cũng nhiều hơn người khác. Tối tối được nghe một người tù hát cải lương, hát hay như Út Trà Ôn nên ông trưởng trại tù cũng nghiền nghe. Sau mười ngày cam khổ, cả nhóm vượt biên được thả ra cùng một lúc, một số người có người nhà đến đón. Lúc này thì tôi mới biết là cùng một đường giây tổ chức. Hai má con được thả ra khỏi trại giam vào lúc 5 giờ chiều, bơ vơ nơi đất Cần Giờ, có hai chỉ vàng mà đâu dám lấy ra bán sợ này sợ nọ. Cũng may mắn số người được ra cùng ngày họ có gì thì đưa hết cho tôi, trong giỏ đồ có ít bánh. Tôi nghĩ thôi đêm nay ra sạp chợ ngủ đại một tối, bị sáng sớm mới có chuyến tàu về Vũng Tàu vào lúc 6 giờ sáng. Đang lúc bồng con trên tay lơ ngơ đi tìm coi chợ nằm ở đâu. Lúc đi ngang qua một tiệm may đồ, thì thấy có hai vợ chồng tuổi chừng bốn mươi đưa tay ngoắc hỏi: – Phải mới trỏng ra hôn? Nhìn gương mặt hiền lành chất phát của họ, tôi gật đầu xác nhận. Người vợ đứng lên ra nắm tay tôi dắt vô cửa tiệm. Nói là cửa tiệm chứ căn nhà rất nhỏ độ bề ngang 4 mét bề dài 6 mét , họ ở trên gác còn bên dưới thì mở tiệm may. Vô tới nơi ông chồng lên tiếng: – Tối nay tui cho ở rồi sáng mai ra bến đò mà về. Ông quay qua bà vợ dặn dò cơm nước rồi chỉ ra mé sau cho hai má con được tắm một bữa thoả thích. Nước ngọt ở xứ này cũng phải mua, chứ giếng đào chỉ có nước lờ lợ không dùng được. Tối đến được ăn cơm trắng, canh chua với tôm thẻ kho rim. Bữa ăn hôm đó tôi nhớ suốt đời, cái tài nấu nướng của hai vị ân nhân và khắc sâu ân tình của họ. Sau bữa cơm họ giăng cho tấm mùng thật lớn trên gác, họ nhường chỗ ngủ cho hai má con, còn họ thì ngủ dưới nhà. Đúng 5 giờ sáng họ lên đánh thức, không thôi tôi đã bị ngủ mê, một giấc ngủ ngon kể từ lúc bị bắt mới có được . Ông chồng đưa hai má con ra bến đò, tôi nắm tay bà vợ mà nước mắt muốn trào nói lời cám ơn tận đáy lòng. Ra tới bến đò vị ân nhân mua cho tôi ly cà phê đen uống cho ấm bụng, mua cho con Cà Na cái bánh giò chéo quảy. Tàu cũng vừa trờ đến, tôi loay hoay định nhờ ông bán dùm chỉ vàng để làm lộ phí. Ông xua tay cầm ít tiền dúi vô tay rồi hối thúc tôi lên tàu cho kịp chuyến. Tới giây phút đó tôi mới thấy mình đoảng hậu ghê, tên của hai vợ chồng ông tôi chưa hề biết, chỉ nghe kêu là ông Tư. Người miền Nam tên theo thứ tự thì quá nhiều tên gọi như thế làm sao sau này tìm mà trả lại cái ơn nghĩa này. Tôi đứng vô tàu ngoái mặt ra ngoài hỏi: – Ông Tư ơi.. ông tên là gì ? Ông cười sảng khoái nói – Ở đây ai mà không biết ông Tư Đờn . Con tàu nổ máy lướt ra khỏi bến, trời lờ mờ sáng tôi vẫn còn thấy bóng ông Tư Đờn đứng im trên bến nhìn theo . Ông Tư Đờn, đã trên hai mươi lăm năm tôi chưa hề trở lại Cần Giờ. Bây giờ tóc trên đầu cũng đôi ba sợi bạc, tấm lòng vàng của hai vợ chồng ông tôi cứ thấy nặng mãi ở trong tim. Thôi thì cứ theo dòng đời đưa đẩy, nếu kiếp này không cho tôi gặp lại hai người, hai vị ân nhân giúp người không cần báo đáp. Cho tôi hẹn lại kiếp sau bởi nợ gì cũng trả được chứ nợ ân tình làm sao mà trả cho xong !?… Mầu Hoa Khế Oct. 28. 2009 *Tôn Tẩn: nhân vật trong Tam Quốc Chí

Email được gửi lúc: 23:34:18 – 19/07/2010

Màu Hoa Khế
Theo: Văn Thơ Lạc Việt




NHỮNG VỊ “ANH HÙNG NHÂN DÂN”

miền quê đó hôm nay lại hun đúc một con người, Giuse Ngô Quang Kiệt, một gương mẫu mới của lòng yêu mến và quả cảm, sao miền quê đó lúc này im ắng quá. Không im ắng đâu, bởi vẫn còn những bà mẹ nghèo nhưng giàu lòng quảng đại, vẫn còn những bạn Taxi, xe ôm và đồng nát kiên cường. “Các cha cứ gọi, chỉ vài phút sau chúng con sẽ có mặt tại Thái Hà

NHỮNG VỊ “ANH HÙNG NHÂN DÂN”

Tôi về quê tôi trong một ngày đầu xuân, ngày xuân có gió nhẹ nhàng, có những cành đào tươi nở và có cả lòng người chờ mong thương yêu. Lâu lắm rồi tôi không về, kể từ lần đầu về bây giờ đã 15 năm, con đường vạn lý cứ mãi giằng kéo bước chân tôi xa quê, mải mê với bước “giang hồ” nên quê cũ vẫn là một nơi chốn chỉ để nhớ để thương.

Thật ra với một người như tôi mà thương nhớ quê là rất lạ, vì trang lứa tôi sinh ra trên đường vào nam ( 1954 ) lớn lên ở miền Nam, có mấy ai nhớ về quê cũ đâu. Khác với những người như vậy, tôi gắn bó với quê một cách sâu đậm và hằng nhung nhớ trong lòng.

Lần đầu tiên về quê, chỉ một mình mà tôi dám về quê, những bất ngờ mà quê dành cho mình càng làm tôi càng thương nhớ quê hơn, người “nhà quê” đã đón tôi bằng cả một tấm lòng thương mến. Tôi đã về để đi trên con đường “dong nhà mình”, cứ ngỡ đâu đây cha mẹ mình vừa đi qua, vào nhà “cụ xã” ( ông nội tôi ), ngồi ở bậc thềm nhìn ra cầu ao trước nhà, tôi vụt đứng lên bước vội ra cầu ao, đúng rồi, mẹ tôi bảo: “Cầu ao nhà ông Xã có ba bậc, bậc thứ hai mẻ một miếng ở bên phải”.

Bà con hàng xóm đến thật đông để chào và nghe tôi nói chuyện, tôi chợt nhớ một điều bèn hỏi: “Ai là… con Nga, con bà Nguyệt ?” Một bà cụ khoảng 70 tuổi móm mém đứng lên: “Con ạ !” Mọi người bật cười còn tôi bối rối. Tôi vẫn thường nghe mẹ tôi kể rằng “Con Nga, con bà Nguyệt” hay bện rơm xoắn lại, dọa anh tôi: “Tao bắt mẹ mày” thế là anh tôi sợ và khóc chạy về quấy mẹ, câu chuyện đã lâu lắm rồi, anh tôi năm nay đã tròm trèm 70, thế mà tôi quên mất !

Lần đầu tiên tôi dâng lễ ở Nhà Thờ họ tôi ( Giáo Xứ quê tôi có họ nhà xứ và 4 họ lẻ ), những gì cha tôi kể như hiển hiện ngay trước mắt tôi, từng cái cửa, cái bàn, cái ghế cũ kỹ, cái Cung Thánh sơn son thếp vàng, cái rương gỗ của cha già Trúc để ở phòng thánh… Tất cả còn hết, còn nguyên vẹn. Tôi ứa nước mắt ra khi nhìn mọi sự vật cha tôi đã kể tỉ mỉ cho tôi nghe, mọi cái còn đó, chỉ có cha tôi, người con đi biệt xứ kể từ cái đêm bị ruồng bắt năm 1945, ôm ấp mãi trong lòng ước muốn một lần về thăm quê, thăm mọi người, thăm mồ ông mả cha, thắp cho ông nội tôi một nén nhang tạ tội mà không được. Cha tôi đã mất để lại cho chúng tôi nỗi nhớ quê nhà…

Ông nội tôi chết ở đình làng khi bị giam cầm chờ ngày mai xét xử trong cuộc đấu tố cải cách ruộng đất. Nghe kể lại rằng, đêm đó cô tôi bò vào mang theo nắm cơm cho bố ăn, nhưng khi vào đến nơi sờ vào người cha mình thì ông tôi đã chết rồi, ông tôi chết một cách uất ức vì ông tôi có phải là địa chủ đâu, chân lấm tay bùn quanh năm. Mẹ tôi bảo: “Ông cả đời nhịn ăn nhịn mặc, chẳng bao giờ dám hoang phí một đồng, cả ngày lặn lội ngoài ruộng, thế mà bị gán là địa chủ !”

Sau năm 75, có một người trong số những người đấu tố ông nội tôi vào Nam tìm đến gặp cha tôi, họ nói lời xin lỗi cha tôi, hôm đó cha tôi không trả lời câu nào hết, ông lặng người đi, gục đầu vào bàn thờ ông nội tôi, khi quay ra, tôi thấy mắt cha tôi đỏ hoe. Hôm đó, cha tôi bảo làm cơm đãi người ta ăn và khi chia tay, cha tôi lấy một ít tiền chia sẻ với ông ta, hình như mẹ tôi rất khó chịu về điều này, sau này tôi được biết, ngày đó cha tôi cũng gật đầu chấp nhận cho ông ta tiếp tục sống trên cái “thổ nhà mình”, vì cha tôi bảo: “Mình có về nữa đâu mà giữ !” Hôm tôi ở quê, đứa em con bà cô, đứa em còn cố giữ được thổ nhà ông tôi gợi ý: “Anh sang thăm thổ nhà bác”. Tôi ngần ngừ rồi trả lời: “Thôi em ạ !”

Dĩ nhiên là người “nhà quê” đã không để tôi yên, tình cảm yêu thương dồn nén, một ngày phải dâng ba lễ, bao nhiêu loại lễ mừng, lễ giỗ họ, đem cả vào hai ngày tôi ở quê mà yêu cầu tôi “ban” cho, đành vậy. Những giờ khác, chú tôi, ông “tiên chỉ làng” dẫn tôi đi thăm các nhà có liên hệ, danh sách đã được ông định trước và không ai dám cãi ông.

Ông dẫn tôi đền nhà cụ Trùm Bát, cụ Trùm Bát ốm liệt nằm trên giường đã mấy tháng nay, cụ chẳng xa lạ gì với tôi vì cha tôi hay kể về cụ, kể về người bạn hiền lành và thân thiết năm xưa ở quê nhà, thậm chí tôi còn biết nhiều chuyện khá riêng tư của hai cụ nữa, nhưng có một chuyện mà tôi không biết, bất ngờ trong lần đầu tiên về quê được cụ bà tiết lộ, đó là: “Thưa cha, con là bạn của bà cố, ngày xưa con đi phù dâu cho bà cố !” Lần ấy, tôi về lại Sài-gòn, hỏi mẹ tôi, cụ nhăn mặt suy nghĩ rồi trả lời: “Chẳng nhớ nữa, chắc vậy”.

Lần này cụ bà bị điếc nhưng vẫn còn khỏe, cụ bà loay hoay bên tôi, người co rúm lại cười cười nói nói rất hồn nhiên. Cụ ông nằm liệt giường, việc đầu tiên là “ăn mày phép giải tội”, cụ thở giốc nói được vài lời, họ quấn quanh cụ những chăn bông, những áo len, những mũ len, tất cả cũ kỹ cáu bẩn, mùi hôi, mùi ẩm mốc…

Sau những “lời khuyên bảo“, cụ đưa tay run rẩy luồn vào tấm áo trong, tìm kiếm phía trên ngực, “Thưa cha, con có chút tiền dâng cha lo việc Nhà Thờ”. Cụ tiếp tục run rẩy tìm kiếm, tôi đã nói lời từ chối không nhận tiền vì nghĩ rằng cụ rất nghèo, chẳng có là bao, để cụ lấy tiến đó mà lo thang thuốc, nhưng cụ nhất định không chịu. Khi tôi sang nhà bên cạnh, người ta cầm sang cho tôi một “nắm” tiền và cho biết đó là tiền của cụ. Tôi đã bật khóc khi tối về xem xét lại “nắm” tiền đó, 20 tờ 1.000 đồng mới tinh và 6 tờ 5.000 đồng cũng mới tinh.

Tôi biết cụ đã cho tôi tất cả cái cụ có, khi kể lại câu chuyện này cho một người quen, chị ấy thốt lên: “Hai đồng tiền bà góa !” Cám ơn Chúa đã cho con được cảm nghiệm Tin Mừng một cách rất cụ thể, và con đã có được cảm nghiệm đó khi con đi gặp người nghèo.

Có một “vị Anh Hùng Nhân Dân” mà tôi đã hân hạnh được viếng thăm, bất ngờ hơn, lại là người mà tôi “còn có họ”. Bà đáng được phong danh hiệu như vậy. “Nhân Dân” bởi chính bà là người dân hiền lành chất phác, căn nhà nhỏ bé ba gian lợp ngói kiểu đồng bằng Bắc Bộ, khung cảnh cuối đông ảm đạm càng làm cho cái vẻ nghèo nàn tăng thêm.

Trời rét lạnh nên tuổi già còn phải chịu quấn quanh người cái áo len dầy cộm, ông chồng của bà vẫn tươi cười chia sẻ: “Con đau yếu chẳng làm gì được, đành ở nhà nội trợ, còn nhà con phải lên Hà Nội ‘lội chợ’ kiếm ít tiền”. Thế nhưng khi lao mình vào chốn thành thị ấy, thì người đàn bà chân quê nhận ra cái lẽ phải và sự thật, cái nhận thức rất đơn giản của người nhà quê yêu mến Giáo Hội và kinh nghiệm thế nào là sự giảo quyệt. Bà luôn có mặt ở hàng ngũ những người đi đầu trong các cuộc đòi chân lý. Trong những ngày tháng căng thẳng, có một người đàn bà nhỏ bé duy nhất lọt vào Tòa Khâm Sứ cũ, quỳ trước tượng Đức Mẹ Sầu Bi cầu nguyện một mình, hình ảnh đó được phát đi khắp nơi cho mọi người chiêm ngưỡng, hình hài nhỏ bé đó là chính bà. Bà hồn nhiên cho biết: “Thưa cha, con cầu nguyện với Đức Mẹ thì con sợ gì ai ?” Người mẹ “Anh Hùng Nhân Dân” ấy là mẹ của một Linh Mục.

Có một “Anh Hùng Nhân Dân” khác tôi cũng được gặp khi về quê, người đàn bà quả cảm ôm tượng Đức Mẹ vào đặt tại bể nước trong khu “linh địa Đức Bà”, cũng như người mẹ Anh Hùng kia, người này cũng xuất thân từ chuyên ngành “đồng nát” ( ve chai ), kể từ khi vụ việc Thái Hà xảy ra, bà nhận ra cái “lạnh lẽo đạo nghĩa” của mình, bôn ba khắp thiên hạ rồi cũng chẳng đi đến đâu, bà dừng chân ở linh địa, khởi viết lại trang sử đời mình từ những ngày đi đòi chân lý và nguyện gắn bó sống chết với điều đã chọn lựa, bà nói: “Có bắt con đi tù thì phải lo mà nuôi cơm con, con vẫn cứ đi đòi cho đến khi nào có được chân lý và sự thật”.

Có một ai đó đã viết về quê tôi, miền quê có truyền thống gìn giữ và bảo vệ Đức Tin mạnh mẽ, miền quê nghèo nhưng không nghèo lòng quả cảm, miền quê đã sản sinh ra nhân vật nổi tiếng của Giáo Hội một thời, Đức Cha Phạm Năng Tĩnh, một anh hùng của Đức Tin, miền quê đó hôm nay lại hun đúc một con người, Giuse Ngô Quang Kiệt, một gương mẫu mới của lòng yêu mến và quả cảm, sao miền quê đó lúc này im ắng quá. Không im ắng đâu, bởi vẫn còn những bà mẹ nghèo nhưng giàu lòng quảng đại, vẫn còn những bạn Taxi, xe ôm và đồng nát kiên cường.

“Các cha cứ gọi, chỉ vài phút sau chúng con sẽ có mặt tại Thái Hà”…

Lm. VĨNH SANG DCCT, 7.2.2009

LM. Vĩnh Sang, DCCT

LM. Vĩnh Sang
Theo: VietCatholic News



BA CON CÁO (Nhà văn Bình Nguyên Lộc)

Lời bàn thêm của người tuyển: “Thế là đêm đó hai con chồn đói xơi một con chồn no.” Bữa tiệc ấn tượng đến rùng mình. Cái kết thúc của con “chồn no” ấy ta có thể đoán trước được. Nhưng cái kết thúc của con “cáo già” thì thực sự là một bất ngờ. Xin nghiêng mình bái phục cụ Bình Nguyên Lộc. Thế còn con hồ ly? Thì… cứ đợi đấy!

BA CON CÁO
Bình Nguyên Lộc
 
Bắt đầu bằng cái rùng rợn của thế giới người chết. Vậy mà cuối cùng, chính cái thế giới ấy lại tử tế gấp vạn lần thế giới của những kẻ đang sống. Truyện này mang xuống âm phủ mà đọc, chắc dưới đó người ta cũng xếp ngay vào loại “Liêu trai”. Bởi đối với cõi âm, thì người sống chính là một loại… ma quỉ. Một giọng văn cách đây già nửa thế kỉ mà đọc vẫn không hề cũ. Bình Nguyên Lộc được coi là Anphôngxơ Đôđê của Nam Bộ thật xứng lắm thay.
 
VPL
 
Mặc dầu là tay “bán trời không mời thiên lôi”, Sáu Sửu vẫn nghe rờn rợn khi nhìn ra ngoài.
Thánh giá trắng đứng mơ hồ trong ánh sáng lờ mờ của nghĩa địa, sắp thành hàng ngũ đông đúc, nhánh ngang của thánh giá trông mường tượng như những cánh tay người giăng ra để đón bắt ai.
Xa xa, một trụ vôi có dáng một người đàn bà đội khăn tang trắng, đứng nhìn đám mồ trước mặt bà ta.
Gió đêm, cùng với dế, trùn, họp nhau mà than vãn bên hàng nghìn mồ hoang mả lạnh, và thỉnh thoảng, anh Sáu vẳng nghe như có tiếng người rên rỉ đâu đây.
Từ một ngôi mả cũ đằng xa, một ánh lửa lóe lên, nhỏ bằng ngón tay, từ từ bay lên cao rồi đi bơ vơ qua các hàng thánh giá. Lửa ma trơi hay là đèn của một người đi soi ếch nào đó?
Mưa dầm tháng tám rơi trên nước ao tù khiến anh Sáu có cảm giác rằng mình đang ngủ trên một chiếc thuyền, giữa dòng nước.
Lạnh quá, lạnh ngoài da, mà lạnh cả đến trong lòng.
Người sống, một khi xâm nhập vào địa hạt của người chết, mới nhận được rằng cuộc đời bên ngoài dầu đau khổ bao nhiêu cũng còn ấm chán.
Tại phố Phát Diệm, khúc phía trên này, họ Cầu Kho có một đất thánh mà từ vài năm nay nhà thờ không cho chôn trong đó nữa.
Dân số nghĩa địa cứ mỗi ngày một tăng lên, mà không có một ai chết lần thứ nhì cả để cho số sanh và số tử bù trừ nhau hầu đất đai trống bớt chỗ.
Ngoài thành phố, người ta đẻ con, nhưng người ta lại chôn ông, nhà cửa thành thử không chật thêm được. Ở đây mồ mả sanh ra rồi già cỗi dưới rêu xanh của sương gió, nhưng vẫn nằm lì đó đến muôn thu.
Vì vậy nghĩa địa phải chịu nạn nhơn mãn. Nhà thờ không cho chôn xác thêm vào đó, rồi cũng chểnh mảng việc trông nom đất thánh nên người sống đang thiếu đất, bèn ùa đến mà lấn người chết.
Nghĩa địa không có vách thành. Ban đầu vài người mạo hiểm cất nhà ngay trên ranh đất thánh. Thấy không ai nói gì, một số người khác lách qua khỏi mấy cái nhà vừa cất lên, để vô trong mà xây cất.
Họ cất vây tứ phía ngôi đất thánh và vòng vây cứ càng ngày càng siết chặt lại, người chết không còn lối nào để thoát ra được nữa cả.
Khi vòng vây siết đến lằn mức chót, nghĩa là những ngôi mộ ở bìa, thì cuộc xô lấn bắt đầu diễn ra một cách đau thương.
Người sống cũng biết đau lòng khi phải dẫm lên những gò mả còn mới rành rành (nhiều mộ bia, thánh giá, đề năm chôn là 1951) nhưng họ, ác thay, lại cũng biết lạnh. Cho nên họ cứ cất nhà trên những nấm đất ấy, xin người chết thứ lỗi, miễn là có chỗ núp mưa thì thôi.
Không bao giờ kẻ sống và người chết lại sát cánh nhau đến thế. Ông đã chết rồi, ông choán đất làm chi cho nhiều, trong khi tôi không có lấy một vuông nhỏ để mà cắm cây cột gỗ; vậy ông thứ lỗi nhé! Rồi ngày sau tôi cũng hoàn lại đất như ông vậy mà; trần gian nầy chỉ là cõi tạm thôi, tranh nhau làm gì!
Cuộc xâm lăng lặng lẽ để tranh sống với người chết, gây ra một tai hại lạ kỳ.
Vùng đất ấy ngày xưa tuy cũng thấp vẫn khô ráo, nhờ con rạch Bần tháo nước ra sông Ông Lãnh. Nhưng từ khi đô thành cho đắp đại lộ Trần Hưng Đạo, cách đây mấy mươi năm, thì ngọn rạch Bần bị lấp, và nước mưa trên nầy bị bỏ tù lại đến chung thân khổ sai, vì khu ấy đất trũng mà!
Đất thánh không phải ở giữa rún đất nên không đọng nước. Nhưng vòng vây tai hại kia lại biến thành con đê ngăn nước đất thánh đổ xuống chỗ trũng hơn.
Thành thử phần nhiều ngôi mộ đã biến thành cù lao, có cù lao rời rạc, có mớ họp thành quần đảo, không còn làm sao ra đó được nữa. Nước tù mang một màu khó tả và một mùi cũng khôn tả. Đáy ao biến thành bùn non, đi thì lún đến ống quyển.
Lau, sậy, đế tha hồ mà mọc như ở bưng miền xa.
Giữa đất thánh còn sót lại một ngôi mộ cổ kiến trúc theo bên lương mà có lẽ nhà thờ không nỡ phá đi lúc lập ra đất thánh cho giáo dân nầy.
Ngôi mộ ấy đồ sộ nhứt nghĩa địa, xây bằng vôi và ô đước, xanh đặc những rêu phủ. Lối kiến trúc rất rắc rối như một lâu đài, đầy rẫy ngăn nắp với nào là đường vào lối ra quanh co và hóc hiểm.
Hôm ấy những người của vòng vây đều ngạc nhiên mà thấy một mái nhà lá dựng ngay trên ngôi mộ cổ ấy.
Nhà dựng đâu từ sớm mai đến trưa là xong cả. Họ cứ tự hỏi, và hỏi nhau làm thế nào mà chủ nếp nhà ấy lội sình để ra ngoài đó được. Đi tay không đã không được rồi, mà làm sao hắn ta lại mang cả gỗ, tre và lá ra đó để cất nhà?
Hỏi nhau không ai đáp được, mà cũng chẳng mong phỏng vấn thằng cha dị hợm kia, họ đành thôi. Thét rồi mắt họ quen đi, nếp nhà ăn vào chân trời quen thuộc của họ, họ nhận cho nó ở đó mà không bàn tới bàn lui gì nữa cả.
Sáu Sửu ngày trước có ở xóm Phát Diệm. Năm ấy có người treo cổ trong nhà mồ ở bìa đất thánh. Anh đã vào đó với nhiều kẻ hiếu kỳ khác để xem kẻ chết treo, nên được dịp biết rõ nghĩa địa.
Hôm tháng rồi anh bị truy nã ráo riết nên cố tìm một chỗ ẩn nấp thật kín. Nhớ lại xóm cũ với cái nghĩa địa kia, anh về qua đó và rất hài lòng mà gặp hòn đảo nầy.
Không một viên cảnh sát nào đủ can đảm lội sình nhứt là dầm chơn trong một thứ nước nhơn nhớt để ra ngoài đảo Lỗ Bình Sơn của anh.
Nếu có cuộc bố ráp đại qui mô như hồi còn Tây thì bất quá họ cũng đứng ngoài mà nhìn vào, hú bậy vài tiếng như hú đò bên kia sông, rồi đò không qua thì thôi. Họ nghĩ sót một con cá cũng chưa chết ai, mà biết đâu cá đó lại không phải cá hiền, một tên ăn mày nào đó chớ gì.
Từ vòng vây ở ngoài, leo lét vài ngọn đèn dầu của những kẻ lấn đất người chết. Xa thật xa ngoài kia, ánh sáng đô thành làm nổi bật lên, đen thui, những ngôi nhà lầu, những ngọn cây cao. Các thứ nầy giống hệt những hình bằng giấy đen, người ta cắt rồi dán lên nền trời.
Bỗng anh Sáu nghe rục rịch dưới sàn ván. Hôm cất nhà xong, anh lót ván lên mộ, vừa để làm nền nhà, vừa để làm giường ngủ. Dưới ván rầm ấy, lau sậy bị đè đầu xuống, và sẽ chết lần mòn vì thiếu ánh sáng.
Anh Sáu quên, một thứ khác, cũng giống như lau sậy, mà biết cục cựa nữa kia. Vì thế đêm nay trời có trăng, anh ngồi ngó một ra đám rừng thánh giá trắng thì anh phải một phen hết hồn trước sự hiện ra của một chú chồn to bằng con chó ta.
Chồn khua lau sậy sột soạt, rồi chui ra khỏi mộ, ngoái cổ lại dòm cái nhà mà đêm hôm qua đây chưa có. Suốt ngày hôm ấy nó nằm trong hang, không dám ló ra nên không biết ngoài này loài người làm gì mà lục đục mãi.
Đôi mắt nó lóng lánh dưới ánh trăng, ngạc nhiên giây lát rồi bỏ đi. Nó đã quen với con người rồi nên không có vẻ gì sợ sệt cả.
Nhưng anh Sáu lại sợ. Anh có đọc truyện Phong Thần nói chuyện mả Huỳnh Đế có một bầy hồ ly mà một con đã nổi danh trong lịch sử, là cái con đã biến thành nàng Tô Đắc Kỷ; đến nay thấy chồn trong mộ chui ra, anh liên tưởng ngay đến tích cũ rồi rợn người lên.
Nhưng anh trấn tĩnh lại được. Trong dân chúng người ta tin chắc như đinh đóng cột rằng tóc người chết hóa thành con lươn, rồi con lươn hóa thành con chồn. Con chồn mà anh thấy, có lẽ chỉ là thối thân của tóc người nằm dưới nhà mồ, chớ không phải yêu quái gì đâu.
Độ nửa tiếng đồng hồ sau, anh Sáu thấy chồn về, mõm ngậm một con vịt.
– A ha, đồng đạo đây mà! Anh Sáu cười mà nói thầm như vậy rồi cảm tình ngày với con thú nầy.
Cái đạo mà anh nói đó là đạo … chích; trước kia, trước khi lường gạt và cướp giựt, anh cũng đã đi ăn cắp gà như chú chồn nầy vậy.
Ngày nay anh thôi ăn cắp, nhưng lại biến thành con cáo già chuyên môn gạt gẫm thiên hạ.
– Mầy cáo thì tao đây cũng cáo, vậy thì là bồ rồi.
Từ đó, hai con cáo chung đụng với nhau mà không xích mích bao giờ cả.
Nghe động dưới sàn, anh Sáu mỉm cười lẩm bẩm:
– Đồng nghiệp xuất quân đó đa!
Anh Sáu nhờ cậy con chồn nầy lắm. Có nó ở dưới ấy thì không còn lo rắn rít nữa. Anh mong có dịp trả ơn nó, nhưng nó có đói bao giờ đâu để anh ra tay hào phóng mua cho nó một con gà. Xóm lao động vây quanh nghĩa địa, người ta nuôi gà vịt cả bầy, nó ăn đến già cũng chưa hết.
Bỗng anh Sáu nghe có tiếng chó sủa vang dậy lên. Tiếng sủa to lắm và oai vệ lắm, có lẽ đó là tiếng chó bẹc-giê.
Rồi lại nghe nước khua lũm chũm, với tiếng chó càng lúc càng đến gần anh. Anh Sáu bước ra dòm thì thấy bạn của anh đang chạy bán sống bán chết trước một con chó to thấy mà bắt ớn.
Anh Sáu thò tay vào trong rút cây chĩa ba ra, cây chĩa anh sắm để chĩa ếch dưới nước, rồi lẹ như chớp, anh chìa mũi chĩa đón đầu chó cho chồn đủ ngày giờ chui vào mả.
Chó bẹc-giê chạy quá đà, bị mũi chĩa đâm vào mõm đau điếng, rống lên vài tiếng rồi trở bước, vừa đi vừa day lại, sủa om như chửi thề.
Anh Sáu cười ha hả rồi cúi xuống sàn mà nói:
– Đêm nay tổ trác rồi đó phải không em! Anh đây cũng bị rượt thường lắm, nhưng đều thoát khỏi cả. Bây giờ thì đố ai mà dám theo anh vào chốn nầy. Chỗ ở tụi mình kín số dách.
Sáng hôm ấy, anh Sáu đi uống cà-phê, về tới nhà thì ngạc nhiên hết sức. Trên một ngôi mộ cận mộ anh, một chòi lá đã dựng lên rồi.
Ngộ quá, nhà cửa sao mà mọc mau lẹ như nấm mối. Uống xong tách cà-phê, đọc xong trang nhứt một tờ nhựt báo là một túp lều cũng vừa dựng xong. Phải mà, chỉ có bốn cây cột thôi thì chậm sao được!
Anh Sáu ngạc nhiên mà thấy có một người thứ nhì lại biết con đường bí mật đưa vào đó! Anh lại tức vì túp lều ấy chặn ngay đầu đường bí mật của anh.
Số là anh Sáu biết lợi dụng mấy ngôi mộ chung quanh nên mới vào đây được. Anh phải đi quanh co nhiều nơi, nhảy từ ngôi mộ nầy qua ngôi mộ khác, ra cửa nhà thì đi hướng đông, nhưng ra khỏi nghĩa địa lại ra hướng tây, nghĩa là anh phải đánh một cái vòng rất lớn và rất cong quẹo.
Túp lều tranh ấy cất ngay trên ngôi mộ anh dùng làm đầu cầu cuối cùng để nhảy vào nhà anh, thì anh còn làm sao mà về nhà được, nếu hắn không cho anh nhảy ngang qua nhà hắn?
Anh tức giận lắm toan vào lều mần thằng cha nầy một mách cho nó phải giải tỏa hiểm đạo của anh, anh mới nghe cho.
Anh Sáu vỗ đùi nhảy một cái như bay đi và rơi xuống phiến mộ bia đặt nằm theo lối Châu Âu, trên có khắc mấy giòng chữ như sau:
Ci-git:
Alphonse Thomas Nguyễn-Văn-Nở
décédé en sa 78è année
Priez pour lui (1)
Phiến đá lớn bằng bộ ván hai, và thằng cha chủ nhà nầy dùng phiến đá ấy để làm bộ ván luôn, nên không thấy nó lót gì trên ấy cả mà lại để lên đó nào là va-ly, dép … à … mà sao lại dép đàn bà?
Túp lều che có phân nửa tấm bia thôi; cửa lều là một bức màn bằng vải bông cũ. Anh Sáu bước tới vén màn lên thì ô nầy lạ, chủ nhơn bà (chớ không phải chủ nhơn ông) là một thiếu phụ tóc quăn.
Chủ nhơn bà bình tĩnh chào anh Sáu bằng một mỉm cười yên lặng.
Có lẽ chồng chị ta đi làm rồi chăng? Nhưng vẫn lạ là chị không có vẻ lao động chút xíu nào hết. Móng tay chị đỏ choét và nhọn hoắt, nước da mặt của chị bị phấn ăn, chỗ thì mét chằng, chỗ thì thâm đen sì, mắt chị mệt đừ và sâu hóm như mắt cô đào hát bội.
Y phục của chị cũng không phải y phục của những kẻ đầu tắt mặt tối: lai quần gắn ren, áo cổ bà lai thêu rằn rịt xanh đỏ, tóc thì kẹp thành đuôi ngựa, cột bằng ruy-băng màu.
Chị ngồi trên chiếc rương thiếc nhỏ, món đồ từ khí độc nhứt trong chòi, mỉm cười rồi giây lát hất hàm hỏi anh:
– Có tiền mãi lộ không? Nếu không, mỗ không cho đi ngang qua đây. Mỗ đóng đồn ở đây rồi, ai bước qua phải đóng thuế.
Anh Sáu thọc tay vào túi quần tây cũ của anh đứng thẳng lên coi oai vệ như một tướng cướp trong xi-nê-ma, cười gằn rồi ngạo nghễ đáp:
– Hỡi cô nữ tướng mã thượng giang hồ, nữ tướng không có lâu la thì đòi tiền mã lộ ai được. Nữ tướng có giỏi thì bước ra ngoài đánh với ta vài mươi hiệp cho rõ tài cao thấp.
Nữ tướng cười xòa vì nghe giọng điệu thì biết đã gặp tay đồng điệu. Tuy bắt nạt hắn không được nhưng bắt bồ với hắn có thể có lợi.
Anh Sáu xem qua thì biết nữ tướng thuộc vào hạng người nào trong xã hội rồi. Đây cũng là một kẻ trốn chui như anh, như con cáo dưới giường anh. Cả ba đều là chồn, nhưng con chồn cái này đã tu luyện nhiều năm nên mang được hình người. Đây là một thứ hồ ly không hớp hồn nho sĩ mà chỉ hốt bạc cắc của mấy anh lao động thôi.
Đầu anh Sáu đụng nóc chòi, anh khó chịu quá nên ngồi xuống:
– Ở đây không sợ mang tội à? Anh hỏi đùa.
– Chớ còn anh?
– Tôi thì khác. Ngôi mả của tôi cũ lắm rồi.
Đó là một cái nhà của một người chết đã đi đầu thai kiếp khác rồi.
Con chồn cái bỗng bỏ cái cười, buồn nét mặt lại rồi chỉ ra ngôi giáo đường trước nghĩa địa.
Tiểu giáo đường tuy chỉ để làm lễ mỗi khi đám xác nào tới đây thôi, nhưng cũng đồ sộ bằng một nhà thờ ở thôn quê. Tuy ngói đã bị tốc nhiều nơi, gạch, đá trên tường nhiều viên đã rã và rớt xuống, cửa sổ gỗ đã bung hết, cửa kính màu đã bể nát, nhưng toàn thể công trình kiến trúc gô-tích ấy vẫn còn mang cái phong độ vĩ đại của thời Trung Cổ Châu Âu.
– Anh thấy không? Chị ta nói. Nếu mình dám vào trong đó mà ở thì đâu có phạm tội như vầy.
Anh Sáu thở dài rồi không thèm chào hỏi gì cả vỗ đùi nhảy bay qua nhà anh.
Từ đó bộ ba chịu đựng nhau để sống chung nhau.
Họ khác nhau ý tứ, phong tục, thói quen, lối sống, nhưng cả ba con cáo đều có một nỗi băn khoăn chung là cả ba đều sợ: Con cáo chánh hiệu con … cáo thì sợ chó bẹc-giê, con cáo già sợ Công An, còn con hồ ly cáo cái thì sợ lính kiểm tục.
Trong cảnh khổ giống nhau, tuy họ không tương đắc với nhau được và vẫn phải tương thân để bảo vệ nhau, khi cần. Mà nhứt là để an ủi lẫn nhau.
Anh Sáu không thích đờn bà lắm. Hay nói cho đúng ra, anh đã chán chê đờn bà, nhứt là chán những hạng đờn bà như con hồ ly không bao giờ chịu xưng tên nầy.
Nhưng mà những đêm mưa dầm buồn quá, nằm giữa cánh đồng ma mà được có người để trò chuyện với nó thì ấm biết bao!
Những đêm mưa như vậy, con hồ ly không đi kiếm ăn được, mà cũng không đủ sức mạnh để nhảy qua nhà anh Sáu vì hòn đảo của anh ở xa mãi ngoài giữa dòng nước, nên hồ ly ta thắp lên một ngọn nến rồi ngồi bó gối mà ca trật lất bản nhạc “Đêm đông”.
“Đêm đông, ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng”.
Gió đâm sầm vào tiểu giáo đường đằng trước kia, tung hoành giữa gian phòng trống mênh mông rồi vừa hú vừa chui ra khỏi các cửa sổ nghe bắt lạnh mình.
Mấy cây thùy liễu hiếm hoi đã kháng cự được với lau sậy để sống sót, đứng cúi đầu khóc sướt mướt dưới trận mưa dầm, trong ánh trăng mờ.
Mộ hàng hàng như bầy cừu nằm nghỉ, gặm cỏ héo hon và vô vị, hút đắng cay trên miếng đất mồ côi (2).
Đây là chốn mà mộng đời bị cắt đứt nửa chừng, kẻ chết yên nghỉ thiên thu, mà người sống cũng khó mong trở về với xã hội loài người.
Anh Sáu nhảy bay qua nhà hồ ly, như một tay kiếm khách phi dạ hành, rồi hai kẻ ở ngoài vòng pháp luật ấy mới cùng nhau tâm sự.
Không phải kể chuyện cho khách nghe, hồ ly khỏi phải thi vị hóa buổi thiếu thời của mình, không cần lòe ai, con cáo già cũng khỏi anh hùng hóa bước giang hồ của hắn. Họ đánh bài, mà hạ bài cho nhau thấy. Bao nhiêu thúi tha nhơ nhớp trong đời họ, họ phơi cả ra như sau đêm mưa, họ phơi gối trên mồ cho nó bớt âm ẩm khó chịu.
Trời mưa cuối mùa cứ dai dẳng từ ngày nầy qua ngày khác. Con hồ ly ban đầu ăn xôi, ăn bánh mì chả lụa trừ cơm. Mãi rồi nó cũng không còn tiền để mua xôi nữa. Đất Sài Gòn, những ngày cuối tháng mà mưa dầm, thì tiền bạc nó cũng sợ lạnh, không hề dám ló ra ngoài. Nó có ló ra, con hồ ly mới ăn nem nướng được, còn nó mà trùm chăn thì chồn cái cũng đành trùm mền mà nhịn đói.
Anh Sáu cũng chẳng thấy đi uống cà-phê sáng cho ấm bụng. Cũng chẳng thấy khói thuốc bay ra khỏi mái lều của anh như mọi ngày, và lâu lâu cũng không còn nghe mẩu thuốc vứt xuống ao, tắt kêu xèo một cái.
Cả hai, vì tự ái hão, đều giả đau để nằm nhà. Anh Sáu yên thân hơn, còn dám ngồi dậy lết ra lết vô. Còn con hồ ly thì sợ anh Sáu đi ngang qua đó biết mình giả đò chăng, nên cứ trùm chiếu mãi từ sáng đến chiều.
Khó chịu quá, ngộp quá, mà anh Sáu không đi ngang qua lần nào để thấy là nàng ta đang đau ốm thì có tức hay không chớ?
Hết mưa rồi nắng. Anh Sáu ra đi. Ngang qua nhà hồ ly, anh lấy chơn lật chiếu ra thì thấy hồ ly nằm xụi lơ. Nàng đau ốm thật đó, đau một chứng bịnh cổ điển của loài người, là bịnh … đói.
Anh Sáu mau bước nhảy như con khỉ từ ngôi mộ nầy đến ngôi mộ khác và rốt cuộc ra tới đầu ngõ hẻm trổ ra phố.
Thiên hạ cứ mỗi ngày một khôn ra, cho nên, mặc dầu là cáo già, anh Sáu không còn gạt gẫm ai được nữa.
Anh buồn hiu trở lại đào viên mà ba người bạn đã mặc lặng kết nghĩa với nhau hôm mấy tháng trước.
– Chị đỡ bớt hay chưa? Anh hỏi bậy cho có chuyện.
– Có uống mẹ gì đâu mà đỡ bớt.
– Chị nghe trong mình làm sao?
– Không biết. Nhưng nếu ăn được một chén cháo thì khỏe.
Anh Sáu hiểu ngay. Anh lại thở ra, ngồi bó gối bên cạnh một người mà anh sẽ chịu đồng cảnh vài ngày nữa đây. Sở dĩ anh còn đi đứng được là nhờ anh mạnh sức, lây lất nổi thêm vài ngày.
Chiều xuống sớm và mây kéo đen nghịt trời. Ngoài kia vịt vào chuồng kêu cạp cạp. Nghe tiếng vịt kêu, anh Sáu nhớ lại người bạn thứ ba.
– Hừ, nó coi vậy mà no đó.
Bỗng một ý nghĩ nảy ra. Anh vừa mừng thì lại nghe như ai xát ớt trong ruột anh.
Nhưng biết làm sao: Đi ăn trộm vịt, không đáng gì cả, mà rủi ro thì khổ. Trong lúc mình đang trốn mà dại gì làm những chuyện xằng nho nhỏ.
Anh Sáu đứng lên nhảy bay qua nhà anh, rồi ngồi nhìn mưa bắt đầu rơi lũm chũm trên mặt ao tù.
Một con nhái hay con gì không rõ, nhảy xuống nước lội róc rách đi về đâu không biết. Gió hú trong tiểu giáo đường, gió than vãn ở các nhà mồ. Xa xa tiếng động cơ xe nổ lên, nhắc nhở rằng cuộc sống ở bãi tha ma nầy thầm lặng quá!
Anh Sáu rút cây chĩa ba, lết ra tới trước mả mà ngồi. Anh cúi mặt xuống miếng đất đọng nước, mắt lom lom rình.
Bỗng có tiếng sột soạt do con chồn khua lau sậy, nay đã chết khô rồi. Anh Sáu hồi hộp nghe tim anh đập thình thình trong lồng ngực anh. Lạ! Anh đã giết người, mà nhớ ra là anh đã không nghe mảy may sợ hãi. Cớ sao đêm nay …
Kìa một cục đen đen thò ra khỏi sàn ván. Anh Sáu cầm chĩa ba mà nhắm rồi sực một cái, mũi chĩa đâm chúi xuống trúng ngay cổ con chồn. Chồn thét lên một tiếng kêu đau, kinh sợ, rồi thôi. Trong bãi tha ma hoang vắng, không một tiếng vang lặp lại tiếng kêu thương của con vật vừa bị bạn phản bội nầy.
Dân lưu manh vẫn thế. Họ cũng biết xúc cảm, nhưng chỉ xúc cảm vậy vậy thôi. Họ nhỏ trên máu con chồn vài giọt nước mắt rồi thịt nó liền mà không nghe nhờm răng.
Thế là đêm đó hai con chồn đói xơi một con chồn no.
Họ chỉ ân hận một vài giây thôi, vì dầu sao, người bạn xấu số ấy cũng chỉ là một con chồn. Ai dư nước mắt mà khóc thú vật cho lâu!
Trời cứ mưa, mưa như cầm chĩnh mà đổ, mưa như một oanh tạc cơ định về căn cứ, đổ dốc hết bao nhiêu bom còn sót lại trên tàu, mưa cho hết ráo nước để rồi khô hạn được trong sáu tháng dài, mưa đêm chưa phỉ lại mưa ngày, mưa cho đến xương kẻ dưới mồ chắc cũng lạnh thấu tủy khô.
Ăn được bữa cháo chồn, hồ ly nghe khỏe như chị đã đoán. Sáng hôm ấy chị ra đi, căn dặn anh Sáu ở nhà, chị sẽ có tiền, một món tiền khá to, đâu như năm trăm, do một anh tình nhơn hứa biếu và hẹn hôm ấy trao cho vì hôm trước là ngày lương.
Anh Sáu thích quá, muốn ôm lấy hồ ly mà hôn một cái. Nhưng con hồ ly dơ thấy mà bắt nôn, nên anh thôi.
Độ lối chín giờ sáng, anh Sáu đang nằm ca sáu câu mùi mẫn:
Cảnh vị nhân sầu, xơ xác ngọn vi lau, nước triều mênh mông chảy … thì bỗng nghe tiếng tu huýt thổi hoen hoét ở cùng tứ phía, quanh nghĩa địa rồi giây lát sau con hồ ly nhảy như khỉ qua các nấm mồ, theo sau chị là hai người đàn ông còn trẻ.
– Trời ơi, anh Sáu kêu, mình đã dại, kể cho nó nghe duyên cớ trốn tránh của mình; nó bán mình mà ăn đây! Chồn ơi, hồn mi có thiêng chăng, về mà xem kẻ phản bội mi sắp bị trừng phạt đây.
Anh Sáu bó tay không chống cự. Anh nhìn hồ ly, không oán giận mà chỉ tội nghiệp thôi. Con hồ ly cái trốn cái nhìn của anh, ngồi day mặt vô vách lá mà đếm tiền.
 
Đêm nay, gió sao mà hú ghê rợn hơn đêm nào cả. Hồ ly giật nẩy mình, dáo dác nghe ngóng. Gì mà như anh Sáu ho bên ấy! Chị đánh diêm lên để thắp nến. Trời ơi, mới hôm qua đây, anh Sáu còn nằm bên đèn kể lại những bước phiêu lưu của anh! Hơi thở của anh, chị còn nghe như văng vẳng. Cái mặt xương của anh đậm nét lên dưới ánh đèn, như là còn ẩn hiện mơ hồ trên tấm mộ bia!
Trời ơi! Kéo cuộc đời nhơ nhớp nầy biết đến bao giờ mới thôi? Đã nhơ nhớp lại đê hèn, bước từ phản bội này qua phản bội khác cho đến một khi kia thì mình chỉ còn phản bội được chính mình.
Hồ ly rùng mình một cái, không phải vì lạnh, cũng không phải vì sợ ma, mà vì chị bỗng sợ hãi chính mình, sợ hãi con người đã vơi cạn hết chất người.
Chị ôm mặt khóc òa, rồi lẩm bẩm van vái lầm thầm:
– Trời Phật ơi, Chúa ơi, tha tội cho tôi, ngày mai tôi sẽ ra khỏi chốn nầy và ra khỏi vực đen của đời tôi nữa!
 
Chú Thích của BNL:
(1) Nơi đây yên nghỉ: Ông An-Phông Tô Ma Nguyễn Văn Nở, thất lộc năm 78 tuổi. Hãy cầu nguyện cho ông.
(2) Ý nầy của P.S. và X.V.
 
Lời bàn thêm của người tuyển:
“Thế là đêm đó hai con chồn đói xơi một con chồn no.” Bữa tiệc ấn tượng đến rùng mình. Cái kết thúc của con “chồn no” ấy ta có thể đoán trước được. Nhưng cái kết thúc của con “cáo già” thì thực sự là một bất ngờ. Xin nghiêng mình bái phục cụ Bình Nguyên Lộc. Thế còn con hồ ly? Thì… cứ đợi đấy!

Bình Nguyên Lộc
Theo: Văn Chương Việt



Bà cụ & chiếc xe chó

Dù thành phố đâu thiếu thứ rau trái gì. Dù đời sống vật chất ở vùng biên giới này chẳng dư thứ gì. Nhưng, biết đâu là giới hạn của thiếu và đủ. Thôi thì, cứ hồn nhiên cho và nhận những gì mình có – người đàn bà ít học ấy đã dạy tôi như thế!

Bà cụ & chiếc xe chó
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ. Mỹ trong nghĩa từ Hán – Việt là “cái đẹp”. Nhưng ít ai gọi cái tên ấy, người ta thường nhắc đến bà một cách nửa lạ nửa quen: bà cụ có chiếc xe chó
10 năm nay, bà con xã Phước Vinh, khu vực biên giới, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đã quen với hình ảnh bà cụ và chiếc xe chó. Bao năm qua chó Vàng cứ lầm lũi kéo xe chạy trên đường, gánh trên vai gánh nặng cuộc đời của bà chủ tội nghiệp của nó.
Cỗ xe cuộc đời
Bà Mỹ từng có chồng, có con. Chồng mất, người phụ nữ ấy hết lặn lội nuôi con, đến nuôi dâu, rồi nuôi cháu. Mấy mẹ con tần tảo xây được căn nhà. Nhà mới chưa ráo hồ thì người ta khiêng xác đứa con trai đầy máu về đặt trước mặt bà. Một “hung thần đường phố” nào đó đã cướp sinh mạng nó rồi bỏ trốn. Người mẹ ấy lặng lẽ bán cái nhà mới xây để lo tang ma và xây một cái mả tươm tất cho con.
Bấy giờ, tài sản đáng giá của người mẹ chỉ còn cái thân già, ba con chó và một con heo. Con trai chết rồi, chẳng còn ai đỡ đần. Chỉ còn đàn chó, con heo trung thành quấn dưới chân bà. Ban đầu bà lấy mấy thanh tre, ghép với hai bánh xe đạp rồi dạy cho con heo kéo. Cái loài ủn ỉn hay ăn hay ngủ chỉ kéo được mấy bước rồi lăn ra nghỉ mệt. Bà thử buộc xe vào cổ ba con chó. Không ngờ chúng kéo chạy bon bon. “Vậy là trời còn thương, cho một kế sinh nhai, di chuyển”. Bà tự nhủ rồi chất một bao gạo, một giỏ xách đựng quần áo và di ảnh của con trai lên cỗ xe chó ấy. Cứ chó kéo xe đi trước, bà đạp xe tất tả theo sau. Người và chó đi về hướng thị xã. Ngày đi. Đêm nghỉ bên lề đường. Ròng rã gần 70 cây số đến toà án tỉnh. Người mẹ quyết tâm đòi công lý cho đứa con xấu số.
Không nhớ nổi bao lâu ăn ở vạ vật bên đường để chờ đến ngày người ta tìm ra kẻ gây tai nạn, tuyên án, người đàn bà già cỗi ấy mới cùng ba con chó lủi thủi về. Đến quê, bà tặng hết số tiền người ta đền mạng sống đứa con trai cho cô con dâu, nó cũng nghèo khó và bạc phước như bà. Còn bà, dắt mấy chú chó xuống chiếc xuồng ba lá sống một đời lênh đênh.
Cuộc đời du cư cứ buổi sớm ra đồng mò ốc, mót lúa, mót mì…, buổi chiều lại cùng mấy con chó chở những thứ vừa kiếm được ra chợ để đổi lấy thức ăn. Hàng năm trời, giấc mơ của con người ấy và mấy chú chó cũng bập bênh trên con xuồng neo ở sông Vàm Cỏ. Sau trận bệnh tưởng chết trên xuồng, bà mới mua khung chòi tre với giá bằng bốn ký thịt bò. Người ta cho dựng nhờ trên một nền đất hoang bốn mùa lộng gió bên kia sông. Vậy là bà có một nơi bình yên để treo di ảnh đứa con thân yêu.
Robinson trên đồng
Nghèo, nhiều người nghèo. Khổ, nhiều người khổ. Nhưng, con người ấy đã cho tôi cảm xúc rất lạ. Lạ từ nụ cười khanh khách trên khuôn mặt đen nhẻm đầy bùn đất. Lạ từ những giọt nước mắt lăn vội khi bỏ di ảnh con vô giỏ bàng rồi treo lên cỗ xe chó chở theo những ngả đường mưu sinh. Lạ từ chuyện lần mò trồng và chăm sóc cả một vườn khổ qua, bí đỏ, rau lang xanh mướt… để cho bà con hàng xóm ai thích ăn thì cứ hái miễn phí. Lạ từ cách mỗi ngày bà đều tìm và cắm một cành hoa tươi lên vách chòi tả tơi. Lạ đến những ngày bà nhịn đói để cho mấy chú chó được no. Lạ từ sự tự vấn bản thân khi trót làm chết mấy chú chó: “Trời! Tui già rồi, mà sao tui còn ngu hết biết vậy trời!”.
Gặp tôi, bà rớt nước mắt hai lần: lần thứ nhất nói tới con trai, lần thứ hai nhắc về mấy chú chó. Cỗ xe tam cẩu giờ chỉ còn một mình con Vàng kéo. Con chó được huấn luyện đeo tờ giấy đi chợ giúp bà cụ đã bị sợi dây quấn vào cổ chết khi thò đầu xuống sông uống nước. Con chó thứ hai từng bơi qua sông kiếm người cứu chủ nhân trong đêm bà bệnh nặng trên xuồng đã bị mấy bợm nhậu bắt trộm làm thịt.
Sau khi chèo xuồng đưa tôi qua sông, bà và con Vàng lặng lẽ quay về căn chòi le lói ánh đèn chong. Nơi ấy đêm đêm chỉ còn bà cụ và con chó ngủ còng queo trên chiếc nệm làm bằng rơm khô. Phía sau xe chúng tôi nặng trĩu mấy trái bí đỏ do chính tay bà cụ nghèo trồng và hái tặng. Dù thành phố đâu thiếu thứ rau trái gì. Dù đời sống vật chất ở vùng biên giới này chẳng dư thứ gì. Nhưng, biết đâu là giới hạn của thiếu và đủ. Thôi thì, cứ hồn nhiên cho và nhận những gì mình có – người đàn bà ít học ấy đã dạy tôi như thế!
 
Y.T 

Y.T.
Theo: Diễn Đàn Net



Mùa Xuân Trên Đảo Galang(Đoan Phương)

Trong cuộc đời định cư, tôi luôn luôn sâu sắc ghi ơn Cao Uỷ Tỵ Nạn và chính quyền Nam Dương đã mở rộng vòng tay nhân đạo để cưu mang chúng tôi trong giai đoạn thập tử nhất sinh của cuộc đời. Hôm nay đây, tôi xin gửi tới Galang, hòn đảo nhỏ bé, thân thương, những tình cảm biết ơn chân thành nhất từ trái tim tôi. Đoan Phương – 1/2009

Mùa Xuân Trên Đảo Galang
 
   Con thuyền tỵ nạn nhỏ bé của chúng tôi cặp bến một hòn đảo nhỏ ở Nam Dương vào lúc chạng vạng tối một buổi chiều cuối năm. Tôi còn nhớ rõ, khi dời tầu để lội bộ vào bờ, 2 đầu gối tôi run rẩy, hai chân châp choạng, lảo đảo muốn té, có lẽ do năm ngày bốn đêm nằm dài trên chiếc ghe chật chội không đủ khoảng trống để co duỗi. Bước chân xuống nước, các vỏ sò, vỏ hến cứa vào hai bàn chân tôi rát buốt. Tuy nhiên, lúc đó tinh thần tôi bay bổng, trái tim tôi ca khúc khải hoàn, reo mừng vì sau một cuộc hành trình đầy gian nguy tôi đã tới miền đất hứa mà tôi hằng mong đợi.
   Sau những thủ tục đơn giản, chúng tôi được chuyển qua các đảo Sedanau, Kuku, rồi về trung tâm Tỵ nạn Galang. Tai đây, cuộc sống được tạm ổn định. Chúng tôi được Cao Ủy Tỵ Nạn nuôi ăn, ở, và đi học các lớp Anh ngữ để chờ ngày đi định cư. Tâm lý con người thực dễ dàng thay đổi. Sau những dồn dập mừng vui, tôi bắt đầu nhớ nhà. Mỗi buổi sáng khi tỉnh dậy, nghe tiếng sóng biển đều đều vỗ vào bờ, tôi lại tha thiết nhớ quê nhà, nhiều khi đến không cầm được nước mắt. Rồi cảm giác nhớ nhà cũng qua đi, tôi bắt đầu lo lắng cho tương lai mịt mù nơi xứ lạ khi đã định cư.
   Galang là một hòn đảo nhỏ, hoang vu của Nam Dương được Cao Uy Tỵ Nạn xây dựng thành Trung Tâm chuyển tiếp cho người Việt Nam chạy trốn chế độ Cộng Sản trước khi được nhận định cư tại một nước thứ ba. Khi tôi lên làm việc tại Bệnh Viện Galang I thì nhân viên người Việt không được hưởng thù lao mà mỗi tháng chỉ được lãnh các nhu yếu phẩm như kem đánh răng, khăn rửa mặt, xà bông, bột giặt v.v.… Phụ cấp tuy không nhiều nhưng cũng phần nào giúp đỡ cho cuộc sống khó khăn trên đảo. Bác sĩ Giam Đốc Bệnh viện, Ông Ivan Jusuff, là một người lịch lãm nên đối xử với nhân viên người Việt hết sức tế nhị. Một ngày, khi tôi đang làm việc thì được BS Evan mời vào văn phòng nói chuyện. Ông Evan cho tôi biết: “Bà Soeur, trưởng phòng Xã Hội của Cao Ủy Tỵ Nạn nhờ ông tìm một người phụ nữ VN để làm “Hội Trưởng hội Phụ Nữ” ở Galang, và ông muốn đề cử tôi”. Thực là khó nghĩ, vì trong khoảng thời gian ngắn ngủi ở lại đảo, không ai có nhiều thời gian rảnh rỗi. Những việc nấu ăn, giặt dũ, đi học Anh Văn hầu như đã chiếm hết thời giờ trong ngày. Ngoài ra, còn thêm nhiều việc không tên không tuổi khác như xách nước, lãnh đồ ăn, nghe thông cáo, nhận thư từ .… Tuy nhiên, nếu từ chối thì không tiện vì người ngoại quốc đã làm quá nhiều cho dân tỵ nạn, không lý, là người tỵ nạn lại từ chối làm việc cho cộng đồng tỵ nạn.
   Tôi được đưa vào Galang II để tiếp xúc với Soeur Marie của Cao Uỷ Tỵ Nạn vào buổi sáng hôm sau. Soeur Marie cho tôi biết nếp sống của các phụ nữ trên đảo cần được cải tiến. Bà đã nhận được báo cáo về một số phụ nữ túm năm, tụm ba đánh bài tứ sắc suốt ngày trong Barrack thay vì đi học Anh ngữ. Một số khác, sau giờ giới nghiêm còn bị nhân viên an ninh bắt gặp trong các lùm cây, bụi cỏ với bạn trai. Một vài phụ nữ trẻ đã có những liên hệ tình cảm bất chính với các nhân viên Nam Dương trên đảo để kiếm tiền. Sau cùng bà cũng nói rõ, bà muốn tôi đứng lên tổ chức các lớp dạy làm bánh, đan, may để các phụ nữ học được chút nghề trước khi đi định cư. Soeur Marie còn thúc dục tôi phải bắt tay làm việc ngay và nhấn mạnh là: Chương trình phải phù hợp với hoàn cảnh eo hẹp của ngân quỹ tỵ nạn.
   Tôi trở về, nhờ ban đại diện thông báo trên loa phóng thanh về việc muốn tìm các chị em có tay nghề về “làm bánh, thêu may, đan” để dậy các lớp nữ công gia chánh. Có lẽ không nghe nói tới thù lao, nên qua 1 tuần mà chẳng nghe ai trả lời. Trong khi đó Soeur Marie cứ đôn đốc thúc dục mỗi ngày. Sau cùng, tôi phải tự thăm dò và tìm tới tận Barrack để năn nỉ các chị em bỏ thời gian cộng tác với hội để “trước mua vui, sau làm nghĩa”. Tôi thành lập được một staff khoảng 8 người cho đầy đủ các bộ môn làm bánh, đan, và may. Buổi học đầu tiên là lớp dậy làm bánh “lỗ tai heo”, nhiên liệu chỉ có bột, mè, đường, và dầu chiên. Buổi khai trương có 20 học viên ghi tên, nhưng có diễn văn khai mạc của Soeur Marie cùng với sự hiện diện của BS Evan và vài nhân viên của Cao Uỷ Tỵ Nạn. Theo sự thỏa thuận, khi lớp học bế mạc, giáo viên có thể chia bánh cho các học viên, và lấy về nhà thưởng thức.
   Thấm thoát đã tới ngày rằm tháng Chạp, Tết nhất đã gần kề, các chị em trong Hội Phụ Nữ, ai cũng bùi ngùi vì trong hoàn cảnh khó khăn này, làm sao có thể “đón ông bà”, rồi làm sao để “đón mừng Năm Mới”. Tuy nhiên, trong lúc khó khăn, cũng nảy sanh ra nhiều ý kiến kỳ diệu. Một chị đề nghị, kỳ lãnh đồ ăn sắp tới, mọi người góp đậu xanh và đường, nấu chung một nồi chè để ăn đêm liên hoan. Một chị khác đề nghị, kỳ lãnh đồ ăn tới, mỗi người hùn vào 1 hộp đồ ăn, đem bán, mua 1 bao nhang chia cho mỗi người 3 nén để thắp cúng ông bà đêm giao thừa. Tiền còn lại, mua ít đậu phộng để nhâm nhi đêm văn nghệ. Một chị khác có ý kiến, tuần lễ trước đêm liên hoan, cho lớp làm bánh thực tập “bánh trứng nhện” vì rẻ, dễ làm, lại được nhiều. Sau khi làm, bánh sẽ được gom lại, để dành cho đêm liên hoan. Có chị xung phong trang trí không tốn kém cho hội trường bằng những bông hoa dại mọc đầy 2 ven đường ở Galang. Tôi vô cùng thán phục những phụ nữ VN đảm đang và thao vát này. Chúng tôi đồng ý, đêm liên hoan sẽ là ngày 28 Tết, lúc 6 giờ chiều, địa điểm là một lớp học tôi mượn được. Số người tham dự khoảng 25 người gồm gia dình các chị em trong ban chấp hành của hội phụ nữ.
   Gần ngày Tết, tôi cần phải hoàn tất một việc trước khi bước sang năm mới. Danh sách các cô thiếu nữ trẻ được soeur Marie nêu tên, tôi đã gặp được hết, duy chỉ có 1 cô tên Như Tâm khoảng 23 tuổi vẫn cố tình né tránh nên tôi chưa gặp được. Nhiều khi tôi nhắn mời cô tới Barrack của tôi, nhưng cô nhận lời, rồi lại không tới. Nhiều khi tôi lại Barrack của cô thì cô lại vắng mặt. Nhiều người nói nhỏ với tôi rằng, khi thấy tôi tới đầu Barrack thì cô theo cuối barrack lỉnh ra ngoài để tránh mặt tôi. Tôi rất cần nói chuyện với cô này, vì theo Soeur Marie, đêm nào cô cũng gửi đứa con khoảng 6 tháng cho người bạn cùng phòng để đi chơi với các nhân viên Nam Dương cho tới sáng. Soeur Marie còn nhấn mạnh: Qua Tết, nếu hội Phụ Nữ VN không giải quyết được thì Cao Uy sẽ làm việc thẳng với ban an ninh của chính quyền Nam Dương trên đảo.
   Thời giờ chẳng còn xa nữa, tôi suy nghĩ nát óc mới ra một cách. Tôi nhờ một chị bạn, sáng sớm tới chờ cô Như Tâm ở cửa Barrack, khi cô về thì lại mời cô tới tham dự buổi liên hoan của chúng tôi, rồi ráng tìm cách cầm chân cô cho đến khi tôi tới. Buổi sáng hôm ấy, tôi cũng phải dậy sớm. Chỗ tôi ở khá xa với chỗ của cô, lại thêm đường xá ở Galang toàn là đường đất mấp mô, dốc lên dốc xuống nên khi tôi tới nơi thì mệt bở hơi tai. Cô đứng quay lưng về phía tôi nên khi tôi tới gần thì cô sửng sốt, rồi bất chợt bưng mặt khóc. Đây là lần đầu tiên tôi gặp cô, quả là môt người đẹp tuyệt vời như tin đồn, mặc dầu không trang điểm và có nhiều nét mệt mỏi. Thấy mọi người trong Barrack chú ý, tôi nhờ chị bạn bồng đứa con cho cô, rồi rủ cô ra ngoài nói chuyện. Cô bảo tôi: “Chị ơi, em xin lỗi chị bởi vì em đã nhiều lần thất hứa với chị. Em không dám tới gặp chị vì em quá xấu hổ nhưng em thú thực với chị, nếu em không làm vậy thì con gái em sẽ phải chết.” Rồi cô thổn thức kể cho tôi: “Vợ chồng em đi vượt biên từ cửa Đại Ngãi, Gò Công. Khi vừa được chuyển từ ghe xuống “cá lớn” thì bị công an phát hiện, em nghe súng bắn tứ tung. Lúc đó chủ tàu vội vã tắt đèn và nổ máy dời bến. Em hoảng sợ kêu tên chồng em lung tung nhưng không nghe anh ấy trả lời. Hôm sau, khi trời sáng thì em mới biết là chồng em không có mặt trên tàu. Đến bây giờ em cũng không biết tình trạng chồng em sống, chết ra sao. Khi lên tới đảo, con em mới có 4 tháng, nó bị tiêu chảy liên miên, lại thêm em tự nhiên bị cạn hết sữa nên không có đủ sữa cho con bú. Em chỉ có một mình trên đảo, lại không có thân nhân ngoại quốc tiếp tế nên không có tiền để mua sữa bò cho cháu. Nhìn con mỗi ngày một tiều tụy, em không cam tâm. Chẳng thà em chịu nhục, hay chết đi còn hơn là nhìn thấy con em chết”. Nhìn cô gái trẻ nước mắt chứa chan, tôi cũng mủi lòng. Tôi hứa với cô sẽ cố gắng xin Soeur Marie cấp phát sữa cho cháu bé. Phần cô, cũng cần hứa với tôi phải chấm dứt ngay tức khắc hành động không đẹp này. Cô Như Tâm vô cùng mừng rỡ, nắm chặt lấy tay tôi và quả quyết với tôi rằng: “Nếu chị “cải tử hoàn sinh” được cho mẹ con em thì em cũng xin thề sẽ không tiếp tục làm chuyện xấu hổ này nữa”. Trước khi giã từ, tôi ân cần mời cô ra chung vui với chúng tôi vào chiều nay, 28 Tết và dự tính sáng mai, ngày 29 Tết sẽ vào Galang II để gặp Soeur Marie, trình bày hoàn cảnh của cô.
   Buổi “Mừng Xuân” bỏ túi của Hội Phụ Nử chúng tôi được bảo nhau giữ kín trong vòng nội bộ, nhưng không hiểu sao khi chúng tôi tới lớp học thì đã có nhiều người chờ sẵn ngoài cửa. Một bác lớn tuổi bảo tôi: “Chúng tôi là khách không mời mà tới, không muốn làm phiền mấy cô, nhưng đầu năm thấy cô đơn, nhớ nhà quá, mong mấy cô cho đứng ngoài nghe mấy bài ca xuân để đỡ nhớ quê hương.” Thế rồi người đem bánh, người đem kẹo, đổ hết ra bàn chung vui. Buổi liên hoan dự tính cho 25 người bây giờ trở nên trên 50, 60 người. Chúng tôi hơi hồi hộp lo sợ vì đông người, khó kiểm soát, có thể xẩy ra điều đáng tiếc. Tuy nhiên, cuộc vui diễn ra trong bầu không khí hết sức thân mật và đầm ấm. Để mở đầu, chúng tôi mời một cụ cao niên lên chúc Tết mọi người, Sau đó, là phần văn nghệ. Có rất nhiều ca sĩ nghiệp dư tình nguyện lên sân khấu. Hết bài hát về “Xuân” là mấy bài nhạc “tình cảm”. Tôi còn nhớ một anh thanh niên lên hát bài “Con Thuyền Viễn Xứ” rất truyền cảm. Khán giả im phăng phắc. Tới câu: “… quay lại xóm làng, Đà Giang lệ ướt tràn …” thì tôi nghe nhiều tiếng sụt sịt, trong đám khán giả và chính tôi cũng cảm thấy cay cay ở mắt.
   Tới 9 giờ khuya thì chúng tôi phải chấm dứt buổi liên hoan để dọn dẹp lớp học. Mọi người chia tay ra về. Lúc đó, tôi loáng thoáng thấy cô Như Tâm bồng con đứng ở cuối đám đông. Có lẽ, cô muốn chứng tỏ cho tôi thấy cô đã bắt đầu thay đổi từ hôm nay.
   Tôi rời Galang để đi định cư sau 13 tháng, lưu lại sau lưng biết bao kỷ niệm khó quên. Những ngày tạm cư ở Galang, tôi đã được chứng kiến những hoàn cảnh đau thương của cuộc đời, những phấn đấu can trường để tồn tại, và những tình cảm chân thành của những người cùng cảnh ngộ. Trong cuộc đời định cư, tôi luôn luôn sâu sắc ghi ơn Cao Uỷ Tỵ Nạn và chính quyền Nam Dương đã mở rộng vòng tay nhân đạo để cưu mang chúng tôi trong giai đoạn thập tử nhất sinh của cuộc đời. Hôm nay đây, tôi xin gửi tới Galang, hòn đảo nhỏ bé, thân thương, những tình cảm biết ơn chân thành nhất từ trái tim tôi.
                     Đoan Phương – 1/2009

Đoan Phương
Theo: Đoan Phương



MỘT NGÀY VỚI NỘI TÂM. (Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh)

Tôi đến đất Mỹ này chẳng còn gì, ngoài một lòng sắt son khi cầm bút, với chí hướng một dạ thủy chung với những người bạn còn sống hay đã chết; và một hoài bão nhỏ nhoi : Làm thế nào để không còn những cảnh đau thương như vậy nữa trên trái đất này.

MỘT NGÀY VỚI NỘI TÂM.
 
   Tôi là nhà văn, nhà báo, một văn nghệ sĩ.  Cả cuộc đời của tôi dành cho một lý tưởng: Bênh vực quyền sống, quyền làm người, quyền được suy tư, quyền được nói lên tiếng nói của mình.
Tự do ngôn luận là một trong những quyền căn bản nhất của bản Tuyên Ngôn
Nhân Quyền năm 1948. Mỗi người có quyền trình bày tư tưởng của mình bằng lời nói, bằng ngòi viết và bằng hành động . Tôi và những người khác, 14 người tất cả, đã ngồi tuyệt thực tượng trưng để nói lên ý nghĩ của mình: chúng tôi muốn có nhân quyền ở đất nước chúng tôi cũng như không còn có những tù nhân chính trị nữa.
Ý kiến của tôi có thể đúng, có thể sai, nhưng tôi có quyền nói lên ý kiến đó. Cùng với quyền đó, tôi lại phải có bổn phận tôn trọng ý kiến người khác, dù là đúng, dù là sai, nhưng tôi không thể bóp nghẹt hay bưng bít nó đi bằng cách này hay cách khác. Đó là quy luật của xã hội tự do dân chủ. Trong thời đại tiến bộ của loài người ngày nay, không thể còn có những người bị bắt bớ, giam cầm chỉ vì tư tưởng và tín ngưỡng của họ.
Những người cầm bút thường hay sống với nội tâm của họ. Một ngày một đêm sống ở ngoài trời chính là lúc sống cho nội tâm nhiều nhất.
Đêm hôm đó ngồi ngoài trời cùng với những người bạn, mới quen nhưng cùng chí hướng, tôi nhìn những ngọn nến thắp sáng trước mặt tôi, giữa đêm khuya trời lạnh. Ngọn lửa lung linh trước những cơn gío của mùa Đông miền Nam Cali khiến tôi liên tưởng đến thân phận con người lung linh như ngọn đèn muốn tắt trước cơn bão tố của bạo lực, Tôi đã nhớ … nhớ rất nhiều.
Tôi đã nhớ đến một ngọn đồi bên kia bờ Thái Bình Dưong , trên vùng cao nguyên Trung phần của đất nước thân yêu của tôi. Ngọn đồi đó ở gần một trại cải tạo, trong khu vực lao động khổ sai của chúng tôi. Vì là một miền rừng núi hoang vu, nên dù đứng xa ở phía nào chúng tôi vẫn có thể nhìn lên ngọn đồi đó. Chúng tôi gọi là “Vườn sắn” nhưng thực ra đó là nơi chôn người, chôn những người tù cải tạo đã chết trong trại tù. Mỗi lần vác cuốc, vác rìu đi lao động, chúng tôi nhìn về Vườn Sắn và tự hỏi phải chăng chuyến đi lên đó sẽ là chuyến đi cuối cùng của cuộc đời mình. Bởi vì chúng tôi đã biết đi tập trung cải tạo là có đi mà ít có về.
Rồi có những ngày, tình cờ ngước mắt nhìn lên ngọn đồi, chúng tôi thấy hình ảnh thê lương trên sườn đồi in rõ trên nền trời xanh biếc: Bốn người tù cải tạo khiêng một cái hòm làm bằng ván sơ sài theo sau là một Vệ binh Công an áo vàng vác súng . Chúng tôi buông cuốc cúi đầu khẽ thở dài. Chúng tôi biết lại có một người bạn vĩnh viễn từ gĩa chúng tôi rồi.
Tôi còn nhớ, nhớ khá nhiều bạn bè của chúng tôi đã an nghỉ trên đồi. Tôi còn nhớ anh Trung Tá Nguyễn Văn Thanh ở Nam Hà về đây, bị đánh chết, cũng nằm ở đó.
Tôi còn nhớ 5 người bị cùm nhiều nhất ở Gia Trung, Người thứ nhất là anh Thiếu tá Trần Văn Kính, sau khi tháo cùm được một ngày, đã chết tức tưởi. Tôi nhớ anh lắm, vì trước khi lìa đời, anh còn nói được một câu : “ Khánh ơi ở lại nhé!” Suốt đời tôi, chắc tôi không thể nào quên câu nói này. Người thứ hai là anh Trung úy Võ Hồng đã chết vì kiết lỵ chỉ vài ngay sau khi được tháo cùm. Còn lại ba người còn sống đến nay, nhưng không phải là quân nhân mà là dân sự, Người thứ nhất là nhà văn Nguyễn Sĩ Tế, Tiến sĩ văn chương Pháp, Anh không chết, nhưng khi được tháo cùm sau 9 tháng kiên giam, tôi thấy anh quay đi một vòng rồi ngã vật xuống như một cái cây bị đốn gốc và đổ nhào. Người ta phải khiêng anh đi cấp cứu.
Người thứ hai là luật sư Mai Văn Lễ, Tiến sĩ kinh tế của Harvard. Anh Lễ không ngã nhào, nhưng sau khi tháo cùm,  anh chống hai tay bò lết, vì hai chân anh đã bị liệt.
Người thứ ba là tôi. Tôi không té, không bò, nhưng tôi phải vịn vào tường mới đi được, vì lúc đó tôi chỉ còn da bọc xương. Thấy tôi lúc đó người ta gọi tôi là “Cái thây ma biết đi” hoặc khôi hài hơn, có anh bạn bảo tôi: : ”Tôi thấy anh đi trên bờ ruộng mà chỉ sợ có ngọn gió nào thổi mạnh là anh sẽ  bay đi như chiếc lá”.
Tôi còn nhớ… những người bạn thân yêu của tôi, những người bạn cầm bút, những nhà văn, nhà thơ, nhà báo, đã bị lùa đi cải tạo vào mùa xuân năm 1976 cũng chỉ vì những gì họ đã viết, vì tư tưởng, vì chánh kiến của họ. Rất nhiều… rất nhiều .. nhưng hỡi ôi, đã có những người gục ngã trước cơn gió của bạo lực.
Hồ Hữ Tường chết ở Hàm Tân, Nguyễn Mạnh Côn chết ở Xuân Lộc. Hiếu Chân chết ở khám Chí Hoà, Dương Hùng Cường chết ở T.20.
Hai người anh kính yêu của tôi là Vũ Hoàng Chương và Trần Việt Sơn đã được thả về để …chết ở nhà sau khi đã quá kiệt lực trong những năm tháng tù đầy . Cả người bạn của tôi, Minh Đăng Khánh cũng đã chết sau khi về nhà vì tê liệt.
Những người còn sống, sau khi thoát nạn, đã tủa đi khắp phương trời bằng cách này hay cách khác. Riêng ở Mỹ này, đã có Nguyễn Sĩ Tế, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Hồ Văn Đồng, cũng như một số người đã sang Âu, sang Úc và tất nhiên cũng còn những người ở lại quê nhà… Chúng tôi những người có may mắn được cầm bút trở lại, chẳng thể nào quên những người anh em mình. Cũng chẳng thể quên bà con, đồng bào mình.
Ở Gia Trung, người tôi nhớ nhất là một người con gái, con của Trung Tá Lò Văn E, Gốc người Thái của miền thượng du Bắc Việt. Anh Lò Van E đi cải tạo đến lúc đó là đã 6 năm trời mà không được tin tức gì về gia đình. Anh sống rất kham khổ thiếu thốn, vì tự ái ít khi chịu nhận sự giúp đõ của bạn bè may măn hơn có gia đình tiếp tế. Rồi một ngày kia, anh nhận được một tin mừng: Đó là lá thư của con gái anh, viết thay cho mẹ, nói rằng trong mấy năm qua mẹ con quá lam lũ khổ sở, không kiếm nổi kiếng ăn, có lẽ vì gốc người thiểu số không quen buôn bán, nhưng bây giờ thì dành dụm được hút tiền rồi, nhất định sẽ cho con gái lên thăm anh và cho anh chút quà.
Khoảng một tháng sau, quả nhiên cô con gái lên thăm cha cô, đến trại thì trời đã chạng vạng tối, nhưng hỡi ôi, đúng lúc cô đặt tờ giấy phép xin thăm trước mặt người Công an giữ nhà thăm nuôi thì cũng là lúc mà trong trại tù, anh Lò Van E đã trút hơi thở cuối cùng, vì bao năm thiếu dinh dưỡng và kiệt lực. Cô con gái chỉ còn được phép nhìn mặt cha lần cuối và nức nở khóc như mưa.
Sáng hôm sau, tôi tình cờ cuốc đất bên con đường đi lên “Vườn Sắn”, Tôi thấy bốn người bạn tù cải tạo đòn sóc khiêng cái quan tài làm bằng ván thông của anh Lò Văn E, và theo sau ngoài anh lính vác súng đi theo như thường lệ, còn có cô con gái của anh. Lần đầu tiên một người bên ngoài được đi theo quan tài của một người tù cải tạo chết trong tù. Trời ơi, tôi làm sao quên nổi hình ảnh đó. Cô con gái đi theo cha lần cuối, mà mặt cô lạnh như băng, mắt cô không còn nhòa lệ nữa, mà thay vào đó là một đôi mắt mở trừng trừng, tôi có cảm tưởng như đôi mắt đó đang tóe ra những tia lửa căm hờn, và công phẫn đén cùng độ. Không, tôi không thể nào quên.
Tôi cũng côn nhớ đến chị Quách Thị Thu Hương đến trại thăm chồng đem theo một đứa con gái còn nhỏ tuổi. Nhưng khi chị đến trại, chưa kịp gặp mặt chồng thì đêm hôm đó, chị ngã bịnh rồi chết luôn ở nhà thăm nuôi. Chị đã thay chồng nằm an giấc ngàn thu trong nghĩa trang của những người tù cải tạo chăng? Tôi không nhìn thấy , nhưng đã nghe thấy những chuyện đau thương, chẳng hạn có người vợ hiền lặn lội đi thăm chồng cải tạo miền Thanh Hoá Nghệ Tĩnh, đến nơi chỉ còn gặp nấm mồ của chồng mới chôn, chị đã cắt tóc rải lên nấm mồ trước khi ra về, cũng như chuyện một người vợ khác đào huyệt lấy xương của chồng đem về miền Nam chôn cất…
Và tôi nhớ… Tôi nhớ đến biết bao người vợ hiền, chung thủy, đã vượt đèo trèo suối, gồng gánh, xách mang trên những nẻo đường rừng xa tắp, lên thăm chồng trọn tình nghĩa phu thê, chỉ cốt đem lại một chút thức ăn, mong chồng đủ sức tiếp tục cuộc sống tù đầy để một ngày kia còn có hy vọng gặp lại được vợ con.
Tôi đến đất Mỹ này chẳng còn gì, ngoài một lòng sắt son khi cầm bút, với chí hướng một dạ thủy chung với những người bạn còn sống hay đã chết; và một hoài bão nhỏ nhoi : Làm thế nào để không còn những cảnh đau thương như vậy nữa trên trái đất này.
15/12/1992.
Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh.           

Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh
Theo: Văn Thơ Lạc Việt



Hồi Âm Giòng Đời

Bài “Hồi Âm Giòng Đời” đăng trên Ngày Nay đã gây một xôn xao dư luận, nhất là trong dư luận Không Quân. Ở một vài nơi, có những báo khác đăng lại. Đây là chuyện tình cảm động của thế hệ chúng ta, với đầy đủ tính cách bi thương, lãng mạn, chung thủy và đằm thắm biết bao, trong bối cảnh đau thương của đất nước, với cuộc phân tranh đối đầu chủ nghĩa, huynh đệ tương tàn.

  
Anh Duy thân mến,
 
 
            Em ngồi viết lá thư này cho anh khi cơn mưa vừa mới tạnh. Cơn giông miền nhiệt đới ào ạt, kéo dài độ chừng hai tiếng đồng hồ, nhưng cũng đã làm cho cái nóng oi bức của Sàigòn dịu bớt. Mưa đã dứt, chỉ còn những giọt nước nhỏ thỉnh thoảng tí tách rơi trên miếng tôn mỏng hứng nước bên hiên nhà. Nghe tiếng giọt nước gõ đều đặn, rồi nghe tiếng nhịp tim mình đập, em bỗng thấy hình như mình mang một tâm trạng bồi hồi. Đặt bút viết là thư này cho anh, lòng em cũng cảm thấy bồi hồi như thủa ấy cầm tay anh lần đầu, mà không ngờ cũng là lần chào ly biệt…. Không biết rồi lá thư này có thể đến tay anh? Nếu may mà thư đến, đọc xong anh sẽ nghĩ gì? Thôi em cũng liều… Cầm bằng như gió mang đi…
 
            Tuần trước em đến thăm chị Hạnh, người bạn làm việc cùng cơ quan với em trước đây. Chị ấy xin phục viên sớm, vì đồng lương nhà nước trả không đủ sống. Chưa kể là đôi ba tháng nhà nước không có tiền
phát cho nhân viên. Chị Hạnh bây giờ làm nghề buôn chui sách báo nước ngoài. Ở chỗ này thì em phải giải thích thì anh mới rõ tại sao ngày nay nước mình lại có cái nghề lạ như vậy. Từ ngày các nước xã hội chủ nghĩa anh em ngưng viện trợ, nhà nước cần ngoại tệ nên họ đã mở cửa, khuyến khích người Việt ở nước ngoài về thăm quê hương. Tuy có lệnh kiểm soát gắt gao ở các cửa khẩu hải quan những món hang quốc cấm như sách báo tuyên truyền của phe tư bản, nhưng tệ nạn tham nhũng tràn lan không có cách gì ngăn cản nổi. Vì thế, du khách chỉ cần đút lót vài ba bao thuốc thơm, chiếc đồng hồ rẻ tiền..v.v… thì cái gì to như con voi qua cũng lọt. Người dân ở quê nhà bây giờ không ai them đọc báo nhà nước, ngày nào ngày ấy tin tức đều nhai đi nhai lại một luận điệu cũ rích. Người ta còn khôi hài nói rằng chỉ có tin tức khí tượng là không sặc mùi tuyên truyền, còn hầu hết đều… cuội! Vì thế dân chúng mới lén lút thuê hoặc mua lại báo chí bằng Việt ngữ hay bằng ngoại ngữ xuất bản tại nước ngoài.
 
            Gặp em, chị ấy vội kéo vào buồng trong nói nhỏ:
 
            – Này Nga, tôi có món quà này, chắc Nga sẽ thích vô cùng

            Em chưa kịp hỏi chi ấy món quà gì, chị Hạnh đã dúi vào tay em một tờ báo.

            Chị nói:
 
            – Dấu cho kỹ vào người đi! Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng rồi hãy đem ra đọc. Đọc để xúc động vì “người ta” còn nhớ tới mình!
 
            Nhìn trang bìa tờ báo có hình một nửa chiếc máy bay phản lực đậu trên phi đạo và tên tờ báo là Ngàn Sao, lại nghe chị Hạnh nói bóng gió xa xôi, em linh cảm một điều gì đó rất mơ hồ. Nửa năm trước,chú Lâm từ bên Mỹ đi công tác cho hãng về Việt Nam đến thăm em. Chú ấy nhắc đến anh, đến tình cảm anh vẫn âm thầm dành cho em. Giác quan thứ sáu xui em liên tưởng đến một điều gí đó (mơ hồ thôi) rằng anh, chàng Phi công Cộng Hòa lãng mạn, có thể đem chuyện tình hai đứa dệt thành văn? Cầm tờ báo trên tay, em run còn hơn bị B-52 trải thảm hay như hồi sơ tán phòng không ở Việt Bắc. Chị Hạnh trấn an:
 
            – Làm gì mà run dữ vậy? Bề nào Nga cũng là cựu sĩ quan quân đội nhân dân, công an nào dám đụng đến?
 
            Em run không phải là sợ công an khám xét thấy mình mang món hàng quốc cấm. Em run vì không hiểu điều dự đoán của mình có phải là sự thực. Em run vì liên tưởng đến người bạn năm xưa vẫn còn nhớ đến mình. Anh đừng cười em già rồi mà còn vớ vẩn.
 
            Chị Hạnh là người bạn sát cánh với em vào thời kỳ chiến đấu dọc Trường Sơn. Chị ấy cũng là con nhà tiểu tư sản như mình, nên em thường nhỏ to tâm sự trong những lúc dừng quân. Em có kể cho chị ấy nghe về anh, người bạn học cùng trường thủa thiếu thời.
 
            Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng, mọi người đều đã say giấc nồng, em len lén đem tờ báo ra chong đèn lên đọc. Em đọc từng trang, rồi em dừng lại ở bài viết mang tên tác giả Duy Lạc,”Chắc chắn là anh đây rồi?!” Em tự nhủ: Quả nhiên đúng như điều em dự đoán.
 
            Thời gian trôi nhanh quá anh nhỉ? Thấm thoát đã bốn mươi năm rồi còn gì? Bao nhiêu tấn tuồng dâu bể diễn ra! Bao nhiêu nước chảy dưới cầu! Hai mái tóc xanh của đôi trẻ ngày nay đã bắt đầu điểm trắng.
 
            Chiến tranh bùng nổ, anh từ Sàigòn về lánh nạn ở quê nhà. May mắn thay giặc chưa thể tràn về vùng đất của mình, nên chúng ta có một thời kỳ bình yên. Khí thế bừng bừng của phong trào giành độc lập
xứ sở bốc cao khiến tất cả thanh niên hăm hở lên đường làm anh vệ quốc quân. Tuy bọn mình còn nhỏ mà trong trí óc non nớt cũng đã thấy lòng rộn ràng vui thích như đi trẩy hội ngày Xuân. Em còn nhớ đêm lien hoan, anh hát bài “Nhớ Chiến Khu”. Lúc bấy giờ nghe giọng anh run run, em cứ tưởng anh vì cảm thương nỗi nhớ nhà của anh vệ quốc quân trong núi rừng thâm u; nào dè anh run …vì ánh mắt ngưỡng mộ va say mê theo dõi của em. Thì ra nhãn lực của em cũng khá đấy anh Duy nhỉ?
 
            Dạo ấy lần đầu tiên nghe anh trả bài thầy giáo, em mới để ý thấy cách phát âm của anh khác với những học trò con trai trong huyện. Chẳng hạn, “mờ mịt” thì anh phát âm thành “mờ mịch” hay “vui quá” thành “vui góa”. Và còn nhiều chữ độc đáo nữa…
 
            Mới đầu bọn học trò trong lớp, rồi về sau bọn học trò của cả trường thường nhại cách phát âm ấy để trêu ghẹo anh. Thoạt tiên em cũng cười hùa theo bọn chúng, nhưng thấy anh chẳng phản ứng gì, mà chỉ nhún vai cười khỉnh rất là… Sàigòn, tự nhiên em đâm ra thích cái giọng ấy mới kỳ chứ! Mỗi lần đến giờ học, em đều cầu mong thầy giáo gọi anh lên trả bài để em được nghe cái giọng ngồ ngộ ấy.
 
            Anh còn nhớ lần đi cắm trại đầu tiên do nhà trường tổ chức trước vụ Hè 51 không? Lớp mình chia làm bốn toán mà anh thì ở toán A, còn em ở toán B. Khi đến nơi, ai nấy đều lo căng lều dựng trại của toán mình, trong lúc đó anh lại chạy sang loay hoay giúp em làm chuyện này chuyện kia. Cử chỉ lăng xăng của anh có vẻ vụng về, khiến cho em vừa buồn cười vừa cảm động. Vì thế, buổi tối họp lửa trại, em mới lén dúi vào tay anh củ khoai em vùi trong bếp lúc nấu cơm chiều. Em còn trêu:
 
            – Trại sinh bên toán B ăn hết “thịch” (thịt)cá rồi, em chỉ còn củ khoai nóng này tặng anh dùng đỡ cho “dzui”! Chẳng những anh không giận vì bị em nhái giọng, anh chìa tay ra cầm củ khoai một cách hồn nhiên, mà miệng còn ấp úng nói gì nghe không rõ, em bỗng cảm thấy thương anh chi lạ!
 
            Dân trong làng kế cận khu cắm trại, tối đến xong việc đồng áng cũng ra tham dự trò chơi lửa trại của đám học sinh. Ánh lửa hồng chờn vờn nhảy múa ngọn thấp ngọn cao, nhịp nhàng lung linh với tiếng đàn guitar bập bùng của anh tạo nên cảnh tượng kỳ ảo rất liêu trai. Con Thủy, con gái ông Xã Tài; con Nhạn, con gái ông Lý Trân, ngồi bên em cứ huých cùi chỏ vào hông em từng chập, mỗi lần chúng nó trông thấy anh gật gà gật gù theo điệu nhạc trầm bổng. Dường như lúc bấy giờ anh say sưa với âm thanh của từng nốt nhạc, không thèm biết gì đang xảy ra chung quanh. Khách quan nhận xét, cả huyện mình đâu có cậu học trò nào chơi đàn ngọt như anh? Chúng nó cũng khoái và để ý “người Sàigòn” có mái tóc chải bảy ba tango lắm đấy! Anh có biết rằng anh đã lọt vào mắt xanh của bọn học trò con gái tinh quái ấy không?
 
            Em còn nhớ tính anh ít nói. Trong lúc mọi người ngồi huyên thuyên, thình thoảng anh chêm một câu pha trò hóm hỉnh mà nhiều khi người nghe không tinh ý, phải mất ba, bốn ngày sau mới hiểu. Cái tính “nghịch” ấy ngày nay anh vẫn không bỏ. Trong bài “Giòng Đời”, em vẫn đọc thấy thấp thoáng cái văn phong đó. Anh cao lớn, nhưng không gầy như cây sậy và anh đâu có đen đúa xấu trai như anh tự chế diễu mình trong bài văn? Lại còn bày đặt tự chê mình học dốt!
 
            Xong màn văn nghệ và đọc tin thời sự về những chiến thắng công đồn đả viện của bộ đội cụ Hồ cho dân chúng nghe, bọn học trò chạy xuống bờ biển nô đùa với sóng nước. Em nhớ đêm đó trăng lên muộn và trời trong xanh không một vẩn mây. Hình như đốm lửa trại cuối cùng tàn lụi rồi trăng mới lên. Khác với những học trò khác cùng lớp, anh không xuống bờ cát giỡn nước, giỡn trăng. Em thấy anh ngồi tựa lưng vào một cây dừa lả ngọn và đôi mắt đăm chiêu nhìn ra trùng khơi. Anh ngồi yên một cách thư thái, tự tại, đẹp như một pho tượng! Em biết rồi, người đó đang mơ mộng vì người đó đang yêu?! Lúc bấy giờ những cơn sóng bạc đầu phản chiếu ánh trăng nhấp nhô vờn nhau xô vào bờ, có làm cho tim anh xao xuyến, hởi người nghệ sĩ với cây đàn?
 
            Em là con gái, trời ban cho em cảm nhận bén nhạy hơn con trai. Kinh nghiệm đời trải qua, chắc bây giờ anh đã hiểu rõ điều đó. Hồi ấy, mới thoáng thấy cử chỉ ân cần và ánh mắt trìu mến của anh nhìn em trong lớp học, ngoài sân trường, em đã đọc được ý nghĩ thầm kín của anh. Nhưng em là con gái, đặt biệt vào thời buổi ấy, luân lý và bản tính rụt rè của phụ nữ đâu cho phép em có một cử chỉ gì gọi là biểu đồng tình, dù trong thâm tâm em cũng rất cảm mến anh. Cũng có những đêm nằm một mình vẩn vơ bên cửa sổ ngắm trăng, bỗng nhiên ngửi thấy mùi hoa cau bưởi từ đâu đưa lại, em chợt thèm có anh bên cạnh để… ngắm anh (!) Hoặc để luồn những ngón tay thon nhỏ của mình vào tóc người yêu. Đó là cái rạo rực rất tự nhiên của người con gái ở tuổi dậy thì khi biết mình đang có một anh chàng đang ngấm nghé.
 
            Em đã đọc đi đọc lại nhiều lần lá thư anh trao. Vì sự bất cẩn của em, con nhỏ Thủy – con gái ông Xã Tài – đọc trộm lá thư em dấu trong sách cho mượn, thế là nó đem đi mách lẻo với mọi người, gây ra sự hiểu lầm đáng tiếc khiến anh sinh lòng oán hận em. Nếu lá thư ấy bị một người bạn gái nào khác đọc thì chẳng đến nỗi nào. Đằng này con nhỏ Thủy vốn thầm yêu trộm nhớ anh, nên khi nó vớ được lá thư là nó kháo ầm lên để anh phải thẹn thùng với đám bạn gái của em và hai bà chị họ. Nghĩ lại, em chẳng phiền trách gì nó. Âu cũng là tại sợi chỉ hồng không se duyên cuộc tình chúng mình!
 
            Ngày anh cầm tay em lần đầu (và cũng là lần cuối), em đã khóc, đã hết lòng gạn hỏi tại sao anh bỏ học và cố tình lẩn tránh em. Anh cứ lầm lì im lặng. Không ngờ bữa đó anh đã quyết định xuống tàu trở lại chốn phồn hoa. Tuổi trẻ thường hay đặt tự ái quá cao! Anh đi biền biệt để lại cho em nỗi nhớ đoạn trường. Em thẩn thờ biến nhác việc học hành và công việc trong nhà. Ba mẹ không hiểu chuyện cứ rầy la. Bỗng nhiên em cung sinh lòng trách cứ anh. Anh đã từ phương xa lại, mình gặp gỡ nhau, anh gieo vào lòng em một vết thương,rồi anh lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt. Bạn bè em một đôi đứa đem long thương hại, vài đứa trêu ghẹo em mang mối sầu tương tư. Em lại càng giận anh hơn.
 
            Năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ chia đôi đất nước. Một số người trong làng xã tập kết ra Bắc. Gia đình em vẫn ở lại vì thuộc thành phần địa chủ. Tổng Thống Diệm về nước, đẩy mạnh chiến dịch Tố Cộng. Gia đình em không bị ảnh hưởng gì, vì người ta biết thời ấy ai cũng chống Tây. Nhưng chỉ có một số cán bộ Tố Cộng của ông Diệm lợi dụng quyền thế, thấy em có nhan sắc nên họ gây nhiều khó dễ để cưỡng bách em trao thân gởi phận. Nếu em liều mình nhắm mắt đưa chân, chắc chắn em sẽ cũng được yên thân. Nhưng tính em ương ngạnh, không chấp nhận sự hà hiếp, em bèn tìm đường lên núi để rồi ngả về phía bên kia. Thân gái dậm trường, liều mình bỏ gia đình ra đi đến phương trời vô định, em nào muốn làm một cuộc phiêu lưu? Nhưng định mệnh nghiệt ngã đã đẩy em thành một kẻ ruồng bỏ quê hương!
 
            Anh Duy yêu dấu,
 
            Nhiều đêm em đã khóc, vì nỗi bơ vơ của mình nơi xứ lạ quê người. Em nhớ đến anh thật nhiều. Nhớ đến kỹ niệm của những đêm trăng ở làng quê mình, của những buổi chiều hai đứa rong chơi lang thang trên bờ ruộng lúa vừa mới gặt, của mùi hương ngai ngái từ gốc rạ thoảng đưa trong gió. Và em còn nhớ đến cái giọng Sàigòn ngồ ngộ của anh nữa!
 
            Sự đãi ngộ ở miền Bắc không tốt đẹp như những gì mà “người ta” đã ngọt ngào dụ dỗ em. Cũng như những bộ mặt đàn ông nham nhở (xin lỗi anh) tìm đủ mọi cách chiếm đoạt em. Ở vào bước đường cùng, lần này em đành nhắm mắt đưa chân. Em kết hôn với một ông sĩ quan già hơn em mười lăm tuổi. Trong bài “Giòng Đời” anh kể rằng em làm lẽ một viên tướng già là không đúng sự thực. Nhưng mà thôi, không sao! Làm vợ chính thức hay làm lẽ, số phận em vẫn hẩm hiu “bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi!”
 
            Chiến tranh ngày càng lan rộng và khốc liệt. Phi cơ oanh tạc hầu như mỗi ngày. Đa số nhân dân miền Bắc đều mong mỏi được quân đội miền Nam giải phóng, vì họ hết chịu đựng nổi đói khổ và cuộc sống hắc ám, rình rập. Em là người miền Nam tập kết muộn. Tập kết vì tưởng mình sẽ đến một nơi như thiên đàng, chứ không phải vì lý tưởng hay bị huyễn hoặc bởi cái chủ nghĩa hứa hẹn không còn cảnh người bóc lột người! Em chỉ tha thiết một điều: Chiến tranh sớm chấm dứt, hòa bình mau trở lại để em được quay về xóm làng xưa. Em tình nguyện xung phong đi chiến trường B (tức là xuôi Nam) với hy vọng nhìn lại Bố Mẹ già và đàn em dại. Em lên đường như một người tìm về nơi chôn nhau cắt rốn, chứ không phải là kẻ lên đường “làm nghĩa vụ quốc tế” như người ta cổ võ đề cao. Trở về đó, em lại nghe tin đồn phong phanh rằng anh đã trở thành người phi công khu trục của chính quyền Sàigòn. Chao ôi! có lần nào anh say sưa oanh kích mà dưới ấy là chỗ đóng quân của em? Nếu chẳng may bị trúng đạn phòng không, anh nhảy dù xuống và em là người băng bó cho anh, thì không hiểu bọn mình phải xử trí ra sao trong tình huống ấy? May mà điều ấy không bao giờ xảy ra để chúng ta khỏi bị ngỡ ngàng.
 
            Có lần em nhặt được tờ truyền đơn kêu gọi chiêu hồi từ trên phi cơ thả xuống. Em vội dấu kỹ tờ truyền đơn vào lần túi áo trong để chờ dịp thuận tiện là trốn thoát, nhưng cơ hội không bao giờ đến với em cả!
 
            Khi miền Nam được “giải phóng”, em nghĩ rằng đây là cơ hội em có thể tìm gặp người bạn tình năm xưa.. Em biết rằng gặp nhau thì đôi ta mỗi đứa ván đã đóng thuyền, không còn hy vọng gì chấp nối, nhưng ít nhất mình cũng còn được thấy nhau sau mấy mùa chinh chiến. Niềm hy vọng ấy vội tan biến khi em biết rằng anh đã ra đi nước ngoài. Tâm tình em xen lẫn hai nỗi buồn, vui: Buồn vì không gặp được anh và vui vì anh không phải rước cảnh tù đày. Anh còn nhớ Loan, em gái của em. Nó kết hôn với Cảnh, một người Thiếu tá trong quân đội Cộng Hòa. Chồng nó bị đưa đi “học tập cải tạo”, rồi chết vì lao lực trong rừng thiêng nước độc và vì thiếu dinh dưỡng. Loan nhờ chồng em can thiệp cho Cảnh. Như anh biết đấy. Tuy chồng em là tướng Việt cộng mà cũng đành bó tay bất lực. Từ đó Loan không bao giờ nhìn mặt em nữa. Chị em cật ruột bỗng hóa thành kẻ thù. Nỗi khổ tâm ấy do ai gây ra, mà một mình em phải hứng chịu sự khinh khi của gia đình? Tại sao em phải chịu nhiều điều oan nghiệt thế hở anh Duy?
 
            Năm kia, chú Lâm về Sàigòn, chú ấy kể rất nhiều chuyện về anh. Em vô cùng xúc động vì anh vẫn giữ được trong ký ức hình ảnh và tình cảm trân trọng đối với người bạn gái đầu đời. Vận nước điêu linh, thế hệ chúng mình chẳng may phải hứng chịu nhiều thua thiệt. Thật là vô lý khi hai kẻ yêu nhau trở nên vô tình quay mũi súng bắn vào nhau. Ước mong sao những lớp người thuộc thế hệ mình nhìn rõ chân lý để cùng nhau xây dựng lại xứ sở hoang tàn bởi một thứ chủ nghĩa ngoại lai phi nhân. Mình phải có bổn phận nói rõ cho con cháu nên lấy thương yêu, chứ không phải hận thù, bù đắp những lỗi lầm của người đi trước. Có như thế thì mới hàn gắn được những đổ vỡ lớn lao trong quá khứ.
 
            Đúng bốn mươi năm trước, dưới rặng dừa ở làng quê, anh e ấp trao em lá thư tỏ tình. Anh nao nức chờ đợi hồi âm. Em chưa kịp hồi âm thì không may xảy ra chuyện hiểu lầm. Bốn mươi năm sau, (nhờ đọc được bài văn của anh trên báo), từ phương trời này, một người đàn bà góa bụa và mái tóc đã bắt đầu điểm sương lại ngồi viết thư cho người bạn tình xa cách nửa vòng trái đất để kể lể chuyện đời. Xin cám ơn anh đã cho em một chút nắng trong buổi chiều tàn, “Một Chút Mặt Trời Trong Ly Nước Lạnh!” Đời em truân chiên đã gặp nhiều bất hạnh, nhưng kể từ khi đọc những dòng tâm tư của anh trên trang báo, em cảm thấy được an ủi phần nào. Bây giờ thì em mới biết ở nơi cuối trời xa thẳm kia có một chàng trai Sàigòn thủa nào vẫn còn giữ trong tim hình ảnh và kỹ niệm đằm thắm của người yêu ban đầu.
 
 
            Thư viết cho anh đã khá dài. Những giọt nước mưa trên má nhà cũng đã thôi gõ đều đặn xuống tấm tôn. Đêm đã xuống từ lâu. Cảnh vật yên lặng như tờ, nhưng dường như trong tiềm thức em vẫn nghe tiếng sóng biển rì rào và âm thanh xào xạc của những ngọn lá dừa cọ xát vào nhau. Biết bao giờ hai chúng ta có thể lại cùng nhau dạo chơi hóng gió chiều và nghe sáo diều trên đường làng quê cũ anh nhỉ? Ấy chết! Em lại lẩn thẩn mất rồi! Đừng! Chúng mình không nên gặp lại nhau để anh còn giữ trong trí nhớ hình ảnh con bé Nga mười mấy tuổi, má lún đồng tiền và nụ cười răng khểnh.
 
            Em xin dừng bút. Cầu chúc anh dồi dào sức khỏe và gia đình gặp nhiều sự may mắn, an khang, thịnh vượng. Và xin anh nhớ cho rằng ở nơi xứ sở nghèo khó này vẫn có một người luôn luôn thương nhớ anh.
 
 
Thân ái,
Em gái anh, Nga
 
 
Tái bút: Để tránh sự kiểm soát của nhà nước, em trao lá thư này cho một sĩ quan sắp sang Mỹ theo diện H.O. và nhờ ông ta gửi đến chú Lâm bằng đường bưu diện. Em hy vọng rằng chú Lâm vẫn còn ở tại địa chỉ mà chú cho em trước đây. Đọc thư em, ước mong anh sẽ hài lòng khi thấu rõ tâm tình của em.
 
Nga Sài Gòn



Giòng Đời

“Giòng Đời” là một bài văn hồi tưởng về cuộc tình lỡ của tác giả trong thời niên thiếu. Đó là mối tình đầu,như rất nhiều mối tình đầu dang dở khác, ở cái thời đại mà tình yêu trai gái coi như trái cấm bởi vòng rào luân lý, và quan niệm tương giao nam nữ khắt khe của xã hội đương thời.

 
GIÒNG ĐỜI….
VÀ HỒI ÂM GIÒNG ĐỜI…
            Đầu tháng 9-96, báo Ngày Nay ở Houston có đăng một lá thư,tác giả là một người đàn bà ký tên Nga (Sàigòn) gửi cho người yêu cũ Duy, tức Đại Tá Không Quân Đặng Duy Lạc, người đã viết đoản văn “Giòng Đời” trên Đặc san Ngàn Sao của Hội Không Quân Houston, số mùa Hè 92 với bút danh Duy Lạc.
            “Giòng Đời” là một bài văn hồi tưởng về cuộc tình lỡ của tác giả trong thời niên thiếu. Đó là mối tình đầu,như rất nhiều mốitình đầu dang dở khác, ở cái thời đại mà tình yêu trai gái coi như trái cấm bởi vòng rào luân lý, và quan niệm tương giao nam nữ khắt khe của xã hội đương thời. Biết bao mối tình trong sáng, ngây thơ, chất phác, như những đóa hoa yêu hoa lệ nở rụt rè, rồi tan vỡ,để lại trong văn chương nhiều chuyện tình đẫm lệ, dư âm còn mãi đến bây giờ.
            Trong phần giới thiệu, Ngày Nay viết: “… Tác giả (Duy Lạc) kể lại mối tình đầu của mình vào thời niên thiếu,lúc cắp sách đến trường huyện với một người con gái tên Nga học cùng lớp. Lúc đó, vào dịp toàn dân kháng Pháp, 1945. Thời thế sau đó đổi thay,ông Duy Lạc vào Nam, rồi trở thành một Sĩ quan Không Quân Việt Nam Cộng Hòa. Còn cô Nga trở thành một người lính của phía bên kia, vượt Trường Sơn vào Nam.
            Chuyện không ngờ là tờ Ngàn Sao lọt được về Sàigòn, và cô Nga ngày xưa được đọc bài “Giòng Đời” và sau đó,viết một bài chuyển ra ngoài với tên “Hồi Âm Giòng Đời”… Đây là một bức thư tâm tình riêng tư giữa hai người bạn lòng, nhưng tình tiết ghi lại một giai đoạn phân ly nghiệt ngã của đất nước…”
            Bài “Hồi Âm Giòng Đời” đăng trên Ngày Nay đã gây một xôn xao dư luận, nhất là trong dư luận Không Quân. Ở một vài nơi, có những báo khác đăng lại. Đây là chuyện tình cảm động của thế hệ chúng ta, với đầy đủ tính cách bi thương, lãng mạn, chung thủy và đằm thắm biết bao, trong bối cảnh đau thương của đất nước, với cuộc phân tranh đối đầu chủ nghĩa, huynh đệ tương tàn.
            Lý Tưởng dăng lại bài văn “Hồi Âm Giòng Đời”, vì thứ nhất, ngoài tính chất bi thảm của một câu chuyện đầy bi thảm, còn vì cái đoạn kết bất ngờ và đau sót là Đại Tá Đặng Duy Lạc đã chết đường đột, ít ngày sau khi bài báo được phổ biến. Có thể chăng, lá thư tình gởi muộn đã làm anh rúng động và cảm xúc, vì ăn năn, hờn trách mình ngày xưa đã rụt rè, yêu không dám ngỏ và đã hiểu lầm, hóa nên cuộc tình thành chia biệt 40 năm…?
            Nỗi riêng nhớ ít tưởng nhiều… (Kiều)Phải chăng chính cái tâm “quán tưởng” theo kinh Phật mà Nguyễn Du đề cập đến rất nhiều lần trong truyện Kiều, đã khiến con người nòi tình nghệ sĩ Đặng Duy Lạc tưởng tượng thêm ra những tình tiết đẹp đẽ cho mối duyên dang dở, để càng nặng lòng tiếc nuối, âu sầu, đắm đuối mình trong niềm ai oán với trò chơi nghiệt ngã của định mệnh? Anh khổ dau, dằn vặt bởi giòng chữ bùi ngùi thương tội “Anh đã từ phương xa lại, mình gặp gỡ nhau, anh gieo vào lòng em một vết thương, rồi anh lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt…” khiến “Anh Duy thân mến” của Nga đã bơi ngược giòng đời, day dứt niềm thương, đem xuống tuyền đài mối tình đằng đẳng chưa tan.
            Thứ nữa, “Hồi Âm Giòng Đời” của Nga Sàigòn có một giá trị văn chương cao vượt trên “Giòng Đời” của Duy Lạc khó mà phủ nhận. Người nữ đó đã sống hết ngả truân chuyên, trôi cuốn theo giòng cuồng lưu vận nước, vô độ thảm thương hơn thân phận Thúy Kiều,khổ đau và tủi nhục trên cả Lara trong “Dr. Jivago”, vượt xa cơn khốn khó của Catherine Barkley trong “A Farawell To Arms”. Những nhân vật nữ đa truân của văn chương nhân loại. Người đàn bà tên Nga đã cho đi ở lứa tuổi thanh xuân đẹp đẽ đó, cả cuộc đời nàng vì lý tưởng thiêng liêng dành cho đất nước, thủy chung ôm giữ mối tình đầu câm lặng cùng niềm u oán… Để bốn chục năm sau, bàng hoàng sống lại nguyên tròn cảm giác bồi hồi xưa cũ, nửa đêm ngồi viết lá thư dài, gửi “Anh Duy dấu yêu” những lời nồng nàng tha thiết, bây giờ mới ngỏ… Để tim người tình năm xưa quặn thắt và đau buốt nhức, tay cầm tờ thơ cũng run lên, như trước đây, bên trời xa mù tắp, Nga cũng run lên “còn hơn bị B-52 trải thảm”, khi đọc “Giòng Đời” trên giai phẩm Ngàn Sao.
            Thiên tình sử đã được viết ra bằng những giòng chữ đầm đìa ngấn lệ, văn chương tới độ chân thành, cảm động, khiến hoe rưng người đọc. Thêm vào đó, “Hồi Âm Giòng Đời” còn là một tác phẩm sâu sắc, tát thẳng vào mặt chế độ với những giòng chữ viết ra từ một người theo cách mạng, nói về thực chất của cái gọi là “nhà nước”, trên phương diện thông tin chỉ thuần mục đích tuyên truyền “nhai đi nhai lại một luận điệu cũ rích”, về tệ trạng tham nhũng hối mại “chỉ cần đút lót vài ba bao thuốc thơm, chiếc đồng hồ rẻ tiền.v.v… thì cái gì to như con voi cũng qua lọt”, và thú nhận lầm lỡ đi theo Việt cộng chỉ là do “định mệnh nghiệt ngã đã đẩy em thành một kẻ ruồng bỏ quê hương!”…Em tập kết vì ngỡ mình sẽ đến được một nơi như thiên đàng,chứ không phải vì lý tưởng hay vì bị huyền hoặc bởi cái chủ nghĩa hứa hẹn không còn có cảnh người bốc lột người…”
            Đó là tâm trang não nề của “người đàn bà góa bụa mái tóc đã bắt đầu điểm sương ngồi viết thư cho người bạn tình xa cách nửa vòng trái đất..” tủi buồn ngậm giọt thương thân, nhớ lại mối tình thơ ngây không dám ngỏ và thổn thức hồi niệm cuộc chia ly định mệnh, khiến cho đời nàng giông bão “Nhiều đêm em đã khóc vì nỗi bơ vơ của mình nơi xứ lạ quê người. Em nhớ đến anh thật nhiều…” Nhớ đến bóng hình xưa thuở thanh xuân đèn sách học trò và giấc mơ lãng mạn “Có lần nào anh say xưa oanh kích, mà dưới ấy là chỗ đóng quân của em? Nếu chẳng may bị trúng đạn phòng không, anh nhảy dù xuống và em là người băng bó cho anh, thì không hiểu bọ mình phải xử trí ra sao trong tình huống ấy?”
            “Hồi Âm Giòng Đời” nói lên đầy đủ cái thảm kịch của thế hệ chúng ta, của phần số đau thương bất hạnh dân tộc ta gánh chịu. Lý Tưởng trân trọng mời bạn đọc theo dõi và cảm xúc với từng giòng chữ phô diễn chân thành tâm trạng người viết, để hiểu tại sao cái khổ đau ray rứt đã khiến ông Đại Tá Phi công Khu trục Đặng Duy Lạc không gượng nổi, phải từ giả anh em, từ giả bạn bè để ra đi mang theo tình yêu thánh hóa sang bên kia thế giới… (Đào Vũ Anh Hùng)
 ————————————————–
GIÒNG ĐỜI…
Duy Lạc.
            Tôi sinh ra vào thế hệ của thập niên 30. Thế hệ của chúng tôi chịu nhiều xáo trộn điên đảo nhất trong giòng lịch sử 60 năm của dân tộc (1930-1990). Chúng tôi may mắn là nhân chứng của nhiều sự hưng vong của bao chế độ và cuối cùng được nhìn tận mắt sự sụp đổ ngoạn mục của chế độ Cộng sản bạo ngược khắp thế giới. Đó cũng là một niềm an ủi cuối đời cho thế hệ chúng tôi, những người chống cộng sản phải bỏ nước ra đi lang thang, bơ vơ, chịu nhiều bất hạnh, mang nhiều nổi đau buồn trên đất khách.
            Ngày xưa từ tuổi nhi đồng qua thời niên thiếu, chúng tôi chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của luân lý đạo đức Khổng Mạnh qua các tập “Luân Lý Giáo Khoa Thư” ở nhà trường. Trong xã hội lúc bấy giờ, một thời văn chương lãng mạn của các nhà thơ: Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Hàng Mạc Tử, Chế Lan Viên.v.v… và nhóm chủ trương Tự Lực Văn Đoàn của Nhất Linh đã mang lại cho chúng tôi một ít mơ mộng về tình yêu (Hồn Bướm Mơ Tiên), hay ý thức mơ hồ về các hoạt động cách mạng (Đôi Bạn). Sau đó từ năm 1935-1945, dòng nhạc tiền chiến trữ tình và lòng yêu nước của Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phạm Duy,Tô Vũ, Đặng Thế Phong.v.v… đã thật sự thấm nhập tâm hồn tuổi trẻ vừa lãng mạn vừa khơi động tình yêu tổ quốc của tuổi thanh niên. Kế đến thế chiến thứ hai vào giai đoạn chót bộc phát dữ dội. Bom đạn của chiến tranh bắt đầu tàn phá quê hương. Nương theo sự thất trận của Nhật,nhiều phong trào yêu nước chống Pháp nổi dậy, cuối cùng đi đến ngày 19-8-1945,ngày toàn quốc khởi nghĩa mà bọn Việt Minh Cộng sản quỷ quyệt cướp lấy công đầu. Và cũng từ hoàn cảnh đó, đám thanh niên thế hệ chúng tôi một số vào rừng, vào bưng, vào chiến khu để theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc. Một số khác vì còn trẻ tuổi, phải bỏ thành phố tản mác về vùng quê để tạm lánh cư.
            Cũng như mọi gia đình khác, cha mẹ chúng tôi vội vã bỏ hết gia sản chạy về vùng quê miền Trung. Từ đó đời tôi bắt đầu một khúc quanh: cơ cực cũng lắm, hạnh phúc cũng nhiều, chạy dài suốt một thời niên thiếu. Tôi dần dần yêu thích cảnh sống đồng quê. Say sưa với núi cao, biển rộng, rừng thông, đồi cát, ruộng mía nương khoai với những hình ảnh của đình chùa, miếu mão. Tôi yêu thương làng tôi qua lũy tre xanh. Con đường nho nhỏ thông reo. Ngôi đình cổ kính nằm bên chân đồi. Tôi mê nhất những buổi trưa hè ngồi nghe tiếng thông vi vu, réo rắt một điệu nhạc buồn như tiếng sáo diều từ lưng đồi vọng lại.
            Tuổi thơ của tôi thấm đậm tình quê hương từ những ngày tháng êm đềm thơ dại đó.
            Những năm đầu kháng chiến, gia đình tôi chưa đến nỗi sa sút. Tôi được đi học tại trường Trung học cấp huyện, cất ngay trong làng. Ở miệt thôn quê thời kháng chiến, sự học hành bị gián đoạn nên học sinh tuy ngồi chung lớp nhưng tuổi tác chênh lệch nhau. Trong lớp “Đệ nhất niên” của tôi có độ mươi cô nữ sinh. Các cô thuộc người làng hoặc từ những làng kế cận đến học. Phần nhiều nữ sinh thuộc gia đình giàu có trong đám hương mục ngày xưa như Chánh Tổng, Xã Trưởng, Hương Lý, Hương Hộ.v.v… Các cô tuy là gái quê nhưng trông cũng xinh đẹp lượt là lắm. Tôi thời đó học hành dốt nát, chỉ thích lêu lỏng ngoài đường. Chuyện nhà trốn tránh, chuyện bạn bè thì mau mắn. Tôi lang thang suốt xóm trên làng dưới, tập đàn ca với đám nữ sinh cùng lớp, ít khi có mặt ở nhà.. Công việc nặng nhọc trong gia đình tôi giao cho chú em kế gánh vác. Mẹ già nhiều lúc mắng mỏ rầy la, tôi vẫn trơ mặt thịt. Đã vậy tôi còn tơ tưởng yêu đương. Tôi yêu tha thiết một cô em tên Nga cùng lớp. Em ngồi dãy bàn trước mặt. Tôi còn nhớ chiếc áo chemise lụa mỏng và chiếc quần lãnh đen của em. Em có đôi mắt nhung huyền sâu thẳm như đáy hồ thu mà tôi tự nguyện chết đuối trong đó những lần em quay lại nhìn tôi cầu cứu. Đôi môi em đỏ hồng gợi cảm. Những lúc em ban phát cho tôi một nụ cười cám ơn khi tôi cho cóp bi bài toán là những lần tim tôi như ngừng đập. Em thường liếc xéo tôi mỗi khi tôi true chọc. Cái nguýt dài, con mắt có đuôi, kèm theo một nụ cười mỉm của cô gái dậy thì, có lúc là một “message” ưng chịu kín đáo
của thời đó.
            Thật tình lúc bấy giờ tôi không đoán được Nga có cảm tình gì với tôi chưa. Nhưng riêng tôi, tôi đã mê tít nàng. Cứ mỗi ngày cô em nghỉ học là mỗi ngày tôi thẩn thờ nhớ nhung. Tôi tương tư nàng như Nguyễn Bính tương tư “Cô hàng xóm”
            Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
            Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh dờn…
            Tuy yêu thương mê mẩn như thế, tôi chưa dám nói một lời yêu thương cùng nàng. Hồi đó tôi đen đúa xấu trai. Tóc chải bảy ba có thên một chút tango ổ quạ ngay trước trán (thời trang 1945). Tôi gầy đét và cao lêu nghiêu như cây sậy. Thật tình nhìn kỹ tôi chả giống con giáp nào! Tôi chỉ được tiếng “người Sàigòn” và một chút tài mọn về đàn ca hát xướng. Vì vậy, tôi chủ quan nghĩ rằng em đã cảm tình với tôi. Một hôm vào dịp nhà trường tổ chức đi cắm trại qua đêm ở một rừng dừa ven biển. Dĩ nhiên tối hôm ấy có đốt lửa trại và thi đua văn nghệ,giữa mấy trăm học sinh cùng trường. Tôi táo bạo ghi tên tham dự, cốt để chứng tỏ với Nga về khả năng văn nghệ của mình.. Đêm hôm đó, trước đám đông đảo học sinh, tôi đơn ca bản nhạc “Nhớ Chiến Khu”, một bài ca tủ của tôi, “Còn đâu trong chiến khu trên rừng chiều. Bên đèo tiếng suối reo, ngàn thông réo…” Tôi đang mơ màng vừa ca vừa diễn xuất bộ mặt sầu sầu của anh Vệ quốc Quân nhớ nhà, nào ngờ đến đoạn cao nhất của bài hát, một phần vì khớp, một phần vì nhìn thấy cô nàng đang theo dõi mình, tự nhiên tôi té giọng kim, dứt đoạn, rồi ngừng ngang nửa chừng. Tôi đúng như trời trồng giữa tiếng vỗ tay la ó của đám học sinh. Tôi xấu hổ, tay chân thừa thải, mặt đỏ bừng chỉ muốn độn thổ cho xong. Tội nghiệp Nga, nàng cúi đầu thương hại cho tôi.
            Rồi có một lần, chuyện phải đến đã đến, Nga ngỏ lời mời tôi đến nhà nàng chơi vào chiều thứ bảy. Tôi sung sướng nhận lời. Dịp này nhất định tôi sẽ bộc lộ tâm sự với nàng bằng một lá thơ. Mấy ngày liền tôi ngồi nắn nót viết bức thư tình đầu tiên. Tôi còn nhớ rõ bức thư viết dài và hay lắm. Tôi diễn tả mối tình say đắm của mình. Văn chương lãng mạn và ướt át vô cùng. Trong bức thư tôi còn làm dáng về vốn Pháp văn của mình bằng hai câu bất hủ “L’homme sans amour comme La Terre sans Lumière” mà tôi thuổng được ở mấy bức thư tình của bà chị tôi. Chiều hôm ấy, tôi băng mấy cánh rừng dương để đến nhà nàng. Nhà Nga xinh xắn bao quanh bởi một vườn cau và một hàng rào bông bụp tím nhạt. Vườn có nhiều hoa và cây ăn trái. Tôi dạo chơi thơ thẩn trong vườn cùng nàng suốt buổi tối. Nàng bóc bưởi mời tôi ăn. Tôi trèo cây hái khế tặng nàng. Cứ như thế mãi cho đến khi trăng treo đầu ngọn cau và hoa bưởi bắt đầu tỏa hương thơm ngát, tôi mới từ giã nàng. Trước khi về tôi dúi vội bức thư vào tay nàng. Nàng ngập ngừng e thẹn nhận lấy thư tôi.
            Sau ngày trao bức thư tình, tôi cảm thấy yêu đời, mơ mộng nhiều hơn. Và trong khi tôi nao nức đợi chờ hồi âm, thì hởi ơi! Hai câu Pháp văn bất hủ tôi viết cho nàng được loan truyền khắp nơi nhất là trong đám nữ sinh. Mấy bà chị họ, mỗi lần gặp tôi đều tủm tỉm cười,làm tôi xấu hổ vô cùng. Tôi loáng thoáng đoán rằng tôi đã lầm và quá chủ quan, chớ nàng không hề yêu thương hay tình cảm gì với tôi. Nàng đã đem bức thư của tôi bêu rếu để làm trò cười. Từ đó tôi không nhìn nàng. Tôi đau khổ hận đời, hận nàng và trốn học luôn…
            Cho đến một ngày trước khi xuống tàu bỏ trốn vào Nam, vì vô tình hay cố ý, Nga chận tôi trên con đường làng vắng vẻ, gương mặt xanh xao, ánh mắt buồn buồn. Nàng khóc thật nhiều và giải thích với tôi rằng nàng đã yêu tôi. Chuyện bức thư là lỗi bất cẩn của nàng (Nga cho người bạn gái mượn quyển sách trong đó có dấu bức thư). Nàng trách tôi tại sao bỏ học và trốn tránh không nhìn mặt nàng. Lần đầu tiên tôi run run cầm tay nàng, nhìn sâu vào đôi mắt lệ nhạt nhòa, thổn thức không nói một lời, bởi vì ngày tôi nhận được hạnh phúc tình yêu đầu đời và cũng là ngày tôi xót xa chia tay mối tình học trò ngắn ngủi đó. Ngày hôm đó, tôi đau đớn vĩnh biệt Nga mà chính nàng không hề hay biết.
            Con thuyền đưa tôi vào Nam chập chùng giông bão. Giông bão xô dạt con thuyền. Giông bão ngay trong lòng tôi…
            Tôi có người em kế, cùng trạc tuổi. Chúng tôi là hai thái cực. Chú Lâm hiền hòa thích sống trong gia đình. Tôi mê cuộc đời hải hồ lang bạt. Lớn lên, hai anh em cùng vào quân đội. Tôi đi lính Không Quân đồn trú tại Pleiku. Chú đi sĩ quan Thủ Đức đóng đồn ở Daksut. Những ngày cao nguyên sôi động, nhiều lần từ trời cao, tôi xót xa nhìn chú bị vây hãm dưới đồn. Anh em tuy đóng quân cùng một vùng nhưng chả bao giờ gặp nhau. Thỉnh thoảng hành quân ngang đồn, tôi bay thấp để chào chú, hoặc liên lạc FM để thăm hỏi sức khỏe và nhắn tin nhà, thế thôi. Vậy mà chú Lâm vẫn vui vẻ sống cuộc đời gian khổ bộ binh. Mãi đến ngày bỏ nước ra đi, chú ra đi một mình không kịp đón gia đình vợ con. Những năm tháng xa quê hương, chú Lâm vẫn sống cảnh đơn lẻ ở một tiểu bang xa lắc xa lơ. Nhưng mấy năm gần đây, chắc có lẽ chịu hết nổi cảnh “Đồn Lẻ Chiều Xuân” chú đã âm thầm bước them bước nữa để nếm mùi”một cảnh hai quê”. Thật tội nghiệp!
            Hôm Tết vừa qua, nhân dịp đi công tác cho hãng ở Hà Nội. Lâm ghé Sài Gòn thăm nhà và về làng thăm quê cũ. Một sự việc bất ngờ và cảm động là chú Lâm đã tìm được dấu tích của Nga ngày xưa. Đuợc biết nàng đã trốn ra Bắc năm 1956 và sau ngày Viẽt cộng cưỡng chiếm miền Nam, nàng trở về với quân hàm Đại úy và là vợ lẽ của một ông tướng già Việt cộng. Hiện nay nàng đang ở Sàigòn, khu cư xá sĩ quan Chí Hòa và ông tướng già đã chết. Trước khi trở về Mỹ, Lâm có đến tìm gặp nàng. Nga sững sốt mừng rỡ khi nhận ra Lâm em của tôi. Nàng vui vẻ kể chuyện xưa về tôi với chú Lâm và nói rõ lý do vì sao nàng bỏ xứ ra đi. Trong câu chuyện thăm hỏi, Lâm đã cố khơi lại chuyện tình ngày xưa của chúng tôi.
           Lâm nói: “Anh tôi vẫn nhắc nhớ về chị.” Nàng cúi đầu lặng lẽ, giọng buồn buồn: “Dạ vâng, tôi đoán thế.” Và nàng cảm động cho biết người làng đã kể: Có lần tôi một mình lái xe về thăm vườn cũ tìm lại người xưa, và người xưa không còn nữa. Lâm tiếp tục thăm dò:
          “Chị có biết anh tôi ngày xưa làm gì không?” “Dạ tôi biết, nghe nói anh ấy là một phi công trong Không Lực Cộng Hòa.” “Chị có oán hận, căm thù gì chúng tôi không?” Nga lắc đầu cười chua chát, “Tôi không nghĩ đến điều đó, và chẳng bao giờ nghĩ như vậy, nhất là đối với
anh ấy…”
            Nàng trả lời với đôi mắt mơ màng xa vắng. Chắc có lẽ chú Lâm đã vô tình khơi dậy những kỹ niệm thời học trò của nàng. Những kỹ niệm tưởng như đã chôn vùi dưới lớp bụi thời gian sau bốn mươi năm xa cách.
            Và trong buổi chiều hôm đó, theo lời nhật xét của chú Lâm.
Nga như “lội ngược giòng thời gian” tìm sống lại quảng đời con gái ngây thơ, cùng với mối tình thơ mộng và đẹp nhất của đời nàng. Vì đó là mối tình đầu và mối tình không có đoạn cuối.
Duy Lạc
Theo: Ngàn Sao



Giòng Đời

 
GIÒNG ĐỜI….
VÀ HỒI ÂM GIÒNG ĐỜI…
 
 
            Đầu tháng 9-96, báo Ngày Nay ở Houston có đăng một lá thư,tác giả là một người đàn bà ký tên Nga (Sàigòn) gửi cho người yêu cũ Duy, tức Đại Tá Không Quân Đặng Duy Lạc, người đã viết đoản văn "Giòng Đời" trên Đặc san Ngàn Sao của Hội Không Quân Houston, số mùa Hè 92 với bút danh Duy Lạc.
 
            "Giòng Đời" là một bài văn hồi tưởng về cuộc tình lỡ của tác giả trong thời niên thiếu. Đó là mối tình đầu,như rất nhiều mốitình đầu dang dở khác, ở cái thời đại mà tình yêu trai gái coi như trái cấm bởi vòng rào luân lý, và quan niệm tương giao nam nữ khắt khe của xã hội đương thời. Biết bao mối tình trong sáng, ngây thơ, chất phác, như những đóa hoa yêu hoa lệ nở rụt rè, rồi tan vỡ,để lại trong văn chương nhiều chuyện tình đẫm lệ, dư âm còn mãi đến bây giờ.
 
            Trong phần giới thiệu, Ngày Nay viết: "… Tác giả (Duy Lạc) kể lại mối tình đầu của mình vào thời niên thiếu,lúc cắp sách đến trường huyện với một người con gái tên Nga học cùng lớp. Lúc đó, vào dịp toàn dân kháng Pháp, 1945. Thời thế sau đó đổi thay,ông Duy Lạc vào Nam, rồi trở thành một Sĩ quan Không Quân Việt Nam Cộng Hòa. Còn cô Nga trở thành một người lính của phía bên kia, vượt Trường Sơn vào Nam.
 
            Chuyện không ngờ là tờ Ngàn Sao lọt được về Sàigòn, và cô Nga ngày xưa được đọc bài "Giòng Đời" và sau đó,viết một bài chuyển ra ngoài với tên "Hồi Âm Giòng Đời"… Đây là một bức thư tâm tình riêng tư giữa hai người bạn lòng, nhưng tình tiết ghi lại một giai đoạn phân ly nghiệt ngã của đất nước…"
 
            Bài "Hồi Âm Giòng Đời" đăng trên Ngày Nay đã gây một xôn xao dư luận, nhất là trong dư luận Không Quân. Ở một vài nơi, có những báo khác đăng lại. Đây là chuyện tình cảm động của thế hệ chúng ta, với đầy đủ tính cách bi thương, lãng mạn, chung thủy và đằm thắm biết bao, trong bối cảnh đau thương của đất nước, với cuộc phân tranh đối đầu chủ nghĩa, huynh đệ tương tàn.
 
            Lý Tưởng dăng lại bài văn "Hồi Âm Giòng Đời", vì thứ nhất, ngoài tính chất bi thảm của một câu chuyện đầy bi thảm, còn vì cái đoạn kết bất ngờ và đau sót là Đại Tá Đặng Duy Lạc đã chết đường đột, ít ngày sau khi bài báo được phổ biến. Có thể chăng, lá thư tình gởi muộn đã làm anh rúng động và cảm xúc, vì ăn năn, hờn trách mình ngày xưa đã rụt rè, yêu không dám ngỏ và đã hiểu lầm, hóa nên cuộc tình thành chia biệt 40 năm…?
 
            Nỗi riêng nhớ ít tưởng nhiều… (Kiều)Phải chăng chính cái tâm "quán tưởng" theo kinh Phật mà Nguyễn Du đề cập đến rất nhiều lần trong truyện Kiều, đã khiến con người nòi tình nghệ sĩ Đặng Duy Lạc tưởng tượng thêm ra những tình tiết đẹp đẽ cho mối duyên dang dở, để càng nặng lòng tiếc nuối, âu sầu, đắm đuối mình trong niềm ai oán với trò chơi nghiệt ngã của định mệnh? Anh khổ dau, dằn vặt bởi giòng chữ bùi ngùi thương tội "Anh đã từ phương xa lại, mình gặp gỡ nhau, anh gieo vào lòng em một vết thương, rồi anh lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt…" khiến "Anh Duy thân mến" của Nga đã bơi ngược giòng đời, day dứt niềm thương, đem xuống tuyền đài mối tình đằng đẳng chưa tan.
 
            Thứ nữa, "Hồi Âm Giòng Đời" của Nga Sàigòn có một giá trị văn chương cao vượt trên "Giòng Đời" của Duy Lạc khó mà phủ nhận. Người nữ đó đã sống hết ngả truân chuyên, trôi cuốn theo giòng cuồng lưu vận nước, vô độ thảm thương hơn thân phận Thúy Kiều,khổ đau và tủi nhục trên cả Lara trong "Dr. Jivago", vượt xa cơn khốn khó của Catherine Barkley trong "A Farawell To Arms". Những nhân vật nữ đa truân của văn chương nhân loại. Người đàn bà tên Nga đã cho đi ở lứa tuổi thanh xuân đẹp đẽ đó, cả cuộc đời nàng vì lý tưởng thiêng liêng dành cho đất nước, thủy chung ôm giữ mối tình đầu câm lặng cùng niềm u oán… Để bốn chục năm sau, bàng hoàng sống lại nguyên tròn cảm giác bồi hồi xưa cũ, nửa đêm ngồi viết lá thư dài, gửi "Anh Duy dấu yêu" những lời nồng nàng tha thiết, bây giờ mới ngỏ… Để tim người tình năm xưa quặn thắt và đau buốt nhức, tay cầm tờ thơ cũng run lên, như trước đây, bên trời xa mù tắp, Nga cũng run lên "còn hơn bị B-52 trải thảm", khi đọc "Giòng Đời" trên giai phẩm Ngàn Sao.
 
            Thiên tình sử đã được viết ra bằng những giòng chữ đầm đìa ngấn lệ, văn chương tới độ chân thành, cảm động, khiến hoe rưng người đọc. Thêm vào đó, "Hồi Âm Giòng Đời" còn là một tác phẩm sâu sắc, tát thẳng vào mặt chế độ với những giòng chữ viết ra từ một người theo cách mạng, nói về thực chất của cái gọi là "nhà nước", trên phương diện thông tin chỉ thuần mục đích tuyên truyền "nhai đi nhai lại một luận điệu cũ rích", về tệ trạng tham nhũng hối mại "chỉ cần đút lót vài ba bao thuốc thơm, chiếc đồng hồ rẻ tiền.v.v… thì cái gì to như con voi cũng qua lọt", và thú nhận lầm lỡ đi theo Việt cộng chỉ là do "định mệnh nghiệt ngã đã đẩy em thành một kẻ ruồng bỏ quê hương!"…Em tập kết vì ngỡ mình sẽ đến được một nơi như thiên đàng,chứ không phải vì lý tưởng hay vì bị huyền hoặc bởi cái chủ nghĩa hứa hẹn không còn có cảnh người bốc lột người…"
 
            Đó là tâm trang não nề của "người đàn bà góa bụa mái tóc đã bắt đầu điểm sương ngồi viết thư cho người bạn tình xa cách nửa vòng trái đất.." tủi buồn ngậm giọt thương thân, nhớ lại mối tình thơ ngây không dám ngỏ và thổn thức hồi niệm cuộc chia ly định mệnh, khiến cho đời nàng giông bão "Nhiều đêm em đã khóc vì nỗi bơ vơ của mình nơi xứ lạ quê người. Em nhớ đến anh thật nhiều…" Nhớ đến bóng hình xưa thuở thanh xuân đèn sách học trò và giấc mơ lãng mạn "Có lần nào anh say xưa oanh kích, mà dưới ấy là chỗ đóng quân của em? Nếu chẳng may bị trúng đạn phòng không, anh nhảy dù xuống và em là người băng bó cho anh, thì không hiểu bọ mình phải xử trí ra sao trong tình huống ấy?"
 
            "Hồi Âm Giòng Đời" nói lên đầy đủ cái thảm kịch của thế hệ chúng ta, của phần số đau thương bất hạnh dân tộc ta gánh chịu. Lý Tưởng trân trọng mời bạn đọc theo dõi và cảm xúc với từng giòng chữ phô diễn chân thành tâm trạng người viết, để hiểu tại sao cái khổ đau ray rứt đã khiến ông Đại Tá Phi công Khu trục Đặng Duy Lạc không gượng nổi, phải từ giả anh em, từ giả bạn bè để ra đi mang theo tình yêu thánh hóa sang bên kia thế giới… (Đào Vũ Anh Hùng)
 
 
 ————————————————–
 
 
 
 
GIÒNG ĐỜI…
 
Duy Lạc.
 
 
 
            Tôi sinh ra vào thế hệ của thập niên 30. Thế hệ của chúng tôi chịu nhiều xáo trộn điên đảo nhất trong giòng lịch sử 60 năm của dân tộc (1930-1990). Chúng tôi may mắn là nhân chứng của nhiều sự hưng vong của bao chế độ và cuối cùng được nhìn tận mắt sự sụp đổ ngoạn mục của chế độ Cộng sản bạo ngược khắp thế giới. Đó cũng là một niềm an ủi cuối đời cho thế hệ chúng tôi, những người chống cộng sản phải bỏ nước ra đi lang thang, bơ vơ, chịu nhiều bất hạnh, mang nhiều nổi đau buồn trên đất khách.
 
            Ngày xưa từ tuổi nhi đồng qua thời niên thiếu, chúng tôi chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của luân lý đạo đức Khổng Mạnh qua các tập "Luân Lý Giáo Khoa Thư" ở nhà trường. Trong xã hội lúc bấy giờ, một thời văn chương lãng mạn của các nhà thơ: Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Hàng Mạc Tử, Chế Lan Viên.v.v… và nhóm chủ trương Tự Lực Văn Đoàn của Nhất Linh đã mang lại cho chúng tôi một ít mơ mộng về tình yêu (Hồn Bướm Mơ Tiên), hay ý thức mơ hồ về các hoạt động cách mạng (Đôi Bạn). Sau đó từ năm 1935-1945, dòng nhạc tiền chiến trữ tình và lòng yêu nước của Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phạm Duy,Tô Vũ, Đặng Thế Phong.v.v… đã thật sự thấm nhập tâm hồn tuổi trẻ vừa lãng mạn vừa khơi động tình yêu tổ quốc của tuổi thanh niên. Kế đến thế chiến thứ hai vào giai đoạn chót bộc phát dữ dội. Bom đạn của chiến tranh bắt đầu tàn phá quê hương. Nương theo sự thất trận của Nhật,nhiều phong trào yêu nước chống Pháp nổi dậy, cuối cùng đi đến ngày 19-8-1945,ngày toàn quốc khởi nghĩa mà bọn Việt Minh Cộng sản quỷ quyệt cướp lấy công đầu. Và cũng từ hoàn cảnh đó, đám thanh niên thế hệ chúng tôi một số vào rừng, vào bưng, vào chiến khu để theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc. Một số khác vì còn trẻ tuổi, phải bỏ thành phố tản mác về vùng quê để tạm lánh cư.
 
            Cũng như mọi gia đình khác, cha mẹ chúng tôi vội vã bỏ hết gia sản chạy về vùng quê miền Trung. Từ đó đời tôi bắt đầu một khúc quanh: cơ cực cũng lắm, hạnh phúc cũng nhiều, chạy dài suốt một thời niên thiếu. Tôi dần dần yêu thích cảnh sống đồng quê. Say sưa với núi cao, biển rộng, rừng thông, đồi cát, ruộng mía nương khoai với những hình ảnh của đình chùa, miếu mão. Tôi yêu thương làng tôi qua lũy tre xanh. Con đường nho nhỏ thông reo. Ngôi đình cổ kính nằm bên chân đồi. Tôi mê nhất những buổi trưa hè ngồi nghe tiếng thông vi vu, réo rắt một điệu nhạc buồn như tiếng sáo diều từ lưng đồi vọng lại.
 
            Tuổi thơ của tôi thấm đậm tình quê hương từ những ngày tháng êm đềm thơ dại đó.
 
            Những năm đầu kháng chiến, gia đình tôi chưa đến nỗi sa sút. Tôi được đi học tại trường Trung học cấp huyện, cất ngay trong làng. Ở miệt thôn quê thời kháng chiến, sự học hành bị gián đoạn nên học sinh tuy ngồi chung lớp nhưng tuổi tác chênh lệch nhau. Trong lớp "Đệ nhất niên" của tôi có độ mươi cô nữ sinh. Các cô thuộc người làng hoặc từ những làng kế cận đến học. Phần nhiều nữ sinh thuộc gia đình giàu có trong đám hương mục ngày xưa như Chánh Tổng, Xã Trưởng, Hương Lý, Hương Hộ.v.v… Các cô tuy là gái quê nhưng trông cũng xinh đẹp lượt là lắm. Tôi thời đó học hành dốt nát, chỉ thích lêu lỏng ngoài đường. Chuyện nhà trốn tránh, chuyện bạn bè thì mau mắn. Tôi lang thang suốt xóm trên làng dưới, tập đàn ca với đám nữ sinh cùng lớp, ít khi có mặt ở nhà.. Công việc nặng nhọc trong gia đình tôi giao cho chú em kế gánh vác. Mẹ già nhiều lúc mắng mỏ rầy la, tôi vẫn trơ mặt thịt. Đã vậy tôi còn tơ tưởng yêu đương. Tôi yêu tha thiết một cô em tên Nga cùng lớp. Em ngồi dãy bàn trước mặt. Tôi còn nhớ chiếc áo chemise lụa mỏng và chiếc quần lãnh đen của em. Em có đôi mắt nhung huyền sâu thẳm như đáy hồ thu mà tôi tự nguyện chết đuối trong đó những lần em quay lại nhìn tôi cầu cứu. Đôi môi em đỏ hồng gợi cảm. Những lúc em ban phát cho tôi một nụ cười cám ơn khi tôi cho cóp bi bài toán là những lần tim tôi như ngừng đập. Em thường liếc xéo tôi mỗi khi tôi true chọc. Cái nguýt dài, con mắt có đuôi, kèm theo một nụ cười mỉm của cô gái dậy thì, có lúc là một "message" ưng chịu kín đáo
của thời đó.
 
            Thật tình lúc bấy giờ tôi không đoán được Nga có cảm tình gì với tôi chưa. Nhưng riêng tôi, tôi đã mê tít nàng. Cứ mỗi ngày cô em nghỉ học là mỗi ngày tôi thẩn thờ nhớ nhung. Tôi tương tư nàng như Nguyễn Bính tương tư "Cô hàng xóm"
 
            Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
            Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh dờn…
 
            Tuy yêu thương mê mẩn như thế, tôi chưa dám nói một lời yêu thương cùng nàng. Hồi đó tôi đen đúa xấu trai. Tóc chải bảy ba có thên một chút tango ổ quạ ngay trước trán (thời trang 1945). Tôi gầy đét và cao lêu nghiêu như cây sậy. Thật tình nhìn kỹ tôi chả giống con giáp nào! Tôi chỉ được tiếng "người Sàigòn" và một chút tài mọn về đàn ca hát xướng. Vì vậy, tôi chủ quan nghĩ rằng em đã cảm tình với tôi. Một hôm vào dịp nhà trường tổ chức đi cắm trại qua đêm ở một rừng dừa ven biển. Dĩ nhiên tối hôm ấy có đốt lửa trại và thi đua văn nghệ,giữa mấy trăm học sinh cùng trường. Tôi táo bạo ghi tên tham dự, cốt để chứng tỏ với Nga về khả năng văn nghệ của mình.. Đêm hôm đó, trước đám đông đảo học sinh, tôi đơn ca bản nhạc "Nhớ Chiến Khu", một bài ca tủ của tôi, "Còn đâu trong chiến khu trên rừng chiều. Bên đèo tiếng suối reo, ngàn thông réo…" Tôi đang mơ màng vừa ca vừa diễn xuất bộ mặt sầu sầu của anh Vệ quốc Quân nhớ nhà, nào ngờ đến đoạn cao nhất của bài hát, một phần vì khớp, một phần vì nhìn thấy cô nàng đang theo dõi mình, tự nhiên tôi té giọng kim, dứt đoạn, rồi ngừng ngang nửa chừng. Tôi đúng như trời trồng giữa tiếng vỗ tay la ó của đám học sinh. Tôi xấu hổ, tay chân thừa thải, mặt đỏ bừng chỉ muốn độn thổ cho xong. Tội nghiệp Nga, nàng cúi đầu thương hại cho tôi.
 
            Rồi có một lần, chuyện phải đến đã đến, Nga ngỏ lời mời tôi đến nhà nàng chơi vào chiều thứ bảy. Tôi sung sướng nhận lời. Dịp này nhất định tôi sẽ bộc lộ tâm sự với nàng bằng một lá thơ. Mấy ngày liền tôi ngồi nắn nót viết bức thư tình đầu tiên. Tôi còn nhớ rõ bức thư viết dài và hay lắm. Tôi diễn tả mối tình say đắm của mình. Văn chương lãng mạn và ướt át vô cùng. Trong bức thư tôi còn làm dáng về vốn Pháp văn của mình bằng hai câu bất hủ "L’homme sans amour comme La Terre sans Lumière" mà tôi thuổng được ở mấy bức thư tình của bà chị tôi. Chiều hôm ấy, tôi băng mấy cánh rừng dương để đến nhà nàng. Nhà Nga xinh xắn bao quanh bởi một vườn cau và một hàng rào bông bụp tím nhạt. Vườn có nhiều hoa và cây ăn trái. Tôi dạo chơi thơ thẩn trong vườn cùng nàng suốt buổi tối. Nàng bóc bưởi mời tôi ăn. Tôi trèo cây hái khế tặng nàng. Cứ như thế mãi cho đến khi trăng treo đầu ngọn cau và hoa bưởi bắt đầu tỏa hương thơm ngát, tôi mới từ giã nàng. Trước khi về tôi dúi vội bức thư vào tay nàng. Nàng ngập ngừng e thẹn nhận lấy thư tôi.
 
            Sau ngày trao bức thư tình, tôi cảm thấy yêu đời, mơ mộng nhiều hơn. Và trong khi tôi nao nức đợi chờ hồi âm, thì hởi ơi! Hai câu Pháp văn bất hủ tôi viết cho nàng được loan truyền khắp nơi nhất là trong đám nữ sinh. Mấy bà chị họ, mỗi lần gặp tôi đều tủm tỉm cười,làm tôi xấu hổ vô cùng. Tôi loáng thoáng đoán rằng tôi đã lầm và quá chủ quan, chớ nàng không hề yêu thương hay tình cảm gì với tôi. Nàng đã đem bức thư của tôi bêu rếu để làm trò cười. Từ đó tôi không nhìn nàng. Tôi đau khổ hận đời, hận nàng và trốn học luôn…
 
            Cho đến một ngày trước khi xuống tàu bỏ trốn vào Nam, vì vô tình hay cố ý, Nga chận tôi trên con đường làng vắng vẻ, gương mặt xanh xao, ánh mắt buồn buồn. Nàng khóc thật nhiều và giải thích với tôi rằng nàng đã yêu tôi. Chuyện bức thư là lỗi bất cẩn của nàng (Nga cho người bạn gái mượn quyển sách trong đó có dấu bức thư). Nàng trách tôi tại sao bỏ học và trốn tránh không nhìn mặt nàng. Lần đầu tiên tôi run run cầm tay nàng, nhìn sâu vào đôi mắt lệ nhạt nhòa, thổn thức không nói một lời, bởi vì ngày tôi nhận được hạnh phúc tình yêu đầu đời và cũng là ngày tôi xót xa chia tay mối tình học trò ngắn ngủi đó. Ngày hôm đó, tôi đau đớn vĩnh biệt Nga mà chính nàng không hề hay biết.
 
            Con thuyền đưa tôi vào Nam chập chùng giông bão. Giông bão xô dạt con thuyền. Giông bão ngay trong lòng tôi…
 
            Tôi có người em kế, cùng trạc tuổi. Chúng tôi là hai thái cực. Chú Lâm hiền hòa thích sống trong gia đình. Tôi mê cuộc đời hải hồ lang bạt. Lớn lên, hai anh em cùng vào quân đội. Tôi đi lính Không Quân đồn trú tại Pleiku. Chú đi sĩ quan Thủ Đức đóng đồn ở Daksut. Những ngày cao nguyên sôi động, nhiều lần từ trời cao, tôi xót xa nhìn chú bị vây hãm dưới đồn. Anh em tuy đóng quân cùng một vùng nhưng chả bao giờ gặp nhau. Thỉnh thoảng hành quân ngang đồn, tôi bay thấp để chào chú, hoặc liên lạc FM để thăm hỏi sức khỏe và nhắn tin nhà, thế thôi. Vậy mà chú Lâm vẫn vui vẻ sống cuộc đời gian khổ bộ binh. Mãi đến ngày bỏ nước ra đi, chú ra đi một mình không kịp đón gia đình vợ con. Những năm tháng xa quê hương, chú Lâm vẫn sống cảnh đơn lẻ ở một tiểu bang xa lắc xa lơ. Nhưng mấy năm gần đây, chắc có lẽ chịu hết nổi cảnh "Đồn Lẻ Chiều Xuân" chú đã âm thầm bước them bước nữa để nếm mùi"một cảnh hai quê". Thật tội nghiệp!
 
            Hôm Tết vừa qua, nhân dịp đi công tác cho hãng ở Hà Nội. Lâm ghé Sài Gòn thăm nhà và về làng thăm quê cũ. Một sự việc bất ngờ và cảm động là chú Lâm đã tìm được dấu tích của Nga ngày xưa. Đuợc biết nàng đã trốn ra Bắc năm 1956 và sau ngày Viẽt cộng cưỡng chiếm miền Nam, nàng trở về với quân hàm Đại úy và là vợ lẽ của một ông tướng già Việt cộng. Hiện nay nàng đang ở Sàigòn, khu cư xá sĩ quan Chí Hòa và ông tướng già đã chết. Trước khi trở về Mỹ, Lâm có đến tìm gặp nàng. Nga sững sốt mừng rỡ khi nhận ra Lâm em của tôi. Nàng vui vẻ kể chuyện xưa về tôi với chú Lâm và nói rõ lý do vì sao nàng bỏ xứ ra đi. Trong câu chuyện thăm hỏi, Lâm đã cố khơi lại chuyện tình ngày xưa của chúng tôi.
 
           Lâm nói: "Anh tôi vẫn nhắc nhớ về chị." Nàng cúi đầu lặng lẽ, giọng buồn buồn: "Dạ vâng, tôi đoán thế." Và nàng cảm động cho biết người làng đã kể: Có lần tôi một mình lái xe về thăm vườn cũ tìm lại người xưa, và người xưa không còn nữa. Lâm tiếp tục thăm dò:
 
          "Chị có biết anh tôi ngày xưa làm gì không?" "Dạ tôi biết, nghe nói anh ấy là một phi công trong Không Lực Cộng Hòa." "Chị có oán hận, căm thù gì chúng tôi không?" Nga lắc đầu cười chua chát, "Tôi không nghĩ đến điều đó, và chẳng bao giờ nghĩ như vậy, nhất là đối với
anh ấy…"
 
            Nàng trả lời với đôi mắt mơ màng xa vắng. Chắc có lẽ chú Lâm đã vô tình khơi dậy những kỹ niệm thời học trò của nàng. Những kỹ niệm tưởng như đã chôn vùi dưới lớp bụi thời gian sau bốn mươi năm xa cách.
 
            Và trong buổi chiều hôm đó, theo lời nhật xét của chú Lâm.
Nga như "lội ngược giòng thời gian" tìm sống lại quảng đời con gái ngây thơ, cùng với mối tình thơ mộng và đẹp nhất của đời nàng. Vì đó là mối tình đầu và mối tình không có đoạn cuối.
 

CÁI GÍA PHẢI TRẢ CHO NHỮNG BỨC TRANH

CÁI GÍA PHẢI TRẢ CHO NHỮNG BỨC TRANH

Truyện ngắn của Hồ Nam

  để dành ra mời uống. kẻ lấy xe máy chở đi ăn đặc sản,vào cuối cái ngày tôi sắp phải chia tay Saigon một lần nữa cô bạn gái thân nhất  của tôi nói nhỏ với tôi rằng‘’ tối hôm nay có một việc quan trọng anh phải tham dự‘’ Tôi tò mò hỏi lại

-Việc gi vậy

-Đi dự buổi khai mạc phòng tranh của hoa sĩ Hồ

-Tôi ở xa nhưng cũng đã nghe tin Hồ qua đời lâu rồi và vợ Hồ đã định cư ở Mỹ cũng từ lâu rồi

-Tin đó chính sác đấy ‘’tro’’ hài cốt của Hồ hiện ở chùa  nhưng tranh của Hồ thì Minh vợ Hồ muốn đem triển lãm

-Hồ vẽ tranh hồi nào mà có tranh triển lãm chuyện hơi khó hiểu đấy

-Hình như có thời gian anh học chung với Hồ phải không

-Tôi không học chung với Hồ bao giờ cả nhưng chúng tôi cùng một thế hệ chúng tôi cùng trong đoàn sinh viên Hà nội từng ở chung’’ lều bạt ‘’căng tại nền khám lớn cũ nay là trụ sở thư viện Khoa Học Xã Hội

-Em nghe nói có lúc anh ở chung một trại cải tạo với Hồ phải không

-Đúng nhưng lúc đó nhìn cái bản mặt hơn hớn của Hồ không phải mình tôi mà ai cũng xa lánh Hồ hết.Bọn tôi đã bực và tẩy chay không chơi với Hồ nữa vì đi  cải tạo xa vợ con mà hắn tại sao mặt mũi cứ tỉnh queo nên bọn tôi ai  gặp hắn cũng nhổ nước bọt và quay mặt đi chỗ khác không thèm nhìn

-Anh biết Minh vợ Hồ chứ

-Tôi không những biết mà còn quen , cô ấy học dược trong khi Hồ học sư phạm bọn ho quấn qúit bên nhau như một đôi chim bồ câu mới tập bay, họ  đúng là một cặp tình nhân mới bắt đầu yêu  xuốt ngày không  chịu xa nhau nửa bước

-Hình như anh còn làm báo chung với Hồ nữa phải không

-Đúng Hồ là người vẽ tranh hí hoa và trình bầy báo rất lạ và cũng rất đẹp Hồ là nhân vật có bàn tay bắt được của trời đấy

-Nhưng hình như cuới Minh xong thì Hồ bỏ hết không làm báo không vẽ tranh cắt đứt mọi quan hệ với báo giới cũng như giới làm nghệ thuật chỉ  lo làm giầu và xuốt ngày quanh quẩn bên bà vợ đẹp

-Đúng vậy

-Như thế thì nhất định anh phải đi với em dự buổi khai mạc phòng tranh đầu tiên mà cũng là phòng tranh cuối cùng của Hồ Em tin xem xong tranh của Hồ gặp lại người em của Hồ anh sẽ hiểu Hồ và thương Hồ hơn

X

Đứng trước năm mươi bức tranh của Hồ tôi ngạc nhiên và gần như choáng váng tại sao Hô lại có thể vẽ tuyệt đến như vậy đường nét nào cũng vạm vỡ khoẻ khoắn không thua gì Gauguin còn mầu sắc thì chói chang hơn nhiều .Nhìn những bức tranh của Hồ tôi không còn thấy bóng dáng anh chàng Hồ vào luồn ra cúi xuốt ngày nịnh vợ đâu cả chỉ còn thấy thấp thoáng đâu đó một người cầm cọ ngang tàng ngổ ngáo sống hết mình yêu hết mình và có thể ngồi bên giá vẽ đến quên đói quên khát bỏ ngoài tai ngoài mắt tất cả sự đời

-Anh thấy Hồ vẽ thế nào

-Tuyệt vời, xem những bức tranh này tôi không thể nào tin được đây là những tác phẩm của một người như Hồ. Tại sao Hồ lại có thể vẽ được những bức tranh tuyệt vời đến như thế .Hồ tác gỉa những bức tranh này hoàn toàn là một người khác anh chàng Hồ chồng  cô dược sĩ Minh anh chàng Hồ tôi gặp ở trại cải tạo năm nào

-Anh biết những ngày cuối cùng trên cõi đời này Hồ sống như thế nào không

-Mình chỉ nghe thiên hạ nóiHồ đã bỏ trốn không cùng vợ con vào phòng cách ly khi sửa soạn lên tàu bay sang Mỹ để được tự do uống rượu tự do đánh bài tự do thức khuya tự do đi chơi tự do đàn đúm rồi khi lên cơn suyễn đã bơm thuốc chữa bệnh suyễn quá  liều thành tử vong mãi mấy ngày sau em Hồ tới thăm phải phá cửa mới lôi được sác Hồ  đã sình  rồi đem đi hỏa thiêu lấy tro đưa lên chùa

-Thiên hạ nói chỉ đúng một phần thôi Hồ trốn đi Mỹ không hoàn toàn để tự do uống rượu tự do đánh mà chược mà để vẽ để viết,chứng cớ là những bức tranh anh vừa xem,Muốn hiểu Hồ hơn anh cần phải đọc bức thư tuyệt mệnh Hồ gửi cho vợ và bản sao Hồ cũng gửi cho  bạn bè trong đó có cả anh nữa đấy

x

Minh yêu quí

Anh biết tới nay anh vẫn là người em yêu quí nhât mà cũng oán trách nhất trên cõi đời này nhưng anh hơn bốn mươi tuổi rồi con cái đã trưởng thành  chúng ta đã sống cho nhau cũng quá đủ và đã tới lúc anh phải được sống cho những khát khao của đời anhAnh biết rât rõ tình yêu của em đối với anh một tình yêu lớn phải nói là rất lớn đấy em săn sóc anh còn hơn săn sóc đứa con đầu lòng của chúng ta  khiến cho anh có cảm giác anh đang là  người tù của tình yêu,Vì vậy cho nên cái ngày anh lên đường đi cải tạo anh như chim sổ lồng mặt mũi hớn hở  khiến cho anh vừa bước vô nơi tập trung cải tạo tụi bạn nó nhìn anh đến phẫn nộ và nhổ nước miếng,Thái độ của tụi nó anh rất hiểu bởi vì xa vợ con ai lại như anh  nhưng chúng đâu có hiểu tâm trạng con chim vừa sổ lồng con người vừa thoát được cái nhà tù nhung lụa Anh biết cái đêm đâu tiên được ngủ lúc mình muốn ngủ anh đã ngủ rât say khiến sáng thức dạy  đứa nằm gần đã chửi đổng anh là kẻ vô tâm quân măt trơ trán bóng vô liêm sỉ chỉ biết ăn no ngủ kỹ họ có biết đâu anh vừa mới thoát được sự chăm bẵm của em anh thoải mái như thế nào ai nói gì anh cũng bỏ ngoài tai trước hết anh phải sống cho anh cái đãAnh phải thú thật với em anh có lỗi với em rất nhiều khi ngày ra trại mặt mũi chẳng vui vẻ gi  dù dư biết em đã phải vất vả như thế nào ‘’chung chi ‘’ bao nhiêu là vàng anh mới đuợc về sớm hơn thiên hạ nhưng cứ nghĩ về nhà lại phải ăn đúng ngày ba bữa sáng ăn phở hay bánh cuốn trưa ăn cơm với món ăn quen thuộc phải ăn đủ ba bát ăn cơm xong phải ăn tráng miệng rôi hút thuốc và đi ngủ trưa đúng một giờ thì thức dạyTối chỉ được uống đúng một ly rượu nhỏ và mười gìơ phải vào phòng ngủ đi ăn tiệc phải ngồi cạnh vợ ,em gắp cho món gì  ăn món đó vì sợ anh ăn sai thưc đơn của em lên máu và chỉ được uống đúng một ly bia.Sáng phải dạy đúng giờ tâp thể dục dơ tay dơ chân bao nhiêu cái đi bộ bao nhiêu buớc,uống đúng ấm nước trà em pha Anh buồn là vì vậy đó

Về nhà anh buồn quá đi mua mầu mua giá vẽ căng ‘’toan ‘’ lên định vẽ em la lối om sòm anh kiếm sách đọc em mặt nặng mày nhẹAnh không còn đường nàokháclàphải’’nổiloạn’’. Để chuẩn bi cho cuộc ‘’nổi loạn’’ anh phải đóng kịch ngoan ngoãn trong cái cuộc sống khuôn phép em bày ra nghĩa là không tỏ vẻ miễn cưỡng khi em đưa đi làm hồ sơ xuất cảnh  đoàn tụ với đứa con vượt biển của chúng minh anh đã ngoan đến độ em cũng kinh  ngạc Nhất nhất  anh đều tuân thủ  theo những sắp xếp của emSau buổi phỏng vấn ở sở Ngoại vụ em đã ôm anh hôn và nói ‘’anh tuyệt vời quá’’.anh im lặng vì đã sắp xếp trong đầu từng chi tiết kế hoạch ‘’ đào thoát khỏi cái nhà tù nhung lụa của đời người’’.Anh chờ cho tới khi em và con vào phòng cách ly là anh ôm bụng kêu đau bụng chạy vội vào phòng vệ sinh rôi ba chân  bốn cẳng rời phi trường trở về thành phố vì anh biết chắc đã vào phòng cách ly rồi em và các con không thể bỏ chuyến đi Mỹ trở lại thành phố kiếm anh.Anh trở lại thành phố  cẩn thận đến tá túc nơi thằng bạn nghèo khó nhất của anh đưa nó đi’’ nhậu ‘’khiến nó kinh ngạc đến phát khóc vi cảm động và đêm đó anh ngủ lai nhà nó ,cái nhà ven kinh Tàu Hũ bên quận tám.Ba ngày sau anh đã trở về căn nhà của minh cái nhà mà em đã ủy quyền cho cô em gái kế em để xin ở lại căn phòng nhỏ của anh hầu thực hiện hoài bão  là sống thật với con người thật của anh  và làm công việc mà mình thích làm đó là cầm cọ vẽ những bức tranh  mà anh thai nghén bấy lâu nay nhưng bi em cản không cho vẽ

Anh biết rất rõ cái giá mà anh phải trả khi anh ‘’nổi loạn’’ anh biết tự do giá đắt lắm nhất là tự do để làm nghệ thuật nhưng tới tuổi anh rồi thì phải chấp nhận thôi.Như em biết đó bệnh suyễn của anh không cho phép anh sống được bao nhiêu ngày nữa anh còn rất ít thời gian mà công việc của anh thì chưa đâu vào đâu cả thế mới khổ cái thân anh chứ

Anh xin báo để em biết anh đã làm viêc cật lực và cũng vui chơi thoải mái kết quả thật bất ngờ anh đã hoàn thành được năm mươi bức tranh  nhưng thật ngao ngán vẽ tới bức tranh thứ năm mươi thì anh thấy mình ‘’chững’’ lại không thể nào vẽ tiếp đuợc nữa

Những bức thư em viết cho anh anh đã đọc hết và đọc rất kỹ Hai năm  em có thẻ xanh em sẽ trở về Viet Nam lúc đó chắc em sẽ ngạc nhiên lắm vì em  sẽ cò một tài sản lớn đấy

Hình như còn mấy ngày nữa em ở Mỹ đủ hai năm

Minh ơi thật lạ lúc này anh uống rượu không  còn thấy ngon nữa thì ra phải thèm khát uống rượu mới thấy ngon.Mọi khi đang đánh bài em réo lên đến giờ đi ngủ anh tức lắm nay tha hồ đánh bài thâu đêm xuôt sáng anh lại  thấy hết còn hứng thú đánh bài nữa

Anh thú thật với em anh vừa hoàn thành bức tranh mà anh mê nhất dồn hết tâm trí vào nó anh tưởng cả đời anh cũng không hoàn thành được bức tranh này anh treo nó lên tường say sưa ngắm nóAnh tự thưởng  anh bằng cách ‘’khui’’ chai rươu mà anh quí nhât vẫn để  dành trong tủ rươu để ngắm chứ không dám uống .Anh chọn cái ly pha lê đẹp nhất rót rươu ra rồi say sưa ngắm mãi tới mấy phút mới dám đưa lên miệng uống, thật quỉ quái rươu  ngửi thơm phức nhưng anh uống vô không thấy ngon một chút nào cả anh giận qúa  hất ly rưọu vào tường rồi đập cái lyThật chán ngán  anh phải làm gì cho đến khi trời sáng đây, anh ngắm đi ngắm lại những bức tranh anh vừa treo trên tường,sao trước bức nào mới vẽ xong anh cũng say sưa ngắm và bây giờ thât lạ nhìn chúng anh phát ‘’b ực’’Anh gỡ hêt tranh xuống cả bức cuối cùng mới hoàn thành cũng gỡ luônAnh vừa  gỡ hết tranh trên tường chất thanh một đống thì cơn suyễn bỗng nổi lên anh vội lấy ống thuốc cấp cứu há miệng ra bơm sối xả vô miệng anh ngộp thở anh thua cuộc đời rồi chỉ tiếc là chưa kịp nổi lửa  đốt những bức tranh dấu tích còn lại của cuộc nổi loạn

X

Tôi vừa đọc xong bức thư của Hồ gửi vơ thi em trai Hồ tới mời tôi uống rươu và khoe

-Thật bất ngờ quá anh ơi tranh của anh Hồ bán chạy quá chị Minh  cố tình treo gía rất cao vì nghĩ rằng với giá đó chẳng ai mua tranh của anh Hồ chi Minh sẽ cò dip đem triển lãm tranh anh Hồ đi triển lãm ở Mỹ nào ngờ bức cao gía nhất cũng đã có người mua .Chi Minh nghe tin anh mới về  muốn mời anh tối nay đi ăn với gia đình anh Hồ một bữa cơm thân mật

Nghe em của Hồ  nói mắt tôi bỗng dưng cay sè sao caùi số Hồ noù laïi khốn nạn thế Hồ đđã õphải trả  một caùi giaù  quaù mắc cho  những böùc tranh ñang treo treân tườngYêu chồng kiểu Minh có phải là yêu không nhỉTôi  nói nhỏ vơi em Hồ rằng rất tiếc tôi không còn bụng dạ nào để ăn uống gì cả tôi chỉ muốn lên chùa thắp cho Hồ một nén nhang để chuộc lỗi về những cái nhìn không đúng của tôi đối với Hồ khi gặp Hồ  ở trại cải tạo xin Hồ hoan hỉ tha lỗi cho một kẻ hồ đồ là thằng tôi Tôi cũng nhờ em Hồ nói với Minh  rằng tôi rất quí Minh nhưng tâm trạng tôi lúc này không được tốt tôi  không thể nào lại chào Minh đựoc xin Minh cảm phiền đừng hiểu lầm tôi vì nếu lúc này tôi gặpMinh rất có thể cái tính hay nói thẳng và  ưa bốc đồng  của tôi sẽ làm Minh khó chịu tốt nhât là không nên gặp  nhau vào lúc này

Cô bạn  thân mời tôi đi xem phòng tranh của Hồ nghe tôi nói với em của Hồ như vâỵ đã kéo  tay tôi đi và nói nhỏ

-Em còn một chai vang đỏ vô chai đúng cái năm anh rất ưng hôm nay anh phài đi ăn với em món Cao lầu Hội An và uông chai rưou này .em sẽ đưa anh tới cái qúan gần Tinh xá Trung Tâm thưởng thức đặc sản Hội An anh sẽ quên hết những hệ lụy của cuộc đời

Tôi gật đầu đi theo cô bạn ngoan ngoãn như một đứa trẻ năm tuổi đầu óc muốn quên hêt mọi chuyện ở đời chỉ còn nghĩ tới món Cao Lầu Hội An mà thôi

HỒ NAM

 

 




Nguyễn Phan Ngọc An DƯỜNG NHƯ LÀ DUYÊN PHẬN

DƯỜNG NHƯ LÀ DUYÊN PHẬN

                                   

                                                   Truyện ngắn : Nguyễn Phan Ngọc An

 

 

Căn nhà mà Quyên share phòng nằm trên con đường lộ lớn, ngày đầu dọn đến nàng đã nghe nhiều ngôn ngữ líu lo không thể hiểu của người Ðài Loan, Hàn Quốc …Bấy nhiêu đó cũng làm nàng vui sau những biến cố của cuộc đời đã đẫy nàng ra khỏi căn nhà êm ấm của nàng.

Chồng Quyên bây giờ không còn là Hưng của những ngày xa xưa ấy, chàng đam mê theo cám dỗ ăn chơi, bỏ bê vợ con theo bạn bè về Việt Nam cưới vợ trẻ – Với lứa tuổi của Quyên không còn trẻ trung gì nữa nên nàng đã mặc kệ Hưng không ghen tuông hay chỉ trích mà chỉ âm thầm chịu đựng mong ngày nào đó gặp những tráo trở chàng sẽ quay về với vợ con …Nhưng vô ích, hai con của Quyên đã thành nhân và đã lập gia đình, thế là nàng đệ đơn ly dị và bán nhà chia của với Hưng.

Ngồi nơi căn nhà mới, bên hai cặp vợ chồng Hàn Quốc, Ðài Loan hạnh phúc líu lo thăm hỏi nàng, họ hoàn toàn không biết tiếng Anh nên Quyên cũng đành cười trừ, anh chị chủ nhà người Tàu Việt không có con, ngoài ra còn có một bà cụ ngoài 70 tuổi cũng người Tàu Việt, mẹ của anh Hiền chủ nhà vừa được anh bảo lãnh từ Việt Nam qua mấy tháng nay và sống chung với anh chị.

Căn phòng của Quyên share nằm một góc trong, đối diện với hai căn phòng của hai cặp vợ chồng kia cũng đến đây mướn trọ, hàng ngày mỗi buổi sáng Quyên ra khỏi nhà đến sở làm còn họ thì dẫn nhau đi bộ quanh vùng cư ngụ – Quyên thấy họ không đi làm gì cả, hai cặp này rất thân thiết với nhau và họ rất dễ thương mỗi khi trò chuyện ngượng nghịu linh tinh với nàng. Sau giờ tan sở về nhà Quyên chỉ có bác gái mẹ anh Hiền là người thân cận nhất, nàng thường trò chuyện thân mật và thỉnh thoảng mua bánh mua kem mời bác ăn chung.

Thắm thoát gần một năm trôi qua, Hưng đã biền biệt không trở về Mỹ và được nghe tin chàng đã cưới một cô gái Việt Nam – Vốn đã có sẵn một cửa tiệm buôn bán tại Mỹ, ngày chia tay Quyên đã giao lại cho Hưng cửa tiệm đó, thời gian sau Hưng bảo lãnh cô vợ VN qua và cho cô ta đứng chủ tiệm … Quyên biết nhưng chẳng đoái hoài với người chồng đã thay lòng đổi dạ, thỉnh thoảng cuối tuần nàng lái xe về thăm các con, đó là niềm an ủi duy nhất của nàng trong giai đoạn này.

 

Quyên thương bà cụ mẹ anh Hiền quá, bà hiền hậu và rất sợ nàng dâu – Một hôm bà vụng về đánh đổ mớ đậu ô ve xuống đất, chị Hiền mắng bà xối xả “ Mầy làm ăn như vậy đó hả, lượm lên cho hết, đem mầy qua đây mệt quá đi, làm bể cái này, làm bể cái kia, liệu hồn coi chừng tao nghe chưa”… Quyên ngạc nhiên vô cùng, sao lại kêu mẹ chồng bằng mầy nhỉ ? Chả lẽ người Hoa gọi nhau như thế ? Nàng không dám hỏi khi nhìn nét mặt cau có hung hăng của chị Hiền – Quyên chỉ ngồi xuống lượm đậu phụ bà cụ và an ủi bà đôi câu khi thấy từ cặp mắt bà đôi dòng nước mắt lăn dài xuống đôi má nhăn nheo…

 

Hôm nay ngày 30 tết âm lịch, quang cảnh người Việt tha hương cũng rộn ràng, kẻ mua mứt, người ôm dưa, người Việt Nam dù ly hương vẫn không quên ngày tết Nguyên Ðán thiêng liêng, khí trời buốt lạnh, từng làn gió nhẹ đong đưa những tàng cây vừa đâm chồi nẩy lộc xanh um, lại một mùa xuân, Quyên lẩm bẩm trong miệng mà nghe nỗi buồn cô đơn xâm chiếm cả tâm hồn .. Nàng vẫn đi làm vì nước Mỹ không dành cho nhân loại Á Châu được nghỉ ngày tết Nguyên Ðán. Chiều trở về căn nhà trọ, Quyên bỗng hốt hoảng giật mình vì từ mái nhà đang bốc khói, chiếc xe cứu hỏa đang đậu chận ngang cổng vào nhà, vài ba anh lính cứu hoả và Police Mỹ đang làm việc lăng xăng chạy tới chạy lui – Quyên gặp anh Hiền nơi cửa và hỏi tự sự, anh cho biết là mẹ anh đã làm cháy nhà – Bà bị cảm và xuống bếp nấu cháo, đến khi tắt lửa bếp lại tắt lộn bếp khác nên bếp đang nấu vẫn cháy đều, bà vào phòng nằm nghỉ và mê thiếp đi với cơn sốt hoành hành . Khi ngọn lửa bùng lên trên mái bếp thoát khói ra ngoài, ông hàng xóm người Mỹ thấy và gọi 911 cấp cứu, lúc ấy bà cụ vẫn không hay biết gì cả …Ðến lúc đoàn cứu hỏa đập cửa rầm rầm bà mới giựt mình choàng tỉnh, khấp khiểng ra mở cửa, hai cặp vợ chồng trọ nhà cũng đi chơi chưa về. Mắt bà hoa lên khi thấy lửa cháy và vì sợ quá bà té dài trên nền nhà bất tỉnh.

 

Ðêm giao thừa đến dần trong lặng lẽ, Quyên ngồi bó gối run sợ trong góc phòng, bởi phòng bà đối đầu với phòng Quyên, không biết bà bây giờ ra sao, cầu mong cho bà tai qua nạn khỏi . Bỗng có tiếng gõ cửa, anh Hiền hiện ra nơi cửa phòng Quyên và nói trong tiếng nghẹn ngào “ Má tôi mất rồi chị ơi, mất tại bệnh viện hồi nãy” – Quyên nghe xong bàng hoàng không ít, không ngờ chuyện chỉ thế mà bác có thể sợ đến chết luôn, thương bác quá bác ơi…Thôi thì tất cả là định số, mong bác ra đi bình an, hộ trì cho cháu nhé.

Giờ giao thừa đã đến, tiếng pháo nổ đì đùng lách tách vọng về từ mọi hướng, Quyên cô đơn trong lo sợ bồn chồn, nàng không có nhà cửa, bàn thờ để cúng giao thừa, cũng không có người thân yêu bên cạnh, thêm nỗi sợ hãi vong hồn bà mới mất, Quyên thảng thốt ngậm ngùi rơi nước mắt, có ai hiểu cho mình nỗi cô đơn cùng cực xen lẫn hãi hùng trong giờ phút thiêng liêng mọi người đón mừng năm mới…

 

Ngày mồng ba tết Quyên đến nhà quàng ở Oakhill thăm bà lần cuối, nhìn gương mặt bà nằm yên bất động, da bà đen sẫm và trán lại nhô ra không giống lúc bà còn sống, nàng lâm râm trong miệng những lời cầu nguyện rồi lặng lẽ ra về trong hoang mang suy nghĩ, sao bà khi chết cái trán lại nhô ra và da đen sẫm vậy ? có lẽ vì quá sợ đứa con dâu mà như thế chăng, nói một mình không có lời giải đáp và Quyên vội vàng lái xe về nhà với cả sự lo sợ vây quanh.

 

Ba hôm sau, Quyên đi làm về vừa bước vào cửa chị Hiền chận lại bảo “ tối nay ai có đi đâu cũng nhớ đừng vô nhà sau 7 giờ tối, để cho bả về nhà bả ăn uống vì tôi cúng mở cửa mã mời bả về” Quyên nghe xong nổi da gà, chết rồi Quyên làm sao đây nếu bà về và vào phòng gõ cửa thăm Quyên như những lần bà còn sống ! Nàng ngồi thừ ra bất động trong mấy phút rồi ra xe lái thẳng về chùa, đêm nay chùa Duyên Giác cúng sao hội đầu năm, nàng chỉ còn một nơi duy nhất là đến chùa để nàng tránh căn nhà trong lúc bà về bà ăn uống mà thôi …

 

Ðọc kinh cầu nguyện cúng sao xong là 10 giờ đêm, Quyên không dám về nhà, tự dưng nỗi sợ hãi dâng cao, nàng chỉ còn cách lái xe chạy thẳng xuống thành phố Fremont nơi con trai nàng cư ngụ để ngủ nhờ qua đêm – Gõ cửa không ai mở, gọi phone không ai bắt phone, có lẽ vợ chồng nó đi chơi xa những ngày đầu xuân chăng ? Ði đâu bây giờ khi đồng hồ đã 11giờ khuya, Quyên bối rối giữa đường khuya thanh vắng một mình một xe, ngoài đường vắng tanh bởi thành phố này không tấp nập đông đảo như thành phố nàng cư ngụ gần hai mươi năm qua. Dừng xe suy nghĩ một hồi, Quyên sực nhớ đến căn nhà bà xui gia là mẹ vợ thằng con trai ở gần đó cách vài ba con đường, nàng vội cho xe về hướng đó, trong lòng mừng khấp khởi để có chổ ngủ qua đêm sáng mai còn phải đi làm sớm…

 

Chị Cúc ra mở cửa cho Quyên với nét mặt tươi cười nhưng không che dấu được là đang ngủ phải thức dậy nên có hơi lờ đờ không tươi tỉnh, chị đưa Quyên vào căn phòng nhỏ cạnh phòng khách và sát hiên nhà trước rồi bảo “ nhà chả có ai ngoài vợ chồng tôi ngủ căn phòng tuốt trong kia, còn mấy phòng thì bỏ trống, chúc chị ngủ ngon và tôi có để chiếc máy cassette radio đây, mở ra nghe cho dễ ngủ” Nói xong chị đóng cửa phòng Quyên lại và đi vào phòng riêng của chị –

Thời gian trôi qua chậm chạp và nặng nề, lát lát lại nghe tiếng “đùng, sịch, chat” sát bên hiên nhà ngay đầu giường Quyên ngủ, cứ thỉnh thoảng lại vang lên những tiếng động lạ như thế xen với những giọt mưa xuân tí tách ngoài hiên là nàng run lẩy bẩy trong chiếc chăn trùm kín cả đầu không dám thở mạnh sợ ai nghe ? Nàng tưởng tượng như có ai đâu đó đang nhìn nàng và muốn chọc ghẹo nàng, tiếng động mỗi lúc một nhiều thêm và gia tăng cường độ phát xuất, Quyên bắt đầu run lên bần bật và nghĩ ngợi lung tung, không lẽ có ma xung quanh nhà, không lẽ có ma trong phòng này ? Nàng nhớ lại ngày xưa khi còn ở quê nhà nàng đã từng gặp ma, đang lái chiếc xe Honda trên lộ về đêm nàng thấy trước mặt một cục gì dần dần to lên và đen thui chận hết con đường nàng đang chạy và nàng té xuống bất tỉnh ! Rồi nàng lại nhớ đến chuyện được nghe kể lại cũng tại quê hương, hai anh chở nhau trên chiếc Vespa từ Sài Gòn về Vũng Tàu, đến đoạn vườn cao su Long Thành lúc đó khoảng 12 giờ khuya thì có một cô gái mặc áo dài trắng, tóc dài đứng sát lộ đường đưa tay vẩy xe xin quá giang … hai anh dừng lại cho cô gái leo lên phía sau quá giang về nhà ở cách đó mười cây số như lời cô nói, vì đêm khuya hai anh không nhìn rõ lắm mặt mũi cô nhưng tiếng nói trong trẻo dễ thương và rất dễ cảm tình khi cô ngồi sau lưng hai anh và mở lời giới thiệu về tên tuổi, đồng thời cô cho địa chỉ nhà để hai anh đến chơi khi có dịp – Anh ngồi giữa đã kịp rút cây bút trong túi ra ghi địa chỉ cô và hẹn sẽ đến thăm cô vài tuần tới khi có việc đi Sài Gòn.

Ðến đoạn đường tối cách Long Thành khoảng mười cây số cô bảo dừng xe và cảm ơn hai anh rất chân thành, còn bắt tay anh ngồi giữa với nụ cười thân thiện trên môi, trời tối quá hai anh cố tình nhìn cô cho kỷ nhưng không rõ nét chỉ thấy mờ mờ rất đẹp, cô thoăn thoát bước nhanh vào lối đường nhỏ và hai anh lên xe chạy một mạch về Vũng Tàu, trên đường thỉnh thoảng nhắc nhau về cô gái đẹp quá giang.

 

Một hôm hai anh đi lo công việc Sài Gòn về ghé thăm cô theo địa chỉ cô cho, phải đi sâu vào đến 2 cây số mới đến được nhà cô, cây cối um tùm bao quanh nhà, cảnh vật âm u đến rợn người, bước vào cửa gặp hai ông bà già ngồi nơi ghế, chào hỏi xong hai anh xin phép cho gặp mặt cô và hôm nay giữ lời hứa đến thăm cô L…Ông bà già nhìn nhau ngạc nhiên pha lẫn bàng hoàng rồi tự dưng hai dòng lệ rơi xuống đôi má nhăn nheo của bà già, hai anh chưa hiểu điều gì chỉ mơ màng có chuyện gì không may xãy ra cho cô gái nên lặng im không dám hỏi – Ông cụ nhìn lên bàn thờ chậm rãi nói trong hơi thở đứt từng đoạn “ hai anh ơi, con gái tôi đó, nó mất đã trên 20 năm rồi khi một tai nạn xe hơi ngoài đường lộ gây thiệt mạng cho nó, chúng tôi đau khổ vô cùng trên hai mươi năm nay, vậy mà nó chẳng một lần nào về thăm chúng tôi, nay lại gặp gỡ các anh, hình nó đó, hai anh nhìn xem có đúng không”…Hai anh ngỡ ngàng đến tột độ, đúng là cô gái đêm nào quá giang đây, thì ra cô đã chết trên 20 năm rồi …Hồn linh cô xin phù hộ chúng tôi đến đây thăm cô nào ngờ cô đã không còn trên thế gian này nữa ! Nhìn ảnh cô lần nữa để ngậm ngùi hai anh từ giã ông bà già ra về trong nỗi bàng hoàng không sao hiểu được.

 

Một tuần sau khi đi thăm nhà cô L…về, anh ngồi giữa lâm trọng bệnh và anh mất sau mấy hôm, anh bạn ngồi lái xe hồn bay phách tán, nhớ đến cô gái quá giang mà nổi da gà run sợ, cầu xin cô tha mạng cho tôi, chúng tôi giúp cho cô quá giang mà, chúng tôi đâu làm hại gì cô, xin cô tha mạng cho tôi ! Anh ta nhớ lại lúc chia tay ở quãng đường đêm cô gái đã bắt tay bạn chàng và trên đường cô gái ngồi sát và đã ôm eo bạn chàng suốt quãng quá giang …

 

Hồi tưởng lại những mẫu chuyện đã nghe đã biết này thì nỗi sợ hãi đã dâng cao vùn vụt trong đầu óc Quyên, nàng xô chăn với tay ra mở chiếc radio may ra tìm chút bình yên trong cơn bấn loạn …Giọng hát cải lương của nữ nghệ sĩ Thanh Nga cất lên não nuột, trời ơi, cô Thanh Nga, cô đã chết lâu rồi mà sao lại hát giữa đêm khuya ? Nàng chịu trận không thể nào tắt máy vì không dám thò đầu thò tay ra ngoài nữa, tưởng tượng ma đã hiển hiện xung quanh nàng, nhiều lắm, nhiều lắm cả ngoài hiên với những âm thanh ghê rợn giữa đêm thanh vắng mà tiếng kêu cứ thảng thốt vang lên từng chập lạnh người. Thanh Nga cứ hát liên tục với cả Thanh Sang, Quyên chết lặng với nỗi sợ hãi và bịt kín hai tai lại, người cuộn cong như con tôm luộc mà vẫn không biết làm sao để thoát khỏi nơi này.

 

Tiếng gõ cửa nhẹ nhẹ, chị Cúc bước vào lên tiếng hỏi “ chị ngủ được không” Quyên mừng quá tung chăn ngồi bật dậy lập cập trả lời “ ngủ gì mà ngủ, sợ gần đứt tim đây, bà biết không cái phòng này sao ghê rợn quá, tôi không tài nào chợp mắt” Nói xong Quyên nhìn đồng hồ tay đã hơn 3 giờ sáng, lạy trời đã qua đêm, qua một đêm kinh hoàng khủng khiếp dù là thật sự nàng chưa thấy ma trong đêm nay, nhưng ảo giác rùng rợn kia như cứ lãng vãng trước mắt nàng – Bây giờ tạm yên tâm vì có chị Cúc ngồi bên cạnh, hơn một giờ nữa lại đến hãng làm việc, sự bận rộn của việc làm sẽ làm ta quên ngay sự việc của đêm nay thôi mà, nàng tự an ủi mình như thế.

Chị Cúc sau khi nghe Quyên trả lời, chị liền nói “ Chị quên là phòng này là mình dành cho chi Huệ sao, lúc trước mỗi lần chị Huệ đến là mình dành riêng căn phòng này cho chỉ, mãi đến nay vẫn bỏ trống từ ngày chỉ mất không có ai ngủ trong phòng này cả, hôm nay chị ngủ phòng chỉ chắc chỉ không bằng lòng đó, thôi đừng sợ, người chết chẳng hại mình đâu, tôi dậy sớm lắm, chị nằm nghỉ thêm một lát rồi dậy ăn sáng với tôi rồi đi làm nha” Chị dứt lời rồi bước ra ngoài không quên đưa tay tắt radio cho Quyên im lặng ngủ một chút trước khi đi làm – Ngủ làm sao được, Quyên miên man nghỉ đến chị Huệ, chuyện xãy ra cách nay ba năm, chị Cúc kể cho nàng nghe và chính nàng đã từng dự đám giỗ chị Huệ tại căn nhà này hai ba năm liền – Chị Cúc là bạn thân của chị Huệ, rất thân gần như ruột thịt – Chị Huệ sang Mỹ đã lâu, có chồng người Nhật và Quyên cũng gặp ông chồng người Nhật của chị Huệ những lần cúng giỗ chị – Thời gian chung sống với chồng hơn 10 năm chị Huệ vẫn không có con, chị làm cho một hãng điện lớn tại vùng Hayward, trong hãng có rất nhiều nhân sự đủ mọi sắc dân, chị Huệ thuộc dân giàu có, đeo hột xoàn đầy cổ và tay – Chị quen thân với một người Mễ làm chung, anh ta thường lân la thân tình mời chị đi ăn buổi trưa với ông, thỉnh thoảng lại mời chị đi dùng buổi tối, chị Huệ thích ăn nhà hàng Tàu với thức ăn Việt nên ông ta cũng chìu ý chị tập ăn thức ăn Việt Nam.

Tình cảm mỗi ngày thêm nảy nở, ông chồng người Nhật không biết gì, vì không có con với nhau nên thời gian không ràng buộc họ nhiều, mạnh ai nấy đi làm rồi đêm về nhà gặp nhau là vui rồi. Một hôm chị đi chơi với ông người Mễ đến khuya, ông ta lái một chiếc xe, chị lái xe của chị dường như để tránh sự dòm ngó của mọi người bởi chị là gái có chồng phải giữ chút danh dự cho mình, tên Mễ lái xe đến tận khu rừng hoang vắng kè mãi bên xe chị và chị cũng vui vẻ lái theo anh ta – Ðêm đó thỏa mãn thú tính hắn đã giết chị bằng cây súng bọc theo xe và cướp hết nữ trang của chị, xác chị Huệ hắn bỏ lên xe của chị và biến mất…

 

Những lần giỗ chị Huệ, ông chồng người Nhật buồn bã đăm chiêu, nhìn ảnh chị trên bàn thờ tại nhà chị Cúc rồi ông thở dài rơi nước mắt, chắc tự thâm tâm ông tiếc cho một người vợ lỗi lầm, tiếc cho một mối tình ông dành đặc biệt cho vợ mình mà lại làm nhục nhã đau khổ cho ông và vì thế ông không tự làm giỗ tại nhà mình mà nhờ nhà chị Cúc là người bạn chí thân của vợ làm giỗ mỗi năm và ông đến …

 

Ðằng đẵng 3 mùa xuân trôi qua trong lạnh lùng buốt giá, Quyên vẫn sống âm thầm với nỗi đau thầm kín, nàng đã dọn nhà đi nơi khác sau thời gian bà mất bởi tấm hình bà rọi lớn treo lủng lẳng trong gara mỗi khi nàng vào lấy xe đi làm sớm đã khiến nàng sợ liên miên, nàng còn biết Hưng đã bị cô trẻ mang từ Việt Nam qua chiếm tài sản, Hưng đã bị chia nhà cửa lần nữa và bị mất trắng tiệm buôn vì cô ta lúc Hưng mê muội đã dụ Hưng sang tên đứng một mình – Quyên nghe cũng buồn nhưng trái tim nàng đã nguội lạnh, đời là thế, gieo gió phải gặt bão thôi, một lần Hưng tìm đến xin lỗi nàng, mấy lần nhờ hai con năn nỉ mẹ tha thứ cho cha, Quyên vẫn lạnh lùng dứt khoát, thà ở giá chứ không trở lại với kẻ vô nghĩa đãn hậu, biết đâu mai nầy mình được sự đền bồi cho mình gặp người tốt có trái tim chân thật.

 

Mùa thu về trên đất nước ly hương thêm lần lữa, bấm đốt tay thấy hao gầy hơn trước, đếm tuổi sầu thấy đã gia tăng, làn da mơn mởn đã thay vào những chấm tàn nhang trên mặt, trên tay .. Buồn hiu hắt cho mùa thu ảm đạm, một thân một mình với những chiếc lá vàng rơi lả tả, ngọn thu phong vô tình cứ thổi tạt vào thịt da, lùa vào bung tóc rối gây cho nàng những hoang mang khôn tưởng về một kiếp người sao ngắn ngủi vô thường, ai cũng một lần về cát bụi mà thôi, chả mấy chốc phong ba đã làm tóc Quyên lốm đốm những sợi bạc, mắt cũng kém đi, nàng phải mang kính tuổi mới nhìn đọc được những chữ nhỏ li ti, những hình ảnh mờ nhạt …

Một đêm khuya điện thoại reo vang và tiếng nức nở ở đầu dây “ Má ơi, hãy về nhà với con, vợ chồng con đã chia tay rồi, vợ con dẫn hết hai đứa nhỏ đi rồi và con cô đơn lắm, má hãy dọn về sống với con”-  Nàng nghe như đứt từng đoạn ruột, thương cho tình duyên con trẻ chẳng như lòng mong ước của nàng, đời nàng dù có gian truân vẫn mong mõi cho các con hạnh phúc, ngờ đâu lại một mối sầu đến giữa đêm nay …

Quyên dọn về sống với con, hai mẹ con không nói năng không vui cười như xưa nữa, trong lòng nặng trĩu những ưu tư phiền muộn chất chồng, Quyên vẫn đi làm như thằng con trai, chiều tối về lo cho nó được buổi cơm chiều – Mẹ con chia được vài câu chuyện vặt linh tinh cho qua những giờ trống trãi.

 

Rồi một hôm nàng đến chơi nhà bạn cuối năm, một ánh mắt nhìn nàng say đắm, chàng là bạn thân của chủ nhà, chàng đứng tuổi nét mặt nghiêm trang tư cách lịch thiệp chào nàng, Sau vài phút chuyện trò cởi mở với chàng Quyên cảm nhận trong lòng tràn ngập cảm tình và tự dưng nàng nói “ mong có dịp gặp lại anh và nhớ gọi điện thoại cho Quyên nha” – Ðược biết chàng từ nơi xa đến chỉ vài hôm thăm bạn trong dịp cuối năm, chàng sống một mình và đã hưu non, cuộc đời chàng cũng trải bao thương đau, tình duyên chàng đã bao lần tan vỡ…

Quyên vô tình khi dặn chàng nhưng chẳng hề cho số phone, chàng về nhà hằng đêm thầm trách kẻ vô tình, trách người bưởi bồng đưa đẩy cho chàng thầm mơ dệt mộng thương yêu … Nơi sa mạc hoang vu chàng cư ngụ chỉ có mây mù, chỉ có mưa giăng với tình người nhạt nhẽo bởi cư dân nơi thành phố này đâu cùng chủng tộc với chàng, may ra cả thành phố có được dăm ba người Việt Nam.

 

Rồi thời gian cũng lãng quên, chàng trở lại vài lần thăm bạn nhưng không còn được gặp nàng, “phải chăng chúng mình không duyên nợ hỡi Quyên”, chàng thầm ao ước một lần gặp lại, hỏi bạn thì chàng ngại ngùng không nói được tuy chàng biết nàng rất thân thiết với vợ chồng bạn chàng nhưng im lặng mãi để không còn dịp gặp lại nàng thi tim chàng như se thắt lại mỗi khi có dịp đến thành phố của nàng – Chàng tưởng tượng hay nàng đã có chồng và cũng chẳng nghĩ gì đến ta, coi như chuyện qua đường mà sao ta lại quan tâm ray rứt…

 

Mùa đông đã trở về với nhân loại, từng đợt gió lạnh buốt xương mang theo nỗi niềm ly xứ chan chứa buồn của kẻ tha hương, cây cối trụi lá trơ cành khác nào những thây ma giơ xương khô đét giữa trời đông, Quyên buồn cho thân phận hồng nhan mòn mõi đợi chờ một ân sũng của đất trời cho nàng được gặp một ân tình xứng đáng bồi đắp những bất hạnh đã qua trong đời nàng –  Chợt chuông điện thoại reo vang, thường thì nàng ít khi bắt cell phone và cũng ít màng đến những số phone lạ, phone đã hết reo vì Quyên không bắt nhưng tự dưng nàng check số phone thấy lạ hoắc và suy nghĩ đôi giây … ai vậy cà, số nầy hoàn toàn không quen biết, chưa một lần hiện diện trong trí nhớ của mình và cũng chưa bao giờ gọi mình …Tuy nghĩ thế nhưng Quyên lại ra ngoài cầm phone nhà gọi lại, đầu dây điện thoại một giọng nói miền Nam ngọt ngào trìu mến, thì ra chàng đã bất ngờ tìm được số phone nàng trên internet qua một sự tình cờ như có nhân duyên đưa đẩy. Quyên thấy lòng mình rào rạt cảm tình khi nghe qua những tâm sự chờ mong ao ước của chàng hơn hai năm qua, Quyên tin đây là duyên nợ và có lẽ là ơn trên đã cho nàng một sự đắp bồi những gì nàng đã thiếu thốn, mất mát… Sau nhiều đêm trao đổi trên phone, nàng vụt thốt lên với chàng câu nói mà tự thâm tâm nàng không hề biết trước mà cũng chưa hề thổ lộ với ai “ anh ơi, yêu rồi đó” nói được nỗi lòng mình Quyên sung sướng vô biên nhưng vẫn không tránh được đỏ mặt ngượng ngùng với chính mình và đêm đó nàng thả hồn vào giấc ngủ thật nhiều mộng đẹp…

 

Cứ như thế, mỗi ngày Quyên với chàng trao đổi qua phone hàng mấy giờ liền, có cuộc điện đàm dài đến 6 giờ vẫn chưa dứt, như có căn duyên tiền định, cả hai cảm nhận một tình yêu rào rạt trong tâm hồn, một hạnh phúc đang mở ngỏ đón chào và ngày ấy đã đến…

 

Nguyễn Phan Ngọc An 




Tâm Phương : TÌNH THEO BỌT BIỂN

TÌNH THEO BỌT BIỂN 

 

 Tâm-Phương 

 

 

   

Bờ sông Sài-gòn lúc nào cũng đông nghẹt nguời qua kẻ lại nhộn nhịp . Trên bộ xe cộ nguợc xuôi, nhất là các xe Lamb. ba bánh  nhả khói mù trời . Duới sông ghe thuyền tấp nập chạy ngược xuôi vô trật tự .
Sài-gòn tuy buổi sáng nhưng đã nóng ấm và khói bụi mù trời . 

Đi vào Trại Bạch-Đằng 2 thuộc Bộ -Tư-Lệnh Hãi-quân thấy tất cả Khóa-sinh đã hiện diện đông đủ, người nào cũng tươi vui hớn-hỡ, cười nói huyên thuyên .

Tôi không quen một người nào ngoài Bằng.  Khi thấy Tôi nó chạy lại nắm tay kéo đến giới thiệu những người bạn quen của nó, Tôi cũng vui lây với mọi người .

Lần đầu tiên vào Trại Lính, thấy ai cũng quân-phục chỉnh tề, đi đứng mạnh dạn, Không biết những trại lính của các Quân-Binh Chủng khác thế nào chứ Hãi-quân

thì rất là khang trang sạch sẽ .

Tiếng kẽng tập họp chào cờ buổi sáng vang lên, mọi người đến sân cờ sắp hàng thứ tự từ Quan tới Lính, Tôi chưa quen thuộc với Cấp-bực Hãi-quân nên chỉ đoán đại Ông nào lớn, Ông nào bé mà thôi .

Đám tân khóa-sinh tụi tôi cũng theo lệnh tập họp Chào cờ . 

Lần đầu tiên Tôi thấy Chào Quốc-kỳ nhưng không ai hát Quốc-Ca, chỉ có Ban Quân-nhạc đánh trống, thổi kèn và mọi người cất tay chào .

Đám Tân-khoá-sinh có đứa bắt chước cất tay chào,còn hầu hết chỉ đứng nghiêm chỉnh chào cờ theo kiểu dân-sự như Tôi . 

Chào cờ xong, tụi tôi đuợc lệnh vào phòng Hội rất lớn, sự thực đây là phòng ăn của Hạ-sỉ-quan và Thủy thủ . Ngồi đuợc vài phút thì có Ông Đại-úy đi vào, mọi nguời đứng dậy im lặng, Ông ta vẫy tay ra lệnh ngồi xuống và tự giới thiệu Ông ta là Đại-đội-truởng tạm thời của Sinh-Viên Sỉ-Quan trong khi chờ đợi tàu đưa ra Nha-trang .

Phần việc Ông ta phải lo cho Khoá-sinh trong tuần này theo chương trình :

  Lảnh Quân trang, Quân-dụng – Đưa Khoá-sinh qua Bệnh-viện Hãi-quân để khám y-khoa tổng quát, hớt tóc – Học một phần căn-bản Quân-sự như cách đi đứng, chào kính, cấp-bậc – Tập thao-diễn quân sự hàng ngày v…v…

Sau bốn giờ chiều  mỗi ngày, Sinh-viên đuợc cấp giấy phép xuất trại nếu có nhà ở ngoài, sáng hôm sau trở vào, nếu ai không có nhà  thì ở lại doanh trại, có nơi ăn ngủ .

Lâu nay sống đời dân-sự tà tà,bây giờ bắt đầu vào khuôn-khổ kể cũng hơi mệt mỏi, hy vọng dần dần rồi sẽ quen .

Ngày đầu tiên nhập ngủ, ngày lảnh quân-trang, ngày đi khám bệnh tổng quát Đó là những ngày không bao giờ quên được trong cuộc đời quân-ngủ của Tôi Giống như mối tình đầu của đôi trai gái, dù suông-sẻ hay bẻ-bàng,họ đều mang dấu ấn đậm nét trong tâm tư suốt cuộc đời của họ .

Thời gian trôi nhanh như thoi đưa , đã hơn một tuần nhập trại  .

Đuợc biết chỉ còn hai ngày nữa là lên tàu ra Nha-trang nên tất cả SVSQ không được ra phố và ngủ ngoài như truớc, bù lại thì cho Thân nhân thăm viếng trong Câu-lạc-bộ .

Chiều nay sau giờ tan sở, nhìn ra cỗng thấy rất nhiều bóng hồng thấp thoáng đi vào, những tà áo xanh, áo trắng, áo vàng thuớt tha bay trong gió, …

Bọn SV đứa nào cũng nhốn nháo trố mắt nhìn, miệng trầm trồ khen  :

  Em gái hậu phương của đứa nào trông hấp dẩn quá ta …? …..Rồi cả đám dành nhau nói : Chắc là tìm tao đó …………Không, …Tìm tao …..Tìm tao …

Mọi người phá lên cuời  …….rất vui vẻ  ….

Sau đó, anh lính gác cỗng cầm tờ giấy chạy vào nói lớn :

  Các SV có tên sau đây đang có thân nhân cần gặp . Anh lính lên giọng đọc tên hơn mười SV . Những người đuợc gọi tên, mặt mày tươi rói, lủ lượt đi ra Cỗng . Đám SV còn lại thì mặt mày buồn hiu, lủi thủi tan hàng .

Tôi hiểu rõ thân phận mình không có Thân nhân nên chỉ vui cười lây với những đứa ăn nói khôi hài và hơi nham-nhở, nhưng cũng giết được nhiều thì giờ buồn

chán . Đi đâu Tôi cũng lè-kè cuốn truyện kiếm-hiệp .

Chiều nay khi ăn com xong, Tôi cầm cuốn truyện đi ra gốc cây có bóng mát gần Cỗng trại ngồi đọc . Thỉnh thoảng nhìn Thân nhân của SV đến thăm và tàu bè qua lại trên sông Sài-gòn cho đỡ nhớ nhà .

Bất chợt thấy  một SV đi cùng hai cô gái trông thật cao sang và rất đẹp, tiến lại gần Tôi, anh  SV gật đầu chào và nói :

  Xin lỗi anh, Tôi tên Vinh, còn anh tên gì ạ ?

Tôi vội vàng đứng dậy bắt tay trả lời :

  Tôi tên Nhân ….. Chào Vinh và hai cô .

Vinh giới thiệu , đây là Thanh, nguời yêu của tôi, còn đây là Huyền em tôi .

Em tôi nói thấy anh hơi quen nhưng không biết đã gặp ở đâu, có phải thật như vậy không  ?  .

Tôi nhìn thẳng mặt Huyền , trả lời :

  Xin lỗi, Tôi cũng thấy rất quen nhưng không nhớ đã gặp ở đâu .

   Huyền nhoẻn miệng cười và nói :

  Nghe giọng nói của Anh, Tôi nhớ ra ngay . Có phải Anh là nguời mua vé đi về

   Miền Trung khoảng mười ngày truớc không ?

  À ! Thì ra Cô là nguời bán vé và đã giúp Tôi lên toa hạng nhì ? .

Tôi trở vào Saì-gòn tối hôm truớc , sáng hôm sau vào nhập trại nên đành thất hứa, không đến cảm ơn Cô và thông báo Tôi đi đường bình yên . Hôm nay xin tạ tội . Tôi vừa nói vừa làm cử chỉ đùa giởn nghiêng mình cúi đầu xuống .

Mọi người cùng cuời vui, rồi Huyền nói :

  Anh Nhân nên biết bất cứ ai nợ Huyền điều gì thì chạy đâu cũng  không thoát .

  Xin vâng ạ, từ nay Tôi biết .

Vinh bảo mọi nguời vào Câu-lạc-bộ ngồi trò chuyện, Tôi nhìn Vinh có ý nói không có đủ tiền, nó hiểu ý nói :

  Hôm nay Tôi mời mọi người ăn tối tại CLB Lính .

Thanh và Huyền rất thích thú, cuời nói huyên thuyên . Thanh trong chiếc áo dài xanh dưong, tóc uốn ngắn gọn, lúc nào cũng đi sát và nắm tay Vinh . Huyền với chiếc áo dài tím hoa cà, tóc xoả ngang lưng, gương mặt rạng rỡ, miệng cười rất duyên dáng .

Chọn cái bàn vuông bốn ghế bên cạnh cữa sổ nhìn ra bờ sông, bắt chuớc Vinh kéo ghế cho Thanh ngồi, Tôi kéo ghế cho Huyền ngồi .

Vinh ngồi sát và ôm vai Thanh, còn Tôi thì kéo ghế ngồi xa Huyền, nhưng Huyền

nhanh tay kéo ghế ngồi hơi gần lại.

Ba người gọi thức ăn thức uống, Tôi chỉ gọi nuờc uống, lấy lý do đã ăn no rồi .

Từ ngày nhập trại, đây là lần đầu tiên vào CLB, ngồi nhìn ra sông rất thoải mái Thỉnh thoảng có gió mát từ bờ sông thổi vào làm bay làn tóc mai của Huyền và Thanh trông rất dễ thương .

Lợi dụng Vinh và Thanh ôm nhau thì-thầm chuyện tình riêng, Huyền kể cho Tôi nghe chuyện gia-đinh nàng:

 Vinh là anh cả, bà chị kế Vinh đã lập gia-đinh và Huyền là con gái út . Bố Mẹ giàu có nên ba anh em đều học Truờng Tây .

Sở dĩ hôm đó ra mở cữa bán vé xe lửa vì bà Cô bận công chuyện buổi sáng nên phải nhờ Huyền thay thế. Rồi nàng nhấn mạnh thêm một câu :

  Có lẽ Trời Đất sắp xếp cho Em và Anh gặp nhau .

Tôi hơi ngỡ ngàng vì những lời bạo dạn, nhưng cũng phản ứng nhanh :

  Vâng, đúng vậy . Trời Đất chỉ cho chúng ta gặp nhau .

Huyền không để ý lời Tôi nói, hoặc nàng không mấy hiểu tiếng Việt nên vui cuời thích thú lắm .  Nàng càng vui cuời, nét hồn nhiên, nhí-nhảnh càng làm tăng vẻ đẹp của nàng gấp bội, làm Tôi quên hết những ưu-tư sầu muộn lâu nay và hoà cùng niềm vui với nàng .

Nàng nắm lấy tay Tôi từ lúc nào, Tôi vẫn cứ để yên và nói thầm trong bụng :

Đúng là dân học Truờng Tây, bạo dạn quá chừng .  Sau đó Tôi hỏi nàng :

  Những ngày cuối tuần, khi làm xong bài vở, Huyền thuờng làm gì  trong nhà ?

   Em ít khi ở nhà cuối tuần lắm, vì bạn bè trong lớp luân phiên tổ chức tiệc tùng và nhảy đầm rất vui .

  Như vậy chắc là nhảy đầm giỏi lắm ?

  Anh Vinh nhảy giỏi nên chỉ dẫn cho em . Còn Anh, thích nhảy đầm không ?

  Tôi không biết nhảy đầm nên cũng không biết có thích hay không  .

Huyền kể rất nhiều về những sinh hoạt tiệc tùng, nhảy đầm của nàng, lúc đầu Tôi chú ý nghe và chen vào những câu hỏi khích động Nàng nói tiếp, nhưng dần dần Tôi chỉ ờ ờ cho qua chuyện . Nàng vẫn tiếp tục kể trong khi Tôi thả hồn suy nghĩ chuyện khác .

Cho đến giờ phút này, Bức-tuờng Mặc-cảm vẫn đứng vững kiên cố trong Tôi .

Bất cứ lúc nào đối diện với ai,  Tôi vẫn không quên được mình con nhà nghèo Có cuộc sống bình dân đạm bạc, nhiều lúc cũng muốn học một chút nếp sống của người sang giàu, lịch-lảm nhưng chưa có phương tiện và cơ hội .

Nhất là những lúc ngồi nói chuyện thân mật với con gái, trong Tôi cứ gợi lên những thắc mắc nguời này có thích hợp với hoàn cảnh của mình không ? .

Mặc dầu chưa ai nói lên một lời yêu đương nào đối với ai hết .

Đôi khi Tôi tự trách sao Mình còn trai trẻ mà có ý tưởng như Ông Cụ già .

Có cơ hội vui chơi, lại không chịu hoà đồng mà cứ ôm cái mặc cảm Môn-đăng Hộ-đối . Như lúc nảy khi nghe Huyền nói về gia-đinh, trong Tôi gợi lên sư phán đoán :

Em con gái út nhà giàu, học Truờng Tây  thì Anh chắc chắn không phải là nguời mà gia-đinh muốn cho Em trong tương lai . Hoặc khi nàng kể những sinh-hoạt trong cuộc sống hằng ngày thì Tôi xác định trong ý nghĩ :

Em và Anh có hai cuộc sống cách biệt nhau quá xa, trong tương lai nếu có  yêu nhau chắc phải vượt qua hàng ngàn rào cản, và kết quả là đổ vở đau thương  . Thôi thì tốt nhất ta chỉ quen nhau và xem nhau như bạn bè .

  Nè, Anh đang mơ mộng gì đó ?

Huyền hỏi thình lình làm Tôi giật mình, trả lời :

  Mơ gì đâu, đang say sưa nghe Em kể chuyện .

  Em muốn hỏi, chiều mai xuống tàu ra Nha-trang, có ai đưa tiễn Anh không ?

Tôi giả bộ nghiêm sắc mặt nhìn Huyền trả lời :

  Có .

Nàng hơi xịu mặt, buông tay Tôi ra, im lặng nhìn dòng sông một hồi rồi hỏi :

  Anh em ? bạn bè ? hay người yêu ?

Tôi chậm rải trả lời :

  Không phải anh em, không phải bạn bè và cũng không phải người yêu .

Nàng ngồi thẳng dậy, nhìn thẳng vào mặt Tôi hỏi :

  Vậy là ai ?

Tôi nhỏ nhẹ trả lời :

  Ban Quân-nhạc có trống kèn của Hải-quân .

Phản ứng nhí nhảnh, Nàng xoay người dùng nắm tay đánh vào vai Tôi thình thịch . Tôi vẫn ngồi yên cho đánh, Vinh và Thanh xoay người lại nhìn, Vinh trừng mắt nhìn Huyền nói :   

  Trời ơi ! Trời …Mới gặp nhau lần đầu, sao mà hung dữ vậy ?

Tôi mim cười nói :

  Không sao, cứ để cho Huyền đánh, đây là lần đầu tiên trong đời Tôi được con gái đánh .

Huyền ngừng tay, ngồi xuống ghế, nhìn thẳng vào Tôi  nói :

  Chỉ một mình Em được đánh, bất cứ con nào đánh Anh, Em vặn gảy cổ .

Mọi người cười vang, Vinh lên tiếng :

  Sách sử ngày xưa nói, không thể sai vào đâu được :

    "  Trai khôn tìm Vợ, Chợ đông ,

        Gái khôn tìm Chồng, ở chốn ba quân " .

Đây là chốn ba quân, Em khôn ngoan Anh biết lắm mà .

Thanh xen vào :

  Không phải, không phải vậy đâu, đọc lại như vầy nè :

   " Gái khôn tìm Chồng, ở chốn Hải-quân " .   

Cả bốn người đắc chí cười vang làm cho mọi người ngồi những bàn kế cận nghi rằng có hai cặp tình nhân đang trong thời kỳ yêu nhau thắm thiết .

Tiếng kẻng tập họp điểm danh chín giờ tối trước khi đi ngủ vang lên, Vinh đứng lên trả tiền rồi bốn người đi nhanh ra khỏi CLB .

Bây giờ Huyền nắm tay và đi sát vào Tôi cũng như Vinh và Thanh . Tôi để mặc kệ cho nàng làm gì thì làm, nhưng trước khi ra khỏi Cỗng trại, Vinh ôm và hôn Thanh say đắm, còn Tôi chỉ ôm nhẹ và vuốt mái tóc óng mướt ở lưng Huyền .

Tôi biết nàng đưa môi sẵn sàng chờ Tôi hôn, nhưng Tôi không dám .

Tối nay, thêm một buổi tối mất ngủ nửa . Suy nghĩ đủ thứ vê Huyền . Hối tiếc về cử chỉ quê mùa khi không hôn nàng . Nghĩ đến sau này Bố Mẹ nàng biết được nàng đang yêu một thằng khố rách áo ôm, chắc nàng sẽ bị cấm cung và có thể bị đánh đập nếu nàng cứng đầu, vẫn một lòng yêu thương Tôi . Hoặc sau

này cưới đuợc nàng, đem về thăm quê Ưu-điềm, nơi mình sinh ra và lớn lên quá nghèo khó, liệu nàng có khinh rẻ mình không ? .

Ôi thôi, đủ thứ ngu đần, mặc cảm quê mùa sao cứ lỡn vỡn trong tâm trí Tôi, biết khi nào Tôi mới hiên ngang trò chuyện, tán tỉnh với bất cứ người con gái nào dù sang giàu tới đâu chăng nửa ?.

Sau một đêm mất ngủ, buổi sáng  tập họp chào cờ, mặt mũi còn bơ phờ .

Vào Hội-trường ngồi chờ nghe lệnh lên đường chiều nay, Bằng tiến đến đứng truớc mặt nói :

  Lâu nay Tao cứ ngỡ Mày con nhà Bà-Cả-Đọi, quê mùa nhút nhát, không ngờ chiều qua thấy Mày dẩn một em vào CLB trông đẹp và quí phái quá chừng, quen hồi nào mà Tao không biết ?

Tôi mim cười nói nhỏ :

  Quen chiều hôm qua .

  Thôi, đừng xạo nghe cha . Anh Chị nắm tay đi sát bên nhau âu yếm vậy mà nói mới quen hả ?

  Thật đó mà .

Bằng nhìn thẳng vào mặt Tôi nói :

  Mày biết không ? . Chiều nay Bố Mẹ Tao sẽ đến đưa tiển , Em gái Tao xin đi theo, lấy lý do anh Nhân  chắc không có thân nhân, để nó đi đưa cho ảnh đỡ buồn .

Mẹ Tao mắng : " Thôi đừng vô duyên, nhỡ nó có nguời yêu đưa tiễn thì Con có bực bội không ? . Thôi, ở nhà lo buôn bán, để Bố Mẹ đi được rồi " .

Cũng may, nếu nó đến đây thấy Bồ Mày, chắc nó buồn thật .

Bằng vừa nói xong thì Ông Đại-úy Đại-Đội-trưởng SVSQ buớc vào, mọi người đứng dậy theo tiếng hô " Nghiêm " .

Ông Đại-úy cho hay hôm nay được nghỉ ngơi để thu xếp hành lý, đúng ba giờ ruỡi tập họp, di chuyển xuống tàu, năm giờ tàu rời bến cảng .

Thân nhân đưa tiễn chỉ đứng trên cầu tàu, không được lên Chiến-hạm .

Ai nấy nhận chỉ thị rồi trở về phòng ngủ thu xếp hành trang . 

Hành trang của Tôi lúc nào cũng sẵn sàng hai túi xách nên không cần sắp xếp, Tôi nằm xuống giường ngủ tiếp cho đến khi kẻng đánh tập họp ăn trưa .

Ra sân tập họp, thấy ai nấy mặt mày tươi cười, Tôi ngạc nhiên hỏi có gì lạ .

Tụi nó cho hay sau khi ăn trưa, tập họp đi lảnh lương . Bộ-quốc-phòng ấn định Năm thứ nhất SVSQ đuợc hưởng lương Trung-sỉ,năm thứ nhì ăn lương Chuẩn Úy và ra Trường là Thiếu-úy . Bây giờ cho lảnh trước tháng lương Trung-sỉ để Tiêu xài . Đó là lý do mọi người vui cười hớn hở .

Trưa nay trong nhà ăn chỉ gần một nửa tổng số SV ngồi ăn, hơn một nửa kia vào CLB . Tôi kéo ghế ngồi xuống sắp sửa ăn thì Vinh đến vổ vai bảo đi vào CLB . Tôi đứng dậy đi theo Vinh .

Cũng cái bàn hôm qua bốn người ngồi nhưng bây giờ chỉ có hai, trong khi ngồi đợi thức ăn mang ra, Vinh hỏi Tôi :

  Sao ? . Thấy Em gái Tôi thế nào ? Tôi dặn hai đứa chiều nay vào sớm để có nhiều thì giờ gặp nhau .

Tôi mĩm cười trả lời :

  Tôi có thấy gì đâu ? .

Vinh nhìn Tôi chăm chú và gằn giọng nói :

  Ngồi tâm sự cả buổi, bộ không hiểu gì về nó sao ?

  À , Huyền chỉ cho hay là con gái út nhà giàu, học truờng Tây, thế thôi .

Vinh ngừng ăn, nghiêm trang nhìn Tôi nói :

  Huyền là con ngựa chứng, không ai lèo lái nó được, lại có trái tim lạnh lùng, sắt đá, nên nhiều thằng trồng cây si mà chẵng được gì .

Bố Mẹ Tôi muốn gả nó cho con của người bạn thân, nhưng cả Tôi và Huyền rất ghét thằng đó bỡi vì nó không được cao ráo , hơn nữa , ỷ thế con nhà giàu, đang học Kỷ-sư ở Pháp nên rất hách dịch .

Năm ngoái nó về thăm gia-đinh, đến xin phép Bố Mẹ Tôi cho Huyền đi chơi, nhưng Huyền không chịu đi, làm Bố Mẹ Tôi thất vọng  ra mặt .

Chiều nay Bố Mẹ Tôi sẽ đến đưa tiển nhưng chắc là sau bốn giờ chiều tan sở .

Tôi chậm rải nói với Vinh bằng lời của ông Cụ non :

  Tôi nghĩ, Vinh là anh thì nên khuyên Huyền nghe lời Bố Mẹ, gia-đinh kia Môn-đăng Hộ-đối, có thể đó là nơi tốt nhất cho Huyền có cuộc sống giàu sang sau này .

Vinh đột ngột bỏ chén đủa xuống bàn, chắp tay, vừa lạy Tôi vừa nói :

  Con lạy Cụ, Con đã nói nó là đứa con gái cứng đầu vì Bố Mẹ quá cưng chìu nên không nghe lời ai và chỉ làm những gì theo ý nó mà thôi .

Tôi ôm bụng cười ngặt nghẻo, Vinh cũng cười theo ……rồi nói tiếp :

  Đù mẹ ….Cụ nên biết rằng, khó khăn nhất trong việc tán gái là làm quen và rủ đi ngồi uống nước để tâm sự và tỏ tình …… Bây giờ đã đi gần nữa đường rôi thì Cụ muốn bỏ cuộc, không ai điên rồ cho bằng . 

Đúng lúc còi thổi tập họp SV đi lảnh lương .Vinh đứng dậy trả tiền rồi hai đứa đi nhanh ra ngoài .

Lảnh lương xong là tới giờ tập họp mang hành lý xuống cầu tàu . Người nào cũng vai mang , tay xách nhưng phải đi thẳng người và theo nhịp trống kèn .

Xuống đến cầu tàu, thấy thân nhân đả đứng đợi sẳn từ lâu . Theo lệnh thì ai không có thân nhân đưa tiễn, phải đi thẳng lên Chiến hạm, nếu có thân nhân thì được ở lại trò chuyện trên cầu tàu cho đến giờ lấy cầu thang .

Vừa có lệnh " Tan hàng " là nghe tiếng kêu la rộn cả lên : Bố – Mẹ – Em -Anh.

Từng nhóm người đi tìm chỗ ngồi, chỗ đứng hỏi han, trò chuyện .

Tôi nghe tiếng Vinh kêu :

   Nhân, Nhân  đâu rồi ? ….bên này nè …

Tôi xách hai túi Quân-trang chen lấn đi về phía Vinh kêu, thình lình có ai giựt

lấy túi bên trái . Tôi quay lại nhìn thì ra Huyền, nàng cười tươi và bảo :

– Mình đi về hướng này .

Vác túi xách đi theo đến cuối cầu tàu, Tôi bỏ túi Quân-trang xuống đất và bảo nàng ngồi lên . Tôi lấy khăn trong túi quần lau mồ hôi thì nàng vội vả lấy cái khăn lớn trong túi nylon của nàng ra đưa cho Tôi và nói :

  Đồ đoàn trong túi xách này Em mua cho Anh mang đi . Sáng nay đi theo Chị Thanh mua sắm cho Anh Vinh, Em chẳng biết  gì nên thấy Chị Thanh mua gì là Em bắt chuớc mua thứ đó . Tôi cười và hỏi đùa :

  Em bắt chước Thanh mua sắm đồ này bao nhiêu lần rồi ? .

Nàng hồn nhiên trả lời không suy nghĩ :

  Chỉ một lần sáng nay .

Trả lời xong, nàng như chợt hiểu điều gì, nhìn về khoảng không im lặng nghĩ ngợi . Tôi vội vả bào chữa :

  Xin lỗi, Anh chỉ đùa giởn thôi .

Nàng nhìn Tôi với đôi mắt đỏ như ngấn lệ nói :

  Hôm qua Em mất ngủ, thức dậy bật đèn ngồi suy nghĩ về Anh hai lần trong đêm . Mẹ chạy qua phòng Em hỏi tối qua đi đâu ? . Có chuyện gì xảy ra ? .

Em trả lời đi với Chị Thanh vào thăm Anh Vinh . Mẹ hỏi tiếp có gặp ai nửa không

Em trả lời :

  Có .

Mẹ như hốt hoảng hỏi liên tục :

  Là ai ? Quen bao lâu rồi ? . Anh Vinh con có biết trước không ?

Em trả lời Mẹ là Em đã quen một người mà Mẹ sẽ ghét cay ghét đắng .

Đó là nguời con trai xứ Huế, là Sinh viên nghèo, mới quen hơn mười ngày, quen buổi sáng Cô Ba Út nhờ Con ra mở cữa bán vé Tàu-lữa,  Anh Vinh hoàn toàn không biết trước, nhưng hôm nay đã biết  .

Mẹ nổi cơn thịnh nộ, la mắng :

  Con bắt đầu điên khùng rồi phải không ? . Bố Mẹ đã giới-thiệu cho Con nơi Môn-đăng Hộ-đối, xứng đôi vừa lứa với Con  thì Con chê . Coi bộ Con bị nó bỏ Bùa-mê-thuốc-lú rồi sao  ? . Chiều mai Mẹ sẽ đến gặp nó và ngăn cấm không cho tiếp xúc với Con từ nay . Biết chưa ?

La mắng xong Mẹ đóng rầm cữa lại, đi về phòng . Em nghe tiếng Bố Mẹ gây gổ .

Em ngồi khóc cho tới sáng, Chị Thanh đến đón Em đi .  

Nghe Nàng nói đến đó , tự nhiên Tôi nổi giận vu vơ, gằn giọng nói :

  Anh cứ tuởng điều này chỉ một mình Anh nhận thức đuợc, để một mình Anh chôn kín trong tim, Anh vui huởng những gì Anh đang có, và không muốn ai khuấy đông cuộc đời Anh, tại sao hôm qua Em không trả lời Mẹ rằng không quen biết ai trong trại cả ? .

Tôi càng nói, nàng càng khóc, mọi người xung quanh ngỡ là nàng khóc vì sắp chia tay  .

Tôi không bao giờ quên được hình ảnh này . Tôi trong bộ kaki vàng, ngồi bệt dưới đất, hai chân duỗi thẳng, hai tay chống ra sau . Mặt nhìn thẳng vào Nàng với jupe màu trắng ngà, áo chemise vàng nhạt, tóc cột đuôi ngựa với cái band xanh dương trên đầu . Ngồi lên túi quân trang duỗi thẳng Chân, tay cầm chiếc nón Casket của Tôi, và những dòng nước mắt cứ mãi tuôn xuống má .

Huyền vẫn nhìn thẳng vào mặt Tôi và nói tiếp :

  Lâu nay Em hồn nhiên vui sống khi tim Em vẫn còn yên ngủ, tim Em không rung động khi có con trai mê đắm tỏ tình, không hồi hộp trong giây phút hẹn hò vui chơi nơi tiệc-tùng nhảy nhót, không trằn trọc thức đêm  đọc lời yêu đương tán tỉnh trên những trang giấy tẩm nước hoa và cũng không nhức nhối khi có kẻ thất hứa buổi hẹn hò .

Nhưng bây giờ, Em đã cảm nhận đuợc sự thổn thức của tim  em  bắt đầu chiều hôm qua gặp Anh .

Chính Anh trong phút giây ngắn ngủi đã đánh thức con tim ngủ yên của Em dậy , làm  Em xao xuyến và bồn chồn lo lắng  cho buổi hẹn hò tiển đưa hôm nay, và cũng làm Em thoáng buồn  khi nghi đến những ngày tháng vắng Anh sắp tới .

Đó là tất cả những gì làm Em không ngủ được tối qua .

Em không hiểu tại sao Em nhanh chóng rơi vào hoàn cảnh này ? …………….

Tôi muốn nói lời gì để nàng vui nhưng nghĩ lại, những gì Tôi nói với Vinh và những gì Nàng vừa nói, lòng Tôi rối bời như to vò, bèn hỏi một câu vu vơ :

  Em có biết Em đẹp nhất trong những người con gái đến đưa tiễn hôm nay không ? . Nàng vẫn ngồi bất đông nhìn Tôi không trả lời .  

Thực sự bây giờ Tôi thấy Huyền đẹp hơn bất cứ ai chiều nay trên cầu tàu này .

Tôi nhắm mắt, ngước mặt lên Trời để tận hưởng phút hạnh phúc đang có .

Bổng nghe tiếng loa phát thanh trên tàu kêu gọi :

  Thông báo tất cả SVSQ phải lên Chiến-Hạm, mười phút nữa sẽ di chuyển cầu thang và bắt đầu khởi hành .

Tôi đứng lên và nắm tay Huyền kéo dậy, đúng lúc Vinh,Thanh và Bố Mẹ đi tới Huyền vội vàng lấy khăn lau nước mắt, Tôi khoanh tay cúi đầu chào và chờ đợi những lời nặng nhẹ ngăn cấm của Mẹ Huyền như nàng đã cho biết hôm nay  .

Nhưng Bố Huyền thân mật bắt tay Tôi và nói :

  Chúc Anh lên đuờng bình an và học hành có kết quả tốt .

  Dạ cám ơn hai Bác .

Mẹ Huyền mặt mày lạnh lùng, nhìn Tôi từ đầu tới chân không nói gì, rồi tự nhiên Bà lấy khăn tay phủi cát bụi áo quần Tôi và bảo Huyền :

  Đưa nón cho Anh lên tàu kẻo trể .

Huyền đội nón lên đầu Tôi, rồi bất thần nàng ôm và áp má vào ngực Tôi khóc suớt mướt . Bố Mẹ nàng nhìn đi nơi khác .

Vinh hối thúc :

– Thôi, ta lên tàu kẻo trể .

Tôi xách hai túi quân trang đến gần Bố Mẹ Huyền cúi đầu chào từ giả và nói nhỏ vừa đủ Hai Ông Bà nghe :

  Cháu hứa sẽ làm theo những gì hai Bác mong muốn cho Huyền, như Cháu đã nói với Vinh .

Nói xong Tôi đi nhanh lên cầu thang và không quay đầu nhìn lại .

Chiến hạm bắt đầu nhiệm sở tháo dây và tách bến .

Từng hồi còi rống lên để xua đuổi ghe thuyền qua lại ngược xuôi phía trước tránh đường, nghe ghê rợn .

Lần đầu tiên đi tàu thủy và cũng là ngày bắt đầu của Đời sống Hãi-quân . 

Chưa bao giờ Tôi cảm thấy tinh thần mình bấn loạn bằng lúc này .

Vinh đã la mắng Tôi là thằng điên khùng trong vấn đề tán gái .

Tôi thì đang đóng vai anh hùng cao thượng trong vở tuồng Cải-lương Cuộc-đời .

Chỉ có Huyền mới thực sư vô tư sống cho bản thân mình mà thôi .

Huyền oi ! Anh biết Em đa sống thực cho tình yêu, tình yêu của Em không cần quen nhau lâu dài, không cần Môn-đăng Hộ-đối, và cũng không cần lời đường mật tán tỉnh lúc ngồi uống nước bên nhau .

Tình yêu của Em như nham thạch trong lòng Quả Đất, chỉ một giây ngắn ngủi đúng thời-điểm, mặt đất nứt nẻ,là Hoả-Diệm-Sơn bùng lên, và cũng giống như nước bên Bờ Đê bị xói mòn, nước vở bờ, không có mảnh lực nào có thể ngăn nổi .  Anh kính trọng, nể phục, và ước mong một ngày nào, sẽ có được tình yêu Chân thật, không suy nghĩ đắn đo, như Em .

Bắt đầu từ nay Anh sẽ cố gắng phá vỡ bức tường mặc cảm đã vây kín đời Anh từ tấm bé đến bây giờ . Nhưng Anh đã lỡ nói với Vinh và Bố Mẹ Em, nếu không làm đuợc chắc mọi người sẽ coi thường Anh ghê lắm . Em  biết không Em ?

Gió biển bắt đầu thổi lạnh, Tôi định lôi tấm chăn ra đắp, bổng nghe tiếng nhốn nháo vang lên : Vủng-Tàu đó kìa …Vủng-Tàu đó kìa ….Ồ …đẹp quá …

Tôi cũng bắt chước đứng dậy nhìn và nói nhỏ : Ồ !  Đẹp thật …Phố xá bắt đâu lên đen, từ biển xa nhìn vào như bầy Đom-đóm đang đậu trên ven suờn núi .

Tàu bắt đầu ra biển, mặc dầu không có sóng lớn nhưng cũng làm Tàu lắc lư .

Mấy đứa dễ say sóng thì mặt mũi bắt đầu xanh xao đi tìm kiếm chỗ nằm .

Tôi may mắn, không dễ dàng say sóng như mấy đứa kia, vươn vai làm vài động-tác hít-thở không khí trong lành của biển khơi . Khác hẳn không khí Sài-gòn đầy bụi-bặm ô-nhiễm . Xong Tôi đi một vòng trên sàn tàu để kiếm Vinh và Bằng xem có bị say sóng hay không .

Ngang qua Ụ súng thì gặp Vinh đang nằm một mình hút thuốc, Vinh kêu :

– Nè ! Đem hành lý lại đây, còn chỗ ấm lắm nè .

– Thôi đuợc rồi, Tôi đã có chỗ ấm sau lái .

   Vừa ngồi xuống bên cạnh, Vinh lên tiếng hỏi  :

  Hồi nảy khi chào từ giả, đã nói gì với Bố Mẹ tôi ?

  Đại khái, cùng một ý nghĩa như Tôi đã nói với Vinh .

   Vinh trợn tròn đôi mắt nói :

  Lần đầu tiên trong đời, Tôi gặp một thằng dại dột, nhút nhát như thỏ .

Chiều nay khi đến Cầu tàu, Mẹ Tôi nôn nóng muốn tìm gặp Nhân, nhưng bị Bố mắng cho . Bố Tôi giải thích :

  Trai gái nào khi lớn lên mà không trải qua những chuyện  tình ?. Nhưng Chuyện Tình trai gái đâu có nghĩa là tình Vợ Chồng . Tại sao phải ngăn cấm ?.

 Tôi trình bày ý-nghĩ của Nhân cho Ông Bà nghe . Bố Tôi hằn học Mẹ Tôi thêm lần nửa  :

  Bà thấy chưa ? . Chút xíu nửa là Bà  đã dùng lời khiếm nhả để đối xử với

Nguời có học thức, đứng đắn đàng hòang rồi .

Tôi thở dài và nói nhỏ :

  Mẹ của Vinh cũng giống như những Bà Mẹ khác, có Mẹ nào mà không bảo vệ và lo lắng cho con gái mình ? . Bà hoàn toàn không lỗi lầm gì cả .

Nói xong, Tôi đứng dậy đi tìm Bằng, nhưng Trời đã tối hẳn, sóng gió càng lúc càng mạnh hơn, nhìn bốn bề chỉ thấy tối đen như mực, không thể tìm Bằng đuợc nửa đành trở lại chỗ để hành trang nằm ngủ .

Nhờ có sóng biển làm tàu lắc-lư và gió biển mát lạnh, nên Tôi có đuợc giấc ngủ ngon lành đến sáng hôm sau …..

 

Đã hơn hai tháng trôi qua , biết bao gian truân khổ cực , kết quả chương trình Huấn-nhục thử thách đã làm một SV bị chết vì kiệt sức và một SV khác bị thương tật nên bắt buộc giải-ngủ . Nhà trường ra lệnh chấm dứt Huấn-nhục để bắt đầu chương trình học Văn-hóa và Hải-ngiệp đồng thời tổ chức Lễ nhận Bố Con theo truyền thống Hải-quân . Mỗi người khóa đàn anh bốc  thăm nhận một người đàn em để làm con . Mục đích Bố giúp đỡ và hướng dẫn Con học hành trong quân trường , chỉ vẻ nơi vui chơi giải trí ngoài thành phố , và sau khi ra đơn vị , chỉ vẻ nhau những kinh nghiiệm chiến trường trên bờ dưới biển .

Khốn khổ cho Tôi, nhận một ông Bố cao lêu-nghêu, xấu trai quê-mùa, chẵng

 

khác gì một nông dân đồng-áng .Trông già hơn tuổi trong giấy tờ nhiều lắm, nhưng được ưu-điểm là rất thật thà, hiền-hậu . Thay vì ông Bố chỉ vẻ cho Con đường đi nước bước những món ăn chơi nơi Nha-thành thì ngược lại ông ta hỏi Tôi chỉ vẻ cho ổng với .

Nhất là sau giai đoạn huấn-nhục, ăn uống học hành điều độ, ai nấy bắt đầu lên Cân  . Thân thể cường tráng trở lại, tóc tai để hơi dài ra chút đỉnh và Nhà Truờng bắt đầu cho Đi-Bờ ( Ra Phố Nha-trang chơi ) cuối tuần .

Lần đầu tiên Bố dẫn Con ra phố, nhưng Bố tôi ngoài việc đi Ciné, ăn Phở Chụt, Ông không còn mục nào khác, đành trở về Quân-Trường nằm ngủ .

Khác với những ông Bố hào hoa, giới thiệu cho Con những cô Đao " dư thừa " Của Bố . Tôi nghi những nguời nhu Bố tôi, không thể nào có đuợc nét hào hùng ngang dọc của một SQHQ oai-hùng  . Làm sao tán Đào được đây ?

Tuần lễ thứ nhì Đi Bờ, khi đang ngồi ăn phở Chụt Cầu-Đá, Ông Bố hỏi :

  Hôm nay ngoài việc ăn phở, đi Ciné, mình có mục gì khác không ?

   Tôi mim cười , suy nghĩ một lúc rồi nói :

  Ông Bố muốn đi thăm người quen với Tôi không ?

   Ai  ?  Quen như thế nào ?

   Bà Cụ già . Mới quen khoảng ba tháng truớc trên chuyến tàu lữa Sài gòn đi Nha trang . Ông Bố với vẻ mặt thất vọng nói :

   Tôi tuởng Anh quen con gái, đến ngồi tán tỉnh chơi để giết thời giờ, chứ đến  ngồi nói chuyện với Bà già thì chán chết .

    Sau một hồi im lặng, ông ta nói tiếp :

   Hay cứ đến thử, biết đâu chừng Bà Cụ có Con gái hay Cháu gái ?

Tôi vẫn giử im lặng , mim cười nói thầm trong bụng :   Bố oi ! Nếu Bố không mặc quần áo trắng Sinh Viên SQHQ chắc trông giống tên Việt-cộng trong rừng mới về Thành-phố, con gái nào mà yêu thích Bố đây ? .

Ăn phở xong, cả hai leo lên xe lam ba bánh ra phố Nha-trang, đến đường Độc Lập . Con đuờng phố chính nên nguời đi tấp nập, xe cộ dập dìu, hơn nữa là ngày cuối tuần nên phố xá đông đúc, nhộn nhịp . Nhất là Sinh viên các trường

Hải-quân, Không-quân và trường Hạ-Si-Quan Đồng-Đế, trong bộ Quần-áo đồng phục thẳng nếp của từng Quân-Binh-Chủng, đi bên cạnh người tình với áo dài thuớt tha muôn màu xanh đỏ vàng tím  …….trông rất đẹp mắt .

Bên trong các Quán Café và Nhà Hàng ăn cũng đông nghẹt người . Thành phố Nha-trang rất sinh-động là nhờ các Trung-tâm Huấn-luyện binh sỉ tại đây  . 

Tôi móc ví, lấy địa chỉ xem lại, rồi theo số nhà tìm đến .

Nhưng ngạc nhiên thay, Căn phố lầu bốn tầng kéo cữa sắt kín mít .trong khi những căn khác thì mở cữa bán buôn bận rộn .

Ghé sang căn phố kế cận hỏi, Ông Chủ phố trả lời :

  Bà Cụ đã mất gần hai tháng trước và hình như hôm nay Họ làm Lễ Thất-tuần tại Nghia-trang . Khoảng một tiếng đồng hồ trước, tôi thấy nhiều người tụ tập

trước nhà để chuẩn bị lên xe đi .

Tôi cám ơn Ông Chủ phố và đi ra đường . Ông Bố lên tiếng :

– Chúng ta không nên đến Nghia-địa nhìn mọi người khóc thưong . Tôi không thích nhìn cảnh này .

Tôi im lặng bước đi theo dòng người tản bộ xuống phố .

Bây giờ không có hình ảnh gì trên đường phố có thể làm Tôi vui được bỡi hình bóng Bà Già cứ hiện ra truớc mắt, nét mặt đôn-hậu, quắc-thước khi nhìn Bà nằm ngủ, Tôi nhớ rất rõ, Tôi đã cỡi áo khoác, làm chăn đắp ấm cho Bà và thầm nghĩ :  Giá như đây là Mẹ mình thì sung sướng biết bao ?

Trên cổ Tôi bây giờ đang mang Tượng Phật bằng Cẩm-thạch Bà tặng hôm trước . Tự nhiên Tôi đứng lại, sờ tay lên Tượng Phật  rồi nói với Ông Bố :

  Bố cứ tiếp tục vui chơi, Tôi phải đi đến Nghĩa địa .

Ông ta nhìn Tôi dò xét một lúc rồi nói :

  Anh cứ đi, Tôi ghé vào rạp Ciné ngồi xem cũng đuợc  .

Tôi đón xích-lô đi đến Nghĩa-địa, Ông xích-lô cho hay Nghĩa-địa lớn nhất ở trên Núi có Tượng Phât lớn, Nghĩa-địa nhỏ thì xa hơn . Tôi chưa biết Nghĩa-địa nào nhưng nói đại, đi đến Nghĩa-địa lớn .

Buớc chân vào nghĩa trang, không ngờ quá rộng lớn . Nhìn đàng xa thấy ba nhóm người đang làm lễ, không biết nên đi đến nhóm nào, bèn đến hỏi ông làm cỏ gần đó :

– Xin lỗi Ông, trong ba nhóm làm lễ đàng xa, nhóm nào đang làm lễ Thất-tuần cho Bà Cụ già ? .

Ông làm cỏ hơi ngạc nhiên, có lẽ lần đầu Ông thấy SVSQ đi vào Nghĩa-địa .

Theo Ông nghĩ, ngày cuối tuần SVSQ ra phố vui choi và ăn uống chứ có thì giờ đâu mà vào đây ?

Ông bỏ cuốc, nhìn Tôi chậm rải trả lời :

  Nhóm chính giữa, còn hai nhóm kia đang làm lễ Giáp-năm .

Tôi nói cám ơn rồi tiếp tục bước đi . Không ngờ quyết định ẩu mà bây giờ lại đúng Nghĩa trang Tôi muốn tới .

Khi đến gần lều vải che nắng, thấy bên trong khoảng hơn hai chục người quì gối chắp tay hướng về Bàn Thờ Phật đặt trước Ngôi Mộ, trên Bàn Thờ có bức hình Bà Già . Ba vị Sư mặc áo Cà-sa vàng đang tụng niệm trước Bàn Thờ, kế đến  là bốn Chị em mặc áo tang trắng đang chắp tay, quì gối .

Tôi lấy nón Casket xuống kẹp bên nách, rón rén nhẹ nhàng quì xuống phía sau cùng, hai tay chắp trước ngực,mặt hướng thẳng lên Bàn Thờ .

Mặc dầu không nhìn và để ý đến ai, tuy nhiên những nguời ngồi gần, quay đầu lại nhìn Tôi với vẻ ngạc nhiên, tò mò, nhưng không ai mở lời hỏi han vì đang Tụng Kinh gỏ mỏ . Thế nhưng lần lượt người này nhìn, người khác nhìn……rồi đến mấy Chị Em ngồi trên cùng, cũng quay đầu lại nhìn . Người Chị cả nhận

ra Tôi bỡi đã một lần gặp hôm đi đón Bà Già ở Ga xe lửa .

Mặc dầu đang làm Lễ nhưng Chị đứng lên rón rén đi xuống quì gối cạnh Tôi và nói nhỏ vừa đủ nghe  :

  May quá ! Hôm trước khi chưa mất, Mẹ Tôi có nhắc Anh đôi lần . Bà hối thúc tụi Tôi về Trường Hải-quân tìm kiếm, nhưng Tôi hỏi những SV đàn anh ra phố, họ cho hay : Vì mới vào nên họ chưa quen thuộc hết tên đàn em , không biết có ai tên Nhân hay không và họ khuyên không nên vào thăm trong thời gian

huấn nhục . Không ngờ ….. hôm nay Anh đến ……. thì Bà mất rồi …….. .

Nói đến đây, Chị sụt sùi khóc, Tôi vẫn giử im lặng, chắp tay trước ngực, mặt Hướng lên Bàn Thờ và nước mắt bắt đầu tuôn trào xuống má .

Đúng lúc, lễ tụng niệm xong, Chị lau vội nước mắt, đi lên phía trước, đứng chắp Tay nói lời cảm tạ các Sư-sãi và Bà con thân thuộc  ………sau cùng Chị nói :

– Nhân tiện dây, Tôi xin được thông báo, mấy tháng truớc, khi còn sống, Mẹ tôi đã gặp Cậu Nhân trên chuyến xe lửa Sàigon – Nhatrang . Khi về nhà Bà thường

nói với chúng tôi : Ước gì Mẹ có được người Con trai như cậu Nhân …

Bây giờ cậu Nhân đã đến . Thật là niềm vinh hạnh cho chúng tôi, tin vui này như món quà tặng người quá cố  ……….chắc là Mẹ vui mừng lắm ……….

Rôì Chị lấy khăn lau nuớc mắt  …….trong khi mọi người tụ tập đến quanh tôi hỏi han đủ thứ chuyện như nguời thân từ xa trở về ………….  

Tôi không biết phải trả lời ai trước ai sau nên xúc động đứng trơ như trời trồng . 

Một lát sau, một người đàn ông tuổi trung niên đến nắm tay Tôi và nói : Ta  ra ngoài này nói chuyện  trong khi mấy Chị em đi thu dọn đồ cúng .

Anh tự giới thiệu tên Thìn, Đại-úy thuộc Sư-đoàn 23 Bộ binh nay biệt phái qua Cảnh sát, là Chồng Chị Lan, cô thứ nhì trong bốn cô Mai Lan Cúc Trúc , rồi anh nói tiếp :

– Tôi không hiểu sao Bà Cụ chỉ hàn huyên với anh trên quảng đuờng ngắn mà trước khi mất, lúc còn khoẻ mạnh, cứ nhắc tên Anh, khen Anh hiền hậu, có đức tính tốt ….. .

Thôi thì , nếu Anh bằng lòng, chúng tôi xem anh như trong gia-đinh và xin mời Anh về nhà để chúng ta tâm sự thêm .

Cả hai chúng tôi, không ai bảo ai, tự động nhổ cọc và cuốn lều mang ra xe .

Khi về đến nhà, trong bữa ăn trưa, mọi người chuyện trò rất thân mật và cỡi mở  Kể về tuổi tác thì Trúc nhỏ hơn Tôi bốn tuổi, Cúc nhỏ hơn một, Chị Lan lớn hơn Tôi hai, còn Chị Mai thì lớn hơn Tôi đến sáu tuổi .

Có lẽ người tôi giàu tình cảm nên từ trước đến nay gặp toàn chuyện ướt át cảm tình . Tôi phân vân không biết có nên bước sâu vào tình cảm với gia-đinh này hay không, nhất là trong lúc Mẹ tôi đang vật lộn với căn bệnh ngặt nghèo, làm sao Tôi còn tâm trí để vui chơi và  phiêu-lưu tình cảm  ? .

Ăn trưa xong,  hai Chị Mai và Lan mở cữa Tiệm bán buôn, Cúc và Trúc thì rủ nhau đi chợ mua thức ăn cho buổi tối nay . Cả hai đến hỏi Tôi thích ăn món gì để tối nay nấu đải, Tôi mim cười trả lời :

  Bao nhiêu năm qua đa ăn quen Quán cơm bình dân Saigon dành cho SV Bây giờ ăn cơm lính cũng chẳng hơn gì . Chắc chắn tối nay, dù ăn món gì, Tôi cũng cảm giác rất ngon . Mọi người cùng cười rồi Trúc nói : Vậy thì tối nay đải Anh Nem nướng Ninh-hòa  . Sau đó hai Chị Em xách giỏ ra đi . Anh Thìn rủ Tôi ra Quán café bên đường ngồi trò chuyện .

Vừa mới gặp nhau, quen nhau nhưng sau vài câu chuyện, Anh Thìn và Tôi có vẻ rất tương đắc . Anh cho hay thứ bảy tới Cúc và Trúc phải bay trở lại Sài-gòn để Cúc về Long-xuyên trình diện dạy học cùng chung nhiệm sở với người yêu, Còn Trúc thì trở lại Trường Đại-học Sư-phạm .

Anh hứa thứ bảy tới sẽ lái xe xuống Trường Hải-quân đón Tôi lúc 9 giờ sáng.

Bất cứ ngày vui nào cũng chóng qua và cuộc vui nào cũng chóng tàn . …….

 

Tối nay trở lại Quân-trường mang theo nhiều giấc mơ đẹp, vừa leo lên giường định nằm ôn lại những gì xảy ra ngày hôm nay đã làm con tim mình rung động khi nhớ lại những tình-cảm của bốn Chị Em và anh Thìn dành cho mình thì Vinh vội vả bước vào phòng hỏi trống  không :

  Nhân đi bờ về chưa ?

Tôi vội vả ngồi dậy, thả hai chân xuống sàn nhà, trả lời :

  Vừa về tới, có gì không ? .

  Thanh và Huyền từ Sài-gòn ra thăm, không báo trước, ngày nay Tôi trở lại  Trường hai lần tìm Nhân nhưng không gặp . Bây giờ cả hai đang ở Khách-San ngoài phố, Nhân muốn cùng Tôi leo rào ra phố không ? .  

Tôi suy nghĩ một lúc rồi nói dối :

 Chắc là sáng mai, vì Tôi đang nhức đầu quá .

  Thôi đuợc, vậy sáng mai Chủ nhật ta gặp nhau tại Phở Chụt lúc 9:30 nghe .

Không đợi Tôi trả lời, Vinh vội quay lưng đi, chắc là leo rào một mình .

Hồi nảy Tôi nói dối nhức đầu mà bây giờ nhức đầu thật .Nhất là lúc này, tôi đang nghĩ về Trúc, cô út của bốn Chị Em . 

Lúc ăn cơm tối, mọi người cố tình để Tôi ngồi cạnh Trúc, có lúc Trúc gắp thức ăn bỏ lên chén Tôi và có lúc Tôi đáp lại, gắp thức ăn vào chén Trúc .

Mọi nguời chắc đang để ý với vẻ bằng lòng nhưng không ai nói gì dù là một câu đùa giởn .

Tôi nghĩ bây giờ là lúc mình có đủ yếu tố để có một người yêu, so sánh Trúc và Huyền thì Trúc thích hợp hơn, nhất là nét hiền hậu, cùng hoàn cảnh mồ côi và cuộc sống tự lập, đặc biệt là bản tánh kín đáo, sự vui buồn ít khi bộc lộ lên nét mặt làm Tôi đôi lúc phải suy nghĩ xem Nàng đang nghĩ gì và Nàng cũng không

thích tìm vui nơi chốn ăn chơi nhảy nhót, hoàn toàn trái ngược với Huyền .

Thế nhưng, chính Huyền là người đã lôi kéo Tôi ra khỏi vùng mặc-cảm triền miên, kể từ khi gặp Nàng, Tôi đã nhận chân được giá-trị thực cuộc sống, lúc nào có cuộc vui là cứ vui, hãy ngước mặt hiên ngang nhìn Đời và biết trang trọng điều hay, nét đẹp của hiện thực .Tôi biết, Tôi đã mang ơn Huyền nhiều lắm .

Chắc chắn trong những ngày qua, Bố Mẹ nàng đã nói ý nghĩ của Tôi cho Nàng nghe nhưng không hiểu sao bây giờ Nàng vẫn ra đây thăm Tôi .

Những suy đoán của Tôi không biết có trùng hợp với ý nghĩ của Nàng hay không ? . Tôi chưa hiểu nổi . Không biết sáng mai gặp nhau, cả hai sẽ phản ứng như thế nào ?

Tôi sợ nhất những lúc thức đêm trằn trọc, nhưng đêm nay không tài nào ngủ đuợc bỡi hình bóng của Huyền, của Trúc …….

Tôi vùng dậy ra sân chạy vài vòng cho thân xác mệt nhoài, ướt đẩm mồ hôi Xong đi tắm và nằm ngủ lại ………

Sáng Chủ-nhật hôm sau, lúc tỉnh giấc đã hơn 9 giờ, vội vả thay quần áo ra đón xe Lamb. Đi Cầu-đá . Vào Phở Chụt không thấy bóng dáng ba người, mặc dầu Tôi đến hơi trễ .

Chọn cái bàn bốn ghế, Tôi gọi ly Café và ngồi nhìn ra biển đợi chờ .

Quán Phở buổi sáng rất đông khách, người vào ra tấp nập, tiếng cười nói ồn ào điếc tai, nhưng Tôi vẫn có một thế giới cho riêng Tôi khi thả hồn ra biển .

Khoảng mười phút sau, thình lình có hai bàn tay bịt mắt Tôi cùng với mùi nước hoa thơm phức quen thuộc, Tôi biết chắc là Huyền nên vẫn ngồi bất động, lên tiếng hỏi :

– Vinh và Thanh đâu rồi ?

  Không trả lời ngay, Nàng buông tay ra nhìn Tôi nói  :

– Vào lính có khác . Trông Anh xạm nắng và khoẻ mạnh hơn trước nhiều, …..

  rồi ghé sát vào tai tôi, nàng nói : Đúng là mẫu người lý-tưởng của Em .

  Nàng trả lời tiếp :

– Hai người đưa Em ra đây và quay trở ra Phố gấp vì Chị Thanh đã hẹn gặp vài

người bạn . Anh Vinh dặn nếu muốn cùng nhau ăn cơm trưa thì đến nhà hàng Thanh-Đạm đường Độc-Lập lúc mười hai rưỡi .

Tôi đứng lên kéo ghế cho Huyền ngồi và gọi thức ăn .

Trong khi chờ thức ăn mang ra, Tôi hỏi :

– Bố Mẹ có biết Em ra đây không ?

– Lúc Em đi thì không biết, nhưng bây giờ đã biết rồi, bỡi Em có viết vài dòng để lại .  

– Vài dòng gì  ? . Không lẽ Em viết, ra Nha-trang thăm Anh ?

  Đúng lúc thức ăn mang ra, Nàng nói :

– Chưa nói cho Anh nghe được, chúng ta ăn sáng đả .

Trong suốt bữa ăn sáng , Huyền chỉ nhìn Tôi, không nói lời gì, và trả lời những câu vớ vẫn khi Tôi hỏi mà thôi . Tôi thì đang chờ đợi những gì Nàng sẽ nói ……

Thật khó mà đoán được trong lòng Nàng đang nghĩ gì, chỉ một điều chắc chắn là Nàng buồn giận vì hôm qua Vinh leo rào ra với Thanh nhưng Tôi thì không .

Ăn xong Nàng vừa móc ví tính tiền vừa hỏi :

– Anh đã hết nhức đầu chưa ? .

  Thay vì trả lời, Tôi nói nhỏ :

– Đừng làm Anh cảm thấy quê muà truớc đám đông .

  Nàng nhìn Tôi giải thích :

– Để Anh trả tiền, người ta sẽ nghĩ Anh đang tán tỉnh Em. Hoặc Em đang là Bồ của Anh . Còn Em trả tiền, người ta sẽ nghĩ Em là Vợ anh hay người nhà thân thuộc của Anh, Anh thích cái nào ? . Nàng trợn tròn đôi mắt nhìn Tôi như đùa cợt thách thức .

 Tôi không nhịn cười được, lần đầu tiên nghe Cô bé ranh khôn lý luận, Tôi đứng dậy đi nhanh đến Quày tính tiền, móc ví ra trả .

Ra khỏi quán Phở, Tôi nói :

  Anh chưa quen thuộc nơi chốn ở đây, ngoài việc đi Ciné, ăn uống còn có Cầu Xóm Bóng, Hòn-Chồng ……Không biết Em thích đi đến nơi nào ?

Nàng nắm tay đi sát vào Tôi hỏi :

– Tại sao gọi là Hòn-Chồng ? .

– Thưc sự Anh cũng không biết, có thể do những tảng đá chồng chất lên nhau, hoặc có thể, có sự tích chuyện Vợ Chồng cũng không chừng ?

Nàng buột miệng hỏi :

– Có Hòn-Vợ không Anh ?

Tôi mim cười trả lời :

– Chưa bao giờ nghe ai nói đến Hòn-Vợ . Nhưng có Hòn Vọng Phu, Mẹ bồng con đợi Chồng đi chinh chiến xa, lâu ngày hóa thành tượng đá trên núi ven biển Qui-nhơn .

– Vậy thì Em muốn đến Hòn-Chồng  .

– Bộ Em muốn tìm hiểu lịch-sử Hòn-Chồng ?

– Không phải – Em muốn xem tảng đá Hòn-Chồng có lớn không . Nếu lớn thì Em sẽ đổi tên thanh Hòn-Vợ và tìm môt tảng đá nhỏ hơn đặt tên Hòn-Chồng .

  Với Em, lúc nào Chồng cũng phải thua Vợ . Anh hiểu chưa ?

Cả hai cùng ngước mặt lên trời cười ngặt-nghẽo và chiếc xe Lamb. Ba bánh chạy trờ tới, Tôi đỡ Huyền bước lên rồi nói với tài-xế chúng tôi muốn tới Hòn-Chồng .

Hòn-Chồng thực sự là một bãi biển bên cạnh suờn núi, từ biển vào có bờ cát hẹp, tiếp đến là ghềnh đá lớn lan rộng đến ven sườn núi, đặc biệt là những tảng đá lớn chen chúc chồng chất lên nhau, tạo nên nhìều hang động nhỏ, rất tiện lợi và đồng -lỏa với những đôi tình nhân ngồi trong khe đá nhìn ra biển .

Khi buớc xuống xe trả tiền, Ông tài xế thấy Tôi trong bộ đồng phục trắng toát,

Huyền cũng mặc jupe màu trắng nên ông ta lấy xấp báo đưa Tôi và nói :

– Nè, tôi cho xấp báo để lót ngồi, không thì dơ hết quần áo . Tôi nói cám ơn rồi nắm tay Huyền đi tìm ghềnh đá .

Nàng rất thích thú, nhí nhảnh nhảy từ tảng đá này sang tảng đá kia và nói :

Không ngờ Hòn-Chồng đẹp và lý-tưởng quá Anh nhỉ ! .

Khi tìm được ghềnh đá vừa ý, đằng sau có tảng đá dựa lưng, trên đầu có tảng đá nhô ra che nắng, tảng đá ngồi rất bằng phẳng, Tôi lấy báo trải đủ chỗ cho

Nàng và Tôi .

Tôi ngồi thẳng, lưng dựa vào tường đá ,  quàng tay sau đầu làm gối, Nàng ngồi bên cạnh và nghiêng người kê má lên ngực Tôi rồi nói :

  Em muốn ngủ một chút trên ngực Anh .

  Cứ tự nhiên .

Thế là Nàng nằm im, nhắm mắt như ngủ thật . Gió biển thổi nhè nhẹ bay vài sợi tóc Nàng lên mặt Tôi  . Tôi cứ để yên và nhắm mắt tận hưởng niềm hạnh phúc chưa bao giờ đến lần nào trong đời .

Ngoài biển xa vẫn đều đặn từng đợt sóng đuổi nhau tạo nên những vòng cung trắng xoá . Đàn Hãi-âu vẫn nhịp nhàng la đà bay lượn trên mặt nước tìm mồi .

Trong tiếng sóng vỗ xào xạc vào ghềnh đá, lúc lớn lúc nhỏ, tự nhiên Tôi như nghe tiếng Trúc đang nói chuyện đâu đây, Tôi mở mắt nhủ thầm không nên nghĩ bậy bạ, Tôi càng xua đuổi,thì hình bóng Trúc càng hiện rõ ràng hơn .

Sau cùng Tôi lại nghĩ, nếu hôm nay là Trúc thì cảm giác của mình như thế nào đây ? . Thật tình Tôi tham lam quá ! .

Đời Tôi hình như lúc naò cũng có niềm luyến tiếc " Giá như …" .

Lúc nhìn Bà Già nằm ngủ trên tàu lửa, Tôi nhủ thầm Giá như đây là Mẹ mình  Bây giờ nhìn Huyền ngủ, Tôi lại nghĩ  ….Giá như đây là Trúc ……

Thật tội nghiệp cho Mẹ .. … cho Huyền …không có được cơ-hội đáp ứng con tim reo vui, phấn khởi niềm hạnh phúc của Tôi  …………

Tôi vần đang đợi chờ …..những gì Huyền sẽ nói …..mà chắc là buồn nhiều hơn vui, cũng có thể Nàng sẽ trút bỏ bao nhiêu dồn nén, giận hờn lên Tôi không chừng ? .

Đang miên man nghĩ ngợi tự nhiên cảm thấy ngực Tôi ướt, cúi mặt xuống nhìn mới hay Huyền đang khóc . Tôi nhìn ra biển để giử sự yên tĩnh cho Nàng .

Một người con gái, mới nhìn chỉ thấy toàn niềm vui,hồn nhiên, nhí-nhảnh, nhưng rồi cũng ẩn-chứa ít nhiều những chuyện đắng cay cuộc đời như hầu hết những nguời con gái khác .     

Có lúc Nàng khóc rùng mình , làm tim Tôi cũng nhức nhối buồn theo …..

Bất chợt Huyền ngồi dậy, vuốt lại mái tóc, lau khô nuớc mắt và xoay người lại ngồi ngay ngắn đối diện nhìn Tôi một hồi rồi nói :

– Xưa nay Em ước-muốn điều gì cũng đuợc, nhưng bây giờ thì không . …

  Rất cám ơn Anh không ra ở lại với Em tối qua . Nếu Anh ra,  chắc Em sẽ ân- hận khi lên xe hoa về nhà chồng cuối năm nay .

 Tôi ngạc nhiên, chưng -hững hỏi lại :

  Thì ra, Em đến gặp Anh để thông báo ? . 

Huyền vẫn nhìn Tôi, không nói và hai mắt bắt đầu đẫm lệ . Tôi thở dài, giang tay kéo đầu Nàng áp sát vào ngực rồi nhỏ nhẹ nói :

– Anh vẫn tin Em, muốn là đuợc . Em chủ động bất cứ điều gì, đều được toại  nguyện …. có điều …. Em đang dẫn Anh đi qua đoạn đường sỏi đá gồ ghề …  mà Anh …..  thì còn đang mơ ngủ, nên không khỏi bị vấp té .

  Cho dù Anh không ngại khó khăn, nhưng Bố Mẹ Em cố tình lôi kéo Em qua con đuờng sạch sẽ, trơn tru hơn .

  Trong khi chỉ có Vinh lấy kinh nghiệm đời mình làm thước đo sự ngu si, quê mùa đần đôn của Anh vì không hăng hái kiên nhẫn bước tới để cho Em khổ đau, buồn giận cuộc đời, có phải thế không ? .

Im lặng một lúc, Nàng nói :

– Em ra đây vì đã có giao kèo với Bố Mẹ . Lúc trước biết Em chưa yêu ai,nên mỗi lần Bố Mẹ áp bức, Em từ chối là yên .

  Bây giờ không phải thế, Em càng từ chối thì áp lực càng mạnh mẻ hơn, cho  nên, sau nhiều đêm suy nghĩ,  Em đã đổi lấy chuyến đi thăm Anh và giao-ước bằng lòng với Bố Mẹ .

Nói xong, Nàng im lặng để chờ phản ứng mạnh mẽ hơn củaTôi. Nhưng Tôi vẫn im lặng lắng nghe và chờ đợi phản ứng của con tim mình .

Hình như có sự nhói đau hoà lẫn điều gian dối không thật lòng .

Tôi ngồi im một lúc rồi ôm Nàng chặt  hơn để đè nén những tiếc nuối sau cùng của cuộc tình chớm nỡ vội tàn, trước sau rồi cũng đi vào tuyệt lộ .  

Sắp tàn mùa Thu nên ngày hơi ngắn, những tia nắng vàng nhạt xuyên qua cành lá bên sườn núi trông có vẻ ảm đạm thê lương, gia-đinh đàn nai đang cùng nhau tìm về hang động, thỉnh thoảng đứng lại, ngước đầu nhìn quanh quẩn bên vũng nước thiên nhiên .

Từng đôi tình-nhân bắt đầu đứng lên đi ra đón xe trở về . 

Tôi mệt mỏi kéo Nàng đứng lên vì sợ hết xe Lamb. về thành phố .

Khi lên xe rồi, Nàng ôm chặt lấy Tôi như sợ Tôi chạy mất và nói :

– Anh Vinh Chị Thanh muốn ăn cơm với Chúng ta tối nay, nhưng Em từ chối .

  Em chỉ muốn hai đứa mình thôi .

Về đến Phố chưa tới sáu giờ chiều nhưng trời mùa Thu bắt đầu sẫm tối . Huyền đề nghị đi ăn Nhà hàng trong Khách sạn lớn, nơi Nàng đang trú ngụ.

Nhà-hàng trong đó sang trọng, lịch-thiệp và rất im vắng, khác với Nhà-hàng ngoài phố lúc nào cũng đông nghẹt người nói chuyện điếc tai .

Thật đúng như thế, khi mới bước vào, tưởng không có ai,vì ánh đèn mờ ảo, các bàn ăn đuợc phủ khăn nhung đỏ, trên bàn có ngọn đèn cầy leo lét vừa đủ thấy mặt nguời đối diện, và khung cảnh rất tình tứ . 

Thực đơn gồm ba ngôn ngử Anh-Pháp-Việt nên Huyền rất rành rẽ .

Vì chưa bao giờ vào Nhà hàng như thế này nên không quen thuộc những món ăn . Có lẻ Huyền hiểu ý nên nói :

– Để Em chọn món ăn cho Anh và Em .

Tôi gấp tờ thực-đơn lại và gật đầu nói : Đuợc .

Nàng biết dân Huế thích ăn cay nên gọi thức ăn của Ý và chai rượu chát đỏ .

Tôi trợn mắt ngạc nhiên nói :

  Hôm nay Em muốn hai chúng ta gục trên bàn này ?

  Không có gì đâu, chỉ làm ấm bụng thôi . Nếu uống không hết, Em đem lên phòng cho Anh Vinh Chị Thanh .

Ăn uống xong xuôi, Tôi châm thêm cho đầy hai ly rượu rồi cụng ly với Nàng và chậm rải bắt chước theo giọng nói của anh Kép cải-lương :

  Huyền ơi ! ….. Giang-Sơn .. Cuộc đời ……..Buồn vui theo vận Nước …Buồn đau cho Cuộc tình …. Hôm nay xin cùng Em uống can …Chén ly-bôi …..

Nói xong Tôi nốc cạn ly rượu, còn Nàng mĩm cười và chỉ nhắp một ngụm rồi đính chính :

  Không phải Chén ly-bôi ….mà là…..Ly Ruợu Mừng ….cho Em tìm được niềm hạnh phúc trong việc đặt tình yêu đúng chỗ .

Tôi trợn tròn đôi mắt, lắc đầu không hiểu . Nàng giải thích thêm :

  Từ trước tới nay Em chưa tìm được một ai trong số những người thích Em, theo đuổi Em, để Em dâng hiến, trao trọn tình yêu cho người đó .

   Bỡi vì Em nghĩ, tình yêu là cái gì thật nhẹ nhàng, thật đơn giản, nhưng làm Con tim rung động mãnh liệt khác thường khi nghi tới và rất cần thiết cho đời sống như đói thì ăn, khát thì uống, lúc buồn, nghi đến tình yêu là vui, lúc đau  khổ, nghi đến tình yêu là sung sướng v ..v ..

   Tóm lại, chỉ cần con tim thổn thức khi xa vắng, rung động khi gần nhau, đó là lúc tình yêu bắt đầu hiện hữu .

   Mỗi nguời sống trên đời, cần có một nơi để phó thác, gữi gắm tình yêu của mình, bất kể nơi đó, người đó có phải là Chồng là Vợ mình hay không ?

   Những người đã đến với Em lâu nay, không đáp ứng những điều con tim Em mong muốn, mặc dầu có những người đã kiên trì một thời gian dài lâu ……..

Huyền nói một hơi dài rồi ngồi nhìn Tôi với cử chỉ tự mãn . ………..

Tôi châm rượu vào ly mình, nốc cạn rồi hỏi :

  Em là Triết-gia  ?. Hay chỉ là người con gái đáng thương trong " Hai Sắc Hoa

   Ti-Gôn "  của TTKH  ? .

  Em học Truờng Pháp nên không học thơ Việt Nam, nhưng có mấy đứa bạn rất mê Hai Sắc Hoa Ti-Gôn, mà Em chưa có cơ hội thưởng-thức .

   Anh còn nhớ không ? .

  Lâu quá, bây giờ chỉ nhớ mang máng vài câu :

   " ……………………………………………………

     Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời

     Ái ân lạt lẽo của chồng tôi    

     Mà từng thu chết, từng thu chết

     Vẫn giấu trong tim bóng một nguời

      ………………………………………"

– Ừ ! Hay quá Anh nhỉ ? Nhưng khi người yêu của mình trở thành người vợ hay người chồng rồi thì tình yêu có còn nhiệm mầu như Em đã nói lúc nảy không

  Anh ? .

Tôi suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu nói :

– Chịu thua .

Huyền cười thách thức như nguời thắng cuộc . Tôi tiếp tục nốc hết ly này đến ly khác, chẳng mấy chốc không còn một giọt trong chai .

Bây giờ Tôi thấy Huyền mờ mờ, ảo ảo nhưng vẫn còn nhớ móc ví gọi bồi bàn tính tiền .

Anh bồi bàn nói : Cô đã bảo chúng Tôi tính chung vào tiền phòng ngủ rồi .

Huyền vẫn ngồi im theo dõi từng cử chỉ của Tôi . Tôi cố gắng đứng dậy từ giả Huyền nhưng đầu óc quá nặng …nặng dần …rồi gục xuống bàn ….. Huyền đứng dậy đỡ Tôi ngồi thẳng, tựa đầu sau thành ghế, ngữa mặt lên trần nhà và xin Nhà-hàng cái khăn ướt lạnh đắp lên trán Tôi .

Lúc này tai Tôi ù ù, mắt nhắm nghiền không mở lên nổi ……

 

Không biết Tôi đã ngủ-ngồi được bao lâu, mặc dầu mắt vần nhắm nhưng đầu óc hơi nhẹ nhàng hơn .

Một lúc sau nghe mơ hồ tiếng Vinh : Huyền đi Gọi giùm Taxi, Anh đem Nhân về Quân-trường cho kịp điểm-danh 10 giờ, xong Anh sẽ leo rào trở ra .

Tôi lên tiếng hỏi trong khi mắt vẫn nhắm :

– Vinh và Thanh về hồi nào ? Tôi thành thật xin lổi đã làm phiền mọi người ….

Cả Vinh và Thanh cùng lên tiếng :

– Không có gì đâu, say rượu một lúc sẽ hết thôi …..

Đúng lúc Huyền chạy vào thông báo Taxi đến rồi, Vinh và Huyền mỗi người một bên dìu Tôi ra xe .

Khi đến gần Taxi, Nàng khóc nức nở , ôm Tôi hôn nồng nàn vào mặt thật lâu .

Tôi cũng ôm Nàng thật chặt, hôn Nàng và nói nhỏ vào tai :

– Bây giờ Anh đã thật sự yêu Em ……

 

Hôm nay sáng Thứ hai, ngồi tại Giảng-đuờng học Toán của chương trình MPC  Đại-học Khoa-học do Trung tá Phụng dạy, mình đã học qua nên rất nhàm chán, hơn nữa, đầu óc còn lùng-bùng vì rượu nên lại càng mệt mỏi hơn .

Nhìn quanh Giảng-đường không thấy Vinh, chắc là xin phép ra ngoài tiển đưa Thanh, Huyền đến Phi-trường về Sài-gòn .

Tôi cũng lấy lý do xin đi Bệnh-xá vì cảm cúm, sau đó về phòng nằm nghỉ .

Thực ra, Tôi mệt mỏi vì rượu thì ít nhưng đầu óc suy nghĩ về Huyền thì nhiều Tôi thầm trách tôi :

Nhân ơi ! Mày phải rõ ràng đang muốn rẽ lối nào, khi đã bước vào ngưỡng cữa tình yêu ? . Với Trúc tuy có những yếu tố thích hợp như cùng hoàn cảnh mồ côi, có cuộc sống tự lập v ..v .. nhưng chưa bao giờ cùng Nàng trao đổi ý hướng và quan điểm sống cuộc đời . Đây là yếu tố quan trọng nhất để quyết định Vợ

Chồng ăn đời ở kiếp bên nhau .

Với Huyền, tuy bị cản trở bỡi Bố Mẹ và Môn-đăng Hộ-đối, nhưng cá nhân Nàng

và mình thì như hai mà một .Những suy tư Tôi chưa nói, Nàng đã đoán được phần nào, và ngược lại Tôi cũng hiểu được chút ít những gì Nàng đang nghĩ tới giống như có " Thần-giao Cách-cảm "  .

Tình yêu đến rất nhẹ nhàng, bất chợt, không cần phải đợi chờ thời gian, đây chính là trường hợp của Huyền và Tôi . Cho nên bây giờ, Tôi đã nhận thức rõ, đối với Trúc chỉ có Thích chứ chưa có chút gì gọi là Thương và Yêu đương cả .

Nghĩ lại, chỉ có hai ngày Thứ bảy, Chủ nhật tuần này đã làm tim Tôi nhức nhối Tâm hồn Tôi bấn loạn, và bây giờ Tôi đã nhận chân được sự thật khá rõ ràng  .

Xưa nay có mấy ai toại nguyện được cả hai thứ tình yêu và tình nghĩa Vợ Chồng ? . Con nguời sống với diễn-tiến cuộc tình như một định-luật :

Gặp nhau, thích nhau, yêu thương nhau, cưới nhau để thành Vợ-Chồng .

Nhưng cũng có lắm người gặp nhau, thương yêu nhau rồi sau đó lấy người khác làm Chông, làm Vợ . 

Ý tưởng lớn khôn của Huyền làm Tôi nễ phục . Nàng có được đối-tượng để trang trải tình yêu là Tôi, và Tôi cũng có được nơi trang trải tình yêu là Nàng .

Bây giờ Tôi cảm thấy thoải mái hơn ….

 

Tôi ngủ thiếp đi trong niềm vui khá lâu , cho đến khi Vinh vào phòng đánh thức .

 Vinh cho hay sáng nay dẫn hai cô nàng đi phố Nha-trang mua sắm, sau đó đưa cả hai lên phi-trường  lúc 03 giờ chiều, và Huyền gửi túi xách này cho Nhân .

Nói xong, Vinh giao túi xách rồi đi ra ngoài, trong khi Tôi chưa tỉnh ngủ . .

Nhìn đồng hồ gần 08 giờ tối, thì ra Tôi ngủ quên cả ăn cơm, vội vàng dậy rửa mặt, thay quần áo vào Câu lạc bộ . ………………

 

Ngày nay ngủ hơi nhiều nên tối nay khó ngủ . Mấy thằng cùng phòng đã ngáy kho kho , Tôi ngồi dậy bật đèn ngủ và lấy túi xách của Huyền xem những thứ gì trong đó . Nào là Khăn tắm, Xà phòng, đôi dép và cái hộp sắt nhỏ giống hộp bánh .

Khi mở ra mới hay là hộp tiền . Nhiều hơn nửa năm lương Trung sỉ của Tôi .

Ở đáy hộp có mảnh giấy viết vài hàng :

                                         Anh yêu của Em,

   Anh Vinh nói Quân-trường ăn uống rất kham khổ, Tháng nào cũng xin tiền Bố Mẹ để bồi dưỡng thêm, 

   Đây là dịp cuối cùng Em chăm sóc cho Anh, Nhớ gìn giử sức khoẻ,

                    Tuyệt đối không đuợc tặng quà cuới cho Em .

 

                                              Huyền

 

Lại thêm một buổi tối mất ngủ nửa rồi ! Tôi cất tất cả vào ngăn tủ, khoá lại rồi nằm tưởng nhớ về Huyền …

 

Mới đây mà xa Huyền đã một tuần, Thứ bảy này là ngày trực của Tôi  nhưng năn nỉ thằng bạn thay thế, bỡi đã hứa ra ăn bữa cơm chia tay Cúc và Trúc trở về Sài-Gòn . 

Sáng nay mới hơn bảy giờ đã thấy Ông Bố bận bộ Tiểu-lễ trắng đi bờ, buớc vào phòng hỏi :

– Hôm nay đi chơi với tôi được chưa hay vẫn còn bận đi với Đào ? .

Chưa ngồi dậy được vì đầu óc còn nặng, Tôi trả lời :

– Đào về Sài-gòn tuần trước rồi . Nhưng ………

Tôi định nói thật, nhưng cần suy nghĩ chín chắn, nên ngập ngừng trả lời :

– Bố vào Câu-lạc-Bộ đợi Tôi đi tắm, có được không ?

Ông Bố gật đầu OK đi ra khỏi phòng . Tôi vẫn nằm trên giường suy nghĩ :

Đem Ông Bố đi theo có thể là điều rất tốt cho Tôi lúc này, vì trong lòng Tôi thật sự chưa muốn có cơ hội riêng rẻ hay nói chuyện riêng tư với Trúc .

Tắm rửa và thay áo quần xong đã gần 9 giờ, giờ Anh Thìn đem xe lại rước .

Tản bộ với Ông Bố từ Câu-lạc-bộ ra Cổng Trường, Tôi kể hết chuyện Bà già có bốn người Con gái cho Ông ta nghe, xong Ông bảo :

– Anh đưa bàn tay trái Tôi xem thử . Ngày xưa Tôi có học khoa bói toán .   

Vừa đi vừa cầm tay trái tôi lên xem và nói :

– Xem ra thì Anh rất đào-hoa, nhưng đuờng tình duyên gia-đạo bị đứt quảng nên   chắc là có trắc-trở, ít ra cũng một lần .

Nói đến ngang đó chợt nhìn thấy xe Jeep Cảnh sát của anh Thìn quẹo vào Cổng

Tôi giới thiệu hai người rồi nói tóm tắt về truyền-thống Bố Con trong Hải-quân.
Và hỏi anh Thìn có trở ngại gì không ? . Anh Thìn nói cuộc sống này có thêm bạn là điều quí-hóa chứ trở ngại gì đâu .

Khi ra tới nhà, chào hỏi xong, cả ba ngồi uống café ở phòng khách dưới lầu, Một lúc sau, Cúc đến bên Tôi nói nhờ anh Nhân lên lầu-ba giúp Trúc cột lại mấy thùng đồ vì Cô út này chậm chạp lắm .Mười một giờ chúng ta phải đi vì mười hai giờ máy bay cất cánh .

Theo Cúc lên lầu, Cúc mở cữa không thấy Trúc nên bảo Tôi ngồi ghế đợi ,rồi Nàng đi xuống .

Phòng ngủ và phòng khách chung, không ngăn cách, không biết Trúc đi đâu, không thấy thùng đồ muốn cột để nơi nào .Chỉ thấy trên giường ngủ, chiếc valy trống mở ra bên cạnh là đống áo quần .

Tôi đi đến xếp từng cái bỏ vào valy, thình lình nghe tiếng Trúc mở cữa và nói :

– Trời ơi ! Để đó cho Em, đàn ông đừng làm chuyện đàn bà con gái .

Tôi quay lại nhìn Trúc và nói :

– Xếp áo bỏ vào vali sao lại phân biệt chuyện đàn bà con gái ? .

Trúc bước đến bên Tôi, lật tung đống quần áo và nói :

– Nè ! Anh thấy gì không ? .

Tôi nhìn xuống thấy toàn là quần lót và áo ngực đàn bà, bèn mĩm cười trở lại ghế ngồi . Trúc nói tiếp :

– Em nhờ Anh cột lại thùng đồ để lát nửa gởi máy bay .

Tôi cẩn thận lấy giấy báo bọc lại từng cái chén bát để tránh va chạm, ngay cả cái nồi cơm điện cũng bọc lại kỷ càng, xong sắp gọn vào thùng cột lại có quai xách . Nàng đến sau lưng đứng nhìn và khen :

– Hải-quân thắt-gút thắt-nơ có khác . Đẹp và gọn quá chừng . Tôi nói cám ơn .

Đúng lúc Cúc bước vào gọi xuống ăn cơm kẻo sợ trể .

Không biết cả tuần nay trong nhà bàn tán như thế nào về Tôi, nhưng hôm nay Trúc săn sóc Tôi rất tự nhiên như nguời vợ lo cho chồng, đồng thời mọi người Ai cũng nghĩ Tôi và Trúc như chuyện đã rồi . Làm cho Ông Bố hết sức ngạc nhiên .

Sau khi ăn trưa , Anh Thìn lái xe đưa Cúc, Trúc đi Phi-trường, Tôi và ông Bố tháp tùng theo . .

Giả từ Cúc và Trúc xong, ra khỏi Phi-trường Tôi lấy lý do ngày nay là phiên trực nên nhờ Anh Thìn thả ở Quân-trường và đưa Ông Bố ra phố . Anh Thìn nói đùa.

– Chắc là Nhân buồn vì xa Em . Ông Bố phụ họa thêm, ai xa người yêu mà không buồn . Tôi gượng cười, im lặng nhủ thầm : Đúng là Tôi buồn vì xa người yêu thật . Nhưng tội nghiệp cho Trúc, vì người yêu của Tôi hiện tại là Huyền .

 

Chương trình hoc của năm cuối  khá bận rộn nên ít khi theo dõi thời-sự đất nước .  Kể từ khi vào Quân-trường, Tôi ít khi theo dỏi cuộc chiến leo thang đến đâu ? . Chỉ biết qua loa rằng Mỹ đang tìm đường rút chân ra khỏi Việt-Nam trong danh-dự . Điều này làm cho Nga-Tàu và Bắc Việt dù đã kiệt-quệ tài-nguyên và mệt mỏi Chiến-tranh Việt Nam nhưng cũng lên tinh thần phát động kéo dài Cuộc chiến .

Ngày làm lễ mãn khóa đàn anh, Ông Bố ra Trường cũng là ngày Tôi nhận được hung tin .

Buổi chiều khi đang cùng mấy đứa trong Ban nhạc tập dượt để tối nay đảm trách phần dạ-vũ thì nhận đuợc lời nhắn có thân nhân đang đợi ở Cổng chánh muốn gặp gấp .

Tôi bỏ dở dang công việc, chạy nhanh ra Cổng gặp Anh Thìn với vẻ mặt nghiêm trang nói :  

– Nhân có thể xin ra vài giờ để gặp Chị Mai được không ? . Chị rất nóng lòng   muốn gặp Nhân .

Tôi vội vàng hỏi lại :

– Anh Thìn có thể nói sơ, nều quan trọng thì Tôi xin phép đi, bỡi vì tối nay phải đánh đàn cho chương trình Dạ-vũ .

Anh Thìn trả lời ngắn gọn :

– Trúc đã bị Việt-cọng bắt đi rồi .

Nghe xong Tôi như rụng rời tay chân, bèn nói :

– Anh đợi cho Tôi vào xin phép rồi ra đi cùng Anh .

Rất may khi đi trở vào thì gặp ngay Đại-úy Đại Đội-trưởng tại Thao-diễn-Truờng, Tôi phải nói dối rằng Vợ chưa cưới của tôi bị tai nạn, cần ra phố khoảng hai tiếng đồng hồ rồi sẽ trở về . Ông ta không hỏi gì thêm, chỉ bảo đi theo về Văn phòng lấy giấy phép .

Cầm được giấy phép trong tay, Tôi chạy nhanh ra xe Anh Thìn .

Trên đường ra phố, không ai nói với ai lời nào, Anh Thìn im lặng có lẽ nghĩ rằng : Tôi đang rối loạn tâm thần, Anh không dám quấy rầy .

Tôi thì đầu óc nóng ran suy nghĩ đủ thứ chuyện không may sẽ xảy đến cho Trúc có thể Trúc sẽ bị Việt-cộng bắt đi tạp-dịch gánh vác súng đạn ra chiến-truờng ?

Cũng có thể bắt vào Bưng học tập nhồi sọ để sau này đưa về Thành phố làm Nử đặc-công ? .  Và cũng có thể bắt đi làm Nữ tiếp-viên Hộ-lý cho Bộ-đội Bắc-

Việt không chừng ? . 

Nghĩ tới điều này Tôi cảm thấy quá đau xót và thương cho số phận của Trúc .

Thật là hải-hùng rởn tóc gáy, nhớ lại khi mới vào Sài-gòn Tôi có đọc cuốn Hồi-Ký Nhan đề " Đoàn Nữ-Binh Mùa Thu " do Ký-giả nào đó viết theo lời kể lại của những Nữ nạn-nhân làm công tác Hộ-lý .

Kể từ khi Cộng-sản Bắc-Việt ào ạt xua quân xâm chiếm Miền Nam, rất nhiều trại Nữ hộ-lý đuợc thành lập trên núi Trường-sơn dọc theo đường mòn Hồ chí-Minh, mục đích để giải-quyết sinh-lý cho Bộ-đội .

Có những trung tâm chứa trên vài trăm đàn bà con gái tuổi mười lăm mười bảy trở lên . Việt-cộng gọi họ là Nữ Cán-bộ Hộ-lý .

Trung bình mỗi ngày, một Nữ Cán bộ Hộ-lý phải làm tình với khoảng hai mưoi Bộ đội . Tàn ác nhất là những ai mắc bệnh Giang-mai lậu mủ thì cho chết hoặc đuổi về thành phố cho các Bệnh viện Việt Nam Cọng-Hoà chữa trị, chứ Việt- Cộng không có Bác sỉ khám ngiệm cũng như thuốc men .

Một số rất ít đàn bà con gái đem từ Bắc vào, còn phần đông là bắt đi từ các tỉnh trong Nam . Ngoài việc phục dịch tình dục cho Bộ đội, Nữ Hộ lý phải tự túc tự cuờng cuốc đất trồng khoai sắn để sinh sống . Rất nhiều người không chịu nổi, tìm cách bỏ trốn hoặc bệnh hoạn chết bỏ thây nơi rừng thiêng nước độc .

Bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng có nhiều điều tàn ác và vô nhân-đạo, nhớ lại đầu thập niên bốn mưoi, khi Nhật-bản với mộng ước bá chủ toàn cầu, đem quân xâm lăng các nước Á-Châu như Trung-quốc, Đại-hàn, Việt-Nam …v v..

Đi đến đâu, quân Nhật cũng bắt đàn bà con gái bản xứ làm hộ-lý, nhưng chắc là có chút nhân đạo hơn Việt-cộng bây giờ .

Nếu Trúc không may rơi vào hoàn cảnh này chắc Nàng sẽ tự tử mà chết .

Xe vừa ngừng truớc căn phố, Tôi bước nhanh vào trong, Chị Mai chạy lại ôm vai tôi vừa khóc nức nở vừa nói :

– Trời đất ơi ! Sao Chị đau xót quá, thấy Em là Chị nhớ thương Cô Út Trúc quá chừng . Bây giờ Chị biết làm sao đây Em ?.

Tôi đứng yên chờ Chị vơi đi niềm đau tột cùng, xong dìu Chị ngồi xuống bàn và buồn bả nói lời an ủi :

– Bây giờ ta chỉ biết nguyện cầu mà thôi……..Nếu Quốc-gia bắt, ta có thể tìm Kiếm,  chứ Việt-cộng bắt thì biết đâu mà tìm ? .

Vợ Chồng anh Thìn chị Lan cũng vào ngồi xuống bàn . Chị Lan với đôi mắt đẫm lệ, thều thào nói :

– Lúc trước Mẹ mỗi tháng đi thăm một chuyến và đem tiền vào, bây giờ Mẹ mất nên vài ba tháng Trúc về thăm một lần, chứ các Chị thì bận buôn bán làm ăn .

  Có khi Trúc đi máy bay, lần này đi xe đò thì bị Việt-cộng chận bắt đem vào rừng mất tích.

Rồi cả hai Chị Em nức nở khóc, Tôi và Anh Thìn nhìn nhau mà chẳng biết làm gì Một lúc sau Tôi lên tiếng  hỏi :

– Ai là nguời đem tin buồn về cho các Chị ?

Chị Mai lau vội nước mắt và nói :

Một Bà Cụ già đi cùng chuyến xe, Trúc ghi vài dòng vội vả nhờ đem về và bảo các Chị trả tền công nhưng Bà Cụ không lấy . 

Bà Cụ kể rằng khi xe qua khỏi đeo Phan-rí , Tài xế ngừng xe vì thấy có ụ đất giữa đường tưởng là có mìn, nào ngờ lúc mọi người xuống xe, thình lình có bốn tên Bộ-đội Việt-cộng trong lùm cây nhảy ra chia súng vào đám đông, rôi họ chọn lựa thanh niên nam nữ bắt đi, những nguời già cả thì cho lên xe lại . Hình như

trong số bị bắt, có những quân nhân đi phép .

Im lặng một lúc, không ai nói gì, Anh Thìn lên tiếng bảo Vợ:

– Lan ,  Em làm cơm sớm cho Nhân ăn, để trở lại Quân-trường, vì tối nay phải lo Chương trình Dạ-vũ ra trường cho khóa đàn anh .

Tôi trả lời :

– Thôi khỏi, chắc Tôi không thể ăn gì được lúc này .Bây giờ nhờ Anh cho Tôi trở lại Trường được không ? .

– Ừ, nếu không ăn tối thì chúng ta đi .

Khi hai Chị Mai và Lan đứng lên từ giả , Tôi chạy lại ôm hai Chị vào lòng và nói :

– Kể từ nay chúng ta cùng cầu nguyện cho Trúc .

Hai Chị tiễn Tôi ra xe với đôi mắt ngấn lệ buồn thương ngút ngàn ……….

 

Đã mấy tháng nay, trừ những tuần có trực gác, đều đặn mỗi cuối tuần  Anh Thìn đem xe vào rước Tôi ra nhà . Ngoài những giờ hai Anh Em la cà trong các quán café, xong về nhà nằm đọc sách hoặc vui choi với hai cháu nhỏ con Anh Thìn .

Tôi và Anh Thìn thường làm những việc lẩm cẩm trong nhà như sắp gọn lại hàng hoá, đóng thêm kệ để chất hàng, đôi lúc khách đông thì giúp hai Chị buôn bán . Có lần ngồi uống café, Anh Thìn nói :

– Nhân ra đây thuờng xuyên, làm cho Vợ tôi và Chị Mai cảm thấy rất vui vẻ và yên tâm .

Tôi nhìn Anh hỏi lại  :

– Anh nói gì Tôi không hiểu, tại sao có Tôi là hai Chị yên tâm ?.

Anh Thìn châm thuốc hút và chậm rải trả lời :

– Hình như cả Chị Mai và Lan đều nghĩ rằng nếu Trúc biệt vô âm tín thì chắc Nhân sẽ có nguời yêu khác, vì thời buổi này Nữ sinh Nha-thành chọn người yêu Hải quân là số một , kế đến mới Không quân  . Nhất là những nguời hiền hậu như Nhàn thì sớm muộn gì cũng bị con gái Nha  thành bắt mà thôi ..

Tôi bật cuời thành tiếng, bỡi nghĩ rằng Anh Thìn chẳng hiểu nhiều về nội tâm của Tôi, rồi nói :

– Xin lỗi . Anh đã nghĩ oan cho con gái Nha-trang .

– Không ! . Tôi nói thật đấy .

Sau cùng Tôi tâm sự :

– Anh Thìn biết năm nay Tôi có nhiều chuyện buồn, chuyện lớn nhất bây giờ là Mẹ tôi đang thoi thóp bỡi căn bệnh ngặt nghèo đã hai năm qua .

  Hàng tháng Anh tôi vẫn cho biết tình trạng Mẹ chắc không qua khỏi .

  Do đó, có những lúc Anh Thìn hỏi Tôi có chuyện gì u-uẩn ngoài chuyên Trúc bị bắt mà buồn như vậy ? . Anh còn nhớ không ? .

Tôi nói tiếp :

– Thực ra, nếu Trời Phật phò trợ cho Trúc không chết vì bom đạn thì Trúc có thể vuợt qua mọi khó khăn, Tôi tin tuởng vào bản lảnh và kiến thức của Trúc .

Anh Thìn gật đầu rồi im lặng nhả làn khói thuốc lá lên không trung ….

  

Ròng rả hơn hai năm ở Quân-trường, buồn nhiều hơn vui nên nước mắt xoá lấp nụ cuời .  Ngoài chuyện Huyền lấy chồng , Trúc bị Việt cộng bắt , Mẹ vừa qua đời tháng trước , tôi cố tìm quên bằng cách vùi đầu vào sách vở nên kỳ thi ra trường đỗ khá cao , được ưu tiên chọn đơn vị . 

Những ngày chờ tân đáo Đơn-vị mới, ở lại nhà Chị Mai, thấy những nguời trong nhà lúc nào cũng buồn-thương-tiếc-nhớ về Trúc , làm cho Tôi cảm thấy gần gủi với Trúc nhiều hơn .

Lúc từ giả , Chị Mai căn dặn đủ thứ giống như chăm sóc cho người Em ruột thịt .

Thế là xong, bây giờ Tôi là một Hãi-quân chuyên nghiệp, Tôi hảnh diện và sẵn sàng  phục vụ cho quê hương đất nước từ nay .

Đơn vị mới của Tôi là Dương-vận-Hạm, chuyên chở Quân-dụng xe tăng thiết- giáp từ Sài-gòn phân-phối đi các tỉnh ……

 

Thời gian thấm thoắt, đã gần năm  năm  hải hành , buồn vui với sóng nước bọt biển Đại Dương , cuộc sống nay đây mai đó . Lúc thì Côn-Sơn Phú-quốc, lúc Đà-nẵng Qui-nhơn .

Có những lần ăn Tết tại các Hãi-đảo miền Trung : Cù-lao Chàm, Cù-lao Ré…

Đã trót ôm mộng Hãi-hồ, bây giờ Tôi yêu thương Biển cả .

Nhất là những lúc tàu Hãi-hành trong sóng yên biển lặng, Nhìn Biển như tấm thảm nhung xanh, mà con tàu và Tôi đang viễn-du, mộng mơ trên đó .

Lúc bình minh, thấy mặt trời hồng rực sáng, vươn lên cuối chân trời .

Khi hoàng hôn xuống, nhìn đàn Hãi-âu bay về hoang đảo .

Một mình Tôi ngồi trên boong tàu, thả hồn về quê củ .

Nghĩ đến nguời thân thương, nhớ nhung người tình .

Tất cả đều im vắng, đây mới đích thực là " Cõi Riêng Tôi " .

 

 

                                           Tâm Phương




Nguyễn Kiến : Cờ vàng 3 sọc đỏ

Cờ vàng 3 sọc đỏ




Cụ Nguyễn Văn Tuyết : THƯ TÌNH VIẾT MUỘN!


THƯ TÌNH VIẾT MUỘN!

 Cụ Nguyễn Văn Tuyết
(cụ vừa mới từ trần ở Paris, hưởng thọ 91 tuổi)

Paris ngày 14 tháng 10 năm 20xx

 
Bà nó à!
À mà thôi, gọi là EM đi cho tình tứ như ngày xưa chúng mình cùng chung giường chung gối, chung cả đường đi lẫn lối về em nhá. Dù rằng nay đôi ta mỗi người một ngả, lại đông con nhiều cháu mà còn xưng hô “anh em” thì e rằng con cháu nó cười. Nhưng đây là tình thư của anh gửi tới em, lá thư đầu tiên và cũng là lá thư cuối cùng. Anh viết thư này từ ngày 14/10/20xx, mỗi ngày vài dòng, khổ nỗi mỗi khi viết đến tên em là như có hơi nước che mờ cặp kính nên anh đành phải buông bút, dụi mắt thở dài! Viết lâu rồi đấy mà chưa nói được gì với em! Chuyện tình trong 60 năm dễ gì nói trong vài trang giấy, kể trong vài ngày.
Thôi thì thế này nhá, nếu không xong để gửi qua đường bưu điện thì anh sẽ mang đến nơi em đang ở để trao tận tay. Anh biết nơi em ở rồi, kể từ khi em dọn về bên ấy, anh đã rất nhiều lần đi vòng quanh bên ngoài để ngắm một căn nhà 2 tầng(*) nhỏ-nhắn, xinh-xắn, mà nghe đâu em khoe với hàng xóm rằng:
– “Tôi ở tầng dưới, còn tầng trên để dành cho nhà tôi”…
 
****************
Em à!
Nhớ lại ngày nào em là thiếu nữ 16 tuổi xinh tươi làng Vạn, hoa khôi huyện Yên Phong, còn anh là trai làng Đại Lâm, chúng mình cùng tỉnh Bắc Ninh, nhưng anh theo gia đình ra Hà Nội học nên không có dịp “thả thơ”
Em còn nhớ những vụ “thả thơ” này không? Dì Phách, cô em gái của em nói rằng em đẹp lắm lại là con nhà có của nên trai huyện trai làng nhiều người ngấp nghé, mỗi khi em đi chợ thì họ len lén bỏ thư vào cái làn mây em xách tay, khi về nhà mới biết, thế là mấy chị em đọc thư tỏ tình của các chàng nhát gái mà cười bò ra, nghe cũng vui đấy nhỉ. Nhưng anh thì chưa có dịp thả thơ như thế.
Khi bố anh cần người giúp ông trong việc kinh doanh nên đã bắt anh lập gia đình sớm, anh có quen biết nhiều cô gái ở Hà Nội nhưng không thương ai. Thế rồi một hôm bố anh bảo diện vào rồi đi chợ huyện Yên Phong với ông, anh hỏi bố rằng con đi chợ làm gì thì bố nói:
– Trai khôn tìm vợ chợ đông, gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân.
Khi đến chợ rồi mới biết ngày đó em cũng đi chợ, có lẽ người lớn đã sắp xếp cho chúng mình trông thấy nhau. Nghĩ lại cũng buồn cười nhỉ, bây giờ khác xưa rồi, trai gái quen biết và yêu rồi mới dẫn cha mẹ hai bên gặp nhau.
“Anh trông thấy em đi chợ anh thương”. Bố chưa kịp hỏi ý kiến anh có bằng lòng “cô ấy” hay không thì anh vội nói trước:
– Chưa gặp đã bén hơi. Tại duyên số rồi bố ơi!
Thế là bố khuyên anh “cưới vợ thì cưới liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha” nên anh vội nhờ người đem tặng em “một thúng xôi vò, một con lợn béo một vò rượu tăm. Tặng em đôi gối em nằm, cái chăn em đắp..” năm đó chúng mình vừa tròn 17.
Họ hàng nhà trai khen em xinh gái và có duyên, nhưng bố anh thì nói: “vợ chồng cùng tuổi nằm duỗi mà ăn”, và để cho con đừng có ỷ lại nằm duỗi mà ăn nên ông cụ đã giao cho vợ chồng mình xưởng sửa chữa và cho thuê xe xích-lô.
 
* Yêu em mãi mãi   Nhạc Từ Công Phụng – Cố NT/KQ Vũ Văn Ước trình bầy
 
Khởi đầu là thế, mình sống đầm ấm bên nhau, không vất vả về kinh tế nên năm 1941 em sinh con gái đầu lòng, anh đặt tên con là Trinh. Rồi lần lượt có thêm con Thục, con Thuý, cả ba xinh gái giống mẹ. Sau 3 cô con gái là em sinh liền cho anh 4 cậu con trai, tên các con là Phong, Tuấn, Quang, Anh. Đời sống gia đình đang thanh bình ấm êm, các con đi học có xích lô đưa đón thì bỗng “trời đất nổi cơn gió bụi”, em má hồng chịu nỗi chuân chuyên, bụng mang dạ chửa mà phải cùng gia đình di cư vào Nam. Vừa đến Hải Phòng thì em sinh con gái thứ tư nên mình đặt tên con là Nguyễn Thị Hải, và Hải là đứa con thứ tám cùng theo bố mẹ di cư 1954 vào vùng đất lạ.
Cưới năm 1939 tới 1954 khi di cư mới được có 8 con nên em nói còn ít. Nhớ hôm dẫn em vào bảo sanh viện, anh nắm tay em an ủi thì em mỉm cười nói:
– Anh còn phải đưa em vào bảo sanh viện tám lần nữa, vì thầy tướng số nói em sẽ có 16 người con tất cả”.
Nghe em nói xong anh cười to khiến mấy bà bầu ngồi ở phòng chờ đợi quay sang nhìn vợ chồng mình, chắc họ tưởng mình vui vì mới có con đầu lòng. Nghĩ vậy nên anh ghé vào tai em thì thầm:
– Bao nhiêu cũng được, chỉ sợ vất vả cho em thôi, còn anh thì ..lo tất.
 
************
Vào tới Saigon, gia đình mình ở số nhà 247 đường Thành Thái, Chợ Lớn, gần ngã tư Trần Bình Trọng. Em vẫn tề gia nội trợ, còn anh, xoay đủ nghề. Từ mở trường dạy lái xe hơi lúc mới vào rồi làm tôm đông lạnh ở Rạch Giá, lập trại trồng nấm rơm ở suối Lồ Ồ Dĩ An, thầu xây dựng với anhThúc, làm cho USOM, và như em biết đấy, công việc cuối cùng của anh là làm việc ở tòa Lãnh Sự Pháp Saigon, nhờ đó mà sau 30/4/1975 gia đình ta đi định cư tại Paris.
Tuy nhiên anh đã không giúp em được toại nguyện theo như lời khuyên của thầy tướng số nên trong thời gian ở Saigon, vợ chồng mình chỉ thêm được có 4 “cậu” là Tiến, Thắng, Thụy, Xương và 2 “cô” Loan, Hà, vị chi là 14 mụn con gồm 6 gái, 8 trai, còn thiếu 2 vì thế em mới nuôi thêm 2 cháu ngoại là Yến và Việt, con của Thúy để cho đủ 16 đứa.
Nay tuy không được vuông tròn trọn vẹn nhưng tất cả đã ổn định cả rồi. Hiện tại ở Mỹ có 3 cô 2 cậu, ở Pháp có 4 cậu, 3 cô. Con nào cũng có gia đình hạnh phúc một vợ một chồng và đã tặng cho em rất đông cháu nội ngoại và đã hơn 10 chắt rồi đó. Duy chỉ còn cô út Thu Hà, đẹp, thông minh hoạt bát, nhiều chàng ngấp nghé lắm nhưng con gái út của chúng mình lơ là chuyện này mà lại siêng năng nghiên cứu kinh sách nhà Phật. Tại duyên số thôi.
 
Anh rất hài lòng vì các con, trai gái thì hiếu thảo con dâu nào cũng coi như con đẻ, nhất là Yến, vợ Quang, hiện là chị dâu trưởng, là gương mẫu cho các em. Còn con rể ư? Các cụ xưa gọi con rể là tế-tử nên anh thấy tế-tử nào cũng tử tế cả, các anh ấy là người biết điều, lo toan mọi bề cho vợ con, lại hiền lành. Duy chỉ có chồng của Thúy, tức bố của Yến-Việt là quân nhân nên vất vả và luôn phải xa gia đình, nghèo và hơi ngang. Em nhớ không, lần đầu tiên hắn đến nhà mình thăm con Thúy mà lại ngồi gác chân mang giầy nhà binh lên bàn! Anh giận quá! Nhưng bù lại, nay mỗi lần anh sang Mỹ thăm con cháu, thì bố Việt chở anh ra khu chợ ABC mua bánh ngọt, đi ăn hủ tíu Mỹ Tho, lại còn bảo vợ chồng Việt “niềng” răng cho ông ngoại, anh thấy vui vui nên nói:
– “Khỏi niềng, răng của ông còn rất tốt và đẹp nữa, con chỉ cần bỏ vào ly nước ngâm với thuốc sát trùng cho ông là được    
    rồi.”
Anh nói tới đâu rồi nhỉ? Thế đấy, còn minh mẫn nhưng hơi lộn xộn nên thư viết cho em cứ chuyện nọ xọ sang chuyện kia. À nhớ ra rồi, tới chỗ vuông tròn.
Anh nói không được vuông tròn trọn vẹn là vì con gái đầu lòng đã ra đi khi vừa tới Mỹ, và hai con trai hy sinh cho Tổ Quốc, cậu cả Phong bị thương ở Ban-Mê-Thuột rồi hy sinh, cậu Tuấn thì tử trận trên biển, chìm theo hộ tống hạm HQ10 trong trận hải chiến để bảo vệ Hoàng Sa chống lại quân xâm lược Trung Cộng vào ngày 19 tháng 1 năm 1974.
Em à, anh không muốn nhắc chuyện xưa làm đau lòng em khi mất đi 2 đứa con trai tuổi còn quá trẻ, nhưng cũng là một đóng góp cho đất nước như biết bao các gia đình khác. Mới đây ông HQ Đặng Thanh Long đã thay mặt Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng, Tổng Hội Hải Quân Hải Ngoại đem cuốn Hải Sử Tuyển Tập và Hải Sử HQVNCH đến tặng gia đình ta với bút tích ghi ở trang đầu như sau:
“Kính biếu gia đình liệt sĩ Hoàng Sa HQ Nguyễn Văn Tuấn”.
 
*************
Thấm thoát thời gian mau thế đấy em nhỉ, chả cần nói nhiều thì các con cũng biết từ lúc có đứa con đầu lòng ở Hà Nội rồi có thêm cô Út Hà ở Saigon rồi gia đình ta di tản, bảo lãnh, vượt biển vượt biên mà được thế này cũng là tạ ơn trời đất lắm rồi. Nhưng bất hạnh thay, em lại bỏ anh mà đi! Dễ chừng gần chục năm rồi chứ ít sao? Lúc trước anh nhớ chính xác ngày giờ năm tháng em ra đi, nhưng sau lần anh bị té dập đầu thì trí nhớ không còn tốt. Thôi để anh mở sổ ra xem ngày nào em bỏ anh ra đi. Đây rồi, ngày 14 tháng 10 năm 2002, và anh viết lá thư này cho em cũng vào ngày 14 tháng 10, em đi đã được 8 năm rồi đó.
 
Em à! Anh nhớ rõ là em bị bệnh thận, đang lọc máu thì bị té dập xương chậu và sau một thời gian ngắn thì em ra đi! Ngày đó mắt anh đã khô, khi thấy con cháu vây quanh mẹ, quanh bà nức nở khóc làm anh nghẹn cổ họng.
Thôi thế cũng xong, vì hiện nay em luôn được mạnh khỏe, không còn lo lắng về bệnh tật, cuộc sống mới lại bình an, thảnh thơi mãi mãi. Nhưng cẩn thận nhá, mỗi lần “vân du” em nhớ mang theo áo ấm và gài dây an toàn kẻo gió mạnh lại thổi bay mất thôi.
Em nhớ không? Lúc sinh thời mỗi lần mang thuốc và nước đến cho em thì anh chỉ nói vắn tắt: “thuốc đây, bà uống đi”! Nay anh muốn gọi tiếng EM, nói thật nhiều lời thương yêu thì giọng anh đã khò khè, thở không ra hơi! Hối hận quá!
Khi em đi rồi mà đàn chim bồ câu cứ đúng giờ nó lại bay về đậu trên thành cửa sổ, cái của sổ của căn phòng trên tầng thứ 15 của tòa biu-dinh thuộc thị xã Alfort Ville, ngó ngay ra bờ sông Seine, từng đôi chim gù-gù sát cánh bên nhau chờ những miếng bánh mì mà em bẻ vụn ra rồi rắc cho chúng ăn.
 
Ngày đó anh cằn nhằn em hoài vì cái việc cho chim ăn, nó ăn rồi ị, sương mù và mưa phùn làm bánh mì thừa ướt nhão nhẹt ra rồi mốc xanh lên khiến anh lại phải dọn. Bực mình anh la thì em nhỏ nhẹ nói: “tội nghiệp chúng nó”. Thôi đành cứ để em cho chim ăn rồi anh dọn phân và thức ăn thừa kẻo gió lùa vào phòng mình hôi cứt chim. Khi em về trên đó rồi, mình anh ở lại mỗi ngày phải nhìn từng đôi chim gù gù tỉa cánh cho nhau mà nhớ em vô vàn. Đó là lý do thầm kín anh không muốn rời căn phòng này để về ở với con cháu.
 
************
Có những chiều Hè hoàng hôn nắng úa, đứng ngắm hình em treo trên tường, anh thì thầm: “sao em không nói với anh” rồi ngó qua cửa sổ anh bỗng thấy như có mưa phùn chiều Đông, thì ra mắt anh mờ và anh cảm thấy lạnh lẽo!
Tất cả đồ dùng của em còn để nguyên chỗ cũ, nhìn đâu cũng thấy em vì thế các con xin dọn cho gọn gàng thì anh không cho. Bẩy cô cậu thay nhau thuyết phục bố về ở với các con nhưng anh nhất định không muốn rời xa nơi này, tuy không còn là tổ ấm nhưng còn cái ghế em ngồi, còn cửa sổ mà em đứng rắc bánh mì cho chim ăn. Anh không thổ lộ những điều thầm kín đó mà chỉ nói:
– “Bố còn khỏe, tự lo cho mình được mà, các con cứ yên tâm”.
Mà anh còn khỏe thực, mỗi sáng không còn lái xe ra Paris 13 để ăn hủ tíu và mua báo Văn Nghệ Tiền Phong nữa thì anh đi bộ quanh phòng, đi dăm ba bước anh dừng lại nghỉ dăm phút, cứ như thế mỗi giờ cũng đi được hơn một vòng. Anh cũng vẫn ăn được, mỗi ngày cô Hải mang cơm nóng canh sốt sang cho bố rồi dọn dẹp nhà của, Hải về thì cô út Hà sang lo mọi việc giấy tờ về sức khỏe của bố. Cậu cả Quang tuy ít nói nhưng phân công đâu ra đó cho các em trai Thắng Thụy Xương luân phiên trực đêm bên bố và chở bố đi Paris 13, khu phố Việt, phố Tàu.
 
Tuy sống độc thân nhưng anh không cô độc, mỗi thứ Bẩy và Chúa Nhật là con trai gái dâu rể, cháu nội ngoại kéo nhau về tụ họp trong căn phòng nhỏ này. Khi trước còn khỏe thì anh nấu một nồi phở thật to, nay thì mỗi con mang theo một thứ, căn phòng không chỉ ấm cúng mà còn nóng lên nữa ấy chứ. Những lúc đó thì anh lại nghĩ đến em, để cho con cháu vui chơi, anh lẳng lặng đi nằm, ứa nước mắt vì sung sướng nghe tiếng cười của con cháu nhưng cũng ứa nước mắt khi thiếu tiếng em! Thì ra “con nuôi cha không bằng bà nuôi ông”, ông nuôi bà.
Cách nay khá lâu, anh đang vịn tường để đi vào phòng tắm thì bị té, các con vội đưa đi cấp cứu, bệnh viện khám phá ra một mạch máu trong đầu bị nghẽn khiến anh té chứ không phải tại anh vô ý.
Nhớ mãi hôm ấy thấy em đến thăm anh trong bệnh viện, anh vội vàng ngồi dậy, ba chân bốn cẳng chạy ra đón em và anh bị vấp té, choàng mở mắt thì biết anh vừa nằm mơ và giận quá tại sao mình không cẩn thận để bị té rồi tỉnh lại mà không được nắm tay em. Vừa lúc đó anh nghe cô ý tá nói:
– Từ nay cụ phải dùng cái này.
Ngó xem thì ra là cái gậy chống, ở cuối có 4 chân bịt cao su. Nếu anh chống gậy này mà đi thăm em thì đúng là “ba chân bốn cẳng rồi”.! Anh không thích chống gậy, trông giống ông cụ quá! Đối với anh, em vẫn còn khỏe và còn trẻ, người cõi tiên thì “trẻ mãi không già” mà.
 
Nằm bệnh viện được mấy ngày thì anh đòi về nhà, nhớ căn phòng quá, nhưng các con không cho, lựa khi các con không có mặt, anh “ba chân bốn cẳng” vào phòng bác sĩ trực năn nỉ xin xuất viện và họ “đắc-co”
Về nhà được mấy ngày thì anh lại “ba chân bốn cẳng” mang hoa đến tặng em, nhưng gõ của hoài mà không nghe tiếng ai trả lời, hình như mấy cô tiên đưa em vân du trên cẩu Vồng hay du Nguyệt Điện thì phải. Rõ chán! Cả đời ở bên nhau, anh chưa bao giờ tặng em một cánh hoa, tại anh thấy em là hoa đẹp rồi. Anh mong sớm có ngày được đoàn tụ cùng em nắm tay nhau tung mây lướt gió.
 
* Một mai tôi qua đờiNhạc Phạm Trọng Cầu – Mỹ Linh trình bầy
 
Sống với nhau hơn 60 năm, “sáu mươi năm cuộc đời” được 14 mặt con mà mình chưa bao giờ “to tiếng” với nhau, cằn nhằn thì có, nhưng chưa một lần em phải buồn phiền vì anh uống rượu, hút thuốc, đánh bạc và lăng nhăng, vì anh không thích những thứ đó, vì anh đã có em. Tính đến nay xa em đã 8 năm, thời gian cũng quá đủ suy ngẫm về thói đời hay coi thường hạnh phúc đang có sẵn trong tay mà không biết vun quén. Anh đang mong ngày tái ngộ.
Cầu được ước thấy, mới tuần trước đây anh đang đứng vịn tường tập thể dục thì tự động ngã, bệnh viện cho biết những mạch máu li ti trên đầu bị vỡ, các con bao quanh lo lắng và bác sĩ họ đang cố gắng nối lại, nhưng anh nói:
_ “Thôi”.
Sống với con cháu như vậy là quá đủ rồi, lo cho các con như vậy cũng tạm ổn, nhìn lên không bằng ai nhưng nhìn xuống thì không ai bằng. Tuy các con không giầu có gì, nhưng đủ ăn và hạnh phúc, nhất là các con một vợ một chồng, như đũa có đôi và anh chị em thương yêu nhau. Anh nói với các con:
_ “Các con như đũa có đôi, để ba về với mợ chứ, căn phòng trên lầu nơi mợ ở dành cho ba đã có sẵn tiện nghi rồi, các con đừng lo lắng và bịn rịn nữa. Chúc các con ở lại bình an, đùm bọc và thương yêu nhau như từ trước tới nay”.
 
Em à! Hôm nay là ngày 14 tháng 9 năm 2010, chỉ còn đúng một tháng nữa là trùng vào ngày em đi, 14/10, bác sĩ cũng vừa báo cho biết họ sẽ “búc” vé cho anh. Như vậy là mọi việc đã sẵn sàng tốt đẹp, anh không mang theo gì cả. Khi nào có vé thì anh sẽ gọi phôn cho em biết để mở cửa cho anh vào. Nếu em nghe không rõ tiếng người mà chỉ thoáng phì phò tiếng gió thì biết đó là lúc anh đã cất cánh.
Hẹn gặp em một ngày rất gần.
Vĩnh biệt các con và các cháu cùng các chắt.
Nguyễn văn Tuyết.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
(*) Mộ 2 tầng, ai đi trước nằm tầng dưới, ai đi sau nằm tầng trên